TRẦN THY VÂN: BÚT KÝ CHIẾN TRƯỜNG ANH HÙNG BẠT MẠNG
TRẦN THY VÂN: BÚT KÝ CHIẾN TRƯỜNG ANH HÙNG BẠT MẠNG
*ANH HÙNG BẠT MẠNG
Trần Thy Vân
LỜI NÓI ĐẦU
Anh Hùng Bạt Mạng,
không những ra mắt lần đầu tiên vào tháng 7/1996 tại Nam California, với 300
quan khách tham dự, còn được giới thiệu ở Edmonton, Canada. Nơi nào đồng hương
Việt cũng đón nhận tác phẩm một cách trân quý.
Đa số độc giả bốn phương, ngay cả từ Anh, Pháp, Úc… đều cho
đây là một thiên hồi ký. Dù dưới dạng nào, Anh Hùng Bạt Mạng trên hai trăm
trang sách đã gói ghém một sự thực, một câu chuyện sống động, lạ lùng, dưới
ngòi bút của người quen cầm súng bảo vệ quê hương đất nước hơn rành chữ nghĩa,
viết lại khoảng đời chiến binh của mình.
Với lối hành văn giản dị, kiểu lính, cốt đưa những hình ảnh
can trường, đẫm máu, như dàn trải trước mắt.
Quái đản, dù đã gần 40 năm giã từ vũ khí, tác giả vẫn ngỡ mình
còn đang tung hoành ngoài mặt trận, nên mỗi chữ như một viên đạn bốc lửa, uất hận.
Theo đó độc giả sẽ xúc động, nín thở với đoàn quân kỳ lạ trong Anh Hùng Bạt Mạng.
Khi viết, tác giả hồi tưởng lại mọi sự việc xảy ra liên quan
đến đơn vị mình chỉ huy, không hư cấu, không suy diễn những gì ngoài khả năng,
quyền hạn của một cấp đại đội trưởng tại chiến trường. Như, sau khi Sa Huỳnh đã
được tái chiếm, ngoài chuyện cướp công, tướng Trần văn Nhựt, Tư Lệnh Sư đoàn 2
Bộ Binh, còn đối xử tệ với Biệt Động Quân tăng phái mà tác giả không hề biết.
Mãi 23 năm sau, ấn bản đầu AHBM vừa in xong, Đại tá Trần Kim Đại mới cho hay
tác giả viết còn thiếu về hai điều trí trá của tướng Nhựt, tưởng nên đề cập ở
đây hơn là bổ túc vá víu vào trong cốt truyện:
1/- Lúc đột nhập Sa Huỳnh đơn vị tác giả vào chiếm cái đồn
lính bỏ trống để vờ nghỉ đêm, rồi bí mật rút ra ngoài phục lại. Địch mắc mưu đến
tấn công bị pháo binh bắn T.O.T, mấy chục tên giặc đều chết cháy (Ttr.137). Hôm
sau tướng Nhựt bảo cho ông đưa một đơn vị Sư đoàn 2 BB vào trấn giữ cái đồn tan
nát ấy. Biết ý Nhựt toan cướp công, Đại tá Đại, Liên đoàn 1 Biệt Động Quân, từ
chối khéo, viện lẽ trận đánh còn tiếp diễn.
2/- Sa Huỳnh vừa được tái chiếm, tướng Nhựt giở thủ đoạn
tráo đổi khối vũ khí BĐQ tịch thu, trước giờ phút phái đoàn TT Nguyễn văn Thiệu
tới xem triển lãm, rồi rêu rao trên đài phát thanh Quảng Ngãi chỉ SĐ2BB chiến
thắng Sa Huỳnh (trg.203). Đọc tờ Diều Hâu thấy có bài vạch trần sự gian trá đó,
Nhựt bảo Đ/tá Đại cải chính nhưng vị Liên đoàn trưởng BĐQ cương trực của tác giả
đã trả lời: “Tôi có viết đâu mà cải chính”.
Còn nhiều điều thiếu minh bạch nữa, không thể nói hết.
Nhân đây, tác giả xin đa tạ các cơ quan truyền thông báo chí
đã bình luận, giới thiệu tác phẩm AHBM: Đài phát thanh Little Saigon, VOV,
VNCR, báo Người Việt, Thế Kỷ 21, Việt Báo Kinh Tế, Đông Phương Thời Báo, Saigon
Today, Saigon Times, Lập Trường, Con Cò, Khỏe Đẹp, Sức Sống, Việt Nam Tự Do, Thời
Báo, Công Luận, Thời Đại Mới, Việt Nam Post, Tình Thương, và tuần báo Dân Quyền
(Oklahoma)…
Đặc biệt, tác giả mãi ghi lòng tạc dạ tri ân các chiến sĩ Đại
đội 1 Tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân hy sinh trong cuộc chiến tái chiếm Sa Huỳnh,
những anh hùng trận mạc, mà vì quá yêu mến, tác giả đã hai lần khước từ rời xa,
về làm việc an nhàn ở Sở I An Ninh Quân Đội và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, để rồi
hãnh diện bị thương lần thứ 2, đôi chân bỏ lại nơi chiến trường
Trần Thy Vân
ĐỂ VÀO TRUYỆN
Sau bốn tháng rưỡi cưỡng đoạt, không giữ nổi tỉnh địa đầu miền Nam bên bờ sông Bến Hải, Cộng Sản Bắc Việt đã chuốc lấy thảm bại, nhục nhã, trước sức phản công tái chiếm của các lực lượng thiện chiến: Dù, Biệt Động, Thủy Quân Lục Chiến. Điểm then chốt sau cùng địch quân phải gục ngã, thương vong không kể xiết, là cổ thành Đinh Công Tráng Quảng Trị, giữa tháng 9-1972. Vì hệ quả này, phái đoàn Bắc Việt và cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam mất ưu thế tại Hội Nghị Paris về chiến tranh Việt Nam sắp trải qua giai đoạn kết thúc...
Tuy nhiên, Cộng Sản
vẫn tiếp tục gây hấn với thủ đoạn cố hữu vừa đánh vừa đàm, mở ra các mặt trận
quân sự lẫn chính trị hầu áp đảo tinh thần quân dân miền Nam. Chúng liên miên
pháo kích, tấn công lẻ tẻ khắp nơi để cầm chân các đại đơn vị Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa đang trấn giữ các điểm chiến lược. Mặt khác, những tên nằm vùng cùng bọn
đón gió trở cờ đội lốt “Thành phần thứ ba” tung tin thất thiệt mà cả nước đều
xôn xao, như người dân phải chọn lựa một trong hai giải pháp, hoặc da beo, nơi
nào quân MTDTGPMN chiếm được thì cai trị nơi đó, hoặc chia đất cho chúng từ Quảng
Ngãi tới Quảng Trị, ngang vĩ tuyến 17. Vì bản chất phi nhân, lại quen thói xài
luật rừng nên cả hai giải pháp dù ỡm ờ cũng đều phản ảnh cái ngu ngốc man rợ của
chúng, muốn biến quê hương này thành vùng hoang địa để mạnh ai nấy cắm dùi. Các
tin đồn vô lý như vậy lại khiến toàn dân lo âu, tình hình chung mỗi ngày một
căng thẳng, tồi tệ.
Đầu năm 73 là thời
điểm rối ren nhất và nhân lúc sự phòng thủ phía nam Vùng I của quân chính phủ
quá lỏng lẻo, tướng Chu Huy Mân liền tung Sư đoàn 3 Sao Vàng, được tăng cường
thêm Trung đoàn 141/2 Cộng Sản Bắc Việt và một tiểu đoàn Phòng Không 12ly8 cùng
hỏa tiễn AT3, tấn chiếm Sa Huỳnh quận Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi, phần đất giáp giới
Tam Quan, Bình Định, thuộc Vùng 2. Các đồn bót tại địa phương đều thất thủ,
thương vong rất nhiều.
Vừa thành công, địch
quân cho treo đầy cờ MTDTGPMN, trên đỏ dưới xanh, giữa có ngôi sao vàng, rồi đặt
ra đủ thứ cơ quan hành chánh và cho sử dụng ngay các loại bạc giấy đang lưu
hành ngoài Bắc. Chúng còn dã man dựng một pháp trường cát ở chân núi, gần cầu
xe lửa, xử bắn mấy sĩ quan, viên chức xã ấp mới bị bắt. Xong, để hợp thức hóa,
địch yêu cầu Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên thừa nhận Sa Huỳnh là một phần
lãnh thổ của chúng theo giải pháp da beo. Dĩ nhiên, phía Việt Nam Cộng Hòa bác
bỏ. Lúc bấy giờ lệnh Ngưng Bắn sắp tới ngày có hiệu lực: 27 tháng Giêng 1973.
Sa Huỳnh có hình
dạng giống Cam Ranh Khánh Hòa, đồng bằng không đáng kể, nơi đây một khúc Trường
Sơn hiểm hóc áp sát nhất, nhô ra hai dãy đồi đá trọc như hai cánh tay khổng lồ
ôm vòng tới biển, tạo thành một cái vịnh nhỏ với một cửa khẩu thông ra khơi, gọi
là đầm Nước Mặn. Do đó, Quốc lộ 1 chạy ngang qua Sa Huỳnh, bên kề biển, bên sát
núi cheo leo, nên toàn miền như cái cuống họng, giữa đầu Vùng I và thân mình
Vùng II. Nay phần đất quan trọng này đã bị địch chiếm, khiến huyết lộ giao thông
duy nhất tắc nghẽn, cả bộ đầu đang ngất ngư.
Sự kiện Sa Huỳnh
Đức Phổ rơi vào tay giặc loan truyền rất nhanh, gây tác động tâm lý quần chúng
tệ hại hơn là lúc mất Quảng Trị mùa hè 1972. Tình trạng bi đát có vẻ phù hợp với
tin đồn năm tỉnh giới tuyến phải được chia cho MTDTGPMN. Vì vậy tất cả các cư
dân Quảng Ngãi, Quảng Tín, Quảng Nam, chí đến Thừa Thiên, Quảng Trị thảy đều nhốn
nháo, lo sợ sẽ sống dưới chế độ Cộng Sản như sắp bị một trận dịch hay cùi hủi
ghê tởm. Điều chua xót về nạn khan hiếm nhu yếu phẩm, đặc biệt nhiên liệu, ngày
nào cũng xảy ra cái thảm cảnh đồng bào chen lấn, giành giựt, đạp lên nhau để
mua xăng dầu…
Vì thuộc vùng
lãnh nhiệm, Chuẩn tướng Trần văn Nhựt, Tư Lệnh Sư đoàn 2 Bộ Binh, điều động
Trung đoàn 5 từ Quảng Tín vào cùng Trung đoàn 6 giải tỏa Sa Huỳnh. Nhưng cả hai
đã không tiến gần được phòng tuyến địch chắc nịch như bọc thép, rải dài trên
các dãy đồi đá lởm chởm, chắn ngang mạn bắc đầm Nước Mặn. Đại đơn vị ấy đã bị địch
quân khống chế dữ dội bằng các khẩu phòng không 12ly8 lẫn AT3, hai loại vũ khí
độc đáo lần đầu tiên xuất hiện sâu trong nội địa của miền Nam. Đặc biệt AT3, địch
gọi là D7, giống hỏa tiễn TOW Hoa Kỳ, có sức công phá thiết giáp rất hiệu quả,
nó cũng thừa khả năng trừ khử các tàu chiến từ biển đổ bộ, hoặc trực thăng vận
xuống. Trước sự đề kháng mãnh liệt hai Trung đoàn 5 và 6 Bộ Binh phải co cụm
quanh khu phố Đức Phổ, chờ các lực lượng thiện chiến đến tiếp cứu.
Dĩ nhiên không thể
để giặc tiếp tục tung hoành ở phía nam trong khi tại mạn bắc chưa yên, khiến
người ta có cảm tưởng Quân đoàn I đang bị lưỡng đầu thọ địch, nên Trung tướng
Ngô Quang Trưởng hạ lệnh cho Liên đoàn 1 Biệt Động Quân nhảy vào cứu nguy Sa Huỳnh.
Vị Tư Lệnh tài hoa và thanh liêm ấy biết dụng nhân như dụng mộc, chọn mặt gởi
vàng.
Liên đoàn 1 Biệt
Động Quân gồm ba Tiểu đoàn 21, 37, 39 khét danh tốc chiến tốc thắng khắp chiến
trường miền Trung. Là một đơn vị Mũ Nâu tương đương cấp trung đoàn, có truyền
thống hào hùng, tiêu biểu tinh thần bất khuất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, từ
thời Sơn Linh -Trung tá Nguyễn văn Hiệp- Liên đoàn trưởng. Vị sĩ quan trung cấp
này đã từng dày công trui luyện các chiến sĩ thành những kẻ gan đồng dạ sắt, để
trải qua bao trận đánh kinh hồn, ngập đầy biển máu quân thù ở Thạch Trụ, Khe
sanh, Tết Mậu Thân Huế, Hạ Lào…
Liên đoàn hiện dưới
sự chỉ huy của Trung tá Trần Kim Đại, người hùng cũng nổi tiếng thanh liêm,
dũng lược, đã góp công không nhỏ khi tái chiếm cổ thành Đinh Cống Tráng Quảng
Trị tháng 9/72 vừa qua.
Nay cuối mùa Đông
năm Nhâm Tý, đầu tháng Giêng 1973 Dương lịch, ba tiểu đoàn Biệt Động Quân khắp
tuyến đầu Trị Thiên lần lượt quay về Quảng Ngãi. Thêm một lần nữa những dũng sĩ
ưu việt sẽ lập nên trang sử vàng son Quân Lực VNCH, dù ngàn năm sau vẫn còn
vang động những thiên Anh Hùng Bạt Mạng đã một thời oanh liệt, đập nát thảm khốc
giặc Hồ sinh Bắc tử Nam.
Tác giả
HẬU CỨ THIÊN THẦN
MŨ NÂU
Trên ba mươi chiếc
GMC xen kẽ Jeep chở đầy lính, súng đạn Tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân, từ cố đô Huế
đã trở về tới phía bắc Đà Nẵng, một thành phố dễ thương với con sông Hàn thơ mộng
của miền Trung.
Vừa đến Hòa
Khánh, đoàn xe tách rời Quốc lộ 1, quẹo trái theo con đường đất đỏ gồ ghề mà
quen thuộc, vào hậu cứ bên bờ biển Nam Ô. Trước khi tới cổng các tài xế giảm bớt
ga để xuyên qua khu gia binh Liên đoàn 1 Biệt Động Quân Phú Lộc, nơi một rừng
người, đa số phụ nữ, trẻ em, như ong vỡ tổ ùn ùn đổ xô ra hai bên lề muốn bít cả
lối đi. Rồi từng chiếc chạy rất chậm chen giữa đám đông cơ hồ như cơn sóng dội
âm ba vang động, hàng ngàn tiếng reo, cùng những cánh tay đưa lên vẫy gọi tên
chồng tên con, đang trở về bằng xương bằng thịt. Trên đoàn xe nhà binh bám đầy
bụi, từng khuôn mặt vốn dĩ lầm lì còn vương mùi khói đạn, sướng gió cũng rạng rỡ
cười tươi, giơ cao khẩu súng chào đáp những người thương của mình.
Họ là ai? Là những
anh hùng không tên không tuổi, đã âm thầm ra đi, có kẻ chẳng bao giờ trở lại, từ
đầu xuân năm trước khi những cánh mai vàng vừa hé nụ, để lao vào cơn bão lửa
chiến trường Trị Thiên cùng đất nước thăng trầm.
Hôm nay thiên hạ
vui ghê, có pháo nổ đì đùng! Tiếng pháo vô tình nhắc nhở tôi ngày này 23 tháng
chạp đưa ông Táo về trời, khiến lòng trai chinh chiến chợt thấy nao nao.
Ngày trở về, như
bao lần trước, con xóm này rộn rã. Hình ảnh ấy tôi đã quen thuộc, hình ảnh mà bề
ngoài trông rất sống động mỗi khi đoàn quân trở về, nhưng trong lòng những người
vợ lại khác thường, luôn trăn trở lo sợ cho chồng, đời lính, rày đây mai đó, kiếp
sống phiêu linh.
“Khu Gia Binh
Liên Đoàn I Biệt Động Quân” là một doanh trại lớn, tọa lạc tại xã Phú Lộc bên bờ
biển Nam Ô, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, phía bắc thành phố Đà Nẵng 15 cây số.
Tôi không rõ trại này thiết lập từ hồi nào, chỉ biết nơi từng xuất phát các
chuyến đi oai phong, bất khuất của đoàn hùng binh Thiên Thần Mũ Nâu diệt giặc
khắp Vùng I Chiến Thuật. Địa danh Phú Lộc cũng được ghi vào quân sử, vì tên đặt
cho căn cứ hỏa lực tiền phương của Bộ Chỉ Huy Liên đoàn 1 Biệt Động Quân tại Động
A Hai, Tà Bạt, biên giới Lào Việt, trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào
1971.
Rồi chiếc GMC chở
tốp lính sau cùng vừa lọt vào bên trong hậu cứ, hai cánh cửa cổng bằng sắt vội
khép lại, và không đợi lính kịp xuống xe, các loa phóng thanh trên nóc trại đã
phát ra một giọng khô khan, dồn dập:
– Tập họp! Lệnh tập
họp gấp!… Nhắc lại, các Đại đội 1, 2, 3, 4 và Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn, theo thứ tự
trái sang phải, tập họp trước sân cờ!
Mặc dầu ở cương vị
đại đội trưởng, thừa biết lệnh lạc quân đội rất bất thường, và vì nhu cầu đòi hỏi
khẩn cấp từ mặt trận Sa Huỳnh, Quảng Ngãi, tôi vẫn thấy nóng mặt, thương anh em
lính vô cùng. Sau năm mười phút lê thê lếch thếch, ồn ào, các đơn vị lẫn Bộ Chỉ
Huy đã nghiêm chỉnh đội hình và im phăng phắc không một tiếng động, dưới bầu trời
u ám, lún phún mưa phùn gió bấc miền Trung.
Thiếu tá Quách
Thưởng, Tiểu đoàn trưởng, dáng người nhỏ con mà to gan, đầu đội chiếc mũ đã bạc
màu huyết đọng lệch qua một bên và mặc bộ chiến phục hoa rừng còn lấm đầy bụi,
nhưng lại rực lên hình ảnh uy nghi một người hùng. Ông đứng thẳng nhìn xuống
các hàng quân đang lặng câm, như các pho tượng gỗ, rồi dõng dạc tuy âm thanh
không ngân xa giọng ông cũng đủ lấn át cả tiếng sóng gầm sau trại:
– Tôi thông báo
cùng toàn thể Tiểu đoàn, lệnh hành quân chưa chấm dứt. Tất cả nghe rõ không?
– R…õ!
Sau tiếng đáp
vang dội, mọi người vẫn tư thế cũ. Thiếu tá Thưởng cố giữ khuôn mặt khắc khổ của
mình đanh lại để thị uy, nhưng vị sĩ quan tài hoa, gương mẫu ấy không thể nào
che giấu được những nét xúc động chân tình đối với thuộc cấp đã quá gian truân.
Ông ráng hét lên:
– Chúng ta về đây
chỉ nghỉ tạm một đêm. Sáng mai 5 giờ, Tiểu đoàn phải tiếp tục di chuyển. Từ giờ
phút này lệnh cấm quân trăm phần trăm, ai xuất trại không có giấy phép, sự vụ lệnh,
sẽ bị nghiêm phạt. Sau khi tan hàng, các đại đội nhận bổ sung quân số, đạn dược
và lương thực bảy ngày. Bây giờ, mời bốn đại đội trưởng lên phòng họp nhận lệnh
mới. Thi hành!
Dứt lời, ông chào
tổng quát rồi quay vào văn phòng BCH Tiểu đoàn. Bốn vị đại đội trưởng gồm tôi,
Trung úy Trần Thy Vân, Đại đội 1, Dương Xuân, Đại đội 2, Trần Quang Giảng, Đại
đội 3, và Đại úy Đỗ văn Nai, Đại đội 4, đều lặng lẽ theo sau Thiếu tá Quách Thưởng.
Ngoài sân các sĩ
quan đại đội phó cùng thường vụ hô gióng hàng inh ỏi với tiếng khua động của vũ
khí thành một thứ âm thanh hỗn tạp, như giận dữ, một buổi chiều mùa đông sắp
tàn.
Tiểu đoàn 21 Biệt
Động Quân trước ở Pleiku, hậu cứ đặt tại Biển Hồ, lập được nhiều chiến công khắp
vùng rừng núi cao nguyên. Năm 1966, đơn vị chuyển về Đà Nẵng, hoán đổi Tiểu
đoàn 11 Biệt Động Quân phạm kỷ luật vì đã yểm trợ các cuộc biểu tình liên tục của
Phật giáo chống lại các thành phần lãnh đạo chính phủ quân nhân Sài Gòn. Cho dù
mục tiêu tranh đấu chánh đáng nhưng quá rối ren như các tín đồ đem bàn thờ Phật
xuống đường cản trở lưu thông, tạo cơ hội để Cộng Sản giật dây quấy nhiễu, khiến
chiến trường miền Trung càng trở nên sôi động, ác liệt đến ngày nay.
Mặc dù đã trải
qua những tháng năm quê hương đổ lửa, bể dâu đổi dời, lớp chết lớp bị thương
không thể nào kể xiết, đơn vị vẫn hùng mạnh, lần lượt dưới sự chỉ huy của các
tiểu đoàn trưởng tài danh: Trung tá Võ Vàng và đương nhiệm Thiếu tá Quách Thưởng.
Các đại đội trưởng cũng rất nổi bật: Nguyễn văn Khá, Hồ văn Phúc, Trần Quang Giảng,
Trần Thy Vân, Đỗ văn Nai, Quách Ẩn và Dương Xuân… là những tên tuổi quen thuộc
của dân chúng năm tỉnh địa đầu giới tuyến.
Tiểu đoàn 21, thuộc
Liên đoàn 1 Biệt Động Quân, đã được tặng thưởng biểu chương màu Tam Hợp, hạng Bảo
Quốc, của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với một huy chương của Tổng Thống Hoa Kỳ,
thời Richard M. Nixon -The Presidential Unit Citation- Quyết Định số 23 ban
hành ngày 16-4-1969. Là một đơn vị mũ nâu, sắc áo hoa rừng, lừng lẫy, với chiến
thuật tấn công như vũ bão, thần tốc, đã gây bao kinh hồn bạt vía cho kẻ thù qua
khắp các chiến trường vang danh Pleime, Đức Cơ, Tết Mậu Thân, Quảng Trị, Hạ Lào
đều long trời lở đất. Họ xuống đông đông tĩnh, rồi mai đây lên đoài đoài sẽ
yên…
TÌNH YÊU LÃNG TỬ
Hôm nay, quận lỵ
Mộ Đức, phía nam Quảng Ngãi, trở nên nhộn nhịp khác thường, nhất là nơi khu phố
chính cặp hai bên Quốc lộ 1, và các thôn làng phụ cận. Sự nhộn nhịp không phải
do dân chúng chuẩn bị các nghi lễ cổ truyền vào mấy ngày rơi rớt cuối năm, để tống
cựu nghinh tân chào đón xuân về, mà vì toàn bộ Liên đoàn 1 Biệt Động Quân vừa mới
đến. Lực lượng hùng hậu rực màu áo chiến hoa rừng này xuất hiện nhằm mục đích
ngăn chặn bước tiến của Cộng quân từ Đức Phổ, và sẽ tái chiếm Sa Huỳnh nay mai.
Tất cả tạm rải ra
nhiều vị trí trong quận. Tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân đóng chung quanh chân đồi
Chi Khu Mộ Đức, Đại đội 1/21, tôi Đại đội trưởng, trấn giữ một con xóm ở phía bắc,
rất đông đúc dân cư.
Sau khi cử một
toán đi tuần tiễu trong khu vực thì trời tối. Để mặc anh em thuộc Bộ Chỉ Huy Đại
đội tự do nô đùa trước sân, tôi vô buồng thay quần áo. Vừa tới cửa, qua ánh đèn
dầu lờ mờ, tôi thấy Lý nằm dài trên giường, hai tay khoanh ngực, đầu gối lên bộ
đồ hoa của tôi. Điều ngạc nhiên là cô gái mới quen chưa đầy một buổi đã tỏ ra
thân mật. Hay bà Luyến chủ nhà quên nói Lý biết căn buồng này dành riêng cho
tôi mượn để nghỉ ngơi thời gian đơn vị dừng quân Mộ Đức. Không hiểu Lý vô đây
lúc nào. Tôi định ra rầy chú lính cận vệ Huỳnh văn Trung quá sơ hở, chẳng xem
xét gì hết, nhưng thôi, ba chuyện không đáng.
Tôi đứng nhìn và
sau đôi phút ngần ngừ, ngại làm tan biến giấc mộng hồn nhiên của cô gái đang độ
xuân thì, tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu, tôi khe khẽ bước đến ngồi xuống cạnh
giường cởi giày. Lý vẫn ngủ say…
Nhớ hồi trưa nay,
thấy Lý lăng xăng giúp các chú lính làm việc lặt vặt, miệng chúm chím cười
luôn, tôi hỏi đùa:
– Này Lý, em có
thích theo anh về Đà Lạt không?
Lý chớp chớp đôi
mắt:
– Về Đà Lạt làm
chi?
– Thì… ở chơi với
bà già anh.
Lý vừa pha tôi ly
nước vừa đáp:
– Thôi, em sợ vợ
anh ghen lắm!
Câu nói như ẩn ý
dọ dẫm, mà tôi thường nghe các cô tinh đời đối đáp mấy chàng dê xồm tán tỉnh.
Tôi nghĩ Lý còn ngây thơ, nói cho có nói thôi, chứ chắc gì nàng đã chứng kiến cảnh
lấy nhầm chồng của các bà sư tử Hà Đông. Lý cũng chẳng sợ chuyện nào khác,
ngoài cái chết dễ dàng bởi bom đạn hằng ngày trút xuống Đức Lương, ngôi làng nhỏ
bé của nàng, phía đông Mộ Đức. Lý nói các chú Biệt Động, Đức Lương mất an ninh
trăm phần trăm lâu rồi. Đúng vậy, nơi đó tôi biết rõ vì đã hành quân qua nhiều
lần. Mấy năm sau này, chiến tranh quá ác liệt, Đức Lương nối liền với Đức
Quang, hai xã kề biển đều xơ xác giữa rừng cây dương liễu, và chằng chịt bom
mìn gieo chết chóc tang thương khủng khiếp. Trong làng, trai trẻ không dám ở,
nên có kẻ theo Việt Cộng, người thì tự nguyện đi lính Quốc Gia, hay đổ về các
thành thị kiếm ăn, chỉ còn ông già bà cả và trẻ em sống đói rách, loi nhoi dưới
những căn hầm bẩn thỉu, mà lòng đầy căm hờn cả đôi bên chiến tuyến.
Quê hương đau khổ
của Lý như vậy làm sao có những đêm trăng tình tự với nam thanh nữ tú hẹn hò, mộng
mơ?
Hoàn cảnh Lý thật
đáng thương. Tôi vuốt nhẹ mái tóc túm đuôi ngựa của nàng:
– Lý giống em Huệ
anh lắm! Giống y chang, cũng ôm ốm, da ngăm ngăm…
Chỉ vậy thôi, mà
bây giờ Lý quá tự nhiên, còn hơn là tình nhà binh nữa. Lý nằm có vẻ thoải mái,
chẳng biết gì đến cảnh thực u trầm này. Tôi nghe rất rõ từng nhịp tim, tiếng thở
mạnh phảng phất mùi da thịt lẫn mùi hăng hắc từ mái tóc nắng cháy nơi người
thôn nữ. Tất cả cho tôi một cảm giác là lạ mà thích thú hơn những mùi hương son
phấn của các cô gái thị thành.
Lý cựa mình rồi bẽn
lẽn ngồi dậy. Tôi hỏi nhỏ:
– Sao nằm đây?
Giọng Lý khàn
khàn:
– Em bị cảm.
Tôi vặn cao ngọn
đèn trên bàn bên đầu giường để nhìn Lý rõ hơn, căn buồng vừa vụt sáng thì bất
ngờ một thiếu nữ mặc áo cụt trắng xồng xộc bước vô. Thấy tôi, người ấy ngỡ
ngàng khựng lại, định quay lui. Tôi hỏi:
– Này, cô đi đâu
vậy?
Người thiếu nữ vẫn
còn sửng sốt, nhìn tôi với đôi mắt tròn to và long lanh dưới ánh đèn, dễ chết
lòng người:
– Xin lỗi, nhà dì
Luyến tôi thường qua đây. Vì trong buồng mờ tối tôi tưởng có mình Lý, không biết
ông trong này…
Cô gái lạ nói một
hơi dài móc méo, như tràng đại liên bắn từ trái sang phải, tôi cùng Lý đều
trúng đạn.
Dứt lời nàng vội
bước ra khỏi cửa buồng đứng vọng vào:
– À Lý, mai dậy sớm
đi quơ củi chụm tết, nghen!
Lý uể oải:
– Mệt lắm! Em bệnh,
chị Nhị à!
– Bệnh gì?… Bệnh ốm
nghén, phải hôn?
Sau câu nói chanh
chua chuối chát, người thiếu nữ tên Nhị còn bồi thêm một tiếng “hứ” cao vút rồi
mới chịu bỏ đi. Ghê thiệt!
Tôi lấy một điếu
Capstan đốt hút:
– Em và Nhị liên
hệ thế nào, Lý?
Lý ngồi bó gối trả
lời:
– Hai chị em bạn
dì. Mẹ chỉ, mẹ em và dì Luyến là ba chị em ruột. Cha mẹ em đã chết lâu, em mới
ra đây ở một tháng, chớ trong Đức Lương khổ lắm! Thôi, để em xuống nhà dưới ngủ
võng, kẻo Nhị chạy mét bà dì Luyến đang chơi bài tứ sắc bên kia thì nguy. Chỉ
ghen nữa.
Tôi ngạc nhiên:
– Làm gì có chuyện
đó?
– Nhị biểu em mà!
– Biểu cái gì?
Lý liếc qua tôi:
– Chị biểu giới
thiệu chị cho anh. Chị học đệ nhất trên tỉnh, thích lấy chồng sĩ quan Biệt Động.
Tôi cười:
– Sao hồi sáng giờ
không nói? Được, để anh qua bển trấn an Nhị, nếu không, cổ mét dì Luyến thì chết!
– Mới nghe nói
cái ham lắm!…
Không đợi tôi trả
lời, tội nghiệp, cô em đã dùng dằng tụt xuống giường đi một mạch. Tôi cũng uể oải
đứng dậy ra trước hiên nhà.
Mới 9 giờ tối
trăng 24 tháng chạp chưa mọc nhưng bầu trời vẫn hừng hực, do ánh hỏa châu nơi
Sa Huỳnh. Tiếng đại bác bắn quấy rối vọng về nghe dữ dội. Một đám lính cùng Thiếu
úy Nguyễn Thuận Cát Đại đội phó còn ngồi chơi bên gốc cây hoa phượng ngoài sân.
Hình như không ai hay biết câu chuyện tay ba vừa xảy ra. Chợt thấy tôi anh em
nói nhỏ lại. Chú lính cận vệ Huỳnh văn Trung bước tới:
– Đại Bàng chưa
ngủ? Em pha cà phê uống, nghen?
– Ừ, làm tao một
ly đậm, bưng qua đó!
Tôi đưa tay chỉ
căn nhà bên phải và dặn thêm:
– Trung nhắc ông
Thường vụ đôn đốc lính gác Bộ Chỉ Huy Đại đội cẩn thận và Hạ sĩ Hiệp luôn luôn
trực máy, còn chú mày lưu ý cô gái nằm ở nhà dưới. Nếu cô ta có bệnh gì, bảo y
tá cấp thuốc. Nhớ, đây là lệnh nghe mậy!
Trung gật đầu rồi
lủi vào trong. Trước khi qua Nhị, tôi tới đám lính đang ngồi chơi. Thiếu úy Cát
đứng dậy hỏi:
– Chưa ngủ, Trung
úy?
– Ngủ gì nổi,
Cát! Hồi chiều họp, Thiếu tá Quách Thưởng cho hay tình hình Sa Huỳnh căng lắm!
Hai Trung đoàn 5 và 6 của Sư đoàn 2 Bộ Binh chẳng làm ăn gì được, lại thêm te
tua, có mòi di tản. Chắc chiến trường chờ mình. Tiểu đoàn 39 Biệt Động sẽ nhảy
xuống trước, nhưng chưa biết lúc nào xung trận thôi. Nhớ thường xuyên kiểm soát
lính kẻo tụi nó vọt.
– Đề nghị Đại
Bàng, sáng mai 5 giờ, cho toán Thám Báo Trung sĩ Nguyễn Nhật làm nút chặn ngoài
đầu xóm.
– Ừ, còn 12 giờ
khuya nay, trừ các tiền đồn ra, anh gọi tốp tuần tiễu về tập họp điểm danh cùng
Đại đội. Giờ thì anh bảo canh gác cẩn thận và cấm bất cứ ai đi lang bang. Tôi
ngồi chơi bên này.
Dứt lời tôi đi thẳng
tới nhà Nhị, cô gái có giọng nói “chanh chua” và tiếng hứ cao vút. Thấy cửa còn
hé, tôi đẩy nhẹ bước vào. Nghe tiếng động Nhị đang ngồi đọc sách ở bàn giữa, giật
mình đứng dậy:
– Kính chào!…
Thấy tôi không
đáp lễ, nàng vội gấp quyển truyện:
– Xin lỗi, Trung
úy đến có chuyện chi không gõ cửa?
Điều tôi muốn đã
đạt thành là tạo cơ hội cho nàng trả đũa. Tôi vẫn im lặng, chưa vội trả lời, và
tự tiện kéo ghế ngồi đối diện với nàng như đã quen biết từ lâu. Ánh đèn dầu quá
yếu, không soi sáng hết ngôi nhà ba gian tương đối rộng, mọi vật chung quanh đều
vàng vọt, mờ dần, có chỗ chìm sâu vào bóng tối. Nhưng thân hình cô gái lại nổi
bật, rực lên trong chiếc áo sơ mi trắng với suối tóc đen mượt chảy dài xuống bờ
vai, vòng qua trước lồng ngực căng tròn. Bây giờ tôi mới thấy mái tóc nàng đẹp
làm sao! Nó lung linh, che khuất nửa khuôn mặt mà các văn nhân mô tả là hình
trái xoan. Nhị vẫn đứng, coi bộ sốt ruột, đôi môi bặm lại, có lúc mấp máy, dường
như nàng muốn thốt thêm những lời cay đắng nào đó nữa. Tôi vờ không để ý, lấy
cái mũ nâu trên đầu xuống gấp làm đôi…
– Sao Trung úy
không nói?
– Hai bác đâu,
thưa cô?
Người đẹp tỏ vẻ hờn
dỗi, lùi ra sau dựa vào cây cột nhà:
– Trung úy chưa
trả lời câu hỏi của tôi.
Tôi nói ngang
ngang như gây:
– Không nghe à?
Tôi lặp lại nhé! Hai bác đâu, thưa cô?
Nhị cúi xuống lấy
tay vuốt vuốt lọn tóc:
– Ba đã chết, mẹ
đi Quảng Ngãi chưa về. Mà anh…dễ ghét lắm, trả lời chẳng ăn khớp gì hết!…
– Thôi, mời chủ
nhà ngồi, đứng hoài cũng trật rơ nữa.
Nàng mủm mỉm,
ngoan ngoãn bước tới ngồi xuống ghế. Dễ thương thật! Tôi bật Zippo châm một điếu
thuốc:
– Bây giờ tôi xin
nói, nghe! Đời lính xa nhà buồn đã đành, thấy cô cũng buồn luôn.
– Sao anh biết
tôi buồn?
– Vì cô có cười
đâu và khuya rồi còn xem tiểu thuyết.
Nhị một tay vội
lòn quyển sách cầm giấu dưới bàn, một tay che miệng:
– Tiểu thuyết
đâu? Anh này kỳ, để ý người ta. Ai biểu hồi nãy… ngang ngang chọc tức…
Nói đến đó nàng
ngưng lại, nheo mắt nhìn tôi, làm như vừa chợt nhớ ra một điều gì quan trọng:
– Khuya rồi à?
Hèn chi thấy anh vô buồng… ngủ rồi!
Tôi cười:
– Cô nói còn thiếu,
cứ bổ túc, chớ đặt thành vấn đề.
Đôi mắt Nhị tròn
xoe:
– Như vậy mà chưa
thành vấn đề?
Bị nghĩ oan tôi
chưa biết biện bạch thế nào cho nàng hiểu thì Trung bưng cà phê, trà và hai
trái cam đến.
– Đem cam mà
không đem dao lấy gì cắt, Trung?
Nhị đứng dậy:
– Để em lấy.
Trung rút lui còn
nhìn tôi nháy nháy giỡn mặt. Nhị cầm con dao nhỏ lên, bổ mỗi trái làm tư. Tôi
thì sớt cà phê ra hai ly:
– Mời cô dùng cà
phê, có cả trà ngon, hiệu Quốc Thái Bảo Lộc, của bà già gởi.
– Cảm ơn anh, em
xin ăn cam thôi.
– Đâu được. Cô biết
hôn, vợ Biệt Động Quân ai cũng uống cà phê hết.
– Họ là vợ, còn
em khác chớ bộ!
Thấy Nhị chớp chớp
đôi mắt, tôi giả vờ nghiêm nghị:
– Không uống thì
tôi đi về…
– Dạ uống, nhưng
anh phải trả lời câu em hỏi hồi nãy đã! Phải trả lời mới được!…
– Câu hỏi nào?
– Thôi, đừng làm
bộ quên, muốn nhắc hôn?
Thích chí bởi câu
vặn vẹo của mình, Nhị vừa đưa múi cam lên miệng vừa khúc khích cười, đôi mắt
thì mở to, đen nhánh, sáng như sao băng. Tôi cũng cười:
– Lại đặt vấn đề
nữa rồi, tôi về hà…
– Đòi về hoài. Ai
biểu nói chuyện với em gái mà cứ xưng tôi tôi, cô cô… À, còn ở đây lâu không
anh?
Câu chuyện muốn
chuyển hướng, tôi dè dặt:
– Việc quân đội
sao biết trước được… cô!
Đột nhiên Nhị đứng
dậy, lặng lẽ đi thẳng xuống nhà dưới. Tôi bước theo:
– Em đi đâu vậy?
– Xin lỗi, em nấu
nước chớ trà nguội rồi. Mau mà.
– Cần anh giúp
không?
Không đợi Nhị trả
lời, tôi đến ngồi sát sau lưng. Nàng tỉnh bơ quẹt diêm, ngọn lửa rơm bùng lên
sáng rực.
Biết người đẹp hờn
dỗi tôi nịnh đầm:
– Ấm áp quá!… Anh
vén dùm tóc em ra sau kẻo lửa cháy, nghen!
– Cháy bỏ!
– Cháy mất đẹp
sao? Trả lời “chẳng ăn khớp gì hết”.
Nhị day qua tôi định
nói gì, vô tình hai khuôn mặt kề nhau, thừa cơ tôi nhích tới hôn vào má nàng thật
mạnh.
– Thôi đủ rồi,
anh về bển đi, người ta đang trông.
– Nhắc nữa…
Nàng thì thầm
trong miệng:
– Sao không? Nguy
hiểm mà không biết.
Tôi ngạc nhiên,
không hiểu ý của Nhị muốn nói điều gì mà lại nhấn mạnh như vậy. Tôi hỏi:
– Gì nguy hiểm? Thì
ra em nghĩ bậy…
– Nếu anh là chồng…
em xé xác cái rẹt!
– Dữ ha! Em đã ảnh
hưởng ba truyện chưởng nặng rồi.
Dứt lời, tôi áp
hai bàn tay vào hai bên mang tai xoay mặt Nhị qua tôi. Nàng nhăn lại:
– Đau! Anh làm gì
vậy?
– Để coi sức “chưởng”
và “lệnh xé xác” của em tới đâu.
Vừa nói tôi vừa
ghì chặt Nhị hôn lên môi nàng lần nữa.
– Anh ẩu lắm!
– Nước sôi kìa
em!
Nhị áp mặt vào cổ
tôi:
– Nước sôi đâu bằng
gan sôi?
Hai đứa vội ôm
nhau cười lăn ra giữa nhà, bất kể quần áo lấm đầy tro bụi, trong lúc ấm nước
sôi sùng sục trên lửa hồng…
Còn hai hôm nữa
là Tết Nguyên Đán năm Quý Sửu. Đáng lẽ mấy ngày này thiên hạ vui nhộn, pháo nổ
vang, cúng rước ông bà theo tục lệ. Nhưng vì tình trạng chiến tranh có nhiều biến
chuyển căng thẳng, xóm làng chung quanh đành im lìm, vắng vẻ. Dường như ai cũng
nơm nớp lo sợ, cứ chờ chạy giặc. Suốt chặng quốc lộ từ phía nam khu phố Mộ Đức
Quảng Ngãi đến Tam Quan Bình Định tiếp tục gián đoạn lưu thông, không một chiếc
xe, bóng người qua lại, chỉ có đạn đại bác bay trên vòm trời.
Sáng nay, Liên
đoàn 1 BĐQ bắt đầu chuyển động, vài đơn vị tiến dần về hướng Đức Phổ. Đại đội
tôi cũng bận rộn không kém, quá nhiều công việc cần giải quyết. Chu kỳ tiếp tế
đã đến, tôi ra lệnh tất cả mang tối đa đạn dược, trên số quy định, chủ yếu là lựu
đạn M26, mìn Claymore, khói màu, khói cay, và các loại soi sáng; những thứ ấy
thích nghi với địa thế đánh ở Sa Huỳnh.
Đợt tiếp tế này
ngon lành vì một năm mới có một lần. Quà cáp lổn ngổn, nào bánh mứt, hột dưa,
nào thiệp chúc Tết của vợ con, thân hữu gởi ra, ai cũng một gói thơm phức, ngoại
trừ mấy chú lính trẻ con bà sơ, tội nghiệp, mặc dù sẽ được san sẻ nhau dùng. Lần
lượt từng trung đội bao quanh các thùng hàng, kẻ chia người nhận nhộn nhịp. Tôi
cũng có phần. Ngoài thức ăn, cà phê, sách báo thường lệ, do hậu cứ cung cấp,
còn thêm chai Martel với cây thuốc Capstan của người bạn gái Đà Nẵng gởi tặng.
Cô ấy chẳng bao giờ quên kèm theo mấy dòng chữ với luận điệu “củ cà rốt và cây
gậy”. Vì đời lính gian khổ tôi nhận hết.
Điều hôm nay tôi
lấy làm buồn là có lệnh thuyên chuyển Thiếu úy Nguyễn Thuận Cát sang giữ nhiệm
vụ mới bên Tiểu đoàn 39 BĐQ. Cát, một sĩ quan ưu tú, xuất thân khóa 24 Võ Bị Đà
Lạt, làm Đại đội phó Đại đội 1 này từ sau ngày Quảng Trị thất thủ. Tính tình hiền
hậu mà can đảm, anh từng giúp tôi nhổ nhiều cái chốt cam go, đặc biệt trong trận
chặn đánh một đơn vị Cộng quân viện binh từ Cửa Việt lên giải vây cổ thành Đinh
Công Tráng, Quảng Trị, đang lúc Thủy Quân Lục Chiến tấn công tái chiếm tháng
9/1972. Nay Cát đi, tuy có Thiếu úy Đặng văn Thiều khóa 6/69 Thủ Đức về thay thế,
tôi vẫn cảm thấy mất một tay đắc lực. Còn Thiều thì người Nam, dân chơi lả lướt
Sài Gòn, lần đầu tiên ra Vùng I, quê hương máu lửa, không thể một sớm một chiều
mà quen ngay với chiến trường xa lạ và phức tạp này. Đã vậy, người sĩ quan ấy rất
beau trai, mặt búng ra sữa, càng thêm mối lo cho tôi.
Tôi bảo Thượng sĩ
Nguyễn Thiệp tập họp Đại đội kiểm tra mọi thứ sau khi nhận tiếp tế, đồng thời để
anh em chào từ giã vị Đại đội phó khả kính và đón mừng người mới đến. Xong, tôi
mời các sĩ quan vô nhà cụng vài ly Martel với đôi lời tâm tình chia tay, rồi bảo
tài xế Phó Trọng lấy xe Jeep của tôi đưa Cát lên đồi Mộ Đức trình diện Bộ Chỉ
Huy Tiểu đoàn 21.
Trời đã chiều,
khu vực đóng quân trở nên yên tịnh, tôi định lấy báo ra xem thì nghe có tiếng
nói bà cụ, mẹ của Nhị, đã về bên nhà, tôi vội qua thăm. Thấy tôi đường đột bước
vô, người đàn bà có khuôn mặt khắc khổ ngồi ăn trầu nơi cái giường tre nhỏ, đứng
dậy:
– Chào ông!
– Dạ, kính chào bác!
Đi Quảng Ngãi vui không bác?
Bà cúi nhổ miếng
nước trầu vào cái lon sữa bò dưới đất rồi vừa nói vừa than thở:
– Chi đâu Trung
úy, tôi thăm cậu em mà tình hình lộn xộn quá, tôi về. Mời Trung úy ngồi chơi…
Bà quay mặt xuống
nhà dưới:
– Nhị ơi, pha nước
mời ông Trung úy uống, con!
– Thôi, cảm ơn
bác! Thăm bác chút, cháu phải đi.
Nhị lật đật bước
lên:
– Mẹ mới về, anh
ngồi chơi đã.
Tôi ngần ngừ kéo
ghế và thoáng nhìn trên bàn thờ đầu tủ mun kê sát vách gian giữa. Ngoài hộp đèn
cầy với bó nhang, chẳng có món nào khác cho ba ngày xuân. Bộ tam gồm cái lư và
cặp chân đèn bằng đồng vẫn màu xanh rêu bụi bặm. Chắc nhà đang gặp khó khăn
túng quẫn. Tôi nhớ đêm hôm qua Nhị tỏ ý muốn thôi học, dù chỉ còn năm sáu tháng
nữa nàng thi tú tài. Mấy bữa nay nàng hy vọng mẹ lên Quảng Ngãi xoay xở được
chút ít tiền, kết quả lại bất thành.
Trước hoàn cảnh y
hệt ba mẹ tôi ngày xưa thường gặp, bao lần tết nhất mà nhà cửa đìu hiu. Nhìn
nét mặt lo âu của bà, tôi không thể chịu nổi nếu làm ngơ, nên thành thật thưa:
– Bác à, cháu tên
Việt Quốc, Đại đội trưởng Đại đội 1 này, xin bác cho phép cháu dời Bộ Chỉ Huy
qua đây tạm trú ít hôm và tiện thể nhờ Nhị cùng đi với mấy chú lính mua sắm thức
ăn lẫn đồ trang hoàng nhà cửa cho vui ba ngày Tết, nghe bác?
Trước khi trả lời,
bà giở nắp quả trầu, rứt một miếng thuốc rê ra vo tròn như viên bi, đưa lên chà
qua chà lại vào hai hàm răng vốn đã đen bóng:
– Tôi định mai
29, dẫn Nhị lên ăn Tết nhà ông cậu nó. Chừ Trung úy muốn thì… cứ tự tiện, coi
như gia đình.
Tuy bà bằng lòng
nhưng sao tôi nghe trong giọng nói trầm trầm, chậm rãi ấy có ý dọa dẫm bắt giữ
Nhị của tôi làm “con tin”. Đúng là bà già trầu, mẹ vợ tương lai. Tôi ngỏ lời
cám ơn rồi nhìn Nhị ngồi sát sau lưng bà, đôi mắt nàng chớp lia, sáng rực một
cách tuyệt vời. Nhị không ngờ tôi đưa ý kiến đó. Hẳn nàng đang mừng thầm.
Xong, tôi quay ra
ngoài sân hỏi lớn:
– Xe Jeep về
chưa, Trung?
Người lính thân cận
chạy vô:
– Dạ rồi, Đại
Bàng!
– Trung lấy năm
ngàn đồng và bảo tài xế Phó Trọng chuẩn bị xe xuống phố Mộ Đức. Kêu Xá mang
súng theo luôn.
Tôi nói Nhị:
– Em nên ghi sẵn
các món hàng cần, kẻo lát quên.
– Mua những thứ
gì đây, Anh?
Nghe Nhị hỏi tôi ấm
ớ, còn lẩm cẩm ba chuyện này. Đánh giặc thì tôi húc tới bến, vấn đề ăn uống lại
không có tâm hồn. Tuy nhiên, tôi vẫn làm ra vẻ rành lắm, mắng yêu nàng:
– Thì… các món ăn
Tết như thịt cá, hoa quả, đồ cúng, và… kẹo nữa. Sắp lấy chồng tới nơi còn hỏi!
Bà cụ cười:
– Con với Trung
úy mua đại khái thôi, giặc giã mà!
– Rồi, em vô thay
đồ đi, có mấy chú lính mình khỏi lo.
Nhị mặc quần đen
với áo dài trắng như thường ngày đi học, vẫn mái tóc bồng bềnh dễ thương. Nhị
cười tươi bước lên xe. Và, như một cuộc chạy trốn, tôi nhấn mạnh ga, chiếc Jeep
vụt lao tới, tôi chỉ kịp nghe tiếng bà cụ đứng nơi ngưỡng cửa vọng theo: “Nhớ
mua trầu cau cho mẹ!…”.
Nhờ các chú Biệt
Động giúp, kẻ rửa đậu người vo nếp, mẹ của Nhị đã nấu xong đêm qua hai mươi đòn
bánh tét nhưn đậu xanh. Sáng nay 29 Tết, anh em vẫn còn bận rộn phụ gia đình
làm một mâm cơm thịnh soạn cúng rước ông bà. Tôi cùng Nhị kê bàn ghế lại gọn
gàng rồi đặt chậu bông vạn thọ ngay trước tủ thờ là vị trí tốt nhất, từ ngoài cửa
ai bước vô nhà cũng thấy. Trên các nhánh cây, Nhị gài các tấm thiệp “Cung Chúc
Tân Xuân” quá màu mè. Chỉ có nàng hài lòng thôi chứ với lính tác chiến chẳng hạp
nhãn chút nào. Năm nay hoa mai hiếm, các trận đánh chung quanh vùng còn tiếp diễn,
không ai dám vô rừng chặt. May đâu nhờ tụi thằng Trung và Xá khéo lựa chậu vạn
thọ, tuy đắt tiền nhưng nhiều bông to, vàng tươi rất đẹp.
Các sĩ quan trong
Đại đội cũng ham vui, tham gia làm các việc lặt vặt. Thiếu úy Đặng văn Thiều
loay hoay vặn Radio tìm nhạc hay, kích động, hết bản này qua bản khác. Chuẩn úy
Hạnh thì cặm cụi sắp trái cây lẫn bia lon lên giữa bàn thờ. Vì sơ ý làm sao đó,
Hạnh đánh rơi cả đĩa cam xuống đất lăn tùm lum ra tới cửa, khiến mọi người cười
rần. Làm rể kiểu đó mất vợ là cái chắc.
Xong xuôi, tất cả
bọn lính nháy mắt rủ nhau ra ngoài ngồi tán dóc, để bà cụ thắp nhang cúng vái.
Nhị thì đi mời bà con láng giềng đến nâng ly. Dự trù đông khách Trung sang nhà
kế bên mượn thêm bàn ghế.
Bữa tiệc kỳ ngộ rực
màu nhà binh đến chiều mới mãn.
Đăng nhận xét