KIỀU MỸ DUYÊN KÝ ỨC THÁNG TƯ

 Những Mảnh Ký Ức Tháng Tư Buồn!

(Gần 150 trang! Gồm nhiều tác giả)

Ngày 30/4 sao buồn quá!

KIỀU MỸ DUYÊN

Mỗi năm đến gần ngày 30 tháng 4 sao buồn quá! Đài phát thanh, đài truyền hình phát liên tục những bản nhạc buồn, báo đăng những bài buồn, từ sáng đến tối toàn là những chuyện buồn, cha mẹ xa con, chồng xa vợ, bồng bế nhau tị nạn, người chết trên biển, người chết trong rừng sâu núi thẳm, một đoàn người trai trẻ ưu tú của Việt Nam Cộng Hòa, quân nhân công chính bị vào tù, trí thức giỏi và giàu cũng vào tù. Nhà tù ở khắp nơi, trường học cũng thành nhà tù, những mái nhà vừa dựng lên trong rừng sâu núi thẳm để chứa tù nhân, tương lai mịt mù, nơi nào cũng là nhà tù.

Rồi thời gian qua nhanh, 47 năm, những người may mắn được định cư ở khắp nơi trên thế giới. Thế hệ thứ hai, thứ ba đã thành công trên mọi phương diện, hơn 400,000 người làm nail, hơn 100,000 người mở tiệm ăn, nhiều người làm chủ nông trại, trồng rau, trái cây nuôi con học thành tài, thành giáo sư đại học, bác sĩ, kỹ sư, khoa học gia, luật sư, chánh án, chính trị gia, tướng lãnh, triệu phú, chủ đất, chủ nhà, tỷ phú không nhiều nhưng triệu phú người Mỹ gốc Việt có mặt khắp nơi trên thế giới...

Sự thành công vượt bậc và nhanh chóng đó có làm cho người Việt lưu vong hết buồn không?

- Không, không và không.

Nỗi buồn mất nước, gia đình ly tán vẫn còn nặng trĩu trong trái tim của người Việt tị nạn khắp nơi trên thế giới, ở trong những bài báo, bài nhạc, ở trong nụ cười heo hắt của những cụ già trong các viện dưỡng lão, ở trong nụ cười của những người trẻ, v.v.. Người trẻ về Việt Nam thăm quê nhà trở lại nơi mình đang định cư đều nói về những cảnh khổ của người dân Việt Nam, những người đến Bản Giốc đã khóc ở đó, vì phân nửa Bản Giốc thuộc về Tàu. Tàu mấy trăm năm trước đô hộ Việt Nam, bây giờ mộng xâm lăng đó vẫn còn, còn nhan nhản ở đây. Vừa rồi một số người Việt Nam về thăm Nha Trang, vì quê hương của họ ở đó, phố Nha Trang bây giờ thê thảm lắm, ra đường gặp người Tàu nhiều lắm, họ nói tiếng Tàu, họ từ bên Tàu sang Việt Nam, lấy vợ Việt Nam, mở cửa hàng buôn bán làm ăn, những đứa trẻ lớn lên mặc áo Tàu, học tiếng Tàu, nói tiếng Tàu, than ôi!

Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến, giặc Tàu xâm lăng Việt Nam, giặc Tây xâm chiếm Việt Nam, nhưng Việt Nam vẫn là nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, dù đi khắp nơi chỗ nào cũng có người Tàu, nhưng Việt Nam vẫn là nước Việt Nam vì các chùa, nhà thờ mỗi lần tổ chức lễ vẫn có rất đông tín đồ Việt Nam đến tham dự. Lễ Phục Sinh khắp nơi từ Bắc vô Nam, nhà thờ mở cửa, thánh lễ vẫn cử hành một cách long trọng và chùa vẫn mở cửa trong những buổi lễ Phật Đản, Vu Lan, vẫn đông Phật Tử đến chùa. Đó là tinh thần mộ đạo của các tín đồ Việt Nam.

Những vị lãnh đạo tinh thần lo cho dân, khi trong gia đình có thân nhân qua đời, các vị lãnh đạo tinh thần là người cầu nguyện cho người qua đời và an ủi gia đình của người vừa mới ra đi. Tinh thần quan trọng nhất trong đời sống của chúng ta. Qua cơn dịch Covid-19, mọi người sống lạc quan, yêu người, yêu đời mà sống nhờ vào tôn giáo, cầu nguyện ở nhà, cầu nguyện ở nhà thờ, ở chùa, cầu nguyện ở đâu cũng đem niềm tin và sự sống đến cho mọi người trong lúc lâm nguy tuyệt vọng. Niềm tin tôn giáo là sức mạnh mãnh liệt giúp cho con người vượt qua sự khó khăn, phiền muộn, giúp mọi người yêu đời mà sống, vui vẻ mà sống.

Thương nhất là những người già, người bệnh sống trong viện dưỡng lão, có những người trẻ nhưng bệnh nặng cũng sống trong viện dưỡng lão, suốt trong thời kỳ dịch cúm Covid-19 không ai được vào thăm. Ngày thường cũng ít người, có người có con nhưng con ở xa lâu lâu mới về thăm một lần. Có người tứ cố vô thân thì người thăm là những người làm việc từ thiện. Trong lúc có dịch cúm, các phái đoàn làm việc từ thiện không được thăm bệnh nhân vì sợ lây bệnh cho người bệnh. Thương nhất là những cụ già ngồi trên xe lăn gần cửa ra vào dõi mắt trông ngóng người đến thăm. Họ chỉ gặp gỡ các bác sĩ, y tá chăm sóc, ngoài ra ít người ra vào bệnh viện cũng như viện dưỡng lão. Tình người lúc nào cũng cần cho mọi người, một nụ cười thật tươi, đôi mắt ấm áp đầy tình người cần lắm đồng hương ơi!

Già, trẻ, giàu, nghèo ai cũng cần tình thương. Ở Mỹ không ai cần thực phẩm vì thức ăn có thừa nhưng cần tình người.

Thôi thì xin đừng buồn nữa đồng hương ơi! Vui mà sống, cầu nguyện mà sống vui, sống bình yên, cầu nguyện thật nhiều để có niềm vui mà sống khỏe mạnh. Sự thành công của người Việt ở hải ngoại làm nhiều người hãnh diện về người Việt đi đến đâu cũng thành công nhất là về giáo dục, bằng cấp của người Việt Nam nhiều lắm. Người trẻ vào quân đội làm tướng nhiều hơn các sắc tộc khác, đó là sự hãnh diện. Người Việt Nam làm triệu phú nhiều lắm, đó là sự hãnh diện của người tị nạn chịu khó học, chịu khó làm việc tằn tiện đầu tư sinh lợi. Người Việt Nam tiến nhanh, vượt bậc hơn các di dân khác ở khắp nơi trên thế giới. Thế hệ thứ nhất cũng buồn lâu lắm vì có những bằng hữu gục ngã ở xa trường. Cứ mỗi năm đến ngày 30 tháng 4 thì đồng bào tổ chức tưởng niệm những anh hùng đã hy sinh vì Tổ Quốc trước tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ ở Little Saigon, lễ tưởng niệm thuyền nhân đã chết vì hai chữ Tự Do trên đường vượt biển ở nghĩa trang thuyền nhân ở thành phố Westminster, được gọi là thủ phủ của người chống Cộng. Lễ tưởng niệm được tổ chức khắp nơi trên thế giới, nơi nào có người Việt Nam tị nạn thì nơi đó có tổ chức tưởng niệm.

Xin đồng hương đừng buồn nữa. Nếu người lớn tuổi buồn nhiều quá kéo người trẻ buồn theo, nhưng những bài báo về ngày 30/4, những bài nhạc về 30/4 với trái tim của người viết, với tâm hồn của nhạc sĩ để vào dòng nhạc, rồi ca sĩ cất lên tiếng hát não nùng làm sao mà không buồn chứ?

Thôi thì cầu nguyện, cầu nguyện cho nỗi buồn qua đi và niềm vui sẽ đến. Hãy cầu nguyện cho dân Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới hết buồn và sống vì tương lai của con cháu mình. Hãy tiến lên, đoàn kết, thương yêu nhau.

KIỀU MỸ DUYÊN

Orange County, 20/4/2022

(kieumyduyen1@yahoo.com)

CÔNG TỬ VƯỢT BIÊN

Lê Như Đức

Sài Gòn, vào những năm 1977, 1978, nếu có ai lỡ lời nói hai chữ vượt biên thì mọi người đều e dè, sợ sệt. Chỉ cần lỡ lời vài ba câu có dính líu đến hai chữ vượt biên là có thể đi tù cải tạo mút mùa. Vậy mà y lại có cái biệt danh thật là ngộ nghĩnh và hết sức ngang tàng : Công Tử Vượt Biên.

Tôi biết y rất rành, rành hơn bất cứ người bạn thân thiết nào của y, là vì một lý do rất đơn giản. Nhà tôi là chỗ trú chân đầu tiên của y mỗi lần vượt biên thất bại, trốn về Sài Gòn chờ móc nối chuyến kế. Mỗi lần như vậy, nhiệm vụ của tôi là đạp xe tới nhà y báo cho gia đình chuyến đi lại thất bại, cần thêm tiền chi tiêu và không quên nhắn thêm câu : Ba Má, tìm cho con mối khác.

Mỗi lần thất bại như vậy, tôi lại càng thấy rõ sự trưởng thành và quyết tâm của y. Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn. Trong cuộc đời tôi, y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất. Người bạn mà có lẽ khó kiếm được trong lúc sống dưới chế độ mà «cái cột đèn nếu có chân nó cũng vượt biên».

Tôi không biết được tình bạn ngày xưa đối xử giữa Bá-Nha và Tử-Kỳ như thế nào. Riêng tôi, lúc nào khi nghĩ tới y tôi đều nhủ thầm. Một trong những cái may mắn nhất trong đời tôi là được quen y. Tôi gặp y vào năm cuối cùng của trung học, trường Nguyễn Bá Tòng, Gia Định, lớp 12C1.

Tôi còn nhớ ngày đầu tiên gặp y trong sân trường Nguyễn Bá Tòng. Y là học sinh duy nhất chuyển từ trường tư Lasan Taberd tới. Chúng tôi thì ngược lại, phần lớn chuyển từ trường công Hồ Ngọc Cẩn qua. Sáu chúng tôi, băng con nhà nghèo hiếu học, đang đứng chơi trước cửa lớp, thì thấy y. Y tuy tới một mình nhưng rất là tự nhiên và tự tin. Trong khi đó băng chúng tôi thì lại e dè, ngại ngùng khi đối mặt. Có lẽ là vì tại Tường, một người bạn trong đám chúng tôi khi thấy y, nói nhỏ :

– Cái thằng đó học sinh trường Tây. Ông già nó giầu có tiếng trong xóm tao đó. Chị tao ngày xưa làm thợ dệt cho nhà nó. Nó con út, số bọc điều. Giầu tiền xài không hết. Tao nghe nói nhà nó bị kiểm kê tài sản đến hai ba lượt rồi. Vậy mà nó vẫn phây phây như thường.

Minh, người học sinh giỏi nhất trong đám tôi nhìn Tường hỏi :

– Thế nó học cừ không ?

– Tao không biết. Nhưng mà mấy thằng Tây con chắc chẳng học hành gì đâu. Tối ngày đi chọc gái rồi mút xúc-cù-là.

Tôi nhìn y từ trên xuống dưới để cố tìm xem có chất xúc-cù-là trong người y như Tường nói không. Cảm tưởng đầu tiên của tôi về y là giữa hai chúng tôi là hai thái cực. Y dáng dong dỏng cao, mái tóc bồng bềnh, quăn tự nhiên. So với chiều cao của người Việt Nam, thì y bỏ xa. Tôi thì ngược lại. Bạn bè thường gọi là «Lùn Mã Tử».

Tóc tôi lại thưa, loại rễ tre, xỉa thẳng đứng lên trời. Y đẻ trong gia đình giầu có, nhà tôi thì lại thiếu ăn hàng ngày. Tôi con cả, y con út. Có lẽ chúng tôi chỉ có một điều giống nhau. Học tầm thường, chả có gì đặc biệt. Tôi nhủ thầm như vậy trước khi bước vào lớp học đầu tiên của niên khoá 1978-1979.

Không những tôi lầm, mà cả Tường cũng lầm luôn. Sự học vấn và kiến thức của y làm ngạc nhiên không những chúng tôi mà cả thầy chủ nhiệm Vật Lý Nguyễn Văn Lành. Tôi còn nhớ thầy có nói : «Em rất có khiếu về Vật Lý. Sau này có cơ hội nhớ theo ngành này. Em nhé». Chỉ trong hai tuần lễ học, bọn chúng tôi phần lớn chuyển từ Hồ Ngọc Cẩn qua, đã phải bầu y nắm một chức vụ quan trọng nhất trong lớp, đó là trưởng ban học tập.

Sở dĩ chức này quan trọng là vì trưởng lớp do chi đoàn chỉ định, trưởng ban học tập do học sinh bầu. Trưởng ban học tập phải là tay cự phách. Nó đòi hỏi không những thầy cô tin yêu mà anh em nể phục. Trưởng lớp phải là chi đoàn hay cảm tình đoàn. Trưởng ban học tập không cần nhưng phải là tay chiến, dám đối mặt với cả thầy cô lẫn chi đoàn. Y không những không chi đoàn mà còn lại là thành phần chế độ bất dung – tư sản mại bản.

Có lẽ y chiếm được hết cảm tình của lớp chúng tôi qua cách đối xử đặc biệt đầu tiên với cô giáo Hoá-Học Nguyễn Thị Hoàng-Hoa, Phó Chủ Nhiệm lớp. Sau một tuần lễ học, cô khảo bài bốn học sinh trong lớp. Tất cả đều không thuộc bài. Cô tức giận đỏ mặt, hét ầm ầm. Cả lớp im lặng. Y bỗng nhiên đưa tay lên xin phát biểu. Cô gật đầu. Y nói :

– Thưa cô, chúng em không thuộc bài thật là không đúng. Nhưng thái độ của cô đối xử với chúng em cũng không được hoàn toàn đúng lắm.

Cả bọn chúng tôi đều trố mắt nhìn y như một con quái vật. Cô nổi tiếng là dữ nhất trường. Thầy giám hiệu cũng phải kiêng. Cô đẹp, giỏi, hơi lớn tuổi, chưa lập gia đình nên… chẳng sợ ai. Tôi nhớ : mặt cô đang từ đỏ chuyển sang tái xanh. Cô vừa nói vừa thở :

– Em nói rõ tôi nghe chỗ nào tôi đối xử không đúng ?

Y ung dung trả lời :

– Chúng em không thuộc bài, cô la thì đúng nhưng không vì vậy mà cô tức giận, nhăn nhó. Cô sẽ mau già, đau tim, chết sớm. Chúng em không thuộc bài, cô có quyền la nhưng không có quyền tự hành hạ thân thể mình như vậy ! ! !

Cô nhìn y một lúc rồi không nhịn được phải phì cười. Cả lớp chúng tôi phá lên cười theo. Đời cô từ đó cũng thay đổi nhiều vì học được một nhân sinh quan mới từ y.

Y học giỏi không chỉ một vài môn mà đặc biệt ở tất cả các môn học. Từ Toán, Lý, Hoá, cho đến Luận Văn, Anh Văn, Sinh Vật, và cả… Chính Trị nữa. Thầy Khải dân Tập Kết, chuyên dậy môn Chính Trị Học, có lần ngạc nhiên hỏi : Kiến thức em về bác Hồ thật là uyên bác. Có nhiều chuyện về bác không hiểu em đọc từ đâu mà thầy cũng chưa từng nghe tới bao giờ.

Sau này, Tường có kể tôi nghe y nói y lấy những lời nói của những danh nhân và lãnh tụ nổi tiếng trên Thế Giới rồi cứ việc sửa George Washington, Charles De Gaule … thành bác nói.

Không mời mà y tự nhiên coi như đã nhập vào băng chúng tôi. Không những thế mà thái độ y như đứng đầu băng chỉ huy anh em. Minh ức lắm. Vì y bị giáng chức, xuống thứ 2. Minh có biệt danh là Đại Tướng vì tên họ là Dương Văn Minh. Một trong những Đại Tướng có quyết định rất lớn đến sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam. Phạm Tất Đồng tự Thủ Tướng đứng thứ 3. Kế tới là Tường Kiếm Hiệp, Khánh Khổ, Sáu Luận và tôi «Lùn Mã Tử».

Chúng tôi thường gọi y là Công Tử. Sau vài lần vượt biên hụt, đổi thành Công Tử Vượt Biên. Biệt danh của Sáu Luận sau bị Công Tử đổi thành «Luận Bò». Lần đầu nghe, tôi thích lắm vì nghĩ Công Tử giống tôi, cho sức học của tôi hơn nó. Công Tử giải thích : Không đâu, nó vẫn hơn mày, nhưng tại nó cứ hay cãi bậy với tao. Nó biết sai vẫn cãi cối. Nên là con bò rừng.

Luận Bò hình như rất thích cái biệt danh này hơn. Được có tiếng hay tranh cãi với Công Tử là một vinh hạnh. Tôi buồn bã trở lại vị thứ bẩy của mình. Tuy đứng cuối trong nhóm nhưng vẫn là thứ bẩy của lớp. Tôi vẫn đứng trên nhiều người lắm, trên cả thằng chi đoàn trưởng lớp. Công Tử, dĩ nhiên đứng đầu lớp.

Một lần Tường Kiếm Hiệp khám phá ra trường Lê Văn Duyệt có một cô học sinh rất mi nhon, hay đạp xe ngang qua trường tôi đi học. Hôm đó cả bọn ở lại trễ chờ. Cô bé tuyệt vời, nhỏ nhắn, xinh đẹp thật vừa xứng với kích thước … của tôi.

Tôi đang ngây ngất ngắm thì bỗng Công Tử phán : Con nhỏ này, tưởng gì chứ cho tao 3 ngày là tao sẽ ẵm em đi học ngay. Cả bọn nhao lên, chửi bới um sùm. Công Tử nói : Tụi bay dám cá không, nếu tao làm được thì từ đây sẽ là đại ca nhóm. Còn không, bao tụi mày một chầu. Đi đâu ăn cũng được. Chúng tôi đồng ý.

Ba ngày sau, Công Tử đạp xe chở nàng ngang qua trường chúng tôi. Tôi nhìn nàng ôm eo ếch của Công Tử thật tự nhiên và tình tứ ! ! Phải chi trong đời tôi được một lần đạp xe chở nàng đi học nhỉ ? Từ đó tất cả đều phục tùng tuy rằng sau này khám phá ra cô bé là em họ của Công Tử ! ! !

Chuyến vượt biên đầu tiên của Công Tử vào cuối Tháng Mười Một năm đó. Chúng tôi được tin, hùn tiền, đãi Công Tử bữa tiệc cuối cùng tại vườn nhà Tường Kiếm Hiệp vào chiều Thứ Bảy. Sở dĩ nhà Tường được chọn là vì ở cuối xóm dưới. Chung quanh nhà là ruộng rau muống. chúng tôi tha hồ nói năng phản động tới chế độ mà không sợ sự soi mói của mấy tên “mật vụ” khu phố..

Căn nhà Tường nhỏ 3 gian, vá víu bằng đủ mọi loại vật liệu kiếm được. Mái nửa lá nửa tôn, thỉnh thoảng chen vài viên ngói mẻ, vách chỗ gạch chỗ đất, có chỗ vá cả bằng miếng các tông bự. Tường sống với ba và chị. Ba Tường và Tường chuyên môn cắt, bó rau muống để chị Tường đem bán ngoài chợ nhỏ.

Trước ngày 30/4, chị Tường làm thợ dệt cho nhà Công Tử. Ba Tường phải kiêm luôn việc bán rau. Giữa nhà đặt một cái bàn nước cọc cạch, mấy cái ghế xiêu vẹo và hai tấm phản hai bên để ngủ và ngơi. Đặc biệt chung quanh vách nhà là những giá sách với đầy áp sách… kiếm hiệp. Bố con Tường mê đọc chuyện kiếm hiệp và… cắt rau muống. Đặc biệt dù nghèo cũng không muớn, mà chỉ mua chuyện về đóng thành sách, trưng khắp nhà.

Hôm đó chúng tôi đãi Công Tử bằng một con gà luộc, một đĩa dồi chó và ba chai bia quốc doanh. Thủ Tướng nói phải cho Công Tử ăn món quê hương để suốt đời nhớ… người ở lại ! ! !

Công Tử ở lại nhà Tường mãi tới đêm khuya để nói chuyện với ba Tường. Tôi tưởng họ đang bàn chuyện đất nước hoặc kinh tế Thế Giới. Sau nghe mới biết họ đang nói chuyện … kiếm hiệp ! !

Tối Chủ Nhật hôm sau, Công Tử đáp chuyến xe lửa đi Nha Trang rồi xuống ghe ra khơi. Ngày Thứ Hai kế là ngày dài nhất của bọn chúng tôi. Ngồi nhìn chỗ trống của Công Tử trong lớp, bọn chúng tôi lúc bồi hồi, lúc phập phồng, lúc lo lắng. Chúng tôi phải báo cáo láo với Thầy Lành là Công Tử bị ốm nặng. Qua sáng Thứ Năm, Công Tử lù lù bước vào lớp, cả bọn nửa buồn nửa vui. Buồn vì Công Tử đi chưa được, vui vì lại gặp được người mình ưa thích. Giờ ra chơi, cả bọn bu lại hỏi. Công Tử kể :

– Tao xuống ghe nhỏ để ra ghe lớn. Đợi tới gần sáng chả thấy ghe mẹ gì mới biết bị lừa, nên về thăm tụi mày lại.

Tháng sau, Công Tử lại từ gỉa chúng tôi để đi Phan Thiết. Mặc dù tài chánh eo hẹp, chúng tôi cũng cố gắng tổ chức lại một bữa tiệc tiễn tại vườn nhà Tường. Lần này thiếu món dồi vì nghe nói thịt chó ăn xui.

Hình như thịt gà cũng xui nên Công Tử lại trở về đi học lại. Hai lần sau đó, chúng tôi chỉ đãi uống chứ không ăn. Khánh Khổ than với tôi : Khổ quá, Công Tử chưa tới Mỹ thì mình đã phải khai phá sản. Lúc nào y cũng có thể than khổ.

Lần thứ 5 Công Tử đi ở Vũng-Tầu thì bị bắt và đưa vào Bình-Ba cải tạo lao động. Chúng tôi không thể giấu được trường mãi. Lúc đó thầy trò trong cả trường mới biết tới một nhân vật có biệt danh «Công Tử Vượt Biên».

Chi đoàn họp liên tục, phê bình, kiểm điểm sáng tối. Bọn chúng tôi thủ khẩu như bình. Huyền thoại về Công Tử được mọi người mọi lớp truyền tụng hơn cả huyền thoại về… “bác”.

Mỹ Ngọc, hoa khôi của trường tuyên bố sẵn sàng ra đi với Công Tử bất cứ lúc nào dù là đi… kinh tế mới. Bích Huyền, Bích Ca, hoa hậu song sinh đều đồng ý cùng nâng một khăn, sửa một áo nếu Công Tử có… sức. Thầy chủ nhiệm bị giám hiệu gọi lên khiển trách vì để Công Tử nghỉ ốm nhiều mà không báo cáo. Cô Hồng-Hoa thỉnh thoảng trong lúc giảng bài đi xuống ngồi vào chỗ trống của Công Tử, đăm chiêu nghĩ ngợi thương nhớ về một người học trò ưu tú của mình.

Bốn tháng sau, bố mẹ Công Tử tìm được mối chạy 5 cây vàng để Quản giáo lén chở Công Tử về Sài Gòn. Sợ phường khóm gây rắc rối cho nhà mình, Công Tử tới nhà tôi trú ngụ vì bố tôi là Tổ Trưởng Tổ Dân Phố có thể biết trước ngày nào phường khóm tới khám nhà.

Công Tử, tôi và đứa em kế chia nhau căn gác lửng cuối nhà. Căn gác nhỏ chỉ kê vừa 2 cái bàn học và trải cái chiếu gai. Vậy mà Công Tử ở đó hơn nửa năm. Trong năm đó Công Tử Vượt Biên hụt 2 lần nữa. Lần sau nhờ có kinh nghiệm nên không bị tó. Tôi trở thành người đưa tin giữa Công Tử và gia đình. Mỗi lần sang nhà Công Tử nhắn tin, tôi đều ghé lại nhà Luận Bò để cho tin tới mọi người trong nhóm.

Đối diện nhà Luận có một bông hoa biết nói mà Luận theo đuổi từ hồi mặt mới mọc mụn. Luận thường tự hào gọi nàng là Thiên Hạ Đệ Nhất Niên. Niên thường ngồi cạnh cửa sổ nhà để xếp hàng mà nhà Niên dệt mướn. Thỉnh thoảng cuồng chân, nàng đi dạo vài vòng trước nhà. Lúc nào Niên cũng mặc áo vàng in bông cúc nổi và quần xa tanh bóng đen.

Tôi thắc mắc, Luận thật tình trả lời : «Hỏi Công Tử đó. Tao tốn cả đời theo đuổi không thành. Công Tử chỉ nhập nhóm ca với em mấy ngày là em mê tít. Mẹ kiếp, giọng Công Tử Bắc kỳ the thé vậy mà mắt em cứ lim dim, phê giọng trầm và ấm ! !». Đó là lần đầu tiên tôi mới hiểu tại sao Luận hay so đo, ghen tương với Công Tử.

Niên dáng thanh và cao. Nếu mang guốc cao gót, tôi chắc Luận chỉ đứng tới tai Niên. Công Tử đứng với Niên thật là xứng đôi, như Rồng với Phượng. Niên đứng với Luận như Phượng với … Ngưu. Tôi chắc chính Luận cũng biết vậy. Khi tôi về là Luận vội chạy qua nhà Niên để cho tin và cũng để … chiêm người đẹp.

Chiều hôm ấy tôi cố tình nói chuyện về Luận rồi đưa đẩy tới Niên. Tôi có hỏi sao Công Tử không tìm cách liên lạc với Niên. Công Tử trả lời :

– Mày nghĩ tao đang nghỉ Hè hay sao mà thăm với viếng. Công An mà biết chuyện giữa tao và Niên. Tao chắc nó bám Niên kỹ lắm. Nếu tao gặp Niên là sẽ gặp … “bác” ngay. Cuộc đời có những cái mình phải hiểu để sống. Số tao sinh ra là để vượt biên, đi Mỹ học, số Niên là ở đây ca hát … xây dựng chủ nghĩa. Hai đường đi hai nẻo, phải dứt khoát thì mới làm được cái mình muốn. Rồi Công Tử kể tôi nghe chuyện tình với Niên. Câu chuyện tình đầy tính chất … xã hội chủ nghĩa.

Mùa Hè năm trước, tất cả các học sinh trong phường phải đăng bạ sinh hoạt đoàn thể. Như thường lệ Công Tử ra trình diện trễ 2 ngày. Tên uỷ viên thanh niên thấy gai mắt, cho Công Tử đứng chờ chơi. Đang lúc đó thì Niên tới phàn nàn là tổ ca của nàng thiếu Nam, chỉ toàn mấy em gái choai choai mười hai mười ba thôi. Công Tử kể : «Tên uỷ viên nghe xong, sực nhớ tới tao, nó đưa hàm răng vàng ố, ám khói thuốc lào ra cười hô hố chỉ tao nói :

– Đồng chí xung phong vô tổ ca ngồi kia kìa. Tao đứng dậy tính phản đối, thấy Niên quay qua nhìn, tao gật đầu ngay.

Cũng như mọi chàng trai đất Việt, lần đầu tiên gặp người đẹp, Công Tử bỡ ngỡ nói một câu hết sức … lãng mạn cách mạng. Dân Việt Nam ăn toàn bo bo không, sao lại có người như Niên, xinh đẹp như vậy. Niên đỏ mặt, đổi đề tài, hỏi nhà Công Tử ở chỗ nào trong phường để nàng biết, tới gọi đi họp khi cần. Công Tử kể tiếp :

– Tao chỉ nhà, Niên không tin nói nhà tao chỉ đến bà chị kế tao là hết. Tao nói ông gìa anh mới nhận anh làm con nuôi tối qua.

Hôm sau Niên đi hỏi dò sự thật trong xóm mới biết Công Tử là con Út trong nhà, ít khi ra đường nên phần lớn mọi người không biết tới. Gặp Công Tử, Niên hỏi :

– Anh làm gì mà tối ngày cứ ru rú ở trong nhà không ?

Công Tử đáp :

– Tại chưa gặp Niên nên không muốn ra ngoài, bây giờ thì lúc nào cũng nằm ngoài đường.

Từ đó phường 7, quận Phú-Nhuận có chuyện tình để mọi người kháo cho qua những tháng ngày vô vị dưới chế độ ba khoan. Khoan sống, khoan hưởng và khoan yêu. Họ nhìn Công Tử và Niên để ước sao cho cuộc tình được êm đẹp và thành tựu. Hình như Công Tử và Niên cũng thấy. Họ lúc nào cũng quyến luyến và ước mơ.

Mùa Hè chấm dứt, chị phụ trách sinh hoạt phường, tổ ca, Quách thị Cẩm – Niên đặt bút phê vào sổ sinh hoạt của Công Tử : tiên tiến vượt chỉ tiêu. Tên uỷ viên thanh niên phường gầm gừ phản đối ngầm.

Một ngày cuối Đông năm 1979, Công Tử đưa tiền cho đứa em gái tôi dặn ra chợ Phú Nhuận mua sôi và thịt vịt. Hôm đó nhà chúng tôi được thưởng thức một món mà mọi người ưa thích. Tôi có linh cảm xa nhau thật nhiều. Tối hôm đó Công Tử nói : Bố mẹ tao đóng tiền bán chính thức xong rồi. Ngày mai em họ tao tới đón tao xuống Rạch Gía.

Công Tử đưa tôi xem thẻ căn cước mới có tên Tầu là Lý Phu Trình. Tôi nói : Công Tử Vượt Biên giờ trở thành Cái Nị Dượt Piên. Chúng tôi cười nói nhiều tới khuya. Ba tháng sau, không thấy tin tức gì của Công Tử, tôi ghé qua nhà hỏi. Bà mẹ Bắc Kỳ, thật Việt Nam, thấy tôi bà ôm mừng khóc : Nó đã tới được Mã Lai rồi con ạ. Tôi từ giả vội để chạy qua nhà Luận báo tin.

Mọi lần thì khác, nhưng lần này vừa thấy chiếc xe đạp Mỹ mà Công Tử để lại cho tôi đậu trước nhà Luận, Niên có linh cảm tin mừng, chạy vội băng qua đường.

Đó là lần đầu tiên tôi giáp mặt Niên. Niên có gương mặt trái soan. Cặp mắt không to không nhỏ, rất đi đôi với khuôn mặt. Mũi Niên hơi cao, có sóng, không tẹt như mũi người Việt Nam. Mái tóc dài ngang lưng, không dầy không thưa nhưng đen nhánh như hai hàng lông mi của nàng. Da Niên trắng tựa như người sinh đẻ ở Gia Nã Đại.

Mái tóc đen dài, gương mặt trái soan, làn da trắng, chiếc áo vàng in hình bông cúc nổi, cái quần xa tanh bóng đen, những thứ ấy tương xứng, đối chọi làm Niên đã đẹp càng đẹp thêm. Không chỉ đẹp, dáng Niên cao cao trông sang và quyền quý. Phải nói Niên là một kỳ công tuyệt mỹ của tạo hoá. Bây giờ tôi mới hiểu hết câu nói đầu tiên, ngớ ngẩn của Công Tử khi gặp Niên. Dân Việt Nam ăn toàn bo bo không, sao lại có người như Niên, xinh đẹp như vậy.

Niên bước vào nhà Luận, căn nhà tự nhiên như sáng hẳn ra. Không hiểu từ mái tóc Niên hay từ thân thể Niên, cũng có thể từ sự tưởng tượng của tôi, tôi như thấy một mùi thơm ngọt dịu thoảng qua. Niên không để ý gì cả, chỉ hỏi vội :

– Có tin gì của ảnh, chưa anh ?

Tôi gật đầu đáp :

– Tới Mã Lai rồi.

Chưa đầy một phút sau, hai dòng nước mắt vui mừng đã chảy dài trên gương mặt xinh đẹp của Niên. Tôi cảm động cũng không cầm được nước mắt. Luận Bò cũng khóc. Chúng tôi nhìn nhau, khóc vui mừng thật dễ dàng. Chín tháng sau tôi mới nhận được lá thư đầu tiên của Công Tử gửi từ một nơi có cái tên lạ hoắc của tiểu bang Texas : College Station.

Thủ Tướng gật gù giải thích :

– Thì đúng rồi, Công Tử phải ở chỗ những người giỏi của nước Mỹ. College Station là chỗ của những người ít nhất phải có bằng Đại Học ở.

Chúng tôi đều đồng ý. Tôi mang thư qua nhà Công Tử khoe. Hai ông bà nhìn tôi một lúc rồi khẽ nói :

– Hai bác có chuyện muốn nói với cháu. Trước khi nó đi, hai bác có đóng thêm một chỗ, phòng nếu đi không xong sẽ có mối khác cho nó. Lúc nó đi có nói nếu trót lọt thì để dành cho cháu để cám ơn gia đình cháu đã giúp nó. Tiền Bác đã đóng rồi, lấy về cũng không được. Cháu về thưa với Bố Mẹ, rồi sang cho Hai Bác hay.

Trên đường về, tôi bàng hoàng như người bị say sóng. Bố tôi nghe xong nói :

– Trời Phật thương gia đình mình rồi con ơi. Cơ hội ngàn vàng con đừng bỏ. Con phải đi để cứu các em con và cứu cả bố mẹ thoát khỏi chế độ này … Con đi Bố chỉ mất chức… Tổ Trưởng là cùng.

Hai tuần sau, tầu tôi cập bến Mã Lai. Tôi cũng được chuyển qua đảo Pulau Bidong như Công Tử. Vì thuộc diện chờ nước Mỹ hốt rác nên tôi ở đảo gần 2 năm. Sau khi bị từ chối bởi Úc, Pháp, Ý và Thuỵ Sĩ, tôi mới được Mỹ hốt. Tôi tới Houston vào cuối Đông năm 1982. Trời năm đó lạnh và u ám.

Công Tử ra đón tôi ở phi trường. Vẫn phong thái và kiểu nói của năm xưa, tôi thấy trời đất chuyển ấm và sáng dần :

– Lùn Mã Tử, tao trốn mày gần nửa vòng trái đất, vậy mà mày cũng bám theo. Làm sao tao có thể dứt mày được đây ?

Tôi trả lời :

– Khánh Khổ nói số mày đẻ bọc điều, sinh ra để sống trong nhung lụa. Số tao với nó là số khổ, do đó tao phải bám sát mày. Chỉ cần một tí cái bọc điều của mày, là hưởng suốt đời không hết.

Đúng như Đại Tướng đoán trước, chương trình học 4 năm của Đại Học Mỹ, Công Tử chỉ tốn 3 năm hơn. Tôi vào trường được hơn 1 năm, Công Tử tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí và chuyển lên Fort Worth làm cho một hãng máy bay quốc phòng nổi tiếng.

Ngày tôi ra trường, Công Tử lái xe về mừng. Gặp tôi, Công Tử thành thật :

– Tao tính mua tặng mày một món quà thật lớn. Nhưng tuần sau tao xong Cao Học, mày lại phải trả nợ, mua đồ mừng tao. Do đó đổi ý không mua gì cả. Mày mới ra trường chưa có nhiều tiền, chơi cái trò tư bản này không xong đâu.

Tôi có hỏi Công Tử có tiếp tục học lên Tiến Sĩ không ? Công Tử trả lời :

– Phải ngưng một thời gian, ba má tao nói ngưng học, đi lấy vợ học mới… thông ra thêm. Ông bà cũng già rồi, tao tính về thăm một chuyến, tiện thể tính bề gia thất.

Ngập ngừng một lúc tôi mới nói Công Tử một điều mà tôi đã giấu hơn 6 năm nay :

– Niên đã lấy chồng lâu rồi, chắc giờ con cũng đã lớn.

Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi thấy mặt Công Tử đổi sắc. Công Tử nhìn tôi một lúc như muốn hỏi điều gì, nhưng rồi thôi, chỉ quay đi nhìn về một hướng xa xa.

Tôi hiểu Công Tử muốn hỏi gì nên khẽ đáp :

– Luận Bò

              *** 

Người Khách Đi Xe

Thảo Lan

 Trung chạy xích lô cũng hơn ba năm nay. Thời buổi khó khăn, gốc là lính Quốc Gia nên chỉ có chạy xích lô là dễ dàng cho Trung kiếm tiền phụ giúp gia đình nhất. Trung cũng không đủ tiền vốn để mua một chiếc xích lô mà phải mướn xe chạy từng ngày. Thường Trung chạy từ sáng sớm đến tối mịt mới đem trả xe. Hôm nay cuốc xe cuối của Trung là đưa một người khách về một con hẻm ở gần cổng xe lửa số 6. Con hẻm khá hẹp mà một bên là dãy nhà gạch còn một bên là khu nghĩa trang hoang vắng. Khi quay trở ra thì có một người đàn ông đứng ở ven đường vẫy tay gọi xe. Mặc dù đã mệt mỏi vì cả ngày chạy bao nhiêu cuốc xe rồi nhưng sẵn có khách gọi nên Trung cũng ghé lại hỏi:

- Đi về đâu vậy anh?

Người thanh niên cũng cỡ trạc tuổi Trung có gương mặt khắc khổ và hơi xanh xao dưới ánh đèn yếu ớt từ các ngôi nhà gần đó chiếu ra không đủ soi rõ mặt. Người thanh niên cất tiếng.

- Anh chở tôi ra xa cảng miền Tây được không?

Từ đây đến đó khá xa nhưng dù sao cũng tiện hướng đi về nhà Trung nên anh nhận lời. Sau khi hai bên đồng ý giá cả thì người thanh niên lên xe cho Trung chở. Trung ngạc nhiên vì người thanh niên tướng tá cũng cao ráo tuy có hơi gầy nhưng không ngờ lại nhẹ như vậy. Mặc dù đã là cuối ngày nhưng Trung vẫn đạp xe băng băng như không hề chở ai đằng trước. Suốt thời gian lên xe người khách không hề lên tiếng và cứ ngồi yên lặng gần như không cử động. Lúc này Trung cũng mệt nên cảm thấy như thế cũng may khỏi phải bắt chuyện với khách. Thật sự khi chạy những cuốc đường dài gặp khách vui vẻ nói chuyện rôm rả cũng khiến Trung cảm thấy con đường được rút ngắn đi nhiều. Tuy nhiên đôi khi gặp khách nhiều chuyện nói huyên thuyên nhiều quá thì Trung cũng không thích lắm.

Đến nơi người khách xuống xe trả tiền rồi bỏ đi. Đến lúc này Trung tự dưng thấy ớn lạnh trong người. Anh nghĩ có lẽ mình lao lực quá sức nên muốn cảm nên cố gắng đạp xe thật nhanh về trả xe cho chủ rồi về nhà ăn uống qua loa, tắm rửa rồi đi nằm. Ngày hôm sau, sau khi ngủ qua một giấc thì Trung cảm thấy khỏe khoắn như bình thường. Trước khi rời nhà để đi lấy xe, anh sực nhớ nên móc ví đưa gần hết số tiền chạy được ngày hôm qua cho mẹ để làm tiền chợ. Trung chỉ giữ lại một ít để dằn túi cũng như để phòng xa phải thối tiền lại cho khách.

Sáng chạy vài vòng các đường phố trên Sài Gòn Trung mới gặp được người khách mở hàng kêu anh chở vào Phú Nhuận. Khi móc tiền ra để thối lại cho khách Trung mới chợt nhận thấy trong mớ tiền trong ví của mình có một tờ tiền vàng mã. Trung ngạc nhiên lắm. Tối đó khi về nhà anh hỏi mẹ xem trong mớ tiền mình đưa ban sáng có thêm tờ tiền vàng mã nào không. Bao lâu nay tiền Trung đưa về thỉnh thoảng có ngày mẹ anh vẫn cất để dành chứ không đụng đến nếu trong nhà không thiếu hụt. Mỗi ngày mẹ Trung vẫn ngồi lê la vài tiếng ngoài chợ bán quần áo cũ để kiếm thêm chút đỉnh. Hơn nữa em gái Trung làm công nhân dệt nên cũng ít nhiều phụ giúp được gia đình. Tiền Trung chạy xích lô mẹ anh thường hay cất giữ để dành sau này có việc gì trọng đại, như cưới vợ cho anh chẳng hạn, thì còn có món để chi tiêu.

Khi nghe Trung hỏi lúc đó mẹ anh mới mở tủ ra kiểm lại chỗ tiền anh đưa hồi sáng. Bên trong mớ tiền đó cũng có vài tờ tiền vàng mã. Hai mẹ con thẫn thờ chưa hiểu chuyện gì thì Trung đã lên tiếng.

- Vậy là hôm qua có đứa nào nó lừa đưa tiền vàng mã cho con rồi. Thiệt tình cái thời buổi gì mà cứ lừa lọc người ta tùm lum. Riết rồi không ai dám tin ai nữa.

Mấy hôm sau trong một cuốc xe cuối ngày chở khách về xa cảng miền Tây, Trung gặp lại người khách hôm trước. Lúc đó Trung đang trên đường dự tính về trả xe thì có người thanh niên đứng dưới gốc cây sao lớn bên vệ đường vẫy. Trung tắp xe vô lề hỏi:

- Đi về đâu anh Hai?

- Cho tôi về đường Thiệu Trị khúc cổng xe lửa số 6.

Đến lúc này thì Trung mới nhận ra người khách mà anh chở cách đây mấy hôm từ khu cổng xe lửa số 6 về đây. Một phần người thanh niên ban đầu đứng dưới gốc cây lớn nên ánh đèn đường không chiếu tới. Mãi khi người thanh niên lên tiếng anh mới nhận ra cái giọng khàn khàn nhất là cũng vẫn bộ quần áo lính cũ sờn rách mà rất ít người dám mặc nguyên bộ vào thời đó. Như Trung cũng vẫn còn giữ vài bộ đồ lính ngày xưa của mình nhưng thường trong lúc đạp xích lô anh chỉ mặc hoặc quần hoặc áo chứ ít khi mặc nguyên bộ.

Cũng vẫn như lần trước khi lên xe người thanh niên cứ yên lặng không nói năng gì. Và cũng từa tựa lần trước, chở người khách này Trung cảm thấy nhẹ tênh như chở một đứa nhỏ. Đạp được một quãng Trung lên tiếng hỏi:

- Thấy bộ đồ anh mặc tui đoán anh cũng là lính mình ngày xưa. Tui cũng vậy. Dân sư đoàn 18 nè. Còn anh đơn vị nào?

Mãi vài giây sau người thanh niên mới cất giọng khàn khàn:

- Tôi cũng sư đoàn 18 thuộc trung đoàn 43 của đại tá Hiếu.

Trung mừng quá nói huyên thuyên.

- Tui thuộc trung đoàn 52 nè. Trời vậy là gặp chiến hữu mà không hay. À quên xin lỗi không hỏi anh cấp bậc gì để dễ xưng hô. Tui chỉ là hạ sĩ quèn thôi nên nhờ vậy giờ mới đạp xích lô chứ không thôi cũng đang mút mùa ở trại tù nào rồi.

Người thanh niên ậm ừ một lát rồi nói bâng quơ.

- Thôi chuyện qua rồi đừng nhắc nữa anh.

Trung bỗng cụt hứng không muốn hỏi han gì thêm nữa. Vừa đạp xe Trung vừa ngẫm nghĩ, “có khi nào anh chàng này ba xạo nói bừa không ta”, “hay cũng có thể anh ta sợ không tin tưởng mình”. Nghĩ như vậy Trung đỡ cảm thấy bực bội trong lòng như trước đây vài giây. Anh nghĩ thêm, “chắc không phải xạo rồi vì nếu không làm sao anh ta biết được trung đoàn 43 của đại tá Hiếu chứ?”. Mặc dù không nằm dưới đơn vị của đại tá Hiếu nhưng anh cũng biết tên các vị chỉ huy khác của sư đoàn.

Cả hai im lặng cho đến khi xe rẽ vô con hẻm nhỏ mà một bên là nhà và bên kia là nghĩa trang. Người thanh niên dơ tay làm hiệu cho Trung dừng lại. Anh bước xuống và dúi vào tay Trung một nắm tiền giấy. Trung tính trả lại vì anh muốn giúp đỡ cho người chiến hữu sát cánh trong lửa đạn cùng đơn vị với mình ngày xưa nhưng người thanh niên đã đi băng băng vào hướng nghĩa trang. Trung nhét tiền vô túi và hơi ngạc nhiên vì trước giờ cứ ngỡ nhà anh ta phải ở phía bên này thay vì đi sâu vô khu nghĩa trang tăm tối đó.

Về đến nhà, như mọi bữa Trung lấy tiền trong ví ra đưa cho mẹ. Khi mẹ anh chìa tay ra đón thì cả hai bỗng giật mình vì trong mớ tiền đó lại có vài tờ tiền vàng mã. Đến lúc này thì Trung bỗng cảm thấy lạnh xương sống khi nghĩ ngay đến người thanh niên vừa rồi. Hèn gì mà lần nào chở anh ta cũng nhẹ tênh. Trung kể đầu đuôi cho mẹ mình nghe về người khách mà anh đã chở hai lần giữa nghĩa trang và Xa cảng miền Tây. Mẹ anh trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi nói:

- Mẹ nghĩ hồn anh ta còn có điều gì khúc mắc nên chưa siêu thoát. Hơn nữa có thể anh ta và con cũng có một chút duyên nên mới hai lần cho con gặp mặt. Mẹ nghĩ có lẽ mộ anh ta nằm ở nghĩa trang đó. Khi nào rảnh mẹ con mình ghé đó xem sao. Con có nhớ mặt anh ta chứ.

- Hy vọng xem hình trên bia mộ thì con sẽ nhận ra chứ giờ bảo nhớ thì con cũng không dám chắc vì cả hai lần anh ta đều đón xe trong bóng tối và sau đó thì đi rất nhanh.

Ngày hôm sau, sau khi chạy được vài cuốc xe kiếm đủ sở hụi tiền mướn xe Trung quay về nhà chở mẹ đến khu nghĩa trang ở khu cổng xe lửa số 6 để tìm môt cách hú họa. Nghĩa trang tuy nhỏ nhưng đi tìm kiếm ở từng ngôi mộ thì cũng không phải dễ dàng. Hơn nữa có những chỗ chật hẹp xe xích lô không vào được, Trung phải chờ bên ngoài để một mình mẹ anh đi vào tìm kiếm. Sau hơn một tiếng rà soát, hai mẹ con tính bỏ cuộc quay ra thì bỗng dưng ngay trước mặt Trung là một tấm bia không hình ảnh. Đó là lý do tại sao ban đầu hai mẹ con không để ý tới. Trên tấm bia ghi rõ:

Thiếu Úy Nguyễn Văn Ngọc

Mất ngày 30-4-1975

Tấm bia không ghi ngày sinh mà chỉ có ngày mất. Tự dưng Trung có linh tính đây chính là người lính cùng sư đoàn mà anh đã chở hai lần trước đây. Anh đón lấy bó nhang mẹ anh đem theo và đốt lên cắm xuống ngôi mộ và bắt đầu khấn.

- Xin lỗi thiếu úy. Hai lần chạm mặt mà không biết thiếu úy là cấp trên của em. Lòng thành chỉ có nén nhang này thắp cho thiếu úy. Xin thiếu úy cho phép em gọi thiếu úy là ông thầy cho thân mật. Ông thầy có sống khôn thác thiêng xin báo cho thằng em này biết để có điều gì có thể làm được thì thằng em này sẽ làm cho ông thầy.

Trước khi ra về, Trung đốt một điếu thuốc và cắm xuống bát nhang của ngôi mộ rồi đứng nghiêm chào đúng phong cách một người lính chào cấp trên của mình. Mấy hôm sau đó Trung cố tình né không chạy xe về khu cổng xe lửa số 6 cũng như Xa cảng miền Tây vào những khi tối trời vì cứ nghĩ nếu ông thiếu úy đó ra đón xe nữa thì không biết Trung sẽ sử xự ra sao. Một mặt đã khấn trước mộ người ta là có điều gì thì sẵn sàng làm giúp. Một mặt cứ nghĩ đến nếu giáp mặt với hồn ma lần nữa thì Trung cứ thấy lạnh xương sống.

Chả mấy chốc mà Tết đã gần kề. Mặc dù khi ấy ai nấy đều nhem nhuốc khổ sở nhưng vẫn cố gắng tạo nên một cái không khí Tết cho vui vẻ. Chợ búa cũng nhộn nhịp hơn bình thuờng. Nhìn những bó hoa vạn thọ bày bán khắp nơi Trung bỗng nhớ đến ngôi mộ của thiếu úy Ngọc. Anh ghé vào mua một bó cúc vạn thọ và bó nhang rồi đạp xe đến nghĩa trang. Từ xa Trung đã ngạc nhiên khi thấy trên mộ của thiếu úy Ngọc có ba nén hương còn nghi ngút khói và có cả đĩa trái cây. Nhìn quanh gần đó chỉ có một người đàn bà trạc tuổi mẹ Trung đang lom khom cắm nhang vào các ngôi mộ xung quanh. Trung lên tiếng hỏi.

- Thím Hai ơi. Có phải thím là người nhà của thiếu úy Ngọc nằm ở đây không?

Người đàn bà đang chăm chú cắm nhang bỗng giật mình ngẩng lên nhìn Trung rồi trả lời:

- Không phải.

Rồi bà ta đổi qua nét mặt có vẻ mừng rỡ và hỏi lại Trung:

- Vậy cậu là người nhà của người nằm nơi đây hả?

- Dạ không phải.

Đến đây thì cả hai cùng chưng hửng ngượng ngập không biết nói gì thêm. Một lát sau Trung hỏi:

- Vậy có phải đĩa trái cây này của thím Hai không? Thím Hai không quen biết mà sao đem trái cây đến ngôi mộ này cúng vậy?

Người đàn bà nhìn bó cúc vạn thọ và bó nhang trên tay Trung rồi hỏi ngược lại:

- Còn cậu hình như cũng đem hương hoa đến viếng ngôi mộ này đúng không? Cậu quen biết ra sao với người mất mà lại làm vậy?

Đến đây Trung quyết định kể cho người đàn bà nghe về câu chuyện của mình mặc dù không biết người ta sẽ tin hay không. Người đàn bà trầm ngâm một lát rồi nói với Trung.

- Chuyện dài dòng lắm. Nhà tôi cũng gần đây thôi, cậu nếu rảnh ghé qua tôi sẽ kể đầu đuôi cho nghe.

Trung dạ rồi đốt vội ba nén hương, cắm bó vạn thọ xuống ngôi mộ rồi lễ cẩn thận. Trước khi đi anh cũng không quên đốt một điếu thuốc mời người thiếu úy dưới mồ.

Sẵn xe xích lô Trung chở người đàn bà về nhà chỉ cách đó chừng trăm thước. Tại đây anh được người đàn bà đưa cho tấm thẻ bài mang tên Nguyễn Văn Ngọc và kể cho nghe câu chuyện bi tráng của những giây phút cuối đời của người lính này. Theo người đàn bà thì trưa ngày 30 tháng 4 thiếu úy Ngọc theo dòng người chạy loạn đi ngang qua khu nhà bà. Đến đây có lẽ do quá mệt mỏi và thất vọng khi nghe tin đã có lệnh buông súng đầu hàng, thiếu úy Ngọc đã tự sát bằng một phát đạn vào thái dương. Giấy tờ tùy thân trên người không có nên không ai có thể biết để liên lạc với gia đình của người mất. Trong lúc hỗn loạn đó, vợ chồng bà cùng vài người hàng xóm đã đứng ra chôn cất cho anh ta ở ngay khu nghĩa trang gần nhà. Bia mộ thì viết dựa theo tên trên tấm thẻ bài và cấp bậc căn cứ vào bông mai trên cổ áo của bộ quân phục anh mặc lúc đó. Từ đó vợ chồng bà cùng những người hàng xóm năm xưa vẫn thuờng xuyên ghé thăm và chăm sóc cho ngôi mộ này. Sau cùng người đàn bà nói:

-  Tôi nghĩ cậu và anh ta có duyên với nhau nên anh ta mới xui khiến để cậu gặp hai lần. Thôi tôi giao cho cậu tấm thẻ bài này. Cậu ráng giúp tìm xem gia đình anh ta ở đâu để báo tin cho người ta biết.

Trung nhận tấm thẻ bài từ tay người đàn bà và tự nhủ trong lòng sẽ cố gắng giúp người thiếu úy quá cố tìm ra người thân của anh ta để báo tin. Dựa vào hai lần đón xe, một đi từ nghĩa trang đến xa cảng miền Tây và một đi theo hướng ngược lại Trung đoán có lẽ anh ta có người thân ở quanh khu đó. Khổ nỗi xa cảng miền Tây thì rộng mênh mông bát ngát biết đâu mà tìm. Suy nghĩ một lát Trung bỗng nhớ ra cả hai lần đưa và đón người khách đi xe luôn đứng ở dưới gốc cây sao lớn trước một ngõ hẻm. Như thế có lẽ nhà người thân anh ta chỉ ở quanh quẩn đâu đó. Trung đạp xe ngay đến đó và bắt đầu gõ cửa từng căn nhà trong con hẻm để hỏi thăm về tung tích người thiếu úy tên Ngọc. Những căn nhà đầu tiên anh hỏi thăm đều là những gia đình mới dọn về sau này nên không ai có thể cho anh thêm thông tin gì. Đến căn nhà ở quãng giữa con hẻm có một người thiếu nữ trạc tuổi Trung đã cho anh một chi tiết quan trọng.

- Anh hỏi thăm thử căn nhà có trồng cây bông giấy trước sân đó xem. Ngày xưa tôi biết gia đình đó có một người con trai cũng cỡ tuổi tôi làm sĩ quan nhưng sau ngày 30 tháng 4 thì không thấy nữa. Hàng xóm đoán là có thể anh ta đã di tản hoặc trốn cải tạo ở đâu đó nên không ai dám hỏi.

Trung cám ơn cô ta rồi đến thẳng căn nhà có cây bông giấy bấm chuông. Một người đàn bà lớn tuổi đi ra. Trung cất tiếng:

- Dạ chào bác. Con kiếm nhà anh Nguyễn Văn Ngọc.

Trung tính nói thêm “ngày xưa là sĩ quan sư đoàn 18” nhưng anh chợt dừng lại vì vào thời điểm đó ai cũng sợ liên lụy, Trung không muốn chủ nhà nghi ngại. Người đàn bà ngần ngừ một lát rồi hỏi lại:

- Cậu quen sao với thằng Ngọc nhà tôi?

Đến đây thì Trung không còn lo ngại nữa nên trả lời người đàn bà.

- Dạ cháu là lính cùng sư đoàn 18 với ảnh.

- Cậu vào nhà chơi uống miếng nước cái đã.

Trung bước vào nhà và để ý ngay đến cái bàn thờ ở nhà trong mà trên đó có treo bức hình chân dung một người sĩ quan có khuôn mặt khắc khổ. Không thể lẫn vào đâu được, chính là người khách đi xe của anh trước đây. Người đàn bà rót nước trà mời Trung rồi lên tiếng.

- Cậu có tin tức gì của con tôi không? Cậu thấy đó, tôi lập bàn thờ cho nó vì tin rằng nó đã mất. Lần cuối tôi được biết tin tức về nó là khi đơn vị của nó đóng ở Xuân Lộc. Lúc ấy qua tin tức thì trận đánh ở đó khốc liệt lắm. Sau đó không còn tin tức gì…

Vợ chồng tôi không biết nó bị bắt, bị tử trận, hay đã trốn thoát được ở nơi nào đó. Đến đêm ngày 30 tháng 4 tôi bỗng nằm mơ thấy nó mặt mũi bê bết máu. Giấc mơ chỉ thoáng qua thật nhanh và tôi chưa kịp hỏi han thì đã giật mình tỉnh dậy. Sau đó không có tin tức gì của nó nữa và tôi cũng không còn mơ thấy nó lần nào. Vợ chồng tôi cũng đi dò hỏi ở nhà những người bạn cũ của nó thì không ai hay biết gì. Bạn thân trong đơn vị của nó thì không ai ở Sài Gòn. Sau một thời gian bặt tin tức và căn cứ theo giấc mơ ngắn ngủi, chúng tôi đã lập bàn thờ cho nó và lấy ngày 30 tháng 4 làm ngày giỗ. Tôi mong là cậu có thể cho chúng tôi biết được tin tức của nó.

Đến đây thì Trung lần lượt kể cho người đàn bà nghe về hai lần có duyên được gặp mặt thiếu úy Ngọc. Anh kể cho bà ta nghe về những người tốt bụng đã chôn cất thiếu úy Ngọc tử tế và vẫn thường xuyên chăm sóc mộ phần anh cho đến tận bây giờ.

Cuối cùng anh móc trong túi ra tấm thẻ bài như một kỷ vật để trao lại cho người mẹ đau khổ nhưng hạnh phúc vì cuối cùng cũng biết được con mình bấy lâu nay vẫn được hương khói và mồ yên mả đẹp. Sau đó Trung đạp xe chở mẹ Ngọc đến mộ phần của anh và sau đó ghé thăm nhà của những người ngày xưa đã chôn cất Ngọc. Những cuộc gặp gỡ tràn ngập nước mắt nhưng đó là những giọt nước mắt hạnh phúc cho một cái kết phần nào có hậu. Trung đã đứng trước mộ phần thiếu úy Ngọc và khấn thầm trong miệng. “Em đã làm được việc tìm ra gia đình của ông thầy. Từ đây mong ông thầy yên nghỉ”.

Khi Trung chở mẹ Ngọc về, người đàn bà đã giữ anh ở lại ăn bữa tối. Hôm đó cũng là ngày tiễn ông Táo về trời. Ở nhà người chị gái của thiếu úy Ngọc đã chuẩn bị mâm cơm cúng tươm tất. Sau bữa cơm Trung cám ơn và cáo từ gia đình Ngọc để ra về. Khi đạp xe ra khỏi cổng con hẻm bên gốc cây sao, Trung bỗng giật mình khi thấy người đón xe xích lô hôm trước, thiếu úy Ngọc, đang đứng giơ tay lên chào mình. Đang đà xe chạy nên Trung không kịp dừng, anh chỉ kịp ngoái đầu lại thì chỉ còn thấy gốc cây sao trống trơn. Lật đật thắng xe lại, Trung đứng vội xuống đất sửa quần áo cho chỉnh tề rồi đứng nghiêm hướng về gốc cây sao chào theo đúng phong cách cấp dưới chào cấp trên trước khi leo lại lên xe để đạp về nhà.

             *** 

Ta đã thấy gì sau bao năm?

Những ngày này, giữa tháng tư này, trước đây gần nửa thế kỉ, nhân dân hai miền Nam và Bắc đón nhận một biến cố, biến cố của kẻ thắng cuộc và biến cố của bên thua cuộc. Sở dĩ tôi gọi biến cố bên thắng cuộc và đồng nhất họ với bên thua cuộc trong một biến cố bởi vì nếu nhìn từ bên ngoài thì miền Bắc đã thắng miền Nam, nhưng nhìn sâu xa hơn thì quốc gia này, dân tộc này đã thua, đã đón nhận một biến cố mà ở đó, các giá trị văn minh của cả hai miền chính thức bị bức tử, một chu kì mới với đầy rủi ro, hoang mang và tan thương đang bắt đầu.

Trước 30 tháng tư năm 1975, không ít người miền Bắc đau đáu dành dụm từng cân gạo, từng ký khoai để mang vào cho bà con, người thân, tộc họ và cả người không quen biết của miền Nam “đang đau khổ, thiếu thốn, đói kém vì chịu sự kìm kẹp của Mỹ Diệm”. Dường như trong hàng triệu người lên đường, trong hàng triệu trái tim nôn nóng “giải phóng miền Nam” ấy có rất nhiều, thậm chí hoàn toàn nghĩ như vậy bởi sau quá nhiều tuyên truyền và tẩy não của người Cộng sản. Và từng cân gạo, ký khoai lang khô chắt chiu ấy là gì nếu không phải là tình yêu thương, là văn minh, là giá trị nhân văn?

Thế nhưng sau khi người lính Cộng sản Bắc Việt chính thức bước vào dinh Độc Lập và sau một thời gian dài thu chiến lợi phẩm, hưởng niềm vui chiến thắng và nhìn miền Nam như một cái xác mang linh hồn Mỹ Diệm bởi quá nhiều lời chỉ giáo, lên dây cót thù hận của chỉ huy, của cấp trên. Song hành với các giáo huấn này là những chiến dịch tận diệt người miền Nam có liên quan đến chế độ cũ, đẩy người miền Nam đến đường cùng và tha hồ thu chiến lợi phẩm mang về quê hương, cả một kho chiến lợi phẩm dù có tưởng tượng giỏi cỡ nào người lính Cộng sản cũng không bao giờ tin nổi vào mắt mình, đó là sự thật. Thế mới có người mang con búp bê, mang chiếc xe đạp, chạy cả chiếc xe Honda 67, Honda Dame về miền Bắc.

Và đương nhiên, điều đáng buồn nhất, có tính chấm dứt mọi lý tưởng có được (cho dù đó là lý tưởng sai lầm, hình thành từ sự tuyên truyền đối trá) còn mang hơi hướm tình người của miền Bắc dành cho miền Nam chính thức chết đi bởi họ bẽ bàng nhận ra những bước chân lạc lõng của mình trên đất phương Nam. Họ hiểu rằng kể từ khi bước vào đây, không có khái niệm giải phóng nào ở đây mà là đi xâm chiếm, đi dọn cỏ miền Nam và đi thu chiến lợi phẩm. Và họ cũng bẽ bàng nhận ra rằng họ chẳng phải là bậc cứu thế trong mắt người miền Nam, họ nhếch nhác và có phần tệ hại trong mắt người miền Nam… Chút lòng yêu thương hay trắc ẩn của kẻ thắng cuộc nhanh chóng chuyển sang thù hận và trả thù. Ranh giới phân chia Nam – Bắc giãn rộng trong tâm hồn mỗi người.

Và chưa dừng ở đó, cuộc chiến trong tâm hồn người Việt Nam, cuộc chiến trong tâm linh dân tộc trở nên ráo riết, tàn bạo hơn khi người Cộng sản áp đặt mô hình kinh tế tập trung bao cấp thần thánh của họ lên miền Nam và thít chặt hơn ở miền Bắc, điều đó dẫn đến những bài ca ca ngợi quê hương với hình ảnh chất đầy những bữa ăn ước mơ, những hạt lúa ước mơ, những thứ tưởng chừng rất đơn giản nhưng nằm trong ước mơ của con người. Phải lâu lắm, hơn mười một năm sau, sau biết bao nhiêu biến cố chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc, đói khổ, đau đớn vượt biển, đền đài miếu mạo, lăng tẩm bị đập phá, bị hoang phế… Cả một dân tộc tan tác dưới trời đau… Người ta mới chịu mở ra cánh cửa thị trường.

Nhưng cái cánh cửa thị trường ấy thêm một lần nữa cắt sâu vết thương dân tộc bởi cái định hướng xã hội chủ nghĩa của nó. Vì đây là thị trường có định hướng, có đảng Cộng sản vẽ kim chỉ Nam và có sự giám sát, quản lý toàn triệt của Đảng, nên chắc chắn một điều, trong cái thị trường ấy, chỉ có thái tử Đảng, phe cánh hẩu của đảng, những nhóm lợi ích trực thuộc đảng thu về mối lợi lộc, dân đen không những không được lợi lộc gì mà phải đối diện với một thứ tư bản rừng rú nấp bóng “định hướng xã hội chủ nghĩa”, mượn danh “tài sản quốc dân, toàn dân”.

Và trong cơn quẫy đạp đầy dẫy máu và nước mắt của những con quái thú tư bản rừng rú, có hàng triệu người dân bỗng chốc trở thành dân oan, có hàng triệu người dân cho đến thế kỉ 21 vẫn không dám mở miệng nói ra suy nghĩ của mình cho dù đó chỉ là suy nghĩ rất đơn giản rằng mình cần được đối xử công bằng. Vực thẳm phân ly của dân tộc ngày càng mở ra toang hoác, sự phân chia Nam – Bắc ngày càng thêm nặng. Và đau đớn nhất là người ta trở nên mù quán và tự phát. Mù quán vì không cần biết đúng – sai, tốt – xấu, đen – trắng mà chỉ cần biết đã Bắc thì phải xấu, cũng như ngược lại, đã Nam thì phải ngố và hợm hĩnh. Tự phát bởi người ta đánh mất trung tính để nhận biết đúng sai mà chỉ cần chứng minh rằng mình hiểu biết, mình tử tế, người ta sẵn sàng đạp lên mọi giá trị và đạp qua cả chính sự tử tế và lòng trắc ẩn của bản thân để nói cái mình thích, cái có lợi cho mình.

Và sau gần nửa thế kỉ, sự đánh mất trung tính của một dân tộc đã đến hồi cao trào, người ta không những không còn phân biệt đúng – sai mà chuyển lên cấp độ mới hơn là phe tao luôn đúng và phe mày luôn sai. Phe tao là ai? Phe tao là những ai phát biểu, chống đối, xum xoe, bợ đỡ hay vùi dập giống với tao, cùng mục tiêu như tao thì đều đúng cả. Còn phe mày là ai, là đứa nào dám nói ngược, dám phản biện, dám phản tư, dám chỉ ra điều bất công và dám chặn đứng tiến trình bóc lột của tao, đương nhiên phải là sai, là phản động,  và là kẻ thù của tao rồi.

Cái nếp nghĩ cực đoan một cách có biện chứng này đã thành nếp nghĩ phổ quát của dân tộc một khi các hệ hình giá trị dân tộc được căn cứ trên vật dục, trên cái nhà, chiếc xe, bể bơi, siêu xe, siêu biệt thự và sâu xa hơn nữa là nhiều thớt, tức vợ ở nhà là thớt chính, các thớt còn lại ngoài xã hội chính là các chân dài, và chân càng dài, óc càng ngắn thì càng dễ kiếm tiền. Bởi chân dài giúp người sở hữu có cái để dợt le và thỏa cơn khát dục, chân dài cũng là thứ chuẩn mực thẩm mỹ duy vật biện chứng. Và óc càng ngắn thì càng hay, bởi óc ngắn ít thủ đoạn, óc ngắn ít làm việc đầu óc mà chuyển năng lượng sang làm việc ở các đơn vị cơ thể khác. Khi chân dài óc ngắn trở thành món hang hiếm, hàng hot của xã hội, len lỏi trong cả giáo dục và quản lý, chính trị, kinh tế… thì đương nhiên, điểm đến của dân tộc nằm ở đâu, thiết không cần bàn thêm!

Và sau gần nửa thế kỉ đi qua, chuyện chén cơm, manh áo, chỗ ở không còn thao thức như ngày xưa. Nhưng không thao thức không có nghĩa là bình yên, thái bình. Vì sau gần nửa thế kỉ, con người, khi đối mặt với chuyện ăn, mặc, ở đã chuyển từ thao thức sang khốc liệt, con người dẫm đạp lên nhau, con người man trá, lừa lọc và bất chấp thủ đoạn kể cả người thân với nhau để đạt mục đích của họ. Mà đáng sợ là cái mục đích ấy lại quanh quẩn ở chuyện ăn mặc ở, một tầng bậc cấp thấp, thứ tầng bậc ở nhân loại chưa phát triển. Bởi trong một nhân loại đã phát triển, nỗi thao thức chuyện ăn mặc ở sẽ chuyển sang nỗi thao thức về thân phận cá nhân và nhân quần, thao thức về đồng loại và thế giới, thao thức về vũ trụ quan sau chuỗi dài chiêm nghiệm tri thức.

Đáng sợ ở chỗ một quốc gia nghèo và dốt, cánh cửa tri thức chỉ mới mở hé và lực lượng trí thức còn rất mỏng, hàm lượng tri thức còn yếu ớt khi bước ra biển lớn. Nhưng chúng ta lại có quá nhiều giáo sư tiến sĩ, chúng ta có quá nhiều cử nhân và các giáo sư tiến sĩ bận xum xoe, bợ đỡ, hiếm hoi người suy tư về dân tộc, các cử nhân bận chạy xe ôm, cò đất, cò nhà, ship hàng online… Kết quả là sao? Sau rất nhiều nỗ lực để xóa nghèo đói, xóa dốt, Việt Nam có những cánh rừng trơ trọi và có những biệt phủ triệu đô trang trí đầy gỗ quý, Việt Nam có những con người vung tiền như lá mít và có những vùng quê bị xóa sổ bởi nghèo đói và nạn cờ bạc, đề đóm, Việt Nam cạn kiệt tài nguyên tự nhiên và con người, Việt Nam có những người đi bán thận để mua điện thoại, Việt Nam có những gia đình nhà chứa đầy các vật dụng đắt giá, thời thượng và có hầm rượu ngoại nhưng không có lấy một cái kệ sách nhỏ. Việt Nam cơ bản đã vượt qua được đói, nghèo bằng nỗ lực đấu tranh và đấu tranh nhưng cũng cơ bản vượt qua nạn dốt bằng nỗ lực học thuộc điều lệ Đảng, những cánh cửa tri thức khác vẫn im ỉm đóng với dân tộc, chỉ có những trí thức chịu dòm lén qua khe cửa và tự than vãn về góc u tối của đời mình, giỏi lắm cũng chỉ dám thở dài về bóng tối bao phủ cả căn nhà có quá nhiều ổ khóa.

Vậy thì sau gần nửa thế kỉ, chúng ta nhìn lại và thấy gì? Thấy lòng hoài nghi, thấy sự dửng dưng, thấy kẻ hãnh tiến và đạp qua nỗi đau đồng loại, thấy người xun xoe, thấy đời trống rỗng và vô vị... Và thấy ai đó đang khóc thầm nhớ tiếc những ngày vàng son, những ngày con người dù đau khổ, chết chóc những vẫn còn biết tử tế với nhau!

                           *** 

GẢ CON CHO GIẶC

Nguyễn Thị Thanh Dương

Cô Lạc báo tin cho cha mẹ là sẽ về thăm Việt Nam cả tháng nay thì cả tháng nay anh chị Siêu mừng vui đến mất ăn mất ngủ. Phen này thì cả làng An Bình sẽ lên cơn sốt như cách đây 3 năm họ đã lên cơn khi biết cô Lạc nhà quê nhà mùa, trình độ văn hóa lớp 6 kết hôn với một ông kỹ sư người Mỹ.

Nhà anh Siêu nghèo, mấy sào ruộng nhà nước chia theo tiêu chuẩn đầu người không đủ cho hai vợ chồng cầy cấy nuôi 3 đứa con, anh đi bộ đội về cảnh nhà eo hẹp nên lấy vợ trễ, con còn nhỏ. Cô Lạc lớn nhất nhà đã được bố mẹ gởi gấm theo vài người anh em họ vào thành phố Sài Gòn làm ăn. Trong làng, nhà nào cũng có người vào Nam kiếm sống nên đồng hương cũng giúp đỡ nhau nói chi là họ hàng

Lạc xin vào làm cho một hãng nhựa tư nhân ở Chợ Lớn, ngày làm 12 tiếng, một tuần làm 6 ngày quần quật cực nhọc không thua gì làm ruộng nương nơi quê nhà. Ăn dè để dành mỗi năm Lạc cũng tom góp được chút tiền gởi về quê phụ giúp cha mẹ nuôi hai em, còn Lạc không dám mơ đến chuyện về thăm quê, bởi tiền tàu xe từ Nam ra Bắc sẽ ngốn hết những đồng tiền để dành ít ỏi ấy.

Đột nhiên người anh họ tên Chu của anh Siêu từ Mỹ về thăm quê hương, người anh họ mà anh Siêu chưa bao giờ biết mặt, vì cách ngăn bởi vĩ tuyến 17 giữa hai miền Nam Bắc. Năm 1975 từ Sài Gòn anh Chu cùng gia đình di tản qua Mỹ, sau bao nhiêu năm yên ổn cuộc sống nơi xứ người anh Chu mới thể theo lời trăn trối của người cha già trước khi nhắm mắt là hãy về thăm lại quê quán, tìm gặp người thân nơi miền Bắc.

Thấy cảnh nhà anh Siêu nhà xiêu mái dột, con cái nheo nhóc tương lai là cày thuê cuốc mướn đói nghèo, anh Chu thương cảm cho thêm quà, thêm tiền.

Chợt nhìn thấy tấm hình cô con gái lớn anh Siêu đóng khung để trên bàn, tấm hình mà Lạc đã chụp ở Sài Gòn làm kỷ niệm gởi về để cả nhà ngắm cho đỡ nhớ, trông cô hiền lành xinh xẻo nên anh Chu chợt nảy ra một ý định là kiếm chồng ở Mỹ cho cô, đó là cách giúp đỡ dài lâu và thiết thực nhất.

Anh Chu mang tấm hình cô Lạc về Mỹ. Làm cùng hãng với anh là một ông kỹ sư Mỹ tuổi trung niên độc thân và cô độc. Hai người ngồi cạnh nhau nên thân nhau, anh Chu đã đưa hình Lạc ra và ngỏ ý muốn giới thiệu cho ông.

Chuyện cầu may mà thành sự thật, Richard mừng lắm, vì cuộc đời ông đã mấy lần ly dị, lần này lấy một cô gái quê chất phác, dòng máu Á Đông dịu dàng chắc sẽ chung thủy với ông suốt đời. Hơn nữa, lại là một cô gái trẻ tuổi trinh nguyên và xinh đẹp, thì làm sao mà ông Richard không vui vẻ chấp nhận.

Thế là sau một thời gian trao đổi thêm thư từ hình ảnh giữa ông Richard và Lạc, có anh Chu làm thông dịch cho đôi bên, thì cả hai cùng đồng ý đi đến hôn nhân dù ông Richard lớn hơn Lạc hơn 20 tuổi, nhưng bù lại ông sẽ mang Lạc đi Mỹ, sự trao đổi cũng tương xứng, công bằng cho cả hai.

Anh chị Siêu mừng lắm, đứa con gái nhà anh lấy chồng được đi Mỹ có nằm mơ cũng chả dám, dù là người chồng lớn tuổi, nhưng còn hơn ở lại Việt Nam lấy được thằng chồng trẻ ngang vai phải lứa, cùng nông dân cày cuốc thì cái nghèo đói lại di truyền từ đời vợ chồng Lạc tới con cháu nó không biết đến bao giờ mới ngóc đầu lên nổi.

Để mong thoát cảnh đói nghèo bao nhiêu con gái quê Việt Nam phải lấy chồng ngoại Đài Loan, Hàn Quốc hay Trung Quốc, mà phần nhiều là chồng già hay có vấn đề về sức khỏe, sung sướng thì ít, đau thương thì nhiều, chứ dễ gì lấy được chồng Mỹ và đi Mỹ, cái đất nước nổi tiếng to đẹp, hùng mạnh nhất thế giới.

Ông Richard và anh Chu cùng về làng An Bình. Đám cưới Richard và Lạc sẽ diễn ra ở đây.

Đột nhiên họ hàng, làng xóm thấy anh chị Siêu phát lễ hỏi như dân phố Hà Nội là trầu cau, trà sen, bánh xu xê, bánh cốm trong hộp có giấy bóng kính màu đỏ và thiệp cưới in đẹp đẽ đến từng nhà, ai cũng kinh ngạc vì quà đám hỏi to quá.

Tin Lạc sắp lấy chồng Mỹ như một quả bom vừa pháo kích vào ngôi làng bé nhỏ êm ả này.

Đám cưới diễn ra ai được mời cũng không từ chối, vì ai cũng tận mắt muốn xem mặt thằng chú rể người Mỹ của làng An Bình.

Sau đám cưới ông Richard về lại Mỹ làm giấy tờ bảo lãnh Lạc. Cả làng xôn xao bàn tán, khi thì ở trên bờ đê lúc tạm ngừng làm ruộng, khi thì trong hàng chè xanh nơi đầu làng:

- Con Lạc sắp đi Mỹ rồi. Sao số nó sung sướng thế nhỉ?

- Ôi giời, lấy thằng giặc Mỹ mà hãnh diện à? Bố con Lạc từng là anh hùng diệt Mỹ thời chiến tranh chống Mỹ Ngụy đấy nhé

- Nghe nói chồng nó là kỹ sư cơ đấy?

- Phô trương thế thôi, ai biết đâu mà kiểm chứng? Có khi là thằng Mỹ đầu đường xó chợ cũng nên?

- Chưa biết chừng nó mang sang Mỹ bán cho động mãi dâm như bọn buôn người qua Trung Quốc đấy. Phúc đâu chưa thấy, họa lại mang vào người.

Một ông có vẻ hiểu biết, phản đối:

- Đời nào có, tôi chưa nghe chuyện gái Việt Nam lấy Mỹ bị bán vào động mãi dâm bao giờ.

- Bọn Mỹ là ác lắm, việc gì chúng chẳng làm….

Ông kia tiếp tục khoe sự hiểu biết:

- Các bác không đọc báo, nghe đài à? Ta và Mỹ bây giờ là bạn rồi, có cái tàu Mỹ đến thăm Việt Nam và Hải Quân ta ra tận tàu Mỹ nghênh tiếp nữa mà. Rồi lại có cái tàu gì to lắm, có chỗ cho máy bay đỗ và đáp cơ đấy, cũng sang thăm Việt Nam và phe ta lên tàu tham quan thích lắm.

Giọng đàn bà nhà quê đanh đá:

- Gớm, to lớn mấy cũng bị bộ đội ta diệt thời chống Mỹ rồi. Mỹ vẫn là thằng giặc thua trận.

Ông “hiểu biết” giảng giải chuyện đời miễn phí:

- Biết đâu là bàn cờ thế cuộc, chứ họ văn minh thế kia mà. Nay thời thế đã đổi khác, bạn hóa thù, thù thành bạn. Xưa Trung Quốc là bạn hàng xóm gần gũi thân yêu của ta, như “môi và răng” môi hở thì răng lạnh, từng giúp đỡ ta trong chiến tranh. Nay bạn hại ta đấy thôi, từ chuyện kinh tế, hàng hóa đồ dùng Trung Quốc ồ ạt sang Việt Nam để giết chết ngành công kỹ nghệ sản xuất của ta, cả trái cây Trung Quốc như nhãn, vải, táo, cam cũng lấn chiếm thị trường nông sản Việt Nam làm thiệt hại các nhà trồng vườn, đến chuyện lấn chiếm vùng đất, vùng biển Hoàng sa, Trường Sa. Họ đã hiếp đáp, bắt giữ tàu và ngư dân đòi tiền chuộc hoặc làm chết ngư dân mình.

Một bà rụt rè lẩm bẩm:

- Ừ nhỉ, lúc này đi đâu cũng thấy hàng hóa Trung Quốc, mà nghe nói toàn là hàng độc hại. Trông mẫu mã đẹp mắt mà chết người.

Những lời dị nghị, đồn thổi không hay đã đến tai vợ chồng anh Siêu, anh chị vừa tức giận vừa xấu hổ chẳng biết đường nào mà phân bua, mà cãi..

Trong làng có bà tên Cào, tên thật của bà người ta không thèm gọi mà chỉ gọi bằng cái tên nghề nghiệp vì bà chuyên nghề đi thuyền cào tôm, cá ngoài sông. Bà gặp chị Siêu đã mát mẻ mỉa mai:

- Sướng nhé, có con gái gả cho Mỹ rồi tha hồ mà hưởng quà đế quốc Mỹ. Nhưng con gái tôi thì không thèm đâu, thà ở làng quê này đi cào cá cào tôm như cha mẹ nó, tuy nghèo mà có tình quê hương, chẳng phải lệ thuộc thằng nước ngoài nào cả.

Chị Siêu nén giận cười gượng:

- Vâng, mỗi người một hoàn cảnh. Chúng tôi có dám mơ ước cho con gái lấy Mỹ bao giờ đâu, chẳng qua bác nó ở Mỹ muốn giúp đỡ …

Lạc được tòa lãnh sự Mỹ gọi phỏng vấn và bị từ chối. Thời điểm này chính phủ Mỹ khám phá ra mấy vụ người Việt Nam và người Mỹ bản xứ kết hôn với người bên Việt Nam là “dịch vụ” lấy tiền để đưa người từ Việt Nam nhập cư vào Mỹ nên họ nghi ngờ và cho “rớt” khá nhiều.

Anh chị Siêu và Lạc lo lắm, Lạc không đi Mỹ được thì dân làng lại có đề tài mà mỉa mai châm chọc thêm cho đáng đời kẻ ham muốn gả con cho giặc Mỹ, chứ chắc gì họ buông tha?

Ông Richard đã làm đơn khiếu nại, gởi bổ sung thêm những chứng cớ cần thiết và Mỹ phỏng vấn Lạc lần thứ hai đã chấp nhận hồ sơ cho Lạc được đi Mỹ đoàn tụ với chồng.

Anh chị Siêu mừng rối rít, gọi điện hỏi thăm anh Chu là ông Richard đã “chạy” đường dây nào mà hay thế? Tốn phí hết bao nhiêu tiền?

Tội nghiệp anh chị Siêu, từ cha sinh mẹ đẻ quen bị hà hiếp, bóc lột, quen phải hối lộ cho chính quyền từ phường xã tới quận huyện, từ việc lớn đến việc nhỏ, và vì trình độ văn hóa thấp, chỉ quanh quẩn ở làng quê không biết gì ngoài ruộng lúa và lũy tre làng, nên ngây thơ hồn nhiên tưởng ở bất cứ nơi đâu trên thế gian này cũng ăn hối lộ tận tình như quê hương Việt Nam mình.

Anh Chu kể rằng ông Richrd chẳng chạy chọt đường dây nào cả, khi có đầy đủ chứng cớ thì Mỹ phải chấp nhận cho đi. Ngoài ra anh Chu còn kể thêm có những hồ sơ bảo lãnh đã được phỏng vấn và chấp thuận mà người bên Việt Nam vì lý do gì đó chưa muốn đi Mỹ nên chần chờ chẳng tiến hành thêm gì cả, hàng năm sở di trú vẫn gởi giấy nhắc nhở họ có muốn đi Mỹ thì làm tiếp một hai bước thủ tục sau cùng. Vẫn không có trả lời dứt khoát, cuối cùng sở di trú phải gởi cho người bên Việt Nam một “tối hậu thư” hỏi có muốn đi Mỹ hay không? Nếu không thì lần này Mỹ sẽ đóng hồ sơ.

Anh chị Siêu kinh ngạc quá, ai đời quyền lợi của họ, họ không hưởng thì thôi, việc gì Mỹ phải nhắc nhở họ và hỏi đi hỏi lại mãi thế? Ở Việt Nam, có mà cầu cạnh, đút lót cả đống tiền chưa chắc mua được sự việc như ý, dù mình có cả tỷ lý do vô cùng chính đáng.

Lạc đi Mỹ được hai năm thì tiền bắt đầu gởi về cho cha mẹ xây sửa nhà cửa, vì Lạc đã đi làm nail nên có tiền riêng tha hồ gởi giúp gia đình, người chồng Mỹ của Lạc, với đồng lương sung túc của mình, chỉ cần Lạc đẻ cho ông một hai đứa con và chung thủy suốt đời là hạnh phúc rồi.

Hàng xóm họ hàng càng bàn tán, càng vu khống nhiều hơn, dù chị Siêu đã mang ra khoe với họ những tấm hình vợ chồng Lạc và 1 đứa con của họ.

- Tiền gởi về cho bố mẹ nhiều thế này đích thực là tiền làm gái mà ra chứ của đâu sẵn thế?

- Ừ nhỉ, làm gì mà ra tiền nhanh thế nhỉ?

- Nhưng bà Siêu có khoe hình con Lạc chụp với thằng chồng Mỹ, cái thằng đã về làng cưới nó hẳn hòi mà.

Một bà gạt phăng:

- Ối giời ôi, thằng Mỹ nào trông cũng giống nhau, có khi là thằng chồng thứ bao nhiêu rồi đấy?

Những lời gièm pha này lại cố tình đến tai vợ chồng anh Siêu. Nghe những lời ganh tị mấy năm nay anh chị đã quen tai, nhưng anh chị cũng đã thấy vài kẻ trong làng thèm thuồng được như anh chị lắm, khi họ ghé vào thăm ngôi nhà 3 tầng khang trang mới xây trên cái nền đất của căn nhà xộc xệch cũ, khi họ nhìn những tấm hình Lạc đẹp đẽ từ Mỹ gởi về, và thấy cuộc sống vật chất nhà anh Siêu thong thả hẳn ra.

Một người họ hàng bên vợ anh Siêu, ở tận Hà Nội, nhà giàu có, con cái đứa thì bằng cấp đại học, đứa đang chuẩn bị thi vào đại học, mà còn mong ước gả cô con gái lớn cho người Mỹ, các em thì không thèm du học ở Anh, Úc, Canada, mà chỉ thích Mỹ.

Xưa nay anh chị Siêu mấy lần có dịp lên Hà Nội nào dám bén mảng tới nhà họ chơi, vì khảng cách giàu nghèo và trình độ, nhưng từ dạo Lạc đi Mỹ, từ dạo nhà anh Siêu xây to nhất làng, thì chính người họ hàng đó đã vồn vã mời chào, nhờ thế anh Siêu mới biết được những tâm tư khát khao của gia đình họ và của nhiều người dân thành thị, người ta không còn căm thù người Mỹ nữa, giới trẻ đua nhau học tiếng Mỹ, các nhà khá giả còn cho trẻ con học tiếng Mỹ từ thuở vỡ lòng song song với tiếng Việt, các cửa hàng, dịch vụ trên phố xá từ Hà Nội đến Sài Gòn, đến các thành phố lớn nhỏ khác đều kèm theo tiếng Mỹ, con gái Việt Nam nhiều người lấy chồng Mỹ rồi, và nhờ thế anh chị Siêu mới vơi bớt mặc cảm tội lỗi gả con cho giặc Mỹ mà một số dân làng An Bình đã ganh tị và ác cảm đổ cho anh chị.

Qua con gái anh chị Siêu đã biết được một nước Mỹ tự do dân chủ, cuộc sống thoải mái..

Lạc kể mua cái ti vi về coi mấy tuần thấy không vừa ý đã đem trả lại tiệm, hay đơn giản có lần Lạc mua một cây Lê trong chợ Mỹ về nhà trồng, cây bị chết sau đó, Lạc đã gọi phone than phiền với chủ tiệm, vây mà người ta xin lỗi và mời cô đến chọn lại cây lê khác, dĩ nhiên là không phải trả tiền lần nữa và họ cũng không cần Lạc mang bằng chứng cây lê đã bị khô chết kia.

Thật là trung thực, tin cậy lẫn nhau, một xã hội có cuộc sống, có nếp suy nghĩ như thế không biết đến đời kiếp nào Việt Nam mới bắt chước được?

Ở Việt Nam người ta mua gian bán lận, làm hàng giả, lừa đảo khách hàng vì lợi nhuận, vì lòng tham sao cho đầy túi, làm gì có chuyện mua hàng về nhà xài rồi đem trả lại? Chúng đã không đổi cho mà còn mắng chửi té tát vào mặt. Ngay như mua vàng hôm trước, hôm sau mang ra chính tiệm ấy bán lại, chúng cũng kiếm cách ăn chận, nào là hôm nay vàng vừa mới xuống giá, nào là vàng… hao hụt, để trả giá rẻ, để lời nhiều.

Hàng hóa giả, còn có cả bằng cấp rổm nữa, những anh chị y tá có công với đảng được “đề bạt” học bổ túc chuyên môn là trở thành bác sĩ, hay con ông cháu cha học hành thì ít ăn chơi thì nhiều nhưng chạy chọt vào trường Y khoa, cũng ra trường bác sĩ như ai dù kiến thức thì chẳng bằng ai. Nên các bệnh nhân ở Việt Nam gặp nhiều ‘biến cố” chết người không có gì làm lạ.

Những chuyện đời thường của nước Mỹ mà nghe xong anh Chị Siêu còn giật mình không muốn tin, nếu không do chính con gái anh chị kể ra thì chắc chắn anh chị cho là bịa đặt, là chuyện hoang đường trên trời rơi xuống.

Anh chị dần dần cảm mến nước Mỹ, những nước thuộc thế giới tự do họ có lý tưởng của họ trong chiến tranh, Mỹ có căm thù gì dân Việt Nam đâu mà tàn ác giết hại dân Việt Nam?.

Anh chị thương thằng con rể Mỹ, nó hiền hòa, trung thực, nó đã đổi đời cho Lạc, thương yêu chiều chuộng con gái anh, đối xử tốt với gia đình nhà vợ. Người xấu người tốt ở đâu cũng có, cũng tùy người..

Anh Siêu thấy xấu hổ khi nhớ lại ngày xưa anh đã căm thù đế quốc Mỹ, hình ảnh những người lính Mỹ là tàn ác, ghê gớm, là gieo rắc đau thương cho xóm làng, nhân dân Việt Nam. Anh đã đăng ký đi bộ đội sớm, khi chưa đủ tuổi để mong tiêu diệt kẻ thù, bằng chứng là tấm giấy khen công anh hùng diệt Mỹ của anh vẫn còn kia, vì anh đã cùng vài người khác tóm cổ được một lính Mỹ đi lạc trong rừng.

Năm ấy anh Siêu mới 18 tuổi, cái tuổi trẻ mới lớn dễ tin người, tin đời. Anh hãnh diện nghĩ mình đã lập được công trạng cho đất nước, cho đồng bào.

***

Ngày anh chị Siêu mong chờ cũng đã đến. Từ Mỹ vợ chồng Lạc và đứa con về thăm làng An Bình.

Anh chị thuê chiếc xe tải nhỏ ra phi trường Nội Bài đón con cháu.

Xe về làng, về nhà, mấy va ly, mấy thùng qùa Mỹ được mở ra, mùi thơm thơm lạ lùng từ một phương trời xa mà cả đời anh chị Siêu chưa được biết đến. Anh chị hoa mắt sung sướng với đủ những món qùa anh chị Siêu đã dặn con gái mua cho, nào kính mát, áo vét cho anh Siêu, nào áo khoác ấm cho chị Siêu, vì mùa Đông miền Bắc dài và lạnh, rồi quà cho các em, họ hàng chú bác, đến hàng xóm láng giềng ít nhất cũng được cục xà bông hay bịch kẹo “sô cô la”, cũng được hưởng mùi qùa Mỹ.

Lần này thì dân làng tận mắt thấy mặt chồng Lạc, vẫn là ông Mỹ cách đây 3 năm. Có khác chăng là bây giờ ông Richard biết nói những câu tiếng Việt thông dụng, ai hỏi thì ông vui vẻ và thân thiện trả lời, giọng nói âm hưởng Mỹ nhưng tiếng Việt Nam ngọng ngịu của ông Richard làm mọi người cười vui. Họ không thấy ở ông Richard một chút nào hình ảnh thằng giặc Mỹ tàn ác thời chiến tranh mà họ đã nghe qua sự tuyên truyền của đảng vẫn còn ít nhiều trong tâm tư họ nữa.

Lạc thì đổi mới hẳn ra, đẹp xinh với quần áo lụa là sang trọng, không phải là cô Lạc nhếch nhác quần đen ngắn lấc cấc với áo vải ngày nào. Còn đứa con gái của họ vừa có nét thùy mị Việt Nam vừa có nét phương tây mạnh mẽ trông thật dễ thương.

Chị Siêu mang quà của con gái đi biếu hầu như cả làng, đến nhà bà Cào, chị hơi e dè, sợ lại phải nghe những lời mỉa mai. Nhưng lạ chưa, bà Cào đã nắm tay chị Siêu, nói với tất cả niềm chân tình và rất lịch sự:

- Tôi cám ơn chị và cháu lắm. Nhờ chị nói với cô Lạc rằng về Mỹ xem có anh Mỹ nào thì làm mai cho con gái tôi với nhé, tôi còn hai đứa con gái chưa lấy chồng đây. Khổ quá, con lớn nhà tôi lấy chồng cùng thời với cô Lạc, tưởng ở lại làng để làm nghề cào lưới tôm cá cũng đủ sống rồi, ai ngờ khốn khổ chị ơi, bữa đói bữa no. Thà cứ gả quách cho giặc Mỹ… ấy chết, xin lỗi chị tôi cứ quen mồm, thà cứ gả quách cho người Mỹ như cô Lạc nhà chị mà sướng tấm thân và cả nhà được nhờ.

- Vâng, để em bảo cháu. Nhưng chẳng phải dễ đâu, bác nó ở Hà Nội có con gái vừa đẹp vừa học giỏi cũng đang kiếm chồng Mỹ cho con để xuất ngoại đổi đời mà chưa có đám nào.

Bà Cào nài nỉ:

- Thì tôi cứ dặn phòng xa thế, may ra có duyên nợ thì gặp. Chị nhớ nhé?

Chị Siêu về nhà thấy hả hê nhẹ cả lòng, bà Cào là người đanh đá mồm miệng nhất làng mà đã chịu xuống nước, nhìn vào sự thật như thế thì từ đây cả làng cũng sẽ nguôi ngoai, không ai có lý do gì để động chạm đến việc Lạc lấy chồng Mỹ, hay kết tội anh chị gả con cho giặc Mỹ nữa..

Gia đình Lạc ở làng quê An Bình chơi 4 tuần, ông Richard theo vợ đi chơi khắp làng, đến thăm họ hàng, hàng xóm. Đến nhà nào ông Richard cũng chào hỏi tử tế bằng mấy câu Việt Nam thấy mà thương.

Đến ngày trở về Mỹ, chiếc xe tải nhỏ lại được thuê chở khách Việt Kiều ra phi trường Nội Bài.

Anh chị Siêu kể cho họ hàng và những nhà hàng xóm thân rằng sang năm Lạc có quốc tịch Mỹ và sẽ làm đơn bảo lãnh cha mẹ sang Mỹ định cư.

Tin này đã nhanh chóng lan ra cả làng, ai cũng nói là vài năm nữa cả nhà anh Siêu sẽ sang Mỹ đoàn tụ với con gái. Cái nhà ấy có phước to.

Có người thật tình, có người vì tò mò đến nhà anh Siêu chơi để nghe thêm chuyện. Họ thấy trên tường, nơi phòng khách trang trọng nhất, nơi mà từ hồi căn nhà cũ, trên vách tường cũ vẫn treo tấm giấy khen “Anh hùng diệt Mỹ” đóng khung, lồng kính và đã bạc màu hoen ố theo thời gian của anh Siêu không còn nữa, mà thay thế vào là khung hình mới tinh, trên bức tường cũng mới tinh, hình gia đình cô Lạc, cô với người chồng Mỹ và đứa con gái của họ, thật là đẹp và hạnh phúc chứa chan.

          **

Chuyện Cũ… Có Thể Nào Quên

Nguyễn Ngọc Ngạn

Ðời người, ai cũng có những kỷ niệm, đau thương hay hạnh phúc. Kỷ niệm đôi khi chỉ thoáng qua, mờ nhạt như áng mây bay ngang bầu trời, để lại chút hình ảnh bâng khuâng. Nhưng cũng có khi hết sức sâu đậm, đến nỗi có thể coi là một biến cố, khả dĩ tạo thành khúc rẽ quan trọng cho cuộc đời. Ðó là trường hợp của tôi với câu chuyện xảy ra hơn 20 năm về trước mà giờ này ngồi ghi lại, tôi vẫn thấy hiển hiện như mới hôm qua…

Ngày ấy, miền Nam vừa đổi chủ được 3 năm, tình hình chính trị còn cực kỳ khắt khe. Tôi ở trại cải tạo, cầm tờ giấy tha vào giữa năm 78, về trình diện Sở Giáo Dục Thành Phố cho đúng thủ tục, dù biết trước sẽ không được thu nhận trở lại nghề cũ. Không có nghề nghiệp biên chế, tôi chỉ được tạm trú 3 tháng tại Sàigòn để thu xếp đi vùng kinh tế mới.

Thời gian này, miền Nam đang lên cơn sốt về phong trào vượt biên tìm tự do. Những người ở vào hoàn cảnh của tôi, bị công an khu vực theo dõi thường xuyên thì lại càng nôn nóng kiếm đường bỏ trốn. Những người bạn tù chúng tôi ngày ngày đôn đáo gặp nhau, đề tài chính đem ra bàn bạc chỉ xoay quanh một chuyện duy nhất là vượt biên.

Thời gian trôi quá nhanh, trong nháy mắt đã hết hạn tạm trú, tôi trở thành kẻ sống lậu không hộ khẩu tại thành phố. Giữa lúc lao đao tuyệt vọng, không biết ngày nào bất ngờ bị bắt lại, thì một hôm em trai tôi giới thiệu cho tôi một đầu cầu quý giá: đó là ông Ân, một người đàn ông trí thức, tuổi vừa 50, tính tình hiền hoà và đứng đắn. Ông là nhân viên lâu đời của cơ quan viện trợ Hoa Kỳ trước 75, đồng thời góp phần chuyển âm Anh-Pháp cho hãng phim Cosunam ở Sàigòn.

Vì làm ăn chung với em tôi từ sau 75, nên ông có lòng tốt rủ em tôi cùng đi với ông trong chuyến vượt biển bán chính thức vốn dành riêng cho người Hoa đang rầm rộ đăng ký lúc đọ Thông cảm hoàn cảnh bấp bênh của tôi, em tôi giới thiệu tôi với ông, để xem ông có giúp gì được tôi chăng? Ði bán chính thức lúc ấy đắt tiền lắm, vì đang là những đợt đầu Có người nộp tới 12 hoặc 14 cây vàng, vì phải qua nhiều trung gian. Còn giá trung bình thì ít ra cũng phải 10 lượng một người. Tôi mới ở tù ra, làm gì có số tiền khổng lồ ấy!

Bà xã tôi bận con nhỏ – khi tôi đi tù thì cháu mới hơn một tuổi – cho nên chỉ buôn bán vớ vẩn, đủ nuôi con và tiếp tế cho chồng là giỏi lắm rồi. Số vốn ít ỏi của vợ tôi lại cứ vơi dần sau mấy chuyến đi chui bất thành. Con đường bán chính thức mua vé bằng cả chục lượng vàng, là điều vượt quá sự kỳ vọng của tôi, trừ khi có một phép lạ! Vậy mà phép lạ dường như đang xảy đến!

Hôm ấy, một buổi tối khoảng đầu tháng 11, gia đình em tôi đưa tôi lại quán bò bảy món Duyên Mai bên Chi Lăng, để gặp ông Ân lần đầu tiên. Tôi lúc này đang trốn chui trốn nhủi vì đã hết hạn nộp hộ khẩu từ lâu, phải xoay đủ mọi thứ giấy tờ lao động để qua mặt công an khu vực, nấn ná lưu lại thành phố được ngày nào hay ngày nấy. Trước năm 75, tôi có dạy một ít giờ tại 2 trường tư thục Công giáo là trung học Quang Minh ở nhà thờ Vinh Sơn đường Trần Quốc Toản, và trung học Saint Thomas trên đường Trương Minh Giảng. Khi tôi ở trại cải tạo về, công an có gọi tôi ra và thẩm vấn về quan hệ của tôi với hai vị linh mục này. Có thể đó chỉ là những câu hỏi thủ tục về lý lịch, nhưng cũng làm tôi hết sức lo sợ, bởi xã hội không có luật pháp rõ ràng. Một khi công an nghi ngờ, thì sớm muộn gì cũng vào tù. Bởi vậy, tôi càng nôn nóng muốn trốn đi.

Tối hôm ấy, gặp ông Ân ở nhà hàng, tôi bàng hoàng xúc động khi ông cho biết ông sẵn lòng đóng tiền cho vợ chồng tôi đi cùng chuyến với ông và em tôi. Nghĩa là ông cho tôi vay 20 lượng vàng, qua Mỹ đi làm trả lại. Vợ chồng tôi chỉ cần góp 5 lượng cho đứa con mà thôi! Tôi như người đi trên mây, buồn ngủ gặp chiếu manh, không ngờ đời mình có lúc gặp quý nhân dễ dàng như thế này! Dĩ nhiên, qua trung gian em trai tôi, ông Ân mới dám tin là tôi sẽ trả ông sau khi đến Hoa Kỳ. Nhưng dù sao đi nữa, việc ông giúp một người xa lạ như tôi, trong hoàn cảnh này, phải coi là một phép lạ mà tôi không mường tượng trước được, nhất là ở thời kỳ gạo châu củi quế năm 78. Bà Ân ngồi cạnh chồng chỉ cười hiền hoà không có ý kiến gi. Lúc đó bà 39 tuổi, thua chồng hơn 10 tuổi. Sáu đứa con, đứa nào cũng xinh xắn và ngoan hiền. Sau đó, tôi còn được biết thêm. Ông Ân cho tới 18 người vay tiền đi, tổng cộng là gần 200 lượng vàng!

Những ngày hồi hộp trôi qua rất chậm, tôi nôn nóng chỉ sợ chuyện bất trắc xẩy ra trước khi lên đường. Tôi vẫn hăng hái tham gia công tác thủy lợi tại địa phương, hoặc tự nguyện dạy lớp bổ túc văn hoá ban đêm trong tổ dân phố, để tránh sự chú ý của công an khu vực. Song song với những việc đó, tôi âm thầm mua giấy tờ, lấy tên giả, học nói dăm câu tiếng Hoa, và cuối cùng ra đi vào một ngày cuối năm khi sóng biển đang gầm thét dữ dội ngoài khơi.

Khi những chiếc ghe nhỏ đưa người ra thuyền lớn ở Kiến Hoà, thì một chuyện bất ngờ xảy ra: công an cùng với chủ ghe đọc danh sách lên tầu, và quyết định bỏ lại 17 người đã đóng tiền, trong đó có toàn bộ gia đình em trai tôi gồm 4 người. Em trai tôi là người giới thiệu tôi đi, vậy mà phút chót lại bị ở lại! Tôi lên tầu, hết sức hoang mang, ngờ ngợ linh cảm trước là sẽ có chuyện chẳng lành trên cuộc hành trình đầy sóng gió sắp tới.

Tầu đi bán chính thức chỉ được một lợi thế là không sợ bị bắt ở bến hẹn, nhưng luôn luôn chở quá trọng tải, có chuyến vừa ra tới cửa biển đã chìm. Chiếc thuyền gỗ tôi đi nom rất mong manh, mà chủ tầu và công an chất lên tới hơn 300 người, cố nhét càng nhiều càng tốt để thu vàng tối đa. Họ gạch tên bỏ lại 17 người, để thay vào bằng những hành khách khác bằng lòng nộp nhiều vàng hơn.

Ðây là loại tầu đánh cá có hầm chứa nước đá để ướp cá, bây giờ được dọn sạch để đưa người vượt biển. Hơn 100 nguời đàn ông chúng tôi bị dồn xuống hầm, cấm không được leo lên, và chỉ có mỗi cái cửa vuông ở giữa tầu để ngày ngày bên trên ném thức ăn xuống. Ðàn bà con nít thì được ngồi ở tầng trên cùng với thân nhân của chủ tầu và tài công. Có nghĩa là từ lúc bước chân xuống tầu, tôi không được liên lạc với vợ con nữa.

Tôi không biết, trong số hơn 100 người đàn ông ngồi dưới hầm tầu, có bao nhiêu người Việt; chỉ nghe tiếng chuyện vãn chung quanh toàn là tiếng Hoa. Ông Ân với 3 cậu con trai tuổi từ 14 tới 18, ngồi dưới hầm bên cạnh tôi. Vợ ông cùng cô con gái đầu lòng 19 tuổi, đứa áp út 13 và đứa con út 3 tuổi ở trên boong cùng với vợ con tôi.

Vì là người Việt, không dám tranh cãi với đại đa số người Hoa, chúng tôi bị dồn vào cuối hầm tầu, ngồi chịu trận tại chỗ, nước lúc nào cũng ngập từ thắt lưng trở xuống, và có khi lên tới ngực. Thức ăn cũng ít khi đến lượt mình, vì những người ngồi gần cửa lấy hết, lâu lâu mới quẳng vô phía chúng tôi cái bánh tét hay ổ bánh mì đã cứng như thanh củi. Tuy vậy, ai cũng tự an ủi là cuộc hành trình sẽ không lâu, cố gắng chịu đựng vài ngày là tới bến, tha hồ thong dong.

Sang đến ngày thứ tư, rồi thứ năm, tất cả đều mệt mỏi vì con thuyền nhỏ bị sóng nhồi liên tục. Nước biển rỉ vào hầm tầu mỗi lúc một nhiều hơn, mà chẳng ai buồn múc từng thùng đổ ra ngoài như hai hôm đầu. Chỗ tôi ngồi càng ngày càng thê thảm hơn. Nước ngập tới ngực, mà rác rến lại nổi lềnh bềnh chung quanh, lá bánh chưng bánh tét, vỏ quýt, vỏ bưởi cùng các thứ linh tinh không tên, trôi vật vờ, chẳng ai thèm vớt mà đem quăng xuống biển.

Vì quá chật chội, di chuyển rất khó khăn, nên ai cũng ngồi lì tại chỗ, đứng lên không nổi, đi tiểu luôn chỗ mình ngồi cho tiện. Trong hầm tầu, chúng tôi mất hết ý niệm thời gian, không gian ngày hay đêm, cũng chẳng biết tầu đang chạy hay đứng tại chỗ.

Ðến ngày thứ năm, vì nóng bức quá, có người ngộp thở ngất xỉu dưới hầm, tài công mới cho khoét một cái lỗ vuông mỗi bề hơn một gang tay ngay trên đầu tôi, nghĩa là phía dưới tầu, để lấy không khí từ trên lùa xuống cho hơn 100 người phía dưới. Vị ân nhân của tôi, ông Ân và các con, lúc đầu còn nói chuyện với tôi, sau mệt quá, ai cũng nhắm mắt dựa vào nhau mà sống cho qua cuộc hành trình dài lê thê.

Bước sang ngày thứ bảy, buổi sáng tinh mơ, chắc chưa đến 6 giờ, tôi đang thiu thiu ngủ, thì nghe có tiếng gọi nhỏ:

- Anh Ngạn, Anh Ngạn ơi!

Tôi giật mình ngơ ngác ngước nhìn lên, thì thấy bà xã tôi thò mặt qua cái lô thông hơi để tìm tôi. Tôi không nhận ra mặt vợ tôi vì trời còn tối thẳm, nhưng nhờ giọng nói tôi biết vợ tôi cần gặp tôi có chuyện khẩn cấp. Tôi hồi hộp tìm cách đứng dậy. Tàu chật ních, lại thêm đã gần một tuần ngồi một chỗ, hai chân tê cứng dưới lớp nước mặn, tôi loanh quanh khá lâu mới đứng lên được. May cho tôi là quanh tôi mọi người còn đang ngủ cả. Chứ nếu họ thức thì tôi khó lòng di chuyển, vì họ sẽ lôi lại và dí đầu tôi bắt ngồi xuống. Bà xã tôi giục nho nhỏ:

- Lên đi anh! Lên đại đi! Chui lỗ thông hơi này lên đi!

Tôi lo lắng nhìn quanh. Lúc ấy tôi còn gầy yếu lắm. Thời gian ở trại cải tạo bị sốt rét nặng, kéo dài 21 ngày, bước đi phải nhờ người vịn, bạn bè cùng tổ cứ tưởng tôi là sắp phải đem tôi đi chôn trên đồi tranh ở Bù Gia Mập. Giờ này vượt biển, tôi vẫn chưa lại sức, mới chỉ lên cân được chút ít. Nhà tôi lại bảo:

- Ðêm qua bão lớn. Cái áo của con bị rách tung rồi bay mất. Nó phải cởi trần cả đêm lạnh tím cả ngườị Anh lên một chút đi!

Nghe nhắc đến đứa con hơn 4 tuổi, tôi vùng đứng lên, bước đại qua vài người đang ngồi ngủ, rồi chui liền lên, cái lỗ nhỏ, phải lách người khó khăn, làm trầy sứt cả hai vai, nhưng tôi không có cảm giác gì lúc đó. Từ hôm lên tầu, tôi vẫn mặc cái jacket nylon của Không Quân ngày trước và chiếc quần tây màu vàng đục. Lúc ngồi, dĩ nhiên phải cởi hết nút quần, kéo fermeture xuống cho thoải mái. Bâygiờ đứng dậy, vội vã dùng hai tay đu lên khỏi hầm tầu, có người nào đó đã nắm ống quần tôi kéo lại, làm tôi chỉ còn mỗi cái quần đùi khi lên tới tầng trên. Trời mưa không nặng hạt lắm, nhưng gió biển thổi phần phật trong không gian mờ tối. Tôi cúi xuống ôm đứa con đang run cằm cặp. Nhà tôi ưu tư bảo:

- Tầu sắp đắm mất, anh ạ!

Tôi đảo mắt nhìn quanh sau sáu ngày bảy đêm chui trong bóng tối dưới hầm. Chỉ một phút sau, tôi nhận ra ngay là mình sắp chết! Vợ tôi nói đúng. Là bởi vì, khi ở dưới hầm, tôi cứ tưởng tầu đang chạỵ Hoá ra tầu bị bỏ neo đậu tại chỗ suốt cả đêm rồi, mặc cho gió mưa và sóng dữ cuối năm vùi dập. Tuy cùng ở trên tầu, nhưng những tin tức bên trên không được thông báo cho người dưới hầm biết, sợ gây cảnh náo loạn, dẵm đạp lên nhau. Bởi vậy, tôi hoàn toàn không biết gì cả, cho đến bây giờ leo lên mới thấy kinh hoàng,

Tôi nhìn lại phía buồng máy. Một cảnh tượng hãi hùng và thê lương: không có tài công, không có người phụ máy. Chiếc tầu không người lái cứ bập bềnh nghiêng ngửa theo từng đợt sóng khổng lồ đưa vào, đẩy ra, phó mặc sinh mạng mấy trăm người cho đại dương. Với sức sóng như thế này, tôi biết chắc tầu sắp vở. Ðàn bà con nít, nguời đứng người ngồi lố nhố, quên cả cái ướt lạnh, nhớn nhác hỏi nhau, không biết phải làm gì trong hoàn cảnh tuyệt vọng nàỵ Bà xã tôi bảo:

- Tài công bỏ tầu từ nửa đêm rồi!

Bấy giờ tôi mới hiểu đầu đuôi câu chuyện. Ðêm qua, khi thuyền chúng tôi vào còn cách bờ Mã Lai khoảng nửa cây số, thì có tầu cảnh sát Mã Lai ra đuổi. Rồi họ dựng mấy cây đại liên và đèn pha trên bờ bắn ra xối xa. Mười mấy người tài công cùng với thân nhân chủ ghe đeo phao nhảy xuống bơi vào, nói là để điều đình rồi sẽ ra đưa tầu vô. Nhưng rồi họ đi luôn, không ai trở lại! Người ngoài khơi cứ đợi. Người đã lên bờ thì bỏ mặc. Ðàn bà con nít trên boong không ai biết lái tầu. Hơn 100 người ngồi dưới hầm thì tưởng tầu vẫn đang chạy bình thường! Tôi biết mình sắp chết, nhưng cố làm ra vẻ bình tĩnh bảo con tôi:

- Con ơi! Ðằng nào tầu cũng sắp chìm. Bây giờ con ôm lấy cổ ba, để ba nhảy xuống biển khơi, bơi vào…

Tôi không biết bơi. Mà có biết thì cũng không còn sức, bởi bờ ở quá xa, tôi cố nhướng mắt nhìn mà chỉ thấy lờ mờ trong mưa. Ðứa con trai hơn 4 tuổi, quấn chiếc khăn quanh người ướt đẫm từ đầu xuống chân, run lẩy bẩy nhìn tôi im lặng gật đầu. Dường như nó cũng linh cảm thấy chuyện chẳng lành sắp đến, cho nên chỉ nhìn tôi chia sẻ. Quanh tôi, có vài cái bình nylon đựng nước ngọt đã uống hết, nằm lăn lốc trên sàn. Tôi nắm bàn tay lạnh ngắt của vợ tôi và bảo:

- Em lấy cái bình nylon, ôm vào người rồi nhảy xuống. May ra sóng đánh vào bờ! Thà nhẩy xuống trước, chứ để tầu vỡ thì khó lòng mà sống được, vì cả trăm người sẽ níu chặt lấy nhau và cùng chết hết!

Vợ tôi nhìn tôi bằng ánh mắt ly biệt, đưa tay làm dấu đọc kinh. Tôi và con trai tôi cũng làm dấu Thánh giá và cầu xin Chúa che chở trong cơn nguy khốn. Tôi vừa đưa cho vợ tôi cái bình nylon, chưa kịp nói gì thêm thì một đợt sóng vĩ đại ấp tới, làm chiếc tầu lật ngang, vỡ tung buồng lái ở tầng trên. Tiếng người đồng thanh kêu rú lên, bị tiếng gầm của sóng át đi Buồng máy, kính cửa sổ, mui tầu, mái gỗ bọc tôn và bao nhiêu thứ ngổn ngang trên tầu đều rụng hết xuống biển, kéo theo quá nửa hành khách gồm đàn bà và trẻ em. Tôi té lăn trên sàn tầu trong khối nước mặn khổng lồ vừa ập tới, đôi tay quờ quạng bám víu bất cứ thứ gì để sống còn. Từ giây phút ấy, tôi không còn nhìn lại được vợ tôi lần nào nữa!

Ðứa con tôi cũng vuột khỏi tay tôi và văng xuống biển. Tôi níu được một sợi giây nào đó trên tầu, nên chỉ bị văng mất đôi mắt kính chứ chưa rơi hẳn xuống nước. Nhưng ngay sau đó, tôi chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp đứng vững thì lớp sóng khổng lồ vừa đẩy vô bờ, lại rút ra mạnh hơn, làm tầu lật ngang một lần nữa ra phía ngoài, và lần này trên boong tầu không còn sót lại một ai. Tất cả đều rụng xuống biển. Những lớp ván, lớp kính và những gì chưa vỡ qua đợt sóng trước, lần này tan tành hết. Nhưng đau đớn hơn cả là chiều tầu chìm dần xuống đáy biển mà hầm tầu lại chưa bể, cho nên hơn 100 người đàn ông ngồi với tôi suốt tuần lễ vừa qua, đều chết ngộp hết trong hầm, trong đó có cả cha con ông Ân, người đã đóng tiền cho gia đình tôi đi!

Tôi rớt xuống biển, cố gắng vùng vẫy theo bản năng sinh tồn, mặc dầu không biết bơi. Trên mặt biển bao la, sóng nhồi khủng khiếp, tôi thấy từng mảng gỗ thật lớn của ván tầu, rồi thùng phuy, va li, nồi niêu, áo quần, thùng gạo và hàng chục thứ đồ lặt vặt khác trôi nổi theo triền sóng, đôi khi lao vào mặt mình. Ðàn bà con nít ngụp lên lặn xuống, bám lấy nhau mà cùng chết. Tôi uống no nước, chìm sâu xuống, đụng phải bao nhiêu xác người còn bấu chặt không rời nhau. Tôi nín hơi ngoi lên được một chút để thở, rồi lại bị sóng cuốn đi không định được phương hướng. Là người Công giáo trong lúc lâm chung, tôi cố gắng đọc kinh sám hối để chuẩn bị lìa đời. Ðọc kinh, nhưng không cầm trí tập trung được…

Tôi uất ức lắm, bởi thấy mình chết tức tưởi ở tuổi 32 sau khi đã kinh qua bao nhiêu năm gian khổ. Ngày còn trong quân đội, mấy năm tác chiến, tôi đã kề cận tử thần mà tại sao không chết ngay trên chiến trường cho xong? Tôi nhớ một lần khi ở trại cải tạo Sông Bé, tôi lại bị sốt rét nặng nề đến kiệt sức, tưởng không còn sống nổi tới ngày được tha về. Vậy mà cũng không sao! Tôi uất ức tự hỏi tại sao vượt biển gần đến nơi thì lại chết? Thế rồi tôi uống no nước, đuối sức không vùng vẫy nổi, đành buông xuôi tay chìm xuống đáy bể, không biết gì nữa!

Khi tôi tỉnh lại trên bờ, thấy mình nằm sấp trên đống xác chết ngổn ngang. Nước ộc từ trong bụng ra giúp tôi hồi sinh. Tôi mơ màng tưởng mình đang nằm chiêm baọ. Ðứa con trai 13 tuổi của ông Ân chạy lại lôi tôi dậy và nói:

- Chú Ngạn ơi! Tỉnh dậy! Tỉnh dậy! Ðắm tầu, chú Ngạn ơi!

Tôi ngơ ngác nhìn nó, chưa nhận ra ai bởi quá đuối sức và vì không có mắt kính. Thằng bé lay tôi và nhắc lại:

- Chú Ngạn ơi! Ðắm tầu! Ba cháu, chị cháu với ba người anh của cháu chết hết rồi! Vợ chú với con chú cũng chết cả rồi!

Tôi vùng đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh. Lính Mã Lai đang quây những gười sống sót vào gốc dừa. Họ cũng như tôi là những người được sóng đẩy vào bờ và may mắn thoát khỏi tử thần. Nhưng họ không được phép cứu những người bị ngộp nước như tôi. Nếu được cấp cứu, tôi tin chắc trong đám người nằm kia, ít lắm cũng có cả chục người sống dậy. Lính Mã Lai không cho cứu là bởi vì những kẻ xa lạ và bất nhân ấy đang lột quần áo người chết để lấy vàng và dollars giấu trong gấu quần, gấu áo, cổ áo, vạt áo. Moi của xong, họ lôi xác chết tập trung lại một chỗ chờ xe mang đi chôn tập thể. Tôi từ gốc dừa bò tới, tìm trong đám 97 cái xác, thấy con trai tôi đã chết hẳn. Tôi bế cháu lên và nhận ra ván tầu hoặc ghềnh đá đã đánh vỡ trán con tôi, còn để lại một vệt dài thật rõ. Còn vợ tôi thì sóng biển đánh trôi đi mất, không tìm dược xác!

Mọi chuyện diễn ra chỉ trong chớp nhoáng. Ngoài kia, biển vẫn ầm ầm gào hét, chỉ thấy sóng xô chập chùng, không còn dấu tích gì của chiếc thuyền định mệnh. Hôm sau, từ trại tạm cư, chúng tôi được đưa trở lại bãi biển, thả bộ dọc xuống hướng Thái Lan, tìm thêm được một số xác chết nữa, nhưng cũng không thấy vợ tôi. Tổng số 161 người chết, chỉ vào bờ được khoảng 100 cái xác, phần còn lại bị sóng đưa đi mất tích. Có hai nhà sư Mã Lai gốc Hoa đem vải và nhang đến làm lễ cầu siêu trước khi lính Mã Lai đem chôn tập thể.

Trên bãi biển Mã Lai dài thăm thẳm tôi dừng chân, ngồi dưới hàng dừa trông ra đại dương, nao nao mường tượng lại chặng đường đã qua. Nhớ những buổi sáng Chúa Nhật vợ tôi lên thăm ở Khu Tiếp Tân trường Bộ Binh Thủ Ðức. Rồi những lần từ thành phố xuống miền Tây chờ tôi ở hậu cứ Tiểu Đoàn. Khi sinh con đầu lòng, tôi từ đơn vị hành quân, không kịp thay quân phục, vội vã đón xe về thăm ở bảo sanh viện Ðức Chính trên đường Cao Thắng. Nhớ hơn nữa là những lần vợ tôi gánh quà nặng trĩu đi tiếp tế cho tôi trong trại cải tạo, băng ngang 17 cây số đường rừng từ thị xã Phước Bình vào Bù Gia Mập. Tất cả đều đã qua đi, chỉ còn lại mặt nước mênh mông xanh thẳm trước mặt, từng cuốn mất bao nhiêu xác người đồng hương trên hành trình tìm tự do!

Vợ tôi mất đi ở tuổi 26, sau những tháng ngày vất vả vì chồng. Lấy tôi khi tôi đã vào quân đội, thường xuyên xa nhà, vợ tôi cũng giống như bao nhiêu người đàn bà khác trong thời khói lửa, chẳng mấy khi được gần chồng. Khi tôi được biệt phái về lại Bộ Giáo Dục, dạy học tại Sàigòn, đã tưởng vợ chồng có thể sống đời dân sự yên ổn lâu dài, nào ngờ chỉ hơn một năm sau thì mất nước, bắt đầu cuộc sống mới lao đao gấp bội. Ðoạn đường trầm luân ấy, có ngờ đâu rút cuộc lại kết thúc bi thảm bằng cái chết trên đại dương cùng với đứa con đầu lòng hơn 4 tuổi!

Tôi tin chắc cái chết của vợ tôi đã làm thay đổi hẳn cuộc sống của tôi. Nếu nói theo niềm tin thiêng liêng, thì chính vợ tôi đã cứu tôi vào phút chót, trước khi đắm tầu. Bằng chứng là hơn 100 người đàn ông ngồi chung với tôi dưới hầm tầu đều chết cả vì ngộp nước. Em tôi – người giới thiệu tôi cho ông Ân – nếu đi cùng tôi chuyến ấy, chắc chắn cũng đã bỏ xác trên đại dương. Nhờ bị bỏ lại, nửa năm sau, em tôi cùng gia đình vượt biển thành công và gặp lại tôi tại Vancouver, Canada vào giữa năm 80. Bà Ân và hai đứa con nhỏ được sóng đánh vào bờ thoát chết, đi định cư ở Texas, tôi vẫn liên lạc cho đến khi trả xong 20 lượng vàng chồng bà cho tôi vay.

Biến cố hãi hùng của chuyến tầu định mệnh làm tôi càng vững tin rằng đời người có sự sắp đặt của định mệnh, hay nói theo đức tin Công giáo, thì đó là sự an bài của Thiên Chúa. Còn đó rồi mất đó! Kiếp người mong manh như chiếc bách giữa dòng, cho nên các cụ ngày xưa thường ví là cuộc phù thế nhân sinh. Vợ con tôi chết trước mặt tôi. Hơn 160 người chết ngay bên cạnh tôi. Mà một kẻ yếu đuối như tôi lại sống sót! Ðó phải là quyền năng của Thiên Chúa chưa muốn tôi lìa trần.

Lúc ngồi trên tầu, ông Ân thường tâm sự với tôi: những ngày gần mất nước, gia đình ông đã có thể đi Mỹ dễ dàng, bởi ông làm việc cho cơ quan viện trợ Hoa Kỳ suốt hai mươi năm. Nhưng ông thấy mình tuổi đã lớn, muốn ở lại quê nhà khi đất nước hết chiến chinh, nên ông từ khước quyền lợi di tản mà người Mỹ dành cho ông.

Ba năm sau, đất nước quá lầm than, mà chiến tranh vẫn không dứt. Các con ông chuẩn bị bước vào tuổi nghĩa vụ quân sự phục vụ cuộc xâm lăng Kampuchia, thúc đẩy ông phải ra đi. Năm 75 ông từ chối di tản bằng máy bay. Năm 78 ông phải trốn bằng thuyền, để rồi chính bản thân ông cùng với 4 đứa con lớn đều chết cả!

Có thể do những suy nghĩ về cuộc đời sau chuyến hải hành khủng khiếp mà tôi thoát nạn chỉ trong đường tơ kẽ tóc, tôi bắt đầu có những thay đổi lớn trong tâm tư. Tôi trở nên dễ tính, ít chấp nhất và không nuôi lòng thù ghét với bất cứ ai. Tôi tâm nguyện rằng cuộc đời mình, hễ làm được điều gì cho cộng đồng, cho xã hội, cho tha nhân, tôi đều cố gắng để đền đáp lại phép lạ của Chúa đã cứu tôi trên biển.

Những ngày trống vắng ở trại tỵ nạn Mã lai chờ đi định cư, tôi suy nghĩ nhiều về nửa thế kỷ trầm luân của đất nước, và nhận ra một điều đơn giản rằng: trong xã hội Việt Nam người đàn bà mới chính là thành phần chịu nhiều gian truân nhất, thời chiến tranh cũng như thời hậu chiến. Cảm thông cái thực tế chua xót ấy, cùng với nỗi nhớ thương người vợ mới mất, tôi bắt đầu viết truyện dài “Những người đàn bà còn ở lại” trong 3 tháng ở trại tạm cư. Cuốn sách đầu tiên ấy, tuy kỹ thuật chưa cao, nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc. Nó là bậc thềm thứ nhất, là nấc thang khởi đầu, để rồi từ đó đến nay tôi đã có được gần 30 tác phẩm xuất bản.

Hai mươi năm đã qua, trên mặt báo chí Việt ngữ, tôi chưa hề viết lại những dòng này để mô tả tỉ mỉ cái chết của vợ tôi với đứa con đầu lòng. Tuy vậy, từ thâm sâu, tôi vẫn tin chắc một điều rằng: chính cái chết của vợ tôi đã mở ra cho tôi một cánh cửa mới tôi chưa hề dự trù trong quá khứ. Ðó là thế giới văn chương mà tôi miệt mài theo đuổi cho đến hôm nay.

(Nguyễn Ngọc Ngạn)

              ***

 Quà tặng sau ngày “Giải Phóng”: Ghẻ Bộ Đội!

(Hồi Ức Thời Vừa Sau Chiến Tranh, Cơn Ngứa  Lịch Sử!)

Hồi ức chính biến 30/4, cũng còn nhiều hiện tượng "đặc biệt" xảy đến cho người miền Nam liền theo đó. Hi, đó là ghẻ và sốt rét rừng cũng tràn về thành phố!

Hồi đệ nhất CH, chính phủ đã mở chiến dịch Trần Tử Oai tảo thanh và phòng chặn bệnh sốt rét trên khắp miền Nam, với hiệu quả rõ rệt. Từ đó đến 30/4/75, dân Nam ít mắc bệnh này, nhất là ở đô thị.

Thế nhưng, những kẻ từ rừng vào đã mang theo mầm bệnh gieo rắc khắp nơi họ chiếm đóng. Sài gòn lâu giờ có nghe tới ai bị loài ký sinh trùng này vật chết đâu, vậy mà sau 30/4 dân chúng mắc bệnh rất nhiều. Thuốc men những ngày đầu còn đỡ, nhờ những kho dược của ngành Y tế VNCH để lại, những lọ chloroquine, nivaquine, quinine dán nhãn cờ vàng 3 sọc chưa hết date, đã cứu sống nhiều người, trong đó có tôi.

Nhưng ở nông thôn, nhất là các vùng kinh tế mới hoang vu lam chướng, dân chết như rạ. Bịnh tập trung nhiều vào lứa tuổi trẻ, những thanh niên. Bởi họ là thành phần phải gánh vác phần nhọc nhằn cơ cực nhất của những gia đình bị lưu đày ấy. Khai hoang, đốn cây, hái măng, rau dại trái rừng ăn cho đỡ đói, ngủ bụi nằm bờ.

Chẳng một phương tiện cơ giới nào cả, không áo giày bảo hộ gì ngoài tấm thân trơ trụi cùng dao rựa thủ công. Trong việc phải lăn lóc vào nơi rú rậm rắn rết mưu sinh, đó đây những đầu đạn thời khói lửa chưa kịp nổ còn ẩn mình phục kích dưới đất, rình chờ ai xấu số.....

Nhà cửa tạm bợ như những túp lều sơn cước, trống huơ tứ bề gió giằng mưa giật. Mùng mền cũ rách, đêm về muỗi mòng nhiều đến mức cứ huơ tay là nắm được. Tôi biết, dân kinh tế mới nằm nghẹt các "bệnh xá", chờ cơn sốt ác tính đến rước vào cõi hôn mê diện kiến tử thần. Đêm đêm, sáng sáng... những cánh võng do người chưa bịnh khiêng tấm thân còm xanh như lá của người đồng cảnh bạc phước ra bệnh xá, hoặc ra góc rú bìa rừng về với đất bao dung!

Và ghẻ!

Ghẻ như những mụn nước, chứa chất dịch trong trong gần giống nốt thủy đậu, mà khi đã lành vẫn còn lưu dấu kỷ niệm thâm đen dẳng dai bịn rịn, dân ghẹo nhau là da nạm kim cương, nhiều như cát sông Hằng, gọi là ghẻ Ruồi. Còn loại ghẻ lở loét như ổ gà toang hoác, đầy mủ vàng tanh, khi lành để lại sẹo to tướng, gọi là ghẻ Tàu.

Ghẻ cả hai loại, đồng loạt tấn công miền Nam như thể đã hiệp đồng chiến đấu cùng bên thắng cuộc xuống từ Trường sơn, nên bấy giờ dân nói lén với nhau là ghẻ bộ đội.

Ghẻ ruồi, như đạn nhọn bắn vãi trấu, găm lỗ chỗ rãi rác khắp thân thể  bịnh nhân, hoặc tập kết từng vạt mật độ dày như cơm cháy.

Ngứa, cha mẹ ơi, ngứa thấu tâm can xương tủy, ngứa đêm ngứa ngày, ngứa mọi lúc mọi nơi, ngứa lẻ tẻ du kích, ngứa chiến dịch, ngứa đồng khởi, ngứa tổng tiến công….

Ngứa khi đang cố nhọc nhằn dỗ giấc, ngứa lúc mồ hôi đẫm châu thân dưới nông trường nắng rang vạn vật.

Ngứa khi hì hục đạp xe trên phố bụi. Ngứa lúc gái trai đang hò hẹn tâm tình cố giữ lễ lịch sự. Ngứa khi con gái đứng trước mặt cha, lúc anh trai nói chuyện cùng em gái. Ngứa đang giờ cô giáo giảng bài trước học sinh, ngứa nhằm khi nữ sinh đang đứng trả bài cho thầy giáo.

Đó là giờ ngứa. Chỗ ngứa còn ác hơn. Binh chủng ghẻ Ruồi chuyên đặc công vùng xung yếu. Háng, đùi non, bụng dưới, mông, kẽ ngón... những chỗ non da ít rèn luyện phong trần lại dễ làm mục tiêu đột kích.

Binh chủng ghẻ Tàu kém tài luồn sâu đánh hiểm, nhưng giỏi biển người diện địa. Hỏa lực ghẻ Tàu không gây ngứa cuống cuồng như đặc công Ruồi, nhưng nóng rát và đau nhức hơn. Có lẽ nhờ hiệu dụng của vi trùng trong mảng mủ vàng làm sưng đau nóng đỏ, đủ hội chứng viêm. Nhiều khi chúng còn gây hiệu ứng lan tỏa ra xa, các hạch háng hạch nách cũng sưng đau khiến nạn nhân chiến cuộc cứ như người tàn tật, đi đứng liêu xiêu...

Cái sự ngứa do binh chủng Ruồi tác họa, tuy quắn đít nhưng dân còn gãi được. Bọn ghẻ Tàu ít gây ngứa hơn, nhưng vô cùng khó đối phó: móng tay thiếu điều kiện vệ sinh cào vào chỗ mép thịt loét, nghĩa địa hỗn hợp xác vi trùng lẫn bạch cầu phe nhà, càng lở lói rộng và sâu, bốc nồng nặc mùi tế bào hoại tử.

Miền Nam được một trận tổng tiến công từ ruộng đồng, từ bưng biền, từ rừng sâu núi cao khí thế không gì cản nổi của các binh đoàn ghẻ. Ghẻ giải phóng những e thẹn rụt rè, phá đổ gông cùm lịch sự kìm kẹp phong cách tiểu tư sản, khi nam phụ lão ấu, nữ tú nam thanh, được san bằng giai cấp, thảy đều trở nên bình dân chất phác rất tự nhiên. Ai cũng biết đánh đờn mười ngón, đờn vô tư sột soạt mọi lúc mọi nơi "đàn em reo ca ..a  ..a..a..a.....ôi đàn ta lư..ư..ư.." với vẻ mặt diễn cảm say sưa, hít hà khoái chá vì... đã ngứa!

Lần tôi từ tỉnh về thành thi sư phạm, ngày về trời đã chiều nắng tái, ở lại thêm một ngày là cả một vấn nạn ăn ngủ. Ra bến xe đã hết chuyến trong ngày, đám thí sinh tỉnh lẻ tụm năm tụm ba dưới những mái hiên, ngủ gật gà hoặc làm quen nhau chuyện trò chờ sáng hôm sau xếp hàng mua vé, quê ai nấy về. Tôi bắt chuyện với một bạn gái mà gần 40 năm rồi vẫn nhớ bạn không quên. Giọng Quy Nhơn tuy rắn rỏi cưng cứng, song vẻ dịu dàng vẫn phảng phất cốt cách gái miền Trung nền nả mà kiên nghị chịu khó, và nhất là nết ý tứ kín đáo rất Á đông. Nhìn bạn, trên cổ tay và các kẽ ngón lấm tấm những vết thâm còn mới, tôi hiểu liền bạn ấy cũng như tôi, đang là nạn nhân của ghẻ Ruồi.

Phong cách người miền Nam VN xuất thân từ nền giáo dục VNCH gồm cả ba mặt tác động uốn nắn: gia đình - nhà trường và xã hội, ngày nào vẫn còn y trong mỗi chúng tôi. Làm sao mà có thể sỗ sàng mười ngón thiên thần tay em, thọc vào cào cấu những vùng thịt da u uất có ghẻ Ruồi nằm vùng, trước mặt người bạn mới?

Nét mặt dễ thương kia, chốc chốc lại khẽ cau cau, rõ là đang cắn răng chịu đựng. Bạn đổi thế ngồi liền liền, câu chuyện thường phải tự ngắt mạch rời rạc do cơn ngứa hoành hành xen ngang, thiêu đốt âm thầm. Mến nhau, muốn nhân dịp làm thân với người xa xứ, mà cả hai cứ chốc chốc lại phải luân phiên đứng lên làm như có việc riêng gì đó, trong khi thật ra để một mình tìm nơi có bóng tối, nghiến răng mà gãi lấy gãi để, báo thù lũ ghẻ!

Khổ vì ghẻ và sốt rét, hai hung thần hậu 30/4, hành hạ không chừa ai mặc trai thanh gái lịch, đến giờ vẫn không quên….

(Chiêm Mỹ Sơn)

CIA và những ngày cuối tại Sài Gòn

*Ai là người đã chịu trách nhiệm cho kế hoạch di tản tại Sài Gòn vào năm 1975?

Conrad Edward LaGueux – Phó Giám Đốc Văn Phòng CIA tại Việt Nam, là một trong những người Mỹ cuối cùng rời khỏi Sài Gòn trong ngày 30 tháng Tư năm 1975. Đối với LaGueux, người đã thực hiện các điệp vụ tình báo Hoa Kỳ trong Đệ Nhị Thế Chiến cho đến chiến tranh Việt Nam, sự sụp đổ của Sài Gòn là một chương sử khó khăn, phức tạp và gây tranh cãi trong lịch sử Hoa Kỳ và của chính ông. Mặc dù những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam được tưòng trình hay dựng phim không ít, vai trò của các sĩ quan tình báo CIA như LaGueux trong những ngày cuối cùng này có thể nhắc đến như thêm một chi tiết lịch sử trong bức tranh toàn cảnh.

Conrad Edward LaGueux gia nhập Cục Tình Báo Quốc Gia Hoa Kỳ CIA vào năm 1949, hai năm sau khi cơ quan này được thành lập. Trước đó, ở tuổi 22, ông từng là trưởng toán của một toán đặc nhiệm OSS (Office of Strategic Services) là tiền thân của CIA) gồm 15 thám báo trong Đệ Nhị Thế Chiến, chuyên nhảy toán vào sâu lòng địch tại Pháp. Làm việc cùng với các kháng chiến quân Pháp, toán đặc nhiệm của LaGueux từng đặt mìn lật đường ray một đoàn xe lửa của Đức, dẫn đến sự đầu hàng sau đó của hơn 5,800 lính Đức Quốc Xã, một sự kiện quan trọng trong việc giải phóng miền Nam nước Pháp.

Sau đó, ông và một số nhân viên trong nhóm OG của ông đã được đưa đến vùng tam giác Trung Hoa-Miến Điện-Ấn Độ để giúp huấn luyện binh chủng Dù quốc gia của quân đội Tưởng Giới Thạch nhằm chiến đấu chống lại quân Nhật. Hoạt động của LaGueux trong Đệ Nhị Thế chiến đã mang lại cho ông một số anh dũng bội tinh.

Khi LaGueux gia nhập CIA, với tiếng Pháp mẹ đẻ của ông đã đưa ông vào một chức vụ trong Ban Đặc Vụ Châu Âu. Tuy nhiên, một đồng nghiệp cũ của ông tại OSS đã thuyết phục được ông thay đổi hướng hoạt động và chấp nhận một công việc lâu dài với Ban Tình Báo Viễn Đông, sau này chuyển thành Ban Đông Á Sự Vụ.

Trong những năm theo sau, ông đảm nhận nhiều vị trí lãnh đạo cấp cao trong cục tình báo, cả tại các tổng hành dinh CIA và ở nước ngoài. Ông nhanh chóng nổi tiếng nhờ có đầu óc phân tích tin tức và thời cuộc sắc sảo, có khả năng giải quyết nhiều vấn đề đặc vụ và hành chính phức tạp. Một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp tình báo lâu đời của LaGueux là khi ông giữ chức vụ Phó Giám Đốc văn phòng CIA tại Sài Gòn, là một hành dinh tình báo CIA lớn nhất thế giới tại nước ngoài lúc bấy giờ.

Theo sau hòa đàm Paris vào tháng Một năm 1973, Hoa Kỳ đồng ý rút các lực lượng quân sự ra khỏi miền Nam Việt Nam, trong khi Bắc Việt chấp nhận sẽ giới hạn sự tiếp viện cho Mặt Trận Giải Phóng miền Nam Việt Nam đang cố gắng tấn công lật đổ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trong Nam. Lệnh ngừng bắn cùng các thỏa thuận không được tôn trọng, Bắc Việt đã phá bỏ hòa đàm và phát động một cuộc tổng tấn công vào miền Nam Việt Nam vào tháng Hai năm 1975, với trận tấn công mở màn vào Ban Mê Thuột do quân đội Bắc Việt thực hiện. Đây là trận chiến quyết định trong chiến tranh Việt Nam, dẫn đến sự sụp ngã hoàn toàn quân khu chiến thuật thuộc Quân Đoàn Hai của miền Nam Việt Nam. Trận chiến là một phần của một chiến dịch quân sự rộng lớn hơn của Bắc Việt, được gọi là Chiến Dịch 275 nhằm đánh chiếm vùng cao nguyên Việt Nam.

Nhận được tin tình báo về cuộc tấn công của quân Bắc Việt rồi dẫn đến kết quả triệt thoái của quân đội Nam Việt Nam, LaGueux tự mình lên máy bay trực thăng Air America, là một nhánh hàng không bí mật của CIA trong chiến tranh Việt Nam, để thị sát chiến trường. Xe buýt, xe jeep, xe hơi và xe tải quân sự chở hàng ngàn người di tản bị ùn tắc dài trên con đường số 7 dẫn về khu vực duyên hải miền Trung miền Nam Việt Nam. Kinh nghiệm của ông với OSS trong Đệ Nhị Thế Chiến đã dạy ông bài học rằng, không có gì khó khăn hơn là việc tổ chức và thực hiện một cuộc triệt thoái quy củ để tái thiết lực lượng cho các mặt trận khác. Cũng như với việc mất cao nguyên này, LaGueux biết rằng cuộc chiến đã kết thúc.

LaGueux trở về Sài Gòn sau chuyến thị sát với bằng chứng quan trọng là tình hình đang xấu đi trầm trọng. Quân Bắc Việt đã tiến quân với thế chẻ tre xuống hướng Nam, về phía Sài Gòn. Tại Sài Gòn, Đại Sứ Mỹ Graham Martin lưỡng lự việc di tản nhân viên Hoa Kỳ, mặc dù ông đã giảm đáng kể các hoạt động trước đó. Martin mang hy vọng còn giữ được một quốc gia Việt Nam Cộng Hòa thu nhỏ, bao gồm Sài Gòn và các khu vực lân cận. Ngay cả khi không thể thực hiện điều này thì Martin cũng không muốn tạo ra sự hỗn loạn cho người dân Sài Gòn bằng cách đột ngột di tản Đại Sứ Quán Hoa Kỳ.

LaGueux và thượng cấp của ông là Thomas Polgar – Giám Đốc CIA tại Sài Gòn, cũng từng là một cựu sĩ quan OSS, đã cho rút bớt nhân viên CIA trước đó. Họ thúc giục Đại Sứ Graham Martin và cấp lãnh đạo CIA buộc Nam Việt Nam tìm kiếm giải pháp cho việc đình chiến. Tuy nhiên, đến giữa tháng Tư thì các phân tích tình báo đã cho thấy rõ là Bắc Việt không còn muốn đàm phán nữa.

Ngày 27 tháng Tư, quân Bắc Việt đã bao vây Sài Gòn và pháo kích vào phi trường Tân Sơn Nhứt, khiến phi cơ không thể cất cánh. Điều này đã khởi đầu cho Chiến dịch Gió Xoáy (Operation Frequent Wind), sử dụng trực thăng của Thủy quân lục chiến và Air America để di tản các nhân viên Hoa Kỳ cùng các viên chức cao cấp chính quyền Sài Gòn ra các tàu hải quân của Hạm Đội 7 ngoài khơi.

LaGueux lên kế hoạch và chịu trách nhiệm thực hiện các cuộc di tản cho tất cả người Mỹ còn bị kẹt lại. Khối lượng công việc khổng lồ và khẩn cấp này bao gồm việc lên kế hoạch và thực hiện cuộc di tản an toàn cho tất cả nhân viên ngoại giao, quân nhân Hoa Kỳ và gia đình họ, các nhân viên ngoại giao, thương gia và phóng viên Châu Âu. Và trên hết, LaGueux được giao nhiệm vụ di tản càng nhiều các viên chức chính phủ, sĩ quan cấp cao của miền Nam Việt Nam cùng gia đình họ càng tốt.

11 giờ sáng ngày 29 tháng 4, lệnh di tản toàn bộ được phát ra. Người Mỹ còn kẹt lại Sài Gòn đã nhận được ám hiệu và được yêu cầu phải tuyệt đối giữ bí mật các thông tin này. Khi đài phát thanh Hoa Kỳ thông báo rằng nhiệt độ ở Sài Gòn là “105 độ và còn tăng cao” và theo sau là bài hát “White Christmas”, họ phải lập tức đến ngay điểm tập họp gần nhất, nơi trực thăng sẽ bốc dỡ họ. Điểm khởi hành trung tâm là chính Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, nơi máy bay trực thăng có thể hạ cánh trên nóc nhà hay đáp xuống khuôn viên.

Một trong những bức ảnh nổi tiếng nhất trong chiến dịch di tản và sự sụp đổ của Sài Gòn từ ký giả người Hà Lan Hubert van Es là tấm ảnh chụp chiếc trực thăng bấp bênh trên nóc một tòa nhà, với người phi công bước ra và vói kéo một hàng dài người tị nạn đang trèo lên một chiếc thang dốc (ảnh). Tấm ảnh chụp ngay tại khu chung cư Pittman mà LaGueux cùng một vài nhân viên CIA cư ngụ tại Sài Gòn, là một trong những địa điểm bốc người và chỉ cách đại sứ quán vài block. Tạp chí People đã từng làm một cuộc truy tìm để xác định người phi công chiếc trực thăng là ai và tòa chung cư này ở đâu (nằm trên đường Gia Long, sau này đổi thành Lý Tự Trọng).

Rạng sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, LaGueux, Giám đốc CIA Polgar và Đại sứ Martin là một trong vài người Mỹ còn sót lại trong đại sứ quán khi quân Bắc Việt đã tiến sát vùng ngoại ô Sài Gòn. Trước đó, Polgar đã đánh bức điện tín về tổng hành dinh CIA với dòng chữ rằng, “Đây là bức điện tín cuối cùng phát đi từ Sài Gòn. Một cuộc chiến dài và khó khăn, chúng ta đã thua cuộc”. LaGueux chờ Polgar đánh xong điện tín để cùng phá hủy các thiết bị liên lạc này trước khi ra với đại sứ Martin.

Khoảng 4:00 sáng, một chiếc trực thăng hạ cánh xuống Đại Sứ Quán Mỹ trong nhiệm vụ đưa Đại Sứ Martin cùng các viên chức cao cấp của CIA còn lại ra chiến hạm USS Blue Ridge. Một lính Thủy Quân Lục Chiến bước ra và tiến đến Đại sứ Martin nói rằng, “Thưa ngài Đại Sứ, Tổng Thống Ford đã ra lịnh cho tôi đưa ngài lên chiếc trực thăng này nếu ngài không tự nguyện ra đi. Đã đến lúc rời khỏi Sài Gòn”.

Trực thăng cất cánh. LaGueux và đại sứ Martin nhìn xuống thành phố Sài Gòn lần cuối. Sài Gòn vẫn còn chìm trong màn đêm và nó sẽ còn che phủ thành phố này rất lâu.

(Đinh Yên Thảo)

Ghi chú: Connie LaGueux từ giã CIA và về hưu năm 1977. Ông mất ngày 31 tháng 7 năm 2001 và được an táng tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington tại tiểu bang Virginia với đầy đủ quân cách danh dự.

Cha… tại sao không giữ lời hứa với mẹ tôi!

(Bài Viết Của Con út của cố đại tá  Nguyễn Đình Bảo)

Trên FB tôi thấy đại đa số thường chọn hình mình hoặc hình con mình để làm avatar, ít hơn một chút thì lấy hình của người yêu, vợ hoặc chồng, hoặc một hình gì đó mà mình yêu thích. Riêng tôi thì tôi lại chọn một đối tượng khác mà hình như tôi thấy chưa một ai chọn giống như tôi: một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.

Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba bão táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo thì chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày cứ 5h sáng phải chạy lên Gò vấp để lấy bánh đậu xanh về đi bỏ cho các tiệm bánh rồi mới về đi học trong suốt 7 năm trời, từ năm học lớp 11 đến hết năm thứ 6 Y khoa. Khó khăn là vậy nhưng tôi vẫn trưởng thành một cách đầy kiêu hãnh. Đôi khi nhìn lại tôi tự hỏi là điều gì đã giúp tôi mạnh mẽ mỗi khi đương đầu với những khó khăn? Và câu trả lời là do trong huyết quản tôi vẫn đang mang một dòng máu nóng trong mình và tôi đã đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người đã cho tôi dòng máu ấy : một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.

Tôi cũng không biết tại sao tôi và người đó chỉ gặp gỡ và tiếp xúc trong có vài chục ngày, chính xác là từ ngày 06/01/1972 đến ngày 25/03/1972, mà tôi lại luôn luôn thương mến, cảm phục, tự hào và luôn lấy người làm tấm gương soi để tôi có đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn. Có lẽ là do cuộc sống của người quá vĩ đại và tôi đã được thừa hưởng một phần của nó. Mặc dù khi ra đi người đã không thực hiện được một lời hứa với mẹ tôi mà cho tới bây giờ tôi vẫn hỏi : “Tại sao?”

Charlie, tên nghe quá lạ!

“Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt… Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy. Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện.

Nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum. Charlie, "Cải Cách," hay "C," đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.” (Trích trong "Mùa hè đỏ lửa" của Phan Nhật Nam).

Charlie bỗng trở thành một địa danh được nhắc nhớ từ sau 4000 quả đạn pháo tới trong một ngày, từ sau người mũ đỏ Nguyễn Đình Bảo nằm lại với Charlie. (Trích lời giới thiệu trong CD Chiến tranh và hòa bình của Nhật Trường Trần Thiện Thanh)

Cho đến bây giờ cũng ít người biết rằng tôi chính là “đứa bé thơ” với “tấm khăn sô bơ vơ ” trong bài hát “Người ở lại Charlie” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Và tôi lớn lên cùng với ký ức về một người Cha hào hùng như vậy.

Tôi không thần tượng Cha tôi từ một bài hát viết về người, cũng không thần tượng từ một hai trận đánh trong cuộc đời binh nghiệp của người, mà tôi thần tượng Cha mình từ chính cuộc đời của Người. Trải qua biết bao thăng trầm đời binh nghiệp và cuối cùng người đã được giao làm tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn “Song kiếm trấn ải” (biệt danh của tiểu đoàn 11 nhảy dù), một trong những tiểu đoàn được xem là thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Cha tôi là một người khát máu hung tàn, mà ngược lại hoàn toàn, mọi người đều nhớ về hình ảnh Cha tôi như là một võ sĩ đạo đúng nghĩa : giỏi võ, dũng cảm và cao thượng. Thời bấy giờ có mấy ai dám đánh một sĩ quan của Mỹ, vậy mà Cha tôi đã làm điều đó khi người sĩ quan đó dám làm nhục một người lính Việt Nam (chuyện này tôi được nghe bác ruột tôi kể lại). Có tiểu đoàn nào trong quân đội mà luôn gọi Tiểu đoàn trưởng bằng tên thân mật “Anh Năm”?, nhất là trong binh chủng Nhảy dù, việc phân chia cấp bậc luôn được tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Vậy mà trong tiểu đoàn 11 Nhảy dù, tất cả mọi người từ lính đến sĩ quan chẳng ai gọi Cha tôi là Trung tá cả, mà luôn gọi là Anh Năm, và “Anh Năm” thường hay nói với mọi người trong tiểu đoàn rằng : “Tụi mày thì chẳng biết mẹ gì, nhưng tất cả tụi mày tao đều coi là em tao hết”

“Anh Năm,

Ngoài đời Anh sống hào sảng, phóng khoáng và thật "giang hồ" với bằng hữu anh em, còn trong quân ngũ, Anh như một cây tùng ngạo nghễ giữa bão táp phong ba, Anh không nịnh cấp trên đè cấp dưới, Anh chia xẻ vinh quang buồn thảm với sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp. Anh sống hùng và đẹp như thế mà sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!? Tôi về lại vườn Tao Ðàn, vẫn những hoa nắng tròn tròn xuyên qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lão làm vườn vẫn lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa móng rồng và những bụi hồng đầy mầu sắc. Bên gốc cây cạnh căn lều chỉ huy của Anh hồi tháng trước khi còn đóng quân ở đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn trắng.

Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gõ khô cứng của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lão ngẩng đầu và nhận ra tôi. Xiết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng xuống nỗi tiếc thương, chòm râu bạc lưa thưa phất phơ trước gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết Anh đã ra đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa Anh. Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng manh của điếu thuốc nhà binh quện trong tiếng nói:

"- Thuốc lá Ông Quan Năm cho, tôi vẫn còn đủ dùng cho đến cuối năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt mà sao Ông Trời bắt đi sớm như vậy!? " (Trích trong "Máu lửa Charlie" của Đoàn Phương Hải)

Cha tôi đã sống như thế nào mà những người ít ỏi còn sống sót trở về sau trận chiến tại đồi Charlie đều nói là họ thật hối tiếc khi không được nằm xuống cùng Cha tôi ở đó.

“Tô Phạm Liệu cảm thấy lẻ loi ở cái đại hội y sĩ có nhiều những người “mặc quần mới áo đẹp” và “ăn to nói lớn”, thích “nhảy đầm” và “xếp hàng để lên hát”... Trong cơn say, anh nói là phải chi trước kia, mười mấy năm trước kia, anh được “ở lại Charlie” với Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, với các bạn nhảy dù thì “sướng hơn nhiều.” (Trích trong "Tô Phạm Liệu : người trở lại Charlie" của Phạm Anh Dũng)

Viên sĩ quan cố vấn Mỹ Duffy cho tới tận bây giờ vẫn còn luôn mang trong người những hoài niệm về Cha tôi và trận chiến tại Charlie. Mỗi lần tham gia các cuộc gặp gỡ của hội cựu chiến binh Việt Nam (trong đó có một số hiện đang là tướng lãnh cao cấp trong quân đội Mỹ) ông ta đều hỏi mọi người “Tụi mày có từng tham gia trận Charlie không, tụi mày có ai từng chiến đấu cạnh Colonel Bao (Trung tá Bảo) chưa? Thế thì tụi mày còn xoàng lắm. Và hàng năm cứ mỗi lần sinh nhật của mình, ông ta đều đặt một ổ bánh kem làm hình một ngọn đồi và ghi chữ Charlie lên đó. (Chuyện này do Chú Đoàn Phương Hải khi về Việt Nam năm 2011 thuật lại cho tôi nghe)

Cha tôi đã sống như thế nào để một người Mỹ phải luôn khắc trong tâm khảm những hoài niệm như vậy?

Tôi chỉ có thể kết luận một câu : “Cuộc đời của Cha thật vĩ đại”

Ngày hôm nay khi viết về Cha, tôi không biết viết gì hơn, chỉ xin dâng về hương hồn Cha một vài câu thơ nói về khí phách của Người và nơi mà Cha đã gửi lại thân xác của Người vĩnh viễn cho núi rừng Charlie. Ở đây tôi xin dùng từ "Cởi áo trần gian" vì tôi tin rằng Cha vẫn đang khoác một chiếc áo khác và vẫn đang nhìn tôi từ một nơi rất xa…

Lặng lẽ ngàn năm chẳng danh xưng

Bỗng chốc một hôm hóa lẫy lừng

Charlie gầm thét trong lửa đạn

Gọi mãi tên người nước mắt rưng

Trai thời nỗi chết tựa trên lưng

Khí phách hiên ngang bước chẳng dừng

Charlie vẫy gọi người ở lại

Cởi áo trần gian tặng núi rừng

(Kính dâng tặng hương hồn Cha)

Sinh nhật mẹ tôi ngày 11/04. Trước khi hành quân vào Charlie ngày 25/03 Cha tôi đã đặt một chiếc bánh sinh nhật cho mẹ với lời hứa là sẽ về dự sinh nhật của mẹ. Đến ngày sinh nhật mẹ đã không tổ chức mà vẫn chờ Cha về, và cho đến tận bây giờ mẹ vẫn chờ… Tuy nhiên Cha đã thất hứa với mẹ vì ngày 12/04 Cha đã cởi áo trần gian và nằm lại vĩnh viễn với Charlie. Còn tôi, tôi chỉ biết hỏi là tại sao Cha lại không giữ lời hứa với mẹ tôi? Tại sao?

MẸ...

Cách đây 48 năm, ngày 11-04-1972 Mẹ bước qua sinh nhật tuổi 32 một cách lặng lẽ, trong lòng đầy hồi hộp, lo âu khi tin tức về từ vùng 2 chiến thuật chuyển về cho biết tình hình chiến sự đang ngày càng ác liệt. Rồi ngay hôm sau tin dữ đã bay về khi chú An điện thoại báo “Anh Bảo bị rồi chị ạ”, trời đất như sụp đổ dưới chân, Mẹ chỉ còn biết ôm mặt khóc…

Cho đến bây giờ, nhìn lại một chặng đường rất dài đã qua, tụi con cám ơn và cảm phục Mẹ vô cùng, chính nhờ có Mẹ mà tụi con mới có được ngày hôm nay. Khi Bố ra đi, Mẹ mới 32 tuổi và vẫn đang tuổi sắc nước hương trời, vẫn đang là một trong những người đẹp của hàng không Việt Nam, có rất nhiều người đã tìm đến ngỏ lời nhưng Mẹ đều từ chối, Mẹ luôn dành một tình yêu bất tận cho Bố. Rồi biến cố 75 ập đến, gia đình vốn đã khó lại càng thêm khó, một mình Mẹ vất vả làm đủ nghề để nuôi 6 miệng ăn, ban ngày thì làm bánh làm trái để bán, tối thì lo đan áo cho người đi xuất cảnh, nhiều đêm Mẹ thức đan áo đến ba bốn giờ sáng dưới ánh đèn dầu, bao nhiêu cơ cực không thể nào kể xiết.

Có lẽ những vất vả mà Mẹ phải gánh chịu được vơi đi phần nào khi anh Tường và chị Tú luôn đạt được những thành tích xuất sắc trên con đường học vấn, anh Tường đậu vào trường Y với thứ hạng rất cao khi mới 17 tuổi và tốt nghiệp ra trường với vị trí thủ khoa, dù là trong suốt 6 năm học Y, ngày nào 5 giờ sáng anh Tường cũng phải dậy sớm lên Gò Vấp lấy bánh đậu xanh về đi bỏ mối để kiếm tiền phụ Mẹ. Ngày anh Tường được học bổng đi Pháp để học tiếp, Mẹ mừng không nói nên lời. Ngày chị Tú được tuyển vào làm ở lãnh sự quán Anh quốc sau khi vượt qua mấy trăm hồ sơ dự tuyển, Mẹ cũng mừng không nói nên lời, và dường như đó là phần quà ông Trời muốn bù đắp lại cho những hy sinh không mệt mỏi của Mẹ.

Trong cuộc sống Mẹ luôn dạy tụi con phải sống sao cho xứng đáng. Con còn nhớ ngày anh Tường ở Pháp về và mở phòng mạch riêng, Mẹ qua dự khai trương xong về không nói lời nào, ngày hôm sau anh Tường về thăm, Mẹ bắt anh Tường ra trước bàn thờ Bố và nói rằng: “Tường à, Mẹ thấy con mở được phòng mạch riêng Mẹ rất mừng, nhưng Mẹ không hài lòng khi thấy con đặt bàn thờ Thần tài ngay trước phòng mạch như vậy, Mẹ muốn cho con học Y là để con làm việc cứu người chứ không phải với mục đích kiếm tiền”, và ba anh em tụi con đã được trưởng thành từ những điều giáo dưỡng như vậy. Từ đó đến nay anh Tường năm nào cũng tham gia chương trình mổ từ thiện “Vì nụ cười” cho các trẻ em không may mắn trên khắp cả nước, còn chị Tú thì cho tới bây giờ vẫn duy trì các lớp dạy tiếng Anh miễn phí tại nhà. Đó là những gì Mẹ đã dạy và muốn tụi con hướng tới.

Đã rất nhiều người nói với con rằng người ta ca ngợi Ông Bảo một thì Bà Bảo phải xứng đáng hơn thế gấp nhiều lần, chính nhờ công lao của Bà đã thủ tiết thờ chồng và nuôi dạy các con nên người đã giữ cho cho danh tiếng của Ông luôn sáng mãi, so với những quả phụ ngày xưa được vua ban “Tiết hạnh khả phong” thì nào có kém gì. Mỗi lần con nghe người ta nói như vậy thì con đều khóc và thầm cám ơn ông Trời vì đã cho con là con của Mẹ. Hôm nay mừng sinh nhật thứ 80 của Mẹ, tự nhiên trong con vang vọng lên câu hát : “Mẹ ơi thế giới mênh mông, mênh mông không bằng nhà mình, dù cho phú quý vinh quang, vinh quang không bằng có Mẹ….”

Sài Gòn, 11-04-2020

(Nguyễn Bảo Tuấn)

Thêm thông tin về anh hùng Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn

 (Hy sinh ngày 14-8-1975 qua lời kể của hiền thê ông, bà Nguyễn thị Cảnh):

 “Kể lại cho bác rõ, những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau ngay trong tiểu khu. Anh Cẩn vẫn còn bay hành quân.

Nhà bị pháo kích. Tuy gọi là dinh tỉnh trưởng nhưng cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30 tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy ra ngoài đi lẫn vào dân. Ở Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng, ai cũng tưởng là vợ lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải đi.

Bà con chỉ mẹ con em tìm đường chạy về Cần Thơ. Chú lính nói rằng bà không đem con chạy đi chúng nó bắt thì khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ, mẹ con vừa đi vừa khóc. Hình ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nhìn thấy ba ngồi trên xe Jeep, Việt cộng cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh không chống cự, không vùng vằng, không nói năng. Đưa mắt nhìn về phía dân ở xa, giơ tay phất nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con chạy đi. Đó là hình ảnh cuối cùng đã gần 40 năm qua, từ đó đến nay mẹ con không bao giờ gặp lại.

Thân nhân bên anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em và con trai ra mặt, sợ bị bắt. Được tin anh ra tòa nhận án tử hình. Rồi tin anh bị xử bắn. Thời gian anh bị giam gia đình bên anh có đi tiếp tế nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về. Hôm anh bị bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đình cũng không ai được báo tin riêng, nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi coi. Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng. Từ xa, nhìn qua nước mắt và nín thở, chị thấy chú Cẩn mặc quần áo thường dân tỏ ý không cần bịt mắt nhưng bọn cộng sản vẫn bịt mắt. Bác hỏi em, bà chị có kể lại rõ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975. Mỗi lần nói đến là chị em lại khóc nên cũng không có gì mà kể lại. Chúng bịt mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng gì. Suốt cuộc đời đi đánh nhau anh vẫn lầm lì như vậy. Vẫn lầm lì chịu bị bắt, không giơ tay đầu hàng, không khai báo, không nói năng gì cho đến chết. Anh làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến tiểu khu trưởng. Báo chí, anh em nói gì thì nói, anh Cẩn chả nói gì hết.

Bác hỏi em là mồ mả ra sao? Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức, gia đình không cho em ra mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được, chúng đem chôn ở phía sau Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem về Rạch Giá, rồi đến khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro cốt về nhà ông chú bên Long Xuyên. Ngày nay, em nói để bác mừng là sau khi vượt biên qua Mỹ em đã đưa di hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đình.“

              ***

Những ngày cuối cùng của tháng Tư

(Nhớ lắm tháng Tư của năm 1975)

Xin giới thiệu một tùy bút ngắn của cây bút quen thuộc Lê Phước Dương kể lại chuyện tâm tình người lính chiến trong những ngày cuối thắng tư, qua một buổi hành quân, tình cờ gặp một cô gái và người mẹ quê, cả hai cũng như Dương, tất cả đều là nhân chứng của một cuộc chiến sắp tàn và không có ngày mai,... Không có ngày mai cũng như câu chuyện tình thoáng qua của Chuẩn Úy Dương và cô gái tên Liên, cuộc tình không đoạn kết vì mỗi người phải đi một ngả, một người còn tiếp tục cuộc đời lính chiến dù cuộc chiến sắp tàn, một người tiếp tục cuộc sống của một người dân, một người con gái trong thời buổi chiến tranh...dù vẫn trao nhau trọn vẹn một cuộc tình tuy thoáng qua nhưng vẫn không kém tình nghĩa, và sự thành thật của tình người….

Nhớ lại: Chút tình thời binh lửa. Mùa mưa tháng 7 năm 1974. Con sông Trẹm như một dãi lụa mềm mại uốn khúc theo trục hướng bắc là Chi khu Hiếu Lễ, hướng nam là Quận Thới Bình của Tỉnh Cà Mau, hai bên sông mọc toàn là dừa nước, ô rô, cóc kèn... phía trong là cây tràm, tràm ngút ngàn. Lát đát, xa xa... là vài ngôi nhà mái lá trồi ra hoặc thụt vào, cuộc sống của người dân vùng lửa đạn nơi đây là đốn tràm cưa khúc bán làm củi và cắm câu, đặt lờ, xà di và... tát đìa bắt cá khi mùa khô. Tháng 11 năm 1973, khi ra trường rồi sau khi đi 10 ngày phép về thăm nhà, tôi chọn về Tiểu Đoàn đóng ở Chi khu Hiếu Lễ, sau đó về ĐĐ1 đóng tại Ngả Bát, rồi tháng 3 năm 1974 về ĐĐ 3 đóng tại Kinh 13. Tại đây tôi và 6 người lính ra đóng tại một ụ đất có hình tam giác đều cạnh cở 8m, nằm cách Đồn Lớn khoãng 500m về hướng nam. Vào một đêm rằm, khi tôi ôm súng ngồi trên nóc ụ đất có hình bánh ú, đang mãi miết nhìn trăng từ từ lú lên đỏ ối nơi cánh rừng tràm vế hướng đông trước mặt, ở đây, trăng đẹp lắm và gần, có cảm giác như đứng lên ráng vói chút nữa thôi là đụng đến trăng rồi... bổng có tiếng con gái từ phía sau lưng ngọt ngào hỏi nhỏ: - Chuẩn úy ơi ! ...uống trà không?

- Uống! Liên pha trà đi rồi lên ngồi đây uống và ngắm trăng với anh.

- Dạ! Trà em rót ra chén nè , uống đi anh. - Trăng đêm nay đẹp quá phải không Liên!

- Dạ! Mà em có lòng dạ đâu mà ngắm hả anh, anh kể chuyện cho em nghe đi! - Chuyện của anh, ba mẹ anh, hay chuyện lúc anh còn đi học...

- Em ham học lắm mà cứ bỏ nhà chạy tới chạy lui trốn bom né đạn, trường em học là ở gần Đồn Lớn đó, giờ sập hết rồi chỉ còn trơ vài cây cột gạch và vài mảng tường loan lổ vết đạn...vậy mà trầy trật em cũng học tới hết lớp 5. Em lớn dần theo năm tháng khói lửa chiến tranh, theo mẹ đi mua bán bằng xuồng ba lá, lúc khóm lúc dưa... mới tháng rồi mẹ gom góp mua được chiếc vỏ lãi và cái máy PS 9, mua một mớ đồ tính chở vô xóm nhà ở bên trong Kinh thì bị bắt về đây... em lo cho mẹ quá, ở đây được như vầy thì em mừng, còn mẹ ở trên Đồn Lớn không biết có bị tra hỏi nhiều không, có ăn uống được gì không!

 Em im lặng, đôi mắt ngân ngấn nước loang loáng dưới trăng, tóc đuôi gà kẹp sẹt… buông bỏ lòa xòa bay theo gió nhẹ, mùi con gái ngay ngáy mùi cỏ dại, chua chua nhẹ như cánh đồng năng ban sáng…

 Tuổi 18 của em sao vất vả và cơ cực quá, đôi khi còn phó mặc cho rủi may khi gặp lúc bên này, bên kia. Mười ngày trước đây, buổi sáng được lệnh, tôi và 4 đứa nữa cùng về Đồn Lớn để phối họp đi an ninh thủy trình, bắt tay với ĐĐ 1, đóng tại Ngã Bát, phía về Chi khu Hiếu Lễ, để được tiếp tế lương thưc, đạn dược... Khi đoạn kinh trách nhiệm đã được kiểm soát thì bất ngờ từ nhánh Kinh nhỏ bên kia chạy xẹt qua kinh 14, nơi tôi và chốt chận đang đứng... có một tiếng hô lớn của nguoi lính:

- Tắt máy, ghé lại, chống lệnh là bắn!

Chiếc võ tắt máy, ghé lại, phía trước cầm dầm mũi là người thiếu phụ trạc tuổi 40, phía sau điều khiển máy là một người con gái. Khi xét trong ghe có: gạo, muối, dưa, khóm... và một bọc thuốc tây, bốn cây nilon dù. Võ, máy và hai mẹ con bị dẫn giải về đây, mẹ ở Đồn Lớn, con gái thì bị tách riêng cho ra ụ đất nhỏ, giao chuẩn úy Dương canh giữ... Đêm đầu tiên em bị bắt về đây, phải cho em nằm phia trong trên chiếc giường sắt chỉ có tám tấc, bên ngoài mùng thì muổi xèo xèo. Chốc chốc lại nghe tiếng em thở dài rồi trở mình nhè nhẹ.

- Sao em không ngủ đi!

- Làm sao em ngủ đuoc hả Chuẩn úy... nếu em mắc… thì sao hả anh!

- Gọi anh bất cứ lúc nào và đừng tự ý đi lung tung vì bên ngoài chỗ nào cũng gài mìn Claymore và lựu đạn... Trai 20, gái 18... nằm chung một chiếc giường nhỏ xíu, lưng đụng nhau, hơi nóng hầm hập của ụ đất, của.... hai con người ở tuổi muốn và ham cũng nặng nề chìm dần vào giấc ngủ…

Sống quen dần em cũng thích nghi và bảy anh em ở chung cũng xem như là em gái, em tiếp làm cá nấu cơm canh, có em nồi cá kho mặn mòi hơn, nồi canh chua bắt mắt và độ chua ngọt vừa miệng hơn, em đơm nút áo vá gấu vá vai cho những mảnh quần áo lính bạc màu... Có lúc em đi đâu đó, thằng Chín truyền tin nói nhỏ:

- Lấy làm vợ đi Chuẩn úy, tụi em thấy thương nó quá, hiền, giỏi, cũng đẹp... ăn nói cũng ngọt ngào...Mẹ con nó chắc chỉ là mua bán thôi chứ không phải là giao liên gì đâu.

Nghe nói thế tôi cũng ậm ừ mà trong lòng cũng có được một niềm vui khó tả. Sáng nay có lệnh đi an ninh thủy trình và chuẩn bị áp giải mẹ con Liên về Chi khu Hiếu Lễ luôn, nghe tin, nỗi buồn mất mát ập đến nên cơm sáng nuốt không vô... tinh ý, Liên hỏi:

- Sao anh không ăn cơm, chút đi hành quân đói rồi sao!

- Anh có đem mì gói theo, em ở nhà đừng đi lung tung, đừng làm điều dại dột, anh ghé Đồn Lớn xem mẹ có nhắn gì anh sẽ nói lại em nghe!

- Dạ, anh đi nhớ cẩn thận!

 Đơn vị ĐĐ 3 mới vừa xuất phát hành quân ngược lên đươc nửa đường trách nhiệm thì hướng ĐĐ1, trên Ngã Bát nổ giòn... Sau một hồi thì được lệnh giải tỏa hành quân, tất cả đơn vị trở về vị trí trú đóng và vì đó mà không đuọc tiếp tế... thế là trong cái rủi chung mà được cái may riêng, mẹ con Liên còn được ở lại chốn này.

- Liên ơi! Em làm gì đó! - Em làm cá, có tin gì về mẹ không anh!

- Mẹ khỏe, ăn uống ngủ được, không bị đánh đập gì cả, chỉ hỏi cung để khai báo thôi, mẹ dặn em là đừng làm điều gì dại dột, có bị điều tra thì cứ nói là không biết gì và tất cả là do mẹ sai bảo.

- Nghe anh nói vậy em cũng mừng cho mẹ. Ngày nắng đến, đêm mưa qua, mới đó mà đã được 30 ngày đêm. Dù chưa là vợ chồng mà chăm chút nhau như vợ chồng, ngày ăn uống chung mâm, đêm đến vẫn ngủ chung giường, tiếng sục sịc hằng đêm của em, tiếng thở dài hằng đêm của anh rồi cũng nhẹ theo vào giấc ngủ chập chờn.

Sáng nay vừa ăn cơm sáng xong thì có lệnh đưa em đi ra bãi đáp vì có chuyến tiếp tế bằng trực thăng rồi bốc em và mẹ về Quân khu luôn, nghe tin đó mà lòng buồn và xót xa khôn tả dù biết là sẽ phải có ngày này.

- Liên ơi! Em làm gì đó!

- Em rửa chén dưới bến sông nè!

- Em để đó đi, vô lấy đồ của em rồi lên Đồn Lớn.

- Đi đâu hả anh! Như có cục nghẹn chặn ngang cổ họng, tôi không nói nên lời. Em khom người bước vô ụ đất, chổ hằng đêm hai đứa chung giường lấy một cái bọc nhỏ máng lên vai rồi bước ra…

Hai đứa đứng nhìn nhau, chợt một tiếng nấc: anh ơi! Bật ra hai hàng nước mắt em tuôn thành dòng, hai đứa cùng lao vào nhau ôm chặt.

Thời gian như ngưng đọng. Thế gian này như chỉ có hai người...  Tiếng thằng Chín truyền tin vọng ra:

- Alfa bảo đưa Liên đi lên Đồn Lớn liền chuẩn úy ơi! Trực thăng gần đáp rồi.

Gỡ nhẹ vòng tay ôm của em ra, dìu em đi qua cầu khỉ bắt qua giao thông hào có khoảng 5m thôi mà hai đứa muốn trợt chân mấy lần. Đi được một khoảng bỗng chợt em quay người lại, nhìn về phía ụ đất.

- Em để quên đồ gì!

- Không, em muốn nhìn kỷ một chút.

- Để làm gì hả em!

- Để em không thể quên được chốn này, nơi em được sống 30 ngày bình yên trong thân phận một người tù binh, nơi có anh một con người nhân hậu và tình cảm, nơi nảy nở tình yêu thời con gái mới lớn của em, em cảm ơn anh!

Tới bãi đáp trực thăng, hai mẹ con ôm nhau khóc ngất. Trực thăng đáp xuống bãi bình yên không bị bắn, những bao gạo, thùng đạn đại liên... được đạp xuống. Bất chợt Liên gọi lớn trong ràng rụa nước mắt, tóc xõa nùi theo gió của cánh quạt trực thăng.

- Chuẩn úy Dương!

- Anh nghe nè Liên!

- Cám ơn anh đã đưa tiễn mẹ con em như một người thân, em xin anh một điều.

- Điều gì em nói nhanh đi. Hai bàn tay tìm nhau và nắm chặt như không muốn rời nhau.

- Sau này, khi có con, dù trai hay gái em cũng đặt tên Dương để nhớ mãi món nợ ân tình này...

Không biết ai kéo tay em ra, hai bàn tay chới với xa rời, hai người lính dìu Liên và mẹ mọp người trước gió của cánh quạt rồi được kéo lên trực thăng, tiếng phành phạch của cánh quạt nhỏ dần về hướng Cà Mau…

 Anh xin được cầu mong cho em và cho mẹ được bình an qua cuộc chiến tranh này!

(Lê Phước Dương)

(viết lại để nhớ một thời binh lửa lúc đóng đồn bên giòng Sông Trẹm năm 1974).

                    *** 

Những mảnh đời phiêu bạt…

Tháng Tư buồn lại đến, 47 năm qua, những thuyền nhân nay đã “già” và những câu chuyện của họ đã trở thành cổ tích. Hồi tưởng để nhớ về một quá khứ đau thương với những chia ly và mất mát…

1/ Cứu vớt

Chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi bị tàu đánh cá Thái Lan chặn lại. Bọn cướp hãm hiếp sáu cô gái. Trong lúc bọn Thái hãm hiếp, một cô gái lao mình xuống biển. Bọn Thái vớt cô ấy lên rồi dí súng vào đầu có ý muốn nói: “Nếu ai nhảy xuống biển nữa là bắn bỏ!”. Tuy nhiên, nhờ người con gái gan dạ liều lĩnh đó mà đám ngư phủ Thái đã ngừng thôi hãm hiếp, và tôi là một trong những cô gái được may mắn thoát nạn trên chuyến tàu định mệnh.

Khi Mặt trời vừa ló dạng, bọn Thái thả chúng tôi về lại con tàu nhỏ, kèm nước uống, cơm và một khay ghẹ nấu chín, rồi chỉ đường cho bác tài công. Khi đám ngư phủ Thái bỏ đi, mọi người như hoàn hồn, mang nhiều hy vọng dù đường còn lắm gian nan. Sáng sớm, giữa biển cả bao la, gió mát lạnh, lòng người miên man vô định, mọi việc đều phó thác vào bàn tay của đấng tạo hóa. Đã ba ngày, ai cũng mệt mỏi vì sợ hãi và đói khát. Tôi chờ lúc vắng bớt người, lấy chút cơm ăn với muối cho đỡ đói. Lúc ấy có một người đàn ông trung niên, nhìn hiền lành, điềm đạm. Ông không nói gì, chỉ nhìn tôi gật đầu chào. Có người nói:

– Ăn ghẹ đi, ngon lắm! Nhưng ông lắc đầu. Sau này khi mọi người đến Galang làm hồ sơ khai tên tuổi, tôi mới biết ông là một nhà sư.

Nỗi lo sợ về bọn cướp Thái vẫn còn đeo đẳng theo chúng tôi trong suốt cuộc hành trình. Con tàu nhỏ bé đang êm êm lướt sóng, chợt… Bùm…! Một cậu nhóc rớt tỏm xuống biển. Tiếng bà mẹ khóc la vang trời:

– Cứu con tôi, cứu con tôi với bà con ơi…!

Mọi người nhìn ra xa xa…, chỉ thấy thấp thoáng một chấm đen nhỏ xíu ngụp lặn trên mặt biển mênh mông. Bà mẹ hốt hoảng chạy đến bên bác tài công, quỳ sụp xuống van xin:

– Ông ơi, ông ơi, xin cứu con tôi với, xin ông… ông ơi… nó té xuống biển! Bác tài ái ngại lắc đầu nhưng rồi cũng đánh một vòng quay lại… Khi tàu chạy đến gần, thằng bé cũng ngất ngư sắp chết đuối. Nó là dân vùng biển bơi giỏi nên cũng cầm cự được lâu…

Bác tài công lái con tàu an toàn đến một trạm biên phòng hẻo lánh của Indonesia. Lính biên phòng cho chúng tôi lên bờ ở tạm trên một đảo nhỏ hoang sơ gần đồn canh của họ. Một cuộc sống thê thảm, thiếu thốn, đói khổ. Chúng tôi sống cảnh màn trời chiếu đất. Hơn một tuần sau mới có một mái lều che nắng mưa. Chúng tôi ngủ chung với muỗi mòng, côn trùng. Bầy chó hoang đêm đêm mò đến rình rập. Thức ăn là một ít mì mốc (trên tàu) với những gì mò bắt được dưới biển và những trái sakê hay rau củ kiếm được trên đảo. Chúng tôi sống lây lất gần một tháng, tàu Cao Ủy Tỵ Nạn mới đến cứu đưa 68 thuyền nhân chúng tôi về Galang.

2/ Tưởng niệm

Trước khi được ra ngoài hội nhập với cộng đồng người tỵ nạn, chúng tôi phải vào khu biệt lập để được chăm sóc đặc biệt. Cùng chuyển đến khu biệt lập với chúng tôi là một chuyến tàu khác cũng xuất phát từ Tiền Giang. Khi được cứu, trên tàu chỉ còn người già, đàn ông và con nít; đàn bà, con gái đã bị bọn hải tặc Thái Lan bắt đi. Những người có thân nhân bị bắt đều cầm chắc cái chết vì biết rằng bọn cướp hung ác hãm hiếp xong rồi quăng xác xuống biển…

Hàng ngày, người ta thấy một thanh niên khôi ngô ngồi trước cửa trại, lặng lẽ buồn nhìn trời nhìn đất như mất hồn. Nghe những người đi cùng chuyến kể rằng em gái và người yêu của cậu đã bị hải tặc Thái Lan bắt. Anh không chịu ăn uống gì, chỉ còn da bọc xương. Ít lâu sau, tôi nghe những người quen biết kể lại rằng người ta thấy xác của anh trôi trên biển dạt vào một hốc đá. Những người bạn cùng tàu chôn anh vội vã ở nghĩa trang. Tôi thoáng nhớ câu thơ buồn chua chát của Quang Dũng: Rải rác biên cương mồ viễn xứ…

3/ Oan hồn

Trên đường vượt biển tìm tự do, những phụ nữ Việt Nam không may bị hãm hiếp, khi đến trại tỵ nạn, thường được Cao Ủy cứu xét giúp cho đi định cư sớm để tránh lời ra tiếng vào. Sao lại có những người cười chê trên sự đau khổ của đồng hương không may mắn?! Trên trại có dựng một cái miếu thờ gọi là “Miếu Ba Cô”. Theo kể lại, có hai chị em xinh đẹp đi vượt biển bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp. Khi đến trại tỵ nạn, họ bị xoi mói bởi những ánh mắt tò mò, những lời xầm xì chế nhạo làm tổn thương họ. Kết quả, hai chị em treo cổ dưới gốc cây đa. Nghe đồn rằng hồn họ vất vưởng chưa siêu thoát nên đêm đêm biến thành bóng ma trắng chờn vờn bay quanh đảo khiến người ta sợ hãi mà lập miếu. Sau đó, có thêm một thiếu nữ đau buồn cho số phận không may cũng treo cổ chết tại gốc cây ấy…

4/ Mất tích

Anh Duy là một phó nhòm chụp hình rất nghệ thuật. Anh đã ở trại Galang khoảng 5-6 năm mà chưa được đi định cư vì có người em bị hội chứng down. Phái đoàn các nước phỏng vấn rồi từ chối vì không muốn nhận người không có ích lợi gì cho xã hội, mặc dù cha của họ đang bị đọa đày trong nhà tù tại Việt Nam. Anh Duy thường đi chụp hình để sinh sống trong khi đứa em quanh quẩn ở barrack chờ anh về.

Tôi và Nam, 15 tuổi, em họ của tôi, thỉnh thoảng ra quán ăn khuya. Tôi có lần gặp anh em Duy đến ăn tối. Người em mặt khờ khạo, nước miếng nhễu nhão. Người anh chăm chút cho em như một baby, quàng khăn quanh cổ rồi đút từng muỗng, cho uống nước, rồi lau miệng… Sáng hôm ấy, mọi người thức giấc vì tiếng ồn ào. Nhiều người đi đến từng barrack hỏi thăm và tìm kiếm trẻ lạc. Đứa em của anh Duy, từ chiều hôm qua, đã đi đâu mất tích. Tìm kiếm suốt đêm cũng không có dấu vết… Đứa em của anh Duy đi lang thang đâu đó, chết bờ chết bụi, hay trôi dạt ra biển?! Tôi rời Galang đi định cư nên không biết số phận của anh em họ ra sao…

5/ Bạc mệnh

Anh Vinh là anh họ của tôi, một Đại úy Không quân VNCH. Anh cao lớn, đẹp trai trông hùng dũng nhưng hiền như cục bột. Anh thích đàn ca với những bài hát dí dỏm hài hước. Anh cao lớn mà ôm cây mandoline bé tí teo. Hồi còn ở Việt Nam, anh Vinh cưới chị Nga, một cô gái xinh đẹp, rất giỏi tiếng Anh. Chị Nga làm xếp xì cho một văn phòng của quân đội Mỹ tại Sài Gòn. Chị hét ra lửa ở công sở và ở nhà, anh Vinh cũng xếp re… vì nể sợ vợ. Tháng Tư 1975, miền Nam thất thủ, anh Vinh bị đi tù. Khi được thả, anh đưa vợ và ba đứa con đi vượt biển. Cả nhà đến Galang. Ở trại tỵ nạn, chị Nga làm thiện nguyện; anh Vinh ở nhà chăm sóc con và cơm nước. Cuộc sống âu lo phiền muộn khiến chị Nga trở nên cáu gắt. Chị đay nghiến, miệt thị, khinh chê chồng đủ điều.

Trong khi chờ đi định cư, một ngày cuối tuần, anh Vinh cùng vợ con ra biển chơi. Biển Indonesia rất đẹp, nước trong xanh biếc màu ngọc bích, có thể nhìn thấy cá lội và cát trắng dưới đáy. Anh Vinh chơi đùa với các con và vẽ hình trên cát. Hôm ấy, anh bơi ra biển rồi không thấy trở vào. Anh mất tích hẳn. Anh bị chết đuối hay anh muốn mình chìm vào lòng biển sâu để quên đi nỗi sầu nhân thế?

Nào ai biết được niềm u uẩn,

Từng lắng nhiều trong những mảnh đời…

(Thơ Quang Dũng)

6/ Tình yêu

Ở Galang có một đôi trai gái yêu nhau. Chàng 19, nàng 18. Một tình yêu lãng mạn nhưng đong đầy nước mắt. Tiếng sét ái tình mạnh mẽ khiến cả hai yêu nhau say đắm. Khốn nỗi, gia đình họ cho là tình như áng mây, chỉ thoáng đến rồi đi. Ở chốn tạm dung này chẳng có gì bền vững. Trước ngày gia đình nàng đi định cư, đôi uyên ương đã quyết cùng ở bên nhau khi cả hai… uống thuốc độc tự tử!

Tưởng chừng những nỗi thống khổ của thuyền nhân Việt Nam đi tìm tự do, một thời vang vọng trên diễn đàn thế giới, nay đã chấm dứt…

Không! Cuộc hành trình dẫn đến cái chết của 39 nạn nhân Việt Nam tại Essex vào ngày 25 Tháng Mười 2019 ở Anh lại một lần nữa cho thấy những chuyến viễn du chua xót của người Việt vẫn chưa chấm dứt… Vẫn còn biết bao người tiếp tục rời xa quê mẹ với ước mơ tươi sáng nhưng giấc mộng biến thành ác mộn! Thôi hãy cùng thắp nén hương và nhóm lên ngọn lửa yêu thương để sưởi ấm lòng người dân Việt tha phương trên mọi nẻo đường…

(Nhã Duyên)

Operation Babylift, sứ mạng nhân đạo và yêu thương

Ngày 4 tháng Tư năm 1975, chiếc phi cơ C-5 mở màn chiến dịch Babylift Operation di tản trẻ mồ côi Việt Nam sang Mỹ đã gặp tai nạn thảm khốc. Nhưng điều này vẫn không ngăn được một sứ mạng cao cả đầy nhân đạo của những người Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam.

Trong những ngày cuối cuộc chiến Việt Nam, chiến dịch di tản các trẻ em mồ côi sang Hoa Kỳ với tên gọi Operation Babylift đã được thực hiện theo sự chuẩn thuận của Tổng Thống Gerald Ford. Ông tuyên bố rằng, " Trong khi truy điệu những người đã mất, chúng ta không thể quên những người còn sống" để không chỉ có kế hoạch di tản hàng chục ngàn nhân viên người Việt, mà còn có thêm một chiến dịch dành riêng cho trẻ mồ côi được di tản bằng phi cơ quân sự, có ngân sách khoảng hai triệu đô la. Theo số liệu từ bộ phim tài liệu Precious Cargo của PBS, đã có ít nhất 2,700 trẻ em mồ côi VN được đưa sang Mỹ và khoảng 1,300 em được đưa sang Canada, Úc và Châu Âu trong sứ mạng nhân đạo này.

Rất không may là chiến dịch đã mở màn với một tai nạn thương tâm. Ngày 4 tháng 4 năm 1975, tin chiếc phi cơ C-5 bốc trẻ mồ côi Việt Nam sang Hoa Kỳ trong chiến dịch Operation Babylift gặp nạn, gây thiệt mạng 153 trẻ em, phi hành đoàn, nhân viên thiện nguyện và nhân viên văn phòng DAO tại Sài Gòn đã gây bàng hoàng và xúc động cho những người theo dõi tình hình chiến sự tại Nam Việt Nam.

Chiếc phi cơ C-5 mang số hiệu 68-0218 cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất sang căn cứ Clark Air Base tại Phi Luật Tân vào chiều thứ Sáu, là chuyến bay đầu tiên chở các trẻ em mồ côi VN được đưa sang Mỹ trong chiến dịch này. Theo kế hoạch dự tính, các em sẽ tiếp tục được chuyển sang máy bay dân sự từ Phi Luật Tân để bay tiếp đến San Diego với sự chào đón của chính Tổng Thống Ford ngay phi trường. Dù tai nạn thảm khốc xảy ra đã gây thiệt mạng gần một nửa trẻ em và các nhân viên trên phi cơ, chiến dịch vẫn được tiếp tục. Và cũng không vì điều này mà có thể cản chân hàng chục y tá trẻ người Mỹ, đang làm việc tại Hồng Kông đã quyết định tình nguyện bay sang Sài Gòn để giúp đưa các trẻ em VN về Mỹ.

Một thương gia Mỹ là ông Robert Macauley đã cầm nhà mình để lấy tiền thuê một chiếc Boeing 747 của hãng hàng không Pan Am, tiếp tục bốc dỡ những trẻ em sống sót, khi ông biết rằng các phi cơ quân đội phải mất hàng tuần để đưa các trẻ em này sang Mỹ. Câu chuyện trở thành một cổ tích tuyệt đẹp giữa những đổ nát, thương đau của buổi ly loạn trong giờ phút cuối cùng của miền Nam tự do. Không chỉ câu chuyện đầy tình người của Robert Macauley gây xúc động, mà cả chiến dịch nhân đạo Operation Babylift có lẽ sẽ mãi còn là câu chuyện đẹp trong chiến tranh Việt Nam cho những ai nhìn lại ở một góc nhỏ khác.

Những ngày đầu tháng Tư năm 1975, tình hình chiến sự tại Nam Việt Nam xem ra đã thay đổi nhanh chóng, nhất là từ sau khi Ðà Nẵng bị thất thủ. Các tổ chức quốc tế giúp đỡ và nuôi trẻ mồ côi tại Việt Nam đã có những kế hoạch riêng để di tản các trẻ em này cùng nhân viên của họ. Nhưng với kế hoạch di tản chính thức từ Tổng Thống Gerald Ford, hàng ngàn gia đình người Mỹ đã sẳn sàng đón nhận các em bé mồ côi này. Theo dự định ban đầu, khoảng 30 chuyến bay sẽ di tản hàng chục ngàn trẻ mồ côi sang Mỹ. Trên thực tế, vì tình thế thay đổi quá nhanh cũng như vì sự an toàn nên con số cuối cùng chỉ còn tổng cộng khoảng 4,000 em được di tản.

Ðây là nỗ lực của chính phủ Hoa Kỳ cùng một số các tổ chức quốc tế như Holt, Friends of Children of Vietnam (FCVN), Friends for All Children (FFAC), Catholic Relief Service, International Social Services, International Orphans và The Pearl S. Buck Foundation thực hiện. Không chỉ với các phi cơ vận tải C-5 của quân đội, còn có hàng chục chuyến bay dân sự lớn nhỏ khác cùng tham gia việc di tản đến tận ngày 26 tháng Tư, khi phi trường Tân Sơn Nhất đã bị pháo kích.

Theo lời bà Joyce Harrington, một nữ y tá trong nhóm bác sĩ và y tá người Mỹ tình nguyện từHồng Kông bay sang Tân Sơn Nhất, có cả phu nhân Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Hồng Kông tham gia chiến dịch này. Họ đã nghe tin về chuyến bay gặp nạn cũng như tình hình chiến sự Việt Nam đang giao tranh khốc liệt, không phải không lường được bất trắc có thể xảy ra, nhưng chẳng có gì ngăn cản bước chân họ trong sứ mạng cao cả đến với những em bé mồ côi đang cần sự giúp đỡ kia. Có cả một số cha mẹ nuôi đã bay thẳng sang Việt Nam để cùng tham gia nhóm nhân viên thiện nguyện, chăm sóc các em trên đường về Mỹ.

Ðây là sứ mạng mà những người từng tham dự cho rằng những thiện nguyện viên, những vị nữ tu, những nhân viên các tổ chức cứu trợ trực tiếp tham gia là những con người có tấm lòng hy sinh cao cả, làm xúc động lòng người. Trong cuốn hồi ký "Đây đích thực là người anh em tôi" (This Must Be My Brother), bà LeAnn Thieman - một y tá trẻ thiện nguyện lúc bấy giờ kể rằng, trên chuyến bay mà bà tham gia, có một người đàn ông tóc muối tiêu lặng lẽ và vụng về thay tả cho các em bé. Nhiều người không biết ông là người có vợ bị tử nạn trên chuyến bay đầu tiên gặp nạn nói trên.

Một đường dây điện thoại khẩn cấp được thiết lập tại Washington D.C để những cha mẹ nuôi tương lai gọi đến các nhân viên các tổ chức lo vấn đề con nuôi. Bên cạnh hàng ngàn gia đình Mỹ, có cả một số tài tử, chính trị gia, triệu phú, nhận các em bé Việt Nam làm con nuôi. Melody, em bé còn sống sót trên chuyến phi cơ C-5 Galaxy gặp nạn là em bé mồ côi đã được tài tử Mỹ gốc Nga Yul Brynner chờ đón để nhận nuôi. Chính Brynner đã mượn phi cơ riêng của tỉ phú Hugh Hefner, chủ nhân tạp chí Playboy để đưa Melody cùng khoảng 40 em bé khác sang New York. Hay như Kym, một bé gái mồ côi Việt Nam đã may mắn được em gái Tổng Thống Kennedy là bà Jean Kennedy Smith nhận làm con nuôi.

Những em nhỏ từng được di tản trong sứ mạng Babylift ngày ấy nay đã là những người quá tuổi trung niên, trên dưới 50. Ðược các gia đình người Mỹ nuôi nấng từ nhỏ, theo các tự bạch trên các trang mạng, một số người thú nhận rằng họ không hề có những khái niệm hay sự liên hệ gì đến Việt Nam cùng quá khứ. Dù vậy, cũng đã có khá nhiều những trang mạng được thiết lập để những người trong cuộc tìm lại với nhau. Hay thông qua sự bảo trợ của một vài tổ chức cùng giới truyền thông, một số người cũng đã quay về Việt Nam sau vài chục năm với những cảm xúc lẫn lộn, kể từ khi họ được đưa sang Mỹ. Phần lớn là sự tò mò hơn là để tìm lại cội nguồn.

Không biết bao nhiêu sách báo và phim ảnh đã nói về Operation Babylift, nhưng quả chẳng thừa để nhắc đến sứ mạng nhân đạo chứa đầy tình người trong những ngày tháng Tư này. Bởi nhìn lại nỗ lực nhân đạo tột bực này từ nước Mỹ, từ không ít bao nhiêu tấm lòng bác ái và hy sinh của những thiện nguyện viên tham gia Operation Babylift, để nhắc rằng cũng với tinh thần nhân đạo đó, nước Mỹ đã cưu mang hàng triệu người Việt vượt biển cùng những người đến Mỹ qua các chương trình nhân đạo sau này. Nên nếu có ai đó viết câu thơ như Jane Burns rằng "Tôi thuộc về chính nơi đây" thì quả cũng là điều tự nhiên.

(Đinh Yên Thảo)

 

 

 

Tags: HỒI KÝ
Tags: SAU 1975
Tags: TÁC GIẢ
Tags: TÁC PHẨM
Tags: TẢN MẠN

Đăng nhận xét

Tin liên quan