30-4-1975 NGÀY BUỒN NHẤT ĐỜI TÔI
30-04-1975
Ngày Buồn Nhất Đời Tôi
Một bạn trẻ cắc cớ hỏi tôi, năm nay cụ đã ngoài tám mươi rồi, thì ngày nào mà cụ cho là ngày buồn nhất trong đời của của cụ? Tôi không do dự một giây nào cả và đã trả lời ngay rằng: “Ngày 30 tháng 04 năm 1975”. Thật vậy, cho đến lúc này, tôi đã bước qua ngưỡng cửa không phải là “thất thập cổ lai hy” mà là “bát thập cổ lai hy” một đoạn khá xa rồi, song mỗi khi suy ngẫm về những ngày buồn trong cuộc đời của tôi, tôi vẫn thấy ngày 30/04/1975 quả là ngày buồn nhất đời tôi. Tuy ngày ấy tính đến nay đã 46 năm qua rồi, song nó vẫn canh cánh trong tôi.
Ngày ấy tôi là một quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa và đơn vị mà tôi phục vụ là Tiểu Khu Châu Đốc. Ngày hôm ấy cũng là một ngày
khá đẹp trời ở Thị Xã Châu Đốc. Ánh nắng chan hòa trải dài trên dòng sông Hậu.
Chim nhẩy nhót hát ca trong những chòm cây. Bướm lượn tung tăng trên những đám
cỏ. Xe cộ tấp nập ngược xuôi trên con đường Gia Long song song với dòng sông Hậu,
băng ngang qua Tòa Hành Chánh tỉnh, rồi xuyên vào khu phố chợ sầm uất nhất của
Thị Xã.
Khoảng 9 giờ sáng hôm ấy, sau một đêm ứng chiến tại
nhiệm sở, Trung Tâm Điều Hợp Bình Định và Phát Triển Tỉnh & Tiểu Khu
Châu Đốc, trong khuôn viên Tòa Hành Chánh Tỉnh, tôi trở về nhà riêng trong
khu cư xá Gia Long để ăn sáng. Bước vào nhà là tôi mở ngay radio để nghe tin
chiến sự; ít phút sau đó, Đài Phát Thanh Sài gòn thông báo:
“Xin chú ý, xin chú ý, xin đồng bào chú ý! Tổng Thống
Dương Văn Minh sẽ ngỏ lời cùng đồng bào, xin theo dõi.”
Dựa vào tình hình chiến sự lúc ấy, tôi phỏng đoán vị
Tân Tổng Thống cũng là Tân Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ tuyên bố
TỔ QUỐC LÂM NGUY, rồi nhân đấy kêu gọi toàn dân và toàn quân chiến đấu đến viên
đạn và giọt máu cuối cùng. Ngồi vào bàn ăn, vừa ăn vừa chờ đợi đón nhận những lời
“gang thép” ấy. Ít phút sau từ chiếc radio phát ra:
“Tổng Thống chính quyền Sài Gòn kêu gọi Quân Lực Việt
Nam Cộng Hoà hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải Phóng Miền Nam Việt
Nam. Tôi tuyên bố, chính quyền Saigòn từ trung ương đến điạ phương, trao lại
cho chính quyền Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam.”
Thật không ngờ lại là lệnh buông súng đầu hàng, khiến
tôi ngẩn ngơ, ngỡ ngàng, hụt hẫng, chới với. Miếng bánh mì đang nuốt, bỗng mắc
nghẹn nơi cuống họng. Miệng tôi lẩm bẩm: “Không! không! không thể đầu hàng nhục
nhã như thế được” rồi tôi đứng bật dậy, lảo đảo bước tới chiếc giường, thẩy
mình lên đó, đau đớn, buồn bã, vật vã, rã rời.
Khi bố tôi mất vào năm 1957, mẹ tôi từ trần vào năm
1962, tôi rất buồn, buồn đến nỗi, ngày quên ăn, đêm quên ngủ, nhưng tôi chưa buồn
đến nỗi muốn quyên sinh. Khi người tôi yêu lên xe hoa về nhà chồng, tôi cũng buồn
man mác, nhưng chưa buồn đến nỗi “mua
ngay thuốc chuột uống cho rồi đời”. Khi thi tú tài hay cử nhân luật tôi
cũng hỏng thi nhiều lần, và mỗi lần hỏng thi tôi cũng buồn lắm, nhưng chưa một
lần hỏng thi nào mà tôi coi là “đệ nhất buồn” trong đời như cụ Tú Xương:
“Bụng buồn còn
muốn nói năng chi
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi
Một việc văn chương thôi cũng nhảm
Trăm năm thân thế có ra gì”
Song vào ngày 30.04.75, sau khi nghe Tổng Thống Dương
Văn Minh hạ lệnh buông súng đầu hàng, tôi buồn ghê gớm, chẳng những buồn đến nỗi
tan tác cả cõi lòng, mà còn buồn đễn nỗi muốn quyên sinh nữa. Giá hôm ấy tôi ở
nhà một mình, chắc tôi đã kết liễu đời tôi bằng một viên đạn súng Colt treo
ngay tại đầu giường. Tôi có thừa can đảm cầm khẩu colt bắn một viên đạn vào đầu
mình, nhưng lại thiếu can đảm làm công việc này trước mặt vợ và ba đứa con còn
thơ ngây của tôi.
Không buồn làm sao được,
khi thấy hàng trăm ngàn người sống ở miền Nam như tôi đã không tiếc xương máu,
chiến đấu chống lại Cộng Sản Bắc Việt do ông Hồ và các đồng chí của ông lãnh đạo,
để bảo vệ dân chúng miền Nam tiếp tục được sống trong tự do, dân chủ, hòa bình
và no ấm. Cuộc chiến đấu cao cả của hàng triệu con người quốc gia ấy đã thất bại
trong đắng cay, nhục nhã, tức tưởi, ngậm ngùi. Tất cả những công lao và sự hy
sinh to lớn của những người này trong đó có tôi, bỗng tan biến vào hư không,
như:
“Dã tràng xe cát biển Đông
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”
Không buồn sao được, khi nhận ra rằng, cuộc sống của
tôi, của vợ con tôi, của bạn bè tôi, của đồng đội tôi, của đồng bào miền Nam của
tôi sắp sửa bước vào một giai đoạn cực kỳ bi thảm. Sở dĩ tôi nhận ra được điều
đắng cay này, không phải vì tôi quá bi quan hay hoang tưởng với hiện tình miền
Nam tự do đang sụp đổ trước mắt tôi, mà vì những gì chính tai tôi đã nghe,
chính mắt tôi đã thấy, và chính gia đình tôi và thân nhân của tôi đã phải gánh
chịu, trong suốt thời gian mười năm sống ở Liên Khu Bắc Việt, được gọi là vùng
“kháng chiến” của ông Hồ và các đồng chí của ông ở miền Bắc trước năm 1954. Tôi
đã thấy những gì trong thời gian mười năm ấy?
Vâng, tôi đã thấy, ngay sau khi cướp được chính quyền
từ tay người Nhật, ông Hồ và các đồng chí của ông đã giết một cách không thương
tiếc hàng ngàn người mà họ cho là chó săn của Nhật, tay sai của Pháp, tay chân
của triều đình phong kiến. Trong số này,
có những nhà văn, nhà báo, nhà giáo nổi tiếng như Phạm Quỳnh năm 1945, Tạ Thu
Thâu năm 1945, Dương Quảng Hàm năm 1946, Khái Hưng năm 1947
v.v…
Vâng, tôi đã thấy ông Hồ và các đồng chí của ông bắt
cóc và thủ tiêu hàng nghìn người mà họ coi là thành phần phản động trong vùng
quê Phú Thọ của tôi, bằng nhiều hình thức vô cùng dã man tàn ác, như trói chân
tay bỏ vào bao bố, hay cột vào một thanh tà-vẹt đường xe lửa rồi thả xuống dòng
sông hay ao hồ.
Vâng, tôi đã thấy, ông Hồ và tay chân của ông bắt bớ,
giam cầm và giết hại hàng trăm ngàn người được cho là đảng viên của các đảng
phái quốc gia, và là một lực lượng cản đường ngăn lối họ xây dựng chế độ cộng sản
ở Việt Nam, nên cần phải giết để trừ hậu họa.
Vâng, tôi đã thấy, sau khi giành được những thắng lợi to lớn
về quân sự trên đất Bắc, ông Hồ và các đồng chí của ông tin rằng ngày chiến thắng
cuối cùng đã gần kề, nên đã cho thực thi ngay cuộc Cách Mạng Ruộng Đất, ĐÀO TẬN
GỐC, TRỐC TẬN RỄ thành phần TRÍ – PHÚ – ĐỊA – HÀO. Trong cuộc cách mạng “Trời
Long Đất Lở” này, ông Hồ và đồng bọn đã giết khoảng hai trăm ngàn Trí, Phú, Địa,
Hào và tịch thu hàng triệu mẫu ruộng của họ để chia cho nông dân nghèo. Song khốn
nạn thay, chính những người dân nghèo được chia ruộng này, cũng bị ông Hồ và
các đồng chí của ông lường gạt một cách cay đắng, vì số ruộng đất mà họ được
chia và số ruộng ít ỏi mà họ có trước đó, chỉ một thời gian ngắn sau, họ phải
dâng hiến hay cống nạp cho Hợp Tác Xã Nông Nghiệp. Người nông dân nghèo tay trắng
lại trở về với trắng tay, rồi trở thành người làm công, làm thuê cho hợp tác
xã, tính giờ trả công rẻ mạt, nên phải sống trong cảnh bần hàn đói rách hơn cả
những ngày làm tá điền hay cấy rẽ cho địa chủ trước đây. Họ đã than thở việc đi
làm thuê cho hợp tác xã bằng những lời lẽ vô cùng chua chát và cay đắng:
“Đi làm hợp tác
hợp te
Không đủ mua vải mà che cái lờ”
Vâng, qua những tên bộ đội cộng sản Bắc Việt bị bắt
làm tù binh hay ra hồi chánh vào những năm đầu thập niên 1970, tôi được biết
thêm rằng, ông Hồ và các đồng chí của ông đã áp dụng chế độ hộ khẩu khắc nghiệt
trên toàn lãnh thổ miền Bắc để quản lý và kiểm soát khâu sản xuất và phân phối
thực phẩm. Từ củ khoai lang đến củ khoai mì, từ hạt bắp đến hạt gạo, từ lạng muối
tới cân đường, từ mớ rau đến ký thịt vân vân… đều do đảng và nhà nước nắm độc quyền
phân phối và cung cấp cho từng đầu người trong mỗi gia đinh. Số lượng thực phẩm
được cung cấp, hay phân phối, hoặc bán cho mỗi nhân khẩu hoàn toàn tùy thuộc
vào sự định đoạt độc đoán của đảng và nhà nước chứ không tùy thuộc vào nhu cầu
của của người tiêu thụ, vì thế gia đình nào không tuân thủ những mệnh lệnh và
chỉ thị của đảng và nhà nước thì nhà nước không cung cấp và phân phối thực phẩm
nữa và họ sẽ phải chết đói mà không có lối thoát nào khác.
Chế độ hộ khẩu đã trở thành một vũ khí vô cùng hữu hiệu
trong việc ép buộc dân chúng miền Bắc phải triệt để tuân hành tất cả những gì
mà đảng cộng sản muốn người dân phải làm, đảng gọi phải dạ, đảng bảo phải vâng.
Một nhà văn miền Bắc đã ví von rằng, người miền Bắc vào những năm tháng ấy
tương tự như những con chó ngoan ngoãn một mực tuân theo lời chủ: “Bảo vẫy đuôi, vẫy; bảo sủa, sủa; bảo cắn, cắn;
bảo ăn cứt, ăn.”
Con cái đến tuổi nhập ngũ, chính quyền địa phương
không cần nhắc nhở, bố mẹ của chúng tự động ép buộc con cái họ phải “hăng hái” lên đường đi làm nhiệm vụ, dù
họ biết rõ rằng, con cái họ ra đi “đã mấy người trở lại”, song đó là chuyện “hạ
hồi phân giải”. Còn chuyện trước mắt là nếu con cái họ không tuân hành mệnh lệnh
của đảng và nhà nước thì cả gia đình già, trẻ, lớn bé sẽ chết đói, vì “sổ mua gạo”
cho toàn gia đình bị cắt tức thì.
Vào ngày 30-04-1975, hầu hết những điều mà tôi đã thấy
và đã nghe ông Hồ và các đồng chí cộng sản của ông thực thi ở miền Bắc sau năm
1945, lại một lần nữa lướt qua đầu tôi như một cuốn phim chiếu chậm. Hình ảnh,
của cuốn phim chiếu chậm này đã thầm bảo tôi rằng, tất cả những đường lối và
chính sách mà đảng Công Sản Việt Nam đã và đang thực thi ở miền Bắc sẽ được áp
đặt lên đầu nhân dân miền Nam là điều chắc chắn như đinh đóng cột vào những
ngày sắp tới.
Do đó tôi tin rằng, vào những ngày sau ngày
30-04-1975, sắp tới những người có dính líu hay liên hệ với chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa như tôi và các bạn đồng ngũ của tôi sẽ bị thủ tiêu, giết hại hay bị
tống vào những trại tù cải tạo cho chết dần chết mòn. Vợ con tôi và đồng bào miền
Nam tôi sẽ khốn đốn ê chề và sẽ trở thành những con chó mới của đảng cộng sản
Việt Nam. Nói một cách khác là, gia đình tôi và đồng bào miền Nam dưới vĩ tuyến
17 của tôi sẽ bắt đầu bước vào một giai đoạn khốn nạn nhất và đen tối nhất chưa
từng có trong lịch sử trường tồn của dân tộc.
Sau ngày 30.04.75, không ít người từ ải Nam Quan đến
mũi Cà Mâu, vì nông cạn, ngây ngô, khờ khạo, đui mù, nên đã hồ hỡi, hân hoan, hớn
hở, vui mừng đón chào ngày này như một ngày khải hoàn của dân tộc. Đối với tôi,
đó là ngày CƯỜNG BẠO thắng CHÍ NHÂN, ngày PHI NGHĨA thắng CHÍNH NGHĨA, ngày NHÀ
TAN và NƯỚC MẤT. Ngày 30.04.1975, đối với những người có lương tri và hiểu biết
không thể nào được coi là ngày mà toàn thể dân tộc Việt Nam, sau bao nhiêu năm
hy sinh xương máu đã dành lại được độc lập và thống nhất, mà chỉ là ngày đảng Cộng
Sản cướp được trọn vẹn nước Việt Nam từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, sau bao
nhiêu năm lợi dụng chiêu bài chống Mỹ để khai thác lòng yêu nước và vắt ép cạn kiệt xương máu của người dân Việt để
hoàn tất cuộc cách mạng dân tộc và đưa Việt Nam vào quỹ
đạo Cộng Sản Quốc Tế. Nói một cách khác, ngày 30.04.75 chỉ là ngày mà những tên
Cộng Sản Việt Nam đã làm tròn được phân nửa bổn phận tay sai của chúng, đối với
quan thầy Cộng Sản Nga-Tầu.
Ngày mà những
tên Việt Cộng hồ hỡi, hân hoan dụ dỗ một đám con nít, và một đám người lớn “mù
lòa” xuống đường phố hoan ca: “như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng” là ngày
tôi đau đớn, đóng cửa ngồi khóc thầm cho số phậm hẩm hiu đen như mõm chó của cá
nhân tôi, của gia đình tôi và của dân tộc tôi.
Kể từ ngày 30/04/1975 tới nay, tôi cũng đã trải qua
khá nhiểu những nỗi buồn đau của cuộc đời và gần đây một nỗi buồn lớn đã đến với
tôi, đó là sự ra đi vĩnh viễn vào ngày 05/09/2018 của nhà tôi, Lê Thị Nguyệt Hồng,
sinh năm 1940 tại Cần Thơ, sau gần hai mươi năm can đảm chống chọi với căn bệnh
Parkinson. Nhà tôi là người đã đồng cam cộng khổ với tôi hơn năm mươi năm trời,
và đặc biệt là đã phải gánh chịu không biết bao nhiêu nhục nhã, đói khát, cay đắng
trong thời gian năm năm tôi bị giam giữ trong những trại tù cải tạo từ miền Nam
tới miền Trung và trong thời gian bẩy năm tôi phải sống lang thang bất hợp pháp
trong cái gọi là nước Cộng Hòa Xã Chủ Nghĩa Việt Nam.
Nỗi buồn mất
vợ vào ngày 05-09-2018 chỉ là nỗi buồn riêng rẽ của riêng cá nhân tôi thôi,
nên không thể so sánh với nỗi buồn mất nước vào ngày 30-04-1975, vì ngày
này chẳng những là một ngày buồn to lớn nhất chẳng những của cá nhân tôi mà còn
là một ngày buồn to lớn chung của cả dân tộc. Tóm lại ngày 30-04-1975 thật sự
là Ngày Buồn Nhất của Đời Tôi.
Huy
Vũ
(huyvu1525@hotmail.com)
Đăng nhận xét