Giới Thiệu Sách Mới Thi tập QUÊ HƯƠNG của Trần Quốc Bảo
Giới Thiệu Sách Mới
Thi tập QUÊ HƯƠNG của
Trần Quốc Bảo
Hình bìa sách, với câu
lục bát, tóm tắt ý thơ toàn tập:
Cúi đầu tạ với QUÊ HƯƠNG
Tôi còn một nửa đoạn đường chiến binh
Phần nội dung: 250 trang, chứa đựng đầy ắp ba mối tình sâu đậm
của tác giả: Tình yêu Quê Hương, Tình thân Bằng hữu và Tình thương gia đình.
Sau đây là trích đoạn bài Tựa, của giáo sư Lại Quốc Hùng nói về “Tình yêu Quê
Hương” của tác giả:
“ - Trần Quốc Bảo là thi sĩ của “Tình Yêu Quê
Hương, Đất Nước” sâu xa, vô bờ bến, lúc nào cũng nặng tình với nước nhà,
với vận mệnh dân tộc, nhất là khi nước mất, nhà tan. Trong tập thơ
“Quê Hương”, chữ "Quê Hương" đã được lập đi lập lại bao nhiêu lần với
những bài thơ như: Quê Hương Tôi Bây Giờ, Cúi Đầu Tạ Với Quê Hương, Mơ Một Quê
Hương, Tiếng Gọi Quê Hương; không kể những bài như: Giấc Mộng Hồi Hương, Dâng
Hoa Tổ Quốc, Chuyện Buồn Nước Tôi, Con Đường Việt Nam, Tết Nhớ Quê Xưa, Tết Nhớ
Quê Hương, Tạ Ơn Đất Mẹ, Tạ Ơn Biển Mẹ v.v… và những bài viết về các quân nhân,
liệt nữ VNCH, những chiến sĩ vô danh, những con người đã hy sinh cho lý tường
Dân Chủ, Tự Do, Tự Cường của Miền Nam … Mấy ai đã ôm ấp giải đất Việt Nam
mỹ miều trong trí óc, tâm hồn như nhà thơ họ Trần…” (toàn bài Tựa,xin đọc
trong Attachment)
ủng hộ để giúp tác giả có phương tiện ấn loát sáng tác
kế tiếp. Đa tạ
( Sách, ấn phí $30 kể cả bưu phí
Email <
quocbao_30@yahoo.com >
***
Tâm Thư
(thay
Lời Tựa)
“QUÊ
HƯƠNG”, VŨ TRỤ THƠ
CỦA
THI SĨ TRẦN QUỐC BẢO
Lại Quốc Hùng
Anh Bảo quý mến,
Em rất cảm kích khi
anh có nhã ý dành cho em (một cậu em họ, nhỏ tuổi hơn anh nhiều trong gia đình
họ Lại, em của chị Lại Bạch Hường, hiền thê yêu quý của anh) , vinh dự được
viết lời giới thiệu tập thơ “QUÊ HƯƠNG” của anh, dù anh biết em chỉ là một giáo
sư Triết, không trực tiếp dính dáng đến văn chương, tuy trước năm 1975, em đôi
lúc cũng có dịp giảng dạy môn Quốc Văn khi nhà trường thiếu giáo sư cho môn
này. Anh nói với em: “ Anh có thể nhờ bạn hữu viết lời tựa cho tập thơ của anh,
nhưng anh muốn có kỷ niệm trong gia đình, một kỷ niệm sâu đậm giữa hai anh em
mình…”
Vì vậy, thay vì viết “Tựa” theo lối thông thường, em xin
phép được viết dưới hình thức một “Tâm thư” gửi đến anh, nói lên tâm tình của
em khi đọc thơ anh và như vậy, gián tiếp gửi đến quý độc giả, bạn bè, thân hữu
của anh, vài nhận định chủ quan của em về thi tập “Quê Hương”. Đúng hơn, những
gì em viết dưới đây cũng giống như một lời “Bạt” để cuối tập thơ.
Như em nói ở trên, chuyện dạy môn Quốc Văn cũng đến với em
vào năm 1974, khi em được đổi về Sàigòn, dạy học ở trường trung học Tây Sơn,
một ngôi trường mới xây, nằm khoảng giữa xa lộ từ khu ĐaKao đến trường Bộ Binh
Thủ Đức. Em là giáo sư Triết, nhưng vì trường chỉ có hai lớp đệ nhất ban A và
B, không có ban C, nên anh bạn giám học nhờ em phụ trách giảng môn Quốc Văn Lớp
Đệ Nhất, một chương trình mới hoàn toàn, được áp dụng kể từ niên khóa
1974-1975, ấn định bởi nghị định số 1445-VHGDTN-KHPC—HV ngày 29-6-1974. Ngày
đó, vì là một chương trình mới toanh, một chương trình đa dạng, phong phú, nên
em đã phải bỏ thời giờ rất nhiều để tìm tài liệu giảng dạy từng chương, từng
đoạn của chương trình môn Quốc Văn mới này.
Sở dĩ em đề cập đến chuyện này trong Lời Tựa giới thiệu tập
thơ của anh vì khi in xong 100 bài thơ anh gửi cho em, nhìn qua mục lục tập
thơ, em nghĩ ngay đến nội dung của chương trình môn Quốc Văn Lớp Đệ Nhất năm
xưa, một nội dung gắn liền với con người
của anh, của em, của những con người Việt Nam được hun đúc trong những dòng tư
tưởng lớn đã được chương trình này đề cập: Tư
tưởng thuần túy dân tộc trong văn chương bình dân, tư tưởng bắt nguồn từ đông
phương (Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo), tư tưởng bắt nguồn từ tây phương (tư
tưởng lãng mạn, ảnh hưởng của Tự Do, Dân Chủ, ảnh hưởng của Thiên Chúa Giáo).
Em thiết nghĩ đây cũng là một đường hướng, một phương cách để đọc thơ anh.
Nếu 100 bài thơ của anh là đúc kết cô đọng những kinh nghiệm
sống của một đời người, trải qua bao biến đổi thăng trầm, thì tìm hiểu con
người và thơ của anh, qua lăng kính của những dòng tư tưởng trên, cũng giúp cho
người đọc dễ dàng tiếp cận với nguồn thơ đa dạng và phong phú của anh.
Vâng, trước tiên, nhà thơ Trần Quốc Bảo là đứa con của tư
tưởng bình dân, của ca dao, tục ngữ, ơn nghĩa với tổ tiên, xây dựng và gìn giữ
đất nước. Bài thơ mở đầu “Quốc Tổ Hùng Vương” đã vang lên như một lời nhắc nhở
con dân Việt hãy nhớ nguồn cội của mình, nhớ đến tổ tiên, cha ông chúng ta:
Dù
ai lưu lạc đường xa,
Nhớ
ngày Giỗ Tổ, tháng Ba, mùng Mười
Tổ
Hùng Vương, mười tám đời
Trường
tồn thiên địa, rạng ngời trăng sao.
******
Giống
nòi Quốc Tổ khai sinh
Công
ơn lập quốc, định hình núi sông
Chim
có Tổ, người có Tông
Việt
Nam nguồn gốc, con Rồng, cháu Tiên
Ảnh hưởng của ca dao cũng in sâu vào tiềm thức, lời thơ của
tác giả trong những bài “Ru Con”, đặc biệt bài “Ru Con, Canh 4”, dù lời thơ
được đặt trong hoàn cảnh đau thương của nước Việt Nam hiện nay:
À
ơi,
Hạ
hời ơi
Canh
tư con ngủ cho ngoan
Ru
con lòng mẹ nát tan thảm sầu
Đắng
cay nhìn khắp năm châu
Việt
Nam mình có phải đâu ngu hèn
Vẫn
dòng Hồng Lạc-Rồng Tiên
Giang
sơn như gấm hoa miền Á Đông
Biết
bao liệt nữ anh hùng
Biết
bao tuấn kiệt, kiếm cung văn đàn
Thế
mà Nước mất nhà tan
Quốc
dân gánh chịu muôn vàn khổ đau
Sĩ
phu… sao chịu… cúi đầu???
Anh
thư hào kiệt.. lánh đâu hết rồi???
Da
vàng máu đỏ con ơi!,
Có
nghe lời mẹ ru hời năm canh???
Ảnh hưởng của văn chương bình dân, của lời ru, câu hò đến
con người Viêt Nam là chuyện đương nhiên. Nhưng từ ngàn xưa mỗi con dân Việt
Nam đều tiếp nhận nguồn mạch Nho giáo; hình ảnh một thầy đồ vẫn phảng phất đâu
đây. Ảnh hưởng Nho giáo này rất sâu đậm
nơi anh và đã được Tiến Sĩ Trần An Bài ghi nổi bật trong lời tựa của cuốn “Một
Thời Mộng Hoa” gồm có các bài thơ được phổ nhạc của anh: “Thi sĩ Trần Quốc Bảo được sinh trưởng trong một nề nếp nho phong. Thân
sinh ông là cụ Trần Văn Phác- Cử Nhân Hán Học. Thi sĩ Trần Quốc Bảo được thân
phụ dạy kèm chữ Hán từ nhỏ. Khi lớn lên, ông chăm chỉ tự học và đọc nhiều sách
Hán văn, chuyên về Triết học Á đông và Đường Thi. Ông là một trong số rất ít
các nhà văn thơ đương thời, còn thông thạo chữ Nho và chữ Nôm”. Nguyên
tuyển tập “Hàn Thi - Đường Thi Tuyển Dịch” của anh, do Bút Việt Văn Đoàn xuất
bản năm 2019, gồm 135 bài Hàn thi và Đường thi do anh tuyển chọn và dịch một
cách công phu, tài hoa, cũng đủ nói lên tính cách “thâm nho” của anh. Em xin
đan cử một bài, bài “Dịch Thủy Tống Biệt”, một bài thơ rất nổi tiếng của Lạc
Tân Vương thời Sơ Đường (618-713):
Dịch Thủy
Tống Biệt 易
水
送
别
Thử địa biệt Yên Đan 此 地 别 燕 丹
Tráng sĩ phát xung quan 壯 士 髮 衝 冠
Tích thời nhân dĩ một 昔 時 人 已 沒
Kim nhật thủy do hàn ! 今 日 水 猶 寒
Tiễn Biệt Tại Sông Dịch
Vĩnh
biệt Yên Đan tại bến này
Uất
hờn tráng sĩ ngút ngàn mây
Người
xưa tích cũ nay đà khuất
Sông
nước còn vương lạnh tới nay!
(Bản dịch Trần Quốc Bảo)
Trần Quốc Bảo không dịch sát nghĩa câu thơ thứ hai “Tráng sĩ
phát xung quan” (Tóc tráng sĩ dựng lên giương mũ) , nhưng câu thơ dịch cho ta
thấy cái hào khí, sự căm hờn sôi sục, dâng cao “ngút ngàn” của Kinh Kha bên bờ
sông Dịch, trước khi ra đi với nhiệm vụ hành thích bạo chúa Tần Thủy Hoàng. Hai
chữ “vương lạnh” cũng nói lên sự tê tái, xót xa của người đời nay khi nghĩ đến
người tráng sĩ năm xưa ra đi mà nhiệm vụ bất thành, không ngày trở lại. Bản
dịch thật hay.
Đọc mấy câu mở đầu của bài thơ “Tiếng Gọi Quê Hương”, ai
không nghĩ đến ảnh hưởng của Đường Thi trong thơ anh:
Quốc
phá gia vong vạn cổ sầu
Chúng
mình mất hết chỉ còn nhau
Lời
thề sông núi tâm hoài niệm
Tiếng
gọi quê hương dạ xót đau.
Dù muốn hay không, con người Việt Nam luôn thấm nhuần đạo
Nho. Tam Cương, Ngũ Thường, cách tiếp nhân, xử thế của bao anh hùng, hào kiệt,
những con người đã có công dựng nước, giữ nước, trải qua bao nhiêu biến cố
thịnh suy và để lại cho chúng ta giải giang sơn gấm vóc hiện nay. Ảnh hưởng đó
không dễ gì phai mờ, dù có bao những đợt sóng tràn vào với những ý thức hệ khác
nhau.
Hơn thế nữa, trong huyết mạch của dân tộc ta, làm sao không
có ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo. Đạo Từ Bi, Tứ Diệu Đế, thuyết nhân quả,
luân hồi v.v… đã in dấu sâu đậm trong
con người Việt Nam, trong văn chương, nếp sống của chúng ta. Dù là một nhà thơ
theo đạo Công Giáo, nhưng thi sĩ Trần Quốc Bảo đã có những vần thơ thấm nhuần
hương khói nhà Phật trong bài “Trảy Hội Chùa Hương”
*******
Chùa
Giải Oan, chốn tịnh thần
Vào
đây rũ sạch bụi trần, Tình ơi!
Trong
chùa, có tảng-đá-trời (Thiên Thạch)
Nứt
ra khe nước, chảy hoài triền miên.
********
Trong
Chùa Tượng Phật Quan Âm
Từ
bi ngự tại trung tâm điện thờ
Cùng
ngàn pho tượng cổ xưa
Bên
hàng thạch nhũ ảo mờ linh thiêng.
Thi sĩ nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp xa xưa khi trảy Hội Chùa
Hương, thời của những khách thập phương đi tìm những giây phút “thoát trần”
trong một khung cảnh tôn nghiêm, trang trọng. Nhưng giờ đây, mọi sự đã đổi
thay, Chùa Hương đã biến thành một nơi thô tục, buôn bán thánh thần và thi sĩ
họ Trần đã phải thốt lên:
Chùa
Hương nay đã đổi đời
Không
còn thanh tịnh của thời thuần lương
Lòng
hằng vương vấn Chùa Hương
Bao
nhiêu kỷ niệm nhớ thương đong đầy
Mong
sao đất nước đổi thay
Ta
về tìm lại những ngày thần tiên
Vâng, ngoài chuyện tìm đến cửa Phật để tâm thân an lạc, con
người Việt Nam nhiều lúc cũng muốn thoát ly, tìm lại những giây phút thiền
định, xa lánh bụi trần, và cao hơn nữa, sau khi đã vật lộn với vòng danh lợi,
sau khi đã đem thân mình phục vụ tổ quốc, đem xương máu tô thắm non sông, thi
sĩ họ Trần, cũng như vị thánh tiên Nguyễn Bỉnh Khiêm khi xưa, đã có những giây
phút muốn phiêu diêu cùng cây cỏ, tiêu dao cùng mây trời, sông núi, hưởng một
chút nhàn, vô vi của đạo Lão. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:
Một
mai, một cuốc, một cần câu
Thơ
thẩn dầu ai vui thú nào
Ta
dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người
khôn người đến chốn lao xao
Thu
ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân
tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu
đến gốc cây ta sẽ uống
Nhìn
xem phú quý tựa chiêm bao
thì nhà thơ Trần Quốc Bảo đã có những câu thơ gợi một cảnh
nhàn của kẻ tha phương vui thú điền viên, ươm cây, ươm cỏ, ươm cả kỷ niệm,
trong bài “Mảnh Vườn Kỷ Niệm” thật ý nhị, đượm tình dân tộc:
Mảnh
vườn nho nhỏ ở sau nhà
Một
nửa trồng rau, một nửa hoa
Hồng tím,
cúc vàng chen xích thược
Đậu
xanh, dền đỏ cạnh thìa là
Cải
cay che giữa dăm dàn muống
Mướp
đắng bò quanh mấy luống cà
Mượn
thú ươm cây, ươm kỷ niệm
Ngắm
vườn, tìm lại chút hương xa.
Rồi chính anh đã dịch bài Hàn Thi “Hưu Hỷ” của Nguyễn Bỉnh
Khiêm thật đẹp đẽ, mênh mang, thanh thoát như sau:
Danh
toại công thành hưu hỷ hưu
Đằng
nhân thế cố nhất hư châu
Phong
lai giang quán lương nghi hạ
Nguyệt
đáo thư lâu minh chính thu
Hồng
nhật đông thăng tri đại hải
Bạch
vân tây vọng thị thần châu
Khê
sơn diệc túc cung ngô lạc
Nhẫn
phụ tiền minh vạn lý âu
Vui về Hưu
Công
danh đã vẹn nghỉ hưu thôi
Phó
mặc thuyền đời chuyện nổi trôi
Biết
Hạ khi bờ sông hóng gió
Hay
Thu lúc đọc sách trăng soi
Tây
phương mây bạc kìa non Thánh
Đông
hướng vừng hồng đó biển khơi
Mộng
với hải âu bay vạn lý
Sông
hồ thỏa chí trọn đời vui
Để rồi có lúc “Nhớ Hà Tiên”, tìm về chốn thiên nhiên để vui cùng cảnh đẹp với
nàng thơ trong hội Tao Đàn khi xưa:
“Thập
cảnh Hà Tiên” rất mộng mơ
Mac-Thiên-
Tích xuất thần đề thơ
Tao
đàn lưu bút Chiêu-Anh- Các
Địa
lý lừng danh tự thuở giờ.
*******
Hà
Tiên còn mãi nét hoang sơ
Du
khách về thăm ắt chẳng ngờ
Chiêm
ngưỡng Châu-Nham, vùng Đá Dựng
Lạc
vào tiên cảnh, tưởng như mơ
Con
người Trần Quốc Bảo, ươm mình trong tư tưởng văn chương bình dân, triết lý Nho,
Phật, Lão, nhưng là một người công giáo nên có lẽ ảnh hưởng Thiên Chúa Giáo là
ảnh hưởng mạnh mẽ nhất nơi thi sĩ. Đọc lại tiểu sử của anh, em thấy anh đã từng
giữ chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam,
Richmond, Virginia (1996-2001) và chức Cố Vấn cho Hội này từ năm 2002 đến 2016.
Một
con người, chăm lo việc Chúa, việc đạo, phục vụ cho cộng đồng dân Chúa hơn 15
năm thì phải là một con người có một đức tin vững vàng, lấy việc “mến Chúa, yêu
người…” như tôn chỉ của cuộc sống, lẽ sống của mình. Trong tập thơ này, em đã tìm thấy 5 bài thơ
anh viết về Lễ Giáng Sinh: “Noel Phát Diệm”, “Tìm Sao”, “Xin Ngôi Sao Lạ”, “Lời
Nguyện Đêm Noel”, “Mỗi Lần Nghe Nhạc Giáng Sinh”. Theo chân anh, em đi tìm
“Ngôi Sao Lạ”
Phép lạ nào cho yêu ma tận diệt?
Ơn phúc nào cho Tình Thương chan hòa
Đến bao giờ thanh bình trên đất Việt
Đến bao giờ Đấng Cứu Thế hiện ra?
Chẳng lẽ... chúng mình mãi mãi là
Những kẻ đi tìm Ngôi Sao Lạ?
Lạy Chúa
Chúa ở gần hay xa (!) … ?...
Hỏi
để hỏi vậy thôi, chứ tín hữu Trần Quốc Bảo vẫn luôn luôn sắt son tin tưởng vào
Thiên Chúa và Mẹ Maria đề “Dâng Hoa Tổ Quốc” với lời cầu xin thống thiết:
Nay Nước mất, nhà tan
Quê hương điêu tàn
Toàn dân sống đời tăm tối
Chúng con dẫu muôn vàn tội lỗi
Vẫn chạy đến cùng Đức Mẹ Maria
Dâng bông hoa Tổ Quốc
Xin ơn bầu cử thứ tha
Nhân từ cứu vớt
Đưa Viêt Nam qua giờ phút nguy nan.
Thơ
đạo của thi sĩ họ Trần không đau đớn, quằn quại như thơ Hàn Mặc Tử, nhưng trong
dòng thơ Công Giáo, anh vẫn tiếp nối
dòng thơ chan chứa niềm tin vào đấng Cứu Thế, Mẹ Maria như các nhà thơ Xuân Ly
Băng, Phạm Đình Tân, Hồ Dzếnh v.v…với những lời thơ chân thành, đầy cảm xúc
linh thiêng.
Là
một Ky-tô hữu, nhưng cũng là một sĩ quan, một chiến sĩ của QLVNCH, với 25 năm
phục vụ trong quân ngũ, được ân thưởng Bảo Quốc Huân Chương – Đệ Ngũ Đẳng của
Tổng Thống VNCH năm 1974, nhà thơ Trần Quốc Bảo hãnh diện đã đáp lời gọi của
sông núi, gia nhập hàng ngũ của bao thanh niên Miền Nam, anh dũng đứng lên bảo
vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của Cộng Sản Miền Bắc. Chắc chắn những tư
tưởng Tự Do, Dân Chủ từ thời Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh vẫn
len lỏi trong huyết mạch của nhà thơ họ Trần, để rồi ông viết rất nhiều bài thơ
yêu nước, yêu đồng đội, nhất là các chiến sĩ vô danh.
Ôi Quê Hương ta, non sông hùng vĩ
Dân tộc ta, dòng máu hùng anh!
Hàng triệu người là Chiến Sĩ Vô Danh
Hồn linh hiển trên Quốc kỳ phấp phới
Lịch
sử Việt Nam ngàn năm nhớ tới
Người
Anh Hùng
Người
Chiến Sĩ Vô Danh
********
Đầu
năm nhớ Chị, nhớ Anh
Những
người Chiến Sĩ Vô Danh thuở nào
Kính
cẩn, tôi giơ tay chào
Nụ
hôn thương mến gửi vào thiên thu
Dĩ
nhiên, ngoài những ảnh hưởng kể trên, đã là môt nhà thơ, một cây đàn muôn điệu,
làm sao nhà thơ Trần Quốc Bảo có thể tránh khỏi ảnh hưởng của trào lưu Lãng Mạn
phương tây, nối tiếp mảng thơ trữ tình của Thế Lữ, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương,
Đinh Hùng v.v… Những bài thơ “Thuyền
Mơ”, “Một Thời Mộng Hoa” v.v… đã nói lên những giây phút thần tiên mà tác giả
đã trải qua với người trong mộng:
Con thuyền mộng đưa ta về bến cũ
Anh dìu em vào những giấc mơ xưa
Cánh đồng chiêm vạt nắng hồng quyến
rũ
Dòng sông xanh vẫn đầy ắp đôi bờ….
*****
Anh lại hôn em và cài lên tóc
Những ngọt ngào thắm biếc nụ tầm
xuân
Như thuở ban đầu, bỗng dưng em khóc
Mắt lệ đong đầy cảm xúc ái ân…
******
Gặp nhau từ thuở mộng hoa
Yêu thương tràn ngập đôi ta ngỡ
ngàng….
******
Xin em cặp mắt nai tơ
Cánh hồng ngọt lịm bên bờ môi son
Cho anh ôm xiết vai tròn
Để qua cơn mộng vẫn còn có em…
Đấy,
một nhà thơ phong cách cổ điển, mà khi viết thơ tình thì cũng dào dạt những cảm
xúc lãng mạn, tình tứ, chan chứa yêu thương, như chúng ta đang đọc Lamartine,
Victor Hugo hay Vũ Hoàng Chương:
Em đã nao lòng anh mê man
Đôi mắt đầu môi tình chứa chan
Đêm thường mơ đêm ngày đợi ngày
Nhưng không hề nói cho nhau hay
(Vũ
Hoàng Chương – Yêu mà chẳng biết)
Anh
Bảo quý mến,
Trên dây là em mới tìm hiểu con
người anh, qua những vần thơ của anh, dựa theo nội dung của một chương trình
môn Quốc văn mà em đã đề cập ở trên. Nhưng đến đây, em vẫn tự đặt cho mình câu
hỏi : “ - Trần Quốc Bảo là ai? - Thơ văn
đích thực, cốt yếu của thi sĩ họ Trần là gì?
- Đâu là Cõi Thơ Trần Quốc Bảo? ”
Em thấy không khó để tìm câu trả lời
: “ - Trần Quốc Bảo là thi sĩ của “Tình Yêu Quê Hương, Đất Nước” sâu xa, vô bờ
bến, lúc nào cũng nặng tình với nước nhà,
với vận mệnh dân tộc, nhất là khi nước mất, nhà tan”.
Trong tập thơ “Quê Hương”, chữ ‘Quê
Hương’ đã được lập đi lập lại bao nhiêu lần với những bài thơ như: “Quê Hương
Tôi Bây Giờ”, “Cúi Đầu Tạ Với Quê Hương”, “Mơ Một Quê Hương”, “Tiếng Gọi Quê Hương”,
không kể những bài như “ Giấc Mộng Hồi Hương”, “Dâng Hoa Tổ Quốc”, “Chuyện Buồn
Nước Tôi”, “Con Đường Việt Nam”, “Tết Nhớ Quê Xưa”, “Tết Nhớ Quê Hương”, “Tạ Ơn
Đất Mẹ”, “Tạ Ơn Biển Mẹ” v.v… và những bài viết về các quân nhân, liệt nữ VNCH,
những chiến sĩ vô danh, những con người đã hy sinh cho lý tường Dân Chủ, Tự Do,
Tự Cường của Miền Nam …
Mấy ai đã ôm ấp giải đất Việt Nam mỹ
miều trong trí óc, tâm hồn như nhà thơ họ Trần. Trong bài “Mây Xưa”, thi sĩ ôm
giải giang sơn chữ S trong lòng, cũng như giang sơn gấm vóc đang quyện vào tâm
thân thi sĩ. Thi sĩ chỉ mong mình là giải mây bay về để được chiêm ngắm tất cả
vẻ đẹp của quê nhà.
Chiều về
lặng ngắm mây bay,
Phiêu du sao
lạc phương này mây ơi!
Nhìn mây
quen quá đi thôi
Phải chăng
quê ở khung trời Việt Nam?
Mây bay từ
Ải Nam Quan,
Qua Đồng
Đăng, xuống Lạng Sơn, Kỳ Lừa
Luyến lưu
trên đỉnh Vọng Phu
Có nàng Tô
Thị ngàn thu ngóng chồng
Mây Hà Nội,
mây Hà Đông,
Gió đưa mây
tới Hải Phòng, Kiến An,
Hưng Yên,
Phát Diệm, Nho Quan,
Đường mây
vạn lý, Trường Sơn chập chùng.
Trải dài
sông núi miền Trung,
Sầm Sơn, Lệ
Thủy, Cửa Tùng, Phú Vang.
Lênh đênh
trời Huế mơ màng
Ải Vân bàng
bạc giăng ngang lưng đèo.
Nha Trang
rực rỡ ráng chiều
Cam Ly ẩn
hiện phiêu diêu mây ngàn,
Miền Nam
nắng đẹp chứa chan,
Mây từ Hồng
Ngự, Tân An bay về
Saigòn, Gia
Định, Nhà Bè
Bềnh bồng
trôi dạt Cẩu Kè, Vĩnh Châu,
Hà Tiên,
Rạch Giá, Cà Mâu,
Ngàn mây
điểm sắc tươi màu Quê Hương
Chao ôi
Thiên Địa phong sương,
Phù vân tản
mạn viễn phương giang hồ,
Hợp tan như
thực như mơ,
Cánh mây lưu
lạc bao giờ hồi hương?
Ôm ấp trong tâm hồn bao hình ảnh
tươi đẹp của quê hương như vậy, làm sao thi sĩ không canh cánh trong lòng khi
vận nước đổi thay. Tất cả những cái đẹp, cái thanh thoát, kiều diễm, hay u
hoài, trầm mặc, linh thiêng của giải giang sơn gấm vóc ông cha để lại, đã bị
đổi thay, tàn phá, tô son, điểm phấn một càch thô tục, giả tạo do những bàn tay
của những kẻ chiếm giữ đất nước ngày nay, những kẻ chỉ nghĩ đến chiếm đoạt, lợi
nhuận, vơ vét, hơn thua, tiền bạc. Nhà thơ không ngờ cuộc biến đổi lại xảy ra
nhanh thế. Và giờ đây, làm kẻ lưu lạc xa quê hương, với tuổi đời chồng chất,
thi sĩ cảm thấy bất lực, chua xót, cay đắng, chỉ biết xin “Cúi Đầu Tạ Với Quê
Hương”:
Rượu
xuân nghiêng chuốc chén buồn
Thơ
xuân lại rót cô đơn cho đời
Đường
vào huyền sử đôi mươi
Bốn
phương ai oán một trời xót xa
Lang
thang không nước không nhà
Sống
nhờ ở đậu cho qua tháng ngày
Ngu
ngơ như tỉnh như say
Bao
nhiêu mộng ước tầm tay vuột dần
Bây
giờ lá rụng đầy sân
Biết
còn tình tự với xuân lời gì
Đêm
dài che khuất đường đi
Tối
tăm thù hận bờ mi tủi hờn
Mắt
nhìn không có linh hồn
Thân
lưu đầy giữa vũng buồn chơi vơi
Đắng
cay lên những môi cười
Nén
đau trong tiếng thở dài thê lương
Cúi
đầu tạ với Quê Hương
Tôi
còn một nửa đoạn đường chiến binh
Từng
đêm mình điểm danh mình
Nghe
sông núi gọi đăng trình xôn xao
Mỗi
xuân thêm bạc mái đầu
Nghiêng
hồ trường chuốc về đâu bây giờ
Ưu
phiền lại rót vào thơ!...
Đây là một bài thơ gói ghém tất cả
tâm sự của thi sĩ Trần Quốc Bảo. Xuân đến, đáng nhẽ phải là một ngày hội, một
ngày vui, ngày đoàn tụ cùng gia đình, người thân, để đón chào một cái gì mới,
một cơ hội, để tân niên khai bút, thì giờ đây, nhà thơ chỉ đang cô đơn với chén
rượu sầu ở một phương trời xa quê hương đất nước. với thân phận của kẻ tha
phương. một kẻ “không nước, không nhà”. Bao “mộng ước tầm tay” thời trai trẻ
với “Đường vào huyền sử đôi mươi”, thì xuân này, nhìn lại, làm được gì, còn lại gì? Hầu như chỉ là số không, chỉ còn
là “cô đơn, ai oán, xót xa, tối tăm, thù hận, tủi hờn, đắng cay, ưu phiền...”
Tác giả, nhớ đến bài thơ “Hồ Trường” của
Dương Bá Trạc với bản dịch quốc âm trứ danh của
Nguyễn Bá Trác khi xưa, cũng tự hỏi “Nghiêng
hồ trường chuốc về đâu bây giờ?” Hỏi như vậy, nhưng ít nhất, Dương Bá Trạc,
qua lời dịch của Nguyễn Bá Trác còn có thể nghĩ về một đất nước còn đó “Trời nam nghìn dặm thẳm, mây nước một mầu
sương” . Tuy say túy lúy, thấy mình “học
không thành, danh chẳng lập” nhưng
còn cái hào sảng, ngóng trông một ngày trở về vùng vẫy vì “ Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây”
Trần Quốc Bảo thì sao?
Trẩn Quốc Bảo vẫn “nghe sông núi gọi đăng trình xôn xao”
đó, thế mà lực bất tòng tâm, tuổi đời chồng chất, răng long, đẩu bạc… và biết
là mình hầu như trở nên vô dụng, không còn hy vọng gì, không thể đi hết “nửa
đoạn đường chiến binh” còn lại.
Tâm sự của tác giả đã in đậm vào
từng câu thơ, từng con chữ, từng hình ảnh được chọn lọc chắt chiu, kỹ lưỡng.
Xuân đến đấy mà thấy “lá rụng đầy sân”.
Lúc tỉnh mà lại thấy mình “ngu ngơ”;
mắt còn nhìn đó, mà sao “không có linh
hồn”. Môi cười ư, không, chỉ là nét tàn tạ, héo úa. đắng cay và chén rượu
chỉ là những giọt “ưu phiền rót vào thơ’.
Chắc hẳn thi sĩ nhớ đến hình ảnh của ông đồ khi xưa trong thơ Vũ Đình Liên.
Biết đâu mình cũng đang dần dần tan biến. Một mùa xuân nào đó… mình cũng sẽ về
với cỏ cây, nhập vào những “người muôn năm cũ” để rồi hồn chơi vơi về với quê
hương đất nước trong bùi ngùi, bi hận và luyến tiếc.
Những
người muôn năm cũ
Hồn
ở đâu bây giờ?
Anh Bảo quý mến,
Tuy những dòng thơ trên là những vần
thơ cay đắng và chua xót của một con người nặng tình với quê hương đất nước,
nhưng đọc bài thơ chót của anh với tựa đề “Trọn Đời Tạ Ơn”, em cũng mừng thầm
và thấy ấm áp khi anh, nhìn lại cuộc đời mình, dù có gập ghềnh, chông gai, bao
thay đổi lên xuống, nhưng vẫn có thể tạ Ơn Trên, Ơn Mẹ, Ơn Cha, Ơn Thầy, Ơn
Bạn, Ơn vợ hiền và nhất là:
Tạ
ơn : Trăng, Nước, Cỏ, Cây
Từng
đêm say đắm, từng ngày mộng mơ
Tạ
ơn cung Nhạc, dòng Thơ
Để
hồn lãng mạn, thẫn thờ đam mê
Xin
tạ ơn mảnh Đất Quê
Sắt
son vẫn một lời thề trong tim
Cầu
mong Vận Nước chuyển mình
Tôi
về hôn Đất, tạ tình Quê Hương!
Như vậy là anh đã sống một cuộc đời
đáng sống, một cuộc đời sống cho đất nước, cho tha nhân, chu toàn việc đời,
việc đạo, và lại có thời giờ dành cho “Nàng Thơ” yêu quý, nàng “Thơ Thuần Túy”
Cõi mộng
huyễn chỉ có Thơ là thực
Bởi vì Thơ
ngự trị ở trong tim
Thuở hồng
hoang như những vết chân chim
Đem vô lượng
khắc sâu vào vĩnh cửu
Vậy mà, khi các con hỏi anh về thơ
của bố, anh vẫn khiêm nhường thổ lộ:
Các con hỏi
bố, thể thơ gì?
Bố chẳng
quan tâm luật lệ chi
Miễn trải
hồn thơ trên giấy trắng
Đó là ký
thác những tư duy
Vâng, qua 100 bài thơ trong tuyển
tập “Quê Hương” này, không những anh đã ký thác những tư duy, tình cảm của anh,
nhưng một phần nào anh cũng đã nói lên tư duy, tình cảm của nhiều người. Đọc
thơ anh, nhiều người cũng có thể tìm thấy chính mình như nhà thơ Victor Hugo có
lần viết trong lời tựa tập thơ “Chiêm Ngưỡng”
(Les Contemplations) của ông như sau:
Vậy
cuộc sống của một con người là gì? Vâng, và cuộc sống của những người khác nữa.
Không có ai trong chúng ta có hân hạnh được sống một cuộc sống riêng của mình.
Cuộc sống của tôi là cuộc sống của bạn, cuộc sống của bạn là cuộc sống của tôi,
bạn sống những gì tôi đã sống; số phận là một. Hãy cầm lấy tấm gương này, và
hãy nhìn bạn trong đó. Người ta đôi khi phàn nàn về các nhà văn nói về cái tôi.
Hãy nói với chúng tôi về chính chúng tôi, họ kêu la với các nhà văn như vậy.
Than ôi! Khi tôi nói về tôi, tôi nói về bạn. Tại sao bạn không cảm thấy điều
đó? À, bạn điên rồi đó, khi tưởng là tôi
không phải là bạn!
(Est-ce donc la vie d’un homme ?
Oui, et la vie des autres hommes aussi. Nul de nous n’a l’honneur d’avoir une
vie qui soit à lui. Ma vie est la vôtre, votre vie est la mienne, vous vivez ce
que je vis ; la destinée est une. Prenez donc ce miroir, et regardez-vous-y. On
se plaint quelquefois des écrivains qui disent moi. Parlez-nous de nous, leur
crie-t-on. Hélas ! quand je vous parle de moi, je vous parle de vous. Comment
ne le sentez-vous pas ? Ah ! insensé, qui crois que je ne suis pas toi !)
(What is this the life of a man?
Yes, and the lives of other men. None of us has the honor of having a life of
his own. My life is yours, your life is mine, you live what I live; Destiny is
one. So take this mirror, and look at it. Sometimes we complain about writers
who talk about the ‘me’. Tell us about us, we shout at them. Alas! When I tell
you about me, I tell you about yourself. How can you not feel it? Ah! fool, who
think that I'm not you!)
Như vậy, như em đã trình bày ở trên,
đọc thơ anh, em, cũng như các độc giả thơ của anh cũng tìm lại được phần nào
con người, tâm tình và những chặng đường của đời mình. Có thể không hoàn toàn
giống nhau, nhưng, những ước mơ, hoài bão của tuổi trẻ, những đấu tranh, bươn
trải tuổi trung niên, những nuối tiếc, cay đắng của tuổi già, tất cả vẫn xen kẽ
nỗi vui, nỗi buồn, niềm hân hoan, hy vọng hay hờn tủi, thất vọng. Ánh sáng và
bóng tối đan quyện nhau làm thành bức tranh của mỗi cuộc đời, đem so ra với
những mảng tranh khác vẫn có những đường nét và mầu sắc phần nào giống nhau.
Và như vậy cũng đủ mãn nguyện
Một lần nữa, em, và cũng xin được thay
mặt các độc giả thân mến của anh, chân thành gửi đến anh, thi sĩ Trần Quốc Bảo,
lời cảm tạ sâu xa về tặng phẩm thi tập “Quê Hương” quý báu này, và xin chúc
anh, dù vào tuổi chín mươi, được “bách niên giai lão” và vẫn giữ được mạch thơ
lai láng, tiếp tục gửi lại cho hậu thế, nhất là các thế hệ trẻ người Viêt hải
ngoại, những món quà tinh thần rất đáng trân trọng.
Cũng xin quý độc giả xa gần lượng
thứ cho chúng tôi, nếu vài hàng nhận định trên còn nhiều chỗ thiếu sót, không
diễn tả đầy đủ tất cả những điều hay, nét đẹp chứa đựng trong tập thơ ‘QUÊ
HƯƠNG’ này.
Thân quý,
Em:
Lại Quốc Hùng
Elk Grove. Hạ Tuần Tháng Tám, năm
2020
Lại Quốc Hùng
Đăng nhận xét