KÍNH GIỚI THIỆU TẢN MẠN TRUYỆN NGẮN: NGUYỄN KHẮC TIẾN TÙNG-LÊ PHÚ KHẢI-NGUYÊN NGỌC

 TẢN MẠN TRUYỆN NGẮN: NGUYỄN KHẮC TIẾN TÙNG-LÊ PHÚ KHẢI-NGUYÊN NGỌC

Phù  du

 


NGUYỄN KHẮC TIẾN TÙNG

 Theo dự định sau khi làm hết mọi việc ở khu chính giữa thành phố tôi vào một Trung tâm cho những người già để ăn trưa cùng các bạn lão niên. Thành phố này có nhiều tổ chức ưu ái với người già. Không biết theo thống kê thì có bao nhiêu người lớn tuổi trong thành phố gần hai triệu dân này, thế mà họ có một bà phó thị trưởng đặc trách văn phòng thu nhập những ý kiến, nguyện vọng của người già. Khu nào lớn trong thành  phố cũng có một ủy ban đặc trách người già và một trung tâm cho các cụ gồm quán ăn, quán cà phê, thư viện, các phòng giải trí và những phòng đặc biệt để nhiều nhóm có những sở thích khác nhau có thể thường xuyên gặp gỡ. Riêng tại khu phố cổ lại có trung tâm chính với trụ sở lớn cho các cụ gặp nhau  có cả quán ăn do chính các cụ tự tổ chức, điều khiển với nhiều người tình nguyện. Thật đáng phục việc điều hành hoàn toàn do tinh thần tự nguyện mà mọi việc đều trôi chảy dễ dàng không kém gì một tổ chức thương mại tư nhân hay một công sở.

Có lẽ tôi là một người hay lui tới Trung tâm nên quen mặt nhiều người và cũng từng được nhiều người giúp đỡ trong các việc riêng cần thiết. Khi Laptop có vấn đề gọi điện đến là có một cụ kỹ sư điện toán đã về hưu thường giúp, hay khi máy móc gì hỏng cũng có thể „cầu cứu“ được. Đặc biệt là quần áo nếu cần khâu vá sửa đổi thì đã có nhiều cụ bà. Mắt người nào khiếm thị cũng có thể đến đây nhập vào nhóm „Đọc cho nhau nghe“ rồi cùng luận bàn về thời sự. Để đáp lại tôi tham gia nhóm thăm viếng người bệnh, đi gặp ai cần người cùng đi dạo, dẫn đến bác sĩ hay muốn khuây khỏa giãi baỳ tâm sự với ai đồng trang lứa…..

Khi tôi bước vào thì khu nhà hàng ăn của Trung tâm còn vắng vẻ. Tôi ngồi vào một bàn đã có một cụ ông, hai bên đều có cái nhìn trao đổi, chào đón. Ông cụ mặc một bộ đồ lớn sang trọng nhưng có vẻ bớt hợp thời trang. Chiếc sơ mi là thẳng tắp, không có cà vạt. Tôi „liếc trộm“ xuống chân cụ thì đúng như dự đoán, cụ đi đôi giày da bóng loáng với đôi tất thích hợp, khác hẳn với nhiều người lớn tuổi về hưu hiện nay thường đi giày vải thể thao cho tiện.
Thực khách đông dần, trong bếp xôn xao tiếng người tình nguyện nhịp nhàng chia nhau công việc. Khoảng 15 phút sau bắt đầu giờ ăn. Hoạt động như thoi đưa giữa nhà bếp và phòng khách. Bên ngoài mấy con chim bồ câu bay vào tận phòng ăn, bạo dạn không sợ ai, coi đây cũng là nhà hàng của chúng! Tuy ở giữa thành phố, một tấc đất là một tấc vàng, nhưng trụ sở của những người cao tuổi naỳ rất rộng , có nhiều cây cối như một công viên nhỏ. Hôm nay trời đã gần giữa trưa nhưng chưa có cái gay gắt của nắng hè. Mặt trời dìu dịu chiếu xuống vòm cây khiến những cành lá rung rinh in hình xuống đường đi thành những hoa nắng rỡ ràng. Ngoài vườn cũng có một số bàn để thực khách có thể ra vườn ngồi ăn, nhưng hôm nay chưa thấy ai ra.

Trong nhà khách đã đông hơn. Một tình nguyện viên nữ tóc bạc phơ đến vỗ nhẹ  lên vai ông cụ cùng bàn tôi, có vẻ rất quen biết, thân tình. Bà đặt đĩa đồ ăn cho ông cụ và chúc ăn ngon. Ông cụ nhìn tôi và cũng chúc như thế. Tôi mỉm cười chúc cả các bạn láng giềng bằng một ngôn ngữ xuề xòa hơn. Ông cụ cùng bàn ăn uống có vẻ khó khăn, tay run run, mặt cúi gần sát đĩa. Cụ thoáng liếc nhìn tôi. Mỗi lần cắt chiếc đùi gà nhiều khi dao đưa không trúng cụ lại liếc nhìn tôi nữa „Ông cụ này chắc ngày xưa phong lưu đài các lắm, hẳn cũng có một địa vị cao ở sở làm“, tôi nghĩ thế. Tôi bỗng  thương cụ và để “giải phóng” khỏi cảnh naỳ chắc phải làm „ cách mạng “. Hôm nay thực khách được thưởng thức món gà quay theo “kiểu đặc biệt của các bà nội tướng”, gồm cả nửa con gà màu nâu bóng rất mỡ màng, hấp dẫn. Tôi nghĩ thầm,  thản nhiên  bẻ chiếc đùi khỏi lườn và cánh gà, cầm chiếc đùi gà   „ hiên ngang „  đưa lên miệng. Và ngoạm một miếng rất ngon lành, thú vị! Ông cụ nhìn tôi một thoáng rồi cũng cầm chiếc đùi gà lên ăn. Tôi bật cười, cụ cũng cười theo. Khi nhìn sang bàn bên cạnh bỗng thấy các cụ ông cụ bà ai cũng bẻ chiếc đùi gà ngoạm rất hả hê, không dùng dao nĩa nữa. Ai nấy đều ăn một cách thoải mái ngon lành. Tiếng cười vui tự nhiên nổi lên ở góc chúng tôi ngồi khiến cả phòng quay lại nhìn, ra hiệu cho nhau và trưa hôm đó có một cuộc ăn bốc tự nhiên như bên Ấn Độ.
Tất cả mọi người đang vui vẻ thì một bà cụ từ trong bếp đi ra. Mái tóc bạch kim của cụ óng ánh thêm do  nắng hè qua cửa kính chiếu vào. Ai nấy nhân ra đó là “Bà Mẹ Cưng” của Trung tâm. Tiếng cười nói ồn ào bớt đi trước vẻ mặt nghiêm trang „đe dọa“ của Mẹ Cưng. Bà cầm dao nĩa của một cụ  gần đó giơ  lên: “Lần sau có món gà chiên sẽ không dọn dao nĩa , đỡ tốn sức lao động, đỡ tốn điện cho máy rửa chén dĩa”. Rồi Mẹ Cưng cười tươi rói: ” Ừ,  để lần sau chúng tôi sẽ dọn cho mỗi người thêm hai cái khăn  giấy để lau tay cho sạch.” Mọi người tiếp tục cười nói hả hê. Mẹ Cưng tiến về phía tôi. “Anh ăn nhẵn muỗng nĩa của Trung tâm sao mãi hôm nay mới có sáng kiến  vậy. Cho sử sách sau này ghi công anh, phải gọi cuộc cách mạng của anh là gì? Một cụ  thạo chính trị nói: “Có cách mạng vô sản rồi, có cách mạng mùa xuân Ả rập rồi … đặt tên gì hấp dẫn môt chút!“. Mẹ cưng quay sang tôi, Anh được quyền đặt tên. Nói tên cách mạng của anh để tôi sẽ kê khai món ăn vào thực đơn”. Tôi vốn  nghĩ chậm chưa kịp trả lời thì mấy cụ xung  quanh đã nhao nhao: ” Thì cách mạng đùi gà chứ còn gì nữa”. Mẹ  Cưng: ” Ừ thế thì hôm nào có món như hôm nay Thực đơn sẽ chính thức ghi Món cách mạng đùi gà và chúng tôi không dọn dao nĩa nhưng sẽ cho các anh chị nhiều khăn giấy lau tay hơn!” Thế là lịch sử của Trung tâm già thành phố đã có một cuộc cáchh mạng không bạo lực, chắc giải Nobel hòa bình sẽ đến như chơi!

Từ bếp các cụ bà bắt đầu mang khay Pudding tráng miệng ra phân phát cho chúng tôi. Đúng là cây nhà lá vườn: bột của đồ tráng miệng mịn và có một mùi thơm khó tả, chắc không restaurant nào có được.

Bữa ăn qua đi nhưng đồ ăn còn lại nhiều. Đĩa của cụ cùng bàn tôi còn một chiếc cánh gà và một phần lớn ức gà. Cụ lẳng lặng lấy trong túi mang theo một hộp nhỏ ra và cúi thật sát vào đĩa đồ ăn gạt những thứ còn lại vào hộp. Cụ lại liếc nhanh về phía tôi, có vẻ ngượng, nhưng tôi lờ đi và đưa đẩy vài câu với cụ, khen Pudding nội trợ ngon quá. Còn nói thêm tiếc rằng đã không có hộp mang theo, nếu không tôi cũng mang đồ còn lại về.”Tội gì chiều nay phải lỉnh kỉnh nồi niêu cho thêm mệt thân già “. Thế là chúng tôi  cùng cười nhẹ, ý hợp tâm đầu“ với cụ. Tôi nghĩ rằng nếu có thời gian chắc cụ có thể cũng muốn chúng tôi thành bạn hữu.

Tôi phải đi và cụ cũng phải về. Chúng tôi đứng dậy cùng đi  về phía cửa. Bấy giờ  mới nhận ra cụ đi rất chậm với chiếc gậy và bước những bươc ngắn, chắc động lực từ đôi chân không còn nhiều. Chúng tôi từ biệt nhau và tôi nhận ra, thêm trong dáng điệu của cụ vẫn còn vương vấn một chút gì thanh cao lịch thiệp. Có lẽ hồi xưa trong một nhà hàng sang trọng khi từ biệt đối tác cụ đã để lại trong lòng người kia một cảm giác khó quên về một bữa ăn thịnh soạn và những câu đối thoại linh động mà lịch  lãm của một Top Manager. Cụ nói „Tam biệt anh“ chứ không „tạm biệt cụ“ hay „ông“, rút ngắn khoảng cách xã giao dù mới gặp nhau chỉ một lần. Tôi cũng nhẹ nhàng cười thân thiết , đáp lại „Hy vọng sớm có dịp gặp lại anh“. Rồi giơ tay vẫy. Cụ cũng giơ tay vẫy theo. Nhưng cái vẫy tay của cụ mang một chút gì khó khăn, mệt nhọc. Chúng tôi đi hai ngả đường, còn quay lại vẫy tay chào nhau đôi lần nữa.

Trung tâm thành phố cổ tràn ngập du khách ngoại quốc và cả người địa phương. Ở một thành phố gần hai triệu người, giao thông tuy được bình chọn là hoàn hảo bậc nhất, gặp nhau đâu có khó gì, nhưng với sức khỏe và tuổi tác của cụ bạn vừa quen , mà tôi cũng không  còn trẻ trung, thì câu hẹn gặp lại nhau chắc gì thành hiện thực? Đời này đã gặp nhau một lần, có còn gặp nhau nữa không, hay đã chỉ là một lần độc nhất?

Nắng hè đẹp quá. Ngước nhìn trời , lơ lửng trên đầu một đám mây lớn bềnh bồng đang tan, chầm chậm tỏa thành những vần trắng trên không gian bát ngát.

- Ừ nhỉ, sao lòng mình hình như cũng mênh mang ?…

Munichen, 11.11. 22
NGUYỄN - KHẮC TIẾN - TÙNG

*****

thơ (Ng.-Kh Tiến-Tùng) + L.-P. Khai (về nhà văn SƠN NAM)

TÂM  ĐỘNG

bâng quơ nhìn quẩn nhìn quanh

ngổn ngang bề bộn âm thanh trong hồn.

ra vào đi đứng bồn chồn,

thiên thu vô tận bồn chồn ... vào ra !!!

 

Munchen, 21.09.2024

Nguyễn-Khắc Tiến-Tùng

******

Đó là Sơn Nam !

Đó là Sơn Nam !

Hồi ký Lê Phú Khải (Trích)

 Sơn Nam kể với tôi: Hồi tao mới lên Sài Gòn kiếm sống, một lần bà già tao từ quê lên hỏi: Mày lên đây làm gì để sống? – Viết văn. Bà già hỏi lại: Viết văn là làm gì? Tao thưa: Viết văn là có nói thành không, không nói thành có (!). Bả nổi giận mắng: Mày là thằng đốn mạt. Tao không cãi, chỉ làm thinh! Sau chừng như thương con quá, bà lại hỏi: Thế viết văn có sống được không? Tao bảo: Viết một giờ bằng người ta đạp xích lô cả ngày! Bả thấy vậy không hỏi gì nữa rồi lặng lẽ ra về.

 Sơn Nam đã viết văn từ đó đến nay, 50 năm có lẻ. Tập truyện nổi tiếng nhất của ông là Hương rừng Cà Mau đã tái bản nhiều lần. Ông được độc giả tấn phong là nhà “Nam bộ học” với hàng loạt tác phẩm khảo cứu: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Đồng bằng sông Cửu Long, Văn minh miệt vườn, Cá tính miền Nam, Bến Nghé xưa … Ông rành về phong tục, lễ nghi, ẩm thực của dân Nam bộ. Mỗi buổi sáng, ông thường uống cà phê ở quán sân Nhà truyền thống quận Gò Vấp đường Nguyễn Văn Nghi. Ai có việc gì cần hỏi về đất nước con người Nam bộ thường ghé tìm ông ở đó. Kể cả mời ông đi tế lễ ở đình chùa! Có người làm ăn khá giả tìm ông để biếu ít tiền uống cà phê (!)

 Dạo nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức kỷ niệm 20 năm thành lập, có mời ông với tư cách là cộng tác viên ruột lên phát biểu trong buổi lễ long trọng đó. Ông nói ngắn gọn: “Tôi sức yếu quá, nếu khỏe như Huỳnh Đức thì đã đi đá banh rồi. Lại xấu trai nữa, nếu không đã đi đóng phim như Chánh Tín từ lúc còn trẻ. Vừa ốm yếu lại vừa xấu trai nên đành đi viết văn vậy. Bây giờ Nhà xuất bản Trẻ làm ăn khấm khá, các anh chị có cơm ăn, tôi cũng có chút cháo!” Mọi người cười rộ.

 …Dạo Sài Gòn kỷ niệm 300 năm, Sơn Nam có theo một đoàn phim ra Quảng Bình dự lễ tưởng niệm Tướng quân Nguyễn Hữu Cảnh người Quảng Bình có công khai phá đất Nam bộ. Khi làm lễ, Sơn Nam giở gói đồ khăn đóng áo dài của mình đem từ Sài Gòn ra, mặc vô và tế lễ rất đúng bài bản. Các cụ Quảng Bình khen nức nở: Trong Nam người ta có lễ hơn cả mình ngoài này! Sơn Nam nói: Trong Nam cũng có nhiều thằng lưu manh lắm, nhưng cử người đi xa, phải cử thằng có lễ chớ! Các cụ Quảng Bình ngẩn người!

 Trong giới nhà văn, Sơn Nam là tác giả được một nhà xuất bản lớn ở thành phố Hồ Chí Minh mua bản quyền hầu hết tác phẩm. Khi tôi hỏi nhà văn giá bao nhiêu ông lắc đầu: “bí mật” (!)

Những lần trà dư tửu hậu với Sơn Nam như thế, tôi thường mời ông ăn trưa, vì biết ông đi bộ đến quán cà phê rồi ở đó đến tối mới về. Vào quán, bao giờ ông cũng kêu: Cho cái món gì rẻ nhất, ngon nhất, và ngồi được lâu nhất (!)

 Sơn Nam để lại cho đời một sự nghiệp sáng tạo thật đồ sộ. Bao gồm nhiều đầu sách khảo cứu, truyện ngắn, tiểu thuyết. Đọc Sơn Nam người ta kinh ngạc về sự độc đáo của văn phong. Ông viết như nói, như một ông già Nam bộ kể chuyện đời trong quán cà phê. Nhưng sức nặng của thông tin và cảm xúc của người viết khiến lời văn biến hóa khôn lường. Đừng có ai đi tìm thể loại hay bố cục trong một truyện ngắn hay một cuốn sách của Sơn Nam. Nhưng đã chạm đến nó là phải đọc đến trang cuối. Vì càng đọc càng thấy yêu nhân vật của ông. Càng thấy yêu mảnh đất Nam bộ, miền cực nam của đất nước.

Lần cuối cùng tôi gặp Sơn Nam là cách đây vài tháng, tại nhà riêng của ông ở một con hẻm đường Đinh Tiên Hoàng. Hôm đó tôi đem một cái nhuận bút của báo Cà Mau về cho ông. Không ngồi dậy được, ông phải nằm tiếp khách. Bất ngờ ông hỏi tôi: Một tỷ là bao nhiêu tiền hả mày? Câu này ông đã hỏi tôi một lần, nghĩ là ông hỏi giỡn, nên lần đó tôi không trả lời. Nay ông lại hỏi, nên tôi thưa: Là một nghìn triệu “bố” ạ! Ông trợn mắt: Dữ vậy? Tôi nói: Không tin “bố” hỏi con gái “bố” kia kìa.

Khi biết rõ một tỷ là một nghìn triệu, nét mặt nhà văn nặng trĩu ưu tư. Có lẽ ông đang nghĩ đến những vụ tham ô, lãng phí cả trăm tỷ, ngàn tỷ mà ông đọc được trong những xấp báo đang để quanh người ông kia!

 Nếu ai hỏi tôi về Sơn Nam, tôi sẽ trả lời: Sơn Nam là một nhà văn rất vui tính, đã… chết vì quá buồn!

 Sơn Nam đã đi xa. Nhiều người bây giờ còn nhớ câu nói dí dỏm của ông: “Làm văn chương là nghèo rồi. Nếu làm nghề này mà giàu được thì Ba Tàu Chợ Lớn đã làm rồi!”

Lúc còn sống, Sơn Nam ý thức một cách rõ ràng về cái sự nghèo của nhà văn. Bây giờ thì Sơn Nam của chúng ta không còn nữa. Nhưng nghĩ cho kỹ thì ông không nghèo. Trái lại, rất giàu có là đàng khác. Ngắm ngôi nhà lưu niệm Sơn Nam tọa lạc trên một thế đất 2000 mét vuông, nhìn ra phong cảnh cỏ cây, sông nước và những gì có trong ngôi nhà đó, người ta phải suy nghĩ như thế.

 Ngày 13 tháng 7 năm Canh Dần, tức ngày 22 tháng 8 năm 2010, nhà lưu niệm Sơn Nam được vợ chồng chị Đào Thúy Hằng, con gái của nhà văn khánh thành nhân ngày giỗ thứ hai của ông, tại ấp 4 xã Đạo Thạnh ngoại ô thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Là một công trình văn hóa “phi chính phủ” nên ngày khánh thành không có giấy mời in ấn, dấu mộc nhiêu khê. Chỉ nhắn bằng điện thoại, ai biết thì tới.

 Nhà xây ba gian hai chái, hàn hiên rộng, thoáng mát, có cửa lá sách thông với ba gian bên trong. Một kiểu nhà ba gian hai chái ở miền Bắc, được các phú hào ở Nam bộ cải tiến cho hợp với miền Nam xứ nóng quanh năm. Đặc biệt, mái ngói hai tầng làm cho ngôi nhà rất bề thế. Anh Nghị, con rể nhà văn cho hay, chính anh lái máy ủi để ủi đất tạo thế một quả đồi thấp làm nền cho ngôi nhà. Vì thế, đứng từ thềm nhà nhìn ra, thấy được cả phong cảnh cỏ cây, sông nước phía trước. Để có được phong cảnh này, vợ chồng chị Hằng đã phải chắt chiu mua lại từng mảnh đất nhỏ của 5-6 chủ đất phía trước nhà trong gần hai năm. “Ông bà ta chỉ xây dựng phong cảnh một ngôi chùa, chứ không xây dựng một ngôi chùa.” Nguyễn Đình Thi đã có nhận xét xác đáng như vậy về kiến trúc đình chùa nước ta. Điều này rất đúng với nhà lưu niệm Sơn Nam.

 Ấn tượng nhất là ngay lối trước sân, phía bên phải là tượng Sơn Nam tạc trên một phiến đá dựng đứng, bên trái là bút tích, cũng được tạc trên đá: bài thơ duy nhất của ông, không đề, mà ông lấy làm lời tựa cho cuốn Hương rừng Cà Mau trong đó có hai câu kết mà bao nhiêu người thuộc:

 Phong sương mấy độ qua đường phố

Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê.

Tôi đặc biệt thích thú một cái máy chữ cổ, do một sinh viên có tên là Bùi Thế Nghiệp tặng nhà lưu niệm, kèm theo lá thư Sơn Nam viết lúc tặng anh cái máy. Số là, sinh viên Nghiệp là bạn đọc hâm mộ nhà văn.. Cậu thường chở nhà văn đi chơi (Sơn Nam không biết đi xe đạp, xe máy – LPK). Lúc nhà văn bệnh nặng vào năm 2005, Nghiệp đến xin nhà văn một kỷ vật gì đó, phòng khi ông đi xa. Nhà văn đã cho anh cái máy chữ kèm theo lá thư nhỏ chứng nhận đây là máy chữ của Sơn Nam tặng. Nay đọc báo biết có nhà lưu niệm Sơn Nam, Nghiệp đến tặng lại.

L.P.K.

 ******

Một Cuộc Di Tản Giáo Dục Lớn Khỏi Việt Nam

NGUYÊN NGỌC

Cách đây mấy hôm, tôi có đến thăm một chị bạn, gặp cả chị và con trai chị. Chả là vài năm trước đây tôi có dạy cả hai mẹ con học một ít tiếng Pháp. Tôi hỏi thăm cháu năm nay lên lớp mấy rồi, chị bảo giờ đang nghỉ hè, vào năm học mới cháu sẽ lên lớp tám. Ngừng một chút, rồi chị nói tiếp: “Em cũng đang chuẩn bị ráo riết để cho cháu ‘lên thuyền’ thầy ạ.”

Tôi ngạc nhiên: “Lên thuyền?”. Thấy tôi ngơ ngác, chị cười bảo: “Hai chữ này bây giờ người ta nói phổ biến rồi mà thầy. ‘Lên thuyền’ tức là ra nước ngoài học, đi du học ấy mà. Em chuẩn bị cho cháu lên cấp ba thì sang học ở Mỹ. Bây giờ cũng đang có một phong trào ‘thuyền nhân’ chạy khỏi đất nước như hồi mấy mươi năm trước, ngày càng đông đảo. Hồi những năm 70, 80 là thuyền nhân chính trị, di tản chính trị. Bây giờ là thuyền nhân giáo dục, di tản giáo dục. Chạy trốn nền giáo dục này”.

Hóa ra tôi quá lạc hậu. Một cuộc di tản mới, sâu sắc chẳng kém gì cuộc di tản trước, mà nào tôi có biết. Hay đúng hơn, tôi không biết nó đã đến mức một phong trào “thuyền nhân” mới. Khẩn thiết chạy trốn khỏi cái nền giáo dục mà cha mẹ họ lo sợ cho con cái họ. Chắc dẫu sao cũng là chỉ những gia đình tương đối khá giả, và tôi nghĩ hẳn cũng chỉ ở thành phố, thậm chí phải là thành phố lớn.

Nhưng mấy hôm sau tôi lại gặp một chị bạn khác, vốn quê Thái Bình. Tôi đem kể với chị chuyện “Lên thuyền” tôi mới được nghe. Chị bảo: “Không chỉ ở thành phố đâu anh ơi, em mới về quê lên đây nè. Ngay ở quê Thái Bình, nhiều gia đình chẳng khá giả gì cũng lo chạy vạy hết nước, có khi bán cả nhà, cả ruộng, để cho con ra học nước ngoài, ngay từ phổ thông. Những bậc cha mẹ có ít nhiều hiểu biết đều rất lo sợ về nền giáo dục này cho con cái của họ. Người cắn răng ở lại chỉ là người đã cùng đường…”.

Vậy đó, Bộ Giáo Dục, nhà nước có biết điều này không? Tôi muốn hỏi. Chưa hề thấy Bộ Giáo Dục, là cơ quan chịu trách nhiệm về toàn bộ nền giáo dục và tình hình giáo dục nước nhà, nói gì về chuyện “Lên Thuyền” này cả. Bộ có biết một cuộc di tản giáo dục mới, rỉ rả, âm thầm, nhưng là đại di tản đang diễn ra, từng ngày, quyết liệt, một cuộc phản kháng âm thầm mà dữ dội bằng chân đối với nền giáo dục mà các vị đang áp buộc lên họ, con cái họ?

Cũng trên trang Văn Việt này cách đây ít lâu, tôi có đọc được bài viết của anh Đỗ Ngọc Thống trả lời những người muốn hỏi anh vì sao là người làm việc chính trong nền giáo dục này mà anh cũng lại cho con ra học nước ngoài, có phải anh cũng cho con di tản giáo dục không? Anh Thống bảo chẳng lẽ người hỏi điều đó không biết rằng anh cũng phải lo sợ cho con anh về ô nhiễm môi trường, ô nhiễm thực phẩm và bao nhiêu thứ ô nhiễm văn hóa xã hội nữa ở trong nước bây giờ mà anh hẳn không muốn con anh phải chịu.

Tôi đồng ý với anh Thống về các thứ ô nhiễm rành rành anh đã chỉ ra và vì chúng, anh phải quyết cứu con anh ra khỏi. Tuy nhiên tôi có ngạc nhiên thấy anh không hề nói gì về ô nhiễm cũng sờ sờ ra đó của chính nền giáo dục mà anh đang tham gia làm ra, nó nguy hiểm đến mức hầu như bất cứ bậc cha mẹ nào có thể thì cũng đều không muốn cho con họ phải chịu, và quyết làm mọi cách để cho con “lên thuyền” hôm nay.

Một cuộc di tản giáo dục lớn, sao không ai báo động...? ? ./.

( NGUYÊN NGỌC )

 ***






Top of Form

Bottom of Form

 

 



Tags: TÁC GIẢ
Tags: TÁC PHẨM

Đăng nhận xét

Tin liên quan