TRANG TRUYỆN NGẮN NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA MẤT BÒ MỚI LO LÀM CHUỒNG

  TRUYỆN NGẮN MỚI NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA MẤT BÒ MỚI LO LÀM CHUỒNG

Truyện ngắn mới: "Mất Bò Mới Lo Làm Chuồng" (Tháng Chín 2024) -- Nguyễn Ngọc Hoa

Mời đọc truyện ngắn thứ mười bốn

trong loạt truyện "Cố Quốc Tha Hương," hay Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa XI.

Xin đọc bản text dưới đây hay bản .pdf đính kèm.

Để đọc các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa đã phổ biến trước đây, mời quý thân hữu vào trang "Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa" ở trong Trang Nhà "Thân hữu Điện lực":

https://dconnect.co.jp/friend/tacbut/nv-hoa/TruyenNgan_NNHoa/index.html

https://dconnect.co.jp/friend/

Xin chúc quý thân hữu và quý quyến một cuối tuần vui vẻ và thân tâm thường an lạc.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------

 14. Mất Bò Mới Lo Làm Chuồng

Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa

Dễ đến năm, sáu năm nay tôi mới có dịp trở lại nam California.  Chiều thứ Sáu, xong việc tôi về nhà Ngân ở Tustin và sẽ ở chơi với bạn đến sáng Chủ Nhật.  Ngày đó, hơn một phần tư thế kỷ trước, Ngân học Đại học Khoa học Sài gòn, đỗ Cử nhân Hóa học, và mở trường dạy luyện thi tú tài và thi tuyển vào các trường đại học chuyên khoa.  Khác hẳn với tôi khi nào cũng lật đật như sa vật ống vải, Ngân dễ tính xuề xòa, ăn nói chậm rãi từ tốn, và lè phè ít khi quan tâm tới giờ giấc nên thường bị tôi cằn nhằn khi đi chơi chung.  Nhưng chúng tôi gần gũi nhau vì Ngân quý bạn hết mình.  Ngày Ngân cưới Trinh, tôi đóng bộ đi làm phù rể cho bạn.

Tôi thức khuya nói chuyện xưa với vợ chồng Ngân, sáng thứ Bảy dậy trễ, và ra nhà bếp thấy Ngân đang pha cà-phê và Trinh sửa soạn bữa ăn sáng.  Tôi ngạc nhiên nhìn Ngân,

“Nắng California và đồ ăn nhanh McDonald’s làm mày lanh lẹ hơn hay sao mà hôm nay dậy sớm?”

“Đêm qua ‘bà’ Trinh dặn tao dậy sớm lo cho mày, chứ không giờ này ‘ông’ còn phè cánh nhạn ngủ đến trưa, sức mấy mà ngồi ngáp dài ngáp vắn chờ mày dậy!” Ngân cười nhẹ.

“Tính anh Ngân kề rề mà anh chỉ ở đây mỗi ngày hôm nay nên tôi phải giục như giục tà để kịp chuẩn bị đón các anh ấy,” Trinh đỡ lời chồng; “các anh ấy” là mấy người bạn cũ của tôi và Ngân.

Có tiếng lao xao ngoài phòng khách rồi vợ chồng Túc xuất hiện:  Vân Hương vào trước ôm chào tôi, và Túc theo sau, khệ nệ xách hai bao plastic đầy ặp thức ăn mới mua ngoài tiệm, và cười hề hề,

“Nghe tin mày tới, ‘bà’ Hương ra lệnh cho tao đóng cửa phòng mạch lái xe từ San Diego lên đây.  Còn bảo tao ghé tiệm ăn mua phở và bánh cuốn cho mày, chứ ‘vùng kinh tế mới’ North Dakota làm gì có cho mày ăn.”  Bạn tôi tốt nghiệp bác sĩ trường Đại học Y khoa Sài gòn.

Các bạn khác lục tục tới, trong đó có Lập làm quản lý nhật báo Ngàn Việt.  Ngày đó, Lập học Đại học Luật khoa Sài gòn, đậu Cử nhân Luật, và ra hành nghề luật sư.  Cả bọn hè nhau bưng thức ăn ra phòng khách vừa ăn vừa đấu láo ồn ào như thuở sinh viên.  Trinh nhỏ nhẹ nói với tôi,

“Hồi đó ông bà cụ tôi rất khó nên ít khi tôi được cho đi chơi chung với các anh chị, nhưng có gì vui anh Ngân đều kể cho tôi nghe.  Tôi nhớ mãi lời anh khen – mà chê – anh Nhã, người dịch mấy cuốn tiểu thuyết diễm tình của Quỳnh Giao xuất bản bên Đài Loan.”

“Ờ, thằng khỉ Ba Hoa có lối ăn nói ngang xương ngạo đời,” Ngân nhớ ra, “Thằng Nhã học khoa học với anh và dịch truyện Quỳnh Giao hay hết sẩy, nhưng phải tội người thô và mặt mũi đen đúa.  Gặp nó, Ba Hoa bèn phang ngay,

Mày dịch truyện Quỳnh Giao hay tối trời mà sao người ngợm xấu xí quá vậy?

Sau khi ăn hết dĩa bánh cuốn và tô phở và uống đến chai bia Heineken thứ hai, Lập nhíu mày chất vấn tôi như thể làm phóng sự điều tra,

“Tao nhớ mày làm việc cho công ty điện lực đâu trên North Dakota kia mà!  Mày làm tướng làm tá gì mà được công ty gửi xuống quận Cam và đài thọ tiền máy bay, khách sạn, xe thuê, và ăn uống cả tuần lễ?”

“Đúng là dân nhà báo hay théc méc!  Vừa rồi thằng tổng giám đốc cũ của tao bị cho về vườn, thằng mới nổi hứng bắt nhân viên làm việc kế hoạch như tao phải đi học một khóa ngắn hạn về phương pháp đánh giá các dự án.  Tao chọn khóa học dạy một tuần mùa hè tại Đại học California-Irvine ở Irvine để cuối tuần ở chơi với tụi mày,” tôi miễn cưỡng giải thích.

“Tao ngửi thấy câu trả lời của mày chứa chuyện gì ly kỳ.  Có thể nói thêm chi tiết được không?” Lập hỏi tới; thằng nhà báo cựu luật sư quả “thính mũi.”

“Kể thì được, nhưng nếu mày viết thành bài đăng báo thì cấm nhắc đến tên tao hay tên công ty tao.  Chuyện này mà phổ biến ra, giá cổ phần công ty tụt xuống là cái chắc; rồi không khéo tao thất nghiệp xuống đây xin việc ở tòa soạn báo mày.”

* * *

Joe vốn là luật sư, làm việc cho Công ty Tiện ích Montana-Dakota (MDU) ngay sau khi tốt nghiệp Juris Doctor (bằng Luật sư), và dần dần leo lên đến chức giám đốc nha Pháp lý, trông coi mọi khía cạnh pháp lý của công ty.  Ông tỏ ra đố kỵ và công khai chê bai bọn kỹ sư bằng cách kể chuyện khôi hài ám chỉ họ là lũ ngu dốt khờ khạo.  Nhóm kỹ sư phản pháo bằng chuyện khôi hài nhạo báng lũ luật sư ăn gian như chớp, nói láo như ranh; chẳng hạn như,

Hỏi:  Làm sao biết được khi nào luật sư nói láo?

Trả lời:  Chỉ việc nhìn môi anh ta.  Hễ môi mấp máy là chàng xạo ke.

Giữa lúc MDU lỗ lã và gặp khó khăn về tài chánh, ông tổng giám đốc thôi việc và rời công ty.  Hội đồng Quản trị MDU quyết định đưa Joe lên thay thế, thay vì – như các công ty lớn khác thường làm – thuê hãng headhunter (“săn đầu”) tìm và giúp tuyển chọn ứng viên có khả năng nhất trong số những giám đốc cao cấp trên toàn quốc.  Hội đồng biết Joe thiếu khả năng quản trị nhân viên và kiến thức tài chánh nên ban đầu chỉ cho Joe giữ chức vụ tạm thời general manager (tổng quản đốc).  Sau một năm thử thách, Joe mới chính thức làm tổng giám đốc.

Joe thân chinh đi thương lượng hợp đồng mua bán điện và hợp đồng chung vốn xây nhà máy phát điện với các công ty trong vùng, một công tác trước do  phó tổng giám đốc phụ trách Tổng nha Kỹ thuật Điện phụ trách.  Ghét của nào trời trao của ấy, Joe cần một chuyên viên kỹ thuật giỏi kinh tế và tài chánh đi theo trợ giúp, và người đó lại là tôi – một kỹ sư chính hiệu.  Vì vậy, mối liên hệ giữa tôi và ông rất kỳ lạ, lên xuống bất thường, lúc thân lúc ghét.

Tôi đi máy bay riêng của công ty với Joe, ăn trưa và nói chuyện thời tiết mưa nắng với ông, và trong khi ông họp với các giám đốc quản trị của công ty bạn, ngồi ở phòng bên cạnh chạy máy điện toán và cung cấp dữ kiện để giúp ông điều đình ở thế thượng phong.  Một hôm, tôi và Joe bay về khuya, ông nhận được tin (qua hệ thống truyền tin của phi cơ) bà cô ông vừa mất và nói trong nước mắt, “Bà là thân nhân bậc trên còn lại cuối cùng của tôi,” và tôi đóng vai cố vấn tâm lý an ủy sếp lớn.  Tuy nhiên, tình thân biến mất cái rụp ngay sau khi chúng tôi bước khỏi cầu thang máy bay.  Đường ai nấy đi.  Gặp tôi ngoài hành lang trong sở, Joe tảng lờ như không thấy tôi và không đáp lại lời chào lấy lệ của tôi.  Ngoài ra, trong những buổi họp nhân viên ông triệu tập mỗi tam cá nguyệt, hầu như tôi là người duy nhất dám đứng lên chỉ trích ông.

Thí dụ, trong một phiên họp thường niên với Ủy ban Tiện ích Tiểu bang North Dakota, Joe báo cáo MDU gặp khó khăn tài chánh và năm tới sẽ đóng băng (freeze) lương nhân viên, và sáng hôm sau mọi người đọc tin này trên tờ The Bismarck Tribune.  Một tuần sau, trong buổi họp nhân viên, tôi giơ tay xin phát biểu và nói ông tổng giám đốc đã hành động thiếu ý thức và thiếu lễ độ đối với gần hai ngàn nhân viên của công ty.  Quyết định có ảnh hưởng đến đời sống và gia đình chúng tôi, tại sao không nói thẳng cho chúng tôi biết?

Một lần khác, tôi đi họp ở Boston và nhân tiện ghé thăm Mạc con đầu lòng đang học năm thứ hai và ở trong ký túc xá Học viện Kỹ thuật Massachusetts. Tôi thấy trên tường phòng ngủ của Mạc có chỗ cắm Internet, cắm dây nối với máy điện toán là có thể sử dụng Internet.  Về nhà hôm trước thì hôm sau dự buổi họp nhân viên.  Mang trong đầu câu hỏi chế nhạo của Mạc, “Kỹ sư cao cấp như ba mà không có Internet hay sao?” tôi mạnh dạn giơ tay hỏi Joe,

“Khi nào MDU có Internet để chúng tôi sử dụng điện thư trong công việc hằng ngày?”

“Tôi sẽ cho anh Internet, nếu anh chứng minh được sẽ cần nó,” ông ra mặt kẻ cả.

“Joe, tôi làm kỹ sư cho MDU hơn 20 năm nay.  Bộ đề nghị của kỹ sư của công ty không đủ để chứng minh hay sao?” tôi cay đắng trả lời, trong khi các nhân viên khác vỗ tay, và mặt Joe đổi sang màu đỏ ửng.

Một năm sau hệ thống Internet mới được thiết lập ở trụ sở MDU.  Trong hơn nửa thế kỷ qua, các công ty cung cấp hơi đốt thiên nhiên ở vùng Trung-Tây như MDU đều xem thành phố Pierre, thủ phủ tiểu bang South Dakota, là thị trường mời mọc nhưng vô cùng khó ăn.  Dân chúng Pierre sưởi ấm và nấu ăn bằng propane do các đại lý bán lẻ chở tới giao tận nhà.  Propane là một chất khí khi bị nén dưới áp suất cao trở thành lỏng và được trữ trong bình chứa rất chắc chắn.  Khi được xả ra, propane bốc hơi và có thể đốt để sưởi ấm hay nấu ăn.  Thành phố Pierre đã từng cấp môn bài cho một số công ty cung cấp hơi đốt ở South Dakota và bắc Nebraska, nhưng không công ty nào nhào vô kiếm ăn vì họ tin là không thực hiện được về phương diện kinh tế (economically infeasible).


 Joe không tin điều đó và ra lệnh cho George, phó tổng giám đốc nghiên cứu thị trường, tìm cách chứng minh nếu cung cấp hơi đốt cho Pierre, MDU sẽ có lời.  Vào làm việc cho công ty đầu thập niên 1960, George vốn là nhân viên bán dụng cụ như tủ lạnh, máy giặt, và lò bếp rồi dần dần leo lên nấc thang quản trị nhờ giao tế khéo léo và tuân hành lệnh cấp trên.  Ông ra lệnh cho Bill, giám đốc nghiên cứu thị trường và một kỹ sư cơ khí có thực tài, khảo sát tính thực hiện được của dự án, nhưng phải đạt tới kết luận sếp lớn mong muốn.

Bill ước tính MDU sẽ phải bỏ vốn ra hơn $75 triệu.  Để phỏng chừng những dữ kiện cần thiết dùng trong việc tính toán, anh dựng ra một số bố cảnh (scenario), mỗi bố cảnh tượng trưng một nhóm giả thiết về điều kiện kinh tế, tài chánh, và chính trị tương lai.  Với mỗi bố cảnh, anh ước tính mức thu nhập, chi phí, và lời lỗ ở mỗi năm trong suốt “đời sống” (life) của dự án rồi tính trị giá hiện tại của những số tiền lời hay lỗ ấy.  Nếu có lời thì dự án thực hiện được (feasible).  Bố cảnh hợp lý nào cũng đưa tới kết quả lỗ lã.  Cuối cùng, dưới áp lực của George, anh xoay xở tạo ra một bố cảnh huề vốn để George trình lên sếp Joe.  Ông tổng giám đốc mừng rỡ đề nghị dự án lên hội đồng quản trị, và hội đồng chấp thuận.

Trong năm kế tiếp, công ty mướn thêm nhân viên, lập cơ sở ở Pierre, và gọi thầu xây cất ống dẫn hơi đốt từ nguồn sản xuất, hệ thống ống dẫn phân phối trong thành phố, ống nhánh dẫn vào nhà khách hàng, v.v.  Khi hoàn tất, MDU tổ chức lễ khánh thành rất xôm tụ với sự hiện diện của chính trị gia tiểu bang South Dakota và thành phố Pierre để mừng “lần đầu tiên từ ngày thành lập năm 1880, Pierre được cung cấp hơi đốt thiên nhiên.”

Thực tế phũ phàng ập tới khi nhân viên đến từng nhà dân chúng mời ghi danh làm khách hàng, nhưng họ từ chối.  Propane đã hạ giá.  Dùng propane rẻ hơn dùng hơi đốt thiên nhiên của MDU đến hơn 20 phần trăm, chưa kể phí tổn gắn đồng hồ đo hơi đốt và chuyển đổi hệ thống sưởi và nấu ăn trong nhà.  Trong bố cảnh huề vốn, Bill đã dùng giá propane là con số mà sếp George quả quyết “thấp hết cỡ rồi, bọn kia không thể nào hạ thấp hơn.”  Nhân viên công ty than,

“Bọn đại lý propane trước kia lái xe Cadillac, bây giờ bấm bụng đi xe Chevrolet!”

Cùng được hãng sản xuất xe hơi lớn nhất thế giới General Motors chế tạo, Cadillac là kiểu xe sang trọng nhất, và Chevrolet là loại xe bình dân.  Vài tháng sau, George không còn đến văn phòng làm việc, người ta đồn bị đuổi vì khai gian expense report (bản tường trình công tác phí).  Bill bị sa thải – không có lý do – và chuyển sang làm việc cho cơ quan chính phủ tiểu bang.  Joe chưa bị động tới, vì một phần hội đồng quản trị thấy mình cũng có phần nào trách nhiệm, và một phần không muốn vụ mất vốn $75 triệu lan truyền ra báo chí và giới đầu tư.  Khi vừa đủ điều kiện tuổi để về hưu, Joe được cho đi, không kèn không trống.

Ngay sau khi nhậm chức, tổng giám đốc mới gửi memo đến các nha sở trung ương ra lệnh mọi nhân viên có nhiệm vụ liên quan đến hoạch định kế hoạch, kỹ thuật cũng như tài chánh, đều phải đi học khóa dạy khảo sát tính thực hiện được của những dự án tương lai.  Rõ là mất bò mới lo làm chuồng!

Nguyễn Ngọc Hoa

 Ngày 4 tháng Chín, 2024

*********

15. Câu Chửi Văn Hoa

Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa

 

Đầu tháng Chín, mùa hè chưa đi qua hết, nhưng thời tiết North Dakota đã chớm vào thu.  Buổi chiều đi làm về, tôi mở cửa vào nhà và ra nhà bếp tìm Quỳnh Châu.  Nàng đưa má cho tôi hôn, nhưng không vui như mọi ngày.  Tôi nhìn quanh, không thấy hai con – Ân lên tám và Diễm Lệ lên bảy – thường chơi trong phòng khách đợi tôi về.  Biết ý, Quỳnh Châu nói,

            “Diễm Lệ đi học thể dục thẩm mỹ, lát nữa về với bạn.  Còn Ân bị phạt ngồi trên phòng đợi ba về xử.”

            “Sao vậy?” tôi ngạc nhiên vì Ân vốn hiền lành và hầu như không bao giờ gây chuyện rắc rối.

            “Anh lên gác hỏi con thì biết,” giọng nàng thoáng một chút hờn giỗi.

Ân ngồi ủ rũ trước bàn học, mặt buồn thiu.  Thấy tôi vào, bé đứng dậy, nhưng không tới ôm chào tôi như mọi khi.  Tôi lên tiếng trước,

            “Sao má giận Ân?”

            “Ân không biết chắc, ba!” nước mắt lưng tròng, Ân ấm ức kể, “Hôm nay sau giờ học, Ân ở lại trường tập chạy đua.  Trong phòng thay áo quần, tụi bạn thấy Ân mặc áo lót trắng ngắn tay giống như của ba, cười Ân là ông già về hưu, và biểu Ân chống gậy ra công viên ngồi băng ghế cho chim ăn.  Lúc má tới đón, Ân nói cuối tuần má đưa Ân đi mua wife beater để mặc cho bạn đừng cười.  Ân làm gì sai?”

            “Ân không làm gì sai cả.  Lỗi là tại ba chưa dạy Ân chữ tiếng Việt đó.”


                              Trong Anh ngữ dùng thường ngày, “wife beater shirt” (nghĩa đen là “áo thằng đánh vợ”) chỉ cái áo thun ba lỗ hay áo lót hở nách, có khi hở dài xuống giữa bụng.  Tên gọi thô bạo này bắt đầu từ năm 1947, khi một người đàn ông Detroit, Michigan đánh vợ đến chết, và báo chí đăng hình anh ta mang chiếc áo lót hở nách nhơ nhuốc với chữ “Wife Beater” in ngang trên hình.  Từ đó, cái tên trở thành thông dụng và đồng nghĩa với chiếc áo lót.  Tôi giải thích cho Ân,

            “Má chỉ không muốn Ân nói ‘wife beater,’ một chữ có nghĩa rất xấu.  Chồng đánh vợ là thảm cảnh đau thương thường tình của nhiều gia đình người Việt ở Việt nam cũng như ở Mỹ.”

            “Vậy Ân phải làm sao?” chú bé không hiểu.

            “Ân xuống dưới nhà xin lỗi và xin má tối nay cho Ân đi với ba ra [tiệm bách hóa] Target mua ‘áo lót hở nách’ mặc cho bạn khỏi chọc quê.”

Tối hôm đó, khi chúng tôi trò chuyện bâng quơ trước khi ngủ, Quỳnh Châu nắm tay tôi,

            “Em thương cu Ân quá; bị phạt mà lẳng lặng lên phòng, không cãi một tiếng.  Diễm Lệ bị phạt như vậy sẽ càm ràm điếc lỗ tai luôn.”

            “Trong ba đứa nhà mình, bé út khôn lanh nhất,” tôi cười nhẹ, “Hồi tối anh đưa Ân đi mua áo lót, con nhỏ xin đi theo rồi nói ngon nói ngọt một hồi cũng  được cái áo tắm để đi học bơi.  Còn dụ được anh cho mua thêm mấy gói kẹo chua ngọt để đem lên trường phát cho tụi con gái.”

            “Chồng xấu thì thôi, sao không kêu mụ vợ dễ thương đi theo?” nàng huých nhẹ vào tay tôi rồi dường như chợt nhớ ra, “Sao bữa nay ôông dôông chuyên bán kẹo kéo rộng rãi như vậy?  Chắc ở sở có chuyện gì vui?” “Bán kẹo kéo” là tiếng lóng dùng để chỉ người keo kiệt.

            “Em còn nhớ thằng cha Bill sếp cũ của anh không?  Hôm nay anh vui hai chuyện:  Hắn ta về hưu, anh sẽ không còn thấy cái bản mặt hãm tài của hắn.  Và nhân nói chuyện hắn, mấy thằng bạn anh tìm ra câu chửi thật độc đáo.”

* * *

Sáng thứ Hai giữa tháng Chín năm 1975, tôi đến trụ sở Công ty Tiện ích Montana-Dakota (MDU) nhận việc và bắt đầu sáu tháng tập sự dưới quyền Bill, giám đốc sở Truyền Điện.  Anh bạn Charlie kỹ sư MDU tôi quen trước khi được nhận vào làm đã cho biết kỹ sư tập sự nào cũng phải qua tay Bill vì ông là giám đốc thâm niên nhất – và tự cho mình là giám đốc giỏi nhất – trong Tổng nha Kỹ thuật Điện thuộc quyền phó tổng giám đốc Wally.  Charlie báo trước là Bill rất khó tính, không bao giờ cười, không bao giờ khen ngợi ai, và thích ra oai trách mắng nhân viên không tiếc lời; ngoài ra,

“Nếu Bill biểu anh nghiên cứu hay tính toán dự án, anh cần photocopy giữ bản sao trước khi trình lên cho ông ta.”

            “Tại sao vậy?”

            “Vì Bill sẽ không trả lại cho anh và cũng không bình phẩm.  Anh làm đúng và thành công, ông ta nhận hết công trạng; nhưng nếu anh sơ suất hay dự án có vấn đề, ông ta sẽ đưa ra trút hết trách nhiệm cho anh.”

Tôi ra công học hỏi nghề nghiệp mới, rán sức thích ứng với mùa đông Bắc Mỹ, và thỉnh thoảng được Bill giao tính toán vài vấn đề kỹ thuật khá đơn giản.  Khi tôi trình lên, ông lấy cất giữ và không nói năng gì cả.  Có lần tôi hỏi, ông trả lời lửng lơ, “Chờ xem kết quả có đúng với thực tế hay không.”  Đầu tháng Ba năm sau, khi thời kỳ tập sự gần kết thúc, tôi chuẩn bị chuyển sang làm việc cho nha Điều hành Hệ thống Điện.  Bất ngờ, ông cho gọi tôi vào văn phòng giao dự án mới vì biết tôi từng làm luận án về sóng điện từ, nhưng có vẻ nghi ngờ, không tin tôi làm nổi.  Ông nói trước đó đã gọi cho vài hãng cố vấn kỹ thuật bên ngoài, nhưng họ chịu thua.

Đầu mùa hè tới, MDU sẽ xây một đường dây tải điện cao thế 115 kV (kilovolt, tức là 1,000 volt) chừng 15 dặm Anh chạy bọc rìa thành phố.  Đường dây đi đã được ủy ban tiện ích tiểu bang chấp thuận, và công ty đã mua đất và đặt mua trụ điện, dân dẫn điện, và các vật liệu cần thiết khác.  Vấn đề là một quãng đường dây sẽ chạy dọc theo bờ rào của trại Dân quân (National Guard) North Dakota, trại trang bị trụ ăng-ten phát tuyến để truyền tín hiệu khẩn cấp trong trường hợp hỏa tiễn địch tấn công, thiên tai xảy đến, v.v.  Lục quân Hoa kỳ (hỗ trợ kỹ thuật cho Dân quân) gửi tới kết quả tính bằng máy điện toán cho thấy đường dây có thể làm nhiễu loạn tín hiệu ăng-ten và có thể phải dời đi.  Tôi tự tin trấn an Bill,

            “Bài toán này dễ.  Cho tôi hai tuần, tôi sẽ tìm ra giải đáp.”

Tôi ra sức tính đua với máy điện toán của Lục quân và trước khi rời sở Truyền Điện, hoàn tất phúc trình đề nghị cách giải quyết giản dị:  Để tránh nhiễu loạn, thay vì dùng dân dẫn điện cỡ 267 MCM (một đơn vị cũ dùng đo cỡ dây) như đã dự trù, công ty cần dùng cỡ dây lớn hơn – 477 MCM trở lên.  Không cần phải dời đường dây!

Hai tháng sau, gần như quên bẵng dự án trước, tôi được lệnh theo phái đoàn MDU đi họp với các viên chức của Dân quân North Dakota, Lục quân Hoa kỳ, và chính phủ liên bang Hoa kỳ.  Tôi được giới thiệu với Pramana người Mỹ gốc Nam Dương là chuyên gia sóng điện từ được Lục quân phái từ Tây Đức sang.  Anh vồn vã bắt tay tôi, “Chúng mình vốn là láng giềng!” và xác nhận phép tính của tôi phù hợp với kết quả tính bằng máy điện toán của anh.  Buổi họp tiến hành tốt đẹp, hai bên đồng ý với đề nghị của tôi, và luật sư soạn thảo bản giao ước tại chỗ.  Để chấp thuận sơ khởi bản giao ước, tôi và Pramana ký tắt sau tên của hai người ký kết chính là phó tổng giám đốc MDU Wally và vị tướng chỉ huy Dân quân gọi là “adjutant general.”  Tôi nhớ lời khuyên của Charlie và xin bản photocopy của bản giao ước.

Giữa mùa thu, sau khi đường dây hoạt động, Pramana trở lại North Dakota với dụng cụ đo lường để nghiệm lại kết quả tính toán của tôi.  Chúng tôi viết chung bài khảo cứu gửi đăng trên IEEE Transactions là tạp chí kỹ thuật xuất bản định kỳ của IEEE (Hội Kỹ sư Điện và Điện tử thế giới) với tên tôi đứng trước, tức là tác giả chính.  Bài khảo cứu được chọn đăng với sự khen ngợi của hội đồng tuyển chọn vì lần đầu tiên đặt nền móng cho phương pháp khảo sát nhiễu loạn gây ra do dây tải điện cao thế.  Đây cũng là lần đầu tiên trong hơn nửa thế kỷ hoạt động, MDU nhân viên viết bài đăng trên tạp chí có uy tín khắp thế giới này.

Tôi học sử dụng máy điện toán, học thảo chương FORTRAN (ngôn ngữ điện toán thông dụng cho các áp dụng khoa học và kỹ thuật), viết chương trình điện toán để giải các bài toán về hệ thống điện lớn, và lập kho chứa dữ kiện về những đường dây tải điện của MDU.  Với vai trò đứng đầu nhóm hoạch định hệ thống dây tải điện tương lai, tôi thành ra đối thủ đáng ghét của Bill:  Nói có sách, mách có chứng, tôi là người chứng minh những điều ông nói căn cứ theo “phán đoán kỹ thuật” (“engineering judgement,” lời của ông) ít khi đúng.

Vào lúc MDU rục rịch cho Bill kiêm nhiệm chức phụ tá phó tổng giám đốc để chuẩn bị thay thế Wally khi ông này về hưu, tôi cần chi tiết về đường dây 115 kV và sang sở Truyền Điện lục hồ sơ tìm.  Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi khám phá ra công ty đã xây đường dây bằng dây dẫn điện cỡ 267 MCM, không phải 477 MCM như đã thỏa thuận với Dân quân North Dakota.  Hỏi ra cả sở Truyền Điện không ai “nhớ” hay “biết” về bản giao ước.  Thủ phạm vụ bội ước chắc hẳn là Bill.  Ông đã vi phạm luật pháp và làm hại sự an toàn của công chúng.  Tôi ông sếp mang bản giao ước photocopy lên trình với Wally.  Tôi không thay đổi được gì ngoài chuyện gây thêm thù oán – Bill không còn là người kế vị Wally. 

Nhờ nỗ lực nghiên cứu và phát triển của tôi, lần đầu tiên MDU thiết lập chương trình hoạch định hệ thống dây tải điện và ấn hành phúc trình hằng năm.  Vì tầm quan trọng của dự án, mỗi năm ngay sau Tết dương lịch, Wally triệu tập các giám đốc dưới quyền để duyệt lại kết quả khảo sát trước khi chính thức công bố.  Trong ba ngày liền, tôi thuyết trình kết quả, và Wally và các giám đốc thay nhau chất vấn và phê bình.  Trong khi phần lớn những người kia góp ý kiến xây dựng, Bill chăm chú bới móc những sơ suất nhỏ nhặt nhất để thẳng tay mạt sát tôi bằng lời lẽ cay độc.  Thí dụ để khảo sát nhiều scenario (bố cảnh) khác nhau, tôi dùng các chữ cái A, B, C, v.v. để phân biệt.  Một hôm thấy “Scenario I” trên giản đồ ghi kết quả, ông lớn tiếng mắng,

            “Tại sao anh dùng chữ ‘I’ để máy điện toán in ra trông giống như số ‘1’?  Anh phung phí ‘giờ máy điện toán’ [computer time] còn làm chúng tôi mất thì giờ quý báu để giải mã [decode] lỗi lầm của anh.”

            “Bill, vậy tôi phải làm sao?” tôi cố gắng trấn tĩnh khi không thấy ai bênh vực mình.

            “Skip the ‘I’ (bỏ qua chữ ‘I’)!” ông trả lời chắc nịch.

Từ đó, tôi luôn luôn bỏ qua chữ “I” và khi gửi memo tường trình kết quả, giải thích dài dòng,

Quý vị thấy Scenario “H” rồi đến “J” ngay, chữ “I” đã bị cố tình bỏ qua.  Một vài người trong chúng ta không phân biệt được “I” và số “1” trên giản đồ in bằng máy điện toán.

Những buổi họp đầu năm, đáng lẽ là những giờ phút đáng hãnh diện và tự hào, trở thành cực hình đau đớn.  Trước cuộc họp, tôi viết sẵn tờ đơn xin thôi việc để trong ngăn kéo.  Cuối mỗi ngày họp, tinh thần suy sụp, tôi trở về bàn giấy ôm đầu gục mặt xuống bàn.  Một hôm, sức chịu đựng đã đến mực tận cùng, tôi ngẩng đầu lên mím môi quyết định, lấy tờ đơn ra, và cầm bút định kýCharlie đột nhiên xuất hiện bên cạnh và can ngăn,

            “Đừng, đừng Ba Hoa!  Anh không thể chịu thua sự hèn hạ của Bill.”

Hôm nay tôi vui vì Bill về hưu.  Hồi sáng MDU tổ chức tiệc tiếp tân để nhân viên có cơ hội đến từ giã, Wally trao tấm chi phiếu tiền hưu trí tháng đầu tiên, và anh giám đốc thay thế Bill trao tặng quà lưu niệm là cái đồng hồ quả lắc treo tường cứ mỗi 15 phút lại đánh nhạc nhắc giờ.  Bill đã chọn cái đồng hồ – để dùng khi nghỉ hưu – trong số các món quà công ty đề nghị.

Thay vì dự tiệc, Charlie rủ tôi ra café (quán ăn bình dân) gần sở uống cà-phê ăn bánh ngọt cùng với vài bạn kỹ sư khác.  Ở đây, khách gọi cà-phê uống bao nhiêu cũng được, không giới hạn.  Anh cười nhăn nhó,

            “Dự tiệc để được ăn lát bánh ngọt và uống ly cà-phê chùa mà phải bắt tay Bill và nhìn bộ mặt khó thương của ông ta thật chẳng công.”

            “Nếu có ai gọi Bill là asshole,” tôi dừng lại một giây và nhìn các bạn trước khi nói tiếp, “Thì đó là lời khen!  Vì ông ta tệ lậu hơn nhiều.”

“Asshole” nghĩa đen là hậu môn hay lỗ đ…, nhưng trong lối nói thô tục chỉ một kẻ ngu xuẩn, bất tài, hay đáng ghê tởm.  Đó là câu chửi nặng nhất của người Mỹ.  Nay nhờ tôi, mấy người bạn có câu chửi văn hoa hơn:  “That guy is a Bill!” – Thằng cha ấy giống hệt như Bill!

Nguyễn Ngọc Hoa

                                                     Ngày 18 tháng Chín, 2024

Tags: TÁC GIẢ
Tags: TÁC PHẨM

Đăng nhận xét

Tin liên quan