“Tiếng Việt từ TK 17: tay mặt/hữu - tay tả/trái – tay
đăm/chiêu” (phần 31)Nguyễn Cung Thông
Phần này bàn về các tên gọi tay mặt, tay hữu ... tay tả, tay trái vào
thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được
dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Ngoài ra, khái
niệm mở rộng về bên mặt (> bên phải) so với bên trái cũng cho thấy sự tương
đồng giữa các nền văn hóa khác nhau Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn:
(a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng
An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài
1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết
tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), ĐNA (Đông
Nam Á), LM (Linh Mục), CG (Công Giáo), PG (Phật Giáo), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng
100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776),
LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067),
TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận
Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự
Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang
Hi/1716), P (tiếng Pháp), A (tiếng Anh), L (tiếng La Tinh). Các bản Nôm của LM
Maiorica là TCTGKM (Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông), CTTr (bộ Các Thánh Truyện),
ĐCGS (bộ Đức Chúa Giê Su). Trang/cột/tờ của VBL được trích lại từ bản La Tinh để
người đọc tiện tra cứu thêm. Tương quan Hán Việt ghi nhận trong bài không nhất
thiết khẳng định nguồn gốc của các từ liên hệ (có gốc Việt hay Hán)...
1.
Tay hữu, tay mặt - tay tả, tay trái
1.1
VBL ghi rõ ràng các cách dùng tay mặt, tay hữu và tay trái, tay tả và bên
hữu, bên tả trong các trang 32, 715, 711, 802, 341 - để ý là thời này không
dùng tay phải hay bên phải:
VBL trang 715
VBL trang 106 còn ghi một cách dùng đáng chú ý là chiêu (sinister/L - bên
trái, nhưng không ghi cách dùng của chiêu như tay chiêu); không thấy VBL ghi
đăm (bên mặt, dextra/L):
VBL trang 106
VBL trang ghi (tay) mặt là direita (tiếng
Bồ) và có nguồn gốc là tiếng La Tinh directus (thẳng, ngay - cho ra các dạng tiếng
Anh/Pháp direct, direction và liên hệ đến droite/P). Nét nghĩa mở rộng từ thẳng/ngay
thành ra tay/bên phải và đúng (tốt) là hiện tượng khá phổ biến trong ngôn ngữ,
phần sau bài viết sẽ ghi lại vài trường hợp thường gặp về khái niệm này.
1.2 PGTN cũng ghi cách dùng tay mặt,
tay trái:"giữa hai đứa kẻ trộm, một ở
bên tay mặt, một về tay trái, mà đứa ở bên tay trái thì mắng rủa ... mà kẻ lành
thì cho ở bên tay mặt đức Chúa Jesu phán xét, lại bắt kẻ dữ ở bên tay trái ...
trở mặt rất vui, rất tốt cùng kẻ lành ở bên tay mặt mà nói ra điều rất lành"
trang 225, 272, 273. Các ghi nhận trên cho thấy tay phải thường chỉ người tốt,
hay tượng trưng cho quyền lực khác với biểu tượng của tay trái.
1.3 Bản Nôm TCTGKM cũng dùng tay mặt
một lần so với tay hữu 7 lần và tả 3 lần, phản ánh phần nào ảnh hưởng cách dùng
HV khi kí âm (viết) chữ Nôm:"vì trước
lấy tay mặt đặt lên trán ... Đoạn trở sang bên tay tả, sau hết trở lại bên tay
hữu mà rằng Phi Ri Tô Sang Tô" trang 22 (sđd). LM Maiorica có một cách giải thích khá thú vị khi người
ta đánh cá không được kết quả mong muốn:"bởi
chẳng đánh lưới bên tay mặt thì chẳng được cá. Ấy là kẻ có ý trái mà làm việc
gì thì chớ trông lên thiên đàng, vì sự ấy một phạt mà chớ" trang 48 ‘ĐCGS
quyển chi cửu’. Khi lướt qua các tài liệu bằng chữ Nôm (td. TCTGKM, CTTr,
ĐCGS) của LM Maiorica để ghi nhận các cách dùng trên thì người viết nhận thấy mặt/trái
xuất hiện nhiều lần như hữu/tả (12 lần dùng mặt và trái so với 12 lần dùng hữu
và tả). Điều này đáng chú ý khi PGTN chỉ dùng tay mặt/trái cho chữ quốc ngữ (chữ
La Tinh) dù trong VBL ghi rõ cả hai cách dùng mặt/trái và hữu/tả. Điều này cho
thấy một khả năng là LM de Rhodes hay cộng sự viên không quan tâm (và/hay không
biết nhiều chữ Nho)
khác với trường hợp của LM Maiorica (qua các bản Nôm, dù
có sự cộng tác của một số nhà nho bản địa). Thí dụ như mục hữu, VBL gộp
chung các cách dùng tay hữu, bên hữu, bạn hữu làm một - thật ra hữu (bên phải)
viết chữ Nho 右 là khác với hữu (bạn) viết là 友.
VBL
trang 341
Cũng nên nhắc lại ở đây về truyền thống văn hóa Tây phương, đặc biệt là
cách dùng tay phải hay bên phải. Tay phải (right hand/A)
xuất hiện trong Kinh Thánh 166 lần, thường dùng
làm biểu tượng của sự tốt lành, quyền uy và công bằng (xem mục 1.2). Vua chúa
ngày xưa cũng thường dùng tay phải để ‘làm dấu phúc lành’ cho con cháu, ngay cả bây giờ
khi tuyên thệ nhậm chức hay ra trước tòa án thì vẫn phải dùng ra dấu hiệu bằng
tay phải ...v.v... Sách Truyền Đạo/Giảng Viên (Ecclesiastes) 10:2 ghi "Trái tim của người khôn ở bên hữu; còn trái
tim của kẻ dại ở bên tả": đây là một ẩn dụ cho thấy bên phải là hướng
tốt lành cho ‘kẻ khôn’. Ngay từ thời đại Trước Công Nguyên, truyền thống chuộng "tay phải" đã khá rõ
nét. Tiếng Anh right (bên phải, công
bằng, quyền) có gốc là tiếng Anh cổ (Old English) riht là công bằng, đúng, ngay
thẳng (lành) - vào khoảng giữa TK 13 mới dùng để chỉ tay/bên phải - so với các
tiếng Hà Lan, tiếng Đức recht cũng qua một quá trình đổi nghĩa tương tự. Tiếng
Pháp droite (bên phải) có gốc La
Tinh directus nghĩa là thẳng (đường/hàng thẳng), sau mới dùng để chỉ tay phải. So
sánh với sinistra/L có nghĩa là tay
trái, nhập vào các tiếng Anh (sinister), Pháp (sinistre) với nghĩa mở rộng và tiêu cực là hung ác,
nham hiểm (ác ý) ... Để ý nghĩa liên tưởng này cũng giống như tiếng Việt:
(bên) trái ~ (sai) trái, trái (ngược).
Tự điển Bồ Việt - bảng
chép tay Borg.tonch.23
Bảng chép tay VBL
(tự
điển Bồ Việt) vào cuối TK 18, đầu TK 19: đã có
cách viết ‘chuẩn hơn’ so với thời VBL (hữu so với hỡu, trái so với tlái). Thứ tự
tay hữu và tay tả trước tay mặt, tay trái cho thấy Đàng Ngoài (các tác giả của
bảng chép tay) vẫn chuộng cách dùng HV hơn.
2. Đăm chiêu
2.1 Đăm (bên phải) xuất hiện trong Phật
Thuyết Đại Báo Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh, 24a:
埋招梗吒 埋梗媄
Vai chiêu gánh cha, vai đăm gánh mẹ
Hay trong các tác phẩm chữ Nôm của Nguyễn Trãi (Quốc Âm Thi Tập) - Ức Trai
46a:
荣華饒体客招 貧賤埃羅几 重腰
Vinh hoa nhiều thấy khách đăm chiêu (vây quanh). Bần tiện ai là kẻ trọng
yêu.
Truyền Kỳ Mạn Lục cũng dùng đăm như trong Nam Xương 3a:
几昭庄羅拯𠱤𠸂哭沙 渃𪾺
Kẻ chiêu đăm [hai bên tả hữu] chăng là chẳng [không ai là không] sùi sụt
khóc sa nước mắt.
...v.v... (trích từ Tự điển chữ Nôm dẫn giải, sđd).
Tiếng Mường (Bi) vẫn dùng tăm (~ đăm) chỉ bên phải như "Tiểnh dùng cốc câl đỉ, ti wềl khả thay tăm
là tiểnh" (đến chỗ gốc cây đó, đi về bên tay phải là đến), "Cầm tũa thay tăm, bẳm cơm thay chiêu"
(cầm đũa tay phải, nắm
cơm tay trái) - trích từ ‘Từ điển Mường Việt’ (sđd). Tiếng Khme có ដាំ sdam nghĩa là bên phải (nhưng không có nghĩa là đúng,
ngay thẳng, phải khác với sai/trái). So sánh các từ chỉ bên phải: đăm (tiếng Việt),
dam¹ (Mường, Thanh Hóa), dam¹/tăm (Mường Bi, Hòa Bình, Sơn La, tᵊàːm (Chứt/Rục),
tɐm² (Maleng, Kha Pong), tɐm² (Malieng), tɐ̀m (Chứt, Arem), tɐ̀m² (Chứt/Rục, Chứt/Sách),
tam⁴ (Mang), ʨəm⁵⁵ (Bolyu), təm (Ngeg), tam (Kui), ʔatɔam
(Bru, Katang [Raviang], ʔatəam (Ta'Oi), ʔatəm (Pacoh), ʔatɤm (Katu/Phuong), ʔatɨəm (Katu/An Diem), ʔitɯəm (Katu/Triw), tebm
(Kensiu), satɒm (Semelai), kơtam (Danaw, Theng). Các dữ kiện này cho thấy đăm
có khả năng rất cao là một hiện tượng vùng (gốc Nam Á) khác với các dạng hữu và
mặt.
Đăm có một dạng chữ Nôm cổ là 冘 mà âm HV là dâm 淫, tham khảo bài viết “Tiếng Việt từ TK 17: thợ dào, thợ
rèn, thợ máy ... dộng chúa” (phần 30) về tương quan đ – d, cùng tác giả (NCT). Các
dạng chữ Nôm hậu kỳ phản ánh phụ âm đầu lưỡi đ/tr như 潭 沉(đàm trầm) … Vào thời LM Béhaine
(1771/1773) thì đăm đã được ghi lại, khác với các tài liệu CG của LM de Rhodes
và Maiorica, thí dụ như đăm chiêu là
bên phải và bên trái (dextra et sinistra/L), tay đăm là tay phải (manus dextra/L). LM Taberd (1838) và Theurel
(1877) chép lại y như tự điển Béhaine, đặc biệt là ở Đàng Ngoài LM Theurel có
thêm cách dùng chiêu đăm là khó chịu, buồn rầu, lo lắng. Tục ngữ tiếng Việt có
câu "Chân đăm đá chân chiêu",
cho đến thời LM Génibrel (1898) còn ghi câu nói "tay đăm cầm đũa, tay chiêu cầm chén", phản ánh khuynh hướng dùng đũa bằng tay phải trong xã hội VN.
Hình ảnh dùng đũa thời bé cho đến lớn - trích
từ các tranh vẽ sưu tầm bởi Henri Oger (1908-1909) "Technique du peuple
annamite" - một công trình nghiên cứu văn minh vật chất (nghệ nhân Việt vẽ/viết
chữ Nôm). Nam hay nữ đều dùng tay phải để cầm đũa. Cầm bút viết hay vẽ cũng
dùng tay phải - tham khảo bài viết
"Tại sao ở Nhật người thuận tay trái không được xem là thiên tài?" của
tác giả Kengo Abe (22/6/2017).
2.2 Chiêu (bên trái) từng hiện diện trong
các tài liệu chữ Nôm cổ - xem phần đăm bên trên. Tiếng Mường (Bi) vẫn còn dùng
chiêu chỉ bên trái "Ti tiểnh ngá pa
đi, ủn ngé wềl thay chiêu (đi đến ngã ba đó em rẽ trái)", "thay chiêu tấp niêu chăng pế" (tay
chiêu đập niêu không vỡ) - trích từ ‘Từ điển
Mường Việt’ (sđd). Một dạng chữ Nôm cổ dùng chiêu/kiều HV 招, hay 昭 như
trong
Truyền Kỳ Mạn Lục, Nam Xương 3a
几昭庄羅拯𠱤𠸂哭沙渃𪾺
Kẻ chiêu đăm [bên cạnh] chăng là chẳng [không ai là không] sùi sụt khóc sa
nước mắt.
Chiêu có một dạng chữ Nôm là chiêu HV 招 mà âm trung cổ phục nguyên là *kiau, tương ứng với các ngôn ngữ láng giềng (họ
Môn Khme) như tiếng Kơho kiêu là (bên)
trái, tiếng Bahnar là ngiĕu so với
các tiếng Aslian, Chrau là chiêu. tiếng
Mnong (Central) có dạng cɛːw so với
cièw (Chứt/Rục), tiếng Stieng có dạng giew
so với ʔiaw (Nyaheun), iu (Chăm, phụ âm cuối lưỡi tha hóa để
trở thành thanh hầu), pahngiô/gah-iêu (tiếng
Hrê) …v.v… Các dữ kiện này cho thấy khả năng chiêu hay *kiau
là một hiện tượng vùng (gốc Nam Á) khác với tả HV. Để ý là tiếng Khme có dạng ឆ្វេង /cveɛŋ/ là bên (phía) trái khác với
dạng *kiau. Xem lại các cách đọc chữ
chiêu/*kiêu 招 (thanh mẫu 章 chương vận mẫu 宵 tiêu, bình thanh khai khẩu tam đẳng)
có các cách đọc theo phiên thiết
止遙切 chỉ diêu thiết (TVGT, ĐV, QV, CV)
諸遙切 chư diêu thiết (NT, TTTH)
之遙切,音昭 chi diêu thiết, âm chiêu (TV, VH, LT, CV, TVi)
朱傜翻 chu dao phiên (BH 佩觿)
時饒切 thì nhiêu thiết (TV, VH, LT)
祁堯切,音翹 kì nhiêu thiết, âm kiều (TV, VH, LT, CV, TVi)
TNAV ghi vận bộ 蕭豪 tiêu hào (dương bình)
CV ghi cùng vần/bình thanh 昭 鉊 招 釗 炤 朝 鼂 (chiêu *chiếu trào)
CV ghi cùng vần/bình thanh 韶 㲈 招 佋 昭 詔 苕 (thiều chiêu *chiếu điều/thiều)
CV ghi cùng vần/bình thanh 橋 招 荍 劭 喬 僑 翹 轎 蟜 蹻 嶠 (kiều chiêu *kiệu *kiểu)
時昭切,音韶 thì chiêu thiết, âm thiều (CV, TVi)
職交切,音昭 chức dao thiết, âm chiêu (CTT) - thời CTT giao đọc gần
như jiāo và chiêu đọc gần như zhāo (rất giống nhau)
之笑切,音照 chi tiếu thiết, âm chiếu (KH)
之由切。音周 chi do thiết, âm chu (TVi, KH)
...v.v...
Giọng BK bây giờ là zhāo so với giọng Quảng Đông ziu1 và các giọng Mân Nam
客家话: [沙头角腔] zau1 [客语拼音字汇] zau1 zeu1 [宝安腔] zau1 [客英字典] zhau1 cheu1 [陆丰腔] zhau1 [梅县腔] zhau1 [东莞腔] zau1 [海陆丰腔] zhau1 [台湾四县腔] zeu1 潮州话:ziê1/zio1, ziou1/ziao1, giọng Mân
Nam/Đài Loan chiau/chio, tiếng Nhật shō và tiếng Hàn cho, gyo. Các dạng liên hệ
đến chiêu (trái, không thuận, ngược) là xiêu (tương quan ch-x như chen-xen, chẻ-xẻ, chung quanh -
xung quanh ...), chéo, tréo, xéo, xẹo (tương ứng với cách đọc chiếu của
招 bên trên). Nhóm từ cùng
liên hệ này cho thấy chiêu đã hiện diện trong tiếng Việt từ rất lâu đời.
3.
Vài cách giải thích khác về 'tay chiêu' và ‘tay mặt’
Các học giả trong hội Khai Trí Tiến Đức/KTTĐ (vào đầu thập
niên 1930) đã đề nghị một cách giải thích khác về nguồn gốc cụm danh từ tay chiêu dựa vào cách dùng HV chiêu
mục:
Việt Nam Tự Điển trang 127 (sđd)
LM Gustave Hue (sđd) còn ghi cụm danh từ
"tam chiêu" là ba bàn thờ ông
bà tổ tiên ở bên tay trái và các cách dùng tay
chiêu, chân chiêu, của chiêu,
đăm chiêu.
3.1
Mục/mặc và
mặt (bên/tay mặt)
Truyền thống thờ cúng tổ tiên của dân Việt
đã có từ lâu và có thể coi như là một tín ngưỡng dân tộc (đạo ông bà). Từ đó
bàn thờ tổ tiên trở thành một thành phần của nhà ở, nơi mà hoạt động cúng giỗ rất
trang trọng xẩy ra theo định kỳ. Thành ra, các cụ trong hội KTTĐ cũng có lý phần
nào khi dựa vào cách trình bày bàn thờ tổ tiên để giải thích cách dùng tay
chiêu. Để hiểu rõ hơn cách nhìn này, hãy tìm hiểu các danh từ HV đặc biệt dùng
để chỉ bàn thờ tổ tiên thời trước. Xem lại chữ mục/mặc 穆 được ghi nhận trong giải thích trên, chữ
này (thanh mẫu minh 明
vận mẫu ốc 屋
nhập thanh, khai khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết
穆音默 mục âm mặc (theo Trương Yến 張晏, thời Đông Hán)
莫六切
mạc lục thiết (QV, TV, TTTH, TVi)
莫卜切,音目
mạc bốc thiết, âm mục (TVGT, NT, CV, CTT) CV ghi âm mục - VBL ghi thêm âm mộc
(trang 328).
通作繆
thông tác mâu (Lễ Kí, Đại Truyện)
TNAV ghi 入聲作去聲
nhập thanh tác khứ thanh
密北切 mật bắc thiết (CV) - đây là cách đọc cổ mặc của mục, CV trích Đông
Phương Sóc Truyện có ghi âm mặc.
莫筆切
mạc bút thiết (KH) ...v.v...
Giọng BK bây giờ là mù so với giọng Quảng
Đông muk6 và các giọng Mân Nam 客家话:[客英字典]
muk8 [海陆丰腔]
muk8 [梅县腔]
muk8 [台湾四县腔]
muk8 [客语拼音字汇]
mug6 [陆丰腔]
muk7 [东莞腔]
muk8 [宝安腔]
muk8, Triều Châu mog8, tiếng Nhật moku và tiếng Hàn mok.
Để ý một nét nghĩa cổ của mặc/mục là 古代宗廟次序: 父居左為“昭”,子居為“穆” cổ đại tông miếu thứ tự phụ cư tả vi“chiêu”, tử cư hữu vi“ mục”
- tạm dịch/NCT theo thứ tự lễ nghi tông miếu thời cổ thì cha thờ ở bên trái hay
chiêu (đời thứ nhất) còn con thờ ở bên phải hay mặc/mục (đời thứ nhì). Cách
dùng chiêu mục đã có từ thời Lễ Kí (một trong Ngũ Kinh của Khổng Tử) nói lên
phép tắc tế tự: đại khái là thủy tổ ở giữa, bên phải (mặc/mục) và bên trái
(chiêu) thờ theo thứ tự gia phả. Chữ mục đã hiện diện trong VBL trong mục hòa
và hạ (thượng hòa hạ mục/mộc,
trang 328) cho thấy mức phổ thông của chữ này, thành ra không ngạc nhiên khi một
dạng khác của mục/mộc là mặt (chỉ bên mặt)
đã từng có mặt lâu đời hơn. Như vậy thì mặt và mặc/mục có liên hệ gì không? Ngược
dòng thời gian, chữ Nôm cũng phản ánh phần nào khả năng lẫn lộn
giữa các phụ âm cuối -c và -t như buộc = bộc 僕
hay bột 勃, mụt = mục 目 (ĐNQATV, Đại Tự Điển Chữ Nôm/Vũ Văn
Kính/VVK), chợt = trực 直
(Dương Từ Hà Mậu/DTHM: Hà Năng chợt thấy hãi kinh), dạt/giạt = bộ thủ + dặc 弋 (ĐNQATV, VVK), dệt = bộ mịch + diệc 亦 (DTHM, VVK), đất = bộ thổ + đắc 得 (Tự Đức Thánh Chế tự học giải nghĩa ca),
lượt = lược 掠
(xâm lược), thút = thúc 束
(khóc thút thít, ĐNQATV, VVK), Đắc (Đắt) Kỷ thường nghe hơn là Đát Kỷ 妲己 (Đát theo Quảng Vận đọc là đương
cát thiết, âm đát 當割切,音怛)
- để ý thành phần hài thanh 旦
có thể đọc là đát hay đán …v.v… Một số âm HV đánh chú ý như (a) hạt (hột) là hặc/hạch
HV 核 Hạch 核 có các cách đọc là 下革切 hạ cách thiết (âm hạch 覈) (Đường Vận, Tập Vận), hay 胡德切 hồ đức thiết, âm hặc 劾; so với các giọng địa phương như Quảng
Đông, Hẹ có khuynh hướng đổi phụ âm cuối -c (-ch) thành -t cũng như tiếng Việt
hạt hay hột (b) bát còn đọc là bạc 潑
Bát là âm Hán trung cổ: phổ mạt 末
thiết (Ngọc Thiên), phổ hoạt thiết 普活切
(Long Kham Thủ Giám, Tập Vận); nhưng sau này còn đọc là bạc: bàng các thiết, âm
bạc 傍各切,音泊
(Vận Bổ) - bạt là nước vọt ra, mở rộng nghĩa trong cách dùng hoạt bát 活潑(c) cách 革
(như cách chức) hay cách 格
(bỏ đi) có thể liên hệ đến cất (cất chức, cất đi) (d) quyết 橛 có một dạng âm cổ là *ki̯uət so với cột
và cọc tiếng Việt ...v.v... Do đó không khó giải thích trường hợp mặc/mục 穆 đọc thành mặt. Tóm lại, dựa vào phong
tục thờ cúng tổ tiên và thứ tự sắp xếp trên bàn thờ (td. nam tả nữ hữu), ta có
khả năng giải thích cách dùng tay chiêu (tay trái) và tay mặt (tay *mặc) dựa
vào truyền thống chiêu mục, và cũng phù hợp với nhận xét của các học giả hội
KTTĐ (qua cuốn Việt Nam Tự Điển).
3.2 Trước đây, người viết (NCT) thường nghĩ
đến sự liên hệ của tay mặt và bề/phía mặt, trước mặt: vì tay mặt thường được
dùng nhiều lần (td. số người thuận tay phải
là 90%), tham dự vào nhiều hoạt động nên thường gặp trong vùng không gian trước
mặt. Hướng mặt nhìn tới trước hàm ý đường
thẳng (thẳng tới theo tầm nhìn, không xiêu vẹo, cong vòng) hay vuông vức. Ngay cả right tiếng Anh
có một nét nghĩa cổ đại là thẳng (không cong vòng)/trực tiếp và nét nghĩa tương
ứng là phải lẽ, đúng (thuận theo tiêu chuẩn đạo đức ~ morally correct/A). VBL
dành cả một trang (cột 457-458) để ghi lại cách dùng mở rộng của mặt như rắn
mặt, ra mặt, trở mặt, trước mặt ... Thành ra có khả năng mặt cũng được dùng để
chỉ vùng không gian phẳng phiu ở phía trước kể cả bên (tay) phải. VBL không ghi
dạng đăm cũng như Ngũ Thiên Tự (sđd), Tam Thiên Tự (sđd), đây là dữ kiện đáng
chú ý! Ngũ Thiên Tự trang 124 còn ghi
左 右 ..................... 葻招
Tả hữu ..................... vuông chiêu (trích
Ngũ Thiên Tự, sđd)
Điều này cho thấy tiếng Việt đã từng
dùng vuông (vuông vức, thẳng ngay) để chỉ bên mặt. Vuông tiếng Việt tương ứng với
phương HV 方
mà một dạng âm cổ phục nguyên là *buaŋ (đọc gần như *buông để cho ra dạng vuông
bây giờ < tương quan b-v). Phương HV (hình vuông) cũng có một nét nghĩa cổ
là ngay thẳng, đặc biệt hơn nữa là Tự Vị còn ghi một cách đọc là 密北切,音墨 mật bắc thiết, âm mặc
(so với dạng mặt
tiếng Việt). Một dữ kiện liên hệ đến phương hay *buaŋ là tiếng Mường (Bi) còn
dùng puông nghĩa là cạnh, td. hal puông là hai cạnh, so với muỗng là phương, hướng (môi hóa phụ âm đầu
b-): muỗng tliênh là hướng trên. Các
nghĩa mở rộng của vuông như trên đều đáng quan tâm. Một trường hợp khác là quan
niệm trời tròn đất vuông như VBL đã ghi nhận - xem hình chụp trang 610 - đất
vuông không có nghĩa là đất hình vuông theo kiểu hiểu ngày nay, mà là mặt đất
thẳng/ngay hay không cong vòng (niềm tin trái đất không phải là khối hình cầu
hiện diện ít nhất là đến TK 17 ở Á Châu).
VBL
trang 610
VBL ghi rõ ràng liên hệ trực tiếp giữa
hai dạng phương và vuông - ngoài ra cách nói thiên viên địa phương ~ trời tròn đất vuông hàm ý đất thẳng/phẳng (không ‘cong’ như bầu trời).
Kí tự b trong chính tả tiếng Việt hiện
đại là trong tự điển VBL (xem hình chụp trên), chữ b
đuôi quặp này phản ánh giai đoạn trung gian từ b qua v trong tiếng Việt trung đại.
Ngoài ra tay phải có thể xem là phần nối
dài ra từ trung tâm của cơ thể con người (tim) ra các bộ phận khác như mặt, tay.
Mặt (mũi) còn chỉ phương hướng tổng quát, như mặt trước so với mặt sau, một
hình có sáu mặt ...v.v... So sánh
với tiếng Cùa (Co hay Kor, thuộc họ Môn Khme)
có tiː ɓəː nghĩa là tay phải, và tiː ʔjaw là tay
trái, tiếng Mnong [Rölöm] có cách dùng tiː maː nghĩa là tay mặt - ti: là tay, còn ma: có thể là âm mặt đã tha
hóa
phụ âm cuối -t. Tiếng Mnong có dạng muh
mat nghĩa là mặt. Mat tiếng Cùa
có nghĩa là mặt hay mắt, tiếng Cùa muh
là mũi (tương đồng với tiếng Việt).
mặt/hữu/đăm -
trái/tả/chiêu (TK 17) > phải/trái
(TK 21) … (1)
Tiến
trình (1) cho thấy tiếng Việt đã từng có nhiều cách diễn tả phương hướng (td. chín phương trời, mười phương đất - xem
hình chụp trang 610 VBL) cũng như tay/phía. Tuy
nhiên đến nay thì chỉ còn hai cách dùng chính là tay phải/trái. Đây có thể là
kết quả từ giao lưu văn hóa (td. thầy địa lý, phong thủy, thời Tiên Tần
và các đợt Bắc thuộc) và ngôn ngữ trong quá trình Nam Tiến, cũng như phản ánh phần nào sự
chú trọng vào đóng góp của bàn tay trong nếp sống đời trước tận dụng
rất nhiều sức lực của cơ thể (td. thủ công).
4. Tay ‘phải’ (~ tay mặt) bắt đầu
xuất hiện
Ravier/Dronet (1903, sđd).
Vào đầu
TK 20, cách dùng tay phải bắt đầu xuất hiện như trong tự điển của Ravier và
Dronet "Lexique Franco-Annamite" (mục droite - xem
hình chụp trên, sđd). Đây
là khuynh hướng điều chỉnh lại cách dùng tiếng Việt qua ảnh hưởng của ngữ pháp
Tây phương, cũng như trước đó là loại từ con và cái được dùng để chỉ các sinh vật
hay tĩnh vật. Nên nhắc lại ở đây là tính từ phải vào TK 17 có nghĩa là đúng,
phù hợp với lẽ thường: "Thế gian gọi
là âm phủ thì phải, vì chưng là nơi tối tăm mù mịt. Chớ ngờ dưới âm phủ có buôn
bán, có ruộng nương, cày cấy, như thế gian này đâu … Thật con thảo kính cha mẹ thì
thậm phải" PGTN trang 10, 18. Thậm
phải là rất đúng, rất hợp lý:" "thật con thảo kính cha mẹ thì thậm phải" PGTN trang 18, 21, 27
… "bởi ở kiêu ngạo thì ở nơi rất hèn
ấy, mà lìa chốn thiên đàng xa lắm thì thậm phải… thì nói đến kính người trước hết
thì thậm phải" TCTGKM trang 50, 143 ... Sự xuất hiện muộn màng của
cách dùng tay phải trong tiếng Việt còn phù hợp với vốn từ trong tiếng Mường
(Bi, sđd): phải không có nghĩa là tay/bên phải mà vẫn duy trì các nét nghĩa thời
VBL như phái tù (phải tù ~ bị tù), phái lừa (phải lừa ~ bị lừa), phái dam (phải giam ~ bị giam), phái cám (phải cảm ~ bị cảm), phái tlái (phải trái ~ đúng sai)
...v.v...
Tóm lại,
tiếng Việt trước đây đã có ít nhất ba cách nói mặt/hữu/đăm và trái/tả/chiêu,
phản ánh các giao lưu ngôn ngữ với phương Bắc (tiếng Hán Việt hữu/tả thuộc
họ Hán Tạng) và các
ngôn ngữ láng giềng thuộc họ
Môn Khme và Nam Đảo. Ngoài ra, các cách dùng này cũng cho thấy sự đa dạng của bộ phận thân
thể (td. tay, thủ công) trong hoạt động xã hội và ảnh hưởng đến ngôn ngữ phần
nào. Giao
lưu văn hóa và ngôn ngữ Tây phương trong vòng hai thế kỷ 19 và 20 đã để lại nhiều
vết tích trong tiếng Việt, một số dấu ấn dễ nhận ra như tem, xăng, bơm ...
Nhưng một số vết tích tìm ẩn sâu xa trong ngữ pháp và tư duy nên khó nhận ra như
cách dùng loại từ con và cái, bên mặt/đăm/hữu đã thay đổi để chỉ
dùng một dạng bên phải mà thôi, phép ẩn
dụ dùng tay phải để chỉ người thân
tín của mình hay phe/cánh hữu để chỉ một xu hướng chính trị …v.v… Tuy các ngôn
ngữ trong bài này không liên hệ với nhau - như tiếng Việt so với tiếng Anh,
Pháp - nhưng các nét nghĩa hầu như đều mang tính chất tương đồng: phải dùng chỉ
tay phải và lẽ đúng (thuận) của đa số và trái chỉ tay/bên trái và sai với lẽ phải
(khác với đa số, ‘lẽ phải của thiểu số’). Có lẽ đây là dấu ấn của sự giao thoa
tinh tế giữa ngôn ngữ, văn hóa và quá trình hình thành con người (td. ADN và di
truyền).
Đa số của tập thể
còn có một hệ luận quan trọng là dẫn đến quyền uy hay sức mạnh (phải, tay phải)
trong xã hội. Hi vọng bài viết nhỏ này là động lực cho người đọc cảm thấy thích
thú và tìm hiểu sâu xa hơn về ngôn ngữ và văn hóa truyền thống của người Việt.
5.
Tài liệu tham khảo chính
1) Pigneau de Béhaine (1772/1773) - Bá Đa Lộc Bỉ Nhu "Dictionarium
Annamitico-Latinum" Dịch và giới thiệu bởi Nguyễn Khắc Xuyên, NXB Trẻ
(Thành Phố HCM - 1999). (1774/Quảng
Đông à
Địa phận Đàng Trong tái bản năm 1837) "Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ" 聖教要理國語
viết bằng chữ Nôm theo dạng Hỏi-Thưa. Y Doãn Ninh/Lê Bảo Tịnh phiên âm và chú
giải, La Vang Tùng Thư xuất bản (Mỹ).
2) Phillipe Bỉnh (1822) "Sách Sổ
Sang Chép Các Việc" NXB Viện Đại Học Đà Lạt, 1968. (khoảng
1794-1802) "Nhật Trình Kim Thư Khất Chính Chúa Giáo" - xem bài viết
trên mạng như https://www.scribd.com/document/118931952/Nh%E1%BA%ADt-Trinh-Kim-Th%C6%B0-Kh%E1%BA%A5t-Chinh-Chua-Giao-Philiphe-B%E1%BB%89nh
… Các sách viết tay bằng chữ quốc ngữ, Nôm, Bồ Đào Nha khác như Sách Các Kinh,
Các Truyện Thánh và phép lạ, Các Kinh Thường Đọc (Nôm) và thường không có trang
đầu với đầu đề cuốn sách (title) rõ ràng - có thể đọc từ thư viện Vatican với
mã số từ Borg.tonch.1 đến Borg.tonch.41
3) Đỗ Quang Chính (1972) “Lịch sử chữ quốc
ngữ 1620-1659” NXB Đuốc Sáng (Sài
Gòn).
4) Đoàn Trung Còn (1959) "Tam Thiên
Tự" Trí Đức Tòng Thư in kỳ đầu (hai quyển), NXB Văn Hóa Thông Tin tái bản
lần thứ năm có sửa chữa và bổ sung (Thành Phố HCM, 2003).
5) Nguyễn Quang Hồng (2015) "Tự điển
chữ Nôm dẫn giải" Tập 1 và 2 - NXB Khoa Học Xã Hội/Hội Bảo Tồn Di Sản Chữ
Nôm (Hà Nội).
6) Gustave Hue (1937) "Dictionnaire
annamite-chinois-français" Imprimerie Trung-hoà - NXB Khai Trí (Sài Gòn)
in lại năm 1971 theo bản gốc năm 1937.
7) Nguyễn Văn Khang (Chủ biên), Bùi Chỉ,
Hoàng Văn Hành (2002) "Từ điển Mường Việt" NXB Văn Hóa Dân Tộc (Hà Nội).
8) Vũ Văn Kính/Khổng Đức (2002)
"Ngũ Thiên Tự" NXB Văn Hóa Thông Tin (Thành Phố HCM).
9) Vương Lộc (2002) "Từ điển từ cổ"
NXB Đà Nẵng - Trung Tâm Từ Điển Học (Hà Nội).
10) Giêrônimô Maiorica (thế kỷ XVII)
"Mùa Ăn Chay Cả", "Thiên Chúa Thánh Mẫu - Quyển thượng",
"Thiên Chúa Thánh Mẫu - Quyển trung", "Đức Chúa Giê-Su - Quyển
chi cửu & Quyển chi thập", "Thiên Chúa Thánh Giáo Hối Tội
Kinh", “Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông”/TCTGKM, "Kinh Những Ngày Lễ
Phục Sinh - Quyển thứ ba", “Các Thánh Truyện”/CTTr. Sách lưu hành nội bộ
(năm xuất bản 2002/2003, LM Nguyễn Hưng).
11) Chris McManus (2002) "Right
hand left hand. The Origins of Asymmetry in Brains, Bodies, Atoms and
Cultures" NXB Weidenfeld & Nicolson (London, Anh Quốc). Có thể xem bản
dịch ra tiếng Việt "Những Bí Ẩn Của Tay Phải Và Tay Trái" NXB Trẻ ... (2019) “Half a century of handedness
research: Myths, truths; fictions, facts; backwards, but mostly forwards” - có
thể đọc toàn bài trên trang này https://journals.sagepub.com/doi/full/10.1177/2398212818820513
...v.v...
12) Hoàng Thị Ngọ (1999) "Chữ Nôm
và tiếng Việt qua bản giải âm Phật Thuyết Đại Báo Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh"
NXB Khoa Học Xã Hội (Hà Nội). (2016)
"Từ điển song ngữ Hán Việt: Chỉ nam Ngọc âm giải nghĩa" khảo cứu,
phiên âm, chú giải/Hoàng Thị Ngọ - NXB Vă Học (Hà Nội).
13) Henri Oger (1908/1909) “Technique du
peuple annamite” có thể xem trên mạng như trang này chẳng hạn http://ndclnh-mytho-usa.org/KhoSachCu/Technique%20du%20Peuple%20Annamite%20(Henri%20Oger)%201909.pdf
…v.v…
14) H. Ravier và
J.B. Dronet (1903) "Lexique Franco-Annamite" Imprimerie de la mission
(Kẻ Sở).
15) Alexandre de Rhodes (1651)
"Phép Giảng Tám Ngày" - Tủ Sách Đại Kết in lại từ Tinh Việt Văn Đoàn
(1961 - Sài Gòn) với phần giới thiệu của tác giả Nguyễn Khắc Xuyên. (1651) “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et
Latinum” thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La; bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân
Việt, Đỗ Quang Chính - NXB Khoa Học Xã Hội, Thành Phố HCM (1991). “Tường Trình về Đàng Trong 1645” bản
dịch của Hồng Nhuệ, NXB Ánh Sáng Publishing, Escondido (California/Mỹ, 1994?). "Lịch
sử Vương Quốc Đàng Ngoài từ 1627 tới năm 1646" dịch giả Nguyễn Khắc Xuyên
- Tủ sách Đại Kết, Thành phố HCM (1994).
16) Nguyễn Ngọc San/Đinh Văn Thiện
(2001) "Từ điển từ Việt cổ" NXB Văn Hóa Thông Tin (Hà Nội).
17) Jean Louis Taberd (1838) - tên Việt
là cố Từ - "Dictionarium Annamitico-Latinum" Serampore (Bengale).
18) Bùi Khánh Thế (Chủ biên)/Phú Trạm,
Quảng Đại Cẩn (1996) "Từ Điển Việt Chăm" NXB Khoa Học Xã Hội - Trung
Tâm nghiên cứu Việt Nam - Đông Nam Á (Thành Phố HCM).
19) Nguyễn
Cung Thông (2019) “Tiếng Việt thời LM de Rhodes – cách gọi ngày tháng/thời gian
(phần 6)” có thể tham khảo toàn bài trên trang này chẳng hạn https://nghiencuulichsu.com/2018/06/22/tieng-viet-thoi-lm-de-rhodes-cach-goi-ngay-thang-thoi-gian-phan-6
/ …v.v… (2020) “Tiếng Việt thời LM de Rhodes – cách gọi ngày tháng/thời gian
(phần 6A)” có thể tham khảo toàn bài trên trang này chẳng hạn. http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tieng-viet-tu-thoi-lm-de-rhodes-cc-cch-dng-cha-nhatcha-tucha-nhthin-cha-phan-6a/
…v.v… (2021) "Tiếng Việt từ thế kỷ 17 - từ Luận Phép Học đến Khoa Học"
(phần 27) - có thể đọc toàn bài trên trang này chẳng hạn http://conggiao.info/tieng-viet-tu-the-ki-17---tu-luan-phep-hoc-den-khoa-hoc-phan-27-d-59158
...v.v...
20) Nhiều
tác giả (1992) "Tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc phía Nam" NXB Khoa
Học Xã Hội (Hà Nội).
21) Pierre-Gabriel
Vallot (1898) "Dictionnaire franco-tonkinois illustré" NXB F.H.
Schneider (Hà Nội). (1905) "Grammaire Annamite à
l’Usage Des Français de l’Annam Et Du Tonkin" Imprimeur-Éditeur F. H.
Schneider, HaNoi
22) Hoàng Xuân Việt (2006) "Tìm hiểu lịch sử chữ quốc ngữ" NXB
Văn Hóa Thông Tin (Hà Nội).
Nghiên
cứu ngôn ngữ độc lập ở Melbourne (Úc) – email nguyencungthong@yahoo.com
Các
tác giả rành Nôm và Nho sau này như LM Béhaine/1772/1773 ghi hai mục hữu khác biệt (hữu/bạn 友 và hữu/bên phải 右), còn LM Taberd/1838
ghi ba mục khác nhau cho hữu/bạn, hữu/bên
phải và thêm hữu/có 有.
Trích
từ bài viết https://vnexpress.net/truyen-thong-tong-thong-my-dung-kinh-thanh-trong-le-nham-chuc-4221584.html
. Thống kê từ một tác giả khác cho thấy ít nhất 132 lần "tay phải"
(at least 132 times) hiện diện trong Thánh kinh, td. tham khảo bài viết này chẳng
hạn https://www.heholdsmyrighthand.com/p/why-right-hand.html#:~:text=As%20I%20began%20doing%20some,for%20the%20%E2%80%9Cright%20hand.%E2%80%9D.
Trong khi đó tay trái xuất hiện 25 lần trong Thánh kinh với nghĩa tiêu cực -
tham khảo bài viết https://www.rroij.com/open-access/left-handedness-the-bible-and-the-quran-implications-for-parentsand-teachers-.php?aid=85407
…v.v…
Có
nhiều bản dịch từ tiếng Do Thái của đoạn này, td. tiếng Anh cơ bản "The
heart of the wise man goes in the right direction; but the heart of a foolish
man in the wrong" hay Good News Translation "It is natural for the
wise to do the right thing and for fools to do the wrong thing" ...v.v...
Chú
ý: sinistra/L có nghĩa tốt lành đối với người La Mã (Roman) nhưng có nghĩa tiêu
cực đối với người Hi Lạp (Greeks). Các nét nghĩa ngược như vậy đã được LM
Taberd ghi nhận trong tự điển La Tinh - Việt của LM Taberd (1838). Tuy nhiên
các ngôn ngữ Tây phương chỉ thấy dùng nét nghĩa tiêu cực (xấu, ác) của
sinistra.
Bản
chép tay này có thể là một người cùng thời với LM Philiphê Bỉnh, tuy không có
ghi ngày tháng và tác giả, nhưng dựa vào cách viết và nội dung chép tay ta có
thể đoán vậy. Bản chép tay của LM Philiphê Bỉnh không thêm vào một số chi tiết
như bản chép tay này, td. "chày
hành" (pistillus/L) - xem hình chụp ở trang này.
Các
câu nói này cho thấy khuynh hướng xã hội truyền thống chuộng tay phải dùng đũa
(cũng như cầm bút).
Trích từ trang http://sealang.net/monkhmer/dictionary/
và http://sealang.net/khmer/dictionary.htm
...v.v...
冘 đọc là dư châm thiết 餘針切 (NT, ĐV, QV) 余箴切 (TVGT); dư châm phản 餘針反 (LGTK), dặc hàm thiết 弋咸切 (TV), di châm thiết 夷針切 (TV, VH, LT) âm dâm 音淫. Ngoài ra còn đọc là
do (以周切 dĩ chu thiết/ĐV, di
chu thiết 夷周切/TV/VH...Chữ hiếm
冘 có nghĩa là (a) không
yên/di động < hành mạo 行貌/TVGT (b) hồ nghi. Có liên hệ gì đến cách dùng
"khách đăm chiêu" (khách
qua lại, Nguyễn Trãi) không? So với đam 眈 (td. đam đam ~ nhìn
chằm chằm) - cần được tìm hiểu sâu hơn với nhiều dữ kiện tương ứng.
Hay cách nói
"chân nam đá chân xiêu/chiêu": từ tương quan giữa các phụ âm đầu lưỡi
đ-n và ch-x.
Đọc
toàn bài trên trang này https://vn.japo.news/contents/doi-song/bon-mua/30394.html
.
Của chiêu là của trộm cắp, của gian lận (Huỳnh Tịnh Của, sđd) ~ objet volé, injustement acquis; Génibrel
không ghi n ngay sau chữ 昭
chiêu hàm ý chiêu không phải là tiếng thuần Việt (Nôm - Génibrel viết tắt là n).
Tự
điển Béhaine (1772/1773) ghi lại ba lần ‘thượng hòa hạ mục’ với hàm ý là người
trên (như quan lại) cần có sự hòa thuận và người dưới (như lương dân) cần phải
thương yêu nhau;"Chúa Dêu cho thiên
hạ thượng hòa hạ mục" MACC trang 122 (bản Nôm của LM Maiorica). Trong
MỘT BẢN VĂN MỤC LỤC THỜI CHÍNH HÒA (Ất Sửu 1685, tác giả Nguyễn Thị Trang -
Thông báo Hán Nôm năm 2000) có câu "Gái
trai phải chốn, vậy nên tài nữ tú trai thanh, Cao thấp có ngôi, mới phải phép thượng hòa hạ mục".
So
sánh mục 目 có một dạng âm cổ là
*miuk so với mắt tiếng Việt (một dạng âm cổ tiền-Môn Khme là *mat), có thể là
giao lưu ngôn ngữ thời Tiên Tần - cũng như giang/sông 江 so với *krong và tên
gọi 12 con giáp …v.v..
tương
quan đồng đại giữa phụ âm cuối -c và -t: chọc chọt, thọc thọt, phức phứt (td.
bán phứt đi)…
Thí dụ hạch đọc là
wat6, hat6 (Quảng Đông), hu̍t / ha̍t / he̍k / hia̍k (Phúc
Kiến), fut8 (Sa Đầu Giác Khang).
Số người thuận tai
trái là 40%, thuận mắt trái là 30%, thuận chân trái là 20% nhưng thuận tay trái
là 10% - tham khảo bài viết của Hannah Fry trên trang này chẳng hạn (4/10/2016)
https://www.bbc.com/future/article/20160930-the-mystery-of-why-left-handers-are-so-much-rarer
... Tuy số người thuận tay trái có ít, nhưng lại không thiếu những nhân vật rất
nổi tiếng của thế giới: thiên tài vật lý Albert Einstein, nhà soạn nhạc Mozart,
J.S Bach, Beethoven hay những họa sĩ lừng lẫy trong giới hội họa Picasso,
Michelangelo, Leonardo Da Vinci,
cựu tổng thống Mỹ Barack Obama, tỷ phú
Bill Gates ...
Tiếng
Anh left (tay/bên phải) có gốc tiếng Anh cổ *lyft nghĩa là yếu, dại, vụng về và
tiếng Proto-Germanic *luft-; so với right (phải, đúng). Đây là kết quả của tay
trái không thuận và thường yếu hơn tay phải, không liên hệ gì đến dạng quá khứ
left của động từ leave (rời). Phải cẩn thận khi so sánh các cách dùng trùng hợp
như trên vì dễ làm ta lạc đường: td. chiêu là sáng, bàn thờ bên trái, kêu gọi,
uống nước, đãi (gạo) ...
Các tác giả Vũ Văn
Kính/Khổng Đức phiên là buông chiêu so với vuông chiêu theo người viết (NCT).
Chữ HV 葻 là chữ hiếm với các
cách đọc là lam (盧含切 lô hàm thiết/TVGT/QV/TV/LT) hay phong (符風切 phù phong thiết/TV/LT)
nghĩa là cỏ lay động vì gió, vì vậy chữ 葻
có thể là
chữ Nôm tự tạo. Ngoài ra,bản Ngũ Thiên Tự này xuất bản trễ nhất là vào khoảng đầu
TK 20, sau tự điển Béhaine gần 13 thập niên, nhưng LM Béhaine đã ghi cách dùng
đăm chiêu (bên phải và bên trái) ở Đàng Trong. Điều này cho thấy có sự khác biệt
trong các từ chỉ (bên) phải và giải thích phần nào tại sao VBL đã không ghi dạng
đăm.
Trích
từ trang http://sealang.net/monkhmer/dictionary/
và http://sealang.net/khmer/dictionary.htm
...v.v...
Tiếng Cùa (Co, Kor,
Khùa) là thổ ngữ ở Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Khuynh
hướng tha hóa phụ âm cuối -c hay -t: như tiếng Mường (sđd)
có các dạng
mã (mặc, đố mã là đồ mặc), mờ (một,
mờ khảng là một tháng), mò là mỗi, một (mò tlăm là một trăm) ...v.v…
Cách
dùng HV như tả chỉ bên trái dùng trong "cánh tả" chẳng hạn: đây là thuật ngữ chính trị có nguồn gốc từ
cách mạng Pháp (1789–1799) lúc mà những người ngồi bên trái thường phản đối chế
độ quân chủ và ủng hộ cách mạng - khác với nhóm người ngồi bên phải (phe/cánh hữu) của quốc hội Pháp. Tả
(trái) và hữu (phải) là từ góc nhìn (ghế ngồi ở trên) của Chủ Tịch quốc hội
Pháp. Tiếng Việt hiện đại không dùng các từ HV như tả, hữu một cách tự do như
thời VBL - thí dụ như cách dùng tử, nhân, tiểu, thậm, vô, cùng, trở, quốc vào
thời này.
Tham
khảo loạt bài "Nguồn gốc
Việt (Nam) của tên gọi 12 con giáp" cùng tác giả (NCT), chiêu (bên
trái > bàn thờ bên trái) có thể đến từ phương Nam. Thí dụ như Khổng Tử từng
viết về văn minh Bách Việt/phương Nam đã ổn định vào thời đại của mình mà dùng
cho xã hội phương Bắc ...
Các
tài liệu như tự điển Béhaine (1772/1773), Taberd (1838), Huỳnh Tịnh Của (1895),
Génibrel (1898), Bonet (1899) ở Đàng Trong và Vallot (1898) ở Đàng Ngoài đều
không ghi cách dùng tay phải như của Ravier/Dronet. Tuy nhiên, năm xuất bản của
tự điển Ravier/Dronet là 1903, nhưng mất nhiều năm để soạn ra (ghi trong phần
giới thiệu/Préface) thành ra cách dùng tay
phải đã có mặt trễ nhất là năm 1903 ở Đàng Ngoài.
Trái tiếng Việt có một dạng âm cổ phục
nguyên là *klaj, khác với dạng trái (quả) mà VBL ghi là blái có một dạng âm cổ
phục nguyên là *plaj; so với một dạng
chữ Nôm cổ của trái (quả) là ba
巴 + lại 賴. Một
dạng chữ Nôm cổ của trái là 債 (trái HV). Trái (tay trái) tiếng Mường (Bi) còn là tlái, tiếng Poọng (~ Thổ, Cuối) là kla:j. so sánh với tiếng Khme ក្លាយ klaay nghĩa là sai (trái), giả, không đúng, đã thay đổi và tiếng Môn ကၠဲ (klai, dịch ra). Ngoài ra, tiếng Mường
(Bi) còn có tính từ đái là trái như thay đái là tay trái, có liên hệ gì đến
đãi HV 歹 (trái, bậy, xấu) hay không: cần tham khảo nhiều văn
bản cho thêm chính xác.
Khi so sánh số người
tiền sử Neanderthal thuận tay trái thì vẫn là khoảng 10%, giống như số người
thuận tay trái hiện đại - xem bài viết https://www.bbc.com/future/article/20160930-the-mystery-of-why-left-handers-are-so-much-rarer
hay https://www.sapiens.org/column/field-trips/handedness-neanderthals/
…v.v…
Tuy
nhiên thiểu số (như 10% thuận tay trái) khác biệt không hoàn toàn có nghĩa là
sai trái!
Đăng nhận xét