Huyền Thoại Biệt Kích Lôi Hổ
Orchid Thanh Lê
Thân gửi
đến quý anh chị bài " Huyền Thoại Biệt Kích Lôi Hổ ", tiện đây tôi
cũng xin gửi lời cảm ơn đến trung úy Lôi Hổ Đàm quang Phong ( là bạn học tại
Trường Petrus Ký với anh tôi Đinh anh Tuấn). Hai anh em tôi đã đến được bến bờ
tự do, và cùng chung sức bảo vệ gia đình vợ, con của lính Lôi Hổ 1975.
Kỷ niệm
ngày Lễ Memorial Day !
Đinh công Đức
Tác giả
Orchid Thanh Lê hiện làm việc tại Viện Nghiên Cứu Ngôn Ngữ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ
(DLIFLC) tại Monterey, California, có nhiệm vụ hỗ trợ tiếng Việt cho Văn Phòng
Tìm Quân Nhân Mỹ Mất Tích Trong Chiến Tranh Việt Nam (DPAA). Bài viết dưới đây
là sự tường thuật về một cuộc phỏng vấn của tác giả với một chiến sĩ Biệt Kích
Lôi Hổ thường được ca tụng với biệt danh “Cowboy” từ giới Biệt Kích Mỹ thời chiến
tranh Việt Nam.
— Xin
vinh danh sự cống hiến và hy sinh thầm lặng của các chiến sĩ Biệt Kích Lôi Hổ
trong công cuộc bảo vệ miền Nam Việt Nam.
— Một buổi
sáng khi lớp học bắt đầu, tôi háo hức nói với người sinh viên:
—
Tôi vừa nhận được một điện thư có tin tức liên quan về hồ sơ ngày 28 tháng 3
năm 1968 từ một người ký tên Cowboy Khánh Đoàn.
— Bất ngờ
anh sinh viên bật dậy từ ghế ngồi, chồm lên phía trước với vẻ mặt rạng rỡ:
— Cowboy
Khánh Đoàn ư? Chúng ta gặp may rồi vì sẽ được thêm nhiều tin hữu ích. Cô có biết
rằng Biệt Kích Mỹ thời chiến tranh Việt Nam khi nghe đến tên “Cowboy Khánh
Đoàn” thì ngả mũ khâm phục không?
— Tôi
nào biết! Chẳng phải Cowboy chỉ là một chàng trai đội mũ rộng vành, đi ủng có gắn
miếng thép ở gót để thúc ngựa, mặc quần jean Levi’s hoặc quần da, cưỡi ngựa giỏi,
hay tham gia đấu súng và bắn giỏi bằng cả hai tay, uống rượu trong quán nơi thường
xảy ra các cuộc xung đột đó sao?
— Chưa đủ
cô ạ. Rộng hơn, Cowboy còn có nghĩa là một người hùng thích phiêu lưu bất kể mọi
tình huống hiểm nguy, theo đuổi một nghề nghiệp đòi hỏi sức chịu đựng bền bỉ và
lòng can đảm phi thường; nhất là từ khi hàng loạt phim Hollywood về miền Tây
hoang dã ra đời thì hình ảnh chàng chăn bò dần được thay thế bằng hình ảnh một
chàng trai hành hiệp trượng nghĩa chiến đấu chống lại cái ác.
— Vậy
huyền thoại Cowboy của lịch sử Mỹ có liên quan gì đến Cowboy Khánh Đoàn?
— Nghe
tôi thắc mắc, anh sinh viên mỉm cười:
— Dĩ
nhiên tôi có thể kể cho cô nghe những điều tôi biết về người Biệt Kích Lôi Hổ với
biệt danh “Cowboy” này nhưng nếu cô hỏi ngay nhân vật chính thì chẳng phải nhiều
lý thú hơn sao?
— Phải đấy,
tôi thật sự muốn biết về Biệt Kích Lôi Hổ nói chung và người có biệt danh
Cowboy nói riêng. Tôi tự tìm hiểu sơ qua về Biệt Kích Lôi Hổ trước khi liên lạc
với người mình muốn chuyện trò.
— Bối cảnh
thành lập Biệt Kích Lôi Hổ bắt đầu từ đầu năm 1964 khi Mỹ muốn giúp Việt Nam Cộng
Hòa kiểm soát và phá hủy những mật khu và đường mòn Hồ Chí Minh mà Bắc Việt
dùng để chuyển quân và vũ khí với ý đồ thôn tính miền Nam.
— Để
tránh vi phạm luật lệ quy ước về hiệp định chiến tranh quốc tế ký kết tại
Genèva năm 1954, Mỹ thành lập Đơn Vị Nghiên Cứu và Quan Sát thuộc Bộ Chỉ Huy Trợ
Giúp Quân Sự Hoa Kỳ ở Việt Nam (Military Assistance Command Vietnams
Studies and Observation Group – MACVSOG) mà trong đó những thanh niên khỏe mạnh,
tinh nhuệ, đa số là người Nùng, được chọn để trở thành Biệt Kích Lôi Hổ. Việc
huấn luyện, lương hướng, quân trang, quân dụng do Đơn Vị Nghiên Cứu và Quan Sát
cấp phát và được hưởng quy chế tương đương như những quân nhân Lực Lượng Đặc Biệt
Mỹ phục vụ tại Việt Nam.
— Những
gì tôi biết về Biệt Kích Lôi Hổ quá ít ỏi. Cowboy lại kiệm lời, kín đáo, không
dễ khơi chuyện. Ngoài những thông tin ông cung cấp nhằm hỗ trợ công tác của Văn
Phòng tôi đang trợ giúp, ông không thổ lộ gì hơn. Cuộc nói chuyện qua điện thoại
với ông dẫn đến điều tôi muốn biết nhân vật lịch sử nào mà Cowboy yêu thích thì
được ông trả lời bằng câu hỏi ngược lại:
— Thế cháu
có biết cuốn phim “PT-109” mà trong đó chú thần tượng nhân vật cựu tổng thống
Kennedy vào thời điểm đó mới mang cấp bậc trung úy Hải Quân?
— Dạ, có
chứ! Cháu còn nhớ sự kiện PT-109 đã đi vào âm nhạc Mỹ với sáng tác mang tên
“PT-109” của Jimmy Dean.
— Cuốn
phim dựa trên nội dung câu chuyện thật của cựu tổng thống Kennedy được sản xuất
từ năm 1963 đã đi vào lòng người xem những cảm xúc nhất định. Chú cháu tôi hào
hứng nối tiếp nhau nhắc lại nội dung câu chuyện:
—
“PT-109 là sự kiện chìm tàu phóng ngư lôi mà thuyền trưởng là cựu tổng thống
Kennedy đang mang cấp bậc trung úy vào năm 1943 thời Chiến tranh Thế giới thứ
hai. Sứ mệnh của tàu phóng ngư lôi là di chuyển sát với một tàu khu trục Nhật Bản
ở Solomons trong bóng tối và sau đó tấn công bằng ngư lôi. Sinh hoạt trong vùng
chiến sự ở Nam Thái Bình Dương luôn đầy hiểm nguy, khó khăn và thiếu thốn. Tàu
PT-109 của trung úy Kennedy không có liên lạc bằng vô tuyến, không được trang bị
dẫn đường bằng radar trong lúc bị tàu khu trục Amagiri của Nhật Bản cắt ngang
qua mũi tàu theo đường chéo.
— Xin
vinh danh sự cống hiến và hy sinh thầm lặng của các chiến sĩ Biệt Kích Lôi Hổ
trong công cuộc bảo vệ miền Nam Việt Nam.
— Trung
úy Kennedy ngã nhào xuống, va vào vách ngăn thép. Hai thủy thủ mất tích. Bảy
người bị rơi xuống vùng biển đầy cá mập trong tiếng la hét hoảng loạn. Còn 11
người, họ bấu víu vào vòm tàu bị lật úp, lênh đênh cả đêm trên biển Thái Bình
Dương, xung quanh là các hòn đảo của kẻ thù.
— Không
thức ăn, không nước uống, không sóng vô tuyến, không bè cứu sinh, không thuốc
men. Tất cả đã bị dạt tứ tung trên mặt biển. Tàu trôi chậm về phía nam. Khi nhận
thấy tàu sắp chìm, họ quyết định bỏ tàu và bơi vào bờ. Trung úy Kennedy dùng
răng giữ dây buộc phao cứu sinh của một thủy thủ bị bỏng nặng và cõng người này
trên lưng, bơi về phía hòn đảo cách đó gần sáu ki-lô-mét.
— Họ mệt
lả, kiệt sức khi tới được hòn đảo hoang vắng. Họ phải bò vào các bụi cây để trốn
tàu của Nhật. Trên đảo không có thức ăn, nước uống, không có gì có thể tận dụng
được nhằm duy trì sự sống. Hòn đảo là một cái bẫy tử thần mà đường kính chỉ vỏn
vẹn 91 mét. Trung úy Kennedy quyết định bơi từ đảo này đến đảo khác để tìm xem
có tàu PT nào đi ngang qua không. Cuối cùng, anh đã dẫn cả đội tới đảo Asana và
thủy thủ đoàn PT-109 được cứu thoát.”
— Hiển nhiên
là cuốn phim đã ảnh hưởng sâu đậm đến định hướng binh nghiệp của Cowboy: chọn
Biệt Kích Lôi Hổ để chiến đấu với kẻ địch, với bệnh tật, với thiên nhiên, để trải
nghiệm mưu sinh thoát hiểm, và để được trui rèn trong nghiệp vụ tình báo và kỹ
thuật tác chiến.
— Nghe
tôi nhất định nhận là có chung họ Hồng Bàng với ông và nằn nì ông kể thêm về Biệt
Kích Lôi Hổ nhằm hiểu đúng hơn, Cowboy phải bật cười:
— Vậy
thì chú sẽ bắt đầu từ kỷ niệm đầu tiên lúc gia nhập Biệt Kích.
— Ngày ấy
chàng trai vừa được tuyển mộ đang trong thời gian chờ đợi để đơn vị tuyển đủ
quân số cho trung đội. Buổi trưa ngày thứ ba tại Sở Liên Lạc, anh bước vào khu
nhà ăn đến quầy lấy thức ăn bỏ vào khay và quay tìm chỗ ngồi. Phòng lớn phía
ngoài chật cứng, chỉ còn chỗ trống trong phòng nhỏ được ngăn bởi bức tường cao
ngang thắt lưng có bảng hiệu chữ O gắn trước cửa (khu vực dành riêng cho sĩ
quan) ở xa hướng tay phải. Với khay thức ăn trên tay, anh điềm nhiên bước đến
chỗ ngồi nơi góc tường. Lúc anh vừa bắt đầu ăn thì có anh nhà bếp người Mỹ da
ngăm, khá to con tiến đến bàn anh.
— You
cannot sit in this room. (Anh không được ngồi trong phòng này.)
— Let me
finish my lunch, please. (Xin để tôi ăn trưa xong cái đã.)
— Anh
chàng Mỹ xem chừng giận dữ, quát lên như ra lệnh:
— No.
Stand up! Get out of the room now or I’ll punch you out of here. (Không được. Đứng
dậy ngay! Bước ra khỏi phòng ngay bằng không tao thụi cho mày ra khỏi đây.)
— Bất cần.
Ông bà ta có câu “Trời đánh còn tránh miếng ăn”. Anh thản nhiên vừa
ngồi ăn vừa nhớ lại lời của mấy tay Nùng dặn nhau chỉ mới cách đây một, hai
hôm: “Đi lính Lôi Hổ mà không ba gai là bị đuổi về không được nhận đâu!”
— Thình
lình anh nhà bếp phóng tới chộp tay trái anh định lôi tuột ra khỏi phòng. Với
phản ứng tự nhiên, anh đưa tay lên đỡ gạt bằng cách chặt ngay đúng huyệt nơi cườm
tay của hắn ta cùng lúc tiện thể đứng dậy thả cùi chỏ tay còn lại ngay ngực hắn
trong chớp mắt. Đòn trúng nhẹ nhàng nhưng hắn đã phải loạng choạng thối lui.
Anh bình thản nói với hắn:
— You
don’t have the right to do that. I must protect myself. (Anh không được quyền
làm thế. Tôi buộc phải tự vệ thôi.)
— Tay phải
anh vói cái ghế sắt để thủ thân (thật không uổng phí công lao của bố mẹ cho đi
học võ thuật từ lúc chín tuổi để cường tráng thân thể), lúc này có anh Mỹ khác
ngồi cách hai bàn đứng dậy nói to như hét:
— Take
it easy, you guys! (Mọi chuyện ổn thôi, các bạn!)
— Rồi
anh ta quay sang anh nhà bếp:
— Let me
take care of it! (Để tôi lo!)
— Anh
nhà bếp xụi lơ, bỏ đi.
— Anh
chàng Mỹ mới này khoảng trên dưới 30 tuổi, trông sáng sủa, cao ráo làm sao! Anh
ta bưng khay thức ăn của mình bước đến bàn anh ngồi, nói năng lịch sự:
— May I
sit here? (Tôi ngồi đây được chứ?)
—
Certainly! (Đương nhiên rồi!)
— Are
you a fresh soldier? I haven't seen you before. (Lính mới hả? Hồi nào đến giờ
tôi chưa thấy anh.)
— Không
để anh kịp trả lời, anh chàng Mỹ điển trai tiếp tục nói, “Thôi chúng ta nói bằng
tiếng Việt đi. Anh có biết đây là phòng ăn của sĩ quan không? Anh muốn làm sĩ
quan hả? Tôi là Trung úy Lực Lượng Đặc Biệt chính gốc, chịu trách nhiệm tuyển mộ
và huấn luyện trung đội tân binh này, nhưng chưa tìm ra thông ngôn. Tôi nghe
anh đối đáp với anh John nhà bếp khá sành sõi tiếng Mỹ, nên có thể nào cho tôi
nói chuyện bây giờ với anh như một cuộc phỏng vấn không?”
— Thế là
cuộc phỏng vấn bất ngờ diễn ra. Đoàn Văn Khánh quê ở Chương Nghĩa Đoài, gần Bùi
Chu, Phát Diệm, di cư vào Nam cùng với gia đình năm 1954. Khánh được gia đình
cho theo học Pháp ngữ cấp tiểu học. Lên đến trung học thì bố Khánh, một người
thức thời, khuyên anh nên chọn theo học Anh ngữ. Khánh đã có thể hưởng một cuộc
sống an phận: anh là con trai độc nhất trong gia đình, có giấy chứng nhận sắc tộc
thiểu số nên anh được miễn dịch. Tuy nhiên, bản chất khí khái không cho phép
Khánh chấp nhận như vậy. Anh muốn làm nhiệm vụ người trai thời chiến bằng cách
xếp bút nghiên gia nhập Biệt Kích hầu dễ dàng thoả chí tang bồng.
— Cuộc
đàm thoại thay cho phỏng vấn kết thúc với biên bản ký nhận hoán chuyển tình trạng
hồ sơ của Khánh từ làm lính Biệt Kích chỉ mới ba ngày thành làm thông ngôn.
Khánh bắt đầu làm quen với bộ quân phục đồ beo nút đồng, mũ bành to vè, và khẩu
Revolvo (Ru-lô) nòng dài và giây đạn (có nhét đạn chung quanh) đeo lủng lẳng.
Trông ra dáng một Cowboy oai hùng.
— Tôi nối
tiếp cuộc nói chuyện bằng câu hỏi:
— Cháu
nghe nói tân binh Biệt Kích Lôi Hổ được đưa đến huấn luyện tại các căn cứ tiền
đồn hoặc kế bên các trại Lực Lượng Đặc Biệt dọc theo hành lang biên giới như
Khâm Đức, A-Shau, hay Khe Sanh, phải không ạ?
— Đúng đấy,
nhưng Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng tại Long Thành là nơi trắc nghiệm, tuyển
chọn lại và cấp giấy chứng nhận mỗi khóa huấn luyện cho Biệt Kích Lôi Hổ. Đôi
khi Biệt Kích cũng được gởi đến các quân trường khác của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà để có giấy tờ phù hợp chuyên ngành. Những căn cứ huấn luyện này tùy thuộc
vào mục tiêu của các nhiệm vụ để cung cấp huấn luyện cần thiết: Trung Tâm Huấn
Luyện Nhảy Dù thì cấp bằng dù, Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ
chuyên huấn luyện về chiến thuật hành quân biệt động như rừng núi sình lầy hay
hành quân viễn thám, Trung Tâm Huấn Luyện Lực Lượng Đặc Biệt tại Đồng Bà Thìn
phụ trách huấn luyện dây tử thần, bắn tỉa, vân vân.
— Biệt
Kích Lôi Hổ cũng nhận huấn luyện căn bản tương tự như bao binh chủng khác, phải
vậy không chú?
— Đại loại,
huấn luyện căn bản của Biệt Kích Lôi Hổ bao gồm huấn luyện vũ khí đủ loại, di
hành, cứu thương, mìn bẫy, mưu sinh, thoát hiểm, phản ứng cấp thời, bắt tù
binh, võ thuật cho cận chiến, thậm chí đôi lúc có võ sư tiếng tăm ngoại quốc được
thuê về dạy.
— Xin
vinh danh sự cống hiến và hy sinh thầm lặng của các chiến sĩ Biệt Kích Lôi Hổ
trong công cuộc bảo vệ miền Nam Việt Nam.
— Cowboy
cho biết thêm rằng Biệt Kích Lôi Hổ còn được huấn luyện tự do theo sở thích và
khả năng để trở thành điêu luyện bằng cách học hỏi từ bậc đàn anh. Tốp tân binh
nghe đi tập bắn thì khoái chí, mang một lần bốn thùng đạn, đến bãi bắn có đàn
anh hướng dẫn, chỉ cách tháo, ráp súng tại chỗ và tập bắn vào bia bằng
các-tông; dùng đại liên và súng lục bắn cho hết bốn thùng đạn, bắn tự do thoải
mái chứ không theo bài bản như ở các quân trường: “Một viên đạn nạp. Nhắm
từ lỗ chiếu môn đến đỉnh đầu ruồi. Nín thở. Bóp cò.” Tối về tai người nào
người nấy rát bùng, cấp chỉ huy quát gọi cũng chẳng nghe. Vài hôm sau được gọi
đi tập bắn tiếp, tân binh rút kinh nghiệm chỉ mang một hoặc nửa thùng đạn, che
bít hai tai, bắn kiểu tự do như trong xi-nê, tập đi tập lại cho đến khi bắn
không cần phải nhắm mà vẫn trúng đích. Sau vài lần huấn luyện di hành, nếu cảm
thấy nặng thì đổi súng khác nhẹ hơn, và cuối cùng đối với bất cứ loại súng gì
(của địch lẫn của ta) Biệt Kích đều sử dụng rành rẽ.
— Càng
nghe càng hiếu kỳ, tôi hỏi thêm:
— Thế huấn
luyện Biệt Kích Lôi Hổ có khác biệt cụ thể nào so với các binh chủng khác, thưa
chú?
— Sự
khác biệt ở chỗ là Biệt Kích Lôi Hổ được huấn luyện hàng ngày hàng giờ mà chính
bản thân họ cũng không ý thức được là đang được huấn luyện. Qua sinh hoạt đời
thường, họ được các toán trưởng Mỹ ngầm quan sát để hướng dẫn những bài học
tình báo, thử thách lòng dũng cảm, sự nhạy bén khôn ngoan, tính trung thực,
tinh thần trách nhiệm biết bảo tồn danh dự và hy sinh cho chiến hữu, vân vân.
— Lý thú
lắm, chú ạ!
— Thêm một
khác biệt nữa là Biệt Kích Lôi Hổ không được huấn luyện quân cách như diễn hành
hay chào kính bởi vì càng che giấu tông tích nơi công cộng thì càng dễ dàng thi
hành phận sự.
— Quả là
Biệt Kích Lôi Hổ phải trải qua bao thực tế để khả năng và thành tích chiến đấu
được xem xét, trắc nghiệm và đánh giá kỹ lưỡng; do đó để được công nhận là một
Biệt Kích Lôi Hổ xuất sắc trong toán thám sát ắt là một thử thách lớn.
— Không
sai. Đã có biết bao tay giang hồ ngang tàng gia nhập Biệt Kích Lôi Hổ mà cũng
phải đào ngũ ngay từ thời gian đầu huấn luyện. Cháu biết đấy, an toàn sinh mạng
luôn là hàng đầu ở bất cứ tình huống nào cho nên mỗi lần nhận nhiệm vụ, Biệt
Kích Lôi Hổ đều phải thực tập đội hình, vũ khí tác xạ, điều nghiên địa thế, khí
hậu, phương tiện và vị trí di chuyển, phân công, cứu thương, vân vân. Các toán
viên phải bảo đảm phối hợp hành động ăn ý dù chỉ thể hiện qua ánh mắt hoặc bằng
cử chỉ để hoàn thành nhiệm vụ tốt đẹp.
— Chuyển
sang khía cạnh quyền lợi của Biệt Kích Lôi Hổ, tôi thẳng thắn hỏi ông:
— Phía Mỹ
đãi ngộ Biệt Kích Lôi Hổ ra sao, thưa chú?
— Tùy
theo toán trưởng Mỹ đề nghị dựa vào thành tích đạt được mà phía Mỹ tăng lương.
Thỉnh thoảng có tháng Biệt Kích Lôi Hổ được lãnh lương hai lần, cũng có tháng
lên đến ba lần. Chuyện khó tin nhưng vẫn xẩy đến với Biệt Kích Lôi Hổ của các
toán thám sát. Bởi thế ở Huế có câu hò rằng “ơ…ơ… khi mô sông Hương cạn nước
ơ…ơ… thì Lôi Hổ mới hết tiền”.
— Tôi hỏi
Cowboy về chuyện thăng cấp của riêng ông và được biết sau vài chuyến di hành huấn
luyện vào sâu mật khu bên kia biên giới, cũng có những lần đụng địch quân,
Cowboy được thăng cấp bậc là Trung úy Biệt Kích Lôi Hổ. Trung đội trưởng long
trọng gắn hai baza màu đỏ bên hai cầu vai của Cowboy trước hàng quân.
— Cowboy
kể thêm rằng những lần đi công tác hay về phép Biệt Kích Lôi Hổ không phải qua
bất cứ hệ thống kiểm soát nào của phi trường và cũng không phải chờ đợi. Xe của
Đơn Vị Nghiên Cứu và Quan Sát sơn màu đen không có bảng số, chỉ treo một cái thẻ
bằng cỡ căn cước, ra vào cổng phi trường trình cho Quân Cảnh xem là được ngoắc
tay cho đi qua.
— Tôi
nghe đến đây thì buột miệng:
— Kể thì
oai quá!
— Thật
ra Biệt Kích Lôi Hổ như tụi chú rất giản dị và bình thường, tương tự như bao
người lính khác của các binh chủng oai hùng thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa;
hoặc e là không bằng họ nữa là khác.
— Vẫn lời
lẽ khiêm tốn, Cowboy không quên nhấn mạnh rằng những chiến tích mà các toán
thám sát Lôi Hổ lập nên còn được sự yểm trợ của những đôi cánh thép trong các
chuyến bay thả biệt kích dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh của Phi Đoàn Thần Phong
219. Phi đoàn 219, hậu thân của biệt đoàn 83, tăng phái cho Đơn Vị Nghiên Cứu
và Quan Sát, được phi công của hai phía Việt-Mỹ và các Biệt Kích biết dưới danh
hiệu “Kingbee”. Mặc dù không trú đóng cùng căn cứ với Biệt Kích nhưng mức độ hiểm
nguy của nhiệm vụ thả và bốc toán của phi đoàn 219 không thua gì nỗi chết rình
rập bên Biệt Kích Lôi Hổ. Các phi công Thần Phong gan dạ và tài tình, bất kể thời
tiết xấu hay đạn pháo đối phương bủa vây vẫn bằng mọi cách đáp xuống để đem Biệt
Kích và xác chiến hữu ra khỏi vòng vây địch.
— Ông đồng
thời nhắc đến một nhân vật anh hùng trong Phi Đoàn Thần Phong 219 cũng được mệnh
danh là “Cowboy”.
— Thế
còn chú thì sao? Cháu được biết một nhiệm vụ mà chú thi hành đã có mã “Cowboy”
để liên lạc truyền tin. Nhưng từ lúc nào và tại sao biệt danh “Cowboy” gắn liền
với tên tuổi của chú trong sự ngưỡng mộ vượt bực của Biệt Kích Mỹ?
— Ông cười
vang:
— Do từ
một câu chuyện được nhắc rồi nhớ chứ thực sự bản thân chú không nhớ.
— Đó là
sau lần đụng địch bị thương phải cưa bỏ chân và không thể tác chiến được nữa,
Cowboy được điều phái đến phòng truyền tin.
— Một buổi
sáng mở cửa phòng làm việc, Cowboy Khánh Đoàn bất ngờ thấy trong phòng lố nhố
các trưởng ban, một số sĩ quan, và một người Mỹ ăn vận dân sự. Một trưởng ban
giới thiệu Cowboy với người Mỹ này:
— Đây là
người mà ông đã muốn gặp từ tối qua đến giờ.
— Người
Mỹ quay qua chăm chú nhìn Cowboy, hỏi một loạt “Mày là Cowboy?”, “Mày trú đóng
tại Tiền Doanh 1?”, “Mày thuộc toán thám sát ALABAMA?”, “Mày giữ vị trí
02?”.
— Cowboy
đi từ ngỡ ngàng này sang ngỡ ngàng khác. Mỗi câu hỏi được đáp với một cái gật đầu.
— Mày có
biết tao là ai không?
— Lần
này câu trả lời là cái lắc đầu kèm theo cái nhíu mày.
— Người
Mỹ tiến sát gần, nhìn sâu vào mắt Cowboy:
— Mày
đúng là Cowboy rồi.
— Thì chớ
sao nữa!
— Ô-kê,
nếu mày thực sự là Cowboy thì tao sa thải mày ngay từ lúc này.
— Đến
lúc đó thì Cowboy nổi nóng. Bản chất ngang tàng trỗi dậy, Cowboy lớn tiếng:
— Tao
cóc cần biết mày là ai hết. Tao chỉ biết mày đuổi việc tao là hết sức phi lý vì
tao đang cần tiền nuôi vợ con. Cho tao biết lý do sa thải đi?
— Rõ
ràng mày không biết hoặc không nhớ tao là ai hết sao?
— Tao đã
nói tao chẳng nhớ mày là thằng quái nào rồi mà.
— Tao đã
cố tình nhắc đến Tiền Doanh 1, rồi toán thám sát ALABAMA, rồi vị trí 02, vân
vân, thế mà mày vẫn không thèm nhận ra tao nữa ư?
— Giọng
nói lộ vẻ thất vọng rõ rệt, rồi bất ngờ người Mỹ dang hai tay ôm ghì lấy Cowboy
thiếu điều nghẹt thở, đoạn quay qua nói với mọi người:
— Cái cấp
bậc Trung tá của tao ngày hôm nay là của nó. Cái chức vụ Chỉ huy trưởng Cố vấn
Quân Đoàn 1 sắp tới của tao cũng là của nó.
— Cowboy
đứng như trời trồng, ngẩn ngơ.
— Người
Mỹ ăn vận dân sự chính là Trung tá Granham. Cùng ngày, tại buổi lễ nhận chức vụ
mới, vị Trung tá kể lại câu chuyện trước sự hiện diện của các chiến hữu tham dự.
— “Ngày
đó, trung tá Granham còn là đại úy, nhận nhiệm vụ truyền tin nhập với toán
Cowboy. Xảy ra đụng địch, phía đối phương quăng lựu đạn chày. Máu toé đầy mặt
viên đại úy khiến hắn tối tăm mặt mũi không mở mắt được, giãy giụa, thét la đau
đớn.
— Cowboy
lúc đó đang ẩn nấp sát bên cạnh viên đại úy, cảm thấy bất ổn, không còn giải
pháp nào khác hơn, chỉ còn cách chĩa họng súng ngang mang tai hắn ta, rít khẽ:
— Mày
không im miệng là tao cho mày đi luôn.
— Tao
trúng rồi. Làm sao đây?
— Để tao
tính.
Từng được
huấn luyện cứu thương, Cowboy mở vội ba-lô sơ cứu tại chỗ: băng bó tạm, tiêm
ngay morphin để viên đại úy bớt rên rỉ. Viên đại úy vẫn không thể mở mắt được
nên Cowboy quyết định chớp nhoáng: lệnh cho toán ở lại cự địch và đồng thời bắn
yểm trợ để anh cõng viên đại úy chạy đến nơi trực thăng cứu thương sẽ đáp. Với
khuôn mặt nhòe nhoẹt máu và bệt bùn đất, viên đại úy nằm đó nghe rõ mồn một chỉ
thị của Cowboy, gượng bò lên bám vai anh, trút bỏ ba-lô cá nhân để giảm trọng
lượng, gắng nương theo để Cowboy cõng chạy men theo sườn đồi.
Những tưởng
rằng chiến tranh khiến con người ta trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn nhưng kỳ thực
chính chiến tranh tạo ra lắm thứ hết sức đời thường. Cái đời thường ở đây chính
là tình chiến hữu sống chết có nhau.
Hai tiếng
đồng hồ có dư, tính từ lúc Cowboy cõng chạy người chiến hữu bị thương trên lưng
và miệng liên tục thốt ra lời khích lệ trong giọng nói hổn hển, ngắt quãng: “Mày
ráng chút nữa. Đừng lo. Có tao bên mày đây.” Khoảng cách đến bãi đáp không
quá xa nhưng sức nặng quá tải khiến Cowboy phải nghiến răng, thở hồng hộc lên đồi
xuống dốc. Vùng biên giới Lào tựa chảo đang rang cát. Nóng thiêu. Khô bỏng. Mồ
hôi tuôn ròng mờ mắt. Hai thân người đổ chập thành một bóng dài trong một đôi
chân đang rảo chạy. Đôi chân vững chãi ấy có vài lần chậm lại để liên lạc truyền
tin hay quan sát tình hình, phán đoán, và quyết định hành động ứng biến. Chỉ
khi nghe tiếng cánh quạt của trực thăng nặng nề vang dội trên đầu thì Cowboy biết
mình đã tròn trách nhiệm với chiến hữu.
Biệt
Kích Lôi Hổ đa số là dân tứ xứ ở Việt Nam, trai tráng độc thân, vào sinh ra tử
cùng nhau biết bao lần, lúc bình thường cũng như lúc lâm nguy họ đều chia sẻ hy
sinh cho nhau. Họ không có gì để mất mát hay đổi chác nên cũng chẳng cần bon
chen, so đo tính toán. Họ không thích bị ai ăn hiếp và quan niệm cái quý giá nhất
là mạng sống con người. Dẫu chỉ còn một chiến hữu sống sót thì cũng phải bằng mọi
giá đưa người chiến hữu ấy trở về cho bằng được. Đối với Biệt Kích Lôi Hổ, tình
huynh đệ chi binh ngấm vào xương vào máu họ rồi. Cowboy cho rằng điều mình làm
không là ngoại lệ.
Thành thử
ra, sau khi viên đại úy bị thương được tải lên trực thăng an toàn, Cowboy quay
trở lại nhập toán cùng anh em tiếp tục thi hành nhiệm vụ. Cowboy quên phắt câu
chuyện.
Ngược lại,
những giờ phút sống chết bên nhau thấm đẫm tình chiến hữu lại không dễ phai mờ
trong tâm trí của viên đại úy ngày đó tức viên trung tá khi gặp lại Cowboy. Lời
kết ông gửi đến các chiến hữu đang lắng nghe câu chuyện là: “Tôi tuy là
người Mỹ nhưng rất ngưỡng mộ Biệt Kích Việt. Họ liều lĩnh, bất khuất, và nhất
là không bỏ rơi chiến hữu. Cowboy lúc đó đã có thể bỏ rơi tôi vì tôi rên la làm
cho đối phương dễ truy kích và có thể bắn chết anh ấy nhưng Cowboy đã không
màng đến mạng sống của mình mà còn tìm cách an ủi cho tôi giảm đau đớn. Từ trước
đến nay tôi chưa phục ai mà chỉ phục Cowboy. Một Cowboy thực sự.”
— Lần
“sa thải” đó đã cất nhắc Cowboy lên chức vụ đại đội trưởng Đại đội An ninh Cố vấn
Quân Đoàn 1.
— Các lời
khâm phục từ Biệt Kích Mỹ được miệng truyền miệng nhanh chóng. Thêm nhiều câu
chuyện được kể về những lần đụng địch khác mà Cowboy cùng vào sinh ra tử với
anh em và sự ứng biến tài tình của Cowboy đã cứu nguy cho cả toán. Biệt danh
“Cowboy” là một dấu ấn vinh dự trong cuộc đời cầm súng của ông.
Nhân khi
tôi nhắc hỏi về chuyện cái chân bị cưa bỏ sau lần đụng địch, Cowboy bồi hồi:
— “Cháu
có biết không, sở dĩ chú nhớ quá rõ ngày 19 tháng 8 năm 1971 vì đó là ngày Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố trong bài diễn văn của ông rằng “Ai đứng trên
giòng sông Tchepone (Lào) thì người đó thắng cuộc.” Điều trùng hợp là ngày
đó toán thám sát của chú đang ở trên giòng sông Tchepone. Chú bị thương ở chân
và được trực thăng tải về trị thương tại Bệnh viện 95 của Mỹ ở Đà Nẵng. Không
may là cái hố mà anh em kéo chú ra khỏi là một hố bom nên chân chú bị nhiễm
trùng gây sốt cao. Các bác sĩ hội chẩn và báo cho chú biết phải cưa khúc chân
đó bằng không sẽ bị hoại tử mà chết.
— Xem ra
chú không còn lựa chọn nào khác ngoài giải pháp cưa bỏ chân?
— Không
phải vậy cháu ạ. Cháu nghĩ xem, chú sinh ra để chiến đấu mà bây giờ cắt bỏ chân
thì chi bằng để chú chết sướng hơn.
Ông trầm
ngâm giây lát và nói tiếp:
— Cháu
biết mà, bác sĩ Mỹ chỉ thực hiện ca mổ với sự đồng ý của bệnh nhân, cụ thể là
ký vào giấy tờ hoặc có nhân chứng. Y sĩ đoàn thấy xem ra khó thuyết phục để chú
đồng ý cưa bỏ chân nên họ ngầm vận động các toán Biệt Kích Mỹ-Việt kéo đông đến
bệnh viện vòng trong vòng ngoài nhất mực khuyên chú cưa bỏ chân để anh em còn
thấy mặt.
Rồi ông
chùng giọng:
— Hỏi
cháu rằng chú còn biết nói gì nữa? Anh em sống chết hết lòng với nhau là vậy.
Thời gian trị thương tưởng nhanh nhưng hóa ra lâu quá, mãi đến tháng tư năm sau
chú mới được xuất viện. Chẳng phải vì bác sĩ Mỹ không giỏi đâu, ngược lại đằng
khác, nhưng là do chú: đang ngồi xe lăn mà thấy anh em đến thăm là chú đứng bật
dậy đi hiên ngang về phía họ định tay bắt mặt mừng nhưng quên rằng mình đã cụt
chân. Nào phải một lần, ít nhất ba lần như thế nên đầu xương rớt ra, phải làm lại…
— Ký ức
về thời cầm súng hiện hữu trong tim, trong óc Cowboy mỗi ngày, kể bao lâu mới hết!
Orchid
Thanh Lê
Cách đây
hơn 5 năm, Cowboy được vinh danh là hội viên danh dự của Hiệp Hội Lực Lượng Đặc
Biệt Mỹ bao gồm các hội viên từ các cuộc chiến tranh Thế giới thứ hai, Triều
Tiên, Việt Nam, Grenada, Somalia, vùng Balkans, Afghanistan, Iraq, vân vân. Dịp
đó, một người Mỹ ăn vận dân sự sải bước đến vỗ vai thân mật hỏi
Cowboy “Mày nhận ra tao không hả Cowboy? Tụi mình cùng là toán viên tại Tiền
Doanh 1 đây mà.” Người Mỹ dân sự chính là cựu thiếu tướng Eldon A.
Bargewell. Thấy Cowboy gục gặc đầu, ông tướng cười sảng khoái “Mày chịu nhận
tao rồi vậy tụi mình chụp một tấm ảnh làm kỷ niệm đi, Cowboy.”
— Nhân
thể, tôi liên tưởng đến một vị tướng khác, chuẩn tướng Terry Tucker, thời còn tại
nhiệm với chức vụ chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Nhiệm Hỗn Hợp (Joint Task Force
Full Accounting – JTFFA) vào cuối thập niên 90, đã hết lời ca ngợi khi bất ngờ
biết được Cowboy tuy đã mất một chân mà vẫn tình nguyện sang Lào để hỗ trợ đội
công tác tìm kiếm hài cốt của các biệt kích Mỹ trong nhiều năm liền. Nghe tôi
nhắc nhớ, Cowboy chia sẻ với tôi rằng ông chỉ đơn thuần muốn đem đến một sự an ủi
cho hương hồn của các Biệt Kích Mỹ-Việt, các chiến sĩ Thần Phong còn bơ vơ
trong rừng núi bạt ngàn của xứ người, chưa được trở về đất mẹ.
— Góp
công sức tìm kiếm chiến hữu mất tích đã đành, mà đối với chiến hữu đã hy sinh,
Cowboy cũng đậm tình. Tôi biết điều này qua lời kể của Martha Cryan, em gái của
Biệt Kích Mỹ Kenneth Cryan. Khi được báo tin về cái chết của anh trai, Martha
quá đỗi buồn đau, chỉ ít lâu sau cùng gia đình chuyển sang Châu Âu sinh sống
trong suốt 24 năm. Khi trở lại Mỹ, điều đầu tiên cô làm là đến thăm anh trai
Kenneth tại Nghĩa Trang Quốc Gia Golden Gate ở Bruno, California, đúng vào Ngày
Tưởng Niệm Chiến Sĩ Trận Vong. Bất chợt thấy một cựu chiến binh Châu Á trong
quân phục và bê-rê xanh đang quì trước mộ của anh trai mình, cô lặng người xúc
động. Hỏi ra mới biết rằng Cowboy là chiến hữu của Kenneth. Nhiều năm trước đó
khi thông tin về những hoạt động của Biệt Kích Mỹ-Việt ở lãnh thổ Lào chưa được
bạch hóa, Martha nào biết gì hơn ngoài sự thông báo về cái chết của Kenneth. Giờ
đây cô được nhận niềm an ủi lớn lao là anh trai cô đã từng có chiến hữu đồng
cam cộng khổ nhớ đến mình và bất kể dù còn sống hay đã chết, tình đồng đội của
họ bất diệt.
Đối với
các chiến hữu còn sống vất vưởng bên quê nhà, Cowboy còn trăn trở hơn:
— Biệt
Kích Lôi Hổ được tuyển mộ để thế thân cho lính Mỹ thành thử ra không có số quân
của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà chỉ có mã hoặc ẩn số do Đơn Vị Nghiên Cứu và
Quan Sát cấp phát. Tiếc thay, các toán thám báo Biệt Kích Lôi Hổ trên danh
nghĩa chỉ được liệt kê là Đơn Vị Nghiên Cứu và Quan Sát thuộc Bộ Chỉ Huy Trợ
Giúp Quân Sự Hoa Kỳ ở Việt Nam mà không được xem là một đơn vị tác chiến.
— Nếu
hoàn tất nhiệm vụ, thì sống. Dẫu thương tích đầy mình hoặc thậm chí hy sinh
tính mạng, thì không huy chương nào được trao tặng hoặc truy tặng. Bị lộ, bị bắt
thì họ không được hưởng chút quyền lợi nào từ qui chế tù binh Genèva; ngay cả
các cơ quan nhân đạo quốc tế như Hội Hồng Thập Tự, Hội Ân Xá Quốc Tế cũng không
biết cách nào để can thiệp.
Orchid Thanh Lê
**
Đăng nhận xét