TRẦN THỊ NHẬT HƯNG: TÌNH CHA
Tình cha
Trần thị Nhật Hưng
Có phải bất công lắm không khi hằng năm vào
dịp Vu Lan, trên thế gian này không biết bao nhiêu Văn nhân, Thi sĩ, Nhạc sĩ
múa bút tán tụng tình mẹ: Huyền thọai mẹ, Phật giáo tôn vinh giá trị những bà
mẹ, lạm bàn về mẹ, tản mạn về mẹ..v.v.và..v.v..bên cạnh đó, dường như mọi người
vô tình đã bỏ quên một thứ tình cũng nồng nàn không kém, đôi khi còn thắm thiết
hơn, đó là tình cha.Vâng, tôi có một người cha như thế.
Để đánh dấu thành quả của mình, cùng để nhắn nhủ con cháu, ba tôi đã đặt tên cho cửa hiệu của ông “ Chí Thành” (hàm ý có chí sẽ thành công) như một định đề làm gương cho con cháu...
Từ đó, tôi được lớn lên trong kinh tế
gia đình vững vàng, sung túc. Tôi không hề biết thiếu thốn là gì nữa. Thế
nhưng, cuộc đời vô thường, không ai biết trước được số phận. Từ chỗ “ không biết thiếu thốn là gì”, đùng một
cái, tôi bỗng nghèo xác xơ, nghèo đến nỗi quả bắp luộc rẻ tiền đối với tôi trở
thành hàng xa xỉ phẩm, cao lương mỹ vị; nhiều năm trời có muốn ăn, tôi chỉ được
liếc thấy, ngửi qua mà không bao giờ rờ tới.
Có rơi vào cảnh nghèo túng, sa cơ lỡ
vận, dễ nhận chân lòng dạ con người “Nước
loạn mới biết tôi trung. Gia bần mới tri hiếu tử”, thiên hạ hay nói thế và tôi
dựa theo ý câu này để thấy rõ tình của ba tôi.
-
Lương
nhà con ăn thế này…sang quá! Không đủ trang trải đâu.
Tôi nghe, tôi
hiểu và biết phải làm gì. Sẵn học ban B, toán là chính, tôi áp dụng ngay vào
đời sống, đem lương của chồng tôi cộng trừ nhân chia, cuối cùng cho ra một đáp
số:
-
Điểm
tâm buổi sáng: Cơm nguội, mỗi người một chén
(thay cho một tô bún bò kèm ổ bánh mì khi tôi còn ở
nhà bố mẹ).
-
Hai
bữa ăn chính: Chủ lực rau: Rau muống, rau cải, rau lang, mồng tơi , rau đay,
đọt bí…v…v…Còn những loại rau như: Bắp cải, súp lơ, cà rốt , cà chua, xu
hào….thuộc hàng xa xỉ phẩm, không được ngó tới.
Chất đạm chỉ
là những con tép, cá lòng tong kho mặn; thỉnh thoảng được vài gram thịt cũng
phải cõng cả ký lô củ đậu vào đó. Còn “chả
lụa” theo “rề sếp” bố chồng tôi
dạy, không phải làm từ thịt nạt thăn mà là từ những cục xương sống lưng, loại
xương chỉ dùng để nấu súp, cứng như đá, tôi lấy sức “18 bẻ gãy sừng trâu” băm nhuyễn nhừ rồi viên tròn bằng ngón chân
cái đem kho mặn. Ăn khá ngon! Bố chồng tôi bảo, ăn xương mới bổ xương!
Lời ba tôi
nói quả không sai. Sau này, biến cố 1975 làm chao đảo cuộc sống miền Nam, nhà
chồng tôi vốn nghèo càng nghèo hơn, tôi trường kỳ rau muống luộc suốt nhiều năm
trời, tôi vẫn vững vàng sống khỏe, sống dai và lành mạnh cho đến bây giờ.
Vài năm sau,
vì việc học của tôi và công việc của chồng, chúng tôi đổi vô Sài Gòn. Mặc dù
lương chồng tôi có tăng theo thời giá, vẫn không thấm vào đâu so với vật giá
quá đắt đỏ của thủ đô. Cho nên, những phí tổn sách vở, học hành, tàu xe, tiêu
vặt…tôi đành cầu cứu ba má tôi. Không chỉ một khỏan tiền lớn bỏ nhà băng lấy
lời để lo cho tôi, tôi còn quấy quả ba má tôi hãy “bưng” cái nhà theo tiêu chuẩn của từng người con “gởi” vô Sài Gòn cho tôi. Ba má tôi, thay
vì …bưng, tức là bán căn nhà đó rồi gởi tiền cho tôi mua cái khác theo lời đề
nghị của tôi, ông bà lại gởi một khỏan tiền khác để mua một căn nhà khác.
Căn nhà nhỏ
với một khỏan tiền đủ sống, tôi ung dung từng bước vào đời. Phần chồng tôi,
chàng cũng phấn đấu vươn lên, vừa đi làm vừa lấy cua học thêm. Con đường trước
mắt thênh thang mở rộng. Chân trời phương xa, vừng hồng đang rực sáng như chào
đón bước chân chúng tôi. Tôi vô tư hồn nhiên yêu đời. Ngây thơ như cô công chúa
nhỏ tung tăng vào rừng hái hoa bắt bướm. Không hề nghĩ xung quanh có thú rừng
rình rập, hay dưới chân mình đầy cạm bẩy chông gai. Tôi ngu ngơ không hề nghĩ
trận cuồng phong có thể bất ngờ ập đến. Không, không nghĩ gì hết. Trước mắt tôi
chỉ toàn là màu hồng, màu xanh đầy hy vọng…
Thế rồi ở
cuối chân mây, bầu trời bất ngờ đổi màu xám xịt. Mây đen vần vũ. Tôi vẫn chưa
nhìn ra, cứ mải miết say sưa với niềm vui hiện tại, không chuẩn bị một chỗ ẩn
núp, để rồi phải te tua tơi tả bởi một trận cuồng phong, trận bão của cuộc đời.
Trận bão đó quét sạch mọi ước mơ, bao hy vọng, niềm tin yêu trong cuộc sống của
tôi. Lúc bấy giờ tôi mới nhận chân ra cuộc đời tự nó vốn vô thường. Con đường
trước mặt không luôn luôn bằng phẳng. Đường càng dài thì càng nhiều hố thẳm
chông gai. Bấy giờ tôi mới nhớ lời dạy của ba tôi, thầm cám ơn ba đã luyện chị
em tôi từ thuở bé. Có sung sướng phải biết lúc khổ cực. Ngoài những lúc học
hành, ba không hề cho chị em gái chúng tôi ngồi không. Rảnh, chúng tôi phải ra
vườn nhặt cỏ, tưới cây, phụ bếp hay thêu thùa may vá. Nhờ vậy biến cố 1975,
giai đoạn đen tối khó khăn nhất cho bao người miền Nam làm đảo lộn mọi cuộc
sống, dù ngất ngư, tôi vẫn gượng dậy giương to mắt trực diện đối đầu với đời.
Số tiền trong
băng vốn cũng như lời mất sạch. Chồng đi tù không còn lương. Bố chồng tôi cả
đời không kiếm một xu. Thành phần “vợ
ngụy” như tôi không còn cơ ngóc đầu lên nổi. Đã vậy, bà con họ hàng con
cháu bố chồng tôi ngoài Bắc lũ lượt vào thăm…Ôi, giữa lúc mọi tai ương đổ ập
lên đầu con bé con hơn 20 tuổi, giữa lúc tôi chới với ngộp thở của thác lũ cuộc
đời, tôi đang quờ quạng mò mẫm để tìm một lối thoát, thì bất ngờ ba tôi xuất
hiện như một cứu tinh lặn lội từ miền Trung vào Sài Gòn thăm con. Ba như cái
phao cho tôi chụp lấy. Nhưng nhìn tóc ba bạc phơ, mặt mày phờ phạc hốc hác vì
tàu xe vất vả, tôi lại chạnh lòng xót xa và trong tôi dâng lên tình yêu kính
cha tràn ngập biết nói sao cho hết.
Cha vào thăm
tôi, mục đích thăm dò đời sống tôi vài ba hôm rồi đi. Trước khi ra về, ba gặp
riêng tôi, trao cho tôi một món tiền lớn, ân cần dặn:
-
Bố
chồng con cả đời không làm ra tiền. Nay cụ già rồi, cụ muốn ăn gì, con cố gắng
phụng dưỡng cụ tử tế. Còn đối với người nghèo khó, con cứ giúp. Riêng con, đừng
tiêu hoang là được.
Tôi hỏi:
-
Con
dùng tiền này thăm nuôi tiếp tế chồng con có được không?
-
Điều
đó hiển nhiên, con không phải hỏi.
Lời cha dặn, tôi tạc dạ ghi lòng. Mặc
dù tự thân, tôi tiết kiệm tối đa, tôi không thuộc loại “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn le lói suốt năm canh”,
tôi chấp nhận le lói suốt năm canh để
kéo dài khỏan tiền tiêu khỏi làm phiền cha vất vả, thay vì “nhậu” một bữa cho đã đời, tôi chỉ trường
kỳ rau muống luộc. Sáng rau muống luộc, chiều luộc rau muống. Riêng cụ bố chồng
thì có thêm đĩa nhộng xào, vừa rẻ vừa bổ và cụ cũng ưa thích. Tôi sợ sâu nên
không dám ăn nhộng. Tiết kiệm đến vậy, nhưng món tiền lớn ba cho vẫn không thấm
vào đâu so với thời buổi gạo châu củi quế, mà chi tiêu lại gấp 10 lần hơn so
với cuộc sống trước 75. Nào việc thăm nuôi, ăn tiêu cho hai bố con, và khỏan
chẳng đặng đừng cụ Phan hỏi để chu cấp tàu xe, quà cáp, ăn uống cho bà con, họ
hàng con cháu cụ từ Bắc vào thăm…Những bữa thịt nai đường Hồng Thập Tự, những
hôm thịt quay chợ Tân Định theo yêu cầu của bố chồng tôi đãi khách, món tiền chóng
vánh hết nhanh.
Mặc dù ba tôi có dặn, khi nào hết tiền,
nhớ thông báo ba tìm cách gởi tiếp. Nhưng xin để học, tôi không ngại miệng, vì
học tức là làm việc, còn xin để ăn, tôi quyết không mở lời. Một cách tinh ý và
tế nhị, ba tôi nhận ra điều đó. Không chuyển tiền qua bưu điện hay ngân hàng
được và cũng không tin cậy ai để chuyển được, ba tôi lại vài ba bận vào Sài Gòn
thăm tôi, để chỉ trao tận tay tôi một số tiền lớn, rồi về.
Tôi thương cha vất vả kiếm tiền, vất vả
tàu xe, không muốn phiền lụy cha nữa, tôi mon men ra chợ trời kiếm sống. Ôi,
chợ trời cũng là chợ đời, gặp thời buổi nhiễu nhương, tôi ngộp thở trong không
khí lạ hoắc đầy gian trá. Nhưng vì sinh kế, tôi đã không ngại ngùng trải một
tấm nilon ở vỉa hè trong con hẻm nhỏ chợ Bàn Cờ bán ly, tách, chén, dĩa...trước
là bán đồ gia dụng của nhà rồi từ đó “nghề
dạy nghề” tôi biết thu mua để bán kiếm lời. Chỉ vài đồng kiếm được trong
ngày cho tiền chợ cũng giúp tôi vui, vì đó là đồng tiền mồ hôi nước mắt lần đầu
tiên trong đời tôi kiếm được. Thế nhưng, lại chữ “nhưng” trớ trêu, cuộc đời tưởng như tìm thấy một chút ánh sáng dù
chỉ là ánh sáng le lói cuối đường hầm, một lần nữa tắt ngúm bởi trận cuồng
phong ập tới!
Đó là ngày sinh nhật Hồ Chí Minh. Khắp
phố phường đỏ rực một màu máu bởi những lá cờ đỏ giăng đầy. Để làm...quà mừng sinh
nhật ông, từng toán thanh niên băng đỏ được lệnh tung ra làm sạch đường phố. Càn
quét hết tất cả những gian hàng lê lết vỉa hè. Một cuộc rượt bắt trông thật
ngoạn mục. Những người dân khốn khổ, đáng thương túa chạy như đàn ong vỡ tổ. Còn
tôi, ly bát chén dĩa nặng nề kồng kềnh thì chạy làm sao? Thế là, tôi bị hốt về
phường cùng hàng hóa bị tịch thu với tội danh bán chợ trời mặc dù rõ ràng tôi
ngồi buôn dưới đất! Cuối cùng, một lần nữa, tôi mất hết cả vốn lẫn lời, chỉ “thu” được một món “lợi” duy nhất nhớ đời là nhận chân rõ về cuộc sống.
Cụ Phan bắt đầu vay nợ để trang trải những chi
tiêu càng lúc càng tăng nhất là về quà cáp, tàu xe, ăn tiêu cho con cháu cụ.
Tôi buồn vì cô đơn, vì cuộc sống mịt mù,
không lối thoát. Để khuây khỏa, và cũng đã nhiều năm rồi, dễ chừng gần sáu năm,
từ khi rời miền Trung, tôi chưa một lần trở lại. Tôi xin phép cụ Phan về thăm
cha mẹ, gia đình.
Có đáp chuyến xe đò ọp ẹp, thời đó chỉ
có xe vậy thôi, với giá vé chợ đen cắt cổ, nếu không muốn tờ mờ sáng xếp hàng
mua vé chính thức (chưa chắc đã có), tôi bùi ngùi nhớ lại ngày nào mới chuyển vào
Sài Gòn tôi tha thướt trong chiếc áo dài tươi mát bước lên máy bay, mà giờ đây
trở về trong bộ dáng te tua “bụi đời”
bước xuống tận cùng của cuộc sống. Rồi xót xa, tôi nghĩ đến ba tôi. Ba tôi cũng
ngồi trên chỗ này đây với đầy mùi hôi nồng nặc của người, của khói xăng lẫn với
phân gà vịt…Cũng với con đường đầy ổ gà, bụi bặm này đây, chiếc xe như muốn nứt
tung bởi sức chứa quá tải của người với hàng hoá. Ngồi co ro ngủ gà ngủ gật
suốt đoạn đường dài một ngày một đêm, tôi cảm thương cha tôi ở tuổi già xế
bóng. Tôi chưa làm được gì để đáp đền công ơn sinh thành dưỡng dục, còn quấy
quả cha cả lúc tôi đã có gia đình. Vì tôi, cha đã phải thay tôi “gánh vác cả giang sơn nhà chồng” mà đúng
ra trách nhiệm là của tôi như lời cha từng căn dặn trước cũng như sau ngày cưới:
“Con gái về nhà chồng, có bổn phận gánh
vác giang sơn nhà chồng. Đừng khuân của của người ta đem về cho bố mẹ, để họ chửi
bố mẹ, tức là báo hiếu cho bố mẹ đó”. Lời giáo huấn vẫn văng vẳng bên tai,
tôi biết phải làm sao bây giờ khi trên vai tôi không có cái đòn gánh?!
Nhưng
rồi niềm vui hội ngộ cũng qua mau. Cuộc sống trở lại bình thường. Tôi hay ở nhà
quây quần với gia đình hơn là theo bạn bè rủ rê ăn uống. Với lại tôi không có
tiền. Ăn mãi của bạn cũng kỳ.
-
Tiền
gì vậy, ba?
Tôi cứ ngỡ ba đưa tiền để sai tôi mua vật
dụng gì đó cho gia đình. Nhưng không, tôi trố mắt khi nghe ba nói:
-
Ba
cho con để đi chơi với chúng bạn!
Nói xong, ba
bỏ đi, để tôi ngơ ngẩn nhìn theo, không kịp nói được lời nào, dù chỉ là hai chữ
“cám ơn” ngắn ngủi.
Tôi nhìn xuống
cọc tiền, bất giác mủi long. Không muốn khóc mà nước mắt tôi cứ từng giọt trào
ra. Những giọt nước mắt ân tình trong như pha lê nhẹ nhàng rơi xuống cọc tiền nhưng
lại thấm sâu vào hồn tôi, len vào từng ngõ ngách.Tôi nghẹn ngào cảm động vừa
thương cha vừa thương mình. Biết nói sao bây giờ, tôi chỉ biết in thật sâu vào
tim óc hình ảnh cử chỉ đáng yêu của cha và nguyện một ngày nào đó có cơ hội tôi
sẽ đáp đền tình cha.
Tôi thăm gia
đình, ở chơi một tháng rồi trở về lại Sài Gòn.
Trước ngày tôi lên đường, ba tôi hỏi:
-
Trong
đó con còn tiền không?
Đã hết sạch,
còn nợ nần chồng chất, nhưng lòng tự trọng cùng niềm yêu kính cha, không muốn
cha lo lắng, tôi đáp:
-
Dạ
còn, ba ạ.
-
Nếu
còn thì ba cho ít.
Nói như thế,
nhưng ba tôi vẫn cho nhiều. Ít, nhiều rồi cũng thế thôi. Với thời gian và cuộc
sống này vẫn chỉ là những chuỗi ngày mờ mịt!
Cũng may, tôi vượt biên, may mắn chỉ một lần trót
lọt.
Bây giờ thì tôi đang định cư tại Thụy Sĩ. Một đất nước hiền hòa, êm đềm,“nhỏ mà ngon”, nhờ ơn Trời Phật tôi hưởng ké phúc lộc của đất nước này. Chỉ hơi buồn vắng vẻ làm tôi hay nhớ quê hương nhất là nhớ ân tình của ba tôi.
Ba tôi vậy đó. Rất hiền lành, nhân từ, sâu sắc. Tình cảm trong ông không thể hiện bằng lời. Ông vốn ít nói, nhưng khi nói rất thâm thúy, khiến tôi thường suy gẫm và coi như…danh ngôn: “Trong cuộc sống của ba, ai đối xử với ba thế nào, ba biết. Ai lấy của của ba, ba cũng biết. Nhưng ba không nói, ba chỉ cười thôi. Ba cười vì ba thấy ba có phúc. Mình có phúc mới có của cho người ta lấy. Vô phúc mới đi lấy của của người ta. Vậy các con chọn đi. Làm người bị mất của hay là người lấy của”. Câu nói này làm tôi nhớ đến lời thuyết giảng của Thầy Thiện Huệ: “Thà làm người đẩy xe, còn hơn ngồi xe lăn cho người ta đẩy”.
Bây giờ ba
tôi đã 96 tuổi. Da dẻ ba vẫn hồng hào tươi nhuận. Thời gian dường như luôn giữ
ba ở mức tuổi 80. Hằng năm, tôi vẫn về thăm cha, lòng thật vui khi thấy cha
khỏe mạnh vui cảnh điền viên tẩn mẩn như một vị sư thư thái nhẹ nhàng cầm chổi
quét sân chùa, quét những chiếc lá khô túm vào một góc.Tẩn mẩn sửa lại hàng dậu
của dàn mồng tơi, tỉa những chậu cây cảnh, rải thóc gạo nuôi chim…Có hôm, buổi
sáng tôi còn ngủ nướng, ông đánh thức tôi dậy, bưng cho tôi một tô phở ăn liền
có đầy đủ thịt bò, rau, giá…do chính ông nấu. Có lần cách đây 2 năm, khi ba tôi
94 tuổi, cũng buổi sáng khi tôi còn ngủ nướng, ông cũng đánh thức tôi dậy để
sai tôi mua ít gia vị cho ông làm món gà hầm. Chao ôi, tôi không ngờ, từng tuổi
đó, ba tôi có thể đun nước sôi, cắt tiết gà lặt lông…rồi tẩn mẩn bày biện nấu
món này món kia để đãi con gái. Tôi vừa mừng vừa cảm động. Mừng vì thấy cha còn
minh mẩn. Cảm động vì tôi vẫn được cha
cưng. Cha còn khoe với tôi tập hồi ký viết dở dang, nét chữ ngoằn ngèo xiêu
vẹo…kể về cuộc đời gian truân của ông với hai bàn tay trắng lưu lạc từ Bắc vào
Nam. Tôi cười, nói với cha: “Ba cố viết
cho xong đi, đưa bản thảo cho con, con sẽ gởi đăng ở các báo. Tuổi già động não
một chút cũng tốt.Vận động tay chân cho thư giản gân cốt cũng tốt. Nhưng với
con, nếu ba nghỉ ngơi đừng làm gì hết vẫn tốt hơn”.
Trong phố, ba
tôi được tiếng hào sãng, hay thương người, đóng góp rất nhiều trong công tác từ
thiện. Ở tuổi 90, ông còn về Bắc đích thân trông coi xây cất từ đường gia tộc, tậu
nghĩa trang cho giòng họ, tu bổ đình làng, miếu đền….Suốt đời của cha, ông luôn
là người thích gánh vác với tinh thần trách nhiệm cao.
Còn tôi, tôi
luôn nhớ ơn cha. Khắc cốt ghi tâm những tình cảm sâu đậm cha dành cho tôi. Và
tôi cũng vui đã thực hiện tất cả nguyện vọng trong đời của cha coi như đền đáp
phần nào công ơn sinh thành dưỡng dục và nhất là cha đã đến với tôi trong những
tháng ngày tôi gian khổ cùng cực nhất.
Mỗi lần về
Việt Nam, trước khi trở lại Thụy Sĩ, bắt chước cha ngày nào, tôi thường xiết
tay cha, xòe năm ngón tay cha ra và trang trọng đặt vào đó một phong bì như
ngày nào cha đã đặt vào tay tôi để thấy niềm vui xôn xao ánh lên trong mắt cha
không hẳn vì phong bì mà vì có một người con hiểu và giống mình.
Trần Thị Nhật Hưng.
Đăng nhận xét