MINH DI: PHÊ BÌNH NGUYỄN HIẾN LÊ
TẠP CHÍ DÂN VĂN
DANVAN MAGAZINE
Email: danvanmagazin@gmail.com
BẢN TIN CỦA TẠP CHÍ DÂN VĂN
(XIN TIẾP TAY PHỔ BIẾN THẬT
RỘNG RÃI - CHÂN THÀNH CẢM TẠ.)
---------------------
KÍnh
thưa qúy độc giả các Diễn Đàn,
TCDV
không thích những người viết mà ký tên tắt, thí dụ như MN [mn1972.nhatrang@yahoo.com]
email phiá dưới, nhưng anh Minh Di đã lịch sự và trả lời những giòng chữ của MN
nên Toà soạn xin phổ biến để tất cả được biết...
Germany,
11.4.2014, đăng lần 2 ngày 03.12.2022
-
Điều Hợp Viên DĐ Ngôn Ngữ Việt,
-
Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN
----------------------------------------------------
Nói
chuyện với ông bà…
Học giả Nguyễn Hiến Lê được rất nhiều người
có học biết, bản thảo
của ông (chỉ mới là bàn thảo thôi) cũng được nhà xuất bản ở Mỹ in ấn,
nay có người mạt sát ông ta là đầu óc rỗng tuếch, thiếu học qua kinh
Dịch biên khảo của ông, tôi đã đọc Dịch kinh tân khảo của Nguyễn mạnh Bảo hồi
xưa bao nhiêu lần mà vẫn chả hiểu tí gì về kinh dịch cả,
cho nên, sai làm sao, đúng thế nào với tôi không quan trọng, duy cái
điểm thóa mạ người đã có công đóng góp vào văn hóa VN như Nguyễn Hiến Lê theo
kiểu này thì tôi không mất công xem tiếp!
MN
Nếu ông / bà không đọc thì cũng chẳng sao, để cho người
khác đọc.
+ Trước hết là Học
giả.
Đại khái học giả là một người có kiến thức SÂU và RỘNG, lại có
kiến giải độc đáo về vấn đề mình nghiên cứu.
(1). Chữ nghĩa.
Nói chữ nghĩa đây tức nói khả năng ngôn ngữ.
Nghiên
cứu bất
cứ vấn đề gì trong lãnh vực Học thuật của 1 Quốc gia thì phải rành rẽ ngôn ngữ Quốc gia đó! Ở đây là Hán văn.
(2). Kiến thức.
Sách tham khảo.
Không ai có thể đọc hết sách vở trong thiên hạ, thế nhưng
phải có một số kiến thức về vấn đề, tức có đọc đủ ở một mức độ nào đó không?
(3). Kiến giải. Lý
luận.
Ngoài cái kiến thức (sâu rộng), sự hiểu biết về vấn đề,
người nghiên cứu (học giả) còn phải có kiến giải về những gì mình đọc,
viết. Những gì người trước chưa nói thì đưa ra những ý kiến riêng đồng thời chỉ
được những cái thiếu chính xác, cái sai – nếu có, của những người đi trước!
Xét Nguyễn Hiến Lê theo các phương diện trên đây.
Những
phương diện trên đây Nguyễn Hiến Lê chẳng được điểm nào cả!
Trước hết, nói việc in ấn thì ở xứ Tây phương này, như
Mỹ, Anh, Pháp, chẳng hạn… nếu muốn bán tác quyền 1 cuốn sách chuyên môn nào đó
cho 1 nhà xuất bản nổi tiếng, nhà xuất bản đó nếu không rành vấn đề của tác giả họ không bao giờ mua – còn nếu
như nhà xuất bản có những cố vấn cũng chuyên môn trong lãnh vực mình viết thì
họ sẽ nhờ những cố vấn này duyệt bản thảo, nếu được họ mới mua bản quyền. Dĩ
nhiên, với những tác giả nổi tiếng thì không có vấn đề!
Ông / bà MN cứ nghĩ được như Nguyễn Hiến Lê là hay sao? Những nhà xuất bản này không chuyên môn vấn đề ông ta viết, bản thảo của ông ta được nhà xuất bản in ấn là vì ông ta sẵn có chút tiếng tăm nên nhà xuất bản nghĩ nếu in mình sẽ không lỗ; chuyện giản dị đến như thế mà ông bà MN không nhìn ra sao? Ông bà không thấy trong nước bây giờ in hà rầm những sách của Miền Nam thiếu gì, miễn là bán được! – Đầu óc của những anh lái sách rồi đến như nhau thôi, như Nguyễn Hiến Lê đã từng tính toán trong cuốn “Đời Viết Văn của Tôi”!
Vấn đề này tôi e rằng
còn phải xét lại nữa!
Về lãnh vực Cổ học (Hán học) qua cuốn “Kinh Dịch.
Đạo của Người Quân Tử” của Nguyễn Hiến Lê thì có lẽ tôi chẳng còn chút nghi
ngờ gì về “cái công” của ông ta.
Nguyễn Hiến Lê còn viết
nhiều sách khác nữa, hoặc dịch, hoặc dựa theo những sách Tây phương như Anh, Pháp.
Sách Pháp thì tôi chưa đọc nên không nói.
Còn riêng những sách Anh
văn thì có lẽ cần phải xét lại về “học giả” Nguyễn Hiến Lê!
Tôi nói là có chứng cứ
chứ không nói khơi khơi!
Trong cuốn “Kinh Dịch. Đạo của Người Quân Tử”
Nguyễn Hiến Lê tham khảo 2 cuốn bản dịch tiếng Anh bộ Kinh Dịch là “I Ching”
của James Legge (1815 - 1897), một nhà truyền giáo người Tô Cách Lan, và cuốn kia
là “The I Ching or Book of Changes”
của nhà truyền giáo Richard Wilhelm (1873 - 1930) người Đức.
Nguyễn Hiến Lê không
hiểu 2 con số 216 / 144 của Càn / Khôn chép trong nguyên tác Hán
văn, ông ta lần qua bản Anh văn
đọc bản dịch của James Legge, nhưng hỡi
ơi là hỡi ơi, ông “học giả” nhà
ta cũng không hiểu luôn!
Tiếp đến về cách Bói Cỏ Thi trong nguyên tác Hán
văn ông “học giả” của ông / bà MN cũng chẳng hiểu cách bói ra làm sao; ông “học giả” lại mò qua bản dịch Anh ngữ của Richard Wilhelm, để rồi
cũng ù ù cạc cạc luôn! Ô hô! “học giả”, “học giả”!
Người biết Anh văn, Pháp văn thì rất nhiều,
rồi có người sẽ lo chuyện này!
Có những người thấy tôi
nêu ra những cái sai, và Sai nặng,
không là sai nhỏ nhặt, của Nguyễn Hiến Lê thì không vui, thậm chí nổi giận;
những người này có khi nào bình tâm
ngồi nghĩ lại là tại sao mình không
vui, tại sao mình nổi giận?
Nghĩ cho cùng lý tận lẽ, những người này nổi giận, không vui,
thì đây là vì bản thân họ chứ không vì Nguyễn Hiến Lê! Cứ thử nghĩ mà
coi!
Có một người mua được cái áo, ưng
ý lắm, thường mặc nó ra ngoài. Một bữa nọ gặp một người nói rằng:
~ Phải
chi cái áo này xanh sậm hơn một chút, cổ áo nhỏ lại một chút, thân áo dài
thêm chút nữa, túi áo may xiên xiên chút nữa, còn nút áo như thế hơi nhiều, bớt
đi 2 nút nữa mới cân xứng, áo này may chỉ đen nổi hơn chỉ trắng, thì đẹp lắm!
~.
(Dẫn trong Tập “Ngụ ngôn” của Minh Di).
Cái áo trên đây nếu treo hay máng trong tiệm quần áo thì có lẽ người
bận cái áo đó đã chẳng không vui, vì nó chẳng dính gì tới người đó cả! Nhưng ở
đây cái áo đó người đó đang mặc! Ông / bà MN cũng đang mặc cái
áo tôi nói đó!
Trước đây mấy năm, khi 2
bài tôi Phê bình Nguyễn Hiến Lê được đưa lên Diễn đàn có 1 ông học trò cũ của Nguyễn Hiến Lê nói rằng tôi “gắp lửa bỏ tay Nguyễn Hiến Lê”.
Tôi trả lời ông này:
~ Không có ai gắp lửa bỏ
vào tay Nguyễn Hiến Lê cả, “Nguyễn Hiến Lê tự gắp lửa bỏ tay mình đó thôi!”.
Bây giờ ông / bà MN nói
tôi “mạt sát, thóa mạ Nguyễn Hiến Lê”.
Tôi cũng trả lời ông /
bà MN:
~ Chẳng có ai mạt sát, thóa mạ ông “học giả” Nguyễn Hiến Lê của ông / bà hết, chỉ có ông
“học giả” “Nguyễn Hiến Lê tự mạt sát, thóa mạ mình đó thôi!”.
Tự biết khả năng Hán văn không có, trình độ còn thấp
kém, mà cứ viết, để rồi từ đó có những suy đoán bậy bạ, lý luận càn.
Như đây thì Nguyễn Hiến
Lê không phải “tự mạt sát, tự thóa mạ” thì là cái gì đây?
Đã “tự mạt sát, tự thóa mạ” thì đừng hỏi tại sao
người khác mạt sát, thóa mạ mình!
Ở đây những cái lỗi,
những cái sai của Nguyễn Hiến Lê tôi chỉ ra rành rành nói có sách mách có
chứng, như vậy mà gọi là mạt sát, thóa mạ sao?
Ngoài những cái sai nặng NH Lê còn tỏ lộ cho độc giả thấy sự gian dối của ông ta, và việc này tôi cũng đưa ra những chứng cứ rành rành, không thể chối cãi được!
Đây là Văn hóa? Thái độ của
ông / bà phải chăng rồi cũng là cái Văn hóa gian dối của Nguyễn Hiến Lê?
Cũng là Văn hóa:
Quẻ Đại Hữu ông “học giả” dịch ra là “Có lớn”.
Quẻ Tiểu Súc dịch là “Chứa nhỏ”, Quẻ Đại
Súc dịch là “Chứa lớn”.
Đây là tiếng mọi chứ không phải tiếng Việt có
Văn hóa!
Văn hóa Việt, mà Ngôn ngữ là một thành phần, là như thế sao, thưa ông / bà MN?
Không đọc hết thì lấy gì
mà biết “gắp lửa bỏ tay người”, mà biết “mạt sát, thóa
mạ” hay không đây?
Và sau hết:
Năm ngoái đây có một
e-mail chuyển vào Spam của tôi cho
biết là có 2 ông bà giáo sư đã ra công đánh Computer và chuyển cuốn “Kinh Dịch. Đạo của Người Quân tử” của ông “học giả” vào CD để lưu lại!
Nếu nhiều người cũng làm
như thế thì cái hại rồi như thế nào đây!?
Ông / bà MN nói với ông
/ bà “sai làm sao, đúng thế nào với tôi không quan trọng”.
Thế thì, chúng ta cứ tha hồ truyền bá cái sai?
Ông / bà nói “sai làm sao,
đúng thế nào với tôi không quan trọng, duy cái điểm thóa mạ người đã có công đóng góp vào văn hóa VN như
Nguyễn Hiến Lê theo kiểu này thì tôi
không mất công xem tiếp!”.
Chẳng khác chi con ông /
bà ra đường chọc ghẹo người ta bị chúng đánh lỗ đầu, thế là ông / bà a thần a
phù chạy ra nói: “Ấy, con tôi ngoan, hiền lắm!” – Còn câu sau lẽ ra ông / bà phải nói “tại sao mấy
người đánh nó?” thì ông / bà mần thinh, không hỏi gì tới!
Trong học thuật mà ông
bà nói “sai làm sao, đúng thế nào với tôi
không quan trọng” thì rồi tất cả những kẻ dốt chỉ cần viết cho
thiệt nhiều là thành học giả?
Chính thái độ “ù lì”, bất
biết “đúng / sai” của những
người như ông / bà MN đây đã đưa một anh “lái sách” thành một ông thần “học giả”!
Ông / bà nói rằng “hồi xưa”
từng đọc Kinh Dịch qua bản [dịch] của
Nguyễn Mạnh Bảo “bao nhiêu lần” mà “chả hiểu tí gì về
kinh dịch cả, cho nên, sai làm sao, đúng thế nào với tôi không quan trọng”.
Và cũng chính cái thái độ “ù lì” và bất
biết đúng sai này của ông / bà làm ông / bà đọc Kinh Dịch “bao nhiêu lần mà chả hiểu tí gì cả”!
Ông / bà đọc sách mà không cần biết đúng / sai? Ông / bà đọc sách kiểu nào
đây?
2 Bài tôi phê bình đăng
đã lâu, nếu tôi phê bình sai thì đã có người lên tiếng!
Tôi thì chẳng dám viết láo như Nguyễn Hiến Lê – Thiên hạ bao la tôi đây nào dám có thái độ đó: “thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ, kỳ nghiêm hồ!”. (Lễ Ký. Đại học).
~ “10 con mắt chong vô, 10 cái
tay chỉ vào”, Nguyễn Hiến Lê vì được những người như ông bà tung bổng lên
thành ông “học giả” cho nên coi thiên hạ như không có, dầu có 1,000 con mắt, 1,000 cái tay “học giả” cũng chẳng sợ, “can đảm” thiệt!
Các ông các bà hẳn biết rằng bạn bè, học trò của
Nguyễn Hiến Lê rất nhiều, chưa kể người trong thiên hạ lại càng nhiều, nhiều,
hơn nữa! Tôi nào dám viết láo như ông thầy và ông “học giả” của các ông các bà
để bị thiên hạ vạch mặt, chê cười!
Sự thật (đối với những người như ông / bà MN đây) thường thì rất “kinh hoàng”, còn SỰ HƯ, những sự gian dối, lòe bịp, trái lại, thường rất êm
ái, rất dịu dàng – nếu như không êm ái, dịu dàng thì sao dối gạt, thì sao lòe
bịp được người? sao bán được sách như
trường hợp Nguyễn Hiến Lê đây?
2 bài phê bình Nguyễn Hiến Lê của tôi lúc đầu viết với mẫu chữ VPS, khi đăng lần này Tạp Chí Dân Văn
chuyển qua Unicode nên có nhiều chữ sai
dấu, như chữ “Ngu” trong câu “tức lộc vô ngu” thành chữ “ngú”
(ngu + dấu sắc), chữ “Thu” thành chữ “Thú”,
và nhiều chữ khác nữa!
Những sai dấu đó là ngoài ý muốn của tôi!
Sau đây tôi trích dẫn lại một số cái sai của Nguyễn Hiến
Lê trong 2 bài phê bình của tôi theo bản đánh lại này, để độc giả thấy những
chữ sai dấu trong bản “hoán chuyển” của Tạp Chí Dân Văn.
Trong phần trích dẫn có 1 số điều bổ túc không có trong
bài đưa lên diễn đàn lần này.
Cũng vì sự sai dấu từ việc chuyển từ mẫu chữ VPS qua
Unicode mà cách đây vài năm tôi phê bình một ông, ông em của ông này xót ruột bươi móc nhỏ nhặt là cùng một chữ mà tôi lúc
bỏ dấu thế này, lúc bỏ dấu thế kia. Sau đó biết chuyện ông ta mới thôi.
Chữ nghĩa.
(I). Kinh: 64 Quẻ. (Từ
trang 209 tới trang 516).
Lục Tam. Tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung,
quân tử cơ bất như xả, vãng lận”.
Nguyễn Hiến Lê dịch như sau:
- “Hào 3, âm:
Đuổi hươu mà không có thợ săn giúp sức thì chỉ vô sâu trong rừng thôi (không
bắt được). Người quân tử hiểu cơ sự ấy thì bỏ đi còn hơn, cứ tiếp tục tiến nữa
thì sẽ hối hận”.
(Trang 231).
Nguyễn Hiến Lê dịch chữ “NGU” trong hào Lục tam Quẻ Truân là “thợ
săn” thì thực sự tôi không tưởng ra nổi có một chuyện như thế đối với
một người tự nhận là nghiên cứu Cổ học Trung
Hoa, tên Nguyễn Hiến Lê, lại có thể kém cỏi đến thế!
Các Bộ Từ thư Trung Hoa như Thuyết
Văn Giải Tự, Khang Hi, Từ Hải, Từ Nguyên… rồi không Bộ nào giải nghĩa chữ “NGU” này là “thợ
săn” hết!
~ Bộ Khang Hi liệt kê
tất cả 16 nghĩa của chữ “NGU”.
~ Bộ Từ Hải xuất bản ở
Lục địa liệt kê 10 nghĩa.
~ Bộ Từ Hải xuất bản ở
Hương Cảng liệt kê 12 nghĩa.
~ Bộ Từ Nguyên xuất bản
ở Hương Cảng liệt kê 10 nghĩa.
~ Riêng Bộ Thuyết Văn Giải
Tự chỉ nêu có một nghĩa, ghép trong tiếng “SỒ NGU” - là một loại
“Cọp trắng vằn đen có đuôi dài hơn thân,
là một loại thú hiền, chỉ ăn thịt những con vật tự chết”.
[Ngu. Sồ ngu dã. Bạch
hổ hắc văn, vĩ trường ư thân, nhân thú, thực tự tử chi nhục”.
Tham khảo:
Thuyết Văn
Giải Tự. Qu. XIV. NGU].
Tra tất cả những bộ Tự điển, Từ điển kể trên tôi không thấy chỗ
nào nói chữ “Ngu” này có nghĩa là “thợ săn” như Nguyễn Hiến Lê dịch cả, không rõ ông ta mò ở đâu ra được cái nghĩa
này?
Đâu đó trong cuốn Kinh Dịch của ông ta Nguyễn Hiến
Lê có nhắc tới bộ Từ Hải - trong một chỗ
giảng về Quẻ Tiết, ở trang 496.
Nhưng, chẳng rõ ông ta có tra bộ Từ
điển này hay không mà dịch tầm bậy đến thế!
~
Hào 6 / 3. Săn đuổi nai mà chẳng dự liệu những
bất trắc, cứ thế sấn vào rừng, 1 việc như vậy bậc quân tử hiểu cơ sự, chẳng
thà bỏ! Cứ tiếp tục rượt theo rồi sẽ hối tiếc!”.
Chữ “NGU” trong hào Lục Tam Quẻ Truân có 2 cách giải thích:
(1). Ngu là 1 chức quan thời Đế Thuấn, chuyên coi sóc về vùng
rừng núi, ao đầm - tức như chức
Kiểm Lâm ngày nay.
Sách Thượng Thư (tức Thư Kinh) viết:
~ Đế viết: Du tư Ích, nhữ tác trẫm ngu”.
/ Thượng Thư. Ngu Thư. Thuấn điển /.
~ Đế (Thuấn) nói: Này ông Ích, ta giao cho ông cai quản vùng rừng
núi của ta”.
~ Ngu. Chưởng sơn trạch
chi Quan”.
~ Ngu. Là chức Quan cai
quản rừng núi, ao đầm”.
Hiểu theo nghĩa trên
đây, câu “tức lộc
vô ngu” kể trên có nghĩa: “Rượt theo con nai mà không có người trông coi
rừng núi hướng dẫn”.
Và như thế, tiếng “vô ngu” trong hào Lục Tam nghĩa là “không dự liệu,
không dự phòng những bất trắc, những rủi ro có thể xảy ra”, như tôi đã dịch ở
trên.
Cũng sách Thượng Thư
nói:
~ Ích viết: Hu, giới tai, cảnh giới vô ngu!”.
/ Thượng
Thư. Ngu Thư. Đại Vũ mô /.
~ (Ông) Ích nói: Ôi, đáng răn giữ thay, cảnh giới việc không dự
liệu được!”.
Cũng về Quẻ Truân,
Nguyễn Hiến Lê viết:
- “Chúng tôi không biết chữ Truân có nghĩa
là đầy, là lúc vạn vật mới sinh ra không chứ các bộ Từ Hải, Từ Nguyên ngày nay
không có nghĩa đó, chỉ có nghĩa là gian nan”.
Đọc Cổ văn Trung Quốc, lại tự xưng là người nghiên
cứu Cổ học Trung Hoa mà rồi ông Nguyễn Hiến Lê đến có
mỗi 2 Bộ Từ Hải, Từ Nguyên để tra cứu chữ
nghĩa thì ông ta quả đúng là “học giả”! Chẳng lẽ ông ta đến không có những Bộ Tự điển cần cho việc nghiên cứu như “Thuyết Văn Giải Tự”, “Khang
Hi” để thấy rằng:
~ Truân.
Nạn dã, tượng thảo mộc chi sơ sinh, truân chiên nhi nạn.
Tòng “triệt” quán “nhất”; nhất, địa dã; vĩ
khúc ~.
/
Thuyết Văn Giải Tự Nghĩa Chứng.
Qu. I Truân /.
~ Truân.
(Tai) nạn, chữ tượng hình cây cỏ lúc mới nhú, lao đao, khó khăn.
Chữ gồm chữ “triệt” xuyên qua
chữ “nhất”; chữ nhất đây chỉ mặt đất; có cái đuôi cong”.
Có điều, như tôi đã nói nhiều lần khi phê
bình là tôi không trách những người khả năng khiếm khuyết mà viết sai! Họ sai
vì ngay tình chứ không lập lờ, ba hoa khoác lác, ra vẻ giỏi lắm để có thái độ gian dối, lòe bịp người đọc, như Nguyễn
Hiến Lê đây!
Phần II. Kinh và Truyện.
- “Cao Hanh
hiểu khác, bảo: “Bầy rồng không đầu,
nghĩa là bầy rồng đã bay lên trời, đầu bị mây che nên chỉ thấy mình và đuôi. Đó
là cái tượng rồng cỡi mây lên trời, tốt”.
Trong
đoạn cuối “Lời Nói Đầu” cho Phần II này Nguyễn Hiến Lê có đoạn viết:
- “Bản tôi tham
khảo nhiều nhất là bản của cụ Phan Bội Châu (Khai Trí, 1969).
(Trang 207).
Trước đó một trang. Trang 206, Nguyễn Hiến Lê viết:
- “Riêng về hai Quẻ Càn và Khôn tôi trích dẫn thêm Văn ngôn truyện, và trong một số quẻ khác tôi cũng lác đác dùng lời
bình luận trong Hệ từ truyện mà tôi
sẽ dịch trọn và đặt sau phần kinh.
(Xem tiếp đoạn (a) ở cuối trang”.
Cuối
trang 206 nói trên, ở phần cước chú, Nguyễn Hiến Lê viết:
- “(a). Tôi lại tham khảo thêm những chú giải
của Chu Hi, lời giảng của Phan Bội Châu, đôi khi của James Legge, của Richard
Wilhelm, của cao Hanh, Nghiêm Linh Phong và vài nhà khác nữa”.
+ Nguyễn Hiến Lê đã dẫn
chú thích này của Cao Hanh (1900 - 1986) từ một cuốn sách nào đó, thế nhưng đã lập lờ không nói ra, để độc giả
nghĩ rằng ông ta đã dịch chú thích nói trên từ nguyên tác.
Tôi không ngờ Nguyễn Hiến Lê lại có thể muối mặt dối gạt độc giả như thế!
Sau đây tôi trích dẫn lại nguyên văn phần chú thích nói trên của
Cao Hanh để chúng ta và người đời
sau, con cháu chúng ta, thấy được sự dối gạt này.
Chú giải nói trên là trong bộ “Chu
Dịch Cổ Kinh Kim Chú” của Cao Hanh, nguyên văn như sau:
~ ““Hiện quần long vô thủ”
giả, quần long tại thiên, thủ vị vân tế nhi cận kiến kỳ thân, vĩ, túc dã. Thử quần long đằng thăng chi
tượng, cố viết “hiện quần long vô thủ,
cát”.”.
- ““Hiện bầy rồng không đầu” là bầy rồng
giữa trời đầu bị mây che, chỉ thấy có thân nó, đuôi nó, chân nó. Đây là hình ảnh (tượng) bầy rồng bay hút giữa trời (thẳm), vì thế mà nói “(nếu thấy) hiện ra bầy rồng không đầu thì
tốt”.”.
Qua đoạn tôi trích dẫn nguyên văn của Cao Hanh trên đây người đọc
thấy rành rành là Nguyễn Hiến Lê đã thiếu đi mất cái “CHÂN” (TÚC)
của rồng!
Có lẽ Nguyễn Hiến Lê đã “chặt nó đi” rồi chăng? Có
lẽ, vì nếu Nguyễn Hiến Lê thực sự đọc thẳng
từ nguyên văn của Cao Hanh thì tôi nghĩ lẽ
nào ông “học giả” lại không thấy cái “CHÂN” của
bầy rồng nó ở đâu?
Như vậy thì, chỉ có thể là Nguyễn Hiến Lê đã trích dẫn lại Câu này
từ người khác - hay nói khác đi
là “trích dẫn lại trích dẫn”, người ta thiếu mất cái CHÂN rồng
thì làm sao mà ông “học giả” có thể đưa ra trình cho độc
giả? Không thấy, cho nên Nguyễn Hiến Lê cứ thế mà ghi ra để lòe độc giả là mình đọc
thẳng từ nguyên tác!
Sau hết, đối chiếu nguyên văn Hán văn dẫn trên và phần Việt văn của Nguyễn Hiến Lê người đọc lại thấy là đoạn cuối của ông ta không
đúng với những gì Cao Hanh viết!
Tóm lại, có 2 trường hợp:
1). Hoặc Nguyễn Hiến Lê lập lờ, dẫn lại câu chứ thích từ một cuốn
sách nào đó, nhưng không nêu xuất xứ, cứ làm như ông ta đã dẫn từ nguyên tác.
Đây gọi là sự thiếu tự trọng,
thiếu tư cách, của một người cầm
viết!
2). Hoặc giả Nguyễn Hiến Lê đọc chính nguyên tác (như ông ta ghi
nơi cước chú (a), ở cuối trang 206). Nếu thế qua sự đối chiếu nguyên văn và
phần dịch Việt văn của ông ta thì rõ ra trình độ Hán văn của ông ta quá là kém cỏi!
[Có điều là trường hợp thứ 2) này không có thể, vì nếu đọc thẳng
nguyên tác thì ông ta không thể nào dịch
thiếu chữ “TÚC” [= CÁI CHÂN], và
đồng thời còn thiếu luôn cả câu cuối “hiện quần long vô thủ, cát”.].
+ Dầu là ở trường hợp
nào đi nữa thì cung cách, thái độ, làm việc của Nguyễn Hiến Lê trước sau vẫn là
cung cách của một “học giả” (xin đừng
quên cái ngoặc kép “”!
Và sau cùng nữa:
Qua 2 trường hợp của Chu Tuấn Thanh và Cao Hanh dẫn trên tôi thấy
rõ một chuyện:
Về mặt trích dẫn, nếu một câu, một đoạn Hán văn nào trong những
tác phẩm cổ mà đã có người dịch thì Nguyễn Hiến Lê “rất hùng
dũng” ghi ra phần phiên âm Hán Việt trước phần dịch Việt
văn của ông ta, hay “xào lại” của người khác làm của mình (?)! Còn nếu chưa có ai dịch thì ông ta lờ đi phần phiên âm Hán Việt không ghi ra!
Làm như vậy thì ai biết đó vào đâu?
Học giả mà như vậy sao?
- “(Tích thiện
chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương…”.
(Trang 224).
Có điều lạ là trước đó ở trang 146, cũng chữ nói
trên, Nguyễn Hiến Lê đã đọc đúng âm là “Khương”.
Nguyễn Du có mấy câu:
Khi ăn
khi nói lỡ làng,
Khi thầy,
khi tớ, xem thường xem khinh.
Khác màu
kẻ quí người thanh,
Ngẫm ra
cho kỹ như hình con buôn!
Bây giờ hãy coi “học giả” Nguyễn Hiến Lê dịch câu trên của Quẻ Mông ra làm sao.
Ông ta dịch như sau:
- “Hỏi (bói)
một lần thì bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì không bảo…”.
Nguyễn Hiến Lê dịch chữ “Độc”
là “Nhàm” thì đúng là “NHẢM” quá đi!
Chữ “Độc”
ở đây nghĩa “khinh lờn”, là “coi thường”, không có nghĩa
nào là “nhàm” như Nguyễn Hiến
Lê dịch sai!
Đã không biết, đem sự hoài
nghi, thắc mắc đi hỏi người,
người giải nói cho biết mà vẫn không tin, cứ hỏi tới, hỏi lui, như vậy là “khinh lờn”, “coi thường” người mình hỏi!
Một đứa con nít cũng biết nữa là!
Hào Thượng Lục Quẻ Tu
nói:
~ Nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lai… ~.
Nguyễn Hiến Lê dịch như sau:
- “Vào chỗ cực
hiểm rồi, nhưng có 3 người khách thủng thẳng sẽ tới…”.
Tới đây thì càng rõ hơn về trình độ Hán văn của “học giả” Nguyễn
Hiến Lê.
Cái gì chứ dịch từng chữ một (word for word /
mot à mot) thì “học giả” Nguyễn Hiến Lê giỏi hơn ai hết!
Này nhé:
Bất = Không. Tốc = Nhanh. “Không
nhanh” thì, là “thủng thẳng” chứ còn gì nữa!
Chắc hẳn “học giả” Nguyễn Hiến Lê rất đắc ý với tài dịch thuật của
mình!
Đáng tiếc, thực đáng tiếc
cho Nguyễn Hiến Lê là những bộ Chú giải Kinh
Dịch của các học giả - và là học giả
thực sự, cổ kim còn chưa biến đi đàng nào cho nên là mới lòi ra cái Dốt Hán văn cũng như sở học tồi tệ
về Dịch của “học
giả” Nguyễn Hiến Lê!
+ Chữ “tốc” ở đây có nghĩa là “mời,
gọi”, là “chuốc lấy”, không có nghĩa là “nhanh” như ông “học giả” Nguyễn Hiến Lê hiểu, một cái “hiểu” chưa tới nơi,
rất nông cạn!
Ở cuối trang 207, về phần dịch Kinh
văn 64 Quẻ của ông ta, Nguyễn Hiến Lê đã nói rất rõ là “có thể
nói chỉ là diễn lại phần giảng” của cụ Phan Bội Châu (1867 - 1940).
Bởi thế tôi đã phải duyệt Bản
chú giải của cụ Phan để coi cụ
giảng 2 chữ “bất tốc” của Quẻ Tu này ra sao?
Và cụ Phan đã viết rành rành thế này: “Bất tốc, nghĩa
là chẳng mời”!
+ Ô hô! “Học giả” Nguyễn Hiến
Lê rồi rượt học giả
cổ / kim chạy tới vắt giò lên cổ” - để một mình “học
giả” nhà ta cứ “thủng thẳng” mà đi!
Trong “Bình Ngô Đại Cáo”
Nguyễn Trãi (1380 - 1442) có câu:
Vị bỉ tất dịch
tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục
tác nghiệt dĩ tốc cô!
Tưởng giặc hẳn đổi lòng mà hối cải,
Ngờ đâu lại tác ác chuốc tội
thêm!
Đó:
2 tiếng “tốc cô”, chữ tốc nghĩa là “chuốc lấy”, chữ “cô”
nghĩa là tội – như nói “vô cô”.
Với những chứng cứ tôi trưng dẫn trên đây, có nói Nguyễn Hiến Lê dốt Hán văn hẳn là chẳng ai có thể dị nghị, chẳng ai có thể nói là tôi nói nặng!
Một kẻ vỗ ngực xưng với thiên hạ mình là “người nghiên cứu về cổ học Trung
Hoa” mà trình độ Hán văn tệ
đến thế sao? ~ Một người có trình độ Hán
văn trung bình thôi còn không đến nỗi sai một lỗi như vậy!
Đất nước tới thời mạt vận cho nên mới nảy sinh những kẻ như Nguyễn
Hiến Lê đây!
(a). Dịch sai.
Hào Cửu Tam Quẻ Đại Tráng
nói: “… Đê dương xúc phiên, luy kỳ giốc!”.
Nguyễn Hiến Lê dịch:
- “… con cừu
đực húc vào cái dậu, bị thương cái sừng”.
Minh Di:
~ “Đê dương” là “con dê đực”, không phải là “con cừu đực”.
Tiếp đến:
~ Chữ “luy” trong câu có nghĩa là “vướng, mắc kẹt”, không có nghĩa
“bị thương” - như Nguyễn Hiến
Lê hiểu và dịch sai!
Và như vậy, dịch đúng là:
~ … Con dê đực húc vào hàng rào, cái sừng của nó
(rồi bị) mắc kẹt giữa hàng rào!”.
Điều đáng ngạc nhiên là ở
hào Thượng Lục sau đó 3 hào, cũng 2 chữ “đê dương” này Nguyễn Hiến
Lê lại ghi đúng là “con dê đực”!
Sao lại tức
cười đến thế nhỉ!
Nguyễn Hiến Lê dịch:
- “Thầy (Khổng)
nói: “người con họ Nhan (tức Nhan Hồi) có lẽ gần đạo chăng?”.
(Trang 566).
Nguyễn Hiến Lê dịch câu “Nhan thị chi tử” là “người con họ Nhan” thì tới phải
nói rằng tức cười quá là tức cười, cười tới đỏ phừng cả mặt mũi đi!
Tên người Trung Hoa đôi lúc ghi kèm các chữ “Chi”,
“Tử”… đây là những trợ từ, những chữ đệm, không có nghĩa nào hết, như Giới Thôi (? - ?), một trong những tùy
tòng của Trùng Nhĩ - sau là Tấn Văn
Công (697 - 628; tại vị: 636 - 628 tr. Cn), lúc lưu vong, thời Xuân Thu (770 -
403 tr. Cn), cũng được gọi là Giới Chi Thôi, Giới Tử Thôi.
Bộ “Tả Truyện” viết:
~ Tấn hầu thưởng tòng vong giả, Giới Chi Thôi bất ngôn lộc, lộc dịch phất cập”.
/ Tả Truyện. Hi công 24 niên /.
~ Vua Tấn thưởng công những người theo mình trong thời gian bỏ nước chạy ra ngoài lánh nạn, Giới Chi Thôi không nhắc tới bổng
lộc, mà rồi bổng lộc cũng không tới”.
Đỗ Dự (222 - 284) thời Tây Tấn (265 - 317) chú thích:
~ “Giới Thôi, Văn Công vi thần. Chi, ngữ trợ”.
~ “Giới Thôi, bề tôi cấp nhỏ của (Tấn) Văn Công. Chi, là
trợ ngữ từ”.
~ “Phàm Xuân Thu nhân danh trung hữu “Chi” tự giả, giai
phỏng thử”.
/ Kinh
Truyện Thích Từ. Chi /.
~ “Nói chung, trong tên người thời Xuân Thu mà có chữ “Chi”
thì đều phỏng theo đây”].
Cũng vậy, chữ “chi”
trong câu “Nhan thị chi tử” trong nói trên cũng là một trợ ngữ từ, là một
tiếng đưa đẩy, không có nghĩa gì cả! Nguyễn Hiến Lê nghĩ đây là một giới từ do đó mới dịch
ù cạc như trên!
Ô hô, ông “học giả” Nguyễn Hiến Lê rồi “chẳng
tha” một chữ nào hết, có bao nhiêu chữ ông “học
giả” của chúng ta, đúng ra là của ông / bà MN, đều dịch, và dịch từng chữ, và
dịch cho kỳ hết!
Riêng về chữ “Tử” thì thời cổ chữ này được ghi kèm theo Tên, hoặc Họ của một người để biểu lộ lòng tôn kính về phương diện học vấn, tư tưởng hay đức hạnh…. chẳng hạn Tôn Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử, Trang Tử, Hàn Phi Tử…. nói “Bách gia Chư tử” là do đó!
Chữ “Tử” ở đây dĩ nhiên không dịch được.
Chữ “Tử” này có
một nghĩa thông thường là “Con”, hoặc trường hợp nếu xác
định có nghĩa là “Con trai”.
Cứ như “học giả” Nguyễn Hiến Lê mà làm tới thì chúng ta đến
phải gọi các nhân vật kể ở trên là “người con họ Tôn”, “người
con họ Khổng”….
Thoán từ Quẻ này nói:
~ Tỉ, cát. Nguyên thệ, nguyên vĩnh trinh, vô cữu. Bất ninh
phương lai, hậu phu hung ~.
Nguyễn Hiến Lê nói về câu “hậu phu hung” như sau:
- “Còn ba chữ
“hậu phu hung” thì không sách nào cho biết là ám chỉ hào nào, có
lẽ là hào trên cùng chăng?”.
(Trang 254).
Với câu “Còn ba chữ “hậu phu hung” thì không sách nào cho biết là ám chỉ
hào nào” tôi thấy ngay là Nguyễn Hiến Lê đọc Kinh Dịch chẳng bao nhiêu mà ăn nói hàm hồ, và lớn lối nữa, nếu không
muốn nói là ba hoa, khoác lác!
Nói “không sách nào cho biết là ám chỉ hào nào” tức Nguyễn
Hiến Lê có ý nói ông ta đã đọc khắp
hết các bản chú giải Kinh Dịch, và thấy rằng tuyệt nhiên không có bất cứ
một chú giải nào nói câu này chỉ hào nào cả! Độc giả không thể
nào nghĩ khác hơn!
1/. Hán Thượng Dịch
Truyện. Chu Chấn (1072 - 1138) thời Bắc Tống (960 - 1127).
2/. Chu Dịch Khuy Dư.
Trịnh Cương Trung (1088 - 1154) thời Nam Tống.
3/. Chu Dịch Nghĩa Hải
Toát Yếu. Lý Hành (? - ?) thời Nam Tống (1127 - 1279).
4/. Chu Dịch Ngoạn Từ.
Hạng An Thế (? - 1208) thời Nam Tống.
5/. Chu Dịch Tập Thuyết.
Du Diệm (1258 - 1314) thời Nam Tống.
6/. Chu Dịch Tập Giải Toản
Sớ. Lý Đạo Bình (? - ?) đời Thanh (1644 - 1911).
7/. Chu Dịch Thượng Thị
Học. Thượng Bỉnh Hòa (1870 - 1950) thời Dân Quốc.
8 Bản chú giải trên đây nói tiếng “hậu phu” chỉ hào Thượng Lục Quẻ
Tỉ.
8/. Dịch Kinh Lai Chú Đồ
Giải. Lai Tri Đức (1525 - 1604) đời Minh (1368 -
1644).
Lai Tri Đức phân 2 chữ “phu”, hào 9
/ 5 chỉ “(tiền) phu”, hào Thượng Lục chỉ “hậu
phu”.
9/. Lục
Thập Tứ Quái Kinh Giải. Chu Tuấn Thanh (1788 - 1858)
Chu Tuấn Thanh thì nói chữ “hậu”
chỉ hào Thượng Lục, chữ “phu” chỉ hào Cửu
Ngũ.
10/. Chu
Dịch Yếu Nghĩa. Tống Thư Thăng (? - ?) thời cận đại.
Tống Thư Thăng nói tiếng “hậu phu” chỉ hào Lục Nhị:
~ Hậu
phu, chủ nhị âm chi bất biến ngôn; dụng Vị lệ: ngoại quái vi tiền, nội quái vi hậu - Nhị ti nhu bất biến, thất thời, cố hung ~.
~ “Hậu
phu” chủ yếu nói hào 6 / 2 bất biến; lấy thể lệ về Vị thứ [quẻ đơn trong Quẻ] mà nói: ngoại quái trước nội quái sau; hào 2
vị thấp, thể nhu, bất biến, thất thời nên xấu.
Với những gì đã dẫn ở trên thì rành rành là
các Bản chú giải “Kinh Dịch” đều có giải
rõ 2 tiếng “hậu phu” là hào nào, hào
nào đầy ra đó!
Nguyễn Hiến Lê ngồi
đáy giếng khoác lác, coi trời bằng cái nắp nồi; hay là
ông ta được một số coi là học giả nên
nghĩ mình muốn nói gì thì nói?
Hoặc giả ông ta muốn khoe “không sách nào cho biết là ám chỉ hào nào”, để rồi từ đó đưa ra suy đoán “có lẽ là hào trên cùng chăng?”, để thiên hạ phải nể phục chăng? Vì lẽ từ cổ chí kim chẳng có ai
nói, chẳng có ai suy đoán, chỉ mỗi ông ta mà thôi!
Sau hết, như tôi đã dẫn ở trên, trong “Lục
Thập Tứ Quái Kinh Giải”, Chu Tuấn Thanh đã giảng là chữ “hậu” chỉ hào Thượng Lục,
chữ “phu” chỉ hào Cửu Ngũ.”
- “Chu Tuấn Thanh trong Lục Thập Tứ Quái Kinh Giải - Cổ tịch xuất bản xã ”……
Tức ông ta có bản Chú giải của Chu Tuấn
Thanh, thế mà không rõ tại sao ở đây ông ta lại nói “Còn ba chữ
“hậu phu hung” thì không sách nào cho biết là ám chỉ hào nào”.
Và như vậy, ở đây, tôi thấy hết sức rõ Nguyễn
Hiến Lê để lộ sự gian dối, sách ông ta không tham
khảo mà dám ghi ra làm như có tham khảo. Với cách hành xử như vậy Nguyễn Hiến Lê chẳng những gian dối mà còn khinh
thường độc giả nữa, coi độc giả như một đám ngu ngơ chẳng biết gì!
Kim Thánh Thán (1608 - 1661) trong bài phê
bình bài “Hoàng Hạc Lâu” có đoạn viết:
~ Phả kiến úc súc tế nho chung thân úng tỵ u u khổ ngâm, đáo đắc cái quan chi nhật, nhân dữ thu
thập bộ thự dịch đắc sổ bách, thiên, vạn dư ngôn, nhiên nhi
tằng bất đắc nhất hương lý tiểu nhi! ~.
/ Kim Thánh Thán Tuyển Phê Đường Tài Tử Thi.
Thôi Hiệu. Hoàng Hạc Lâu /.
~ Ngó lại những bọn nho sĩ tầm thường thô lỗ một đời bịt mũi ư ử ngâm nga, tới ngày đóng nắp quan tài lại, tom góp
những gì bọn này viết ra, người ta thu
được cũng tới cả trăm ngàn vạn lời, mà rồi cũng không bằng một đứa con nít trong làng! ~.
Ở trang 79,
Nguyễn Hiến Lê viết:
- “Tiêu Diên Thọ có sáng kiến cho mỗi quẻ (trùng quái) biến thành 64 quẻ,
như vậy 64 x 64 được 4.096 quẻ. Tôi không hiểu cách “biến”
đó ra sao ( lại lấy 64 quẻ chồng lên nhau? ). Cách đó cũng không ai theo, vì số
quẻ nhiều quá, làm sao đặt tên giải thích cho hết được? Ông còn lấy mỗi hào làm
chủ cho một ngày: 64 quẻ có 384 hào, mà mỗi năm chỉ có 365 ngày, còn lại non 20
hào nữa, ông dùng làm gì, cũng không biết”.
Cứ đọc đoạn trên đây thì
rõ trình độ hiểu biết về Dịch học của Nguyễn Hiến Lê vô cùng kém cỏi, một sự
kém cỏi làm người ta phải kinh hãi, nói
rõ ra là dốt!
Vì kiến thức Dịch học
quá kém cỏi cho nên Nguyễn Hiến Lê lại suy đoán lung tung, hay như lời tục nói
là “ăn ốc nói mò”! Không suy đoán, không “ăn ốc”, còn đỡ, mở miệng ra
suy đoán chỉ để lòi ra cái kém cỏi, nếu không nói là cái dốt!
Trước hết, con số 4096
Quẻ nói đây không là những Quẻ mới,
thành từ 64 Quẻ chồng lên nhau. Số
Quẻ vẫn là 64 Quẻ ta vẫn thấy trong Kinh Dịch, Nguyễn Hiến Lê
chớ quá lo lắng “số quẻ nhiều quá, làm sao đặt tên giải
thích cho hết được?”.
64 Quẻ diễn tiến theo
thứ tự trong Kinh Dịch là: Càn. Khôn.
Truân. Mông. Tu. Tụng… cho tới Quẻ Vị Tế (Quẻ thứ 64) thì hết một VÒNG, ở đây
tạm gọi là Chu kỳ.
Tiếp đó, ở VÒNG thứ 2
thì Quẻ thứ 2, Quẻ Khôn, chuyển lên đứng đầu Chu kỳ, và cứ
theo cách này thứ tự Chu kỳ sẽ là: Khôn.
Càn. Truân. Mông. Tu. Tụng… Ký Tế. Vị Tế.
Chu kỳ thứ 3, theo đó,
sẽ là: Truân. Càn. Khôn. Mông. Tu.
Tụng… Ký Tế. Vị Tế.
Cứ thế mỗi Quẻ trong 64
Quẻ sẽ lần lượt đứng đầu một Chu kỳ, hoặc, nói cách khác là mỗi Quẻ sẽ lần lượt trải qua 64 Chu kỳ.
Như vậy, 64 x 64 = 4096, con số 4096 là từ đó mà
ra, và như vậy, chẳng có việc chồng 64
Quẻ lên nhau để thành 4096 Quẻ mới cho Nguyễn Hiến Lê đặt tên đâu! Nguyễn
Hiến Lê suy đoán mò mà chẳng trúng vào đâu!
Tiếp đó, Nguyễn Hiến Lê
lại càng để lòi cái trình độ Học chưa tới, Vấn chưa thông của ông ta khi nói rằng 64 Quẻ có 384 hào thì làm
sao có thể ứng hợp 365 ngày của 1 năm cho được? Ông “học giả”
Nguyễn Hiến Lê đọc chưa tới đâu, để
có thể biết rằng đây là Thuyết gọi là “Lục
nhật thất phân” trong Học thuyết “Quái
Khí” của Mạnh Hỉ, thầy học của Tiêu Diên Thọ.
(Cách sắp xếp trên đây
ghi trong cuốn Dịch Lâm của Tiêu Diên
Thọ).
Gọi là “Quái Khí”
vì Mạnh Hỉ lấy 24 tiết khí của một năm phối hợp với 64 Quẻ.
Trước hết, về thứ tự Bát
Quái, Mạnh Hỉ căn cứ thứ tự “Hậu Thiên” của Văn vương, tức thứ tự
“Càn. Khảm. Cấn. Chấn. Tốn. Li. Khôn.
Đoài” để mà lập thuyết, theo đó 4 Quẻ Chấn. Đoài. Li. Khảm chiếm vị trí 4
Phương chính là Đông. Tây. Nam. Bắc.
4 Quẻ này do đó được gọi là “Tứ Chính Quái”, mỗi Chính Quái chủ quản một Mùa:
+ Chấn mùa Xuân. Li mùa Hạ.
Đoài mùa Thu. Khảm mùa Đông.
4 Quẻ mỗi Quẻ có 6
hào, vậy 4 Quẻ gồm: 4 x 6 = 24 hào, mỗi hào ứng với 1 tiết khí:
+ Chấn.
~ Hào Sơ ứng tiết Xuân Phân,
~ Hào 2
ứng tiết Thanh Minh.
~ Hào 3
ứng tiết Cốc Vũ.
~ Hào 4
ứng tiết Lập Hạ.
~Hào
5 ứng tiết Tiểu Mãn.
~ Hào Thượng
là Mang Chủng.
Hào Sơ của Chính Quái luôn luôn là một trong Nhị Phân
(Xuân Phân / Thu Phân) hoặc Nhị Chí (Hạ Chí / Đông Chí), như ở
thí dụ nói trên, hào Sơ của Chấn là Xuân Phân.
3 Quẻ kia:
Hào Sơ của Li là Hạ Chí.
Hào Sơ của Đoài là Thu Phân.
Hào Sơ của Khảm là Đông Chí.
Trở lại thuyết “Lục
nhật thất phân”:
4 Chính Quái không tính, còn lại 60 Quẻ. Một
năm có 365 ngày và 1 / 4 ngày, và do đó trung bình mỗi Quẻ được 6 ngày: 60 x 6
= ngày, dư ra 5 ngày và 1 / 4 ngày.
Theo cách tính của Mạnh Hỉ thì mỗi ngày được
phân làm 80 phân.
Như vậy số ngày lẻ 5 ngày và 1 /
4 ngày dư ra kia tính ra phân sẽ là 420 phân.
420 phân chia cho 60
Quẻ: 420 ¸ 60, mỗi Quẻ được 7 phân chẵn.
Và như vậy 1 Quẻ = 1 ngày 7 phân.
Và 1 hào = 1 ngày 7/6
phân.
Do đó mà gọi là “Lục
nhật thất phân”.
“64 quẻ có 384 hào, mà mỗi năm chỉ có 365 ngày, còn
lại non 20 hào nữa, ông dùng làm gì, cũng không biết”.
+ “Non
20 hào” đó để cho ông Nguyễn Hiến Lê dùng, dùng làm gì cũng được!
Ô hô, ông “học giả” ơi
là ông “học giả”!
[Chú
thích.
+ Không như một số người nghĩ, người Trung
Hoa thời cổ rồi chỉ biết Âm lịch, họ
cũng biết Dương lịch, có điều họ không dùng mà thôi!
Năm Dương lịch có 365 ngày và 1 / 4 ngày dẫn
trên đây vào đầu thời Hán người ta đã tính ra được kết quả
này. Thư tịch thời đó đã có những ghi chép rõ về điều này.
Tác phẩm “Hoài
Nam Tử” (Thiên “Thiên Văn Huấn”) viết:
~ Phản phục tam bách lục thập ngũ độ, tứ
phân độ chi nhất nhi thành nhất tuế ~.
~ Trở đi trở lại 365 độ, và 1 / 4 độ thì tròn
một năm ~.
+ “Kỳ xuất nhập dĩ độ, ngoại nội sử tri
cụ”.
Nguyễn Hiến Lê dịch và chú thích như sau:
- “Dịch: (Dịch) ra vào có chừng
mực, (việc) trong (việc) ngoài, (Dịch) khuyên ta phải thận trọng.
Chú thích: Tiết này tối nghĩa, e sót chữ hay lầm. Phan
Bội Châu không dịch.
Vương Hàn giảng xuất nhập là “hành tàng”
(xuất xử), nội ngoại là ẩn hiện”.
(Trang 572).
Thường người ta ưa nói “nội / ngoại”, [chữ NỘI đứng trước chữ NGOẠI], nhưng ở đây câu trên
lại nói ngược lại là “NGOẠI NỘI” để đối với 2 chữ “xuất nhập” ở trước.
Tôi thấy rất rõ 1 điều là mỗi lần gặp câu nào, đoạn nào
không hiểu, hoặc hiểu lờ mờ thì Nguyễn Hiến Lê lại một điều rằng “tối nghĩa”, hai điều rằng “khó hiểu”…
Ở đây lại ông ta còn “e
sót chữ hay lầm” để biện hộ cho sự hiểu biết kém cỏi của mình! Nghe ông “học giả” đưa ra nhận xét “sót hay lầm” này, độc giả không biết sẽ
nghĩ rằng ông này giỏi quá có thể có nhận định được những chỗ khúc mắc của Kinh!
Độc giả không chuyên môn có biết đâu rằng Nguyễn Hiến Lê
chơi trò “lập
lờ” bịp bợm!
Vì rằng, suy đoán “e sót
chữ hay lầm” này là của học giả Chu
Hi:
~ Thử cú vị tường, nghi hữu thoát ngộ. ~.
/ Chu Dịch Bản Nghĩa. Qu. III. Hệ Từ Hạ Truyện /.
~ Câu này không rõ, ngờ rằng có sót chữ (hoặc) lầm lẫn. ~.
Thái độ này là “thiếu lương thiện”, là gian dối!
Câu này dịch như sau:
~ (Từ sự thông hiểu Dịch mà) xuất thế hay nhập thế người ta phải có một số mẫu mực để
theo và những nguyên tắc phải giữ, mỗi một hành vi trong thời xuất cũng như trong thời
xử đều phải cẩn thận, đắn đo ~.
Trong “Lời Nói Đầu” cho cuốn “Kinh Dịch. Đạo của Người Quân Tử”
Nguyễn Hiến Lê nói với các “bạn trẻ” của ông ta rằng Chương về lịch sử các phái
Dịch học (Chương III) không quan trọng!
Nguyễn Hiến Lê nghĩ rằng Lịch
Sử Dịch học không quan trọng là vì
tài liệu của ông ta về vấn đề này vốn
chẳng có gì, chỉ tóm lược những điều rất sơ lược từ một Cuốn sách nào đó! Cho
nên, cũng chẳng lạ tên của các học giả tiếng tăm trong lãnh vực Dịch học Nguyễn Hiến Lê có lúc ù ù cạc
cạc, viết bậy!
Như cuối câu cuối của đoạn chú thích trên của ông ta Nguyễn Hiến
Lê đã viết một câu là “Vương Hàn giảng…..” Nguyễn Hiến Lê
vốn không biết rằng Vương / Hàn ở đây là 2 người chứ không là một
người.
Vương tức Vương Bật
(226 - 249), và Hàn tức Hàn Khang Bá
(332 - 380).
Vương Bật thì tôi đã nói khá đầy đủ trong bài trước, ở đây không
nói nữa, dài giòng!
Hàn Khang Bá, người thời Đông Tấn (317 - 420), là Dịch học gia
thuộc Phái Nghĩa Lý. Sau Vương Bật, Hàn Khang Bá là một nhân vật trọng yếu của
Phái này.
Không khác Vương Bật, Hàn
Khang Bá vận dụng Kinh Dịch nhằm mục
đích phát huy tông chỉ Lão, Trang. Ảnh hưởng của ông rất lớn đối với Dịch học các triều Tống, Minh.
Về Kinh Dịch, Vương Bật
chỉ chú giải 64 Quẻ, đến sau đó Hàn Khang Bá chú giải các phần “Hệ
Từ Thượng / Hạ”, “Thuyết Quái”, “Tự Quái”, “Tạp
Quái”.
2 ông có cùng quan điểm nên học giả thời sau đã nhập 2 phần Chú
giải Kinh Dịch của 2 ông lại trong
một Cuốn, ghi Tựa là “Chu Dịch Vương Hàn
Chú”.
Đây là một bản Chú giải Kinh
Dịch quan trọng, đã nghiên cứu Kinh
Dịch thì không thể không biết, do đó không ai là không rõ Vương Hàn là 2
người, dầu rằng trong tựa sách 2 chữ này in liền nhau! Nguyễn Hiến Lê
đã trích dẫn lời Chú giải của Hàn Khang Bá từ một cuốn sách nào đó, tác giả
cuốn sách này ghi tên Bộ chú giải này như đã
ghi, do đó ông ta cứ thế ghi lại, tưởng Vương Hàn là một học giả
nào đó! Thiệt là tai hại, không rõ Lịch sử Dịch học thì tai hại như vậy đó!
Lý luận.
Sau cùng, mở đầu đoạn có tiêu đề “Định Mệnh”
Nguyễn Hiến Lê viết:
- “Chúng tôi sẽ
không xét thuyết Tượng số trong Dịch truyện (Hệ từ truyện) vì không hiểu nổi
thuyết đó, không thấy nó có ích lợi gì cho nhân sinh”.
(Trang 155).
Thật tức cười hết sức! Nguyễn Hiến Lê nói ông ta “không
hiểu nổi” thuyết Tượng Số, nếu thế làm thế nào ông ta biết là
thuyết này “ích lợi hay không ích lợi cho nhân sinh”? Nguyễn Hiến Lê
rồi dựa vào đâu để mà khẳng định 1 điều
ông ta không hiểu nổi?
Liền lúc vừa khẳng định xong “không hiểu nổi” thuyết Tượng
Số thì Nguyễn Hiến Lê không còn tư cách và thẩm quyền để khẳng định,
hay phủ định bất cứ điều gì liên quan vấn đề mà ông ta “không
hiểu nổi”.
- Một đứa con nít rồi cũng không để lọt lỗ tai cho nổi câu nói của Nguyễn Hiến Lê!
Kinh Dịch nói:
~ “Càn chi sách nhị bách nhất thập hữu lục,
Khôn chi sách bách tứ thập hữu tứ”.
(Hệ Từ Thượng. IX).
Nguyễn Hiến Lê dịch và chú thích như sau:
- “Thẻ của Càn là 216, thẻ của Khôn là 144,
cộng lại là 360, hợp với số ngày trong một năm”.
Chú thích: Càn và Khôn
trong tiết này trỏ quẻ Thuần Càn (sáu hào dương) và quẻ Thuần Khôn (sáu hào
âm). “Sách” chúng tôi dịch theo từ điển là thẻ (có lẽ là cọng cỏ thi?)……
Do đâu mà có những số 216 và 144? Wilhelm
và Legge mỗi nhà giảng một khác….., chúng tôi không hiểu
mà cũng không cho là quan trọng, cho nên không
dịch”.
(Trang 536).
Nguyễn Hiến Lê không hiểu do đâu mà có các con số 216 và 144?
Trong Kinh Dịch,
số 9 là số Thái dương, số của Càn, số
6 là số Thái âm, số của Khôn.
Trong lối bói cỏ thi, cách tính âm dương Thái / thiếu –
tức Thái dương / thiếu dương và thiếu âm / Thái âm – của các hào dựa trên Cơ số (Base) 4.
Các số 216 và 144 được tính như sau: Càn = 9 x 4 = 36. Khôn = 6 x 4 = 24.
Mỗi Quẻ có 6 hào, vậy: Càn = 36 x 6 = 216. Khôn = 24 x 6 = 144.
Thường thì trong Dịch học người ta chỉ nói 2 số của Càn, Khôn.
Bên cạnh đó, còn có số thiếu âm / thiếu
dương, số thiếu âm là 8, số thiếu dương là 7.
Cũng như cách tính trên:
Thiếu âm = 8 x
4 = 32. Thiếu dương = 7 x
4 = 28.
Vậy:
Số của thiếu âm = 32 x 6 =192. Số của thiếu dương = 28 x 6 = 168.
Nguyễn Hiến Lê vốn bất thông Hán văn do đó ông ta mở sách tiếng Anh
ra để tìm hiểu căn nguyên của 2 con
số 216 và 144 của Càn và Khôn. Nhưng khi đọc xong thì ông ta cũng nói là “chúng
tôi không hiểu”. Thiệt là không phải “bó tay”, mà là “bó toàn thân”!
- “The actual
number of the undivided and divided lines in the hexagrams is the same, 192
each. But the representative number of an undivided line is 9, and of a divided
line is 6. Now 9 x 4 (the number of the emblematic figures) x 6 (the lines of
each hexagram) = 216; and 6 x
4 x 6 = 144”.
- “Số thực sự của các hào dương và hào âm
trong 64 Quẻ thì như nhau, mỗi loại [hào] là 192. Nhưng con số biểu tượng của hào dương là 9, và của hào âm là 6. Do đó 9 x 4 (số của Tứ tượng) x 6 = 216; và 6 x 4 x
6 = 144”.
Đoạn văn của James Legge hết sức dễ hiểu, vậy
mà Nguyễn Hiến Lê lại không hiểu!
Sở dĩ thế là vì sự hiểu biết về Kinh
Dịch của Nguyễn Hiến Lê quá kém cỏi! Nguyên tác Hán văn ông ta không hiểu,
đọc qua Anh văn để coi có hiểu không,
rốt cục ông ta cũng không hiểu luôn! Vậy thì ông
ta hiểu cái gì?
Dĩ nhiên, Nguyễn Hiến Lê có thể không đồng ý với
quan điểm của “Hệ Từ Thượng” về cách tính 2 con số 216 và 144, nhưng không thể không biết cách tính này ra
sao!
Bây giờ, ở đây chúng ta hãy nghe cái lối
lý luận ba láp, tức cười, như kiểu trên đây của ông “học giả” Nguyễn
Hiến Lê về thuyết Tượng Số:
- “Do đâu mà có những số 216 và 144? ……, chúng
tôi không hiểu mà cũng không cho là quan trọng,
cho nên không dịch”.
Thiệt bá láp quá sức!
Nguyễn Hiến Lê không hiểu “do đâu mà có
những con số 216, 144” thế thì làm thế nào ông ta có thể cho là hay “không cho là quan trọng”?
- Đã không hiểu thì ông ta không thể “cho là”, hay “không cho là”, bất cứ điều gì về vấn đề mà ông không hiểu cả! Một đứa con nít
đến phải bưng miệng cười vì cái lý
luận ba láp của “học giả” Nguyễn Hiến Lê!
Chưa luận trường hợp các tác giả Tây phương sai các ông, các bà khoa bảng Tây học
Việt Nam chẳng làm sao lần ra được, mà ngay cả khi họ chính xác thì các ông, các bà
nhà ta cũng không làm sao hiểu được họ nói cái gì nữa!
Nguyễn Hiến Lê là một cái gương!
Cả đời ông “học giả” này về phương
diện Cổ học Trung Quốc rồi đến chỉ dựa vào các sách Anh, sách Pháp. Kết quả ra
sao thì tôi đã chứng minh rất rõ!
Phương pháp
làm việc.
Chẳng những vậy mà cho đến những chuyện thông thường ông ta vẫn để
lộ sơ hở, kể một vài điều:
(1). Thư tịch Nguyễn Hiến Lê trưng dẫn.
+ Trước hết là cuốn “Dịch
Học Tân Luận” của Nghiêm Linh Phong.
Ở trang 34, Nguyễn Hiến Lê ghi:
- “Dịch Học Tân Luận (Chính trung thư cục
ấn hành – Đài bắc 1971)”.
Rồi ở trang 62, cũng cuốn trên, ông ta lại ghi:
- “Dịch Học Tân Luận (Chính trung thư cục –
Hương cảng, 1971)”.
Và ở trang 85 ông ta lại đề:
- “Dịch Học Tân Luận…(do nhà Chính Trung
Thư Cục ấn hành, 1973)”.
Sau cùng, ở các trang 63 và 66 ông ta lại ghi tựa Sách là: “Dịch Kinh Tân Luận” - tức sai chữ “Kinh”.
Minh Di:
Về nhà xuất bản, nơi xuất bản, ở đây người ta thấy rất rõ Nguyễn
Hiến Lê ghi bất nhất.
Về nhà xuất bản thì đúng nhưng nơi xuất bản đúng là Đài Bắc, Hương Cảng là sai - vì nhà xuất bản Chính
Trung Thư Cục từ hồi nào chưa hề đặt tại
Hương Cảng, xứ này rồi chỉ là một Tổng Đại lý tại hải ngoại của Đài Bắc [Hải ngoại Tổng
Kinh tiêu] - địa chỉ của trụ
sở là “Tập Thành Đồ Thư Công Ty”.
Về năm xuất bản thì tôi không rõ nhà xuất bản Chính Trung có in lại cuốn sách kể trên vào các năm 1971 và 1973 như Nguyễn Hiến Lê ghi hay không, vì cung
cách làm việc của ông ta ở đây rất đáng ngờ! Ấn bản cuốn “Dịch Học Tân Luận” tôi hiện có là bản in tháng 7 năm Dân Quốc 58, tức năm 1969 - và đây là Bản in lần thứ
nhất (Sơ bản) của nhà xuất
bản Chính Trung.
+ Tiếp đến là cuốn “Dịch Học
Khải Mông” của Chu Hi (1130 - 1200).
Nguyễn Hiến Lê đã ghi sai là “Dịch Số Khải Mông” (trang 83).
Nói là cầm viết thôi chứ chưa nói tới dạng gọi là Học giả!
Nguyễn Hiến Lê làm một anh lái sách, chẳng ai nói, vì đây chỉ là một cái nghề, ai cũng phải có cái nghề để sống!
Thế nhưng, Nguyễn Hiến Lê nếu an phận một anh lái sách của mình
thì cũng chẳng có bất cứ người nào nói.
Có nói là nói một
anh lái sách không tự biết mình, ba hoa khoác lác vỗ ngực xưng là một “người nghiên
cứu Cổ học Trung Hoa”.
Trước đây bởi lẽ không ai nói, không ai phê bình, cái kém cỏi –
nếu không muốn nói là dốt Hán văn của Nguyễn Hiến Lê cho nên ông ta cứ tưởng
mình giỏi kinh hoàng lắm!
Khi đọc những đoạn Cổ
văn Trung Quốc hẳn ông ta phải thấy
những cái lúng túng của bản thân; thế nhưng, bên cạnh đó ông ta còn là là một tay buôn
bán nữa, nếu tự trọng làm sao bán được sách đây?
(Về chuyện này thì chỉ mình ông “học giả”
Nguyễn Hiến Lê biết, không bàn luận sâu xa ở đây, nhưng chuyện ông “học giả”
thích mấy anh “giải phóng” thì có thật, có chứng cứ rành rành).
Ở Miền Nam VN, ông “học giả” làm ăn rất khấm khá, bàn tay ông đếm tiền thế nhưng con mắt
ông lại “đã mòn con mắt phương trời đăm
đăm” về một “đỉnh cao”, mãi tận bên
kia lằn ranh 17.
Chuyện này, ngoài chính miệng ông ta thú
nhận, ông ta còn viết hẳn hoi ra giấy nữa!
Giữa thập niên 60 – tôi không nhớ rõ năm nào, năm 1965,
1966 gì đó – trong bản dịch cuốn “The Old
Man and The Sea” của tác giả Mỹ Ernest
Hemingway (1899 - 1961), do Nhà xuất bản Cảo Thơm xuất bản, Nguyễn Hiến Lê ca tụng, và đề nghị nên dùng cách
phiên âm những tên ngoại quốc kiểu “đỉnh
cao trí tuệ” mà hiện giờ chúng ta thấy nhiều trên Sách báo, giấy tờ…. chẳng
hạn “Mê hi cô” [Mexico], “Ác hen ti
na” [Argentina], và như “Ốxt trây li
a” [Australia], “Niu dóc” [New York] …. chi chi đó.
Trước năm 1975 giới học thức ở Miền Nam hầu như rất ít người nghe,
thấy những thứ phiên âm “mọi rợ” (đối
với Văn hóa Việt) này!
Chuyện Nguyễn Hiến Lê ôm vào người một khuynh hướng Chính trị nào
cũng là quyền của ông ta. Thế nhưng, một người có học thức mà không có một cái nhìn chính xác về cái đúng cái sai thì
không rõ cái “THỨC” rồi nằm chỗ nào?
Một Nguyễn Mạnh Tường, một Dương Quỳnh Hoa – và bao nhiêu người khác nữa, là những chứng cứ rõ nhất!
Lương Chương Cự (1775 - 1849) đời Thanh viết:
~ Chính nguyệt viết Nhiên-nô-a-ly….
Nhị nguyệt viết Phi-phổ-a-ly….
Tam nguyệt viết Mạc-trị….
Lục nguyệt viết Nhuận….
Thất nguyệt viết Như-lai….
/ Lãng
Tích Tùng Đàm. Qu. VI. Ngoại di nguyệt nhật
/.
~ Tháng Giêng nói là Nhiên-nô-a-ly….
Tháng 2 nói là Phi-phổ-a-ly….
Tháng 3 nói là Mạc-trị….
Tháng 6 nói là Nhuận….
Tháng 7 nói là Như-lai….
Các tiếng trên đây đều là phiên âm của những
danh từ chỉ tháng của Anh ngữ.
~ Nhiên-nô-a-ly người Hoa đọc là “Jản-nủ-a-lỷ”,
phiên âm từ chữ “January”.
~ Phi-phổ-a-ly người Hoa đọc là “Phây-phù-a-lỷ”, tức “February”.
~ Như-lai
đọc là “Jủ-lải”, tức “July”…
Chúng ta đều biết, người Hoa không phát âm được mẫu tự “R”, mẫu tự này họ đọc thành chữ “L”, do đó vận cuối “-RY” đọc thành
“-LỶ”.
Trước đây chúng ta cũng lấy những chữ họ phiên âm địa danh Tây phương, thế nhưng chúng ta đọc theo âm Hán Việt, như Ba-lê, Luân-đôn, Bá-linh, Nữu-ước…. chúng ta dùng nhưng có gạn lọc và biết dừng ở 1 giới hạn nào đó mà không nhắm mắt làm theo một cách nô lệ, ngu ngơ, ngớ ngẩn!
Lấy trường hợp Hoàng Xuân Hãn.
Nếu không có nguyên tác để đối chiếu thì, cho
tới đây, có lẽ nhiều người vẫn nghĩ rằng những
gì ông Hoàng Xuân Hãn tự thuật trong Cuốn “Lý Thường-Kiệt” phần lớn ~ nếu không muốn nói là hầu hết, đều
chính xác, tên tuổi của Hoàng Xuân
Hãn bảo đảm cho ý nghĩ vừa kể!
Tên tuổi của Hoàng Xuân Hãn từ đầu là một bảo đảm cho những gì ông ta viết ra.
Thế nhưng, không ai có thể bảo đảm
cho những gì KHÔNG THỰC, vì sớm hay muộn cái HƯ cũng bị phơi bày, đây là trường hợp Hoàng Xuân Hãn!
Từ lần xuất bản đầu tiên cuốn “Lý
Thường-Kiệt” tới cuối năm năm ngoái
(1949 - 2011) Hoàng Xuân Hãn đã có được 62
năm vinh dự với cuốn sách này.
Đặt vào một kiếp người, 62 năm có thể là dài, nhưng cái dài này chẳng thấm vào đâu so với giòng “miên miên” của Văn học sử! Và, trong cái giòng “vô tuyệt kỳ” này:
Một cuốn sách sẽ được xét lại không lúc này
thì cũng lúc khác, không thời này thì cũng thời khác, cho đến khi nào giá trị đích thực của nó được xác lập!
Có như thế thì những thứ rác rến mới không
trôi lều bều trong giòng Văn học
sử, và ở đây, trong giòng Sử học!
Cũng vậy, bây giờ tới lúc phải lột cái mũ đó
khỏi đầu ông ta!
Ông học trò cũ của Nguyễn Hiến Lê rồi không
chứng minh được tôi phê bình sai ông thầy cũ của ông ta.
Ông / bà MN đây cũng không chứng minh được điều này, thế nhưng ông / bà này còn siêu đẳng hơn ông học trò cũ của Nguyễn Hiến Lê nhiều, hơn ở điểm ông / bà MN
này không “care” chuyện đúng /
sai trong Học thuật, ông / bà viết:
~ “sai làm sao, đúng thế nào với tôi không
quan trọng”.
Cứ thế ông / bà tùy ý muốn đội cho bất cứ ai cái Mũ học giả cũng vừa vặn cả! Đúng là từ lò văn hóa của Nguyễn Hiến Lê mà ra! Minh Di.
09. 4. 2014.
20:14.
Đăng nhận xét