TIỂU TỬ VẪN CÒN CÁI GỐC
TIỂU TỬ: VẪN CÒN CÁI GỐC
Tiểu Tử
Tôi sanh ra vào thời Pháp thuộc, lớn lên,
ra đời với Mỹ Diệm, Mỹ Thiệu rồi… già trước tuổi sau ngày “cách mạng thành
công” ! Để thấy tôi đã có cái may mắn biết thằng Tây, biết Chú Sam, biết Bác.
Thằng Tây đội nón cối thực dân ngồi trên đầu thằng dân đội nón lá. Chú Sam với
cái nhãn bàn tay của chú nắm bàn tay người bạn mà chú giúp đỡ – cái nhãn chưa kịp
tróc, chú đã buông rơi thằng bạn như buông rơi một vật vô tri! Trải qua ba trào
như vậy mà tôi đã không thành Tây, không thành Mỹ, cũng không thành Bôn-sê-vít,
nhờ truyền thống của ông cha: Biết giữ gìn cái gốc. Điều này, tôi rất tự hào.
Bây giờ, tôi xin tự giới thiệu …
Tôi tên là Tư – Lê Di Tư – Theo ông nội tôi kể lại thì tôi thuộc dòng họ Lê Di ở
Huế, một dòng họ nổi tiếng khoa bảng. Hồi đó, ông sơ ông sờ gì của tôi đã làm
quan lớn trong triều đình. Ổng được lệnh vua, đưa dân đi dài vào Nam khai
hoang, dựng làng lập ấp, để mở mang bờ cõi. Khi ổng vào đến vùng rừng thiêng nước
độc mà sau này người ta gọi là Tây Ninh, ổng ngã bịnh rồi chết. Sau đó, không
nghe ông nội tôi kể tiếp. Điều mà tôi biết là đến đời ông nội tôi, cái gia tài
quyền quy chữ nghĩa của dòng họ Lê Di chỉ còn lại đủ để ông nội tôi…bắt mạch hốt
thuốc độ nhựt! Rồi qua đến đời cha tôi, đời anh chị tôi…chỉ còn làm ruộng dài
dài, mà mớ chữ nghĩa thì vừa đủ để ngâm nga mấy truyện thơ bình dân như Chàng
Nhái Kiểng Tiên hay Bạch Viên Tôn Các.
Hồi đó, có người thắc mắc tại sao tôi đã mang cái họ Lê Di rất văn vẻ, rất …quý
phái mà lại có cái tên Tư nghe quá cộc lốc khô khan? Nói cho có vẻ…văn chương,
cái họ của tôi như tấm lụa mềm mà sao cái tên của tôi thì như hòn sỏi nhám? Đó
là do bản chất thật thà của cha tôi. Ổng đặt tên anh em chúng tôi giống như ổng
đếm bầy con! Đầu tiên là anh cả tôi: Lê Di Một. Kế đó là anh Lê Di Hai. Tiếp
theo là chị tôi: Lê Thị Ba. À! Chỗ này được cha tôi giải thích…gọn bâng: Tại nó
là con gái, mang họ Lê Di sao được, nữ sanh ngoại tộc mà ! Cuối cùng là tôi, Lê
Di Tư, sanh cách chị tôi đến chín năm. Vì vậy, ở nhà gọi tôi là thằng Út, còn
hàng xóm thì gọi tôi là Út Tư, chắc là để khỏi lầm với những thằng Út khác.
Năm đó, tôi đến tuổi vào trường tiểu học. Cha tôi xách xe đạp chạy ra nhà việc
(hồi đó, chỗ ban hội tề –là những người chức trách trong làng – làm việc được gọi
là nhà việc, cũng có người gọi là nhà vuông bởi vì ngôi nhà đó có bốn cạnh bằng
nhau) để trích lục khai sanh của tôi. Khi ổng về đến nhà, ổng cầm tờ khai sanh
vừa chỉ chỏ vừa phàn nàn: “Con mẹ thằng lục bộ! Hồi đó tao khai là Lê Di Tư, nó
nghe rõ chớ, lại còn gục gặc đầu nói đứa thứ bốn phải không. Vậy mà nó đánh dấu
ư cách xa chữ u đến cả thước lận, thành ra là dấu sắc. Bây giờ thằng chả chết mất
rồi, lấy ai mà đối chất đây? Còn thằng lục bộ mới này thì nó đọc sao là chép y
ra vậy. Con mẹ nó! Làm thằng nhỏ bây giờ tên là Tú. Coi vô duyên không?”.
Vậy là trong khai sanh – và mãi về sau này – tôi tên là Lê Di Tú! Phiền một điều
là hồi đó cái tên Tú này tôi nghe không quen lỗ tai. Cho nên, ngày đầu trong
trường tiểu học, khi thầy giáo điểm danh, gọi đến Tú là tôi vẫn tĩnh bơ ngồi yên.
Còn dòm qua ngó lại coi là đứa nào! Cũng may là thầy giáo lớp chót đó là cậu
Sáu An – bà con bạn dì với má tôi – nên cẩu đã biết qua cái sự trục trặc trong
cái tên của tôi. Thẩy bèn gọi ‘’ Tư ‘’ làm tôi giựt mình dạ một tiếng lớn. Cả lớp
cười rộ. Rồi mấy ngày sau đó, khi gọi đến Tú là thẩy… chêm ngay tiếng Tư cho
xong chuyện. Trẻ con dễ thấm, nên chỉ mấy hôm sau là tôi đã quen với cái tên Tú
văn vẻ đó, như đã quen lâu !
Lật bật rồi tôi cũng trèo tới lớp nhứt, rồi đậu xép-phi-ca (certificat). Hồi
này, ở nhà trúng mấy mùa lúa, nên cha tôi quyết định cho tôi học tới. Ổng nói:
‘’Thằng Út nó lanh lợi, bắt nó làm ruộng cũng uổng ‘’ (Bây giờ nhớ lại, tôi
không khỏi phì cười : ổng làm như phải là …cù lần mới đi làm ruộng!) Vậy là tôi
được xuống Sàigòn thi vào trường lớn (hồi đó, bậc trung học đã được gọi là trường
lớn, bởi vì nó… lớn hơn trường tiểu học). Tôi thi đậu và ở nội trú. Cha tôi sắm
cho tôi cái nón cối hiệu Con Gà Trống và đôi xăng-đan (sandales). Xưa nay, lúc
nào tôi cũng đầu trần và đi chân không – đôi guốc chỉ dùng để…rửa chân ban đêm
trước khi leo lên ván ngủ. Bây giờ, vào trường lớn phải khác !
Ở trường lớn, người ta gọi tôi là Tú Lê để phân biệt với thằng Tú Phạm học cùng
lớp và cũng ở nội trú như tôi. Tôi mang cái tên Tú Lê được hai năm thì trong nước
có giặc. Sàigòn bị đồng minh gì gì đó dội bom. Trường lớp bị đóng cửa, dân
chúng thị thành tản cư. Cha tôi vội vã đem tôi về làng. Từ đó, tôi tập tành làm
ruộng. Điều này không đi đúng với sự mong muốn của cha tôi. Lâu lâu ổng hay nhắc
:’’Con mẹ nó! Nếu không có giặc thì thằng nhỏ đã không phải về làm ruộng. Giòng
họ Lê Di bây giờ chỉ còn có mình nó là khá. Vậy mà…’’. Câu nói thường bị bỏ lửng.
Để thấy ổng cũng hơi phiền trách ông Trời đã không giúp tôi đi theo “con đường
chữ nghĩa” cho dòng họ Lê Di được nở mặt, mà đẩy tôi về với ruộng lúa, con
trâu, cái cày…Riêng tôi thì lại thích được như vậy. Có lẽ tại vì cái gốc “ruộng”
của tôi đã ăn quá sâu vào đất. Tôi sung sướng được trở về với cái tên “Út Tư”
bình dị mà hàng xóm dùng để gọi tôi từ thuở ấu thời. Và tôi cũng quên dễ dàng
cái tên “Tú Lê” văn vẻ đã bỏ lại ở một góc sân nào đó trong trường lớn…
Vào thời ông Diệm/ông Thiệu, tôi “đi” dân vệ. Để được ở lại làng giúp gia đình
làm ruộng ngoài giờ công tác ở đơn vị địa phương. Bởi vì gia đình tôi không có
tá điền tá thổ gì hết. Ngoại trừ mùa cấy hay mùa gặt phải mướn thêm người giúp
cho “kịp mưa kịp nắng”, kỳ dư đều do người trong gia đình tôi làm lấy, kể cả mẹ
tôi, mấy chị dâu anh rể tôi và vợ tôi nữa (hồi này tôi đã có vợ con). Kể lại
như vậy để thấy rằng gia đình chúng tôi thuộc loại “tay làm hàm nhai” chớ không
phải loại “chỉ tay năm ngón, ngồi không trục lợi” ! Và nhờ trời, gia đình tôi
làm ruộng mà “lúa ăn không hết”…
Sau biến cố tháng Tư 1975, tôi đi học tập hết ba hôm rồi về nhà tiếp tục làm ruộng.
Yên chí rằng mình thuộc giới công nông đem “mồ hôi đổi lấy bát cơm”, lấy sức
“lao động làm nên của cải” (mấy câu này tôi mới học được của mấy cán bộ cách mạng,
cha nào cha nấy nói y như nhau, còn lập đi lập lại nữa nên…dễ nhớ!) Chớ không
thuộc loại “Mỹ Ngụy ác ôn” hay “trí thức vong bản” hay “địa chủ phú nông , cường
hào ác bá “ gì gì…Tôi đã thật tình tin tưởng rằng mình “không có nợ máu với
nhân dân” thì không có gì phải lo âu sợ sệt. Chẳng dè ít lâu sau ruộng bị
“sung” vào hợp tác xã, còn chúng tôi thì làm công lại cho họ. Ngang ngược một
cách rất…tự nhiên! (May quá! Cha mẹ tôi đã thất lộc trước ngày “cách mạng thành
công”. Mừng cho ổng bả!)
Vào hợp tác xã chưa đủ. Còn phải đi lao động (làm như đi làm ruộng mỗi ngày
chưa phải là lao động!) Rồi đi họp hành, học tập đường lối chủ trương (làm như
phải có những thứ đó thì lúa…mới tốt!) Rồi đi mết tinh, rồi hô khẩu hiệu, rồi
khai lý lịch khai tới khai lui…Có đêm tôi nằm trăn trở, nghĩ tiếc cho cái gốc của
ông bà để lại, bây giờ không còn đứng vững nữa. Cái gì không giống cái gì hết !
Lai căn tạp nhạp.
Vậy là sau một thời gian nhẫn nhục làm một “nhân khẩu“ của chế độ, tôi thấy tối
ngày cứ hô “sống mãi, sống mãi, sống mãi” chắc… chết quá! Tôi đành liều mạng
mang vợ con vượt biên. Nhờ ơn trên phò hộ, chúng tôi đi thoát và tấp lên đảo
Pulau Bidong (Mã Lai).
Sau hơn bốn tháng “nằm” đảo, chúng tôi được chánh quyền Pháp nhận cho định cư.
Đó là nhờ chút ít tiếng Pháp còn sót lại của thuở thiếu thời xa xưa. Thuở đó, mỗi
ngày học trò phải chào cờ “Đại Pháp”, phải hát bài “Maréchal ! Nous voilà !”.
Vào lớp phải đứng thẳng, đợi thầy nói “Asseyez-vous” rồi chấm câu với tiếng roi
mây hay cây thước bảng đập lên bàn. Chừng đó, cả lớp đồng nói “Nous nous
asseyons” rồi mới ngồi xuống. Ở cái thời như vậy mà sao cái “gốc” vẩn còn. Có lẽ
nhờ truyền thống của ông cha và nhờ mấy quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư đã âm thầm
nhen nhúm tình thương quê hương dân tộc.
Chúng tôi được “bốc” về đất liền ở thị xã Trenganu, rồi từ đó về Kuala Lampur,
thủ đô Mã Lai, để làm thủ tục giấy tờ.
Hôm chuẩn bị lên xe để ra phi trường Kuala Lampur “bay” đi Paris, lòng tôi như
mở hội. Ngày mai chẳng biết ra sao, nhưng chân trời mới này đã thấy rộng thênh
thang. Không phải cho tôi, mà là cho hai thằng con tôi đang trong tuổi lớn ! Điều
này tôi muốn chia xẻ với những người tỵ. nạn đang đứng chùm nhum ở lãnh sự quán
Pháp đợi gọi lên xe ca, nhưng tiếc quá họ toàn là người Tàu Nam Vang và người
Miên người Lào. Họ không biết tiếng Việt Nam, thành ra tôi… cụt hứng.
Chính ông phó lãnh sự gọi tên từng gia đình để trao thông hành và mời lên xe.
Khi ổng gọi đến gia đình “Lơ đi”, chẳng thấy ai nhúc nhích. Ổng đưa mắt tìm
trong đám đông rồi cái nhìn của ổng ngừng lại ở tôi. Ổng mỉm cười hỏi bằng tiếng
Pháp:”Gia đình ông người Việt phải không?”. Tôi gật đầu “Ùy mong xiừ” mà tự hỏi
làm sao ổng nhận ra cái gốc Việt Nam của mình? Ổng bèn trao tờ thông hành rồi
chúc thượng lộ bình an. Lên xe ca, tôi đọc tấm giấy thấy đề :”Nom: Ledi-
Prénom: Tu”. Tôi nhổm dậy định xuống xe phân trần, nhưng xe đã rồ máy và tôi
cũng nghĩ lại: Cái vốn Pháp ngữ quá ít ỏi của mình không đủ để giải thích những
gút mắt của cái họ cái tên Việt Nam, của dấu ê dấu sắc trong tiếng Việt Nam.
Tôi đành ngồi xuống, thở dài… : Thân phận lưu vong, bỏ hết mất hết đã đành, chỉ
có cái họ cái tên là mang theo được bên mình, vậy mà bây giờ nó cũng không còn
nguyên vẹn hình hài và âm thanh của nó nữa ! Nghĩ đến đó, tôi bỗng nghe tủi
thân đến ứa nước mắt….
Ở Pháp, tôi không “hành” nghề làm ruộng. Tôi làm thợ nhà in. Chắc tổ tiên dòng
họ Lê Di, nhứt là vong hồn của cha tôi, muốn cho tôi -dù sống ở xứ người- cũng
vẫn được gần với…chữ nghĩa ! Ở đây, người ta hay gọi tôi bằng cả họ lẫn tên
“Ledi Tu”, bởi vì phát âm ‘Lơ đi tuy‘ theo tiếng Pháp có nghĩa là “ Mầy có nói
ra không? “.Tôi không thích, nhưng phải chấp nhận, như tôi đã chấp nhận định cư
ở xứ này, bởi vì điều quan trọng vẫn là tương lai của hai thằng con. Tuy nhiên,
lâu lâu tôi vẫn thèm được nghe gọi “Út Tư”, cái tên có âm thanh hiền lành bình
dị, cái tên sao mà gợi nhớ quê cha đất mẹ vô cùng…
Bây giờ tôi đã về hưu. Ngày ngày tôi “chăn” bầy cháu nội, dạy dỗ chúng nó từng
chút để chúng nó đừng thành “Tây con”. Khi nói chuyện với cha mẹ của chúng, tôi
thường ví von: ”Ba giống như cây bần cây đước đã bị cơn bão năm 1975 bứng ra khỏi
đất. Trôi nổi bập bềnh theo sống gió đại dương đến khi đụng một bến bờ nào đó,
cho dù đất khô đá cứng, cây bần cây đước đó vẫn cố bám rễ . Để giữ lấy cái gốc.
Bởi vì những nhánh nhóc bên trên rồi sẽ đâm chồi nẩy lộc. Cái gốc đó – chắc các
con còn nhớ – nó tên là Việt Nam“.
Tiểu Tử
Đăng nhận xét