ĐIỆP MỸ LINH: TỰ TRUYỆN CỦA TÍM
ĐIỆP MỸ LINH: TỰ TRUYỆN CỦA TÍM
ĐIỆP MỸ LINH
Một
buổi chiều im vắng bên dòng sông Cái Lớn. Theo hướng gió mơn man trên rừng dừa
nước, Tím đẩy mái chèo một cách khoan thai, nhẹ nhàng. Chiếc xuồng nhỏ rẻ nước,
lặng lờ trôi ngang đồn Nghĩa Quân. Tiếng đàn và tiếng hát nghe văng vẳng xa xa.
Khi xuồng đến gần, Tím thấy một người lính đang ôm “cây đàn số 8” – do trẻ em trong làng đặt
tên; vì không đứa nào biết cây đàn này tên là Guitar mà chỉ thấy thùng đàn giống
như số 8 – ngồi trên hầm chống pháo kích. Người
lính cứ say sưa hát:
“… Anh nhớ xót xa dưới tre là ngà
Gợn buồn nhìn anh em nói: ‘Thương anh!” (1)
-Tránh
xa! Đừng tới gần!
Tím
giật mình, hơi hoảng sợ. Chợt nhớ, mỗi lần Việt cộng về làng thu thuế hoặc dọa
nạt/dụ dỗ trẻ em và người làng đi theo quân “giải phóng”, Mẹ thường đem gạo/đường/cá
khô, v.v… “ủng hộ” thì Việt cộng để gia đình Tím yên. Tím bắt chước Mẹ, cố nói
lớn cho người lính gác nghe:
-Dạ,
tui muốn biếu các anh mấy trái khóm ăn lấy thảo.
-Không
được đâu. Tránh xa đi!
-“Xời”! Khóm ngọt như đường phèn …
Tím
nói chưa dứt câu, chợt thấy người lính ngồi đàn trên hầm chống pháo kích ngưng
đàn, ngẫng mặt, hỏi người lính trên vọng gác:
-Cái gì vậy, Lộc?
-Dạ,
không có gì đâu, thiếu úy. Cô ấy muốn biếu mấy trái khóm mà em không nhận.
Quay
sang, thấy khuôn mặt ngây thơ của Tím, thiếu úy nói:
-Cảm
ơn em. Nếu em bán thì chúng tôi mua, trả tiền sòng phẳng; còn cho thì chúng tôi
không nhận.
-Mỗi
ngày xuồng của tui chở khóm ra Tắc Cậu bán sĩ; tui đâu biết mỗi trái giá bao
nhiêu mà bây giờ thiếu úy biểu tui bán lẻ lại?
-Nếu
em không bán thì chúng tôi không thể nhận khóm.
Tím
chỉ tay về khóm cây ngoài vòng kẽm gai:
-Cho
tui “tấp” xuồng vô chỗ bụi cây kia, tui đưa mấy trái khóm rồi thiếu úy cho tui
“nhiu” thì cho.
-Vâng.
Em tấp xuồng vô chỗ đó đi.
Thiếu
úy dựa Guitar vào ụ đất rồi mở cổng đồn, đi về phía khóm cây. Tím ngẫng nhìn
thiếu úy và thấy bảng tên Nguyễn Dân. Nhiều quân nhân tò mò đến gần Dân. Sau
khi Tím lấy 5 trái khóm để lên bờ, Dân lục tất cả túi áo, túi quần lấy tiền ra
rồi xòe tay lượng định xem số tiền đó có thể đủ trả cho 5 trái khóm hay không.
Thái độ của Dân làm cho mấy anh lính cười rộ lên; rồi mọi người đều lục túi lấy
tiền, trao cho Dân. Dân đến bên xuồng, căn dặn Tím:
-Đây
là số tiền tượng trưng của chúng tôi để cảm ơn lòng tốt của em. Em cẩn thận. Lần
sau, nếu chèo thuyền qua đây, em nhớ chèo xa xa một chút để tránh rủi ro.
Tím
thiệt thà quá đổi:
-Dạ,
tui biết mà. Nhưng lâu quá “hỏng” được nghe tân nhạc, chiều nay nghe thiếu úy
hát bài gì hay “wá”, tui muốn nghe “cho đả” nên “tấp đại” gần bờ chút mà!
Nhóm
lính trẻ lại cười rộ lên. Dân vừa trao tiền cho Tím vừa cười:
-Cảm
ơn em. Em cầm tiền đi!
-Tui
“hỏng” dám lấy tiền đâu, thiếu úy!
-Lúc
nãy em đồng ý rồi. Nhớ không?
Tím
thở dài, miễn cưỡng nhận tiền.
Về
đến làng, chưa kịp “tấp” xuồng vào bờ, Tím đã thấy thằng Búng đang ngồi “chàng
hãng” trên đất, vót cây. Thấy Tím đang cột
xuồng vào cây cọc, Búng vội để rựa và cây nhọn xuống, vừa chạy đến bên Tím vừa bảo:
-Mày
để tao cột cho. Tay mày yếu xìu, cột không chặt, rủi trời mưa, nước “dưng” cao,
xuồng sút giây, trôi mất đó, mày!
Tím
chưa kịp đáp, Cha của Tím từ trong nhà bước ra, bảo:
-Búng!
Tao nói với mày mấy lần rồi; đừng chơi với con Tím nữa!
Búng
hơi sừng sộ:
-Tui
giúp nó chớ bộ tui … ăn thịt nó sao mà làm dữ vậy?
Cha
của Tím bước đến, vừa giật sợi giây dừa từ tay Búng vừa nói:
-Tao
cấm mày chơi với con Tím. Mày nghe chưa, Búng?
Búng
quay đi với thái độ giận dữ. Tím im lặng theo Cha vô nhà, lòng thắc mắc, không
hiểu tại sao Búng là bạn của Lắm – anh của Tím – mà Cha lại không thích Búng. Vừa
vào nhà, Cha đóng nhanh cửa lại, hỏi:
-Tím!
Có khi nào thằng Búng hỏi mày về thằng Lắm không?
-Dạ,
hồi anh Lắm mới đi, nó hỏi một hai lần gì đó; rồi thôi.
-Mày
trả lời sao?
-Thì
con nói như Cha Mẹ dặn là ở đây khổ quá, anh Lắm trốn nhà đi bụi đời.
-Nó
có hỏi gì nữa không?
Tím
lắc đầu. Cha thở dài nhè nhẹ. Sự thật thì – dù có đồn Nghĩa Quân nơi ngã ba và Nghĩa
Quân trong đồn thường đi phục kính ban đêm và đi tuần ban ngày – tình trạng an
ninh trong làng cũng vẫn bất ổn. Vì, ban ngày Việt cộng trốn trong hầm, dưới mấy
vườn khóm, các đơn vị Nghĩa Quân đi tuần, đi kích không thấy hoặc không biết được.
Ban đêm Việt cộng chia ra từng nhóm nhỏ: Nhóm này ra tỉnh lộ đặt mìn để sáng xe
đò chạy ngang, bị nổ, chết người, giao thông bị gián đoạn; nhóm kia vào làng bắt
dân đóng thuế hoặc buộc dân làng “ủng hộ” bất cứ thứ gì; nhóm khác chiêu dụ hoặc
cưỡng bức trẻ em đi theo “giải phóng” để làm “anh hùng”; nhóm khác nữa lo đặt
mìn trong lòng sông để tàu của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bị nổ, chìm, v.v…
Vì muốn Lắm có tương lai và cũng vì lo ngại Lắm sẽ bị Búng dụ dỗ theo Việt cộng,
Cha Mẹ của Lắm lén cho Lắm qua Rạch Giá, ở nhờ nhà người Chú để đi học. Khi rảnh
và cuối tuần Lắm đi chài lưới với Chú. Nhưng nếu ai hỏi về sự vắng mặt của Lắm,
gia đình đều bảo là Lắm trốn đâu “mất biệt”, có lẽ theo du đảng.
Dân
làng vừa hết thắc mắc về Lắm thì bắt đầu chú ý đến lời nói và hành động hơi là
lạ của Búng; vì thấy Búng thường chặt cây, vót nhọn như là làm bàn chông để bẩy
thú vật và đôi khi Búng vắng nhà cả tuần; nhưng vì sợ Việt cộng và Búng trả thù,
không ai dám nói ra. Đó là lý do Cha Mẹ của Tím rất lo lắng khi thấy Búng cứ
“rà rà” muốn kết thân với Tím.
Sáng
sớm hôm sau, đang sắp khóm vào xuồng, Tím thấy toán lính Cộng Hòa đi kích về, bước
hàng một dọc theo “lộ đất” cạnh bờ sông, hướng về đồn Nghĩa Quân. Bất ngờ một
giọng reo vui:
-Cô
ơi! Có phải cô là người hôm qua “ủi” xuồng vô đồn, cho tụi tôi khóm hay không?
Dừng
tay, nhìn toán lính, nhận ra anh Nghĩa Quân gác trên vọng gác chiều hôm qua, Tím
cười:
-Dạ,
em đó, anh Lộc! Thấy mấy anh, em nhớ anh Lắm của em “wá” hà!
-Anh
Lắm cũng đi lính Cộng Hòa, phải không?
-Ảnh
chưa tới 18 tuổi, là “con trai một” mà đi lính “cái nỗi gì”, anh!
Một
anh lính vừa chuyền khóm hộ cho Tím vừa nói:
-Mấy
“cha” sao không phụ chất khóm lên xuồng giúp người ta mà đứng đó?
Thế
là nhóm lính chuyền khóm lên xuồng cho Tím. Vừa khi đó, Dân cùng với nhóm lính
khác đến, hỏi:
-Tụi
mày làm gì đây?
-Công
tác dân vận, thiếu úy!
Hai
tiếng thiếu úy làm Tím quay vội về phía nhóm lính mới đến. Nhận ra Dân, Tím
chào:
-Dạ,
chào thiếu úy.
-Gọi
tôi bằng anh thôi. Em cỡ tuổi với nhỏ em của tôi mà. Em tên gì?
-Dạ,
tui tên Tím. Em của thiếu…ý “wên”, của anh, chắc còn đi học, phải không?
-Vâng.
Còn Tím, sau giờ buôn bán có đi học hay không?
-Mèng
ơi! Trường cứ bị “tụi ôn dịch” – tiếng lóng dân làng dùng để chỉ Việt cộng – về
phá sập và hăm dọa thầy cô giáo hoài; không ai dám dạy. Mấy năm nay, con nít
trong làng cũng như tui, đâu có trường, đâu có ai dạy mà học!
Lời
nói thật thà, mộc mạc và khuôn mặt xinh xinh của Tím làm Dân nhớ cô em lâu ngày
chàng chưa về thăm. Chút tình cảm này khiến Dân nói không kịp suy nghĩ:
-Nếu
có người dạy, em có muốn học hay không?
-
Dạ, học chớ – mà ai thèm bỏ thì giờ dạy tui, Trời!
-Hồi
đó em học lớp mấy?
-Dạ,
lớp bốn.
-Tôi
nghĩ nhiều anh em trong đồn có thể dạy kèm cho em.
-Dạ,
dạy kèm là dạy cái gì?
Nhóm
lính chưa kịp cười, chợt nhận ra ánh mắt nghiêm khắc của Dân, đành im. Dân đáp:
-Là
dạy thêm, dạy ngoài giờ học sinh đến trường.
-Dạ,
Mẹ tui nói ai cũng “lấy dạ đong lúa chớ ai lấy dạ đong chữ”; vì vậy tui chỉ ước
sao được học tiếng Anh để làm sở Mỹ, lấy tiền giúp Cha Mẹ thôi.
Thấy
toán lính dừng chân hơi lâu, trẻ em trong làng tò mò, kéo nhau đến, đứng quanh.
Trong khi Dân hơi khó nghĩ vì Tím chỉ muốn đi làm sở Mỹ thì Lộc nói:
-Nếu
cô Tím muốn học tiếng Anh thì chỉ có “ông thầy tui” mới dạy được chứ tụi tôi
“bù trớt”!
Tím
cảm thấy lòng rộn ràng vui, nhìn Dân, cười. Thấy nụ cười rạng rỡ của Tím, Dân
không nỡ cắt đứt niềm hy vọng của cô gái quê xinh đẹp:
-Vâng,
tôi có thể giúp em học tiếng Anh. Nhưng ngày nào em cũng đi bán khóm, làm thế
nào em có thì giờ để học?
-Dạ,
sáng tui phụ với Mẹ bán nước mía ngoài chợ. Trưa tui chở khóm ra Tắc Cậu bán sĩ;
mà khóm gần hết mùa rồi anh ơi!
Hai
tiếng “anh ơi” “ngọt lịm” của Tím làm cho nhóm lính nhìn Dân, cười. Dân nghiêm giọng:
-Nếu
vậy thì tôi sẽ soạn bài bằng tiếng Việt, chỉ dẫn cho em cách phát âm. Soạn
xong, khi mấy anh lính đi chợ tôi nhờ mấy ảnh ghé xe nước mía trao bài cho em.
Thỉnh thoảng, nếu có dịp, tôi sẽ dò bài cho em nơi xe nước mía. Em nghĩ sao?
-Dạ,
mỗi tháng anh tính “nhiu”?
-Cái
cô này! Không ai bắt em trả tiền đâu!
Tím
chưa kịp mừng thì nhiều tiếng “ồ” vang lên nho nhỏ trong nhóm trẻ em. Một em bé
chạy vào nhà Tím, reo vui:
-Câu
Mợ ơi! Ra coi nè! Chị Tím được mấy “ông” lính Cộng Hòa dạy học “hỏng” lấy tiền
nè!
******
Trong
ánh đèn dầu leo lét, thấy Tím bậm bàn tay lại rồi vừa đọc vừa đưa từng ngón tay
lên, đếm: One, two, three, four, v.v… Cha cười, hỏi:
-Tím!
Mày học cái gì mà giống tụi con nít thường giấu tay sau lưng, nói “woảnh, tù, tỳ
ra cái gì, ra cái này” vậy?
Tím
chưa biết đáp lời Cha như thế nào, Mẹ lên tiếng:
-Ông
này! Để con nó học; “chọc quê” nó chi vậy?
Cha
chưa kịp đáp thì nghe tiếng súng rền vang, hướng đồn Nghĩa Quân. Bước vội ra cửa,
nhìn về hướng đồn, thấy đạn hai bên đan chéo nhau, sáng rực cả một vùng, Cha
quay vội vào, thét lên:
-Xuống
hầm, lẹ lên! Mẹ! “Tụi ôn dịch” lại pháo kích vô đồn nữa rồi! Xuống hầm không
thôi đạn lạc!
Cha
giở nắp hầm. Mẹ khom người chui xuống. Vừa dợm chui theo Mẹ, Tím thấy ngọn đèn
dầu chưa kịp tắt, vội quay lui để thổi cho đèn tắt, khỏi hao dầu. Bất ngờ, Búng
cùng hai người đàn ông lạ xông vào, chụp tay Tím, lôi đi, trước đôi mắt thất thần
của Cha! Cha buông rơi nắp hầm, chạy theo kêu cứu. Nhưng nhà ai cũng đóng cửa “tối
thui” trong khi Búng và hai “thằng ôn dịch” lôi Tím lên chiếc tắc ráng, “dông mất
tiêu”! Bất chợt, Cha nghe tiếng máy tàu xa xa rồi đoàn giang đỉnh của Hải Quân
VNCH đang hướng về phía đồn Nghĩa Quân. Cha “khóc ròng”: “Trời! Phải chi mấy ổng
đến sớm hơn một chút thì cứu được con tui rồi!”
Riêng
Mẹ, nghe miệng hầm sập “cái ầm” mà không thấy Cha và Tím chun xuống. Chờ một
lúc cũng vẫn không thấy Cha và Tím, Mẹ mở nắp hầm, leo lên. Thấy Cha trong tư
thế như người mất hồn, Mẹ nhìn quanh, không thấy Tím đâu cả. Mẹ gào lên:
-Con
Tím đâu?
Lúc
này Cha mới “hoàn hồn”, đáp:
-Thằng
Búng dẫn hai thằng “ôn dịch” tới bắt nó đi rồi!
Mẹ
quỵ xuống như trái mít ướt chín cây bị sút cùi!
******
Tiếng
trực thăng từ xa vọng lại. Chỉ một chốc sau, ba chiếc đáp xuống nơi bãi đáp dã
chiến, bên ngoài hàng rào kẽm gai của đồn Nghĩa Quân. Thiếu tá Quận trưởng, thiếu
tá chỉ huy trưởng đoàn giang đỉnh, Dân và vài sĩ quan đến bãi đáp đón ông Tướng
Vùng cùng phái đoàn đến thị sát chiến trường.
Người
bị thương – không phân biệt Nghĩa Quân, vợ con của Nghĩa Quân hay là “tụi ôn dịch”
– đều được đưa sang hai chiếc trực thăng. Đầy người, hai chiếc trực thăng rời
vùng lửa đạn trong khi Dân hướng dẫn vị Tướng Vùng thị sát quanh đồn.
Theo
sự hướng dẫn của Dân, vị Tướng Vùng và phái đoàn đi trên sự đổ nát toàn diện do
nhiều đợt tấn công bằng chiến thuật “tiền pháo, hậu xung” và “xa luân chiến” của
Việt cộng để lại. Vị Tướng thở dài khi thấy người lính Nghĩa Quân tiếp tục âm
thầm đào xới, tìm kiếm hình hài không toàn vẹn của bạn hữu, của vợ con và của…
kẻ thù!
Xác
người và mảnh rời của thân người được để gần bờ sông, chờ người nhà xác nhận hoặc
chờ phương tiện đưa về nguyên quán. Xác của “tụi ôn dịch” được khiêng để ngoài
vòng kẽm gai, phía sau đồn, sẽ được chôn nơi vùng đất mà các “đồng chí” của họ
đã nằm đó từ những trận công đồn trước đây.
Trong
cảnh tận cùng của thê lương, không ai – ngay cả vợ con của các anh Nghĩa Quân –
còn giọt nước mắt nào để biểu lộ niềm đau khổ của mình! Ngoài tiếng xào xạc của
khóm tre, không ai có thể nghe được bất cứ tiếng động nào nơi bờ sông nhuộm máu
này!
Sau
khi tiễn vị Tướng Vùng cùng phái đoàn trở lại bãi đáp dã chiến, thiếu tá Quận
trưởng, chỉ huy trưởng đoàn giang đỉnh và Dân đứng chờ trong khi vị Tướng Vùng
và phái đoàn bước lên trực thăng. Trực thăng quay cánh quạt, vừa nâng thân tàu
lên, thiếu tá Quận trưởng, chỉ huy trưởng đoàn giang đỉnh và Dân đưa tay phải
lên, chào.
Trở
lại đồn, sau một lúc bàn thảo, Dân cùng mọi người đi thẳng đến đoàn chiến đỉnh
để về Quận họp hành quân, hoạch định kế sách thích ứng và biện pháp hữu hiệu
hơn để tránh bớt tổn thất.
Chiều,
từ Quận trở về, vừa từ chiếc Fom nhảy lên bờ, Dân thấy một anh Nghĩa Quân bước vội
đến, nói:
-Trình
thiếu úy, cô Tím bị Việt cộng bắt đi tối hôm qua!
Dân
trợn mắt:
-Thiệt
không, mày?
-Cả
làng đều biết! Bộ tui dám “giỡn mặt” với “ông thầy” sao?
Dân
mím môi thật chặt. Sau khi người Nghĩa Quân quay đi, Dân nghẹn ngào nhìn ra
dòng sông Cái Lớn, lòng xót xa tự hỏi, không biết giờ này Tím bị địch hành xử
như thế nào? Tại sao một cô bé quê hiền lành, chất phát, thiệt thà như Tím mà cũng
bị chúng nó “lôi” vào cuộc chiến một cách tàn bạo như thế?
Bất
ngờ, từ radio trên một trong các chiến đỉnh, dòng nhạc quen thuộc văng vẳng
trong ánh nắng chiều. Với cõi lòng tan tác như vết tích của chiến trận đêm qua
còn vương vãi trong sân đồn, Dân chậm bước, lắng nghe. Đến đoạn cuối, Dân tưởng
như ca sĩ đang tỏ bày nỗi niềm thiết tha của Dân âm thầm dành cho Tím:
“… Nhiều năm trời chẳng thương mình
Để anh thành kẻ bạc tình
Cầu
xin cho mây về vui với gió
Dù
có qua bao đắng cay
Muôn
đời anh vẫn chờ em.” (2)
Đọc đến đây, Danny không thể đọc tiếp, vì quá xúc động! Cả một dĩ vãng hào hùng, khốn khó lẫn đau thương trong cuộc chiến bừng sống trong hồn chàng. Nhìn tên tác giả bài tự truyện, thấy chữ Tiffany Trần, Dân cố vận dụng trí nhớ xem trong số sinh viên ban Anh văn – do Dân giảng dạy tại Community College – cô nào tên là Tiffany Trần; nhưng không thể nhớ được.
Từ khi Hoa Kỳ có lệnh “cách ly” vì Covid-19, theo lệnh của tiểu bang, trường học đóng cửa. Học sinh, sinh viên học online. Giáo sư cũng dạy online. Để tạo nguồn cảm hứng cho sinh viên trong thời “Tàu dịch”, Dân đưa đề tài: “Hãy viết tự truyện về một phần đời của bạn”. Vì đa số sinh viên lớp Anh văn đều là người Á Đông và người Mễ, Dân đặc biệt cho phép sinh viên có thể chọn tiếng Việt hoặc tiếng Anh để diễn đạt ý tưởng của họ.
Sự xúc động vừa lắng dịu, Danny “rà rà” “con chuột” vào hồ sơ, danh sách sinh viên để tìm điện thoại, địa chỉ của Tiffany Trần. Sau khi bấm số, nghe tiếng “allo” từ đầu giây bên kia, Danny nói tiếng Việt:
-Trời! Thầy biểu cả lớp viết thì em viết chứ “sức mấy” mà em dám giúp thầy.
-Tôi chỉ muốn biết, làm thế nào Tiffany có thể biết được những chi tiết xảy ra trong đồn Nghĩa Quân sau đêm cô Tím bị Việt cộng bắt?
-Ngã ba sông Cái Lớn và kinh Trèm Trẹm sâu lắm mà sao Tím dám nhảy xuống?
-Làm thế nào Tím có thể trốn khỏi Việt Nam?
-Tím đã tự cứu mình, tìm được cuộc sống mới mà còn đi học thêm. Giỏi lắm!
-Tôi sẽ gặp Tím trong vòng một tiếng đồng hồ.
We never could have come this far
I took the good times; I'll take the bad times
I'll take you just the way you are...”
Dân mỉm cười, vuốt mái tóc “muối” nhiều hơn “tiêu”, lòng lâng lâng trong niềm vui dịu dàng…
1.- Nắng Chiều của
Lê Trọng Nguyễn.
2.- Chờ Người của
Lam Phương
ĐIỆP MỸ
LINH
Đăng nhận xét