*TRUYỆN NGẮN: NHIỀU NỖI TRUÂN CHUYÊN & MÁY ĐIỆN TOÁN VÀ TÔI
*KÍNH MỜI ĐỌC 2 TRUYỆN NGẮN HAY CỦA NHÀ VĂN
NGUYỄN NGỌC HOA 1- NHIỀU NỖI TRUÂN CHUYÊN
2- MÁY ĐIỆN TOÁN VÀ TÔI
Tháng Bảy và tháng Tám là hai tháng nóng nhất trong
năm ở Bắc bán cầu. Mặc dù North Dakota nằm
phía cực bắc Hoa kỳ, giáp giới với Gia Nã Đại, mùa hè cũng nóng nực như nơi
khác. Buổi chiều nhiệt độ có khi lên đến
trên 100° Fahrenheit (khoảng 38°
Celsius), nhưng không khí
khô, và ban đêm trời mát xuống nhanh và trở nên dễ chịu. Với thời tiết khá lý tưởng này, vào cuối tuần,
đám dân tỵ nạn quen sống vùng nhiệt đới quanh năm nóng và ẩm tha hồ vui hưởng
các sinh hoạt tập thể như đi cắm trại ăn uống và ngủ
đêm ngoài trời, đi câu cá, và viếng thăm nông trại để làm gà làm heo và làm bò
nướng bê thui. Nhóm bạn tôi gồm
một số cựu quân nhân Hải quân như anh Dần và anh Phức và thanh niên độc thân
như Phiến, ai nấy đều tháo vát và có nhiều sáng kiến.
Hôm ấy, chúng tôi ra thăm nông trại của vợ
chồng Phượng và Dean. Thay vì bắt gà “đi
bộ” làm thịt như thường lệ, anh Dần bỗng thèm ăn thịt heo tươi, “Ăn thịt heo
đông lạnh bán ngoài siêu thị hoài ngán quá,” và nhờ Dean đưa sang trại nuôi heo
gần đó mua heo con giết thịt. Anh Dần là kẻ đầu nêu, việc gì anh cũng làm được
dễ dàng. Thấy tôi đứng xớ rớ
gần con heo vừa bị bắn chết và tỏ bộ muốn phụ giúp, Phiến gạt tôi sang một bên,
“Anh Ba Hoa làm thợ
vịn chỉ vướng tay vướng chân người khác.
Xê ra cho tui nhờ!”
Được lời như cởi tấc lòng, tôi lấy thuốc
lá ra hút phì phèo,
“Xê ra thì xê, sợ
gì?”
“Coi kìa, ông kỹ sư chừ
đứng làm giám thị chỉ huy tụi mình,” anh Dần cười khà khà.
“Giám thị gì anh Ba Hoa,
giám thị . . . ăn thì có!” đến lượt Phiến mỉa mai.
Phiến hay nói xóc óc, nhưng trúng phóc ở điểm tôi vụng về không làm gì ra hồn ngoài việc . . . ăn. Chẳng hạn như khi biết tôi không biết câu cá, anh Dần đưa tôi đi mua cần câu và các dụng cụ cần thiết và chỉ dẫn cách móc mồi, ném dây câu, v.v. Tôi ra hồ câu với anh hai lần, lần nào cũng ngồi cả buổi mà không có con cá nào chịu cắn câu. Anh nói tôi không có số “sát cá,” “Thôi anh cứ ngồi chỗ cắm trại đọc sách hay theo đuôi mụ vợ nghe lóm chuyện tò le (ngồi lê đôi mách), chờ tui đem cá về.” Từ đó, tôi giữ nhiệm vụ nhóm lửa trong lò đốt bằng than để các bà nướng cá câu được và thịt ướp sẵn ở nhà mang theo...
Hôm nay có anh Phức là người khắc khẩu
với Phiến, tôi không thể bỏ qua dịp tốt để xúi hai người cãi nhau cho có chuyện
cười. Tôi quay sang anh Phức phân trần,
“Lưỡi không xương
nhiều đường lắt léo. Mấy người này .
. . mệt quá; tôi muốn phụ một tay thì không cho, mà đứng ngoài ngó cũng không để
cho yên thân.”
“Thằng Phiến biết khỉ
khô gì mà anh thốc mốc (thắc mắc) lồm (làm) chi cho mệt
người?” với giọng Quảng Nam, anh nói với tôi nhưng cốt để Phiến nghe.
“Tui nghe rồi
đó. Anh Phức bữa nay bị mấy ‘mệnh phụ
phu nhân’ cho ra rìa, hết chỗ chầu chực, và phải đi chơi với tụi tui
sao?” Phiến hỏi móc, ám chỉ anh Phức đi làm ca đêm và ban ngày rảnh rỗi
lái xe loanh quanh “thăm” các bà độc thân có con mà không chồng, và không ai
đáp lại . . . thịnh tình của anh.
“Cái thằng Phiến ni, mi
ăn nói ba láp ba xàm nữa thì tao kêu con Thúy Hạc tới chưởi mi một
trận cho tởn thói cà chớn,” anh Phức dọa nhưng hiển nhiên đã xuống nước.
Thúy Hạc và chồng là Ralph ở thành phố Dickinson
có chừng 15,000 dân nằm cách Bismarck 100 dặm Anh về phía tây. Chúng tôi gặp cặp vợ chồng này khi họ đến dự tiệc
ăn mừng năm mới (1976) được tổ chức để cám ơn ân nhân bảo trợ và bạn mới trong
thành phố. Họ đến trễ, tôi ra đón, và
tôi ngẩn ngơ vì trông Thúy Hạc rất quen nhưng không nhớ đã gặp ở đâu. Nàng cũng thẫn thờ, có lẽ cũng vì vậy. Tôi bận rộn lăng xăng nên đưa hai người đến
bàn Phiến ngồi và nhờ Phiến tiếp giùm.
Ngày phục vụ ở Việt nam, Ralph là đại úy tâm lý chiến,
hai người cùng nhau về Mỹ năm 1973, và Ralph làm cán sự xã hội trong dưỡng trí
viện Dickinson. Hai người có hai cậu con
trai: đứa lớn bảy tuổi có khuôn mặt rặt Việt
nam và được hai người gọi bằng cái tên nghe từa tựa như “Tu-an” mà chúng tôi thầm
đoán là “Tuấn,” và đứa nhỏ ba tuổi rõ ràng là con lai. Sau này, dù chơi thân với Thúy Hạc, tôi vẫn
không biết gì về thân thế nàng. Nàng thủ
khẩu như bình, nói lảng sang chuyện khác khi bị hỏi về đời tư ở bên
nhà.
Khi cả bọn đi chơi chung, Thúy Hạc bày tỏ cảm tình đặc
biệt đối với tôi và đôi khi âu yếm có chiều lả lơi, nhưng nói bằng tiếng
Anh nên không ai để ý. Tôi nhận thấy Phiến
si mê nàng nhưng không dám bộc lộ mà thỉnh thoảng đùa cợt chớt nhả khiến nàng nổi
giận mắng nhiếc thậm tệ. Tuy thích cãi
vã, Phiến bị mắng mà vẫn nín khe, không một lời biện bạch. Đó là lý do anh Cấp đem Thúy Hạc ra dọa Phiến.
Tôi nghe nói cuối tuần Phiến hay lái xe lên Dickinson,
chạy quanh quẩn vài vòng trong thành phố nhỏ, và ngồi hàng giờ ở ghế đá trong công
viên trước nhà Thúy Hạc. Một thiếu phụ thông
minh, xinh đẹp, và cởi mở như nàng, nếu nhằm lúc, đàn ông ai mà không yêu? Ngay cả tôi, dù có nàng tiên Quỳnh Châu bên cạnh,
thỉnh thoảng ngủ mơ thấy mình sánh vai gần gũi Thúy Hạc. Khi tỉnh giấc, tôi cho giấc mơ ấy, theo thuyết
phân tâm học của Sigmund Freud (1856 – 1939), phát sinh do ham muốn tình dục bị
dồn nén vào tiềm thức.
* * *
Mùa thu năm 1978, Quỳnh Châu cùng bé Mạc
đi Âu châu thăm gia đình nàng, tôi ở nhà đi làm, và một biến cố dị thường xảy đến. Hôm đó là sáng thứ Bảy, tôi lái xe lên
Dickinson rồi tiện dịp ghé thăm Thúy Hạc trong khi Ralph chồng nàng đưa hai đứa
con về tiểu bang Indiana thăm bà nội.
Vào trong nhà, tôi choáng váng trước cảnh mộng huyễn hay thấy trong giấc
mơ: Thúy Hạc nằm nghiêng trên giường
trong bộ áo quần ngủ lụa hồng, tựa đầu lên chiếc gối thêu hoa, và mắt khép mơ
màng. Mê mẩn bước lại gần và trước khi
cúi xuống hôn lên đôi môi mời mọc như trải qua trong mộng, tôi giật mình thức tỉnh,
nhắm nghiền mắt lại để xóa tan mộng cảnh, và bước ra ngoài. Ba ngày sau, tôi nhận được thư của nàng xác
nhận điều tôi âm ỷ nghi ngờ nhưng gạt đi, cho là thậm vô lý,
Từ ngày gặp anh lần đầu,
em luôn ngủ mơ thấy trong một kiếp
xa xưa nào đó của em – và của anh, mình là đôi vợ chồng hạnh phúc bên nhau.
Rồi tôi được tin vợ chồng Thúy Hạc dựng
bảng bán nhà dọn đi nơi khác và không để lại địa chỉ. Khoảng một tuần sau, Phiến đến thăm tôi với vẻ
mặt buồn thiu. Tôi lấy bia, loại bia Budweiser
thường uống, ra mời, nhưng Phiến lắc đầu và chạy ra xe lấy vào hai xâu (12 lon)
bia Old Milwaukee. Miệng méo xẹo nhưng
Phiến rán ghẹo tôi,
“Anh là ông kỹ sư mới
uống Budweiser lon trắng, làm bằng gạo, nặng độ rượu hơn, và mắt tiền hơn; tui
là dân lao động vinh quang chỉ dám chơi Old Milwaukee vừa nhẹ vừa
rẻ.”
“Không
phải vậy. Tôi uống Budweiser vì ngày
sinh viên túi không tiền được mấy ông chú cho uống bia Budweiser chùa. Rồi thành quen thói,” tôi phân trần rồi hỏi,
“Hôm nay có chuyện chi mà tôm quá bộ đến nhà rồng?”
“Anh
biết chị Hạc dọn nhà đi chỗ khác rồi không?” Phiến không dấu vẻ bực bội.
“Bây
giờ tôi biết rồi. Nhưng mà sao?”
Tôi trả lời lửng lơ vì chưa biết chủ ý của
Phiến. Dù sao đi nữa, tôi không thể tiết
lộ mối liên hệ huyền ảo giữa mình và Thúy Hạc.
May thay, dường như muốn chia xẻ niềm tâm sự, Phiến lúng túng mở đầu,
“Anh
biết tui là người Việt gốc Hoa và hồi trước học trường trung học Mạc
Đĩnh Chi không?”
“Tôi
không biết Phiến là dân ‘ngộ ái nị’ (tôi yêu cô/anh), nhưng ngôi
trường mang tên vị Lưỡng quốc Trạng nguyên đó thì tôi biết.”
Mạc
Đĩnh Chi là trường trung học công lập hỗn hợp (nam nữ học chung) duy nhất ở Sài
gòn và được thành lập năm 1957 dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, sau khi chính phủ ban hành Dụ (hay Sắc lệnh) số 53 cấm Hoa kiều làm 13
nghề họ đang nắm độc quyền thao túng thị trường. Nếu muốn giữ nghề cũ, họ phải nhập
Việt tịch và hưởng quyền lợi và thi hành bổn phận như những người Việt khác. Trường được lập ra nhằm đáp ứng nhu cầu của học
sinh người Việt gốc Hoa chuyển sang học chương trình Việt. Họ được vào học vô điều kiện trong vài niên
khóa đầu, dần dần phải thi tuyển với ưu tiên có thêm điểm, và sau đó Việt hóa
hoàn toàn.
Tiếng Trung Hoa có rất ít đại danh từ để xưng hô, không như tiếng
Việt có vô số đại danh từ khác biệt nhau một cách tinh tế. Ngôi thứ nhất tiếng Trung Hoa chỉ có chữ ngã
(người Quảng Đông phát âm là ngộ, là “tôi”) và ngôi thứ hai chỉ có vài ba chữ
như nhĩ và nãi (cả hai, người Quảng Đông phát âm là nị, là “anh” và “cô”). Do đó, ở Mạc Đĩnh Chi, thầy cô đôi khi nghe học
sinh phát biểu những câu tréo cẳng ngỗng như,
Thưa
thầy, nó đánh tao.
hay
Thưa cô, mầy hỏi cái gì tao không hiểu?
Qua bước đầu, không còn ngượng miệng, Phiến nói về Thúy Hạc,
“Chỉ là một hoa
khôi của Mạc Đĩnh Chi và trên tui hai lớp.
Đứa vô danh tiểu tốt như tui lại cả gan chơi trèo, âm thầm hâm mộ chỉ từ
hồi đó.”
“Vậy Hạc là người
Việt gốc Hoa mà tôi không hay, sao Phiến không nhìn bà con?”
“Từ phút đầu
tiên, khi anh đưa chỉ lại giới thiệu và nhờ tiếp giùm, tui nhận ra chỉ liền. Nhưng mấy năm nay không dám hé môi nói cho ai
biết.”
“Tại sao lạ vậy?”
“Vì cảnh ngộ, chỉ thay tên đổi họ để
trốn lánh mọi người quen cũ,” Phiến trầm ngâm nhớ lại chuyện người đàn bà bí ẩn.
Nàng
tên thật là Nhan Thủy Thúy, con một của một gia đình thương gia giàu có ở trên đường
Lục Tỉnh Chợ Lớn. Mùa thu 1967, sau khi
đậu Tú tài II hạng Bình, nàng ghi danh học “chứng chỉ” Lý Hóa Nhiên tức là SPCN
(Science, Physique, Chimie, et Naturelle) ở Đại học Khoa học Sài gòn trong khi làm
thủ tục giấy tờ đi Hoa kỳ du học học ngành quản trị xí nghiệp để sau này coi
sóc cơ nghiệp gia đình. Người yêu của
nàng cũng là cựu học sinh Mạc Đĩnh Chi và đang theo học ngành kiến trúc ở Trường
Cao đẳng Kiến trúc nằm trên đường Pasteur.
Tết Mậu Thân (1968), Việt
Cộng tấn công vào các thành phố, đột
nhập vào Chợ Lớn, và trốn trong nhà dân chúng để bắn ra. Chiếm giữ nhà Thủy Thúy là thằng Việt Cộng đầu
não “Thành đoàn,” tên gọi tắt của “đoàn Thanh niên Lao
động Việt nam,” chuyên giật dây, phá rối,
và khủng bố trong hàng ngũ thanh niên, sinh viên, và học
sinh ở “nội thành” Sài gòn - Gia Định. Thằng
này trước kia giả dạng người Việt gốc Hoa trà trộn vào Mạc Đĩnh Chi, trên nàng
ba lớp, và mê nàng như điếu đổ nhưng bị thẳng tay cự tuyệt. Thừa cơ hội đột nhập này, nó dùng võ lực cưỡng
bức nàng. Trước khi cùng đồng bọn trốn
chạy, nó hứa giữ kín chuyện này nếu hàng tháng cha mẹ nàng nộp một số tiền lớn để
“ủng hộ nhân dân miền Nam anh hùng đánh lại đế quốc Mỹ.” Nếu không, nó sẽ công bố chuyện nàng không
còn trinh trắng và cho đặc công phá vỡ cơ sở kinh doanh và hạ sát cả gia đình.
Kể đến đây, Phiến nén tiếng thở dài
thương cảm,
“Họa vô đơn chí,
chỉ khám phá ra mình mang thai, mộng ước du học trở thành mây
khói, và người yêu không còn lai vãng thăm viếng và nghe đâu đã cặp bồ với cô khác.”
“Tại thằng Việt Cộng khốn
nạn mà ra cả,” tôi tức giận la lớn.
“Dù ở trong hoàn cảnh nghiệt
ngã, chỉ đáng mặt là bậc anh thư cho tui tôn thờ. Người ta đồn chỉ bí mật tiếp xúc với
cơ quan an ninh và hợp tác để giúp họ tìm cách hốt trọn ổ bọn Việt Cộng nằm
vùng. Kế hoạch thành công, mạng lưới đặc
công vùng Chợ Lớn bị phá vỡ, và thằng hèn hạ đào tẩu không kịp bị bắn chết. Sau đó, chỉ biến mất; không ai biết chỉ
đi đâu và làm gì. Cha mẹ chỉ cũng
vậy; nhà cửa và doanh nghiệp đã chuyển nhượng cho người khác.”
Điều này giải thích tại sao Thúy Hạc không bao giờ đề cập tới quãng
đời ngày trước; cậu bé “Tu-an” có lẽ là đứa con oan trái đó. Cuộc đời nàng như được diễn tả bằng lời mở đầu
Chinh phụ Ngâm khúc,
Thuở
trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách
má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
(Đặng Trần Côn – Đoàn thị Điểm)
Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày 9 tháng Sáu, 2021
***
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa
Tôi làm việc ở nha Điều hành Hệ thống Điện của Công ty
Tiện ích Montana-Dakota đã được năm tháng.
Ông sếp già Howard để cho tôi tự do chọn làm các dự án thấy hợp với
kiến thức lý thuyết của mình. Tôi miệt
mài học hỏi phương cách điều hành hệ thống điện và
cố gắng thích nghi với vai trò kỹ sư kế hoạch điện lực. Trong môi trường mới, việc tính toán liên
quan đến hệ thống điện đòi hỏi hàng ngàn, có khi hàng vạn, con tính nhỏ và
không thể làm bằng tay mà phải dùng máy điện toán. Tôi thấy mình thua kém các kỹ sư trẻ của công
ty ở chỗ họ đều học FORTRAN và dùng máy điện toán khi còn học trong trường đại
học. FORTRAN (do
“Formula Translation” là phiên dịch công thức) là ngôn ngữ thảo chương dùng để
tính toán trong các áp dụng khoa học và kỹ thuật.
Ở Việt nam, tôi đã tự học lý thuyết máy điện
toán, và Ngành Điện của Đại học Kỹ thuật thuộc Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có
một chiếc máy Nova 800 do hãng Data
General chế tạo. Tôi cũng đã dự một khóa
hội thảo dành cho giảng viên trường Đại học Kỹ thuật dạy thảo chương ngôn ngữ BASIC. BASIC (do “Beginner's All-purpose Symbolic
Instruction Code” nghĩa là mệnh lệnh dùng ký hiệu đa dụng dành cho người mới học)
được Đại học Dartmouth thiết kế và phổ biến năm 1964. Nhưng tôi chỉ đứng xa nhìn chứ chưa hề rớ tới
chiếc máy Nova, và tầm hiểu biết về máy điện toán và BASIC chỉ là lý thuyết
suông.
Máy điện toán chính (duy nhất) của công ty là hệ thống Honeywell 2000 với ký ức có khả năng chứa 32 KB (kilobyte, tức một ngàn “byte”). Điện thoại di động ngày nay với ký ức 16, 32, hay 64 GB (Gigabyte, tức một tỉ “byte”) có khả năng bằng 500 ngàn, một triệu, hay hai triệu lần chiếc máy Honeywell tối tân năm 1976. Máy điện toán này và dụng cụ ngoại biên được đặt trong phòng máy điện toán là một căn phòng lớn ở lầu ba có gắn máy lạnh để làm mát; mạch điện tử khi hoạt động sẽ tỏa nhiệt và nếu nóng lên sẽ bị hư hỏng. Hệ thống được các điều hành viên điện toán trực tiếp điều khiển bằng cách đánh mệnh lệnh vào bàn chữ đặt trên mặt console là bộ phận điều khiển trông giống như cái tủ nhỏ kiểu có chân đứng.
Tôi biết mình không thể không biết thảo chương (programming) FORTRAN và bắt đầu chương trình học ngôn ngữ này bằng cách hỏi anh bạn đồng sự Dennis ngồi kế bên, “Anh còn giữ cuốn sách FORTRAN nào không?” Hình như đã chờ đợi câu hỏi này từ lâu, Dennis lấy từ kệ sách trước mặt đưa cho tôi cuốn sách giáo khoa anh dùng ở đại học và tập tài liệu bìa rời do hãng Honeywell cung cấp. Anh là chuyên viên phụ trách thiết trí và điều hành các chương trình FORTRAN giải toán về hệ thống điện. Tôi để ra ba ngày làm việc ở sở và nguyên cuối tuần ở nhà nghiền ngẫm hai tập sách rồi đến sáng thứ Hai báo cho anh biết tôi đã sẵn sàng, anh cần giúp tôi khởi sự.
Chương trình điện toán đầu tiên của tôi sẽ tính đặc
tính về điện của các đường dây truyền điện cao thế có cấu trúc, dây dẫn điện,
chiều dài, v.v. khác nhau của công ty.
Tôi có sẵn dữ kiện thô, đã thực hiện phép tính bằng tay, và có đầy đủ kết
quả nên chỉ cần chú trọng về mặt thảo chương.
Trước hết, Dennis hướng dẫn tôi viết mệnh lệnh vào mẫu thảo chương mà mỗi
dòng có 80 ô, mỗi ô dành cho một ký tự (character). Ký tự có thể là một chữ (như A, B, C), một số
(như 1, 2, 3), hay một ký hiệu toán học (như +, -, *, /).
Sau khi viết xong mẫu thảo chương, tôi gửi xuống ban Xuyên Phiếu ở lầu ba yêu cầu “đục lỗ và soát lại.” Ban này có hơn một chục nhân viên, toàn là phụ nữ. Họ dùng máy xuyên phiếu trông tựa như một chiếc máy chữ lớn để đục lỗ tín hiệu (key punch) vào các tấm thẻ, và để soát lại, dùng máy kiểm phiếu có hình thể tương tự. Mỗi tấm thẻ là một dòng mệnh lệnh và có 80 cột tương ứng với 80 ô trên mẫu thảo chương. Mỗi cột trên thẻ gồm 12 “ô” (hay khoảng trống nhỏ), mỗi “ô” có thể được đục lỗ hay không để tương ứng với 1 hay zero trong hệ thống nhị phân, và mỗi chuỗi số gồm 1 hay zero kế tiếp nhau đó biểu diễn một ký tự riêng biệt. Thí dụ A là 000001000001.
Bị giới hạn sáu ký tự là dài nhất, tôi đặt tên chương trình là LINCAL (viết tắt của Line Calculations). LINCAL gồm khoảng 2,000 dòng, số thẻ đã đục lỗ đựng vừa vặn chiếc hộp chữ nhật hãng sản xuất dùng chứa thẻ mới gửi tới cho khách hàng. Tôi gửi (submit) hộp thẻ vào phòng máy điện toán để in ra thành chữ để soát lại và sửa lại công trình của mình một lần cuối. Nhưng đấy chỉ là bước đầu tiên – rất nhỏ – của chặng đường gian nan trước mặt: giai đoạn biên dịch (compile) chuyển mệnh lệnh nguồn thành chương trình thừa hành (executable) chứa trong máy điện toán mà sau này người sử dụng có thể gọi ra, cung cấp dữ kiện cần thiết, và sai khiến tính toán và in ra kết quả.
Mỗi lần làm biên dịch, nếu chương trình nguồn không bị
máy điện toán “chê” vì lỗi cú pháp (không đúng quy luật FORTRAN) thì chương
trình thừa hành mới được tạo ra và thay thế chương trình cũ, và tôi dùng dữ kiện
mẫu chạy thử. Trong năm, sáu lần chạy thử
đầu tiên, LINCAL không những không cho kết quả mong muốn mà còn gây ra chuyện khác
thường. Thí dụ, chương trình đi vào một
“vòng vô tận” khiến máy điện toán chạy hoài không ngừng, và điều hành viên gọi điện
thoại cho tôi than phiền trước khi “giết” (chấm dứt ngang) chương trình. Có lần chương trình in ra một đống giấy cao cả
thước mà trang nào trang nấy y hệt nhau, tôi lại bị một phen mắng vốn.
Mỗi lần chương trình chạy sai là một dịp học hỏi: Tôi tham khảo ý kiến Dennis, tra cứu sách vở,
và tìm cách viết mệnh lệnh hiệu quả hơn.
Rồi mang hộp thẻ vào phòng xuyên phiếu, kiếm một chiếc máy đục lỗ không
ai dùng, và mò mẫm đánh lại thẻ. Từ nhỏ
đến lớn, tôi chưa bao giờ dùng máy chữ nên khi muốn đánh một ký tự, phải lần mò
tìm ký tự ấy trên bàn chữ rồi dùng ngón tay trỏ bàn tay phải mổ cò một
phát. Nếu đánh sai một ký tự thì phải bỏ
nguyên tấm thẻ đang đục lỗ và làm lại từ đầu.
Trong ba tuần lễ đầu tiên tập tễnh làm
thảo chương viên, tôi ăn dầm nằm dề ở phòng xuyên phiếu trước cặp mắt lạnh
lùng khó chịu của chị trưởng ban trạc tứ tuần mà chưa có chồng. Một hôm, đến cuối ngày mà vẫn chưa hoàn tất các
sửa đổi cần thiết, tôi để hộp thẻ ở phòng xuyên phiếu và ngẫu nhiên ra về một lượt
với chị ta. Trong thang máy, chị trêu
tôi, nhưng nghiêm mặt không cười,
“Hình
như anh thích làm công việc xuyên phiếu?
Anh cứ nộp đơn, chúng tôi đang cần người.”
Tôi bối rối đỏ mặt tía tai, đau như hoạn, nhưng
đành cắn răng cười trừ. Hôm sau, tôi mượn
cuốn sách chỉ dẫn cách dùng máy xuyên phiếu, để ra một buổi đọc từ đầu đến cuối,
và ghi ra những điều cần nhớ trước khi tiếp tục sửa thẻ. Nhờ vậy, tôi biết rõ cách dùng máy, và ngón
tay mổ cò tuy vẫn chậm rì nhưng không còn đánh sai tùm lum như
trước.
Một tháng trôi qua và sau khoảng hai chục
lần biên dịch và chạy thử, chương trình LINCAL của tôi hoạt động đúng như tôi
và Dennis đã hoạch định. Chúng tôi mang
bản in vào văn phòng ông Howard trình bày kết quả dự án. Ông sếp là kỹ sư thuộc thế hệ cũ và
không biết nhiều về thảo chương hay máy điện toán. Ông chăm chú nghe tôi trình bày phương pháp
tính toán, gật gù đồng ý với tôi về dự định in kết quả thành một tập tài liệu để
phổ biến đến các kỹ sư trong công ty, và cuối cùng hỏi một câu tưởng chừng như
không ăn nhập gì tới vấn đề đang thảo luận,
“Vậy
chớ ngày tháng chạy máy ở đâu mà không thấy?”
“Tại
sao cần đến ngày tháng?” cả tôi và Dennis cùng kêu lên.
“Các
bạn trẻ ơi,” ông Howard mỉm cười sờ râu mép và chậm rãi giải thích, “Giả sử trong
tương lai, hàng năm các anh cập nhật hóa dữ kiện về các đường dây truyền điện
và chạy lại chương trình, nếu không in ngày tháng trên bản in, làm sao biết được
bản nào lỗi thời cần liệng bỏ và bản nào hiện hành cần giữ lại?”
“Hôm
nay ông làm chúng tôi thành hai thằng trán trẹt!” Dennis thẹn thùng chấp
nhận lời khuyên giản dị mà thực tiễn của ông sếp.
Dennis có óc hoạt kê khá đặc biệt, danh
từ “thằng trán trẹt” bắt nguồn từ câu chuyện khôi hài anh hay kể,
Một anh kỹ sư tự cho mình
thông thái và biết nhiều và mỗi lần nghe ai nói điều gì mà anh không biết, xòe
tay vỗ mạnh vào trán, “Ừ, dễ quá; có thế mà không nghĩ ra!” Tháng lại ngày qua, trán anh bị vỗ dài dài và
trẹt hẳn ra, và anh ta có tên “thằng
trán trẹt.”
* * *
Trong khi tôi và Dennis thảo chương và sử dụng máy điện
toán vì nhu cầu tính toán kỹ thuật, sở Khai thác Dữ kiện (Data Processing) có
nhiệm vụ trông nom và điều hành máy điện toán và phụ trách các công việc tính
toán và kiểm kê “quan trọng hơn,” liên quan trực tiếp đến tiền bạc như hồ sơ
tài chánh và kế toán, hóa đơn tính tiền khách hàng, lương bổng nhân viên, hàng
hóa tồn kho, v.v. Nhân viên khai thác dữ
kiện chuyên môn có ba bậc: Thấp nhất là
điều hành viên, kế đến là thảo chương viên, và sau cùng là phân tích viên. Hai nhóm sau dùng COBOL (từ "COmmon Business-Oriented
Language" nghĩa là ngôn ngữ thông dụng chuyên dùng cho ngành kinh doanh)
để thảo chương.
Các nhà điện toán chuyên nghiệp đó xem
tôi là “người ngoài” được đặc ân dùng máy ké. Khi tiếp nhận yêu cầu chạy máy của tôi, các
điều hành viên tỏ tuồng mặt khinh khỉnh như chĩnh mắm thối. Để chạy một chương trình FORTRAN bình thường,
điều hành viên chỉ cần nạp thẻ vào máy đọc thẻ và đánh mệnh lệnh vào bàn chữ trên
console,
READ
(Đọc).
Sau khi máy đọc thẻ đọc xong, chương
trình sẽ điều khiển máy điện toán làm việc và in ra những điều họ cần làm trên console
– không cần suy nghĩ gì cả. Dennis hay
nói đùa với tôi,
“Bọn điều hành viên ngồi
không trong phòng máy lạnh và không vận dụng trí não nên bộ óc dần dần teo lại bằng
hạt cát. Thật tội nghiệp!”
Một hôm tôi mang thẻ vào phòng máy điện toán và chờ
mãi không thấy bóng dáng điều hành viên nào.
Nóng lòng chạy chương trình để có kết quả sớm, tôi nhìn quanh nhìn quất không
thấy ai bèn hối hả nạp thẻ vào máy đọc và bước tới console đánh vào mệnh
lệnh READ. Sau đó, tôi lẳng lặng mang thẻ
về bàn giấy mình và để chương trình chạy trong máy như thường lệ.
Hai hôm sau, tôi và Dennis bị ông Wally
phó tổng giám đốc gọi lên văn phòng.
Trên tay cầm một xấp hồ sơ, ông rầy tôi,
“Tôi
vừa nhận được đơn kiện của IBEW (Nghiệp đoàn Công nhân Ngành Điện Quốc tế). Họ phàn nàn ngày hôm kia anh đã vi phạm khế ước
giữa nghiệp đoàn và công ty vì đã tự tiện dùng console trong phòng máy điện
toán. Chỉ điều hành viên thuộc nghiệp
đoàn mới có quyền đụng tới nó, anh biết chưa?” và ông quay sang trách Dennis, “Ba
Hoa chưa quen làm việc với bọn Khai thác Dữ kiện, tại sao anh không chỉ cho
anh ta biết?”
“Thưa
bác, việc đó do lỗi cháu¸ không dính dáng đến Dennis. Cháu đợi lâu quá mà điều hành viên biến đâu mất
hết nên đã tự ý sai khiến máy đọc thẻ đọc vào máy điện toán,” tôi nhận lỗi và thuật
lại sự việc.
“Tôi
bỏ qua cho anh lần này, nhưng luật lệ là luật lệ, khiếu nại của nghiệp đoàn sẽ
ghi vào hồ sơ cá nhân của anh.”
Về lại bàn giấy của mình, tôi hỏi
Dennis,
“Anh
nghĩ tôi còn gặp rắc rối nữa không?”
“Hiện
tại, ngoài việc bị mấy tên điều hành viên cotton-picking nghênh nghênh nhìn,
anh sẽ không bị phiền phức gì cả. Vì sếp
Howard không ưa bọn nghiệp đoàn,” Dennis lắc đầu; “cotton-picking” là từ ngữ chung
dùng để chỉ trích với ý không bằng lòng, trong trường hợp này có thể hiểu là
“ba láp” hay “cà chớn.”
“Nhưng
sau này thì sao?” tôi chưa yên lòng.
“Anh
có tên trong ‘sổ đen’ của nghiệp đoàn; vài chục năm nữa, cơ hội trở thành tổng
giám đốc công ty của ‘kỹ sư Ba Hoa’ sẽ kém đi một phần nào vì khi tuyển
chọn, hội đồng quản trị có thể xét tới vụ này.
Nhưng anh đừng lo; chúng mình không phải là dân đếm hạt đậu (kế
toán viên) và cũng không là luật sư ăn gian nói dối, làm sao lên được danh sách
ứng viên đó?”
Ước gì từ phòng xuyên phiếu đến phòng máy điện toán, tôi
chỉ đối phó với máy móc vô tri vô giác mà thôi.
Con người sao lắt léo quá!
Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày 19 tháng Năm, 2021
Đăng nhận xét