TRANG TÀI LIỆU ĐẶC BIỆT-WEBSITES-CLIPS-PHIM GIÁ TRỊ:
*Số Đặc Biệt Tháng 8: CHÚNG TÔI HÂN HẠNH GIỚI THIỆU MỘT SỐ
TÀI LIỆU GIÁ TRỊ NHƯ SAU
*Nhạc phổ thơ Duy Hân- Hình ảnh báo Tuổi Hoa - Hội thoại -
Trang blog
*BẰNG CÁCH NÀO TC LẤY
ĐƯỢC NHỮNG BÍ MẬT KỸ THUẬT CỦA
MỸ
*CÂY MỲ TÔM
*Phim Tài Liệu: Vụ Che Đậy Thế Kỷ (về Virus Vũ Hán)
*TẠP CHÍ DÂN VĂN:
THÂN TẶNG QUÝ ĐỘC GIẢ „BÀI THƠ HỎI NGÓ
***
*Trân Trọng Giới Thiệu:
Nhạc phổ thơ Duy Hân- Hình ảnh báo Tuổi Hoa - Hội thoại -
Trang blog
Duy Hân - Toronto <hantrinh239@gmail.com>
Thân chào cả nhà,
Hân vừa làm thêm slideshow vài bài hát mới, được phổ nhạc từ
thơ Trịnh Tây Ninh, xin chân thành cảm ơn các nhạc sĩ, ca sĩ. Có vài bài
thơ được duyên may 2, 3 nhạc sĩ khác nhau cùng làm thành nhạc. Mời bấm
vào playlist theo thứ tự abc dựa theo tên bài hát, hiện có hơn 80 bài:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPeQ9bBC_3m7nRoOYGpP529PN_y4uoafc
Kỷ niệm lúc còn nhỏ luôn ghi đậm trong lòng mỗi người. Các
sách báo trước 1975 như Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc, Ngàn Thông, Thằng Bờm, Thiếu
Nhi... là những đóng góp lớn cho nét đẹp của nền văn hóa và giáo dục thời đó.
Xin tri ân các tòa soạn, tác giả, đặc biệt họa sĩ ViVi Võ Hùng Kiệt. Xin cảm ơn
các quý vị đã lưu giữ và phổ biến các cuốn sách cũ quý giá này. Mời bấm vào
link 8 Youtube, xem lại các hình ảnh để nhớ lại một thời đầy yêu thương và ước
mơ ....
Slideshow: Duy Hân - Nhạc nền: Thơ Duy Hân, nhiều nhạc sĩ,
ca sĩ làm thành ca khúc.
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPeQ9bBC_3m6BslGX5mkPUNzokUFDGLAY
Mời bấm vào xem 38 buổi hội thoại trong chương trình
"Cuộc Sống Muôn Màu", do Anthony Chim & Duy Hân - Đài Truyền hình
Việt Nam tại Calgary Canada thực hiện.
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPeQ9bBC_3m4q1pf5y-b96p4f2HKPE2T6
Đây là đường dẫn trang Blog của Duy Hân, gồm thơ, nhạc, phiếm luận, slideshow, hình ảnh,
hội thoại....cũng vừa được bổ túc bài mới.
https://duyhantrinhtayninh.blogspot.com/
Cảm ơn và thân chúc mọi chuyện tốt đẹp nhất
***
*BẰNG CÁCH NÀO TC LẤY
ĐƯỢC NHỮNG
BÍ MẬT KỸ THUẬT CỦA
MỸ
Ngày 1 tháng Hai năm 2003, khi phi thuyền con
thoi Columbia rơi trên không trung, ông Greg Chung đang ngồi ở nhà.
Con trai của ông gọi điện thoại báo tin cho bố biết về tai nạn này. Chiếc phi
thuyền bị vỡ tung trên đường trở về Trái đất, và bảy phi hành gia trên phi thuyền
bị chết hết. Ông Chung mắng đứa con trai: “Đây không phải là chuyện đùa. Con đừng
có báo tin bậy.” Ông Chung là một công dân Mỹ sinh đẻ ở Trung Hoa. Ông đang
sống với vợ, bà Ling, trong một khu gia cư khá xinh đẹp, ở thành phố Orange,
tiểu bangCalifornia. Ông mới về hưu được chừng vài tháng. Trước khi về hưu, ông
làm việc cho NASA, cơ quan phụ trách Chương Trình Không Gian của Hoa Kỳ. Ông từng
đóng góp vào việc thiết kế phòng lái cho phi hành đoàn trong chiếc phi thuyền
Columbia, chưa kể là ông đã làm nhiều việc khác đóng góp cho chuyến bay của phi
thuyền. Khi biết rõ cậu con trai, Jeffrey, báo tin là đúng. Ông cúp điện thoại,
và ngồi ôm mặt khóc một mình...
Hồi năm 1972, cơ quan NASA giao việc thiết kế, và thực hiện
phi thuyền con thoi cho công ty tư Rockwell làm. Công ty này sau đó đã bị công
ty Boeing mua lại. Trong hơn 30 năm, ông Chung là kỹ sư của công ty Boeing, làm
việc trong nhóm “stress-analysis”, thử sức chịu đựng của vật dụng thiết kế. Việc
làm của ông hết sức tỉ mỉ, và đòi hỏi nhiều kiên nhẫn, thử đi thử lại không biết
là bao nhiêu lần. Nhưng đó lại là việc làm sở trường của ông Chung. Ông làm việc
miệt mài, ít khi nào bỏ sở ra về, thậm chí ông cũng ít khi nghỉ giải lao. Ông cứ
ngồi miết ở máy vi tính, thử đi thử lại đủ mọi loại mô hình, xem coi chất liệu
nào thích hợp để làm vỏ phi thuyền, chịu đựng nổi độ nóng, và áp suất va chạm
vào phi thuyền.
Sau khi phi thuyền Columbia bị nổ tung trên không
trung, cơ quan NASA yêu cầu hãng Boeing thiết kế một phi thuyền con thoi khác.
Ông Chung là nhà thiết kế giỏi nhất trong nhóm. Xếp cũ của ông Chung điện thoại
yêu cầu công ty ký hợp đồng nên mướn ông Chung làm công việc này. Mặc dù ông đã
ở tuổi 70, song ông hoãn nghỉ hưu, và tiếp tục đi làm. Thế là ông lại quanh trở
về thói quen siêng năng cũ, về nhà trễ ăn cơm tối, sau đó lại ngồi vào bàn làm
việc cho đến khuya. Ông làm việc say sưa không phải vì người ta hứa thăng chức,
hay tăng lương cho ông, mà chỉ vì cái thú làm việc có sẵn trong người của ông
Chung. Vợ ông, bà Ling, kể lại về thói quen say mê làm việc của ông. Ông khoe
ông đã giúp hãng Boeing tiết kiệm được bao nhiêu tiền. Ông nói nhiều về việc
làm của ông đến nỗi bà Long phải bực mình, và nói: “Suốt ngày cứ nói mãi về
công ty Boeing của ông. Bộ ông không còn chuyện gì khác để nói với tôi hay
sao?”.
Tháng Tư năm 2006, nhân viên FBI đến gặp ông Chung tại nhà
riêng của ông ở thành phố Orange. Chính tay ông Chung là người thiết kế
căn nhà ông đang ở. Căn nhà có một hàng ba để ông và bà Ling ngồi nhìn ra
vườn hoa lớn phía trước. Ông Chung trồng cây chanh, và cà chua. Hàng ngày ông
hay dùng nước tái dụng để tưới hoa, tưới cây. Hai ông bà có hai người con trai
đã trưởng thành là Shane, cậu con lớn, và Jeffrey, cậu con nhỏ. Hai cậu con
cũng sống ở gần cha mẹ.
Ông Chung dáng người cao, gầy, với khuôn mặt trầm tĩnh, mở cửa
mời khách bước vào trong nhà. Họ mở đầu câu chuyện bằng cách hỏi thăm ông Chung
về một người tên là Chi Mak, bạn của ông Chung. Ông này đã bị bắt trước đó vài
tháng. Chi Mak là người Hoa gốc Hong Kong đến California định cư vào thập niên
1970, và làm kỹ sư cho công ty Power Paragon, một công ty xây cất hệ thống phân
phối điện lực cho Hải Quân. Từ nhiều năm nay, Trung quốc cố tìm cách canh tân hạm
đội hải quân của họ. Cơ quan FBI nghi ngờ rằng Mak đã được tình báo Trung quốc
huấn luyện, gửi sang Hoa Kỳ để làm gián điệp.
Sau hơn một năm điều tra, đưa đến việc bắt giữ Chi Mak, cơ
quan FBI nghe lén điện thoại của Chi Mak, và bám sát y để theo dõi những giao
du hàng ngày của Chi Mak. Có một lần trong lúc Chi Mak và vợ đi nghỉ mát ở Alaska,
thám tử Mỹ lẻn vào nhà lục soát suốt đêm. Họ cố gắng không để lại một dấu vết
nào, thậm chí màng nhện ở phòng khách họ cũng cố tình giữ nguyên. Vào trong nhà,
họ chụp hình hàng trăm tài liệu liên quan đến hoạt động của Chi Mak. Trong đó,
có cuốn sổ ghi điạ chỉ, số điện thoại người quen của Chi Mak, vài người là kỹ
sư Mỹ gốc Hoa. Một trong những người này là Greg D. Chung.
Ông Chung tên viết theo tiếng Hoa là Dougfan Chung, sang Hoa
Kỳ định cư từ hơn 40 năm trước. Ông Chung cho FBI biết ông và bà Ling vợ ông thỉnh
thoảng có đi ăn cơm Tàu chung với Chi Mak. Vì Chi Mak là kỹ sư ngành điện, còn
ông Chung là kỹ sư ngành cấu trúc, nên hai người ít khi bàn chuyện công việc
làm với nhau. Nhân viên FBI cám ơn ông Chung rồi ra về. Họ tìm được vài tin tức
hữu ích, song không có tin gì quan trọng, hay ông Chung không làm điều gì sai
trái cả.
Vài tuần sau, nhân viên FBI lại lục soát nhà của Chi Mak lần
nữa. Kỳ này họ bắt gặp một lá thư viết bằng tiếng Hoa trong mớ giấy báo cáo
hàng tháng của ngân hàng. Lá thơ mang nhãn hiệu một khách sạn ở Bắc Kinh,
do Gu Wei Hao viết. Ông Gu Wei Hao là một quan chức cao cấp trong Bộ Hàng Không
của Trung Quốc. Lá thư đó không phải gửi cho Chi Mak, mà là gửi cho Lingjia và
Dongfan Chung.
Trong lá thư, và sau này còn thêm một số thư khác, viên chức
cao cấp họ Gu nhờ ông Chung thu thập tài liệu để giúp Trung quốc thực hiện
chương trình không gian của họ. Chính phủ Trung quốc mới bắt đầu kế hoạch xây dựng
trạm không gian đặt trên qũi đạo trái đất, và Gu đang tìm cách thu thập tin tức
kỹ thuật để giúp thực hiện kế hoạch này. Lá thư của Gu viết cho ông Chung nói
rõ: “Tất cả chi phí thu thập, hay cần phải mua tin tức, chúng tôi sẽ cử người đích
thân trả bằng tiền mặt, và ông có quyền đem tiền ra khỏi nước một cách an
toàn.”. Gu còn mời ông Chung sang Quảng Châu, và tổ chức buổi họp mặt
“trong khung cảnh giới hạn, ít người”, “rất an toàn” để có thể cùng bàn luận về
những vấn đề kỹ thuật. Vì ông Chung là công dân Mỹ, nên Gu đề nghị ông nên làm
đơn xin chiếu khán du lịch, với lý do là đi thăm bà con ở Trung quốc. Gu kết luận
ở phần cuối lá thư: “Đây là niềm vinh dự và may mắn cho Trung quốc khi ông nhận
thức rằng ông nên đem tài năng, trí tuệ của ông phục vụ đất nước.”
TỪ NAY ÔNG CHUNG LÀ KẺ BỊ TÌNH NGHI LÀM GIÁN ĐIỆP CHO TRUNG
QUỐC. Cơ quan FBI bắt đầu mở cuộc điều tra, đặt dưới sự điều động của một thám
tử tên là Kevin Moberly. Người thám tử có dáng dấp thể thao, mạnh khoẻ, khoảng
trên 40, tóc điểm vài sợi bạc, dưới cằm để một chòm râu được chăm sóc khá kỹ.
Khoảng 2 giờ sáng một đêm trong tháng Tám năm 2006, ông Moberly ngồi bật dậy,
thay quần áo ra khỏi nhà. Ông cùng một thám tử khác tên là Bill Baoerjin lái xe
đến thành phố Orange. Họ đậu xe trên đường Grovewood Lane, cách nhà
ông Chung chưa đầy 100 yards. Họ ngồi yên trong xe khoảng chừng 20 phút, quan
sát khu xóm xung quanh, và để cho đôi mắt quen dần với bóng tối. Sau đó họ dùng
đèm bấm có dụng cụ đặc biệt che bớt ánh sáng, đến lục tìm tòi trong hai thùng
rác trước cửa nhà ông Chung. Họ thấy một chồng báo Hoa văn. Họ ôm hết cả chồng
báo đem về văn phòng.
Kẹp vào giữa chồng báo là những tài liệu kỹ thuật của công
ty Rockwell và Boeing. Thám tử Moberly trước đây đã từng làm sĩ quan tình báo
bên Không quân, vì thế ông nhận ra ngay những chữ viết tắt như “O.V”, tức
Orbital Vehicle, và “S.T.S” hay Shuttle Transportation System đều là những tài
liệu kỹ thuật liên quan đến phi thuyền không gian. Không có bằng chứng nào cho
thấy ông Chung muốn trao những tài liệu kỹ thuật này một cách bí mật. Việc ông
làm chỉ mang hình thức vứt bỏ những tài liệu kỹ thuật cũ có sẵn trong nhà, vì
ông sợ bị vạ lây sau khi vụ bắt giam Chi Mak được loan tin từ vài tháng nay.
Một tuần sau, thám tử Moberly và Baoerjin quanh trở lại lần
nữa để tìm kiếm. Lần này một người hàng xóm tình cờ lái xe đi ngang, khiến cho
hai điệp viên phải ngồi thụp xuống, núp sau hai thùng rác cao. Ông Moberly thấy
việc lục lọi thùng rác coi bộ rủi ro nhiều quá, ông quyết định nhờ công ty xe rác
hợp tác. Trên đường lái xe rác đến trung tâm chế biến rác, xe vận tải sẽ ngưng ở
một điểm hẹn để nhóm FBI hốt hết rác nhà ông Chung đem về nghiên cứu.
Trong tuần lễ kế tiếp, ông Chung đẩy thùng rác ra trước cửa
nhà vào lúc trời vừa hừng sáng. Ông đẩy thùng rác nằm kẹt giữa hai thùng
“recycle” mà ông đã kéo ra từ đêm hôm trước. Sau đó, ông đứng núp sau bụi cây
quan sát một lúc, trước khi ông bước vào trong nhà. Khi nhân viên FBI thu hồi
được vật liệu trong thùng rác nhà ông Chung, họ tìm thấy khoảng 600 trang tài
liệu kỹ thuật của công ty Boeing, với đầy đủ hình ảnh rõ ràng. Lâu lâu trên
trang giấy còn đóng con dấu: “tài sản riêng của công ty” hay “tài liệu mật, cấm
trao đổi.”
Tháng Chín, ông Moberly đến nhà ông Chung cùng với một đồng
nghiệp tên là Gunnar Newquist. Ông này là điều tra viên hình sự của Hải Quân.
Hai người đến đây để thực hiện một cuộc phỏng vấn. Hai thám tử ngồi ở ghế sofa
màu trắng, còn ông Chung ngồi ở bàn uống cà phê đối diện. Ông Moberley mở đầu
câu chuyện bằng việc hỏi thăm tin tức liên quan đến Chi Mak. Sau một giờ chuyện
vãn, ông tìm cách hướng câu chuyện liên quan đến vị quan chức Gu Wei Hao làm việc
ở bộ hàng không Trung quốc. Ông Chung cho biết qủa thực ông có gặp vị quan chức
này trong chuyến đi thăm Trung quốc năm 1985, và sau đó một vài lần vào đầu
thập niên 1990’s.
Ông Moberly đặt câu hỏi: “Ông Gu có bao giờ nhờ ông làm việc
gì hay không?”
Ông Chung trả lời: “Không.”
Ông Chung đứng dậy, đi vào nhà bếp lấy một ly nước để uống.
Khi ngồi xuống ghế, ông Moberly lôi ra lá thư của ông Gu đặt lên bàn uống cà
phê. Ông yêu cầu ông Chung đọc to lá thư đó lên. Ông Chung dịch lại lá thư với
giọng nói lạc thần, mất bình tĩnh.
Moberly đặt câu hỏi: “Trong nhà của ông có còn một tài liệu
nào khác lẽ ra ông không được cất giữ hay không?” Sau đó, ông ta đưa cho ông
Chung tờ giấy để ký tên cho phép nhân viên FBI lục xét nhà.
Ông Moberly gọi ngay một toán thám tử đứng chờ phía trước,
xông vào thực hiện công việc lục soát nhà của ông Chung. Bà Ling lúc đó vừa
về đến nhà, dắt theo đứa cháu trai. Cả ba đứng lặng yên xem hàng chục thám tử lục
lọi từng khe ngách nhỏ của căn nhà, trên khoảng đất rộng gần một mẫu tây.
Ở dưới bao lơn phía sau căn nhà, một thám tử tìm thấy
một cánh cửa nhỏ. Cánh cửa được chắn ngang bằng một thanh gỗ. Ông mở cánh cửa ra,
và bước xuống vài bậc thềm, ông khám phá ra một ngõ ngách nhỏ, đủ để lách
mình đi vào, chạy dọc theo chiều dài của căn nhà. Khúc đầu, ngõ ngách này chỉ đủ
cho một người khom lưng đi vào. Sau đó, mặt đất thoai thoải dốc, và người bước
vào có thể đi đứng dễ dàng. Từ trong nhà không có lối đi vào ngã ngách này. Khoảng
đất trông như một basement, hầm nhà trơ trụi, và chỉ có bóng đèn soi đường. Ở một
bên phòng trống này chồng chất mấy cái nệm giường cũ, xe đạp ba bánh cũ, hay
vài miếng gỗ tạp. Đi tiến thêm về phía trước của căn nhà, đằng sau tấm ván ngăn
sơ sài, là một căn phòng nhỏ, sàn gỗ thô sơ, với nhiều kệ sách. Trên kệ sách có
rất nhiều binder, bìa cứng, đựng hồ sơ.
Người nhân viên dẫn ông Moberly đi xuyên vào ngõ hẹp để cho
ông thấy những binder này. Trong những binders đó chứa rất nhiều tài liệu qúi
liên quan đến việc chế tạo các loại máy bay quân sự của Hoa Kỳ như oanh tạc cơ
B-1, máy bay chở hàng C-17, chiến đấu cơ F-15, và trực thăng vận tải Chinook 47
và 48. Ông Moberly nói với tôi về cảm nghĩ của ông khi bước vào kho tài liệu
này: “Tôi có cảm tưởng như mình vừa đi lạc vào bãi mìn của vua Solomon ngày
xưa.”. Không rõ ông Chung có vi phạm luật nào hay không, nhưng chắc chắn là ông
Chung đã vượt quá lằn ranh của một người sưu tầm tài liệu kỹ thuật.
Ông Moberly cầm đại một binder, chạy vội lên lầu, đặt lên
bàn cà phê cho ông Chung xem. Ông gằn giọng: “Tại sao ông không nói cho chúng
tôi biết ông có những tài liệu này?”. Ông Chung không trả lời, quay mặt đi chỗ
khác.
Ngay lúc đó điện thoại reo, và ông Chung bước sang phòng ăn
để trả lời điện thoại. Ông Moberly có đem theo một cộng sự viên duy nhất hiểu
được tiếng Quan Thoại, đó là Jessie Murray. Jesse Murray đứng nghe lóm câu chuyện
thì hiểu là ông Chung đang nói chuyện với cậu con trai lớn, cậu Shane, bằng tiếng
Quan Thoại. “Họ sẽ đến nói chuyện với con đó. Họ sẽ hỏi con về chuyến đi Bắc
Kinh của trường con.”. Chuyến đi đó xảy ra vào năm 1985, và ông Chung đã gặp Gu
Wei Hao, viên chức cao cấp của Bộ Hàng Không. Ông Chung dặn con: “Con cứ nói với
họ là con quên hết rồi. Chỉ nói vắn tắt là con không biết.”. Nghe đến đây,
ông Murray giật điện thoại khỏi tay ông Chung và cúp máy ngay, cảnh
cáo ông Chung rằng ông ta có thể can tội cản trở công lý, một tội rất nặng.
Cuộc lục soát nhà ông Chung tiếp tục, kéo dài suốt một ngày.
Điều tra viên tìm thấy một số tài liệu đã bị đốt, và nhiều hồ sơ khác còn để
trong phòng làm việc của ông Chung ở trên lầu. Đến chiều tối, họ khuân đi hơn
150 thùng tài liệu. Trước khi rời khỏi nhà ông Chung, ông Moberly gặp cậu con cả
Shane ở lề đường trước cửa nhà xe. Cậu ấy than: “Bố tôi còn nặng lòng với cố quốc
quá. Ông cụ cần phải suy nghĩ lại về lòng trung thành với Trung quốc.”.
ÔNG CHUNG SINH RA TRONG MỘT NGÔI LÀNG NHỎ ở tỉnh Laoning, một
tỉnh nhỏ vùng đông bắc Trung quốc. Khi còn nhỏ ông là một cậu bé nhút nhát, chỉ
thích sưu tầm đồ chơi nho nhỏ: tem cổ, đá lạ, hay nắp hộp kem đánh răng. Cha mẹ
của cậu là Phật tử thuần thành. Ông bà dạy con phải quí trọng thiên nhiên, cây
cỏ. Cậu bé tỏ ra say mê tìm hiểu về hoa cỏ, cây cối, và cậu rất bất bình khi thấy
những đưá trẻ cùng lứa tuổi bóp chết hàng đàn kiến nhỏ.
Trong thời Thế Chiến Thứ Hai, khi đoàn quân Nhật đang tiến
vào các tỉnh phía đông, gia đình họ Chung phải bỏ làng mạc, cùng với hàng triệu
người Hoa khác, đi lánh nạn. Trên đường chạy về phương nam, họ phải tạm dừng
chân vì có cuộc giao tranh bằng súng lớn. Gia đình họ Chung phải trốn trong ruộng
bắp. Một nông dân tử tế giúp họ Chung cho vào nhà tá túc, và nấu cháo bắp cho
ăn. Gia đình đó không nhận tiền đền đáp của họ Chung. Lúc đó cậu bé Chung mới
được tám tuổi, và cậu vẫn nhớ mãi nghĩa cử cao đẹp của gia đình nông dân này.
Cha của ông Chung là một kỹ sư công chánh, làm việc trong bộ
hoả xa. Ông là người theo phe Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1946, khi phe Mao Trạch
Đông dành được quyền kiểm soát toàn thể lục điạ Trung Hoa, gia đình họ Chung phải
bỏ chạy sang Đài Loan. Tại đây phe nước Trung Hoa Dân Quốc, hay phe Quốc Dân Đảng
thành lập chính phủ lưu vong. Kể từ đó có hai nước Trung Hoa - Cộng Hoà Nhân
Dân Trung Hoa, do Đảng Cộng Sản cai trị, và Trung Hoa Dân Quốc ở Đài
Loan. cả hai đều tự nhận mình mới là người đại diện cho quyền lợi của dân Trung
Hoa. Thống chế Tưởng Giới Thạch, nhà độc tài quân sự của Đài Loan tung ra rất
nhiều kế hoạch tuyên truyền, nhồi sọ trẻ nhỏ ở Đài Loan. Giống như các học sinh
nhỏ tuổi khác, Chung đã được dạy phải phỉ nhổ vào chế độ của Mao Trạch Đông.
Nhưng ở sâu trong tâm khảm, chú bé vẫn tự hào mình là người Trung Hoa, và qúi mến
văn hoá Trung quốc.
Khi còn học trung học, Chung phải theo học những khoá huấn
luyện quân sự bắt buộc. Sau này, cậu có đăng lính vào Lực Lượng Hải Quân của
Đài Loan, với mục đích sẽ giải phóng Hoa Lục thoát khỏi sự cai trị của Mao. Một
người anh em của Chung kể lại rằng chính cha của cậu Chung khuyên con đi học
ngành kỹ sư. Do đó, Chung xin học trường Đại Học Quốc Gia Đài Loan, một đại học
danh tiếng. Sau khi ra trường, câu Chung được bổ đi làm tại một đập ngăn nước ở
phía bắc Đài Loan. Tại đây, cậu gặp người đẹp Lingjia Wang, một hoạ sĩ, đang
làm cô giáo dạy trong trường mẫu giáo gần đó. Ít lâu sau hai người thành hôn.
Chung rất say mê ngành kỹ sư, cậu là sinh viên giỏi nhất
trong lớp. Nhưng triển vọng tương lai nghề nghiệp của cậu sẽ không đi xa nếu cứ
lại Đài Loan. Vì thế, giống như nhiều kỹ sư đồng lứa, cậu mơ một ngày nào đó sẽ
sang được Hoa Kỳ học tiếp lên cao. Trong lúc làm việc tại dập nước, cậu chịu
khó học tiếng Anh do bà vợ ông cố vấn Mỹ dạy.
Năm 1962, cậu xin được vào học tại trường đại học Minnesota.
Cậu lấy bằng cao học về kỹ sư công chánh, và được tuyển vào làm cho hãng Boeing
ởPhiladelphia. Cậu là một chuyên gia thử nghiệm “stress” trong Vertical Takeoff
and Landing Division, phụ trách về sức chịu của thân máy bay trong giai đoạn cất
cánh và hạ cánh. Bà Ling học thêm về Hội hoạ. Vào thời điểm đó, nước Cộng Hoà
Nhân Dân Trung Hoa, hay Trung Cộng không cho người dân xuất ngoại. Gia đình họ
Chung chỉ có vài người bạn thân là người Hoa, đa số là dân Đài Loan sang Hoa Kỳ
định cư. Thú vui của họ là đi thăm bảo tàng viện ở New York, đi nghỉ mát
ngoài bờ biển tiểu bang Delaware, và bắt cua về ăn chung với nhau.
Một trong những người bạn thân từ thuở nhỏ của ông Chung là
Thomas Xie. Anh ta lúc đó đang là sinh viên ở trường New
Mexico State University. Anh thường liên lạc với Chung qua thư từ. Có
lần anh cho biết anh được nhận vào trường University of Chicago,
nhưng thiếu tiền ghi danh. Hai vợ chồng Chung gửi cho anh Xie hai ngàn đô la,
không thắc mắc gì cả. Anh Xie nói với tôi về ông Chung như sau: “Greg lúc nào cũng
tử tế, sẵn lòng giúp đỡ người khác.”
Bà Ling thì thuộc loại người quảng giao, ưa xã giao hơn ông
Chung. Bà muốn có nhiều bạn bè thân quen để giao tiếp. Hai vợ chồng cùng gia nhập
Hiệp Hội Người Đài Loan ở điạ phương. Trong những lần họp mặt với nhau,
hai vợ chồng Chung ủng hộ ý kiến thống nhất hai nước Trung Hoa: Đài Loan và Hoa
Lục nên kết hợp lại làm một. Họ phản đối ý kiến phân chia ranh giới giữa hai
khu vực. Bà Ling còn nói thêm: “Chúng tôi nghĩ rằng cả thế giới nên sống hoà hợp
với nhau. Mọi cuộc xung đột đều vô nghĩa đối với chúng tôi.”. Quan điểm của
hai vợ chồng ông Chung làm cho một số người trong Hội Đài Loan không ưa, bởi vì
họ nghĩ rằng vợ chồng nhà Chung không còn trung thành với Đài Loan như xưa.
Năm 1972, ông Chung làm việc cho công ty Rockwell. Công ty vừa
nhận được hợp đồng chế tạo phi thuyền con thoi đầu tiên cho cơ quan NASA. Ông
Chung dọn sang sống ở miền Nam California. Khi đó, ông Chung và bà Ling đã trở
thành công dân Mỹ. Con đường công danh, nghề nghiệp của ông Chung thăng tiến rất
mau. Trong khi đó bà Ling cũng khá thành công về mặt xã hội, và hội hoạ. Hai vợ
chồng dự tính sẽ mãi mãi sinh sống tại Hoa Kỳ. Giống như nhiều người di dân
khác, họ cảm thấy thoải mái, hài lòng với ba dạng tịch khác nhau: Người Hoa,
người Đài Loan và người Mỹ.
TRONG SUỐT THỜI GIAN CUỐI THẬP NIÊN 1970’s, nước Trung Hoa Cộng
Sản trải qua nhiều cuộc cải cách to lớn về chính trị, và kinh tế. Thái độ thù
nghịch chế độ cộng sản của hai ông bà Chung giảm bớt đi rất nhiều. Bà Ling nói
với tôi: “Bỗng dưng, cánh cửa mở ra cho chúng ta có dịp giao tiếp với Trung quốc.
Chúng tôi nao nức, tò mò, muốn tìm hiểu về cội nguồn của mình.”. Họ nhận thấy rằng
chế độ Trung Hoa Dân Quốc cũng chẳng lấy gì gọi là dân chủ hơn chế độ cộng sản.
Ông Ching Wang, bạn thân của ông Chung từ hồi trung học, hiện là giáo sư Hoá học
của đại học UC San Francisco, nói với chúng tôi rằng có sự chuyển hướng trong nếp
suy nghĩ của người Đài Loan. Điều này cũng dễ hiểu đối với những người đã định
cư từ lâu ở nước ngoài, và không có nghĩa là chúng tôi không còn trung thành với
Đài Loan. Ông Wang phân tích: “Chúng tôi bắt đầu có những tư tưởng nổi loạn.
Chúng tôi không còn tin vào những điều đã được tuyên truyền nhồi sọ vào đầu óc
chúng tôi trước đây.”. Truyền thông Đài Loan lúc nào cũng mô tả Trung Cộng như
một xã hội chậm tiến, mọi rợ. Nhưng khi xem truyền hình tổng thống
Richard Nixon đi thăm Bắc Kinh, chúng tôi thấy thành phố này cũng khá sạch sẽ,
và thịnh vượng.
Thấm nhuần triết lý Phật Giáo, chủ trương “buông xả” giúp
ông Chung dễ dàng tha thứ cho những điều xấu xa mà chế độ của Mao Trạch Đông từng
gây ra. Một người em của ông Chung nói: “Trong bà con của chúng tôi có người đã
bị Cộng Sản giết. Nhưng nghĩ cho cùng thì đó là thế hệ cũ. Chúng ta không thể
tiếp tục giữ mãi mối hận thù trong đầu. Anh Greg của chúng tôi cũng cảm thấy
như vậy.”.
Khi họ đến tuổi gần bốn mươi, họ cảm thấy cần phải truy
nguyên về nguồn gốc Trung Hoa trong máu huyết của họ. Bà Ling mạnh dạn nói: “Phải
trở về nguồn mới được. Nếu không chúng ta sẽ giống như trái bí rợ. Cái đít thì
to mà trong lòng chẳng còn trái tim.”
Năm 1976, sau khi đi xem hai nhạc sĩ Trung Hoa đến biểu diễn
ở Los Angeles, ông Chung bèn đi tìm mua một đàn bầu hai giây của Trung Hoa
đem về nhà tập gẩy đàn. Ông Chung và bà Ling bắt đầu sưu tầm những truyền
đơn, tài liệu của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Kể cả những tài liệu về Cách Mạng
Văn Hoá, và những bài viết tiếc thương Mao Trạch Đông sau khi Mao chết. Ông
Chung đọc rất kỹ, ghi chép bên lề từng bài viết. Kể từ thập niên 1950’s, đa số
người Hoa ở Hoa Lục đều viết Hoa Văn theo kiểu giản đơn của Mao Trạch Đông. Phần
lớn người Hoa ở Đài Loan vẫn còn viết Hoa văn theo lối cũ. Ông Chung và bà Ling
sẵn sàng tiếp thu lối viết kiểu mới.
Năm 1976, sau khi Mao chết, đó cũng là thời điểm kết thúc Cuộc
Cách Mạng Văn Hoá, và khởi đầu giai đoạn canh tân của Đặng Tiểu Bình. Trung quốc
gửi rất nhiều phái đoàn khoa học gia và kỹ sư sang các nước Tây phương. Trí thức
Trung Hoa luôn luôn tâm niệm phải “phải dùng khoa học để cứu Trung Quốc.”. Ông
Chung theo dõi mọi tiến bộ về khoa học của Trung quốc với niềm tự hào, hãnh diện.
Ông cắt dán, lưu trữ những bài báo, hình ảnh liên quan đến việc Trung quốc
phóng vệ tinh. Và ông cũng bắt đầu đi dự những buổi nói chuyện của các nhóm học
giả, nhà ngoại giao Trung quốc khi họ sang thăm Hoa Kỳ. Trong một buổi hội thảo
năm 1979, ông Chung gặp Chen Len Ku, Giáo sư công nghệ của Viện Kỹ Thuật
Harbin. Ông Chen này đang đi tìm những tài liệu giảng dạy về “stress analysis”,
phân tích sức chịu đựng của vật liệu. Đề tài này là phạm vi chuyên môn của ông
Chung. Ông Chung về nhà làm photocopy những bản ghi chép hồi còn học ở University of
Minnesota, gửi sang cho ông Chen theo đường biển.
Khi gửi những tài liệu này đi, ông Chung còn viết một lá thư
rất cảm động như sau: “Tôi không biết mình có thể đóng góp được gì cho tổ quốc.
Tôi lấy làm hãnh diện về những thành quả nhân dân ta đã làm được cho Quê Mẹ.
Tôi lấy làm ân hận mình đã không đóng góp được gì nhiều.”.
GIÁO SƯ CHEN ĐEM LÁ THƯ VỀ khoe với đồng nghiệp ở Harbin.
Hẳn là các quan chức cao cấp Trung cộng cũng nghe nói đến chuyện này. Qua năm
sau, ông Chung được mời đến họp tại một khách sạn ở Los Angeles. Diễn giả
chính trong buổi họp này là Gu Wei Hao, quan chức của Công Ty Kỹ Nghệ Hàng
Không Trung quốc. Đây là một công ty quốc doanh thành lập từ thời thập niên
1950’s với sự trợ giúp của Nga Xô Viết. Công ty này gần như biến mất khi quan hệ
Trung Xô bị gẫy đổ, bây giờ người ta đang định canh tân lại công ty. Gu Wei Hao
khẳng định Trung quốc cương quyết sẽ học hỏi tìm tòi những kỹ thuật tân tiến,
nhất là trong lãnh vực không gian. Sau khi nghe bài diễn thuyết, ông Chung nói
chuyện khá lâu với Gu. Trung quốc cần phải cải tiến việc thiết kế khung máy
bay, phi thuyền, và đó là lãnh vực chuyên môn mà ông Chung là chuyên gia, biết
rất rõ. Sau buổi họp này, ông Chung cũng gặp Chi Mak.Tay này đã bắt đầu
sưu tầm tài liệu kỹ thuật cho Trung quốc từ lâu, thế mà ông Chung không hay biết.
Vào thập niên 1950’s, Đảng Cộng Sản Trung quốc đưa ra chiến
lược qui mô thu thập tin tức. Viện Khoa Học Thông Tin Kỹ Thuật, thành lập năm
1958, lấy được hàng ngàn tài liệu nước ngoài, đem về dịch sang tiếng Hoa. Các
quan chức cao cấp, học giả Trung Hoa đi Âu Châu và Hoa Kỳ dự hội nghị khoa học
chịu khó ghi chép rất kỹ, nghe ngóng, nghe lén, và thỉnh thoảng còn ăn cắp cả
những tài liệu chưa được xuất bản. Vào khoảng giữa thập niên 1960’s, chính phủ
có khoảng 11,000 tạp chí ngoại quốc, năm triệu bằng khoán trí tuệ, và vài trăm
ngàn phúc trình nghiên cứu kỹ thuật, kể cả biên bản hội nghị, hay những đề tài
trình luận án tiến sĩ.
Chính quyền của Mao Trạch Đông chú trọng vào việc sưu tầm những
tin tức có thể ứng dụng cho lãnh vực quân sự. Sau khi Mao chết, Trung quốc mở rộng
phạm vi sưu tầm. Đến tháng ba năm 1986, Đặng Tiểu Bình thành lập Chương Trình
Nghiên Cứu & Phát Minh Kỹ Thuật Cao Cấp, lấy bí số là 863. Chương trình này
đặt ra chỉ tiêu làm việc từng năm, từng tháng, và nhấn mạnh những điạ hạt
phải chú trọng gồm có: không gian, sinh học, kỹ thuật laser, kỹ thuật tin học,
năng lượng, và nguyên vật liệu mới. Chính phủ đỡ đầu cho các hoạt động nghiên cứu,
và lập ra những công ty quốc doanh để chế tạo, hay nhập cảng những kỹ thuật cần
thiết.
Khi nào có thể làm được, những công ty này phải cố tìm ra sản
phẩm của công ty Tây phương bằng cách mua lại tài sản trí tuệ, hay đánh tráo,
ăn cắp cho bằng được. Sau khi tất cả những thủ đoạn này làm không xong, chính
phủ sẽ đứng ra yểm trợ cho hoạt động gián điệp. Bộ An Ninh Nhà nước và cơ quan
tình báo quân sự sẽ huấn luyện điệp viên để gửi sang Hoa Kỳ và các nước Âu
châu. Họ cũng tuyển mộ những khoa học gia, kỹ sư, và chuyên gia sinh đẻ ở Trung
quốc hiện đang sống ở hải ngoại, nhất là những người có lý lịch an ninh trong sạch
được làm trong những cơ sở bí mật. Có khi những khoa học gia này được yêu cầu
phải lấy cắp một loại tin tức bí mật nào đó. Song cũng có khi chính quyền Trung
quốc áp dụng chiến thuật “thu thập hàng ngàn hạt cát” ráp chúng lại thành sản
phẩm mong muốn.
Lấy ví dụ trường hợp ông Wang. Ông là giáo sư danh dự về
ngành hoá học dược phẩm. Ông phụ trách nghiên cứu cho công ty dược phẩm Merck hồi
thập niên 1970. Sau khi nghiên cứu về microbes có ở trong đất nhiều năm, ông
Wang và các đồng nghiệp phát minh loại thuốc chống ký sinh trùng lấy tên là
ivermectin. Chỉ ít lâu sau, tin tức về sự thành công của ông Wang được đăng tải,
ông nhận được điện thoại của nhân viên làm cho công ty dược phẩm quốc
doanh ở Mãn Châu mời ông Wang đi sang thăm Trung Hoa, dặn ông đem theo mẫu
microbe dùng để chế ra dược phẩm. Ông Wang nói rằng có lẽ người gọi điện thoại
mời ông đi Trung quốc không hiểu việc họ làm là một điều hỗn láo, rất xấu. Thậm
chí họ còn khinh thường ông bằng cách yếu cầu ông bỏ tiền túi ra mua vé máy bay
mà đi. Ông Wang giận lắm, cúp điện thoại, không thèm trả lời.
Ông Chung thì ngược lại, có thái độ khác hẳn với ông Wang.
Ông Chung hăm hở muốn giúp đỡ Trung quốc. Nói về phương tiện tài chánh, vợ chồng
ông Chung tương đối rất khá giả. Họ có chung cư cho thuê ở thành phố Alhambra,
và một xưởng sửa xe hơi khá phát đạt ở Long Beach. Đấy là chưa kể hai vợ
chống sống rất tằn tiện. Họ cắt tóc cho nhau để đỡ tốn tiềm. Năm 1984, khi Thế
Vận Hội Muà Hè tổ chức ở Los Angles đang diễn ta, vợ chồng ông Chung là một
trong những Hoa Kiều hải ngoại được mời dự yến tiệc cùng với các lực sĩ Trung
quốc. Có đôi lần, theo l72i yêu cầu của Lạnh Sự Quán Trung quốc ở San
Francisco, vợ chồng ông Chung nhận lời bảo trợ, đỡ đầu cho người Hoa mới đến định
cư ở California. Ông bà dẫn họ đi mua sắm những món đồ cần thiết cho cuộc sống,
và chở họ đi chợ trong vài tháng đầu mới định cư.
Tháng Hai năm1985, ông Chung nhận được thư của quan chức tên
là Chen Qi-Nan mời ông đi Trung quốc dự hội nghị “trao đổi kỹ thuật”. Ông Chen
đề nghị ông Chung soạn sẵn tài liệu liên quan đến những vấn đề kỹ thuật. Trong
đó có việc thử sức chịu đựng của khung máy bay sau khi sử dụng nhiều lần.
Ông Chung trả lời thư mời rằng đến tháng Bảy sắp tới là thời
gian thuận tiện để ông đi Trung quốc nhân dịp nghỉ hè vài tuần, để ông có dịp
chính mắt mính đi thăm phong cảnh của Quê Mẹ. Ông xin công ty Rockwell cho ông
nghỉ phép bảy tuần lễ để đi chơi.
Ông Chung vẫn còn giữ lá thư mời, cũng như bản nháp thư trả
lời của ông. Đọc cả hai lá thư, không biết là Trung quốc mang ơn ông, hay là
ông mang ơn Trung quốc. Trong một lá thư gửi cho bạn đồng lieu của Chen Qi Nan,
ông Chung viết: “Thật là một vinh hạnh lớn cho tôi, và tôi lấy làm phấn khởi
khi có dịp đóng góp vào kế hoạch canh tân Quê Mẹ.”. Động lực đầu tiên xúi ông
tiếp tay cho Trung quốc là “nghĩa vụ của một con dân”. Bà Ling phải thú nhận:
“Nhà tôi rất trung thành với tổ quốc. Ông ấy có một tấm lòng yêu nước rất lớn.”
Chen và Chung tiếp tục trao đổi thư từ với nhau nhiều lần.
Chen hỏi ông Chung về các loại máy bay, và cách thiết kế trực thăng, và có lẽ
ông Chung muốn khoe khoang kiến thức của mình, lại bàn luôn sang chương trình
phi thuyền con thoi. Chen phải nhắc nhở ông Chung: “Tôi vẫn mong được ông chỉ
trình bầy về các loại máy bay qui ước thôi.”. Sau đó để tránh khiến ông Chung bị
giảm bớt lòng hăng say, Chen hứa việc trình bầy về phi thuyền con thoi cũng sẽ
được đưa vào nghị trình.
CUỐI THÁNG SÁU NẮM 1985, ông Chung, bà Ling bay đi Trung quốc
cùng với hai cậu con trai ở tuổi teenager. Trong lúc cậu Shane và Jeffrey theo
học lớp dạy Hoa Văn ở Bắc Kinh, ông Chung và bà Ling đi thăm khoảng hơn một chục
thành phố khác nhau cùng với các đoàn du lịch. Họ ghé thăm nhiều nơí chế
tạo máy bay ở tỉnh Nanchang, Chengdu và Xi’an. Bộ hàng
không sắp xếp, và trả hết phi cho những chuyến đi này. Ông Chung còn là diễn giả
trình bầy những vấn đề kỹ thuật cho mọi người nghe. Chương trình diễn thuyết của
ông được các đại học lớn, và cơ xưởng kỹ nghệ đài thọ. Ông Chung dùng phim ảnh,
tài liệu mang từ Mỹ sang để trình bầy về cách thiết kế phi thuyền của Cơ Quan
Không Gian Hoa Kỳ (NASA), làm cách nào để đưa phi thuyền con thoi trở về trái đất
an toàn. Ông Chung nhận thấy những kỷ thuật ở Bắc Kinh quá lỗi thời, có từ thập
niên 1950’s và chưa được canh tân, cập nhật.
Chuyến đi thăm Trung quốc lần này là chuyến đi đầu tiên
trong đời ông Chung ở tuổi chững chạc. Nó để lại trong tâm khảm ông rất nhiều
dư âm quan trọng cả về mặt chuyên môn, cũng như tình cảm cá nhân. Xen vào giữa
những buổi diễn thuyết ở các xí nghiệp, ông Chung còn được Bộ Hàng Không sắp xếp
cho đi thăm nhiều thắng cảnh đẹp của đát nước Trung Hoa. Đó là những nơi khi
còn nhỏ, cậu bé Chung hằng ước mơ được đi thăm. Ví dụ như Tượng Phật vĩ đại xây
trên núi Leshan, và Chuà Dyan ở thành phố Xi’an. Trong lúc lái xe đi qua
nhiều làng mạc, ông Chung trông thấy dân quê Trung quốc hái sen từ vũng sình lầy.
Bà Ling kể lại cho tôi rằng khi ông Chung ngồi toạ thiền, ông đã hồi tưởng và
thấy được cuộc đời của ông ở kiếp trước, đó là cuộc đời của một nhà sư trong
ngôi chùa Trung Hoa.
Vào cuối mùa hè, ông Chung đem về Mỹ những món quà lưu niệm
nhỏ: chiếc kim cài lên cà vạt do hãng chế tạo máy bay tặng, một vật trang sức
cho cà vạt khác do Trung quốc Học Viện Công Nghệ làm riêng cho ông, kèm theo một
bảng vấn lục dài tám trang. Đó là danh sách những điểm kỹ thuật mà các kỹ sư
hàng không ở Nanchang muốn tìm hiểu. Ông Chung để ra vài tháng nghiên
cứu sách vở để trả lời những câu hỏi mà các kỹ sư yêu cầu. Đến tháng 12,
đích thân ông Chung lái xe lên Lãnh sự quán Trung quốc ở San
Francisco để gửi tài liệu đi Nanchang qua thể thức gửi hàng của
giới noại giao. Những thứ ông Chung gửi đi, nếu giới chức Hoa Kỳ biết được
chắc hẳn họ phải kinh hoàng. Toàn là những tài liệu mật có giá trị dầy
khoảng bảy cuốn sách cẩm nang về kỹ thuật từ tài liệu công nghệ của công
ty Rockwell cho đến cách thiết kế oanh tạc cơ B-1.
Ông Moberly nói với tôi: “Tài liệu ông Chung gửi đi chính là
Toa Thuốc Thánh giúp cho công ty sản xuất máy bay Trung quốc có thể làm được những
gì Hoa Kỳ đang làm.”. Ông Chung đã đem cho đi những kiến thức kỹ thuật mà công
ty Rockwell phải mất hàng chục triệu đô la, và nhiều năm mới sáng chế ra được kỹ
thuật đó. Bà Ling thì cho rằng chẳng có gì đáng kể, bạn bè giúp nhau là chuyện
thường. Bà nói với tôi: “Toàn bộ quan hệ này chỉ mang tính chất hữu nghị. Ở
Trung quốc, mọi người đều sẵn lòng giúp đỡ nhau. Nếu bạn là kỹ sư, thì bạn nên
làm những gì bạn có thể làm được để giúp cho tổ quốc của bạn.”
Trong khoảng thời gian một năm rưỡi sau, gia đình họ Chung
mua thêm nhiều tài sản điạ ốc. Tháng 10 năm 1986, họ mua một căn nhà ở
vùng Cypress,California. Năm tháng sau, họ trả bằng tiền mặt khoảng
600,000 để mua một căn nhà rộng một mẫu đất ở Orange, và còn có dư tiền để
xây lại căn nhà từ đầu. Đặc biệt là gia đình này không thích xe xua, đi xe đắt
tiền hay áo quần sang trọng. Vì thế hàng xóm không ai để ý đến sự giầu có của
gia đình này.
Gu Wei Hao thỉnh thoảng ghé thăm gia đình, và hai vợ chồng
ông Chung đưa quan chức này đi chơi nhiều nơi, như Disneyland, hay ra biển
hóng mát. Phụ cấp công tác ngoại giao của Gu bèo lắm, chỉ được có $4 đô la một
ngày. Vì thế phần lớn vợ chồng ông Chung trả hết chi phí đi chơi cho Gu. Nếu
không hẳn là Gu phải có một qũi đen nào đó để cho y tiêu dùng.
Gia đình ông Chung dọn về căn nhà mới vào năm 1989. Chiều tối,
nôg Chung có cái thú tiêu khiển lấy ống viễn vọng kính nghiên cứu vì sao trên
trời. Ông thích nghiên cứu bản đồ thiên văn học của Trung Hoa ngày xưa, xác định
các chùm sao tinh tú trên trời. Bà Ling là người ưa thích mỹ thuật, hội hoạ. Bà
lấy thêm văn bằng cao học mỹ thuật của trường California State University, Long
Beach. Bà biến cái garage nhà bà thành một studio cho bà vẽ tranh. Bà cũng nhận
dạy hội hoạ cho trường đại học cộng đồng ở điạ phương. Bà thích dạy về trường
phái tân ấn tượng, trừu tượng, và tĩnh vật thịnh hành ở Hoa Kỳ và Âu châu vào
cuối thập niên1970’s. Một đồng nghiệp trong trường nói với chúng tôi: “Bà có một
số môn đệ rất thích theo học với bà, họ mê say lối dạy của bà.”.
Vào năm 1998, tức là hai năm sau khi hãng Boeing mua lại
hãng Rockwell, ban quản trị mới quyết định rời văn phòng đi nơi khác. Nhân viên
được chỉ thị phải chuẩn bị thu dọn đồ đạc. Những tài liệu tham khảo cần giữ được
tập trung vào các thùng để sẵn, và công ty vận chuyển sẽ đem đi. Những thứ
nào cần vứt đi, cứ bỏ vào bao rác, sẽ có người đến đem đi đốt bỏ. Trong vòng
vài tuần lễ sau đó, ông Chung đem về nhà hàng chục thùng tài liệu. Ông dấu những
thùng tài liệu này trên những kệ sách trong căn hầm sau nhà. Những người quen
ông ở Trung quốc nhờ ông thu thập bất cứ tài liệu kỹ thuật nào hữu ích. Bây giờ
thì ông có thể có đủ tài liệu để cung cấp cho họ trong nhiều năm chưa hết.
Năm 2002, khi ông Chung sắp đến tuổi về hưu. Ông vào sở liên
tục in rất nhiều tài liệu gốc của công ty Boeing ra. Trên mỗi bản in ra, ông ta
phải dùng chất keo mầu trắng để xoá lời cảnh cáo, cấm không được chia sẻ tin tức
trong tài liệu với người ngoài công ty. Ông cũng cẩn thận ghi lại ngày tháng
sao chụp, và xoá bỏ tên nhân viên chụp bản sao. Ông làm photocopy những tài liệu
này, bản chính do ông giữ, bản chụp hình ông gửi sang Trung quốc. Khối lượng
tài liệu in và sao chụp rất lớn, ông Moberly nói với tôi: “Ông Chung chắc phải
dùng hàng trăm bình nước tẩy xoá máu trắng.”
NĂM 2007, TRONG PHIÊN TOÀ LIÊN BANG KÉO DÀI 6 TUẦN LỄ, tại
Santa Ana, California, công tố viên trình bầy lý luận truy tố Chi Mak là một
tên gián điệp làm việc cho chính quyền Trung quốc. Họ tố cáo những tài liệu do
Chi Mak thu thập đã giúp Trung quốc làm được hệ thống radar Aegis. Hệ thống đó
giúp bảo vệ các tầu chiến Trung quốc. Bồi thẩm đoàn quyết định kết án Mak về tội
làm gián điệp cho chính phủ nước ngoài, và hắn bị tuyên án 24 năm tù, trong nhà
tù liên bang. Đây là một bản án nặng nhất dành cho một tên gián điệp cho Trung
cộng làm việc tại Hoa Kỳ.
Một người em trai của Mak, cùng bà vợ của y, bị cảnh sát phi
trường quốc tếLos Angeles bắt giữ cùng với một cuốn CD chứa đựng số tài liệu
mật. Tuy nhiên, trong trường hợp của ông Chung, các điều tra viên gặp phải điểm
khó khăn khi truy tố. Trong nhiều tháng, thám tử của FBI nghiên cứu hơn ba trăm
ngàn trang giấy tịch thu ở nhà ông Chung, nhưng không có một tài liệu nào được
gọi là tài liệu mật. Ông Chung không thể bị kết án là đã tiết lộ bí mật quốc
gia cho nước ngoài. Khi biện lý cuộc chứng minh ông Chung đã chia sẻ tài liệu mật
với viên chức cao cấp Trung quốc vào thập niên 1980, đến nay đã quá hạn kỳ truy
tố 5 năm, nên những vi nếu có xảy ra cũng không còn đầy đủ hiệu lực dùng để kết
án. Ông Moberly nói: “Rõ rệt là ông Chung đã làm điều sai quấy. Nhưng chúng tôi
phải tìm ra luật lệ nào mà ông Chung đã vi phạm, để truy tố ông ta.”
Trong lúc xem xét qua những luật lệ liên bang, ông Moberly bắt
gặp một đoạn văn mang tựa đề: “Economic Espionage” (Làm Gián Điệp Kinh Tế) đã
được Quốc Hội thông qua và làm thành luật Economic Espionage Act năm
1996. Ông Moberly nhớ là mình đã học qua lớp học dài khoảng 30 phút trong
chương trình huấn luyện phản gián. Lớp học ngắn quá, và ít có ai bị truy tố về
tội làm gián điệp kinh tế, nên không ai để ý đến đạo luật này.
Nội dung của đạo luật nói rằng kẻ làm gián điệp kinh tế là
người đã “lấy đi, mang theo, cất dấu” hay “sử dụng không đúng cách” những
bí mật mậu dịch với chủ đích trợ giúp chính quyền nước ngoài. Đối với trường hợp
của ông Chung, công tố viên không cần phải chứng minh ông Chung chuyển giao tài
liệu sang Trung Hoa trong năm năm qua. Chỉ riêng việc ông cất dấu bí mật mậu dịch
trong căn hầm đủ để kết tội ông.
Năm 2009, vụ án liên quan đến ông Chung được đem ra xét xử.
Chánh án kỳ này cũng chính là thẩm phán Cormac J. Carney, người từng xử Chi Mak
trước đây. Trong phần lấy lời khai, chuyên viên tình báo FBI, Ronald Guerin,
trình bầy kỹ thuật ngành tình báo Trung quốc tuyển người làm gián điệp cho họ.
Ông Guerin phân tích: “Tình báo Trung quốc cố tình khai thác khía cạnh Trung
Hoa nơi người làm mật báo viên. Họ dụ dỗ những người này bảo rằng họ cứ chịu
khó làm gián điệp cho Trung quốc đi, nó chẳng hại gì Hoa Kỳ cả, chỉ giúp cho
Trung quốc thôi.”., “Bạn chỉ cần vỗ vai người Hoa, và bảo anh ta rằng anh cần
giúp đỡ cho Quê Mẹ, cho đất nước của anh.. Và sau đó, anh cho người mật báo bằng
khen, bằng tưởng lục…, hay cho người ấy một số tiền.”. Trong trường hợp của ông
Chung, rõ rệt là ngành tình báo Trung quốc đã dùng nghệ thuật ngon ngọt nói nịnh
ông Chung, và đem lại hiệu quả tốt. Việc truy tố ông Chung không hề có bằng cớ
về số tiền trao đổi để lấy tin tức.
Phe bào chữa cho ông Chung lý luận rằng quả thực ông Chung
đã làm một số việc “ngu dại trong quá khứ”, nhưng từ chối không nhận tội chia sẻ
tin tức mật. Ông ta chỉ là một kẻ tàng trữ tin tức vào hàng tép riu. Ngay lập tức,
ông Greg Staples, công tố viên trưởng, phản bác liền: “Hắn không phải là loại
tép riu. Hắn là tên tàng trữ tin tức khổng lồ, ghê gớm, và đáng sợ.”
Ông Chung trở thành người Mỹ đầu tiên bị kết tội làm gián điệp
kinh tế. Ông bị kết án 15 năm 9 tháng tù. Từ sau vụ này, còn có bốn người khác
bị công tố viên liên bang truy tố về tội làm gián điệp kinh tế. Tổng cộng có
năm người bị kết án với tội danh này.
Sau này, ông Moberley kể cho biết trong thời gian vụ xử tiếp
diễn, có lần ông Chung xác nhận ông trao tài liệu mật, và được nhận tiền thưởng.
Để bảo vệ bí mật cho cơ quan FBI, ông Chung không dám công khai nói trước toà về
trường hợp ông được trả tiền. Những lời cáo buộc trùng hợp với nội dung lá thư
mà Gu Wei Hao viết cho ông Chung, hứa sẽ trả bằng tiền mặt cho ông Chung. Ngoài
ra, trương mục ngân hàng của ông Chung tương đối không có nhiều tiền, và đồng
lương của ông ở Rockwell không quá lớn, khoảng $60,000 một năm. Vậy mà không hiểu
nhờ đâu mà ông Chung có thể làm chủ một garage sửa xe, một chung cư ba căn
apartment cho thuê, và làm chủ hai căn nhà cùng một lúc. Ông Moberly vẫn
nói với tôi rằng: “Tôi không bao giờ tin ông Chung làm chuyện này để lấy tiền.”.
Rất có thể chính quyền Trung quốc cho ông Chung vài chục ngàn như là một số tiền
tưởng thưởng, khích lệ mà thôi.
ÔNG CHUNG KHÔNG BAO GIỜ CHO PHÉP TÔI VÀO THĂM ÔNG TRONG NHÀ
TÙ, nhưng bà Ling thì miễn cưỡng trả lời điện thoại của tôi. Bà không bị
truy tố về tội hình. Một buổi chiều, tôi đậu xe ở cuối đường Grovewood
Lane, đi bộ lại căn nhà ông bà Chung có cổng sắt. Chuông bấm ở cổng đầy máng nhện
bám, ám chỉ rất hiếm khi họ có khách đến nhà. Sân cỏ trước nhà mọc đầy cỏ dại,
cái xe cút kít để hốt lá cây khô, nằm chỏng gọng ở một góc, không có ai dùng đến
nó từ nhiều năm nay.
Khi tôi bấm chuông cửa, bà Ling Chung bước ra, dơ tay vẫy từ
bực thềm trước nhà. Bà mặc bộ quần áo ở nhà mầu xanh lá cây, tóc bà bơ phờ,
không trang điểm. Bà mời tôi ngồi ở ghế sa lông mầu trắng trong phòng khách. Nắng
chiều lọt vào khe cửa làm loé lên vài đường nắng sáng trên nền thảm.
Bà Ling rót ra một ly nước, mời tôi, và ngồi đối diện với
tôi. Với nụ cười chán nản trên môi, bà kể cho tôi kỷ niệm hồi hai vợ chồng bà
xin vào quốc tịch Mỹ. Trong mục câu hỏi “Liệu ông có sẵn sàng cầm súng bảo vệ
Hoa Kỳ hay không?”. Ông Chung bỏ trống, không trả lời. Người phỏng vấn hỏi ông
Chung: “Ông có sẵn sàng chiến đấu chống lại Trung quốc trong trường hợp xảy ra
chiến tranh hay không?”. Bà Ling nhớ rõ câu trả lời của ông Chung là: “Nếu việc
này xảy ra, tôi sẽ lấy khẩu súng tự bắn vào mình trước.”.
Chúng tôi bước bên nhau, đi từ phòng khách sang xưởng vẽ của
bà. Phòng vẽ tranh trông ra sân trước. Một bức tranh trừu tượng khổ lớn đang để
trên nền nhà, tưạ vào tường. Bà Ling nói với tôi rằng từ nhiều năm nay, bà tiếp
tục vẽ tranh. Bà chỉ tay về phía một bức tranh trông như thập tự giá mầu
violet, trên một chân trời tím. Bà nói tựa đề bức tranh này là “45436-112”. Đó
là con số tù của chồng bà đang đeo khi thụ án tại một nhà tù liên bang, không bị
kiểm soát chặt chẽ. Nhà tù này ở thành phố Butner, tiểu bang North
Carolina. Vài tháng bà đi thăm ông một lần.
Nước mắt ứa trên khoé mắt của bà. Bà tâm sự với tôi: “Ngày đầu
tiên chúng tôi gặp nhau, là chúng tôi quyết định sẽ lấy nhau. Vợ chồng chúng
tôi sống rất hoà thuận, hạnh phúc. Ngay cả khi chúng tôi trên 60, bạn bè thường
nói chúng tôi trông như cặp tình nhân ở thuở sinh viên.”. Khi ông Chung còn làm
cho hãng Boeing, thỉnh thoảng ông ngủ trưa trong hãng, ông choàng tỉnh dậy vì nằm
mơ thấy bà Ling đứng cạnh hát cho ông nghe. Ông hay cằn nhằn: “Tôi đã nói với
bà nhiều lần, đừng đứng cạnh tôi mà hát, tôi ngủ không được.”. Trong đầu
ông lúc nào cũng nghĩ rằng tôi đang hát.
Tôi hỏi bà Ling liệu ông Chung có thuỷ chung với nước Trung
Hoa nhiều như ông chung thủy với bà? Phải chăng các quan chức Trung quốc đã lợi
dụng tấm lòng chung thủy của ông Chung? Bà lặng thinh, không trả lời. Tôi hỏi
thêm theo bà nghĩ ông Chung có vô tội không?. Bà nói: “Tôi không thể trả
lời câu hỏi này được.”
Bà cho rằng các công tố viên đã suy nghĩ nông cạn, khi tìm
hiểu động lực nào đã khiến ông Chung làm chuyện này. Theo bà: “Những công tố
viên này chỉ nghĩ một cách phiến diện, lướt qua trên bề mặt của vấn đề.”. Sau
đó, bà phân tích kỹ hơn cho tôi nghe: Chủ đích của ông Chung là giúp Trung quốc,
và không có ý định làm hại Hoa Kỳ. Bà nói thêm: “Khi ông kết bạn với một người,
người ấy nhờ ông giúp đỡ, nếu ông là kỹ sư, hay hoạ sĩ. Ông biết gì thì giúp bạn
ông trong khả năng của mình. Chỉ có thế thôi.”
Trước khi ra về, bà Ling cho tôi xem một tấm giấy dài,
dán trên tường, ngay cửa bước vào phòng vẽ tranh. Trên tấm giấy viết những hàng
chữa Tầu rất đẹp: Đó là một số điều người Phật Tử nên làm. Chính ông Chung đã
chép tay những điều này cho bà Ling. Tôi
thắc mắc không hiểu những điều Đức Phật dạy có giúp gì cho ông Chung trong việc
giải quyết xung đột giữa hai chọn lựa ông nên trung thành với Hoa Kỳ hay với
Trung quốc. Tôi hỏi bà Ling xem bà có thể cùng một lúc duy trì
thái độ của hai con người, với hai quốc tịch. Mắt bà sáng hẳn lên, bà nói: “Tôi
là một người Hoa, Tôi cũng là một người Mỹ. Điều này thật là đẹp. Việc gì cứ phải
biến nó thành hai thực thể kình chống nhau?”.
Bài phóng sự điều
tra của Yudhijist Bhattacharjee trên The New Yorker 5/5/14
Nguyễn Minh Tâm dịch
***
*CÂY MỲ TÔM
Mới đây, một cửa hàng mỳ ramen ở Nhật Bản đã đăng tải những
bức ảnh về một loài cây kỳ lạ, gọi đây là “cây mỳ”.
Trên thực tế, đây là cây toquilla, một loài cây thuộc họ cọ,
sống ở vùng nhiệt đới châu Mỹ và, thấy nhiều ở Ecuador. Tuy nhiên"cây mỳ"
này có vẻ bề ngoài rất giống như bắp ngô, bên trong lại như mỳ tôm. Thế nhưng,
"cây mỳ" lại không chút liên quan đến bắp ngô hay mỳ tôm.
Bức ảnh khiến nhiều người bất ngờ. Chúng ta hãy cùng
tìm hiểu.
Cây toquilla cao khoảng từ 1-4m, lá hình quạt. Đến khi ra
hoa, hoa của cây toquilla có hình giống như bắp ngô, bên trong có các sợi xoắn
vào nhau, hệt như mỳ tôm còn trong gói. Đến khi hoa nở, các sợi bung ra, trông
chẳng khác nào mỳ tôm đã được đổ nước sôi, rất đặc sắc, thú vị.
Mới nhìn, nhiều người sẽ vô cùng kinh ngạc bởi hình dạng của
loài hoa toquilla. Tuy vậy, hoa của cây lại không có tác dụng nhiều. Người dân
bản địa thường sử dụng lá của cây toquilla để làm nên chiếc mũ Panama nổi tiếng
Đây là một trong những loại mũ đắt nhất thế giới do làm thủ
công vô cùng phức tạp. Một chiếc mũ Panama chất lượng cao cần hơn 6 tháng để
hoàn thành.
Theo kienthuc
***
Phim tài liệu : vụ che đậy thế kỹ
Rât́ giá trị vui lòng phổ biến rộng
Phim Tài Liệu: Vụ Che Đậy Thế Kỷ (về Virus Vũ Hán)
https://youtu.be/yQO-NTarmv4 ***
TẠP CHÍ DÂN VĂN:
THÂN TẶNG QUÝ ĐỘC GIẢ „BÀI THƠ HỎI NGÓ
Kính
thưa Qúy Độc Giả, Qúy Thân Hữu,
được sự hưởng ứng nồng nhiệt khắp năm châu bốn bể nên
Anh chị em trong Ban Biên Tập Tạp Chí Dân Văn đã bỏ thời gian để hiệu đính cuốn
HỎI NGÃ CHÁNH TẢ TỰ VỊ, và không bỏ vào PDF, nên mọi người đều có thể mở ra dễ
dàng, việc in ấn thành tập cũng rất tiện lợi, các Trung Tâm dạy Việt Ngữ như Ban Giám Học trường Việt Ngữ Văn Lang, thành phố
Portland, tiểu bang Oregon, Hoa kỳ, đã xử dụng cuốn tự vị này như một cẩm nang
để dạy học trò tại địa phương.
Với sự đóng góp nhỏ nhoi này, Tạp Chí
Dân Văn hy vọng việc viết tiếng Việt không còn khó khăn khi dùng „hỏi ngã“ nữa.
Chúc tất cả độc giả đạt được „sở cầu như ý“ và thành công mọi mặt trong cuộc sống.
Qúy vị nhận được, xin hồi âm cho
biết nhé!
TRẢ
LỜI CHUNG: TCDV không in thành sách,
quý vị cần cứ in ra để dùng, tất cả là 109 trang DIN A4, nếu in 2 mặt chỉ có 55
tờ DIN A4, rồi đóng thành tập để dễ tra cứu. Viết xong một bài dài hay ngắn,
qúy vị chịu khó tra các chữ „HỎI NGÓ để sửa lại cho đúng, xong mới gởi đi, như
vậy bài viết của qúy vị được hoàn hảo hơn, không có lỗi „hỏi ngã“ khi viết tiếng
Việt.
Hỏi Ngã Chánh Tả Tự Vị - Flipbook by tructhuantran | FlipHTML5
Germany, 17 tháng 11 năm 2019,
CHỦ NHIỆM TẠP CHÍ DÂN VĂN.
LÝ TRUNG TÍN
Email: danvanmagazin@gmail.com
GERMANY, 01.12.2018Dạng flipbook có vài điểm đặc biệt dễ dùng:
Chỉ bấm nhẹ cạnh bên phải hay bên trái của screen thì trang lật qua phải hay
trái.
Phía dưới trang, có vài ký hiệu, ký hiệu đầu có 4 hình vuông nhỏ. Khi bấm vào
ký hiệu này, ta thấy màn hình có nhiều trang nhỏ với số trang. Chỉ cần chạm vào
một trang nhỏ đó, thì trang đó mở ra. Ví dụ ta muốn xen vần NG, mục lục cho
biết vần này bắt đầu từ trang 60. Vì flipbook ghi số trang từ trang bìa, nên
vần NG bắt đầu từ trang 61. Ta bấm vào trang 61 sau khi mở ký hiệu 4 hình vuông
nhỏ. Trang 61 mở ra ngay, thay vì phải lật từng trang như dạng cũ.
https://fliphtml5.com/oimsx/uwjp/
TẠP CHÍ DÂN VĂN
TẠP CHÍ DÂN VĂN:
THÂN TẶNG
QUÝ ĐỘC GIẢ „BÀI THƠ HỎI NGÓ
XEM BÀI THƠ NÀY LÀ
HỌC ĐƯỢC BAO NHIÊU CHỮ „HỎI NGÓ
Dấu hỏi dấu ngã muốn
điên
Đọc rồi mới thấy một
thiên tuyệt vời
TIẾNG VIỆT TA... HAY THẬT....!
MŨM MĨM béo, MỦM MỈM cười.
CỦ quả dành để biếu người CŨ xưa.
KIỄNG chân, chậu KIỂNG đu đưa
KẺO hết, KẼO kẹt đêm mưa võng buồn.
HỔ thẹn chưa HỖ trợ lương.
GÃ kia GẢ bán người thương vì tiền
HẢO tâm lo chuyện HÃO huyền.
Đi buôn LỖ vốn,
nước màu LỔ loang.
PHỦ phê chừ mới PHŨ phàng
Nửa đường GÃY
gánh, GẢY đàn tìm vui.
GÃI đầu tính ngược, tính xuôi.
Còn lưng NỬA
vốn NỮA thời tính sao.
GIÃI bày GIẢI nghĩa dễ đâu
Chưa kịp ẩu ĐẢ
qua cầu ĐÃ xong.
Run RẨY
phát RẪY dọn nương
GỠ rối điềm GỞ rộng đường nhân
sinh.
Chú RỂ bứt RỄ cây quỳnh
Ra sức BỬA
củi cho mình BỮA ăn.
BẨM thưa, bụ BẪM con người
Nói năng tao NHÃ,
chim kia NHẢ mồi.
MÃ ngoài mồ MẢ xinh tươi
Nhường cơm SẺ áo
cho người SẼ vui.
Linh CỮU
vĩnh CỬU ai ơi
CỮ kiêng CỬ động bệnh thời sẽ qua.
TẺ nhạt, gạo TẺ của ta
Gần mà giữ KẼ
thà ra KẺ thù.
KHẺ mỏ, nói KHẼ như ru
CỖ bàn, CỔ kính công phu phụng
thờ.
BỖNG dưng trầm BỔNG bất ngờ
BĨU môi dè BỈU ai chờ đợi ai.
Bắt BẺ, BẼ mặt tía tai
LẺ loi lý LẼ gạt ngoài chẳng nghe.
Ngoài vườn CHỎNG
gọng CHÕNG tre.
CẢI thiện, CÃI lại khó mà hoà nhau.
CHĨNH (hũ) tương nghiêng, CHỈNH sửa
mau.
CỦNG cố lời nói cho nhau CŨNG đành.
CỞI trói CỠI (cưỡi) ngựa phi nhanh
Xem ai cứng CỎI
được dành CÕI tiên.
BẢO ban, BÃO tố khắp miền
HẢNH nắng, HÃNH diện tuỳ duyên tuỳ thời.
Hồ đầy XẢ
nước cho vơi
Giữ gìn XÃ
tắc kẻo thời suy vong.
Chèo BẺO,
bạc BẼO dài dòng
Quê hương rất ĐỖI
ĐỔI thay phố phường.
NGHĨ mình ngơi NGHỈ dưỡng thương
TĨNH tâm TỈNH ngộ tìm đường ẩn cư.
TIỂU đội còn bận TIỄU trừ
Ngỡ rằng bảnh TẺN
thành dư TẼN tò.
SẢI tay chú SÃI thập thò
Nhân sự thừa THÃI
bị toà THẢI ra.
Đứng SỮNG, SỬNG sốt sợ ma
Trẻ thơ nói SÕI
nhặt SỎI đá trôi.
TRẢ nợ bằng một TRÃ xôi
NÃY giờ còn đợi hạt thôi NẢY mầm.
Ẩn SĨ, SỈ nhục giận căm
GIẢ dại GIÃ gạo thăng trầm cho qua.
QUẪN trí nghĩ QUẨN sa đà
Chấp nhận xúi QUẨY
hơn là QUẪY đuôi.
Đâm THỦNG, THŨNG xuống thấp rồi
Đòn BẨY
được dịp lên đồi BẪY chim.
Đội NGŨ
giấc NGỦ lim dim
Ân SỦNG ướt
SŨNG nằm im chờ thời.
TỦM tỉm, đánh TŨM không lời
VĨ cầm, VĨ tuyến... VỈ ruồi giúp ta.
Rác RƯỞI
gấp RƯỠI hôm qua
ĐẨY xe, ĐẪY giấc người ta chối từ.
ĐẢNG phái, ĐÃNG trí ưu tư
DỞ hơi, DỞ thói tật hư DỠ nhà.
LẨN quẩn, LẪN lộn tuổi già
ĐỈNH chung, ĐĨNH đạc cũng là ĐỈNH cao.
ĐỂ dành, hiếu ĐỄ về sau
Cô bé tròn trịa thật là DỄ thương.
DỎNG tai, DÕNG dạc khiêm nhường
RẢNH rỗi san lấp RÃNH mương trước
nhà.
Qua NGÕ, NGỎ lời hát ca
QUẢNG cáo - thực tế cách ba QUÃNG
đường.
RỦ rê quyến RŨ nhiễu nhương
RỔ sảo, RỖ mặt vấn vương một thời.
CHỬA đẻ, CHỮA bệnh ai ơi
Trường hợp HÃN
hữu xin thời bỏ qua.
Phá CŨI làm
CỦI bếp nhà
Xén bớt công QUĨ,
QUỈ ma chẳng từ
Hạt DẺ, đất
DẼ suy tư.
Sàng SẢY ít
gạo đến giờ chưa xong
RỬA nhục thối RỮA mặc lòng.
Hen SUYỄN,
suy SUYỂN đợi mong bao ngày.
CƯỠNG đoạt chim CƯỞNG trong tay
Xin đừng cà RỠN...
RỞN gai ốc rồi.
SỬA chữa, SỮA mẹ em ơi
SẪM màu, SẨM tối xin mời ghé thăm.
MẨU bánh dành biếu MẪU thân
Đắt RẺ, ngã
RẼ bao lần em qua.
SỖ sàng, SỔ toẹt chẳng tha
GIẢ thật, GIÃ gạo cho qua tháng
ngày.
Gây GỔ, cây
GỖ chuyền tay
Cánh HẨU
chầu HẪU ngồi chờ đổi ngôi.
Mưa rỉ RẢ
mệt RÃ người
RÃO gân cốt, RẢO bước thời đi
nhanh.
Cây SẢ,
suồng SÃ là anh
TẢ thực, TÃ lót để dành trẻ con.
Chàng HẢNG
ai mở HÃNG buôn
KỶ luật KỸ xảo mình luôn ghi lòng.
HỦ tục, HŨ gạo ngày đông
Hỏi NGÃ
khó, chớ NGÃ lòng NGẢ nghiêng...!
( Đinh Trực sưu tầm )
Đăng nhận xét