ĐÀO NAM HÒA: CHA TÔI
ĐÀO NAM HÒA: CHA TÔI
CHA TÔI - ĐỌC MÀ NƯỚC MẮT CHẢY LÚC NÀO KHÔNG HAY
Cha Tôi, Chết Không Cần Quan Tài
Đào Nam Hòa
Lời Giới Thiệu của Giao Chỉ, San Jose: một chuyện buồn của một thanh niên viết về người cha QLVNCH. Tôi suy diễn rằng, cha anh là sỹ quan cấp úy đã lớn tuổi, thuộc đơn vị gọi là An Ninh Thiết Lộ. Đây là đơn vị bộ binh đi theo bảo vệ các con tàu xe lửa. Tác giả viết về cha của anh trong đoạn đời từ lúc mất miền Nam cho đến giai đoạn tù đầy vỏn vẹn có 3 năm. Rồi Kinh tế mới, HO muộn màng đến Mỹ, gửi quà về quê hương. Những lời cha nói với con cho đến giây phút sinh ly tử biệt. Toàn thể câu chuyện không hề có một lần nào kêu gọi oán hờn những phản ảnh một kiếp người kể từ khi mất nước là mất tất cả. Câu chuyện một người cha lẫm liệt anh hùng dưới mắt một gia đình với con cái ở hai bên bờ đất nước. Cuộc đời chúng ta đã từng tham dự biết bao nhiêu đám cưới đám ma. Tôi muốn dự đám tang của gia đình này và nói đôi lời với tang gia anh chàng tác giả của bài viết đẹp đẽ nhất về người cha thần tượng của anh. Xin cáo lỗi về chuyện buồn đầu năm, những quả thực đây là chuyện buồn rất nên đọc.
Tôi không biết bắt đầu câu chuyện từ lúc nào, nhưng có lẽ ấn
tượng nhất và rõ nét nhất mà hầu hết người dân miền Nam Việt Nam nhớ mãi là
ngày 30/4/1975.
Khi miền Nam sụp đổ cũng là lúc bất ngờ tất cả nỗi thống khổ
đày đọa ập xuống. Nhanh như một cơn cuồng phong thịnh nộ phá nát tan hoang. Mất
tất cả!
Ngày 10/06/1975 tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Trước khi đi cái gọi
là “học tập cải tạo” 10 ngày, dù với suy nghĩ chỉ là 10 ngày như lời thông báo,
cha tôi cũng không có lấy mấy ngàn dằn túi. Ông bảo tôi (lúc đó 19 tuổi) đem 2
chỉ vàng cuối cùng còn lại của gia đình- là đôi bông tai của bà nội tôi để lại-
ra tiệm vàng bán. Đó là kỷ vật quý nhất nhưng đành phải bán để mua ít lương thực
cho ông mang đi. Hai chỉ vàng lúc ấy bán được 33 ngàn. Ông mua khoảng 2 ngàn đồng
lương thực các thứ và dằn túi 1 ngàn. Còn lại 30 ngàn ông dặn ở nhà cố gắng 13
mẹ con dè xẻn ăn uống đợi Ông về.
Mười ngày trôi qua nhanh chóng- không ai trong số cải tạo
trở về. Tôi nghĩ đây là một cú lừa mà đã và sẽ được lịch sử ghi lại kỹ hơn.
Giá sinh hoạt tăng từng giờ. Buổi sáng 100 đồng 1 ổ bánh mỳ thì chiều đã lên
120. Sau 3 tuần thì 12 anh em tụi tôi và mẹ tôi không còn một đồng nào trong nhà.
Chị tôi lớn nhất 21 tuổi còn đang đi học, và em út mới có 2 tuổi. Mười hai con
tàu há mồm tuổi đang lớn nuốt bao nhiêu cho đủ! Cơm và thức ăn mỗi bữa mẹ tôi
phải chia cho từng đứa. Vài hột cơm sót nơi đáy nồi cũng không yên. Chúng tôi đổ
nước vào và cạo sạch không còn một hột. Còn hơn là gạo châu củi quế.
Mẹ tôi và vài đứa em phải đi xâm canh làm ruộng rau muống, một
hình thức của kinh tế mới để giãn dân,. Không lên voi nhưng phải xuống chó, mẹ
tôi và em tôi ngày ngày vào ruộng hái rau muống xong gánh bộ về tới chợ cách đó
6 cây số để bán. Buổi sáng khoảng 3 giờ khi trời còn mờ mịt hơi sương và giá lạnh,
mẹ và em tôi thay nhau gánh bộ cho kịp phiên chợ sáng. 70 bó rau oằn trên vai
người phụ nữ nhỏ bé cao 1,45 nặng chưa tới 40Kg. 6kg rau mới đổi được 1 kg gạo.
Một tuần mới cắt được một lần chờ cho rau mọc. Những ngày còn lại là cấy rau,
nhổ cỏ, trồng khoai mỳ…
Sức ăn trước ngày 30/4/75 của gia đình tôi một bữa là 3 lít
gạo, tức 1 tuần 42 lít, khoan nói chuyện thức ăn cá mắm gì hết. Nay 1 tuần chỉ
còn 13 lít!
Bắt đầu tháng 7/1975 lần lượt đồ đạc trong nhà mọc cánh nhẹ
nhàng, nhanh chóng, lả lướt, bay đi theo chân những kẻ buôn hàng. Từ cái quạt
trần, tôn cống, hàng rào, tủ quần áo, đài radio, giường sắt, đồng hồ treo tường,
đồng hồ đeo tay … đều giã từ để về với chủ mới. Hết sạch đồ thì mấy kẻ đi buôn
bảo giở gạch bông, gIở bớt tôn ngoài mái hiên, tôn trần nhà.. bán tiếp.
Bán cho đến khi căn nhà nhỏ bỗng trở nên rộng tênh vì chả
còn thứ gì ngoại trừ vài cái nồi nấu bằng củi đen thui cũng đã sứt quai gãy gọng.
Buổi tối trải chiếu ngủ dưới đất là xong với cái bụng lép kẹp và cơn đói hành hạ.
Không biết bao lần tôi phải ăn tưởng tượng trong đêm khuya bằng
cách hình dung mấy món ăn tầm thường ngày trước như vài con khô, miếng dừa kho,
tô canh bầu.. ( Mơ mà cũng hà tiện không dám mơ thịt cá hải sản.)
Bố tôi sau 6 tháng trong trại cải tạo lần đầu được viết
thư về, Ông dặn khi lên thăm nuôi, không cần mang theo gì cả vì trong trại có đủ
mọi thứ. Hic!
Ông hiểu hơn ai hết, còn cái gì để mà mang cho ông!
Tôi nhớ mãi ngày lên thăm nuôi ông ở trại Thanh Hoá (Hố
Nai), cả nhà chỉ có 1 cái xe đạp, còn lại mẹ và các em tôi cuốc bộ 8 cây số
mang theo 1 cái giỏ đi chợ lưng lửng với ít thịt kho mắm ruốc, 1 ký đường, 2 hộp
sữa và 1 bộ quần áo. Nhìn những người đi thăm nuôi, có người gánh 2 bao đầy
mà lòng tôi trào dâng niềm tủi hổ.
Sau đợt đổi tiền ngày 22/9/1975, Chúng tôi như đàn chim vỡ tổ,
tất cả bỏ học ngang, vài đứa em nhỏ tiếp tục theo mẹ làm ruộng rau muống, còn lại
mỗi đứa một phương trời kiếm sống. Đứa lên Gia Ray vào rừng lấy củi, làm lò
than, đứa theo xe lửa bán trà đá, hàng rong, đứa bán thuốc lá.
Hơn 3 năm sau Bố tôi được cho về để nhìn xác nhà tan hoang
điêu tàn loang lở, nhìn bầy con xanh khướt, gầy rạc, tản mát. Một chị tôi bệnh
tâm thần không người chăm sóc phải lang thang ăn xin đầu đường xó chợ, có lần
xin không được, quá đói, chị giựt mấy miếng đậu hũ bỏ chạy, chị bị người ta
phang đòn gánh chảy máu lỗ đầu giữa ngày bố tôi được tha về.
Bố không khóc, cũng không nói gì! Qua hàng xóm xin ít bông
băng. Lòng ông như xát muối! Có lẽ ông bấy giờ mới thấm sâu mệnh đề “mất Nước
là tất cả mất”. Khóc lóc than van ích lợi gì. Giọt nước mắt chỉ làm cho kẻ chiến
thắng hả hê say sưa thêm mà thôi.
Rồi theo chủ trương, ông không được ở lại thành phố. Họ hàng
nhà tôi đa số cũng là thành phần Ngụy quân, Ngụy quyền nên không ai giúp gì được
cho nhau. Cuối năm 1978 Ông lên rừng Gia Ray ngay chân núi, cất túp lều nhỏ bé
xiêu vẹo, ngày ngày ông và 2 em tôi sống nhờ rừng.
Ai ở rừng mới biết: ăn của rừng rưng rưng nước mắt! Và từ đó
chuỗi ngày lầm than, buồn thảm lại tiếp tục sau hơn 3 năm trong trại cải tạo.
Đói nhiều hơn no, buồn nhiều hơn vui. Cực khổ nặng nhọc quần quật suốt cả ngày
chỉ đủ kiếm vài lon gạo vài con cá khô.
10 năm sau, tôi đã làm ăn khá hơn, mua được chiếc xe máy
Mini scootter, lần đầu tiên lên thăm Ông, quà cho Ông chỉ là 1 lít rượu đế nấu
bằng rỉ mật. Ông mừng lắm vì tôi đã tương đối ổn định công việc.
Trong bữa cơm hôm đó, Ông nói:
-Bố năm nay 63 tuổi rồi, cuộc đời không dành cho Bố con mình
được sống sum họp và đầy đủ. Dù sao các con cũng cố gắng vươn lên để thoát khỏi
bệnh tật, đói khát và tù đày.
Rồi Ông chỉ tay dưới chân ngọn núi Chứa Chan:
- Nhớ lời Bố dặn, nếu Bố có chết, các con không cần quan tài
làm chi cho tốn kém, cứ bó chiếu vùi thây Bố dưới chân núi là Bố mát mẻ rồi.
Thú thật, lúc ấy nếu tất cả 12 anh em tôi gom lại chắc cũng
không đủ tiền mua cái quan tài loại chót. Ông biết và không muốn các con gánh nặng
thêm!
Năm 1999, sau bao nhiêu là khó khăn vì không có tiền làm hồ
sơ xuất cảnh diện HO, cuối cùng thì 4 bố con tôi cũng tới được Mỹ. Ngày lên đường
mẹ tôi và 9 em phải ở lại vì hộ khẩu lung tung không đuợc phái đoàn Mỹ chấp thuận.
Bốn bố con mà hành trang vỏn vẹn có 5 va ly nhỏ và nhẹ tênh,
chưa tới 1/3 tiêu chuẩn trọng lượng.
Chị cả tôi viết thư qua có câu: “Bố ơi, nhiều lần con phải
đi bán máu với số tiền 200 ngàn một lần để có tiền nuôi con. Để có 200 ngàn đồng
tiền Việt, tụi cò máu nó đã ăn chặn mấy chặng rồi. Cầm 300$ Bố cho mà con cứ ngỡ
trong mơ. Đời con chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế… Phải bán 10 lần máu chỉ
mới được 150$ …” Bố đọc thư không khóc! mặc dù Bố biết chị chỉ cân nặng có… 34
Kg! Hic! Gan góc đến thế là cùng! Rồi việc phải tới! Một ngày mùa đông năm
2006, tức sau gần 8 năm ở Mỹ. Tự dưng Bố kêu và đưa tôi 8.000$ và một tờ di
chúc – nét chữ vẫn còn rất đẹp dù đã có dấu hiệu nghệch ngoạc biểu hiệu của tuổi
già – trong di chúc có nói rõ:
Khi bố chết đi, bố đã hỏi cô Hoa, người của hội thiện nguyện,
và biết rằng tiền hỏa thiêu không quan tài chỉ mất có 800$ thôi!. Bố nói bố
không cần quan tài, không cần để nhà quàn làm gì cho tốn dăm ngàn, cứ để người
ta đưa thẳng bố đi thiêu, trừ tiền thiêu ra, còn bao nhiêu con cứ làm theo di
chúc gởi về cho người bên Viet Nam.. Sau đó mấy ngày, Bố đột qụy! Người ta đưa
Bố vào trại Dưỡng lão. Rồi Bố hấp hối.
Ba anh em tôi họp nhau và quyết định làm theo di chúc của Bố.
Và chúng tôi phải ký một hợp đồng với nhà thiêu. Khi Bố tắt thở, sau 1 tiếng
người ta đuổi hết anh em tôi ra, trong phòng người ta bỏ Bố vào 1 cái bao và
kéo cái fermeture là xong! Quá đơn giản cho một kiếp người! Khả năng 3 anh em
tôi lúc đó mới đi làm ăn lương 1 giờ 8$ (lương tối thiểu ) chỉ vừa đủ tiền nhà
tiền ăn. Vẫn biết có làm đám tang bỏ Bố vào quan tài bằng vàng với hàng ngàn
người tham dự cũng vậy thôi vì Bố đâu biết gì nữa mà sao tôi vẫn cảm thấy xót
xa vô bờ. Cuối đời của một sĩ quan, từng chỉ huy hàng mấy trăm lính, từng chỉ
huy mấy cung đường sắt, âm thầm, vắng lặng và quạnh hiu. Không ai biết, không
ai đưa tiễn! Y như một chiến sĩ vô danh! Người ta bỏ Bố lên chiếc xe kéo, đẩy
ngang chỗ chúng tôi đang đứng, tất cả con, dâu và cháu chỉ có 5 người, họ dừng
lại và hỏi chúng tôi có muốn nói gì không. Tôi có cảm tưởng như một luồng điện
lạnh chạy xé dọc sống lưng. Tôi chỉ lắp bắp nói như kẻ không hồn:
- Vĩnh biệt Bố. Từ nay Bố không còn phải hy sinh nữa Bố nhé.
Công ơn của Bố cao hơn núi Thái Sơn Bố ạ!
Rồi họ lạnh lùng kéo Bố tôi đẩy lên chiếc xe dài, đi chỗ nào
thiêu hay làm gì, ở đâu, chúng tôi không được biết! Họ làm theo hợp đồng.
Tôi không khóc! Không còn nước mắt để khóc!
Hai tuần sau tôi lấy tro cốt Bố. Khi cô nhân viên nhà xác
đưa hộp tro cốt ở dưới có ghi tên bố tôi, chỉ đến lúc bấy giờ, nước mắt tôi tự
dưng tuôn ra đầm đìa – vô thức!
Đăng nhận xét