MX CỔ TẤN TINH CHÂU:Đặc Khu Rừng Sát Và Những Ngày Tháng Sau Cùng
MX CỔ TẤN TINH CHÂU:Đặc Khu Rừng Sát Và Những Ngày Tháng Sau Cùng.
ĐẶC KHU RỪNG SÁT và NHỮNG NGÀY THÁNG SAU CÙNG.
*MX CỔ TẤN TINH CHÂU
“ Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia-Định, Đồng-Nai thì về.”
Lòng Tàu là
con sông mang đầy tính chất lịch sử. Mùa xuân năm Nhâm Dần (1782), Quang Trung Nguyễn
Huệ dẫn một đoàn chiến thuyền vào cửa Cần Giờ đánh tan quân của Nguyễn Ánh, gồm
400 chiến thuyền và 70 ghe lớn. Nguyễn Ánh phải bỏ chạy về Định Tường. Đến
tháng 8, Châu Văn Tiếp chiếm Gia Định, rước Nguyễn Ánh trở lại Sài gòn. Được
tin, tháng 2 năm Quý Mão (1783), Quang Trung Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lại kéo
quân vào cửa biển Cần Giờ. Quân Tây Sơn tiến vào sông Lòng Tàu, đánh tan quân của
Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh chạy về Tam Phụ…
Riêng sông Lòng Tàu còn là thuỷ lộ huyết mạch dẫn vào cảng
Sàigòn. Tất cả chiến hạm của hải quân, thương thuyền quốc tế, ghe thuyền chở
hàng từ phao zero ngoài cửa biển Cần Giờ, đều dùng sông Lòng Tàu để vào các cảng
của thủ đô Việt Nam Cộng Hoà.
Sông Lòng Tàu chảy xuống hạ lưu khoảng 7 cây số phân ra
thành hai nhánh là sông Lòng Tàu và sông Đồng Tranh. Hai sông này chảy thêm chừng
10 cây số thì đổ ra biển qua cửa Cần Giờ.
Sông Soài Rạp chảy ngang xóm Tân Nhơn thì thoát nước qua ngã
sông Vàm Sát (Rạch Vàm) rồi chia thành hai nhánh là sông Đinh Ba và sông Cát
Lái. Cuối cùng chảy ra biển qua cửa Soài rạp.
Như vậy cửa sông Đồng Nai là một tứ giác với các góc là Nhà Bè, Phú Mỹ QL-15, Vũng Tàu và Vàm Láng trên cửa Soài Rạp. Đây là một vùng đầm lầy đầy cây tràm, cây đước, thường ngập nước với nhiều sông, rạch mà được gọi là Rừng Sát. Mặc dù sông Soài Rạp có bề ngang rộng hơn sông Lòng Tàu nhưng lòng sông cạn nên không thuận tiện cho tàu bè lưu thông, tốc độ lấp cạn lại rất nhanh dù được xáng đào vét nhiều lần. Thuỷ lộ Lòng Tàu không có sương mù quanh năm nên là huyết mạch nối liền giữa biển và cảng Sàigòn. Tàu có tầm nước 12 bộ hay nhỏ hơn có thể ra vào bất cứ lúc nào. Các tàu trọng tải lớn với tầm nước khoảng 28 bộ chỉ có thể vào sông Lòng Tàu khi thuỷ triều lên. Tàu bè thường mất khoảng năm giờ để đi từ biển vào Sàigòn...
Để ngăn chặn sự xâm nhập của CS vào vùng cận Thủ Đô Sàigòn,
Biệt Khu Rừng Sát được thành lập từ những năm đầu của thập niên 60. Đến năm
1963, Biệt Khu Rừng Sát được đổi thành Đặc Khu Rừng Sát, chịu trách nhiệm hai
quận Quảng Xuyên và Cần Giờ, thuộc tỉnh Gia Định trên phương diện hành chánh
nhưng trực thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân trên phương diện an ninh, hành quân. Đặc
Khu Rừng Sát có BCH gồm
Lực lượng bộ gồm hai tiểu đoàn và bốn đại đội ĐPQ biệt lập
được phân phối trấn giữ các địa danh tiêu biểu như Thiềng Liềng, Ngả Ba Dàng
Xây, Tắc Ông Nghĩa, Đập Đá Hàn, Ngã Ba Đồng Tranh… với nhiệm vụ chánh là bảo vệ
sông Lòng Tàu. Lực lương thuỷ gồm: Hai Giang Đoàn Xung Phong, Liên Đoàn Tuần
Thám và Giang Đoàn Trục Lôi.
Trên sông, các giang đoàn của Hải Quân cùng với các toán Người
Nhái tuần thám ngày đêm để bảo vệ an ninh thuỷ lộ. Đặc biệt Người Nhái VN thường
xuyên phối hợp với Người Nhái Mỹ trong các công tác phục kích, đã làm Người
Nhái Mỹ cảm phục vì khả năng, kinh nghiệm và can trường nên đạt được nhiều
thành quả tốt. Trên không, hai trực thăng võ trang được tăng phái cho DKRS và
pháo đội 105 để yểm trợ hành quân. Ngoài ra, còn có Tiểu Ðoàn 359 trách nhiệm
lưu động khắp lãnh thổ của đặc khu.
Huy hiệu của ĐKRS là con cá sấu ngoi trên mặt sông, miệng hả
to và ngọn hải đăng chiếu sáng.
Những anh em quân nhân ở ĐKRS thường gọi nhau là cá sấu, nên
mới có bốn câu thơ sau đây:
Hãy
kể nhau nghe kỷ niệm đầu
Bởi
“Tháng Tư Đen” tàn mộng ước
Xin
giữ tình nhau để quên sầu.
Trong ngày hội ngộ ĐKRS cựu Th/tá Trương Văn Cảnh đã sửa lại bốn câu thơ cho hợp với hiện tại.
Hãy
kể nhau nghe kỷ niệm đầy
Bởi
“Tháng Tư Đen” ta hiểu được
Ai
người tâm huyết với non sông
Nhắc đến ĐKRS không thể quên được những
ĐKRS và căn cứ Hải Quân nguyên trước đây là căn cứ yểm trợ
tiếp vận của Hải Quân Mỹ. Đây là một căn cứ lớn nhứt trong vùng Sàigòn được bàn
giao lại cho QLVNCH vào tháng 4/1972.
Năm 1966, bộ tư lệnh miền của CS cho thành lập ĐKRS với nguỵ
danh là T10, về sau đổi lại là đoàn 10 để khỏi trùng tên với một tổ chức mới của
Trung Ương Cục Miền Nam. Đại tá VC Lương Văn Nho
Từ năm 1967 đến 1970 lực lương Mỹ ở ĐKRS gồm
một tiểu đoàn TQLC (1st Battalion, 5th Marines ), hai
toán USN SEAL và Hải Quân thường hành quân cùng với QLVNCH trong lãnh thổ DKRS.
TQLC Mỹ phối hợp với một tiểu đoàn TQLC
Việt Nam trong cuộc hành quân đổ bộ (Jackstay) đã giết 63 VC và bắt được một số
tù binh, tịch thu được 66 súng cá nhân, 8 súng cộng đồng và hoả tiễn 122 ly,
phá hủy trung tâm huấn luyện, bệnh xá, kho tiếp liệu…TQLC Mỷ thường xuyên hành
quân và yểm trợ các đơn vị VN trong ĐKRS.
SEAL di chuyển đêm Căn cứ CS
USN SEAL SZRS
Tài liệu CS viết: “Lời khai của Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cũng mang lại nhiều thông tin quan trọng. Sau khi bị bắt ngày 16-4 tại Phan Rang, viên Trung Tướng này được đưa ngay ra miền Bắc. Nguyễn Vĩnh Nghi đã tiết lộ nhiều điều, cho thấy lực lượng phòng thủ của địch đã bị căng ra rất mỏng, lực lượng dự bị còn rất ít. Trong nội đô, địch chỉ dựa vào cảnh sát và phòng vệ dân sự. Hướng hiểm yếu nhất, theo y, là tiến công từ Gò Dầu Hạ - Trảng Bàng. Trên hướng Đông, địch có thể phá các cầu để chận bước tiến của quân ta. Địch bố trí các kho đạn chính ở Nhà Bè ĐKRS và Cát Lái. Long Bình chỉ là kho tiếp liệu. Do địch dựa chủ yếu vào lực lượng không quân, nên các sân bay Tân Sơn Nhất, Biên Hoà và Cần Thơ giữ vai trò quan trọng, đặc biệt sân bay Biên Hoà, nơi đậu các máy bay cường kích F5 và A 37…”.
Từ BCH Miền, nơi trực tiếp điều khiển tác chiến, Thượng Tướng
Trà kể lại:
“Sau đó chúng tôi thống
nhất kế hoạch và huyết tâm: Sư Đoàn 6 của Quân Khu 7 quen thạo địa phương được
tăng cường pháo và xe tăng, bí mật hành quân, bất ngờ giải phóng một đoạn trên
đường 15, chọc qua tỉnh lộ 19 chạy quanh lòng chảo Nhơn Trạch, đặt cho được trận
địa pháo 130 ly tại đây. Từ trận địa pháo này, trước khi có lệnh thống nhất tiến
công vào Sàigòn thì bắn khống chế sân bay Tân Sơn Nhất, sau đó chi viện đắc lực
cho cánh quân phía Đông vùng ĐKRS”.
Cũng theo tài liệu của
VC, trong chiến dịch Hồ Chí Minh, hai Trung Đoàn 46 và 101 thuộc Sư Đoàn 325,
Quân Đoàn 2 được lệnh tiến đánh chi khu Nhơn Trạch với hai nhiệm vụ:
-Mở đường đưa pháo tầm
xa để bắn vào phi trường Tân Sơn nhất, khoá chặt đường vận chuyển hàng không ra
khỏi Sàigòn trước giờ tổng công kích.
-Ngăn chận đường thuỷ
từ sông Lòng Tàu đi ra biển.
Lữ Đoàn 164 Pháo Binh
Quân Đoàn 2 giao nhiệm vụ cho Tiểu Đoàn 3 pháo 130 ly đi theo sau đội hình tiến
công của Sư Đoàn 325 vào Nhơn Trạch, đặc trách nhiệm vụ trút đạn vào Tân Sơn Nhất.
CSBV đánh Thành Tuy Hạ bắt đầu lúc sáng sớm và chấm dứt lúc
18 giờ ngày 29/4 sau nhiều đợt xung phong có chiến xa yểm trợ. Trong khi đó
quân CS chỉ pháo kích vào ĐKRS làm một binh sĩ bị thiệt mạng. Mặc dù bọn CS có
những chuẩn bị trước, nhưng gặp sự kháng cự mãnh liệt của QLVNCH khiến CS không
chiếm được chi khu Nhơn Trạch đúng theo kế hoạch nên pháo binh 130 ly của CS phải
đặt tại khu vực hai ấp Long Tân và Phú Thạnh và chỉ có thể bắt đầu pháo kích
vào Tân Sơn Nhất vào chiều ngày 29/4. Những cuộc pháo kích ngày 28/4 là pháo
binh của hai đoàn đặc công 115 và 117 từ hướng Bình Dương. Cuộc pháo kích này
kéo dài đến sáng ngày 29/4. Hai binh sĩ TQLC Mỹ bị thiệt mạng vì pháo kích tại
Cơ Quan Tuỳ Viên Quốc Phòng.
Sáng ngày 29/4 có lệnh cho tôi trình diện Tư Lệnh Hải Quân, tôi nhận lệnh tăng cường an ninh tối đa
để bảo vệ thuỷ trình sông Lòng Tàu, sông Soài Rạp thuộc DKRS, và nhận lệnh chuẩn
bị đơn vị về QK4 khi cần. Trong đêm 29/4/75 Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh
Hải Quân, chỉ thị
Trong thời gian này, QLVNCH chưa có cấp Chỉ Huy đại đơn vị
nào công khai ra lệnh cho đơn vị của mình rời khỏi lãnh thổ trách nhiệm, kể cả
_ “Thưa Đô Đốc,Tổng Thống ra lệnh Đô Đốc đem Hải Quân ra khỏi
Sàigòn hay sao mà Đô Đốc ra lệnh cho tất cả hạm đội di chuyển?”
_ “Tổng Thống* không có ra lệnh tôi đem Hải Quân đi, nhưng Tổng
Thống gửi con và rể của TT cho tôi để làm gì thì anh cũng hiểu”. (*TT Dương Văn
Minh)
Giờ phút này, chiều 29/4/1975, đồng bào các nơi tựu về ĐKRS
rất đông, vì ở sông Sàigòn hạm đội Hải Quân VNCH đã đi hết rồi. Tôi nói Hải
Quân Trung Tá Nguyễn văn Nghĩa, Chi Khu Trưởng Quảng Xuyên:
_ “Anh hãy đưa anh em và đồng bào di chuyển trước, tôi sẽ đi
sau.”
Chúng tôi di chuyển
theo sông Lòng Tàu ra biển bằng tàu PGM và Hải Thuyền, vì hầu hết tàu bè di tản
từ miền Trung về đều được đưa xuống ĐKRS.
Riêng tôi nhận được lệnh của Tư Lệnh Hải Quân phải liên lạc với Hải Quân Đại Tá Lê Hữu Dõng Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, là một lực lượng mạnh nhứt của Hải Quân sông, có khoảng 64 chiến đỉnh, để chuyển lệnh bỏ vùng hoạt động, ra khơi với hạm đội. Trong lúc này đơn vị của Hải Quân Đại Tá Dõng đang hành quân giải toả áp lực địch trên kinh Thủ-Thừa Tỉnh Long-An và đã gây thiệt hại nặng cho Đoàn 232 VC, (tương đương với một quân đoàn), do Tướng Lê Đức Anh chỉ huy. Khi tôi di chuyển ra tới cửa biển Cần-Giờ thi trời bắt đầu sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975. Chiều 30-04 thì tất cả hạm đội Hải Quân VNCH đều dừng lại quanh đảo Côn Sơn để liên lạc với Quân Đoàn 4 nhưng không tiếp xúc được với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn.
Ngày
02-05-1975 hạm đội Hải Quân Việt Nam khởi hành cùng hạm đội Mỹ đi Phi Luật Tân.
Khi Hạm Đội VNCH vào hải phận Phi Luật Tân, Chánh Phủ Phi không cho vào, vì
đoàn tàu còn treo cờ Việt Nam Cộng Hòa. Sau đó HQVNCH và Mỹ hội ý nhau và có
quyết định chung là: bỏ tất cả đạn pháo xuống biển, làm lễ hạ quốc kỳ VNCH rất
long trọng và cảm động, tất cả người trên tàu đều hát Quốc Ca. Sau đó cờ Mỹ được
kéo lên, hầu hết người trên tàu đều khóc hay rớm nước mắt.Thế là đoàn tàu vào
Subic, căn cứ của Mỹ.
Tài liệu của CS ghi
nhận sau khi chiếm được Cát Lái, Sư Đoàn 325 để lại hai Trung Đoàn 46 Bộ Binh
và 84 Pháo Binh để ngăn chận sông Lòng Tàu với mục đích là chiếm trọn vẹn hạm đội
của hải quân VNCH nhưng không nói gì về kết quả ngăn chận. Đoàn 10 Rừng Sát
cũng cho rằng họ đã “khống chế” sông Lòng Tàu, đoạn từ Phước Khánh đến ngã ba Đồng
Tranh từ ngày 27/4. Tuy nhiên việc cả hạm đội của Hải Quân VNCH ra biển an toàn
bằng chính thuỷ lộ này đã trả lời cho sự khoác lác của bọn Cộng Sản Việt Nam.
Năm 1999 ngày 01 tháng 09 Cộng Sản khánh thành đài tưởng niệm
liệt sĩ tại Nhơn Trạch trong đó có ghi nguyên văn:
“Đoàn 10 hơn tám trăm người ngã xuống tại đây, hơn năm trăm liệt sĩ
chưa tìm thấy hài cốt”...
Tiến sĩ Phương
USMC Mobile Riverine Force SZRS 1967
U.S. NAVY SEAL
Đăng nhận xét