MINH DI: TỪ LÁI SÁCH ĐẾN "HỌC GIẢ"
BAN TIN CUA TAP CHI DAN VAN
DANVAN MAGAZINE
Email: danvanmagazin@gmail.com
(XIN TIẾP TAY PHỔ BIẾN THẬT RỘNG RÃI - CHÂN THÀNH CẢM TẠ.)
Kính thưa quý độc giả các
Diễn Đàn,
Theo yêu cầu của một số độc
giả, Tạp Chí Dân Văn cho đăng lại bài Từ Lái Sách đến 'Học giả‘. của Minh Di, Bài
viết này đã được đăng trên TCDV từ năm 2005, và năm 2007, phê bình về ông
Nguyễn Hiến Lê, nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong lãnh vực Văn Học. Mặc dù ông
Nguyễn Hiến Lê đã ra người thiên cổ, nhưng nếu bất cứ ai có những ý kiến khác với
bài viết này, TCDV sẵn sàng đăng tải, để rộng đường dư luận…
Vì bài viết khá dài nên
chúng tôi chia ra làm nhiều kỳ với font chữ Unicode, qúy độc giả nào
muốn có trọn bài, xin liên lạc với TCDV.
Germany, ngày 07.04.2014 - đăng lần
2 ngày 01.12.2022
Chủ Nhiệm TCDV,
Lý Trung Tín
LTS: Đã 3, 4 ngày rồi, không thấy anh Đặng Đình
Thúy viết gì cả, có lẽ anh ĐĐT đã hiểu ra vấn đề “tranh luận” trong Văn Học và
Học Thuật như thế nào? TCDV “chẳng đặng đừng” mới nhờ đến anh Minh Di “duyệt”
phần chữ Hán trong bài viết của anh ĐĐT mà thôi – cám ơn qúy độc giả trên các
DĐ đã theo dõi việc này.
Từ hơn 24 năm
nay, TCDV chủ trương và cổ vũ việc phê bình văn học, học thuật, vì một cuốn
sách “viết sai, dịch sai” sẽ di hại các thế hệ sau. Văn phong phê bình là của
người viết, TCDV tôn trọng người phê bình và người “bị” phê bình, mong rằng người
bị phê bình có tinh thần cầu tiến và phục thiện để sửa chữa các “sai sót” khi
tái bản tác phẩm...
Việc phê bình
này rất bổ ích và làm “giàu” thêm kiến thức của qúy độc giả khắp nơi.
Từ Lái Sách đến 'Học giả‘.
01 - 30 (49).
Dẫn ngôn.
Bài phê bình cuốn 'Kinh Dịch,
Đạo của Người Quân tứ của ông 'học giả‘ Nguyễn Hiến Lê lúc chưa đăng báo tôi có
đưa cho một vài người quen biết đọc. Và, nói chung thì đây là 1 sự bất ngờ vì từ
trước tới giờ hầu hết nghĩ ông ta học vấn uyên bác, được gán cho nhãn hiệu học
giả, nhưng qua cuốn sách kể trên cái nhãn hiệu này phải được thêm cái 'ngoặc
kép' - ''.
- Có người nói ông ta đã chết,
phê bình rồi ai trả lời đây?
- Có người nói tôi phê bình
vậy là phủi công của ông ta đối với Văn học.
- Có người lại nói tôi hạ
ông ta, lôi ông ta xuống đất.
Nhìn chung, những í kiến
trên đây xuất phát từ lòng tự ái, tự ái vì chợt thấy lòng tin của mình đã đặt
sai chỗ, sai người.
- Thứ nhất, tôi đâu cần
Nguyễn Hiến Lê trả lời, tôi chỉ định lại vị thế của ông ta trong lãnh vực học
thuật để người cùng thời với tôi và người sau tôi có 1 cái nhìn chính xác hơn về
ông ta.
- Thứ hai, đã nói công thì
không thể không luận tội - và nói công, luận tội, thì công có bù được tội? Hoặc
nói rõ hơn, bên công, bên tội bên nào nặng hơn? Có thời giờ có thể, có thể
thôi, tôi sẽ viết một bài về vấn đề công / tội này.
- Thứ ba, về phương diện học
thuật, tôi chẳng có lý do nào để hạ, để lôi bất cứ 1 người viết nào xuống đất cả!
Về phương diện này đúng / sai vẫn ở đó, không vì yêu / ghét mà đúng thành sai
và sai thành đúng, 2 đường không thể lẫn lộn. Có chẳng ưa NHL chăng nữa tôi
cũng không thể nào lôi ông ta xuống, nói ông ta kém, ông ta dở, nếu ông ta có Học
vấn thực sự - và ngược lại, có ưa Nguyễn Hiến Lê đi nữa, tôi càng không thể
tung bổng ông ta lên, nói rằng ông ta là một học giả trong khi kiến thức của ông ta quá kém cỏi,
như trường hợp ở đây.
Những người không ưa NH Lê
vì khuynh hướng thiên 'Giải phóng', tiếng ông ta dùng rất thường sau 30 tháng
Tư 1975, của ông ta có thể hả hê vì bài phê bình của tôi!
Những người từ trước đến giờ
vẫn phục sát đất 'học giả´ Nguyễn Hiến Lê có thể bực tức khi thấy thần tượng của
mình bỗng đâu rồi... rã nát!
Và, dĩ nhiên phê bình của
tôi ở đây không nhằm để người này hả hê, hoặc làm người kia bực tức như Bài viết
của tôi có thể gây ra.
- Người Bán có thể quảng
cáo, có thể khoe món hàng của mình là bền, là tốt, nhưng người Mua cũng có thể
kiểm lại coi có đúng như lời quảng cáo hay không? - Cũng vậy, NHLê khoe mình là
1 người nghiên cứu Cổ học thì người đọc cần kiểm lại coi có đúng như lời ông ta
hay không?...
Trong cuốn 'Hồi ký’ của ông
'học giả’ ông ta khoe là đã viết được hơn 'ba trăm nhan' sách!
Trước 1975 ai cũng biết Nguyễn
Hiến Lê sống với Nghề in sách của ông ta - và như vậy, chuyện ông ta đã viết được
hơn 300 cuốn sách cũng chẳng có gì đáng khoe vì nếu ông ta không viết cho kha
khá thì lấy gì mà sống đây? Lại nữa, giá trị của sự viết không ở lượng mà ở phẩm,
viết nhiều mà rồi chẳng có giá trị tương đối nào đó thì rồi ra đây cũng chỉ là
một mớ giấy in chữ, không có 1 giá trị nào trong học thuật.
Trong hơn 300 cuốn đó tôi
chỉ để ý tìm đọc những cuốn nói về Cổ học Trung Hoa - lãnh vực mà NH Lê đã
huênh hoang, khoác lác, đến quên cả hình hài, tự nhận là 'người nghiên cứu‘.
Những cuốn còn lại nếu tôi
không rỗi để vạch ra những cái kém cỏi, những cái sai lầm nhiều lúc đến không
thể tưởng ra được của NHLê thì sớm muộn gì cũng có người lôi ra.
Tiếp sau đây tôi lại nhận định
tiếp về kiến thức của 'học giả‘ NHLê trong lãnh vực Dịch học.
Ở Bài này, tôi nói tiếp về
cuốn 'Kinh Dịch, Đạo Của Người Quân Tử’ của Nguyễn Hiến Lê, mà vì lí do không
muốn để bài viết cũng gọi là khá dài 'loãng' đi trong 1 tờ tạp chí định kì - nhất
là định kì này lại khá lâu, 2 tháng ra 1 lần như tạp chí Dân Văn, do đó, trước
đây tôi đã tạm ngưng ở phần 64 Quẻ (tức phần 'Kinh').
Ở đây tôi sẽ nhận định tiếp
về kiến thức của NH Lê qua 1 số Quẻ nữa, và sau đó là nhận định về sự lãnh hội,
mức hiểu biết, của ông ta về phần 'Truyện' - tức phần giải thích Kinh, ở đây là
các thiên 'Hệ Từ thượng' và 'Hệ Từ hạ’ (vì NHLê chỉ dịch 2 thiên Hệ Từ thượng,
hạ).
Ở phần 64 Quẻ, tôi chỉ đã
phê bình một số Quẻ đủ cho người đọc có một nhận định chính xác về kiến, thức Dịch
học của NH Lê, do đó, trong chiều hướng vừa kể, Bài viết này cũng chỉ Phê bình
thêm 1 số Quẻ và một số đoạn trong 2 Thiên kể trên.
Trước khi vào phần '64 QUẺ
- Dịch và Giảng', Nguyễn Hiến Lê có đoạn viết:
- 'Tôi không có tham vọng
nghiên cứu Kinh Dịch, không phát huy được một điều gì hết, chỉ tìm hiểu được tới
đâu rán chép lại tới đấy một cách gọn và sáng để giúp các bạn không biết chữ
Hán mà muốn đọc Kinh Dịch.
Bản tôi tham khảo nhiều nhất
là bản của cụ Phan Bội Châu (Khai Trí, 1969). Cụ châm chước lời chú giải của
Trình Di và Chu Hi, phổ biến nhất và được người Trung Hoa cho là 'chính thống';
ngoài ra còn nhiều lối chú giải khác, chúng ta không sao biết hết được. Ở nước
ta, cụ là người giảng Kinh Dịch kĩ nhất, chỉ tiếc cụ có lối giảng của một thầy
đồ trước một nhóm môn sinh có vốn Hán học kha khá rồi, cho nên hơi rườm và nhiều
bạn trẻ ngày nay không hiểu được hết, nhất là bản của nhà Khai Trí để sót nhiều
lỗi in quá, mà không đính chính nên càng khó hiểu. Phần dịch này của tôi có thể
nói là chỉ diễn lại phần giảng của cụ cho gọn hơn để dễ hiểu, dễ nhớ, và thêm
vài ý kiến của các nhà khác thế thôi’. - (tr. 207).
Ở phần đầu NH Lê nói 'để
giúp các bạn không biết chữ Hán mà muốn đọc Kinh Dịch'.
Nói thế có nghĩa NH Lê cho
rằng mình 'biết chữ Hán'. Vậy mà như tôi đã chứng minh trước đây vã sẽ chứng
minh sau đây nữa cái Sự 'biết chữ Hán' của 'học giả’ Nguyễn Hiến Lê nó tới đâu!
Qua cái 'biết' chữ Hán của
NH Lê, như độc giả đã, và sẽ thấy Nguyễn Hiến Lê tự giúp mình còn không được
nói chi là giúp người khác!
Tiếp đến, NH Lê nói là cụ
Phan Bội Châu có 'lối giảng của một thầy đồ’.
Còn NH Lê thì sao?
- Không chỉ ở cuốn sách
này, mà trong nhiều sách khác người ta thấy NH Lê rất thường lên mặt dạy đời,
nhất là các bạn trẻ. Trong khoảng 2 trang của 'Lời Nói Đầu’ Cuốn Sách này, NH
Lê đã dạy các bạn trẻ thôi thì đủ điều, từ chuyện sơ đẳng nhất - mà không cần
chỉ người đọc Sách nào cũng biết, là tra mục lục để biết nội dung sách......,
cho tới Chương nào phải đọc kĩ, Chương nào nên 'tạm nhảy’, rồi mỗi ngày phải đọc
bao nhiêu Quẻ, rồi sau đó thì nên nghỉ bao nhiêu lâu nữa mới đọc tiếp...........
Cứ thế, NH Lê coi các bạn trẻ, và người đọc, như là một đám ngu ngơ chẳng biết
gì để lên mặt một cách hợm hĩnh đến thế!
NH Lê lại nói cụ Phan 'có lối
giảng' mà 'nhiều bạn trẻ ngày nay không hiểu được hết'.
Tôi thì tôi nói thế này:
- Nếu các bạn trẻ đào 1 cái
hố rồi tự nhảy xuống tôi nghĩ còn sướng hơn là đọc cuốn Kinh Dịch của NHLê vì
nhảy xuống cái hố mình tự đào mình còn biết cái hố nó ra sao, cạn hay sâu, đất
đá ra sao...... Trong khi, đọc cuốn Sách này của Nguyễn Hiến Lê các bạn trẻ rồi
không biết mình sẽ lọt xuống 1 cái hố như thế nào, và ở đây, không phải chỉ có
một cái hố mà hầm hố thôi cứ lỗ chỗ dài dài trên 'đường đi’, và nhất là không
biết mình lọt xuống hố lúc nào nữa!
*
[I]. Kinh: 64 Quẻ. (Từ
trang 209 đến trang 516).
+ Quẻ Truân (trên Khảm / dưới
Chấn).
- 'Lục tam. Tức lộc vô ngu,
duy nhập vu lâm trung, quân tử cơ bất như xả, vãng lận'.
NH Lê dịch như sau:
- 'Hào 3, âm: Đuổi hươu mà
không có thợ săn giúp sức thì chỉ vô sâu trong rừng thôi (không bắt được). Người
quân tử hiểu cơ sự ấy thì bỏ đi còn hơn, cứ tiếp tục tiến nữa thì sẽ hối hận'.
NH Lê giải nghĩa chữ 'ngu’
trong Hào trên là 'thợ săn' thì quả thực là tôi không tưởng ra nổi là có một
chuyện như vậy!
Các bộ Từ thư như Từ Hải, Từ
Nguyên, Khang Hi, Thuyết Văn Giải Tự...... rồi không 1 bộ nào giải nghĩa chữ
'ngu’ này là 'thợ săn' cả!
- Bộ Từ Hải in ở Lục địa liệt
kê tất cả 10 nghĩa.
- Bộ Từ Hải in ở Hương Cảng
liệt kê 12 nghĩa.
- Bộ Từ Nguyên in ở Hương Cảng
liệt kê 10 nghĩa.
- Bộ Khang Hi tự điển liệt
kê tất cả 16 nghĩa.
- Bộ Thuyết Văn Giải Tự chỉ
có 1 nghĩa, ghép trong từ ngữ 'Sồ ngu’ - là loại cọp trắng vằn đen có đuôi dài
hơn thân, là 1 loài thú hiền, chỉ ăn thịt những thú vật tự chết. (Sd. Qu. XIV.
Ngu).
('Ngụ Sồ ngu dã, bạch hổ hắc
văn, vĩ trường ư thân, nhân thú, thực tự tử chi nhục').
Tra tất cả những Bộ từ điển
cũng như tự điển trên đây tôi không thấy chỗ nào nói chữ 'Ngu’ này có nghĩa là 'thợ
săn' như NH Lê đã dịch cả! Không rõ ông ta mò ở đâu ra cái nghĩa này?
Đâu đó trong cuốn sách của
NH Lê ông ta có nhắc tới bộ từ điển Từ Hải (trong 1 đoạn giảng về hào Cửu
nhi. Quẻ Tiết, ở trang 496), thế nhưng
không rõ ông ta có tra Bộ từ điển này hay không mà dịch tầm bậy đến thế! Dịch
đúng thì như sau:
- 'Đuổi theo con hươu mà rồi
chẳng dự liệu những bất trắc, cứ thế sấn vào rừng, người quân tử liệu được những
nguy hiểm của rừng sâu thấy không nên đuổi theo nữa là hơn! Nếu cứ (tiếp tục)
đuổi theo nữa, cứ thế sấn vào rừng rồi đến phải hối tiếc'.
Chữ 'Ngu’ trong Hào Lục tam
Quẻ Truân có 2 cách giải thích:
1/. Ngu là 1 chức quan thời
Đế Thuấn chuyên coi sóc về vùng rừng núi, ao đầm (sơn, trạch), tức như chức kiểm
lâm hiện nay.
Sách 'Thượng Thư’, phần
'Ngu thư’, thiên 'Thuấn điển' viết:
- 'Đế viết: Du tư Ích, nhữ
tác trẫm ngu’.
- 'Đế (Thuấn) nói: Này Ích,
(giao cho) ông cai quản rừng núi của ta’.
Khổng An Quốc (? - ?) thời
Tây Hán chú thích chữ 'Ngu’ trong câu trên:
- 'Ngu, chưởng sơn trạch chi
quan'.
- 'Ngu là chức quan cai quản
rừng núi, ao đầm'.
Thái Trầm (? - ?) thời Nam
Tống (1127 - 1279) chú giải Bộ 'Thượng Thư’ cũng giảng như trên.
Hiểu theo nghĩa này, câu 'Tức
lộc vô ngú dẫn trên có nghĩa: 'Đuổi theo con hươu mà không có người trông coi về
rừng núi hướng dẫn'.
2/. Ngu có nghĩa là liệu độ,
là phòng bị.
Và như vậy, 'vô ng’ có
nghĩa là 'không dự liệu, không phòng bị’ những bất trắc, những rủi ro có thể xảy
ra, như đã dịch ở trên.
Sách 'Thượng Thư’ nói:
- 'Ích viết: Hu, giới tai,
cảnh giới vô ngu’.
/
Thượng Thự Ngu thư. Đại Vũ mô /.
- '(Ông) Ích nói: Ôi,
(đáng) răn giữ thay, cảnh giới việc không dự liệu được'.
Dịch theo nghĩa nào cũng
thông. Nhưng, cũng cần nói thêm là hiểu theo nghĩa thứ nhất rồi cũng qui về giải
thích thứ 2, vì lẽ, đã không hiểu rõ rừng sâu mà chẳng hỏi người coi sóc rừng rồi
đây có khác gì không dự liệu những bất trắc có thể xảy ra.
Hào Lục Tam, Âm ở vi.
Dương, đã 'thất chính' (cũng gọi là 'thất ví), lại 'thất trung' (vì không ở vị giữa,
tức các vị 2 và 5 trong Quẻ).
Hơn nữa, theo nguyên tắc Ứng
giữa các Hào trong Quẻ, Hào 1 ứng Hào 4, Hào 2 ứng Hào 5, và Hào 3 ứng Hào 6. Ứng
thì phải 1 bên Âm 1 bên Dương mới gọi là ứng. Trong các cặp tương ứng nói trên
nếu cả 2 Hào đều là Âm, hoặc cùng là Dương thì gọi là 'vô ứng'.
Quẻ Truân, Hào 3 ở thế
tương ứng với Hào Thượng (Hào 6), nhưng Hào 6 cũng là Hào Âm, cho nên ta có trường
hợp gọi là 'vô ứng' nói trên.
Lí Quang Địa dẫn 'Chu Tử Ngữ
Loạí của Chu Hi nói chữ 'Ngú trong Hào Lục tam Quẻ Truân phải hiểu là 'người
trông coi rừng'! Vì rằng Hào 3 cầu ứng nơi Hào 6 mà không được, tình cảnh chẳng
khác nào vào rừng mà không có người biết rõ rừng hướng dẫn.
(Tham khảo: Chu Dịch Chiết
Trung. Qu. I. Truân. Lục tam. Tập Thuyết).
Trước Chu Hi, Trình Di cũng
đã giảng như vậy. (Tham khảo: Dịch Trình Truyện).
Truân có nghĩa là gian nan,
trắc trở.......... Cũng vậy, người mới bắt đầu đọc Kinh Dịch ít nhiều đã gặp phải
những khó khăn trong cố gắng nối kết, rút ra 1 trật tự luận lí nào đó, tóm lại
là 1 sự mạch lạc giữa các Hào từ với nhau, để có thể hiểu Kinh văn của Quẻ nói
gì.
Nói tóm lại là khi đọc văn
từ của một Quẻ nếu chúng ta mong đọc được 1 Bài văn với một trật tự thường thấy
là, nêu Chủ đề, diễn giải đề tài đưa ra, và sau cùng là kết lại vấn đề, thì trong
nhiều trường hợp chúng ta sẽ thất vọng. Trong các Quẻ cũng có trường hợp 1 vài
Hào từ cho thấy 1 sự mạch lạc nào đó, nhưng qua Hào kế tiếp sự mạch lạc này bỗng
dưng đứt đoạn! Cứ thế, mạch lạc lúc đầu bỗng đâu rồi vuột khỏi tay chúng ta.
Truân có nghĩa là gian nan,
trắc trở, khó khăn, vì vậy, ở Quẻ Truân này tôi xin được nói sơ qua về nguyên tắc,
phương pháp thành lập của văn từ Kinh Dịch, nói rõ hơn là Hào từ của Quẻ.
Lấy 1 thí dụ ngay trong Quẻ
Truân này, lấy thí dụ hào Lục nhị và Lục tam Quẻ Truân.
Hào Lục nhi. Quẻ Truân đã
'đắc chính' (Âm ở Âm vị), lại 'đắc trung' (ở vị giữa), và hơn thế nữa còn ứng với
Hào Cửu ngũ. Hào từ hào này nói:
-'Truân như chiên như. Thừa
mã ban như, phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tứ’.
-'Lảo đảo, lao đao. (Đám
người) ngựa rần rộ đang tới kia rồi chẳng phải là giặc cướp mà tới để cầu hôn
đó thôi! (nhưng) thiếu nữ trinh chính thì không lập gia thất (vào thời truân
này) mà chờ 10 năm nữa mới lập gia thất'.
Hào Lục tam lại nói:
- 'Tức lộc vô ngu, duy nhập
vu lâm trung, quân tử cơ bất như xả, vãng lận'.
Ở đây có thể thấy, hào Lục
nhị nói một chuyện, hào Lục tam lại nói một chuyện khác - 2 chuyện chẳng dính
dáng gì với nhau, nói rõ hơn là không có 1 sự mạch lạc nào cả, và đây chính là
điều làm cho người mới đọc Dịch bối rối.
Quẻ có 6 Hào, 6 Hào này có
những liên hệ mà trong Dịch học gọi là ứng, thừa (cỡi, nằm ở trên) và bên cạnh
đó lại còn những hoàn cảnh gọi là thất vị, đáng vị (hay còn gọi là đắc vị),
cũng như tương quan giữa 2 quẻ đơn trong Quẻ.....
Chẳng hạn, 2 Hào vị liền
nhau, mà hào Âm lại nằm trên hào Dương (Âm thừa Dương) thì đây là tiểu nhân lấn
lướt quân tử, là xấu - ngược lại, hào Dương nằm trên hào Âm (Dương thừa Âm) là
quân tử chế phục tiểu nhân, đây là điều tốt! Đây gọi là 'Âm dương thừa thừá, Âm
ở dưới Dương là Âm thừa Dương (Âm theo Dương), Dương ở dưới Âm là Dương thừa Âm
(Dương theo Âm).
(Chữ thừa sau này là chữ thừa
trong tiếng 'phụng thừa’, 'thừa lệnh'. Chữ thuộc bộ Thủ là Tay).
Âm nằm trên Dương là xấu,
chẳng hạn Quẻ Truân ở đây hào Lục nhị ở trên hào Sơ Cửu, bởi thế tượng từ hào
này nói
- 'Lục nhị chi nạn, thừa
cương dá’.
- 'Cái nạn của hào Lục nhị
là cỡi lên (hào) Dương'.
Chú giải câu này, Dịch học
gia Lí Đỉnh Tộ (? - ?) đời Đường dẫn Thôi Cảnh (? - ?) nói:
- 'Hạ thừa Sơ Cửu cố vi chi
nạn dá’.
- 'Nằm trên hào Sơ Cửu ở dưới
cho nên gặp nạn'.
(Tham khảo: Chu Dịch Tập Giải.
Qu. II.
Thôi Cảnh dẫn trên cũng là
người đời Đường, sau Khổng Dĩnh Đạt (574 - 648) ít lâu).
Cũng vậy, hào Lục nhi. Quẻ
Truân ở kề cận hào Sơ Cửu, tình cảnh chẳng khác nào 2 người sống gần nhau, người
này muốn thân cận với người kia - đây chính là tình cảnh của 2 Hào Lục nhị và
Sơ Cửu. (Như có thể thấy, Hào từ Lục nhị lấy chuyện kết hôn để chỉ ý muốn thân
cận này).
Thế nhưng, hào Lục nhị lại
có hào Ứng với mình là hào Cửu ngũ, cho nên đã từ chối hẳn í muốn thân cận này
của hào Sơ Cửu, giữ 1 khoảng cách nào đó, để chờ hào Cửu ngũ.
Như đã nói ở trên là 2 Hào
tương ứng thì phải 1 bên là hào Âm và 1 bên hào Dương mới tốt, hay nói khác đi
là 'hữu ứng'! Nhưng ở đây cũng cần nói thêm 1 điểm nữa là, đều là 'hữu ứng'
nhưng nếu là Dương ứng Âm thì lí tưởng nhất, trong khi Âm ứng Dương lại kém
hơn.
Thí dụ, trong Quẻ Truân hào
Sơ Cửu hữu ứng với hào Lục tứ, nhưng hữu ứng ở đây không được hoàn toàn, vì hào
ứng với Sơ Cửu ở đây là 1 hào Âm. Ngược lại, nếu đứng từ hào Lục tứ mà luận hữu
ứng rồi tốt đẹp hơn vì hào ứng ở đây là một hào Dương. Cho nên là hào Sơ Cửu ít
nhiều vẫn còn 'bàn hoàn, lợi cư trinh' (dùng dằng, không tiến được, bền lòng
thì lợi), trong khi Hào Lục tứ thì 'vãng cát, vô bất lợí. (đi tới thì tốt,
không gì là không lợi).
Dương ứng Âm gọi là Chính ứng,
Âm ứng Dương gọi là Bàng ứng (Bàng = ở 1 bên).
Bởi vậy, nói 'tương ứng' là
nói 'vị tri’ tương đối của 2 hào, vị trí tương đối này tốt hay xấu là do tương
quan về bản chất của 2 hào.
! Quẻ do 2 quẻ đơn (quẻ có
3 Nét, hay Hào) hợp lại mà thành, phân ra Nội quái, gồm các hào từ 1 đến
3, và Ngoại quái, gồm các hào từ 4 đến
6.
Vị trí tương ứng của 1 cặp
Hào trong Quẻ, nếu nhìn từ mặt tổng hợp thì nói 1 ứng 4, 2 ứng 5, và 3 ứng 6.
Nhưng, từ khía cạnh phân tích mà luận thì đây là 1 ứng 1, 2 ứng 2, và 3 ứng 3 -
vì rằng Hào 4 ở đây rồi không gì khác hơn là Hào 1 của Ngoại quái, Hào 5 là Hào
2 của Ngoại quái và Hào 6 là Hào 3 của Ngoại quái.
Tóm lại, Quẻ là 1 cơ cấu
tương quan giữa các hào như đã nói trên, và văn từ Dịch không căn cứ những
tương quan giữa các hào thì cũng căn cứ tương quan giữa 2 quẻ đơn trong mà đặt
- hoặc nói lại một điều đã nói trước đây thì không hiểu Tượng, không hiểu Số
thì không thể hiểu sâu xa Kinh Dịch. Đây chính là điều thiên Hệ từ Thượng đã
nói rõ:
- 'Thánh nhân thiết Quái
quan Tượng, hệ từ yên nhi minh cát, hung'.
/ Hệ Từ thượng. II /.
- 'Thánh nhân đặt ra Quẻ,
xem cái Tượng mà đặt lời (giải thích) để giảng lẽ tốt, xấu’.
Hiểu được những tương quan
giữa các Hào trong Quẻ, rồi tương quan giữa 2 quẻ đơn hợp thành một Quẻ, cũng
như các hoàn cảnh Ứng, Thừa, Thất vị, Đáng vị...... của Hào thì việc hiểu Hào từ
rồi trở nên dễ hơn. Hào từ có rời rạc, chẳng liên hệ gì với nhau, mặc lòng,
nhưng rốt cục thì đều qui về việc giải thích các tương quan kể trên giữa các
Hào.
Từ căn bản kể trên người đọc
rồi sẽ cảm thấy Kinh Dịch dễ hiểu hơn, và nhất là thú vị hơn!
NH Lê muốn dạy người ta hiểu
Dịch mà không rõ Tượng, Số thì chỉ là quờ quạng giữa đêm tối!
+ Quẻ Sư (Khôn / Khảm).
Giảng về Tượng Quẻ Sư NH Lê
viết:
- 'Giảng: Trên là Khôn, dưới
là Khảm mà sao lại có nghĩa là đám đông, là quân đội?
Có bốn cách giảng:
- Đại tượng truyện bảo Khôn là
đất, Khảm là nước, ở giữa đất có nước tụ lại, tượng là quần chúng nhóm họp
thành đám đông.
- Chu Hi bảo ở dưới, Khảm là hiểm;
ở trên, Khôn là thuận; người xưa gởi bình ở trong việc nông (thời bình là nông
dân, nhưng vẫn tập tành võ bị, thời loạn thì thành lính), như vậy là giấu cái
hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông).....'. (tr. 248, 249).
Đại tượng truyện NH Lê nói
trong đoạn trên là Đại Tượng từ của Quẻ Sư - còn phần giảng của Chu Hi nói đây
tức phần chú giải trong cuốn 'Chu Dịch Bản Nghĩa’.
Bây giờ tôi dẫn lại nguyên
văn 2 phần giải thích trên đây để độc giả nhìn rõ hơn nữa về trình độ Hán văn của
NH Lê.
Đại Tượng từ Quẻ Sư viết:
- 'Địa trung hữu Thủy, Sư,
quân tử dĩ dung dân súc chúng'.
- 'Giữa Đất có Nước, là Quẻ
Sư, quân tử coi theo đó mà bao dung dân chúng, tích lũy lực lượng (của mình)
trong đám đông đọ
Chú giải Tượng của Quẻ Sư,
Chu Hi viết:
- 'Hạ Khảm, thượng Khôn; Khảm
hiểm, Khôn thuận; Khảm thủy, Khôn địa. Cổ giả ngu. Binh ư Nông, phục chí hiểm ư
đại thuận, tàng bất trắc ư chí tĩnh chi trung'.
- 'Dưới là Khảm, trên là
Khôn; Khảm là hiểm nguy, Khôn là thuận phục; Khảm là nước, Khôn là đất. Thời
cô? Quân binh từ Nông dân mà ra, đây là cất cái cực hiểm trong cái cực thuận,
giấu cái bất ngờ trong cái cực tĩnh'.
Xã hội Trung Hoa cổ thời là
xã hội Nông nghiệp, dân phần lớn làm nghề nông, do đó trưng binh thì không đâu
nhiều hơn từ giới này.
NH Lê nói Đại Tượng Quẻ Sư
'bảo’ thế này, Chu Hi 'bảó thế kia, thế nhưng có dẫn nguyên văn mới thấy cái 'Học'
của 'nhà nghiên cứu Cổ học Trung Hoa’ NH Lê là như thế nào!
NH Lê viết 'gởi bình ở
trong việc nông.... là giấu cái hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông)'.
Nếu đừng mở cái ngoặc đơn
và giải thích, tức dừng ở chữ 'thuận', thì còn đỡ, giải thích thì lòi ra cái
không biết của mình. Chữ 'thuận' ở đây chỉ 'nông dân' chứ không là 'việc nông'
như NH Lê đã giải thích.
Thiên Thuyết Quái nói
- 'Khôn, thuận dá’. ('Khôn
là [tượng của sự] thuận phục'). Chương VII
- 'Khôn..... vi chúng'.
(Khôn...... là [tượng của]đám đông). Chương XỊ
Khôn là 'đám đông', và đám
đông thì 'thuận' theo người cai trị, vì thế chữ 'thuận' Chu Hi dùng trong câu
chú giải trên rõ ràng là chỉ 'dân', tức chỉ 'ngườí, không chỉ 'việc' như NH Lê
giảng.
Lai Tri Đức (1525 - 1604) Dịch
học gia trứ danh đời Minh nói:
- 'Cố Tượng do Kính dã, hữu
Kính tắc vạn vật tất chiếu. Nhược xả kì Kính, thị vô Kính nhi sách chiếu hí.
/
Chu Dịch Tập Chú. Tự tự /.
- 'Tượng cũng như tấm
Gương, có Gương thì vạn vật soi vào là thấy rõ hết. Nếu bỏ Gương đi là không có
Gương mà muốn soi chiếu để thấy (vạn vật)'.
NH Lê không có tấm Gương mà
muốn soi thấy ý tưởng của Dịch thì đúng là chiêm bao!
+ Quẻ Tiểu Súc (Tốn / Càn).
- 'Tiểu Súc, hanh'.
NH Lê dịch:
- 'Dịch: Ngăn cản nhỏ (hoặc
chứa nhỏ, vì chứa cũng hàm cái nghĩa bao lại, gói lại) hanh thông'. (tr. 257).
Như đã nói ở bài viết trước,
NHLê có lẽ sợ thiên hạ nói mình không biết chữ Hán sao đó cho nên đã thường dịch
từng chữ một, Quẻ Tiểu Súc trên đây là 1 thí dụ. Ở các chỗ khác có thể kể:
Quẻ Đại Hữu (Li / Càn) NH
Lê dịch là 'có lớn' (tr. 280).
Việt ngữ nói 'có’ thì hoặc
nói 'có nhiều’, 'có ít', không ai nói 'có lớn' như NH Lê cả.
Quẻ Đại Súc (Cấn / Càn) NH
Lê dịch là 'chứa lớn' (tr. 337).
Ở Quẻ Sư vừa dẫn ở 1 đoạn
trước NHLê dịch câu 'Cổ giả kí binh ư nông' của học giả Chu Hi là 'Người xưa gởi
bình ở trong việc nông' thì đây không có vẻ Việt lắm.
Văn học gia Trịnh Chấn Đạc
(1898 - 1958) viết về vấn đề dịch thuật như sau:
- 'Đản Phật giáo văn học thị
nhất cá mạch sinh đích sấm nhập giả, kì bất năng dung hiệp ư Trung Quốc bản thổ
văn học thị tự nhiên đích hiện tượng. Đản truyền giáo giả môn tổng thị yêu cầu
bản thổ đích nhân môn đích liễu giải dữ tán hứa đích. Sở dĩ sơ kì đích dịch giả,
thuật giả môn bất thị biên thuật Tứ Thập Nhị Chương Kinh, tiện thị dịch Đàm Bát
Kinh, hoặc kì tha tiểu phẩm, ninh nguyện dĩ khiên tựu bản thổ đích thú vị vi chủ.
Cưu Ma La Thập chư nhân sở dịch, dã đa sở san tiết, di động. Sở dĩ tha tự kỉ
thường bất mãn ý đích thuyết:
- Cải Phạn vi Tần, thất kì
tảo úy, tuy đắc đại ý, thù cách Văn thể, hữu tự tước phạn dữ nhân, phi đồ thất
vị, nãi lệnh ẩu uế.
Nhiên tức thử 'thất ví đích
phiên dịch, tại Trung Quốc văn học thượng dĩ sinh liễu thập phân trọng đại đích
ảnh hưởng liễu’.
/
Sáp Đồ Bản Trung Quốc Văn Học Sử. XV Chương. Phật giáo Văn học đích du
nhập /.
- 'Nhưng, văn học Phật giáo
là một cái gì lạ, bất đồ ập vào, nó không thể dung hợp với văn học Trung Quốc
thì đây là một hiện tượng tự nhiên! Tuy nhiên, yêu cầu của những người truyền
giáo tóm lại là sự lãnh hội và tán thưởng của người bản xứ. Cho nên, những dịch
giả, những thuật giả ở những buổi đầu, nếu không dịch Tứ Thập Nhị Chương Kinh
thì cũng dịch Đàm Bát Kinh, hoặc những bô. Kinh ngắn khác, chủ yếu họ thà ngả về
cái thú vị của văn chương bản xứ! Những Kinh Cưu Ma La Thập và các nhà truyền
giáo dịch, do đó, phần lớn cũng có lược bỏ, sửa đổi. Bởi vậy chính Cưu Ma La Thập
đã từng không hài lòng nói rằng:
- Chuyển dịch Phạn ngữ qua
Hán ngữ thì mất đi cái văn vẻ của nguyên văn, tuy diễn được đại ý nhưng Văn thể
lại khác đi rất nhiều, điều này chẳng khác nào mớm cơm cho người, chẳng những
làm mất hết cái vị mà còn khiến người phải nôn oẹ.
Nhưng rồi, chính việc phiên
dịch 'thất ví này đã phát sinh ảnh hưởng thập phần trọng đại trong văn học
Trung Quốc'.
+ Quẻ Tùy (Đoài / Chấn).
Thoán từ nói:
- 'Tùy. Nguyên, hanh, lợi,
trinh, vô cữu’.
NH Lê dịch và giảng:
- 'Dịch: Theo nhau: rất
hanh thông, nhưng phải theo điều chính đáng, vì điều chính đáng (trinh) mới có
lợi không có lỗi.
Giảng: Đoái ở trên là vui vẻ,
Chấn ở dưới là động; đó là tượng cái hành động mà được người vui theo.
Lại có thể giảng: Chấn là sấm,
Đoái là chằm, sấm động ở trong chằm, nước chằm theo tiếng sấm mà cũng động, cho
nên gọi là Tùy.
Lời Thoán từ quẻ này chỉ
khác lời Thoán từ quẻ Càn vì có thêm hai chữ, vô cữu (không có lỗi) ở sau, mà
nghĩa thay đổi hẳn. Chúng tôi dịch như trên là theo Chu Hi: nguyên hanh (rất
hanh thông) là 'đức' (tính cách) của Tùy, còn trinh (chính đáng) là điều kiện để
cho Tùy có lợi mà không có lỗi.
Phan Bội Châu hiểu hơi
khác: cả nguyên, hanh, lợi, trinh đều là điều kiện dể 'Tùy’ mà không có lỗi.....
Chúng tôi nghĩ cũng có thể
hiểu: nguyên, hanh, lợi là tính cách của quẻ, nhưng cần nhất là phải giữ chính
nghĩa (trinh) thì mới không có lỗi.
Đại khái ba cách hiểu đó
cũng không khác nhau mấy. Mà quẻ Tùy so với quẻ Càn thì kém xá. - (tr. 294,
295).
NH Lê nói Quẻ Càn và Quẻ
Tùy đều có 4 đức 'Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh', nhưng Quẻ Tùy vì có thêm 2 chữ 'vô
cữu’ ở phía sau cho nên nghĩa thay đổi hẳn. Thay đổi như thế nào, ra làm sao
thì ông ta không giải thích; và rồi, ở đoạn gần cuối lại nói 'quẻ Tùy so với quẻ
Càn thì kém xa’, và ông ta lại cũng chỉ nói khơi khơi.
Giảng nghĩa phần 'Văn Ngôn'
Quẻ Càn Khổng Dĩnh Đạt (574 - 648) Kinh học gia trứ danh đầu triều Đường viết:
- 'Càn Quái tượng Thiên cố
thử dĩ Tứ đức giai vi Thiên đức. Đản Âm, Dương hợp hội nhi. Tượng tương thành
giai năng hữu đức, phi độc Càn chi nhất Quái. Thị dĩ chư Quái chi trung dịch hữu
Tứ đức, đản dư Quái Tứ đức hữu liệt ư Càn. Cố Càn Quái trực vân Tứ đức cánh vô
sở ngôn, dục kiến Càn chi Tứ sự vô sở bất bao. Kì dư Quái Tứ đức chi hạ tắc
canh hữu dư sự, dĩ Tứ đức hiệp liệt cố dĩ sự hệ chị............... Hữu Tứ đức
giả tức Càn, Khôn, Truân, Lâm, Tùy, Vô Vọng, Cách thất Quái thị dã. Dịch hữu kì
Quái phi thiện nhi hữu Tứ đức giả, dĩ kì Quái hung cố hữu Tứ đức nãi khả dã. Cố
Tùy Quái hữu Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh nãi đắc 'vô cữú thị dã. Tứ đức cụ giả kì
Quái vị tất thiện dã!'.
/ Chu Dịch Chính Nghĩa. Qu. II. Càn. Văn
ngôn /.
- 'Quẻ Càn tượng trưng Trời
cho nên là 4 Đức này đều là Thiên đức. Nhưng Âm Dương hội hợp, 2 Tượng (quẻ
đơn) hợp lại thành Quẻ đều có thể có (4) đức, chẳng phải chỉ mỗi Quẻ Càn. Vì thế
trong các Quẻ cũng có những Quẻ đủ 4 đức, có điều 4 đức ở những Quẻ này có kém
Quẻ Càn. Cho nên Quẻ Càn kể liền 1 hơi 4 Đức mà không thêm gì khác, là để cho
thấy 4 đức của Càn rồi không gì mà không bao gồm. (Trong khi) ở những Quẻ kia
thì ở phía dưới 4 Đức rồi có ghi thêm những sự việc khác, đây là do phạm vi của
4 Đức ở đây hạn hẹp, kém hơn (ở Quẻ Càn) vì thế mà ghi sự việc kèm theọ............
Những Quẻ có đủ 4 Đức là các Quẻ Càn, Khôn, Truân, Lâm, Tùy, Vô Vọng, Cách, 7
Quẻ. Cũng có Quẻ không là Quẻ tốt mà (lại) đủ 4 Đức, đây là vì Quẻ này xấu phải
có 4 Đức mới trở thành tốt được! Bởi vậy Quẻ Tùy có (4 Đức) Nguyên, Hanh, Lợi,
Trinh thì mới 'không lỗí. 1 Quẻ có đủ 4 Đức chưa hẳn là tốt'.
Quẻ Càn là Tượng của Trời,
do đó 4 đức Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh bao quát 1 phạm vi lớn rộng là Vũ trụ,
trong khi ở các Quẻ Khôn, Truân, Tùy, Lâm, Vô Vọng, Cách 4 Đức trên đây thu hẹp
trong vòng những sự việc của xã hội con người, nói rõ hơn, 4 đức Nguyên, Hanh,
Lợi, Trinh kể ở Quẻ Càn luận về Thiên đạo, còn ở 6 Quẻ kia thì luận về Nhân sự.
Thiên đạo ở đây tức biến động trong tự nhiên giới! Biến động này có tính chất
trật tự, hài hoà, nhờ vậy mà mọi hiện tượng cũng như sự phát triển của vạn vật
đi theo quỹ đạo chính, thường - và đây chính là điều Đại Tượng từ Quẻ Càn đã
nói rõ:
- 'Thiên hành kiện, quân tử
dĩ tự cường bất tức'.
(Thiên đây chỉ Biến động
trong Tự nhiên giới).
Phần 'Văn ngôn' Quẻ Càn
càng nói rõ hơn nữa:
- 'Văn Ngôn viết: - Nguyên
giả, Thiện chi trưởng dã, Hanh giả, Gia chi hội dã, Lợi giả, Nghĩa chi hòa dã,
Trinh giả, Sự chi cán dã.
Quân tử thể Nhân túc dĩ trưởng
nhân, gia hội túc dĩ hợp Lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ cán sự.
Quân tử hành thử Tứ đức giả cố viết 'Càn, nguyên, hanh, lợi, trinh'..
- 'Văn Ngôn nói: - Nguyên
là cái Thiện đứng đầu mọi cái thiện, Hanh là hội hợp của mọi điều tốt đẹp, Lợi
là sự hài hòa của điều Nghĩa, Trinh là cốt cán của Sự việc.
Quân tử hành xử theo đức
Nhân cho nên có thể lãnh đạo người, hội đủ mọi điều tốt, đẹp cho nên làm việc
gì cũng hợp Lễ, làm lợi cho mọi loài cho nên điều hòa được điều Nghĩa, bền lòng
trong lẽ chính thường cho nên mọi việc rồi hoàn thành mĩ mãn. Bậc quân tử thực
hiện được 4 Đức này cho nên nói 'Càn, nguyên, hanh, lợi, trinh'.'.
Đó, lí do vì sao cùng hội đủ
4 Đức mà 6 Quẻ kia nói chung, và ở đây Quẻ Tùy nói riêng, lại kém Quẻ Càn. Con
người phải bắt chước lẽ trật tự, hài hòa của Tự Nhiên để hành xử trong xã hội,
có như vậy hành động mới thâu đạt được kết quả tốt đẹp, như 'đắc chú và 'cát' (ở
Quẻ Khôn), như 'lợi kiến hầú (ở Quẻ Truân), như 'vô cữú (ở Quẻ Tùy), như 'hối
vong' (ở Quẻ Cách).
Còn như 2 Quẻ Lâm và Vô Vọng
vì không theo lẽ chính, thường của Tự nhiên cho nên Quẻ Lâm rồi 'chí vu bát
nguyệt hữu hung', Quẻ Vô Vọng rồi 'hữu sảnh' và 'bất lợi hữu du vãng'.
Cứ đó thì rõ tứ Đức Nguyên,
Hanh, Lợi, Trinh vốn không thể tách rời trong mọi hành động của con người, nếu
con người muốn xã hội được trật tự, hài hòa.
Như dẫn giải của NH Lê thì
Trinh không phải là 1 Đức trong 4 Đức kể trên, rõ ràng là thế, vì lẽ ông ta đưa
ra một sự đối lập giữa 'Nguyên, Hanh' và 'Trinh', Nguyên, Hanh là Đức, còn
Trinh là 'điều kiện'. Chu Hi chỉ nói Trinh là điều kiện của Tùy chứ không gạt
điều này ngoài Tứ đức:
- 'Cố vi Tùy, kỷ năng tùy vật,
vật lai tùy kỷ, bỉ thử tương tòng, kỳ thông dị hĩ, cố kỳ chiêm vi nguyên, hanh!
Nhiên tất lợi ư trinh nãi đắc 'vô cữu’, nhược sở tùy bất trinh tắc tuy đại hanh
nhi bất miễn ư hữu cữu hi’.
/ Dịch Kinh Tập Chú. Qu. I. Thượng Kinh.
Tùy /.
- 'Cho nên theo lẽ Tùy, ta
theo người (mà) người (cũng) theo ta, đôi bên theo nhau, (do đó) cảm thông rồi
dễ, cho nên lời bói là nguyên, hanh! Nhưng, (theo người thì) phải theo điều
chính đáng mới 'không lỗí, nếu theo điều không chính đáng thì tuy mọi việc đều
xuông xẻ nhưng rồi không tránh khỏi có lỗí.
Trong đoạn trên không có chỗ
nào Chu Hi nói Trinh không phải là 1 đức như NH Lê nói cả!
KỲ 2
Sau cùng, vì không nhận ra
giá trị đích thực của thiên 'Thuyết Quái’ NH Lê đã cho Thiên này là vô giá trị
(coi trang 72), gạt ra ngoài, không dịch. NH Lê có biết đâu rằng văn từ Kinh Dịch
vốn có tính cách tượng trưng, căn cứ Tượng mà lập Từ - do đó nếu không hiểu Tượng
nhiều lúc đến không hiểu Kinh văn nói gì, để cuối cùng dễ đi đến suy đoán sai lạc!
R. Wilhelm đã để thiên này lên đầu, trước cả 2 thiên Hệ từ Thượng, Hạ là cũng
có ý này.
Theo Tượng mà giải thì có
những cách giải như sau:
1/. Quẻ Tùy, dưới là Quẻ Chấn,
trên là Quẻ Đoài.
Chấn, về phương vị, là
phương Đông, phương mặt trời mọc, chỉ điểm bắt đầu của sự việc, còn về Thời là
mùa Xuân, là lúc vạn vật bắt đầu nảy nở, phát triển.
Đoài là phương Tây, phương
mặt trời lặn, chỉ lúc chung cực của sự việc, còn về Thời Đoài thuộc mùa Thu, là
lúc vạn vật đã thành tựu, cây cỏ đã kết trái.....
Thành ngữ Trung Hoa 'Đông
thành Tây tựú cũng cùng 1 ý nói trên, và trên bàn thờ người ta để bông hoa bên
phải, cây trái bên trái cũng là do đó.
(Theo phương vi. Ngũ hành,
phương Đông bên Trái, phương Tây bên Phải. Minh Di).
Đây là vận hành của tự
nhiên giới, bậc quân tử noi theo sự vận hành này, đến hết ngày thì trở về nghỉ
ngơi. Đây là điều nói ở Đại tượng từ Quẻ Tùy:
- 'Tượng viết: Trạch trung
hữu Lôi, quân tử dĩ hướng hối nhập yến tức'.
- 'Tượng nói: Trong Đầm nước
có Sấm sét, quân tử coi đó mà khi chiều tối thì về nghỉ ngơí.
Trình Di (1033 - 1107) giải
thích như sau:
- 'Quân tử quan Tượng dĩ
tùy thời nhi động, tùy thời chi nghi. Vạn sự giai nhiên. Thủ kì tối minh thả cận
giả ngôn chi:
'Quân tử dĩ hướng hối nhập
yến tức': - quân tử trú tắc tự cường bất tức, nhập hướng hôn hối tức nhập cư ư
nội, yến tức dĩ an kì thân, khởi cư tùy thời, thích kì nghi dã. Lễ: Quân tử trú
bất cư nội dạ bất cư ngoại, Tùy thời chi đạo dá.
/ Dịch Trình Truyện. Tùy /.
- 'Quân tử quan sát cái Tượng,
tùy thời mà hành động, tùy thời mà hành xử thích nghi. Mọi việc đều như thế cả.
Lấy thí dụ rõ nhất và gần nhất mà nói:
'Quân tử coi đó mà khi chiều
tối thì về nghỉ ngơí: - Quân tử ban ngày thì cố gắng không ngừng nghỉ, đến chiều
tối thì về nhà nghỉ ngơi để thân thể được yên ổn. Sinh hoạt thì tùy lúc, thích
nghi với từng lúc một. Theo Lễ: Quân tử ban ngày không ở trong nhà, chiều tối
không ở ngoài đường, đây chính là lẽ Tùy thờí.
Minh Di chú:
Thiên Đàn Cung sách 'Lễ Ki’
nói:
- 'Phù trú cư ư nội - vấn
kì tật khả dã, dạ cư ư ngoại - điếu chi khả dã! Thị cố, quân tử phi hữu đại cố
bất túc ư ngoại. Phi trí trai dã, phi tật dã, bất trú dạ cư ư nộí.
- 'Ban ngày ở trong nhà -
(như) đi thăm người bệnh thì được, ban đêm ra ngoài đường - (như) đi điếu người
chết thì được! Cho nên là, Quân tử nếu không có việc quan trọng thì(đêm) không ở
ngoài đường! Không phải việc tế tự, không phải đi thăm người bệnh thì ngày ở
bên ngoài, đêm ở trong nhá.
2/. Chấn là động, Đoài là
vui vẻ, hành động mà khiến người vui vẻ thì người sẽ theo tạ
3/. Sấm sét động dưới đáy Đầm
giống như 1 gợn sóng vừa gợn kéo theo những gợn sóng khác.
Hòa thượng Thuyền Tử ở
Hoa
Đình có bài kệ như sau:
Thiên xích
ti luân trực hạ thùy,
Nhất ba tài động vạn ba
tùy.
Dạ tĩnh thủy h
Mãn thuyền không tái nguyệt minh quị
Ngàn
thước dây tơ thẳng xuống gieo,
Một làn vừa gợn vạn làn theo.
Đêm lặng nước se, cá chẳng đớp,
Đầy
thuyền trăng sáng chở về theo.
(Tham khảo: Mặc Khách Huy Tệ
[Qu. VII], Bành Thừa (? - ?) đời Bắc Tống soạn).
+ Quẻ Quan (Tốn / Càn).
Quan nghĩa là coi, là xem,
và là coi kĩ, xem kĩ (tế khán), do đó, nhân Quẻ này tôi coi NH Lê đọc và coi
Kinh Dịch tới đâu?
NH Lê giảng Tượng Quẻ như
sau:
- 'Giảng: Theo tượng quẻ, Tốn
ở trên, Khôn ở dưới là gió thổi trên đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi
loài, hoặc xem xét (quan) khắp mọi loài.
Lại thêm: hai hào dương ở
trên, bốn hào âm ở dưới, là dương biểu thị (quán) cho âm, âm trông (quan) vào
dương mà theó. (tr. 307).
Như tôi đã nói, NH Lê vốn
không hiểu Dịch tượng, lại cho rằng thiên 'Thuyết Quáí là không có giá trị gì
(coi tr. 72, sách của NH Lê) cho nên luận giải của NH Lê ở đây rất nghèo nàn.
Thiên Thuyết Quái nói:
- 'Tốn vi Mộc'. ('Tốn là
[tượng của] Câý). Chương XI.
Hình ảnh ở đây là 1 người ở
trên cây cao nhìn bao quát mọi cảnh vật chung quanh, đây là nghĩa căn bản của
Tượng quẻ, nghĩa căn bản NH Lê phải giảng trước tiên.
Cũng vì vậy mà cũng trong
Chương đã kể que? Tốn còn có tượng của 'Caó (trái với Thấp).
Đại Tượng từ Quẻ Quan nói:
- 'Tượng viết: Phong hành Địa
thượng, Quan, tiên vương dĩ tỉnh phương, quan dân thiết giáó.
- 'Tượng (Quẻ) nói: Gió thổi
mặt Đất, là Tượng của Quẻ Quan, các vị vua đời trước coi theo đó mà xem xét các
phương, để rồi theo đó mà đặt chính sách giáo hóa dân'.
Chữ 'Phong' ở đây cũng có
nghĩa là 'Giáo hóá, như sách 'Thượng Thư’ nói:
- 'Duyệt tứ hải chi nội,
hàm ngưỡng trẫm đức, thời nãi phong'.
/
Thượng Thự Thương thư. Duyệt mệnh hạ
/.
- 'Coi khắp bốn biển nơi
nào cũng ngưỡng mộ cái đức của ta, đây là do sự giáo hóa của ông'.
NH Lê Nói 'dương biểu thị
(quán) cho âm, âm trông (quan) vào dương mà theo’.
Quẻ Quan, que? Tốn ở trên
còn là tượng của 'quyền hành':
Quẻ Tốn (Tốn / Tốn), Đại Tượng
từ:
- 'Tùy Phong, Tốn, quân tử
dĩ thân mệnh hành sứ.
Hệ từ hạ:
- 'Tốn, dĩ hành quyền'. (Chương
VII).
Ở dưới là Quẻ Khôn, là tượng
của 'đám đông', của dân chúng, như đã nói trước đây.
Người trên có đức, dân nhìn
lên chưa chắc đã noi theo, vì có những kẻ kém hiểu biết, bởi vậy mà phải giáo
hóa, giáo hóa không được thì phải dùng đến quyền lực. Hiểu cho rốt ráo là vậy!
Giải như NH Lê không sai
nhưng còn thiếu sót nhiều. Nhìn chung, giải thích của NH Lê ở đây là giải thích
của Dịch học gia thời Triệu Tống, dẫn đại khái 1 vài tác giả như:.
Trình Di (1033 - 1107)
trong 'Dịch Trình Truyện'.
Lí Hành (? - ?) trong 'Chu
Dịch Nghĩa Hải Toát Yếú.
Chu Chấn (1072 - 1138)
trong 'Hán Thượng Dịch Truyện'.
Trịnh Cương Trung (1088 -
1154) trong 'Chu Dịch Khuy Dứ.
Vương Tông Truyền (? - ?)
trong 'Đồng Khê Dịch Truyện'.
*
Chữ Quan, học giả các thời
Đường (618 - 907), Tống (960 - 1279), khi luận về những chữ Quan trong Quẻ này,
đã phân biệt 2 âm Quan và Quán.
Vương Tông Truyền trong 'Đồng
Khê Dịch Truyện' khi luận âm đọc của chữ Quan với bạn ông là Nguyễn Linh (tên Tự
là Nguyên Phu) đã dẫn giải rất dài giòng, mà nếu dịch ra Việt ngữ cũng đến 3, 4
trang, vì vậy tôi không dẫn ra đây, chỉ tóm lược 1 vài điểm.
Về tên Quẻ, có học giả đọc
là Quan, có học giả đọc là Quán.
Vương Bật đọc âm Quan, Lục
Đức Minh, Trình Di đọc âm Quán.
Từ Hiền (916 - 991) cho rằng
chỉ mỗi chữ Quan trong câu - 'Trung chính dĩ quán thiên há của Thoán truyện là
chữ duy nhất trong Quẻ đọc âm Quán.
Đại khái, sau cùng Vương
Tông Truyền đồng ý với Nguyễn Linh là trong Quẻ chỉ mỗi chữ Quan trong câu vừa
dẫn trên của Thoán truyện là đọc âm Quán, ngoài ra đều đọc âm Quan.
(Tham khảo: Đồng Khê Dịch
Truyện. Qu. X. Quẻ Quan).
Trình Di nói nếu có nghĩa
là coi, là xem thì đọc âm Quan, còn nếu đưa ra 1 vật gì, 1 điều gì cho người
coi, thấy, thì đọc âm Quán. Trong 'Chu Dịch Chiết Trung', Lý Quang Địa (1642 -
1718) dẫn 'Chu Tử Ngữ Loạí của Chu Hi (1130 - 1200) nói như Trình Di, và cho rằng
ngoài tên Quẻ đọc Khứ thanh (Quán), các chữ Quan trong 6 Hào đều là Bình thanh
(Quan).
(Tham khảo: Chu Dịch Chiết
Trung. Qu. III. Quẻ Quan, mục 'Tập thuyết').
Nhưng, đến đời Thanh (1644
- 1911), Dịch học gia trứ danh Mao Kì Linh (1623 - 1713), khi chú giải Quẻ Quan
đã viết như sau:
- 'Quan. Cổ vô Tứ thanh,
bình, thượng, khứ đồng dụng, cố Hán Dịch giai vô âm chú, hậu nhân phân bình, khứ
nhị âm, phi thí.
/ Trọng Thị Dịch. Qu. IX.
Quan /.
- 'Quan. Thời cổ không phân
4 Thanh điệu, các thinh bình, thượng, khứ đồng thời được dùng - bởi vậy các Bản
Dịch kinh đời Hán đều không có mục chú âm, người đời sau phân (chữ này) ra 2 âm
bình thinh và khứ thinh, như vậy là không đúng'.
Chú giải 2 chữ 'Đại quan' của
Thoán Truyện Quẻ Quan Mao Kì Linh viết:
- 'Quan vi đại Cấn (Lục hào
giai kiêm hoạch chi Cấn) nhi Tam, Ngũ đồng công tắc hựu vi hỗ Cấn. Cấn giả, môn
khuyết chi tượng (kiến tiền), cố viết Quan.................. Đệ triều hữu quan,
miếu dịch hữu quan, giai môn bàng song khuyết. Nhi thị Quái, ha. Khôn thượng Tốn,
dĩ địa thượng chi mộc (Tốn vi Mộc) nhi khuy nhiên cao trĩ, vị chi Quỉ Môn'.
/ Trọng Thị Dịch. Qu. IX.
Quan /.
- 'Quẻ Quan là que? Cấn lớn
(Cả 6 hào hợp thành que? Cấn) và từ hào đến hào 5 lại là Hỗ thể Cấn. Cấn là tượng
của đài 2 bên cổng (coi ở trước), do đó gọi là Quan.... Phủ thự có quan, miếu
cũng có quan, đều là 2 cái đài ở 2 bên Cổng. Mà Quẻ này, dưới là que? Khôn trên
là que? Tốn, như cây (Tốn là Cây) vươn cao trên mặt đất, gọi là Quỉ Môn
(Quan)'.
Minh Di chú:
Ở về phía Nam huyện Bắc Lưu
tỉnh Quảng Tây 3 dặm (~ 1.7 cây số) có 2 tảng đá cao sừng sững đối nhau, khoảng
giữa rộng 30 bộ (~ 5.6 m), tục gọi là Quỉ Môn Quan. Thời cổ, qua Giao Chỉ là đều
theo cửa quan phía Bắc. Cửa quan phía Nam nhiều chướng khí, đi qua đây ít kẻ sống
sót mà trở về, tục ngạn có câu: 'Quỉ Môn Quan thập nhân cửu bất hoàn', nghĩa là
'Qua Quỉ Môn Quan 10 người rồi 9 chẳng trở vế. (Tham khảo: Cựu Đường Thự Qu.
XLI. Địa lí chí 4).
Ở đây Mao Kì Linh ý nói quẻ
Tốn biểu thị 1 thân cây cao vút như 2 tảng đá ở Quỉ Môn Quan, và ở trên cây này
thì nhìn (Quan) bao quát mọi cảnh vật chung quanh.
Quan là nhìn, là thấy, là
coi kĩ, nhưng NH Lê ở đây đã chẳng nhìn, chẳng thấy được bao nhiêu!
*
+ Quẻ Khuê (Li / Đoài).
Về ý nghĩa của Quẻ Khuê NH
Lê viết:
- 'Thoán truyện giảng thêm:
Đoái là thiếu nữ (1), Li là trung nữ, hai chị em ở một nhà mà xu hướng trái
nhau (em hướng về cha mẹ, chị hướng về chồng), chí hướng khác nhau, cho nên gọi
là Khuê; (em còn nhỏ, còn muốn ở với cha mẹ, chưa muốn có chồng). - (tr. 391).
Tôi dẫn toàn văn phần Thoán truyện Quẻ Khuê để
độc giả thấy cái ba láp của NH Lê:
- 'Thoán viết: - Khuê, Hỏa
động nhi thượng, Trạch động nhi hạ, nhị nữ đồng cư, kì chí bất đồng hành, duyệt
nhi lệ hồ minh, nhu tiến nhi thượng hành, đắc trung nhi ứng hồ cương, thị dĩ
'tiểu sự cát'. - Thiên địa khuê nhi kì sự đồng dã, nam nữ khuê nhi kì chí thông
dã, vạn vật khuê nhi kì sự loại dã - Khuê chi thời dụng đại hĩ tai!'.
Dịch văn:
- 'Phần Thoán viết: - Quẻ
Khuê, Lửa động thì bốc lên, Đầm nước động thì chảy xuống, (Tượng) 2 thiếu nữ ở
cùng 1 nhà mà chí hướng khác nhau! Vui vẻ mà kề cận cái sáng sủa, Nhu tiến lên,
ở vị trung chính lại ứng với Cương, bởi vậy (mà nói) 'tốt cho việc nhó. - Trời
đất cách biệt mà Sự lí đồng, trai gái cách biệt mà lòng tương thông, vạn vật
cách biệt mà sự thể như nhau - cái dụng của thời Khuê rồi lớn biết bao!'.
Qua đoạn văn trên đây của
phần Thoán truyện độc giả rồi có thấy ý nào giống như những ý của NH Lê diễn giải
trong ngoặc đơn hay không, tức các ý:
- '(em hướng về cha mẹ, chị
hướng về chồng)'.
- '(em còn nhỏ, còn muốn ở
với cha mẹ, chưa muốn có chồng)'.
Khi dịch 1 đoạn văn, 1 câu
văn, mở ngoặc đơn là để giải thích rõ hơn cái ý, hoặc nêu ra 1 ngụ ý nào đó, của
nguyên văn, mà ở đây các ý trong ngoặc đơn không hẳn đã là ý của nguyên văn.
Nếu không dẫn lại nguyên
văn thì ít nhất cũng phải dịch cho đúng nguyên văn, không có chuyện thêm thắt
những cái ý ba láp của mình vô đó, như Nguyễn Hiến Lê đã làm ở đây - và ở rất
nhiều chỗ khác nữa, dài dài trong cuốn sách của ông tạ
Muốn diễn giải gì, đưa ra
thí dụ gì, mặc lòng, nhưng xin dẫn nguyên văn rồi muốn gì thì muốn.
Khi nói Tượng truyện luận
thêm thế này, Thoán truyện giải thêm thế kiạ... NH Lê không bao giờ dẫn nguyên
văn, để độc giả, và những bạn trẻ của ông ta, chẳng biết đó vào đâu, nhằm che
giấu cái kém cỏi về Hán văn, đồng thời tha hồ nói ba láp! Cứ nhập nhà nhập nhằng
kiểu này độc giả không đọc được nguyên văn rồi chẳng biết đâu là chính văn, đâu
là chú giải và đâu là diễn dịch của người viết. Đây là thái độ mà 1 người cầm
viết ngay thẳng không khi nào có chứ đừng nói là 1 người 'nghiên cứú như NH Lê
thường khoác lác tự nhận.
Còn nếu giảng theo Tượng Quẻ
thì: - trên là Li dưới là Đoài, Li là Lửa, Đoài là Nước, xu hướng tự nhiên của
Lửa là bốc lên và xu hướng tự nhiên của Nước là thấm xuống. 1 đàng thì đi lên,
còn 1 đàng lại đi xuống, ngày càng xa nhau, do đó mà gọi là Khuê (xa cách, lìa
nhau).
64 Quẻ, Đại Tượng từ Quẻ
nào cũng nêu 2 quẻ đơn (quẻ 3 hào) thành phần của Quẻ để mà luận Tượng, do đó
khi giảng nghĩa Quẻ thì không thể không căn cứ 2 quẻ đơn thành phần này, đây là
điều căn bản. Mở đầu bài 'Khả Thán' Thi hào Đỗ Phủ (712 - 770) có 2 câu:
Thiên thượng phù vân tự bạch y,
Tư
tu cải biến như thương cẩu.
Cùng 1 hình ảnh mỗi người
nhìn mỗi khác, Đỗ Phủ nhìn đám mây trắng kia ra 'con cho, nhưng người khác có
thể nhìn ra vật khác, như con bò, con ngỗng, con cá... chẳng hạn. Cũng vậy,
cùng 1 Tượng có thể có nhiều cách diễn giải khác, tùy mỗi người, chính tính chất
gợi í này đã làm cho Kinh Dịch thành 1 nguồn hứng trải đã mấy ngàn năm vẫn chưa
tận!
*
+ Quẻ Đoài (Đoài / Đoài).
NH Lê ghi là Đoái (Đoai + dấu
Sắc).
Bộ 'Kinh Điển Thích Văn' của
Lục Đức Minh đời Đường phiên thiết tên Quẻ này như sau:
- 'Đoài. Đồ Ngoại phiên,
duyệt dã. Bát thuần quái tượng Trạch'.
/ Kinh
Điển Thích Văn. Qu. II. Chu Dịch âm nghĩa
/.
- 'Đoài. Phiên thiết là Đồ
+ Ngoại, nghĩa là vui. Trong 8 quẻ thuần là tượng của Đầm nước'.
Và nói Phương thì Đoài vị ở
chính Tây:
- 'Đoài chính Thu dá.
/ Thuyết Quái. V /.
- 'Quẻ Đoài thuộc chính
Thú.
Theo thuyết lí Ngũ Hành thì
mùa Thu thuộc Hành Kim, sắc Trắng, vị trí ở phương Tây, cho nên ở đây nói
'chính Thú tức nói 'chính Tâý.
Khang Hi tự điển dẫn các
sách 'Đường Vận' và 'Tập Vận' ghi phiên thiết tên Quẻ này như sau:
- 'Đường Vận: Đỗ Ngoại thiết.
Tập Vận: Đồ Ngoại thiết'.
- 'Sách Đường Vận: Thiết âm
là Đỗ + Ngoại. Sách Tập Vận: Thiết âm là Đồ + Ngoạí.
Cũng vậy, theo Thiết âm của
2 sách dẫn trên thì chữ Đoài ở đây phải đọc là Đoái.
Và như vậy, tên Quẻ ở đây
phải đọc là Đoái, đúng như NH Lê ghi. Vậy thì NH Lê sai ở chỗ nào?
Thế nhưng, theo thói quen
thì từ trước đến giờ trong ngôn ngữ của chúng ta, chúng ta vẫn đọc là Đoài
(Đoai + dấu Huyền) - và tôi chắc rằng NH Lê không phải là không biết, mà là
không nhớ điểm này để ghi cho đúng với tinh thần Việt ngữ là Đoài.
Ca dao có những câu như:
Chẳng
vui cũng thể Hội Thầy,
Chẳng
trong cũng thể Hồ Tây xứ Đoài.
và rồi:
Cha đời con gái xứ Đông,
Ăn trộm tiền chồng mua khố cho trai.
Cha đời con gái xứ Đoài,
Ăn trộm tiền mẹ mua khoai cho chồng.
và rồi:
Rủ nhau đi cấy xứ Đoài,
Công lênh chẳng được, được vài chút
con.
và rồi:
Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống Đông tĩnh lên Đoài Đoài tan.
Nguyễn Du cũng có câu:
Ngày vui
ngắn chẳng đầy gang,
Trông ra
ác đã ngậm gương non Đoài.
(Truyện
Kiều).
Tất cả những chữ 'Đoài’
trong Văn chương (Bình dân cũng như Bác học) Việt Nam trên đây đều là Quẻ Đoài
trong Dịch và đã được Việt hóa theo âm Việt là Đoài, với nghĩa là phương Tây.
Đây là thói quen trong ngôn
ngữ, và thói quen này nhiều lúc này bất chấp cả luận lý, sự thực, và ở đây bất
chấp qui luật về Âm vận học.
*
Ngoài ra cũng liên quan âm
đọc của các Quẻ, NH Lê cũng đã thiếu chính xác:
Quẻ Tu (Khảm / Càn), NH Lê
đọc là Nhụ
Quẻ Quái (Đoài / Càn), NH
Lê đọc là Quải.
Quẻ Túy (Đoài / Khôn), NH
Lê đọc là Tụy.
Các bản chú giải 'Dịch
Kinh' của học gia? Trung Hoa đều đọc các âm dẫn trên, chỉ mỗi Quẻ Tu Trịnh Huyền
(127 - 200) thời Đông Hán (25 - 220) đọc âm là Tú (đẹp đẽ).
Quẻ Tu.
Bộ 'Kinh Điển Thích Văn'
ghi:
- 'Tụ Âm Tu...... Trịnh độc
vi Tú, giải vân Dương khí tú nhi bất trực tiền, úy thượng Khảm dá.
/
Kinh Điển Thích Văn. Qu. II. Chu Dịch âm nghĩa /.
- 'Quẻ Tụ Âm đọc là
Tu...... Trịnh (Huyền) đọc âm là Tú, giải thích là Dương khí đẹp đẽ nhưng không
tiến thẳng tới trước, vì sợ quẻ Khảm ở trên'.
(Bộ 'Kinh Điển Thích Văn'
thường được học giới gọi giản lược là 'Thích Văn').
Các bản chú giải Dịch Kinh
của Vương Bật, Trình Di đều đọc âm Tụ
Quẻ Quái.
Bộ 'Thích Văn' ghi:
- 'Quái. Cổ Khoái phiên'.
/ Sd. Quyển thứ đã dẫn /.
- 'Quẻ Quái. Phiên thiết là
Cổ + Khoáí.
Tự điển Khang Hi ghi:
- 'Đường Vận: Cổ Mại thiết.
Tập Vận: Cổ Hoại thiết. Tịnh âm Khốí.
- 'Sách Đường Vận: Thiết âm
là Cổ + Mại. Sách Tập Vận: Thiết âm là Cổ + Hoại. (Cả hai) đều đọc âm Khốí.
(Chữ Khối nói trên, âm Hoa
ngữ đọc giống như âm 'Khoaí trong 'Khoai tâý, 'Khoai lang' của Việt ngữ. Minh
Di).
Tóm lại, chính xác thì tên
Quẻ ở đây phải đọc âm là Quái.
Quẻ Túy.
Bộ 'Thích Văn' ghi:
- 'Túy. Tại Quí phiên'.
/ Sd. Quyển thứ đã dẫn /.
- 'Quẻ Túy. Phiên thiết là
Tại + Quị
Tự điển Khang Hi ghi:
- 'Đường Vận: Tần Túy thiết'.
- 'Bộ Đường Vận: Thiết âm
là Tần + Túý.
Tuy nhiên, những chữ Tu,
Quái, Túy trên đây không được sử dụng trong ngôn ngữ Nói cũng như ngôn ngữ Viết
của Việt ngữ, nói rõ hơn là chưa được Việt hóa như chữ Đoài, cho nên cái Sai của
NH Lê ở đây cũng không đáng nói cho bằng không để í tới âm đọc, tới thói quen
trong ngôn ngữ Việt như trường hợp chữ Đoài.
&
[II]. Truyện: Hệ Từ thượng.
Hệ Từ hạ (Từ trang 517 đến trang 580).
(1). Hệ Từ thượng. (Từ trang 519 đến 549).
Chương I. (Từ trang 519 đến 522).
+ 'Càn đạo thành Nam, Khôn đạo thành Nứ‘.
NHLê dịch và chú giải câu trên như sau:
- 'Dịch: Có đạo Càn (tức
khí dương) nên thành giống đực, có đạo Khôn (tức khí âm) nên thành giống cái.
Chú thích: Chữ đạo ở đây
không có nghĩa là đạo đức, cũng không hẳn có nghĩa như trong Đạo Đức Kinh. Có
thể tạm coi là luật thiên nhiên. Nam nữ thường dịch là trai gái, như vậy là chỉ
xét chung về loài người thôi, nghĩa hẹp đí. (tr. 520).
Cũng vì chỉ hiểu lơ mơ lờ mờ,
vì không đọc kỹ đoạn mở đầu của thiên 'Hệ Từ thượng' cho nên là NH Lê đã giảng
chữ 'Đạó trong câu dẫn trên 1 cách sai lạc như vậy.
Chữ 'Đạo’ ở đây dĩ nhiên
không có nghĩa là Đạo đức, cũng không có nghĩa như chữ Đạo đề cập trong 'Đạo Đức
Kinh', lại càng không phải là 'luật thiên nhiên' như NH Lê đoán mò.
Chữ 'Đạo’ ở đây có nghĩa là
'tính chất', 'đặc tính', và như vậy, câu trên phải dịch như sau:
- 'Những vật có các tính chất
của Càn (Dương) được xếp vào loại giống Đực - những vật có các tính chất của
Khôn (Âm) được xếp vào loại giống Cái’.
Những tính chất của Càn và
Khôn đã được nêu rõ trong mấy câu mở đầu thiên, đó là:
- 'Thiên tôn Địa ti, Càn
Khôn định hĩ....... Động, tĩnh hữu thường, cương nhu đoán hí.
('Trời ở trên cao, Đất ở dưới
thấp, đây là những vị trí nhất định của Càn (Trời), Khôn (Đất)....... Động,
tĩnh có qui luật, do đó mà đoán định đâu là cương, đâu là nhú).
Các tính chất của Càn là
'caó, là 'động', là 'cứng' (cương).
Các tính chất của Khôn là
'thấp' (ti), là 'tĩnh', là 'mềm' (nhu).
Câu cuối của đoạn trên NHLê
viết: 'Nam nữ thường dịch là trai gái, như vậy là chỉ xét chung về loài người
thôi, nghĩa hẹp đí.
Ở đây chỉ có cái hiểu biết
của NHLê là hẹp thôi! Với 2 chữ 'Nam, Nữ’ đoạn văn trên của Hệ Từ chỉ chung giống
đực và giống cái của tất cả mọi loài chứ chẳng riêng gì loài người! Có thể thấy
đây là hình thức qui nạp, Càn biểu thị Trời, Khôn biểu thị Đất, với Vạn vật hàm
chứa tại nội, và như vậy thì rõ ràng 'Nam, Nứ ở đây không hạn hẹp ở Con Người,
một người có trình độ thường cũng hiểu, 'học giá NH Lê cứ e, sợ rằng không ai
hiểu và dịch từng chữ một như ông ta cho nên đã lên mặt dạy đời 1 cách vụng về!
Giả như trong câu ở trên thay
vì 2 chữ 'Nam, Nữ’ tác giả Hệ Từ dùng 2 chữ 'Thư, Hùng', hoặc 2 chữ 'Tẫn, Mẫu’
chẳng hạn, 'học giá Nguyễn Hiến Lê hẳn sẽ giảng và dạy độc giả rằng 2 chữ 'Thư,
Hùng', 2 chữ 'Tẫn, Mẫu’ chỉ dùng để chỉ giống đực và giống cái của chim chóc,
hoặc của thú vật thôi, hiểu như vậy 'nghĩa hẹp đi’.
Đúng như lời Mạnh Tử:
- 'Nhân chi hoạn tại hiếu
vi nhân sứ’.
/ Mạnh Tử. Li Lâu thượng. 23 /.
- 'Cái bệnh của con người
là thích làm thầy người tá.
*
Chương II. (Trang 522 và
523).
+ 'Thị cố cát, hung giả, đắc,
thất chi tượng dã; hối, lận giả, ưu ngu chi tượng dá.
NHLê dịch:
- 'Dịch: tốt xấu là cái tượng
của sự đắc thất; hối tiếc là cái tượng của sự lo ngạí.
Câu này NHLê dịch rất lơ
mơ, nhất là đoạn sau! Chỗ không cần giải thích thì NH Lê rồi lên bục giảng giải
huyên thiên, trong khi chỗ cần giải thích cho rõ thì NH Lê lại giải thích không
được.
2 chữ 'đắc, thất' ở đây có
nghĩa rất bao quát, là 'đúng, saí, là 'thành, bạí.... Làm đúng sẽ được kết quả
tốt, sẽ thành công, làm sai sẽ gặp kết quả xấu, sẽ thất bại.
Câu liền sau đó, NH Lê dịch
2 tiếng 'ưu ngu’ là 'sự lo ngại’, dịch như vậy chẳng những là lơ mơ mà còn lờ mờ
nữa, nếu không muốn nói là không hiểu gì hết!
NH Lê dịch 'ưu ngu’ là 'lo
ngại’, 'ưu’ là lo, vậy còn chữ 'ngu’ ở đây nghĩa là gì? là 'ngại’ chắc?
NH Lê đã không hiểu rằng,
chữ 'Ngu’ ở đây tức từ ngữ 'Bất ngu’ nói gọn. 'Bất ngu’ có nghĩa là việc không
lường được trong tương lai! Người Trung Hoa có các câu 'giới bất ngu’, 'bị ngu’,
và tất cả đều có nghĩa là 'phòng bị việc bất trắc'.
Và như vậy, câu 'hối, lận
giả, ưu ngu chi tượng giá dịch cho thật rõ sẽ là:
- 'hối, tiếc là dấu hiệu (kết
quả) của việc không dự liệu chuyện bất trắc (có thể xảy ra)'.
(Về chữ 'Ngu’ này tôi đã
nói ở phần giải hào Lục tam Quẻ Truân ở 1 đoạn trước).
Cũng do không biết dự liệu
những bất trắc có thể xảy ra cho nên xảy ra chuyện thì còn lại chỉ là sự 'hối
tiếc' mà thôi.
Kinh Dịch dạy người ta phải
biết tiên liệu, và câu này chỉ là lập lại 1 điều đã được nói rất nhiều trong
nhiều đoạn của Kinh văn, chẳng hạn:
Quẻ Khôn hào Sơ Lục nói 'Lí
sương, kiên băng chi là nói khi thấy Sương rơi thì phải liệu trước băng, tuyết
rồi sẽ theo sau đó mà tới. Giải thích rõ Hào này, phần Văn ngôn Quẻ Khôn có đoạn
nói là bề tôi giết vua, con giết cha, Sự việc không phải chợt 1 sớm 1 chiều mà
nên, do lai của nó đã tiệm tích lâu ngày mà thành, đến đỗi để Sự việc xảy ra là
do không biết biện biệt từ sớm.
Hào Lục tam Quẻ Truân đã
nói là 1 thí dụ khác về sự dự liệu nói trên.
Câu 'Quân tử an nhi bất
vong nguy, tồn nhi bất vong vong, trị nhi bất vong loạn' ở khoảng giữa Chương V
Thiên Hệ từ hạ.
Câu 'Phù Dịch, chương vãng
nhi sát laí ở Chương thứ VI Thiên Hệ Từ hạ cũng cùng 1 ý dự liệu nói trên.
Và còn nhiều, nhiều nữa.....
NH Lê nếu đọc Kinh Dịch kĩ
hơn chút nữa thì sẽ không dịch câu trên 1 cách lơ mơ như vậy.
Ngoài ra, về 2 tiếng 'Thị
cô ở đầu câu NHLê viết:
- 'Chú thích (1) chữ thị cố
này thời xưa dùng để chuyển, không thực có nghĩa nhân quả, cho nên chúng tôi
không dịch'.
Tôi không rõ NH Lê căn cứ
vào đâu để mà khẳng định rằng 2 tiếng 'Thị cô ở đầu Câu dẫn trên không có nghĩa
'nhân quá?
Những vấn đề luận trong Chương
II thiên Hệ Từ thượng này nói riêng, và ở những Chương khác nói chung, vấn đề
này liên quan vấn đề kia, cho nên là cả 2 tiếng 'thị cô trong Chương này đều có
nghĩa nhân quả, ở các Chương khác cũng vậy.
Chương IX. (Từ trang 536 đến 540).
+ 'Càn chi sách nhị bách nhất
thập hữu lục, Khôn chi sách bách tứ thập hữu tự
NHLê dịch và chú thích như
sau:
- 'Thẻ của Càn là 216, thẻ
của Khôn là 144, cộng lại là 360, hợp với số ngày trong một năm'.
Chú thích: Càn và Khôn
trong tiết này trỏ que? Thuần Càn (sáu hào dương) và que? Thuần Khôn (sáu hào
âm). 'Sách' chúng tôi dịch theo tự điển là thẻ (có lẽ là cọng cỏ thỉ)......
Do đâu mà có những số 216
và 144? Wilhelm và Legge mỗi nhà giảng một khác........, chúng tôi không hiểu
mà cũng không cho là quan trọng, cho nên không dịch'. (tr. 536).
NH Lê không hiểu 'do đâu mà
có những số 216 và 144?'.
Trình đô. Hán văn của NH
Lê, như đã thấy, vốn rất kém cỏi cho nên cũng không trách ông ta đã không thể
tìm đọc những sách chú giải về Kinh Dịch để hiểu do đâu mà có 2 con số nói
trên.
KỲ 3
Trong Kinh Dịch, số 9 là số
của Càn, số 6 là số của Khôn.
Trong phép bói co? Thi
phương thức tính các Hào âm dương Thái, thiếu (Thái âm, Thái dương và thiếu âm,
thiếu dương) dựa trên Cơ số (Base) 4. (Sẽ nói ở 1 đoạn sau).
Và các số 216 và 144 đã được
tính như sau:
- Càn = 9 x 4 = 36. Khôn =
6 x 4 = 24.
Mỗi quẻ có 6 Hào, vậy: Càn
= 36 x 6 = 216. Khôn = 24 x 6 = 144.
NH Lê không thông Hán văn,
bởi vậy lật sách tiếng Anh để tìm hiểu do đâu mà có 2 con Số này
để rồi tưởng sao, 'học giá
NH Lê của chúng ta cũng nói là 'chúng tôi không hiểú luôn.
James Legge, trong phần giải
thích nguyên do của 2 con số trên đã nói rất rõ như sau:
- 'The actual number of the
undivided and divided lines in the hexagrams is the same, 192 each. But the
representative number of an undivided line is 9, and of a divided line is 6.
Now 9 x 4 (the number of the emblematic figures) x 6 (the lines of each
hexagram) = 216; and 6 x 4 x 6 = 144'.
- 'Số thực sự của các hào
dương và các hào âm trong 64 quẻ thì như nhau, mỗi loại (hào) là 192. Nhưng,
con số tượng trưng của Hào dương là 9, và của Hào âm là 6. Vậy 9 x 4 (số của Tứ
tượng) x 6 (số hào của mỗi quẻ) = 216; và 6 x 4 x 6 = 144'.
Đoạn văn trên đây của James
Legge hết sức dễ hiểu, vậy mà NHLê lại không hiểu - Sở dĩ vậy là vì 'người
nghiên cứu về cổ học Trung Hoá NH Lê của chúng ta quá là tệ về Dịch học! Dĩ
nhiên NHLê có thể không đồng í với quan điểm của tác gia? Hệ từ về cách tính 2
con số 216 và 144 của Càn và Khôn trên đây, nhưng, nhưng không thể không biết
cách tính này ra sao!
Thời vu xứ này có những thứ
khoa bảng Tây học Việt Nam cứ tưởng có thể ngồi rung đùi...... mà nghiên cứu Cổ
học Việt Nam và Trung Hoa qua những Sách Anh, Sách Pháp - lại còn tưởng xa hơn
nữa là mình cũng là 1 học giả trong lãnh vực này chứ chơi sao! Tội nghiệp!
Chưa luận trường hợp các
tác gia? Tây phương sai các ông, các bà khoa bảng Tây học Việt Nam chẳng làm
sao mà lần ra được, ngay cả khi họ chính xác các ông, các bà nhà ta cũng không
làm sao mà hiểu họ nói cái gì nữa!
NH Lê là 1 tấm gương, cả đời
ông 'học giá này về phương diện Cổ học Trung Quốc rồi chỉ dựa vào sách Anh,
sách Pháp. Kết quả ra sao thì tôi đã chứng mình rõ.
Nếu nghiên cứu Cổ học Trung
Hoa và Việt Nam mà dễ như 'học giá NH Lê và các ông, các bà trên đây nghĩ thì
tôi nghĩ mà giận tôi sao quá cỡ ngu! Tiếng Pháp, tiếng Anh thôi thì tôi cũng cứ tạm gọi là biết đôi chút đi, vậy mà ở vào cái
Tuổi 'Chí ư học' tôi lại vùi đầu tự học thêm cái Thứ chữ rắc rối kia, cho đến
nay cũng đã sắp tới kì 'Nhĩ thuận'. Sao lại mất thời giờ đến thế!
*
+ 'Thị cố tứ doanh nhi
thành Dịch, thập hữu bát biến nhi thành Quáí.
NHLê dịch và chú thích như sau:
- 'Dịch: Cho nên bốn lần mà
thành một lần biến, mười tám lần biến mới thành một quẻ.
Chú thích: Theo Chu Hi, bốn
lần tráo trộn là: 1 - chia bó 50 thẻ cỏ thi làm hai; 2 - bỏ một thẻ ra, còn 49
thẻ; 3 - đếm những thẻ bên tay trái, cứ bốn một, kẹp số lẻ còn lại. Như vậy được
một lần biến'. (tr. 539).
Tôi nghĩ nếu gặp nhau ở cõi
Âm chắc chắn học giả Chu Hi rồi sai người nọc 'học giả’ NH Lê ra đánh cho 1 trận
đích đáng về cái tội 'vu oan cổ nhân, đánh lừa hậu nhân'.
Chu Hi có nói 'chia bó 50
thẻ cỏ thi làm haí rồi 'bỏ một thẻ ra còn 49 thé bao giờ đâu!
Tôi có thể khẳng định là nếu
làm theo đoạn 'Chú thích' trên đây của NH Lê để Bói co? Thi thì sẽ không bao giờ
bói ra được 1 Quẻ nào hết! Ngay ông ta cũng đến không hiểu mình nói cái gì nữa
chứ đừng nói là dạy kẻ khác!
Boileau (1636 - 1711), thi
sĩ, phê bình gia trứ danh người Pháp, có 1 câu như sau:
- 'Ce que l'on concoit bien
s'énonce clairement'. (L'art poétique).
Thực đúng cho trường hợp
NHLê ở đây. Bởi không hiểu tới nơi tới chốn cách Bói cỏ Thi cho nên NH Lê đã
trình bày vấn đề tối mò và sai lạc như trên.
Kinh Dịch nói:
- 'Đại diễn chi số ngũ thập,
kì dụng tứ thập hữu cửú. (Hệ Từ thượng. IX).
Nói 'kì dụng tứ thập hữu cửú
tức nói trong phép bói cỏ Thi chỉ dùng 49 cọng co? Thị
Tiến trình bói cỏ Thi như sau:
1/. Tùy tiện phân nhóm 49 cọng
cỏ Thi ra 2 phần.
2/. Lấy 1 cọng từ 1 trong 2
phần này, phần nào cũng được, để qua 1 bên. (1).
3/. (a) Lấy 1 trong 2 phần
chia cho 4, dư bao nhiêu để qua 1 bên. (2).
(b) Phần còn lại cũng chia cho 4, dư bao
nhiêu để qua 1 bên. (3).
Ghi chú: - Ở giai đoạn này
nếu có 1 số chia chẵn cho 4 thì giữ lại 1 nhóm, nghĩa là để nhóm đó qua 1 bên,
thí dụ có 1 phần là 24 cọng, 24 Ĩ 4 = 6 (nhóm 4 cọng), không dư cọng nào, thì
ta lấy 1 nhóm (tức 4 cọng) để qua 1 bên.
4/. Sau cùng, cộng những cọng
cỏ đã để qua 1 bên ở các giai đoạn 2/. và 3/. (a), (b), tức:
(1) + (2) + (3),
tiếp đó lấy 49 trừ đi coi còn bao nhiêu.
Kết quả sẽ là 1 trong 2 số
sau đây: 44 cọng, hoặc 40 cọng. Đây là lần Biến thứ nhất.
Tiếp tục với 1 trong 2 số
nói trên - và cũng với cách thức nói
trên, ta có lần biến thứ 2. Lần này kết quả sẽ là 1 trong 3 Số sau đây: hoặc 40
cọng, hoặc 36 cọng, hoặc 32 cọng.
Cứ thế mà tiếp tục với 1
trong 3 Số của lần Biến thứ 2, lần biến thứ 3 sẽ cho ra 1 trong 4 kết quả hoặc
36, hoặc 32, hoặc 28, hoặc 24.
- Chia kết quả của lần Biến thứ 3 này, và cũng
là lần Biến sau hết, cho 4 thì ta sẽ được 1 trong các số Âm Dương Thái / thiếu.
Chẳng hạn, kết quả của lần
Biến thứ 3:
Nếu được số 36, ta có số của
Thái dương (hay Lão dương), tức 36 Ĩ 4 = 9.
Nếu được số 32, ta có số của
thiếu âm: 32 Ĩ 4 = 8.
Nếu được số 28, ta có số của
thiếu dương: 28 Ĩ 4 = 7.
Nếu được số 24, ta có số của
Thái âm (hay Lão âm): 24 Ĩ 4 = 6.
Trải 3 lần biến thì định được
1 Hào. Quẻ gồm 6 Hào, do đó 3 x 6, 18 lần Biến mới được 1 Quẻ.
4 số 6. 7. 8. 9 được gọi là
'Tứ doanh', đến các số này thì mới lập được Hào, Quái cho nên nói là 'Tứ doanh
nhi thành Dịch, thập hữu bát biến nhi thành Quáí. (Hệ Từ thượng. Chương IX).
Áp dụng.
Cụ thể hơn, làm bài toán
sau đây:
[I]. Lần biến 1: 49 cọng cỏ
Thị
1/. Giả sử tùy tiện phân
đôi 49 cọng cỏ Thi và được 2 phần: 1 phần 31 cọng, 1 phần 18 cọng.
2/. Giả sử ở phần 31 cọng
ta lấy 1 cọng để qua 1 bên. (1).
3/. (a) Và như vậy: 31 - 1
= 30.
30 Ĩ 4 = 7, dư 2 cọng; để 2 cọng này
qua 1 bên. (2).
(b) Lấy phần kia, tức 18 cọng, chia 4: 18
Ĩ 4 = 4, dư 2 cọng; để 2 cọng này qua 1 bên. (3).
4/. Cộng (1) + (2) + (3),
ta được 1 + 2 + 2 = 5.
Lấy 49 trừ đi 5 = 44.
[II]. Lần biến 2: 44 cọng cỏ
Thi.
1/. Giả sử tùy tiện phân 44
cọng co? Thi còn lại từ lần biến 1, được 2 phần: 19 và 25.
2/. Lấy đi 1 cọng của phần
19 cọng để qua 1 bên. (1). Như vậy: 19 - 1 = 18.
3/. (a) 18 Ĩ 4 = 4, dư 2 cọng.
(2).
(b) 25 Ĩ 4 = 6, dư 1 cọng. (3).
4/. (1) + (2) + (3) = 1 + 2
+ 1 = 4.
44 - 4 = 40.
[III]. Lần biến 3: 40 cọng
co? Thị
1/. Giả sử tùy tiện phân 40
cọng co? Thi còn lại từ lần biến 2, được 2 phần: 15 và 25.
2/. Lấy đi 1 cọng của phần
25 cọng để qua 1 bên. (1). Như vậy: 25 - 1 = 24.
3/. (a) 24 Ĩ 4 = 6, không
dư cọng nào; vậy lấy 1 nhóm 4 cọng để qua 1 bên. (2).
(b) 15 Ĩ 4 = 3, dư 3 cọng. (3).
4/. (1) + (2) + (3) = 1 + 4
+ 3 = 8.
40 - 8 = 32.
Tới đây thì tròn 1 lần biến
với kết quả là 32.
32 Ĩ 4 = 8, ta có số của
thiếu âm. Tới đây thì lập được 1 Hào, và Hào này là Hào Sơ của Quẻ.
- Lập được Hào Sơ (Hào 1),
Bài toán rồi trở lại từ đầu với 49 cọng co? Thi, để tiếp tục thành lập các Hào
nhị, tam, tứ, ngũ, và Thượng (Hào 6).
Bài toán Thệ pháp co? Thi dựa
trên Cơ số 4, như có thể thấy rất rõ.
Bây giờ thử tính theo cái
hiểu (ba láp) của 'học giá NHLê coi sao:
Giả sử tùy tiện ('học giá
nhà ta đã thiếu mất 2 chữ 'tùy tiện' này) chia 50 cọng co? Thi ra thành 2 phần,
là 27 và 23. Tiếp đó, vẫn theo NHLê, lấy đi 1 cọng từ phần 27, chẳng hạn, còn lại
26.
1/. Lấy phần 23 cọng chia
cho 4, được 5, dư 3 cọng. Để 3 cọng này qua 1 bên. (1).
2/. Lấy phần 26 cọng chia
cho 4, được 6, dư 2 cọng. Để 2 cọng này qua 1 bên. (2).
Cộng (1) và (2), và 1 cọng
đã lấy ra lúc đầu, ta có: 3 + 2 + 1 = 6.
49 trừ đi 6, được 43. Bài
toán đã Sai ngay từ bước khởi đầu, do đó, những tiến trình tiếp theo đó không
thể nào thực hiện được.
Trong tác phẩm 'I Ching or
Book of Changes' Richard Wilhelm cũng đã trình bày về Thệ pháp co? Thi rất rõ
ràng. Như những gì NH Lê viết thì ông ta có Cuốn này - vậy mà chẳng hiểu tại
sao NH Lê lại ú a ú ớ về cách Bói như vậy? Hay tiếng Anh của ông ta cũng thuộc
loại ăn đong?
Chính vì lúng ta lúng túng,
nghĩ nát óc mà cũng không hiểu được làm thế nào để Bói, cho nên là ở 1 đoạn trước,
khi chú thích đoạn 'Đại diễn chi số ngũ thập', NH Lê đã viết như sau:
- 'Chú thích: Tiết này khó
hiểu , và nói về cách thức bói.
(1) Chu Hi bảo: 'Số đại diễn
là 50 vì trong cung Hà đồ số trời 5 cỡi trên số đất 10 mà thành rá. Chúng tôi
chẳng hiểu gì cá. (tr. 538).
NHLê không hiểu cũng phải,
vì ngay đến chữ nghĩa - tức nghĩa của Chữ, ông ta còn chẳng hiểu nói chi đến việc
hiểu xa hơn!
NHLê viết 'trong cung Hà đồ
số trời cỡi trên số đất 10 mà thành rá.
Làm gì có ngựa, có xe ở đây
mà cỡi? Ôi Nguyễn Hiến Lê ơi là Nguyễn Hiến Lê!
Về con số 50 kể trên,
nguyên văn của Chu Hi như sau:
- '..... dĩ ngũ thăng thập,
dĩ thập thăng ngũ, nhi dịch giai vi ngũ thập hí.
/ Dịch Học Khải Mông. Minh Thi sách đệ tam /.
- '..... lấy 5 nhân cho 10,
lấy 10 nhân cho 5, tất cả đều thành 50'.
Chữ 'thăng' có 1 số âm đọc
khác nhau. Nếu đọc âm 'Thừá thì chữ có nghĩa là 'cỡí, nhưng nếu có nghĩa là 'nhân'
- tức phép nhân trong Toán học. thì chữ này phải đọc âm là 'thăng'. NH Lê không
biết trong Hán tự, cùng 1 chữ nếu âm đọc khác thì hầu hết nghĩa cũng khác đi.
NH Lê rồi chỉ biết có mỗi
âm 'Thừá cho nên mới dịch ngu ngơ như đã dẫn. Ngựa, xe đâu ở đây mà 'cỡí, 'học
giá NH Lể Hoặc giả ở đây 'học giá NH Lê nhà ta có óc khôi hài?
Đó, chỉ 1 chữ thông thường
như thế mà NH Lê còn đặc sệt như vậy thì chúng ta còn mong ông ta hiểu điều gì
cao, xa hơn! Các bạn trẻ của ông ta rồi học được gì nơi ông ta - có học được 1
điều trúng thì cũng đến ôm vào người đến 9 cái trật.
Ngoài ra, 'học giá NHLê còn
'vu oan' học gia? Chu Hi khi nói là Chu Hi nói lấy co? Thi 50 cọng phân làm đôi. Đoạn văn sau đây của Chu Hi về
Thệ pháp co? Thi cho thấy rõ sự 'vu oan' này:
- 'Thiệt Thi chi pháp thủ
ngũ thập kinh vi nhất ốc, trí kì nhất bất dụng, dĩ tượng Thái cực, nhi kì đương
dụng chi sách phàm tứ thập hữu cửu, cái Lưỡng nghi thể cụ nhi vị phân chi tượng
dá.
/ Dịch Học Khải Mông. Minh Thi sách đệ tam /.
- 'Phép bói co? Thi, tính
50 cọng thành 1 bó, bỏ ra 1 cọng không dùng tới, cọng này tượng trưng cho Thái
cực, Số cọng Cỏ Thi dùng (để Bói) gồm tất cả 49, đây là cái tượng của Lưỡng
nghi lúc chưa phân (đôi)'.
Nói 'tượng của Lưỡng nghi
lúc chưa phân (đôi)' là nói sự phân đôi khởi đi từ 49 cọng cỏ này.
Cứ đọc đoạn dẫn trên của
Chu Hi thì không phải NHLê 'vu oan cổ nhân' chứ là gì đây?
Tiếp theo câu dẫn trên của
Hệ Từ:
+ 'Nhị thiên chi sách, vạn
hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi sộ
NHLê dịch như sau:
- 'Số thẻ của 2 thiên (tức
thiên thượng và thiên hạ trong Kinh Dịch, tức số thẻ của 64 quẻ trùng vì thiên
thượng gồm 30 quẻ, thiên hạ gồm 34 quẻ) là 11.520, hợp với số của vạn vật'.
(tr. 539).
Tiếp đó, NHLê chú thích như
sau:
- 'Số 11.520 hợp với số của
vạn vật là nghĩa làm sao? Chúng tôi không hiểu. Có lẽ người Trung Hoa thời đó
cho rằng trong vũ trụ có khoảng một vạn mốt loài chăng?'.
Số của Càn là 36 và số của
Khôn là 24. 64 Quẻ, 384 Hào, phân đều 192 âm, 192 dương, vậy Số của Âm là 24 x
192 = 4,608, số của Dương là 36 x 192 = 6,912. Cộng lại là 11,520.
Vạn vật vốn sinh hóa từ Âm,
Dương cho nên dùng Số của Âm Dương để mà suy tính sự biến dịch của vạn vật, chứ
không phải vạn vật 'có khoảng một vạn mốt loàí như NHLê đoán mò.
(2). Hệ Từ hạ. (Từ trang
551 đến 580).
Chương I. (từ tr.551 đến
553).
+'Cát, hung giả, trinh thắng
giả dá.
NHLê dịch và chú thích như
sau:
- 'Dịch: Cát và hung luôn
thắng lẫn nhau theo một luật nhất định (vì việc đời, không cát thì hung, hết
cát lại hung, hết hung lại cát, cứ thuận lẽ là tốt, trái lẽ là xấu).
Chú thích: Tiết này cũng tối
nghĩa. Chữ 'Trinh' ở đây, Chu Hi giảng là 'thường' nhất định. R. Wilhelm giảng
là kiên nhẫn, lâu bền (perseverance, duration), ý muốn nói là phải lâu rồi mới
xoay chiều, cát biến ra hung hoặc ngược lạí. (tr. 552).
Tôi không hiểu NH Lê nói
Câu này 'cũng tối nghĩá là tối nghĩa ở cái chỗ nào? Cần nói ngay là có tối
chăng là vì NH Lê chẳng thông Hán văn để có thể hiểu 1 câu tương đối dễ như vậy.
Từ đó sự chuyển dịch của ông ta cũng tối theo:
'Cát và hung luôn thắng lẫn nhaú, thế là thế nào?
Câu này nghĩa như sau:
- 'Trong hoàn cảnh tốt cũng
như xấu cứ 1 mực xử sự ngay thẳng thì sẽ gặp sự thắng lợi (cát)'.
Và, ngược lại nếu vượt
ngoài qui củ sẽ chuốc lấy sự xấu (hung), ý này phải hiểu ngầm.
Các câu tiếp liền theo đó rồi
cũng chỉ khai triển í nghĩa của 1 chữ 'trinh' này:
- 'Thiên địa chi đạo trinh
quan giả dã; nhật nguyệt chi đạo trinh minh giả dã; thiên hạ chi động trinh phù
nhất giả dá.
- 'Sự vận hành của trời đất
sở dĩ được con người ngưỡng vọng (noi theo) là do Sự vận hành này lúc nào cũng
1 mực điều hòa, trật tự; sự vận hành của Mặt trời, Mặt trăng nhờ 1 mực theo
đúng quỹ độ mà sáng tỏ; biến động trong thiên hạ (muốn được tốt đẹp) rồi cũng
chỉ thuần nhất 1 mực theo đúng khuynh hướng của từng sự vật'.
Biến động hợp với xu hướng
của sự vật thì hợp với cái 'Tính' của sự vật (Cát), trái với xu hướng sự vật
thì nghịch lý (Hung).
Trong đoạn chú thích trên
NHLê nói 'Chữ 'Trinh' ở đây, Chu Hi giảng là 'thường' nhất định'.
Không biết NH Lê có đọc bộ
chú giải 'Chu Dịch Bản Nghĩá của học gia? Chu Hi hay không mà trích dẫn thiếu
sót như vậy. Chu Hi chú giải chữ 'Trinh' trong câu trên như sau:
- 'Trinh, chính dã, thường
dã, vật dĩ kì sở chính vi thường giả dá.
/ Chu Dịch Bản Nghĩa. Hệ Từ ha.
Truyện /.
- 'Trinh là ngay thẳng, là
thường hằng, vạn vật vận hành một mực đúng theo quỹ độ không lệch ra ngoài, đây
là điều thường hằng trong sự vận hành của vạn vật'.
NHLê đã dẫn thiếu cái nghĩa
'Chính' của chữ 'Trinh'.
Biến dịch của vạn vật có
tính điều hòa, trật tự, không vượt ngoài 1 số qui luật nhất định - từ đó có thể
thấy điều hòa, trật tự là cái 'Chính' (không lệch) trong sự vận hành của vạn vật.
Lúc nào vận hành này cũng 1 mực không lệch như vậy cho nên mới gọi là 'Thường'
(không thay đổi).
Bộ Dịch vĩ 'Càn Tạc Đố mở đầu
với câu:
- 'Khổng Tử viết: - Dịch giả,
dị dã, biến dịch dã, bất dịch dá.
- 'Khổng Tử nói: - Dịch (có
các nghĩa) là giản dị, là biến dịch, là bất dịch (không thay đổi).
Vận hành của vạn vật thì giản
dị, như hết Xuân tới Hạ, qua Thu tới Đông - và Xuân có lúc cùng bởi vậy mà có
biến dịch, và biến dịch thì có qui luật của nó - và những qui luật này thì bất
dịch để duy trì lẽ 'Chính, Thường' của vũ trụ, vạn vật.
Cũng vì không hiểu văn í
cho nên NHLê đã đoán mò, để rồi dịch mò.
Câu 'Thiên địa chi đạo,
trinh quan giả dá, chữ 'quan' NHLê đã dịch là 'bảó, tức nói cho biết.
NHLê dịch câu trên như sau:
'Dịch: Đạo trời đất chỉ bảo (quan) cho ta luật đọ (tr. 552).
+ 'Dương quái đa âm, Âm
quái đa dương.
NH Lê dịch:
- 'Dịch: Trong quẻ dương có
nhiều âm, trong quẻ âm có nhiều dương'. (tr. 559).
+ 'Kì cố hà dã? - Dương
quái Cơ, Âm quái Ngẫú.
NH Lê dịch:
- 'Dịch: Tại sao như vậy? Tại
quẻ dương lẻ, quẻ âm chẵn'. (tr. 559, 560).
Tiếp đó ông ta chú thích
như sau:
- 'Chú thích: Chu Hi giảng:
quẻ dương lẻ vì có 5 nét (5 là số lẻ), như que? Khảm có hai hào âm, mỗi hào 2
nét, với một hào dương, 1 nét, cộng là 5 nét; quẻ âm chẵn vì có 4 nét (4 là số
chẵn), như que? Li có hai hào dương, mỗi hào 1 nét, với một hào âm 2 nét, cộng
là 4 nét.
Có người giảng theo luật:
'chúng dĩ quả vi chú (coi lại Phần I, Chương 4, trang 47): như que? Khảm có hai
hào âm, một hào dương thì lấy hào dương (hào ít) làm chủ, cho nên gọi là quẻ
dương; que? Li có hai hào dương, một hào âm thì lấy hào âm (hào ít) làm chủ,
cho nên gọi là quẻ âm.
R. Wilhelm giảng một cách
khác nữa, rắc rối, tôi không chép lại. (Coi sách đã dẫn - tr. 112)'.
(tr. 560).
Cứ thiên 'Thuyết Quáí:
- 'Tam thiên Lưỡng địa nhi ỷ
sộ (Chương I).
- 'Trị số của Dương (thiên)
là 3, trị số của Âm (địa) là 2, các số khác rồi từ 2 Số này mà rá.
Cứ đó áp dụng vào 8 Quẻ:
Càn (3 hào dương)
E? 3 x 3 = 9.
Khảm (2 âm + 1 dương) E? (2
x 2) + (3 x 1) = 7.
2 Quẻ Cấn và Chấn mỗi Quẻ cũng gồm 2 âm + 1 dương,
do đó, trị số cũng là 7.
Khôn (3 hào âm)
E? 2 x 3 = 6.
Li (1 âm + 2 dương)
E? (2 x 1) + (3 x 2) = 8.
2 Quẻ Đoài, Tốn mỗi Quẻ cũng gồm 1 âm + 2 dương,
cho nên đều có trị số là 8.
Số Chẵn thuộc Âm, do đó các Quẻ Khôn, Tốn, Li Đoài
là những Quẻ Âm.
Số Lẻ thuộc Dương, cho nên các Quẻ Càn, Chấn, Khảm,
Cấn là những Quẻ Dương.
Còn nếu nói âm dương 8 Quẻ căn cứ theo luật 'chúng
dĩ quả vi chú thì đây cũng là gượng ép, vì nói Âm, Dương là nói bản thể, trong
khi nói Chủ Hào là luận ý nghĩa Quẻ, luận về vị trí của hào trong tương quan với
các Hào khác trong Quẻ thì đúng hơn!
Sau cùng, NH Lê nói cách tính của Richard Wilhelm
'rắc rốí nên ông ta 'không chép lạí.
Nói như vậy có nghĩa NH Lê không hiểu cách tính này
ra sao, do đó dầu có chép lại ông ta cũng không biết phải diễn giải thế nào cho
người đọc, nhất là cho những 'bạn tré của ông ta, hiểu.
Nói rõ hơn, NH Lê đọc Hán văn, không hiểu cách tính
Âm Dương trong phép bói Cỏ Thi ra sao cho nên giơ? Bản dịch Anh văn để tìm hiểu.
Thế nhưng, cũng vẫn không sao hiểu được! Điều này dễ hiểu, căn bản đã không hiểu
thì đọc văn nào cũng không hiểu thôi!
Nói một cách ngắn gọn thì cách tính Âm Dương của
các hào căn cứ những số co? Thi dư ra trong tiến trình bói co? Thị Và, những gì
Richard Wilhelm trình bày trong bản dịch Kinh Dịch của ông chính là tính theo
những dư số co? Thi trong phép bói đã trình bày ở 1 đoạn trước.
Sau đây tôi sẽ diễn giải về cách tính trong bản dịch
Kinh Dịch của Richard Wilhelm, mà NH Lê nói là 'rắc rốí.
Như đã biết, trong phép bói
co? Thi, để lập được 1 Hào phải trải 3 lần Biến. Sau mỗi lần Biến, số co? Thi
dư ra là những con Số nhất định:
- Sau lần Biến thứ nhất, số
co? Thi dư ra sẽ là, hoặc 5 cọng, hoặc 9 cọng, chỉ 1 trong 2 Số.
- Sau lần Biến thứ 2, số
co? Thi dư ra sẽ là, hoặc 4 cọng, hoặc 8 cọng, chỉ 1 trong 2 Số.
- Sau lần Biến thứ 3, số
co? Thi dư ra cũng sẽ là, hoặc 4 cọng, hoặc 8 cọng.
Như đã biết:
- Sau lần Biến thứ nhất số
co? Thi còn lại từ 49 cọng đầu tiên hoặc là 44, hoặc là 40.
- Sau lần Biến thứ 2 số co?
Thi còn lại từ 1 trong 2 Số kể trên sẽ là 1 trong 3 Số 40, 36, 32.
- Sau lần Biến thứ 3 số co?
Thi còn lại từ 1 trong 3 Số kể trên sẽ là 1 trong 4 Số 36, 32, 28, 24.
Cứ nhìn những con Số vừa kể
chúng ta sẽ thấy ngay ở lần Biến 1 dư số không thể lớn hơn 9, và ở lần Biến 2
và 3 thì dư số không thể lớn hơn 8. Nói khác đi, ở lần Biến thứ 2, nếu đi từ 44
cọng cỏ thì cuối cùng chỉ có thể còn lại hoặc 40, hoặc 36 cọng - và mặt khác, nếu
đi từ 40 cọng thì ta sẽ có 36, hoặc 32 cọng còn lại ở cuối tiến trình.....
Bên cạnh đó, như đã biết:
(1). Phương thức bói Cỏ Thi
dựa trên Cơ số (Base) 4, như đã thấy ở Bài toán trước đây.
(2). Trong lần Biến nào
cũng vậy, khi phân đôi bó co? Thi thành 2 nhóm thì cũng lấy 1 Cọng của 1 trong
2 nhóm để qua một bên.
2 con Số này, Số 4 và Số 1,
giữ 1 vai trò quan trọng trong cách tính Âm Dương. 2 con Số này sẽ định trị số
cho các dư số (co? Thi). Về 2 con Số này Kinh Dịch đã qui định như sau:
+ Về con Số !.
Cũng như trong tiến trình
bói dư số (co? Thi) nào khi tính cũng phải được trừ đi 1, số tượng trưng Thái cực.
Đây là 1 Cọng co? Thi lấy đi từ 50 cọng đầu tiên (và trong các tiến trình Bói):
- 'Đại diễn chi số Ngũ thập,
kì dụng Tứ thập hữu cửú (Hệ Từ thượng. IX):
50
- 1 =
49.
+ Về con Số 4.
4 là Cơ số trong phương thức
Bói co? Thi, cho nên - như đã nói ở Bài toán trước đây, khi 1 nhóm co? Thi chia
chẵn cho 4, không dư cọng nào thì lấy 4 cọng để qua 1 bên, tức dư số ở đây là
4.
Số 4 ở đây tượng trưng 'Tứ
thờí (4 Mùa). Hết 4 Mùa thì tròn 1 Năm cho nên lấy Số 4 làm Cơ số cho phương thức
bói co? Thi, đây là điều Kinh Dịch đã nói:
- 'Điệp chi dĩ Tứ dĩ tượng
Tứ thờí. (Hệ Từ thượng. IX).
(Điệp cũng đọc các âm 'Thiệt'
và 'Diệp', nghĩa như nhau).
Các Dư số trong phép bói
co? Thi, như đã nói ở trên là các Số 4, 5, 8, và 9, chỉ có 4 Số.
Trị số của những dư số này
được tính như sau:
- Số 4 sẽ là E? 4 -
1 =
3.
- Số 5 sẽ là
E? 5 - 1 = 4,
mà 4, như đã thấy, có trị số 3 cho nên 5 ở đây cũng có trị số là 3.
- Số 8 sẽ là
E? 8 là 2 lần Cơ số 4, tức 2 lần
Đơn vị (4 + 4), cho nên được định cho trị số là 2.
- Số 9 sẽ là
E? 9 - 1 = 8,
mà 8 có trị số 2 cho nên 9 cũng có trị số 2.
Tóm lại là, tất cả đều qui về 2 Số, Số 2 và Số 3,
là Số của Âm Dương như thiên 'Thuyết Quáí đã qui định, đã dẫn ở 1 đoạn trước.
(Minh Di án:
- Khi ước định Trị số cho các dư số trên đây sở dĩ
phải trừ đi 1 là hàm ý loại ra 1 cọng đã nhập phép tính như là 1 dư số trước đó
trong mỗi tiến trình Bói như đã thấy - điều này thì R. Wilhelm đã không luận tới).
+ Lần Biến I. 49 cọng co?
Thị
Giả sử tùy tiện phân 49 cọng
co? Thi làm 2 và được: 24 + 25, chẳng hạn.
1/. 25 - 1 = 24,
lấy cọng để qua 1 một bên, E? dư số là 1 (1).
2/. 24 Ĩ 4 = 06,
không dư, do đó lấy 4 cọng để qua 1 bên, E? dư số là 4 (2).
3/. 24 Ĩ 4 = 06,
không dư, do đó lấy 4 cọng để qua 1 bên, E? dư số là 4 (3).
Trừ đi các cọng co? Thi để
qua một bên ở các giai đoạn (1), (2), (3):
49 - (1 + 4 + 4) = 49 -
9 =
40.
+ Lần Biến II. 40 cọng co?
Thị
Phân 40 cọng co? Thi còn lại
làm 2 và được: 24 + 16, chẳng hạn.
1/. 16 - 1 = 15,
lấy 1 cọng để qua một bên, E? dư số là 1 (1).
2/. 15 Ĩ 4
= 03, dư 3, E? dư số là 3
(2).
3/. 24 Ĩ 4
= 06, không dư, để 4 cọng qua một
bên, E? dư số là 4 (3).
Trừ đi các cọng co? Thi để
qua một bên ở các giai đoạn (1), (2), (3):
40 - (1 + 3 + 4) = 40 -
8 =
32.
+ Lần Biến III. 32 cọng co?
Thị
Phân 32 cọng co? Thi còn lại
làm 2 và được: 12 + 20, chẳng hạn.
1/. 20 - 1 = 19,
lấy 1 cọng để qua 1 bên, E? dư số là 1 (1).
2/. 19 Ĩ 4
= 04, dư 3, E? dư số là 3 (2).
3/. 12 Ĩ 4
= 03, không dư, để 4 cọng qua một
bên, E? dư số là 4 (3).
Trừ đi các cọng co? Thi để
qua một bên ở các giai đoạn (1), (2), (3):
32 - (1 + 3 + 4) = 32 -
8 =
24.
Tới đây thì lập được 1 Hào
(Hào Sơ, tức Hào đầu tiên ở tận cùng dưới của Quẻ).
Như cách tôi đã trình bày
trước đây, lấy số Cỏ Thi còn lại ở lần Biến sau cùng này, ở thí dụ trên là 24, chia cho Cơ số 4 thì định được Âm
Dương Thái, thiếu của Hào vừa thành lập:
24 Ĩ
4 =
6.
(Xin coi lại Bài toán trước
đây).
Số 6 là số của Thái âm, số
Âm cực. Cực thì biến, cho nên Hào âm này sẽ biến thành Hào Dương khi luận giải,
định cát, hung.
KỲ 4 (chót)
Bây giờ, áp dụng cách tính
của Hệ Từ thượng, mà Richard Wilhelm đã giải thích trong bản dịch của ông.
Ở Bài toán kể trên ta có 3
dư số là 9, 8, 8. Áp dụng các trị số của các dư số đã nói ở trên:
- 9 có trị số 2, và 8 cũng
có trị số 2, vậy:
9 + 8 + 8 E? 2 + 2 + 2
= 6.
Kết quả ở đây đồng nhất với
cách chia số cỏ Thi còn lại (ở lần Biến thứ 3) cho 4 đã nói.
NH Lê nhà ta vì không hiểu,
chứ đừng nói là hiểu thấu đáo, tiến trình Bói co? Thi ra sao, cho nên mới nói rằng
Richard Wilhelm đã 'giảng một cách..... rắc rốí! Richard Wilhelm đã chẳng bịa
ra cách tính này đâu, mà chỉ căn cứ những gì nói trong Dịch Kinh mà thôi!
NH Lê không hiểu Kinh nói
gì, bây giờ người ta giảng cho biết ông ta cũng không hiểu luôn, và hơn thế nữa
còn biện minh cho sự kém cỏi của mình là tại người ta giảng 'rắc rốí.
Ngoài ra, NH Lê đã không hiểu
rằng ở đây Richard Wilhelm chỉ giảng về Âm Dương Thái, thiếu của Hào, không giảng
về bản thể Âm Dương của Quẻ.
Bản 'I Ching, or Book of
Changes' của Richard Wilhelm mà NH Lê dẫn là Bản in năm 1950, ở Luân Đôn (như
ghi chú của ông ta ở trang 88), vì vậy, ông ta cho biết là phần giảng của học
gia? R. Wilhelm là ở 'tr. 112' của Bản kể trên. Bản tôi hiện có là Bản in năm
1985 - có sự thay đổi về mặt ấn loát, về khổ sách, do đó, phần giảng kể trên của
R. Wilhelm là ở 2 trang 721 và 722.
Chương V. (từ tr. 561 đến
567).
+ 'Dịch viết: Xung xung
vãng lai, bằng tòng nhĩ tự
Tử viết: - Thiên hạ hà tư
hà lự? thiên hạ đồng qui nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lự, thiên hạ hà tư hà lự?'.
NHLê dịch:
- 'Dịch: Kinh Dịch (hào 4
que? Hàm) nói: '(Trong việc giao thiệp mà) làm xong, tính toán có qua có lại với
nhau thì những người qua lại với anh chỉ là những người anh nghĩ tới mà thôí.
(ý muốn nói số bạn không đông, đoàn thể không lớn được).
Thầy (Khổng) giảng: 'Đạo lý
trong thiên hạ cần gi phải ngẫm nghĩ bằng ý riêng (tư), tính toán bằng mẹo vặt
(lự), vì thiên hạ đường đi tuy khác nhau mà qui kết thì y như nhau; tính toán
trăm lối mà cuối cùng chỉ tóm vào một lẽ, (lẽ đó là có cảm thì có ứng, ứng lại
gây ra cảm), cần gì phải ngẫm nghĩ bằng ý riêng, tính toán bằng mẹo vặt'.
(tr.561).
(Chữ 'tứ trong câu 'bằng
tòng nhĩ tứ trên đây NHLê chép là 'bằng tòng nhĩ laí).
Đoạn 2, nguyên văn làm gì
có cái ý 'ngẫm nghĩ bằng ý riêng (tư), tính toán bằng mẹo vặt (lự)'. Những ý này quả thực tôi chẳng rõ rồi 'học
giá NHLê lấy ở đâu ra, quả thực là khó hiểu. Ở đây không có chỗ cho những 'ý
riêng (tư)' những 'tính toán bằng mẹo vặt' - nếu có chăng rồi chỉ có trong đầu
NH Lệ
Đoạn văn trên rất giản dị:
- 'Kinh Dịch nói: - Tâm ý
chưa định mà thường qua lại với nhau (thì sau cùng rồi) bạn bè cũng thuận theo
ý của bạn.
Khổng tử nói: - Việc trong
thiên hạ việc gì phải lo lắng suy nghĩ ? tất cả mọi việc trong thiên hạ tuy có
khác, nhưng cuối cùng rồi qui về 1 nẻo, mỗi người suy nghĩ mỗi khác, tuy đến
trăm đường khác nhau, nhưng rốt cục cũng đổ về 1 mối, việc trong thiên hạ việc
gì phải lo lắng suy nghĩ?'.
Câu trên là Hào từ Cửu tứ
Quẻ Hàm (Đoài/Cấn), hàm có nghĩa 'cảm (ứng)'. Trong sự giao tiếp tuy mình và
người tâm ý chưa thuận nhưng do thường xuyên qua lại với nhau, cho nên cuối
cùng người rồi thuận theo ta (tâm ý đôi bên trở nên hợp).
Đoạn giải thích của Khổng Tử
đại í nói:
Việc trong thiên hạ nhìn vẻ
bề ngoài thì có vẻ khác nhau, nhưng tất cả đều diễn biến theo một số qui luật
nhất định, như thấu được những qui luật này thì chẳng việc gì phải lo lắng, suy
nghĩ mà cố tìm hiểu cho mất công.
Đoạn này luận Quẻ Hàm, là
Quẻ nói về cảm ứng trong giao tiếp giữa người và người. Giao tiếp có qui luật của
giao tiếp, và qui luật này đã được nêu rõ trong Đại Tượng từ Quẻ Hàm:
- 'Sơn thượng hữu Trạch,
quân tử dĩ hư thụ nhân'.
- 'Trên Núi có Đầm nước,
quân tử coi đó mà lấy cái tâm không hư để (đối đãi) tiếp nạp ngườí.
Tâm không hư đây tức cái
'tâm không thiên kiến'. Trong sự giao tiếp, lấy cái tâm không hư mà dung nạp
người thì cảm được người, và đã có cảm tất có ứng! Hiểu được qui luật này chẳng
cần phải lo lắng, suy tư để tìm phương cách nào khác để cảm hóa người.
+ 'Tử viết: Nhan thị chi tử kì đãi thứ cơ hố?
NHLê dịch:
- 'Dịch: Thầy (Khổng) nói:
'Người con ho. Nhan (tức Nhan Hồi) có lẽ gần đạo chăng?. (tr. 566).
Trong tên gọi của người
Trung Hoa đôi lúc người ta thêm các chữ như 'Chí, như 'Tứ...., đây là những trợ
từ, những tiếng đệm, chẳng có nghĩa nào cả, chẳng hạn, Giới Thôi (? - ?) - là 1
trong những tùy tòng của Trùng Nhĩ, sau này là Tấn Văn công (697 - 628; tại vị:
636 - 628 tr. Cn) vào thời Xuân Thu (770 - 403 tr. Cn) - cũng còn được gọi là
Giới Chi Thôi, Giới Tử Thôi.
Chữ 'chí trong câu 'Nhan thị
chi tứ chỉ là 1 trợ từ, chẳng có nghĩa, NHLê nghĩ đây là 1 giới từ nên mới dịch
như trên. 'Học giá chẳng tha chữ nào cả, có bao nhiêu chữ đều dịch cho kì hết!
Riêng về chữ 'Tứ, thời cổ
chữ này được ghi kèm theo Tên hoặc tên Họ của một người để biểu lộ lòng tôn
kính về phương diện học vấn, tư tưởng, hay đức hành.... của người này - chẳng hạn
như Khổng tử, Tôn tử, Trang tử, Mạnh tử, Hàn Phi tử.....
Chữ 'Tứ ở đây dĩ nhiên
không dịch được! Chữ Tử này trường hợp thông thường có một nghĩa là con (cái),
hay riêng biệt hơn, là con trai.
NH Lê sợ người nghĩ là mình
không thông Hán văn hay sao đó cho nên có bao nhiêu Chữ ông ta đều dịch hết. Bởi
vậy mới có trường hợp tức cười trên đây. Cứ như NH Lê mà làm tới thì rồi phải gọi
những vị kể trên là 'người con ho. Khổng', 'người con ho. Tôn', 'người con ho.
Trang'......
Dịch viết: Tam nhân hành tắc
tổn nhất nhân, nhất nhân hành tắc đắc kì hữu - ngôn trí nhất dá.
NHLê dịch và chú thích:
- 'Dịch: (Có lẽ thiếu hai
chữ 'Tử viết' ở đầu tiết này).
Trời đất (tức âm dương)
giao cảm mà vạn vật hóa ra có đủ hình (?) giống đực giống cái kết hợp tinh khí
mà vạn vật sinh nở biến hóa.
Kinh Dịch nói: 'Ba người
cùng đi thì bớt đi một người, một người đi (một mình) thì được thêm bạn' (1).
Đó là nói về lẽ duy nhất (2)'.
Chú thích: (1) Đây là lời
hào 3 que? Tổn.
(2) Chúng tôi chưa thấy
sách nào giảng câu này cho thông. Chu Hi không giảng. R. Wilhelm không dịch.
Chúng tôi dịch gượng như vậy, ngờ rằng tác giả muốn nói luật duy nhất trong vũ
trụ là vật gì cũng phải có đôi, đó là điều kiện sinh sinh hóa hóa của vạn vật'.
(tr. 566, 567).
Nói 'chưa thấy sách nàó là
chưa thấy bao nhiêu? hỏi cho rõ hơn, NH Lê đã đọc được bao nhiêu bộ chú giải Dịch
Kinh? Trong cuốn 'Kinh Dịch, Đạo của người Quân Tứ NH Lê đã nêu ra 1 số tác giả
chú giải Dịch, như Chu Hi, cu. Phan Bội Châu, James Legge, Richard
Wilhelm,........ đếm chưa đến 10 người! Như vậy, chính xác, và ngay thẳng rồi
NHLê phải nói là 'chưa thấy sách nào trong số Sách đó 'giảng câu này cho
thông'. Viết như NH Lê trong câu kể trên có nghĩa trong số hơn 2000 Bộ chú giải
Dịch Kinh từ thời Hán cho đến thời Dân Quốc rồi không có một cuốn nào giảng cho
thông câu trên! NHLê quả là thiếu thành thực đối với mình, và đối với người (đọc)!
NHLê nói 'Chu Hi không giảng' câu đó, nhưng, NH Lê đâu biết rằng sở dĩ Chu Hi không giảng là vì í nghĩa của nó quá rõ ràng, giải thích cũng được, mà không giải thích cũng chẳng sao. Các tác giả chú giải khác, nếu không giải thích, cũng cùng 1 lí do đó.
NH Lê đã không thấy được sự
nối kết các í với nhau trong đoạn văn dẫn trên, do đó đã cảm thấy câu 'trí nhất'
là khó hiểu, hay nói theo cách ông ta thường nói là 'tối nghĩá, 'khó hiểú.
Ở phần đầu của đoạn dẫn
trên Hệ Từ nói về lẽ hóa sinh của Vạn vật! Sự hóa sinh này chỉ có thể xảy ra với
sự 'giao hợp mật thiết (nhân uân)' giữa 2 khí Âm và khí Dương (thiên địa), để rồi,
từ sự giao hợp mật thiết này sự hóa dục của vạn vật mới thành thuần hậu, mới trọn
vẹn.
Có được sự giao hợp mật thiết
nói trên là do âm dương đã hòa nhập thành nhất thể, không phân đâu là âm, đâu
là dương, nói 'trí nhất' là nói trạng thái này, í của cả đoạn liên quán suốt từ
đầu đến cuối, học giả đều thấy, chỉ mỗi 'học giá NH Lê là không thấy thôi!
Hơn nữa, khi giải thích đoạn
trên của Hệ Từ, Chu Hi viết:
- 'Nhân uân, giao mật chi
trạng; thuần, vị hậu nhi ngưng dá.
/ Chu Dịch Bản Nghĩa. Qu. III. Hệ
Từ ha. Truyện /.
- 'Nhân uân là trạng thái
giao (hợp) mật thiết; thuần, ý nói dày và ngưng kết'.
Với giảng giải rõ đến thế,
đến Câu kết luận 'trí nhất' người đọc đã có thể tự hiểu lấy, không cần giải
thích thêm; đó, lí do tại sao Chu Hi không giảng câu 'ngôn trí nhất dá, không
muốn giảng chứ chẳng phải không giảng được như cái trí kém cỏi của NH Lê nghĩ.
Huệ Đống (1697 - 1758) giảng
2 chữ 'trí nhất' như sau:
- 'Âm dương hợp đức cố trí
nhất'. ('Đức của Âm Dương hợp [nhất thể] cho nên nói trí nhất').
/ Chu Dịch Thuật. Qu. XVI. Hệ Từ
ha. Truyện /.
Tóm lại, vì không nối kết
được mạch ý của đoạn văn của Hệ Từ dẫn trên cho nên NH Lê đã dịch câu kết luận
này rất lơ mơ: 'Đây là nói về lẽ duy nhất'. Không chắc lắm với câu dịch gượng gạo
của mình, NHLê đã suy đoán và 'ngờ rằng...'. Điều ngờ của ông ta thì đúng nhưng
chỉ đúng cho những gì đã nói ở phần đầu đoạn văn, điều mà ai cũng có thể biết,
không có gì phải 'ngớ - vì lẽ điều này đã được diễn tả quá rõ! Đến câu kết luận
thì tác giả 'Hệ tứ, như đã thấy, chỉ giải thích về điều kiện kết hợp giữa âm
dương để sự 'hóa sinh' có thể xảy ra hoàn toàn, không trở ngại.
- 'Thầy (Khổng) nói: 'Người quân tử làm cho
thân mình được an ổn rồi sau mới hành động (nếu không thì là táo động, nóng nảy,
hấp tấp); khiến cho lòng mình bình dị rồi sau mới nói - thuyết phục người khác
(nếu không thì là vọng ngữ); làm cho giao tình được bền rồi sau mới yêu cầu (nếu
không thì là vụng về sẽ thất bại). Người quân tử trau dồi ba điều đó nên được
trọn vẹn, yên ổn'. (tr. 567).
Chữ 'dí ở đây có nghĩa là
'bình hòá, như ta vẫn thường nghe 'tâm bình khí hòá, nói khác đi là chữ 'dí ở
đây có nghĩa 'bình tĩnh', trấn định. Bình dị và bình tĩnh khác nhau xa:
1 người bình dị là một người
xuề xòa, dễ dãi trong cách cư xử, trong cách sống.
Trong khi đó thì, 1 người
bình tĩnh là một người không có những phản ứng quá trớn hay là thiếu suy nghĩ
trước 1 tình thế, hoàn cảnh bất ngờ, hoặc
không thuận lợi.
Câu cuối, NH Lê dịch 'người
quân tử trau dồi 3 điều đó nên được trọn vẹn, yên ổn.' thì chỉ đúng có 1 nửa.
Đúng cả '2 nửá phải như sau:
- 'Người quân tử trau dồi 3
điều này do đó thân mình được an toàn mà người rồi cũng an toàn'.
Ở đây luận Quẻ Ích. Thoán từ
Quẻ Ích nói: - 'Tổn thượng ích hạ, dân duyệt vô cương', nghĩa là - 'Bớt ở trên
để thêm cho dướí, (vì vậy mà) dân vui mừng vô kế. Và như vậy thì, sự an toàn của
người trên (người cai trị) rồi liên quan đến kẻ dưới (dân), an toàn thì an toàn
cả, và ngược lại.
*
Chương VIII. (tr. 571 đến
573).
+ 'Kì xuất nhập dĩ độ, ngoại
nội sử tri cú.
NH Lê dịch và chú thích như
sau:
'Dịch: (Dịch) ra vào có chừng
mực, (việc) trong (việc) ngoài, (Dịch) khuyên ta phải thận trọng.
Chú thích: Tiết này tối
nghĩa, e sót chữ hay lầm. Phan Bội Châu không dịch.
Vương Hàn giảng xuất nhập
là 'hành tàng' (xuất xử), nội ngoại là ẩn hiện'. (tr. 572).
Câu 'Ngoại nội sử tri cú,
thứ tự 'Ngoại nộí, NH Lê ghi là 'Nội ngoạí.
Thường thì người ta nói 'nội
ngoạí, nhưng câu dẫn trên lại nói ngược lại, nói 'ngoại nộí, là để đối với 'xuất
nhập' ở đầu câu: 'xuất' tức 'ngoạí, 'nhập' tức 'nộí.
Thực là tức cười, mỗi lần gặp
chỗ nào không hiểu hay chỉ hiểu lờ mờ thì NHLê lại một điều rằng tối nghĩa, hai
điều rằng khó hiểu; và ở đây, NHLê lại còn 'e sót chữ hay lầm' để biện hộ cho Sự
hiểu biết thiếu sót của mình.
Thực ra, suy đoán 'e sót chữ
hay lầm' NHLê nêu ra trên đây là của học gia? Chu Hi:
- 'Thử cú vị tường, nghi hữu
thoát, ngố.
/ Chu Dịch Bản Nghĩa. Qu. III. Hệ
Từ ha. Truyện /.
- 'Câu này (ý nghĩa) không
rõ, nghi là có sót chữ (hay) lầm lẫn'.
1 điều nghi ngờ quan trọng
đến như vậy lẽ ra khi chú thích NH Lê phải nói rõ điều nghi ngờ này là của ai?
đây là 1 í kiến, 1 quan điểm riêng tư phải tôn trọng, nhưng ông ta đã lờ đi để
người ta tưởng là của ông ta. Thái độ này không ngay thẳng.
Câu này dịch như sau:
- '(Từ sự thông hiểu Kinh Dịch
mà) xuất thế hay nhập thế người ta đều có 1 số mẫu mực để theo và những nguyên
tắc phải giữ, mỗi một hành vi trong thời xuất, cũng như trong thời xử đều phải
cẩn thận, đắn đó.
Trong Phần 'Lời Nói Đầú NH
Lê rồi đã nói với 'những bạn tré của ông ta rằng Chương nói về lịch sử các phái
Dịch học (Chương III) là không quan trọng! Sở dĩ NH Lê cho Lịch sử Dịch học
không quan trọng là vì Tài liệu về lãnh vực này NH Lê vốn chẳng có gì, chỉ tóm
lược những điều rất là sơ lược từ 1 tác giả khác. Cho nên là cũng chẳng lạ tên
của những học giả tiếng tăm trong lãnh vực Dịch học NHLê có lúc rồi ù ù cạc cạc.
Như câu cuối của đoạn chú thích trên NH Lê đã viết 'Vương Hàn giảng...'. Ở đây,
NH Lê đã không biết rằng 'Vương Hàn' là 2 người chứ không là 1 người. Vương ở
đây tức Vương Bật (226 - 249), và Hàn tức Hàn Khang Bá (332 - 380).
Vương Bật thì tôi nói cũng
tạm đủ ở bài viết trước, ở đây không nói nữa mà dài giòng. Còn riêng Hàn Khang
Bá thì đây là 1 Dịch học gia thuộc Phái 'Nghĩa Lỵ Sau Vương Bật, Hàn Khang
Bá là nhân vật trọng yếu của Phái này.
Cũng như Vương Bật, ông vận dụng Dịch Kinh để phát huy tông chi? Lão, Trang, và
ảnh hưởng của ông rất lớn đối với Dịch học các triều Tống, Minh.
Vương Bật vốn chỉ chú giải
Phần Kinh văn 64 Quẻ, sau đó Hàn Khang Bá đã chú giải các Phần Hệ Từ, Thuyết
Quái, Tự Quái, Tạp Quái. Nói Dịch học, đã biết, Vương Bật và Hàn Khang Bá có
cùng quan điểm cho nên học giả đời sau đã nhập 2 Phần chú giải Dịch của 2 ông lại
trong cùng 1 Cuốn, ghi đề tựa là 'Chu Dịch Vương Hàn Chu. Đây là 1 tác phẩm Dịch
học quan trọng, đã là người nghiên cứu Dịch học thì không thể không biết, do
đó, không ai là không rõ Vương Hàn là 2 người dù rằng trong tựa sách 2 chữ này
in liền nhau! NHLê thấy được tên Bộ chú giải này ở đâu đó, nhưng vì không rõ lịch
sử Dịch học, cứ tưởng Vương Hàn là 1 người, quả là tai hại!
Bộ 'Chu Dịch Vương Hàn Chu
tôi mua ở Tiệm sách Tản Đà (Chợ Lớn) năm 1970 - và giá lúc bấy giờ chỉ có 08 đồng
Việt Nam Cộng Hòa! Bộ này do Tân Hưng Thư Cục (ĐL) xuất bản, vào năm Dân Quốc
50 (tức năm 1961). Sau 75, Thư tịch Hán văn của tôi mất mát gần hết, Cuốn này
là 1 trong số rất ít sách còn sót lại đưa được qua đây.
*
Ở đây, nếu lấy chính Kinh Dịch
để luận Nguyễn Hiến Lê thì không gì thích đáng hơn Quẻ Dị
Quẻ Di (Cấn / Chấn), Đại Tượng
từ nói:
- 'Sơn hạ hữu Lôi, Di, quân
tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực'.
- 'Dưới Núi có Sấm - là Tượng
của Quẻ Di, quân tử coi đó mà cẩn thận trong ngôn ngữ, tiết chế trong việc ăn uống'.
Di là Tượng (hình ảnh) của
cái Miệng. Đối chiếu với sinh lí cơ thể con người thì rất ăn khớp:
- 4 Hào âm ở giữa (các Hào
2, 3, 4, 5), với những khoảng trống giữa các hào, tượng trưng phần rỗng trong
miệng.
- 2 Hào dương ở tận cùng
trên và tận cùng dưới tượng trưng môi trên và môi dưới của miệng.
Hơn nữa:
Quẻ Cấn ở trên là Núi, mà
Núi thì Tĩnh, bất động, ở đây tượng cho Hàm trên.
Quẻ Chấn ở dưới là Sấm, và
Sấm thì Động, thì Chuyển, ở đây tượng trưng Hàm dưới.
Về cấu tạo Sinh lý cơ thể
thì chúng ta đều biết Hàm trên vốn bất động, ở im tại chỗ, trong khi đó Hàm dưới
thì có thể chuyển động lên xuống, nhờ đó mà chúng ta mới mở miệng được.
Tóm lại, Quẻ Di là 1 diễn tả
sinh động hình ảnh của cái Miệng.
Chức năng của Miệng là Nói
năng, Ăn uống. Tai họa, tật bệnh của con người đa số rồi ra vào từ cái Miệng.
Trong bài 'Khẩu Minh', Phó Huyền (217 - 278) đời Tây Tấn (265 - 317) có 2 câu:
Bệnh tòng Khẩu nhập,
Họa tòng Khẩu xuất.
Bởi vậy Quẻ Di mới khuyên
nên cẩn thận lời ăn tiếng nói, nên điều độ trong việc ăn uống. 2 Chữ 'ngôn ngứ ở
đây bao gồm cả 'nóí và 'viết', nói chung là những gì dùng để truyền đạt ý tưởng.
Thoán Truyện Quẻ Di nói:
- 'Di trinh cát, dưỡng
chính tắc cát dá.
- 'Sự tốt lành của Quẻ Di
là (ở chỗ) nuôi dưỡng sự chính đáng, nuôi dưỡng sự chính đáng thì sẽ gặp điều tốt
lành'.
Thiên 'Tạp Quáí nói:
- 'Di, dưỡng chính dã.',
nghĩa là 'Quẻ Di là nuôi dưỡng điều chính đáng'.
Quẻ Di nói 'dưỡng chính',
và chính đây là chính những gì nuốt vào bụng, chính những gì nói ra và viết ra
cho người nghe và cho người đọc. Muốn chính những gì nói ra, viết ra thì phải
tra cứu cẩn thận, lý luận chúng ta có thể không cao nhưng căn bản là đừng phạm
những Sai lầm, những sai lầm mà ta có thể tránh được nếu chịu khó tra cứu. Nguyễn
Hiến Lê thì không vậy!
Miệng nói ra thì phải cân
nhắc, đắn đo, để đừng nói ra những điều sai lạc, nuốt vào thì phải lựa những thực
phẩm hợp vệ sinh, lại đừng ăn uống quá độ mà làm cơ thể phải tiêu hóa nặng nhọc.
Nói điều sai lạc chẳng những
hại thân mình mà nhiều lúc còn dẫn dắt người khác tin theo những điều sai sự thực,
nói rõ ra là dẫn người tới chỗ lấy Sai làm Đúng, và lấy Đúng làm Sai!
Ăn uống không tiết chế rồi
chỉ hại thân mình, trong khi nói năng không thận trọng chẳng những hại mình mà
còn hại người nữa!
NH Lê muốn giảng, dạy người
ta Kinh Dịch mà những gì ông ta nói ra, viết ra, trong Cuốn sách của ông ta rồi
thiếu nhiều đắn đo, cân nhắc, nói rõ là thiếu sự tham khảo kỹ lưỡng, để cuối
cùng trong những gì ông ta viết ra rồi tràn lan những sai lầm là sai lầm.
Đây gọi là 'dưỡng điều bất
chính'.
Sách 'Thượng Thứ (tức Kinh
Thư) chép:
- 'Vô kê chi ngôn vật
thính'.
/ Thượng Thự Ngu Thự Đại Vũ mô /.
- 'Những lời nói mà chẳng
có kê khảo thì chớ nghé.
*
Qua 2 Bài viết của tôi có lẽ
không cần nhiều lời độc giả cũng thấy được
khả năng đích thực của NH Lê về phương diện Dịch học, và cả về Hán văn, ra sao
rồi!
Như đã nói, Kinh Dịch là
tác phẩm rất khó đọc, văn từ Dịch, nhất là Kinh văn 64 Quẻ, đa số có tính cách
tượng trưng, nói khác đi, ngôn ngữ của Dịch là ngôn ngữ Biểu tượng, nối kết
hình ảnh để diễn tả í tưởng. Từ căn bản Dịch vốn là những kí hiệu, những Nét liền
và những Nét đứt, được phối hợp với nhau theo một số mô thức để tạo thành một Hệ
thống Biểu tượng - nghĩa là những hình ảnh có 1 hay nhiều í nghĩa nào đó. Đây
là những Quẻ đơn (3 nét) và Quẻ phức (6 nét).
Văn từ Dịch căn bản dựa
trên Biểu tượng, do đó, nếu không hiểu ý nghĩa của Tượng, Dịch Kinh chỉ là 1 mớ
chữ được sắp xếp lộn xộn, khó hiểu, từ Hào này qua Hào kia nhiều lúc mạch lạc đến
chẳng thấy đâu. Vì 1 lẽ rất giản dị, là tương quan giữa các Tượng trong Quẻ
tương đối phức tạp chằng chịt khiến cho sự lãnh hội trở nên khó khăn hơn! Đây
chính là điểm khiến Kinh Dịch khác với tất cả những Kinh khác.
Thêm vào đó, văn pháp vốn
súc tích của thể Cổ văn làm cho việc đọc Dịch càng khó khăn hơn!
Bí hiểm, khó hiểu, nhưng từ
các triều Hán, Đường cho tới nay Kinh Dịch vẫn là 1 Bộ Kinh được nghiên cứu nhiều
hơn bất cứ bô. Kinh nào! Đây là cái khó sau cùng, và cũng là cái khó nhất của
việc đọc Dịch, nếu nhìn theo phương diện sáng tạo, vì có bao nhiêu tư tưởng,
bao nhiêu suy nghĩ người đi trước đã chiếm hết, khó mà tìm cho được một kẽ hở để
người đến sau lách vào! Cái khó sau cùng này tôi đã đề cập ở đoạn cuối bài trước.
Có điều, nói gì thì nói, muốn
nghiên cứu Cổ học Trung Hoa (và Việt Nam) nói chung - và ở đây Kinh Dịch nói
riêng, thì điều tối căn bản là phải có 1 trình đô. Hán văn ở một độ nào đó. Xét
về phương diện này, như đã thấy, NH Lê rồi chưa đủ để bước vào ngõ chứ đừng nói
là vào nhà. Để viết về Kinh Dịch mà NH Lê chỉ dựa trên những Bản dịch Anh văn,
Pháp văn, và Việt văn - tức nương sức người chứ không bằng vào sức mình, đây gọi
là 'đi buôn mà không có Vốn', điều mà người có trí không làm.
Trong tập 'Hồi Ky, hoặc cuốn
'Đời Viết Văn Của Tôí, tôi chẳng nhớ rõ là cuốn nào, NH Lê có cho biết là từ
năm 1960 cho đến năm 1974, 14 năm trời, ông ta đã ra công tìm kiếm Sách viết về
Kinh Dịch - và.... chỉ tìm kiếm ở mãi Đài Loan, Hương Cảng... thôi! Kết quả,
ông ta cho biết là tìm được mười mấy cuốn mà... quá nửa là sách Anh, sách Pháp!
14 năm trời rồi chỉ bấy nhiêu!
Từ năm 1984 tới năm 2000,
trong khoảng 16 năm, tôi đã mua được ngoài 200 Tác phẩm viết về
Dịch Kinh, thuộc nhiều loại,
chủ yếu là những Bộ chú giải của văn nhân, học giả các thời trong Lưỡng phái Lục
tông, và 1 số của các tác giả hiện nay. Và tôi cũng chẳng cần tìm kiếm mãi tận
Đài Loan, Hương Cảng, chỉ cần chịu khó 1 tuần ra khu Phố người Hoa (China Town)
ở Sydney vài ba lần. Độc giả đừng nghĩ
là tôi khoe nhiều, con số hơn 200 Tác phẩm về Dịch tôi mua được trên đây rồi
cũng chẳng bao nhiêu so với hơn 2,000 tác phẩm viết về Kinh Dịch trải từ các
triều Hán, Đường cho đến nay. So sánh như trên chỉ để nói rằng NHLê không thực
tâm nghiên cứu.
Nhìn chung, Sách viết về
Kinh Dịch không phải Cuốn nào cũng là tuyệt tác - có rất nhiều Cuốn chỉ lập lại
những gì người trước đã viết, với 1 vài Chú thích bên lề, thực sự chẳng có 1
phát kiến nào hết! Để biết cuốn nào hay cuốn nào dở thì hiểu biết về Thư Mục học
là điều cần thiết.
Kiến thức về 'Thư mục Dịch
học' đã mù mờ, trình đô. Hán văn lại chẳng ra gì - nếu không muốn nói là kém,
chỉ dựa vào người, và chỉ lèo tèo mười mấy cuốn sách, trong đó có một vài Cuốn
đọc còn không hiểu hết, mà NH Lê lại muốn dạy đời về Dịch học thì quả thực là
không lượng sức.
Có thể thấy dài dài trong
Sách của NH Lê nào là 'Câu này tối nghĩá, 'câu này khó hiểú, nào là 'tiết này
cũng tối nghĩá, và 'chúng tôi không hiểú........ Đã thấy khó mà cứ viết, điều
này có thể giải thích NH Lê viết về Kinh
Dịch cũng chỉ vì háo danh, hoặc là vì 1 lí do nào đó! Là lí do nào đi nữa thì
đây cũng không phải là thái độ của một người nghiên cứu - chúng ta đừng quên rằng
NH Lê đã khoác lác tự nhận là người nghiên cứu Cổ học Trung Hoa.
- NH Lê khoe mình là 'một
người nghiên cứu về cổ học Trung Hoá và đã 'viết được 19 nhan đề về Cổ học
Trung Hoá.
Kim Thánh Thán (1608 -
1661), trong bài phê bình bài 'Hoàng Hạc Lâú, có đoạn viết:
- 'Phả kiến úc súc tế nho
chung thân úng tị u u khổ ngâm đáo đắc cái quan chi nhật nhân dữ thu thập bộ thự
dịch đắc sổ bách thiên vạn dư ngôn nhiên nhi tằng bất đắc nhất hương lí tiểu
nhí.
/ Thánh Thán Tuyển Phê Đường Tài Tử Thị Thôi Hiệu.
Hoàng Hạc Lâu /.
- 'Nhìn lại những bọn nho
sĩ tầm thường thô lỗ suốt đời bịt mũi ư ư? ngâm nga, cho tới ngày đóng nắp quan
tài lại những gì đã viết tom góp lại cũng đến cả trăm ngàn, vạn lời, mà rồi
cũng không bằng 1 đứa con nít trong làng'.
Những gì Kim Thánh Thán nói
trên đây thực đúng cho trường hợp NH Lê! Viết nhiều, dầu là thơ hay văn cũng vậy,
chỉ có lượng mà không có phẩm thì cũng là bỏ đi!
Trình đô. Hán học của NH
Lê, nói như ông Ngô Tất Tố, chỉ là 'vọc vạch' mà thôi - vậy mà trong hơn 20 năm
tại miền Nam Việt Nam NH Lê đã 'công nhiên' đóng vai trò nghiên cứu Cổ học, để
múa may, quay cuồng, diễn trò Hề trên Văn đàn, chẳng kiêng dè chi hết! Những
người tinh thâm Hán học ở miền Nam trước đây có thể không nhiều, nhưng vẫn có,
không hiểu vì lí do nào mà để NH Lê làm trò múa rối như vậy? Có lẽ là bấy giờ
chung quanh NH Lê đến chỉ rặt những phường mặc áo thụng ngu ngơ chẳng biết gì,
như Xuân Phúc và Trần Văn Tích!
Nếu phải nhận diện thì, nói
cho rốt ráo, NH Lê chỉ là 1 thứ Lái sách không hơn, không kém!
Hầu như suốt khoảng thời
gian ở miền Nam NH Lê sống với nghề xuất bản, in sách, bán sách do ông ta viết.
Thế nhưng, NH Lê lại chẳng an phận với thân phận của 1 anh lái sách lại muốn
làm 1 học giả, và là 1 học giả nghiên cứu Cổ học Trung Hoa! Như ông ta đã thú
nhận, Hán học vốn không là sở trường của mình, nhưng, 'nhờ gặp bạn, nhờ được độc
giả khuyến khích, tôi đã mỗi năm tiến thêm ít bước.', để rốt cục ông ta viết được
'19 nhan đề về Cổ học Trung Hoa’.
NH Lê nói, về Hán học, ông
ta 'mỗi năm tiến thêm ít bước', vậy mà cho đến năm 1979 - vào lúc ông ta viết
xong cuốn 'Kinh Dịch, Đạo của Người Quân Tứ, trình đô. Hán Văn của ông ta, như
tôi đã chứng minh đến không thể nào chấp nhận được! (Hán) văn còn đứng ngoài đường
lộ, làm thế nào đi vào cửa (Hán) học đây?
NHLê nói ông ta 'mỗi năm tiến
thêm ít bước', tôi chẳng rõ rồi ông ta 'tiến' theo kiểu nào đây?
Nếu phải nhận diện thì,
Nguyễn Hiến Lê đúng là hạng 'vu oan cổ nhân, đánh lừa hậu nhân' - và là hạng gộc
nữa! Và rồi, dầu cố tình hay không cố tình vu oan vẫn là vu oan, đánh lừa vẫn
là đánh lừa, đàng nào thì hậu quả cũng như nhau!
Minh Di
Viết tại Bất Túc Trưng Thư
Trai.
2005. tháng 11 ngày 16.
Ất Dậu.
Dương nguyệt tiểu. Vọng, Tiểu
Tuyết tiền lục nhật.
Duyệt lại và bổ túc.
Bính Tuất.
Tướng nguyệt đại. Nhị thập
lục nhật. Xử Thử tiền tứ nhật.
Thư Mục.
Hán văn.
[1]. Chu Dịch Vương Hàn
Chú.
Tam Quốc - Ngụy. Vương Bật.
Đông Tấn. Hàn Khang Bá.
[Phụ: Chu Dịch Lược Lệ.
Tam Quốc - Ngụy. Vương Bật.
Đường. Hình Thụ chú].
Tân Hưng Thư Cục (ĐL) 1961 / Khuyết.
[2]. Chu Dịch Chính Nghĩa.
Đường. Khổng Dĩnh Đạt.
Trung Quốc Thư Điếm
(TQ) 1987 / Sợ
[3]. Chu Dịch Tập Giải Toản
Sớ.
Đường. Lí Đỉnh Tộ.
Thanh. Lí Đạo Bình toản sớ.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1998 / 2.
[4]. Dịch Trình Truyện.
Bắc Tống. Trình Dị
Long Nguyên Xuất Bản Xã
(ĐL) Khuyết.
[5]. Chu Dịch Nghĩa Hải
Toát Yếu.
Bắc Tống. Lí Hành.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 1989 / Sợ
[6]. Hán Thượng Dịch Truyện.
Bắc Tống. Chu Chấn.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 1989 / Sợ
[7]. Chu Dịch Khuy Dự
Nam Tống. Trịnh Cương
Trung.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 1989 / Sợ
[8]. Đồng Khê Dịch Thuyết.
Nam Tống. Vương Tông Truyền.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 1990 / Sợ
[9]. Dịch Kinh Tập Chú (tức
Chu Dịch Bản Nghĩa).
Nam Tống. Chu Hi.
Văn Hóa Đồ Thư Công Ti
(ĐL) 1977 / Tái bản.
[10]. Dịch Học Khải Mông.
Triệu Tống. Chu Hi.
Hoa An Xuất Bản Xã
(HC) Khuyết.
[11]. Dịch Kinh Lai Thị Đồ
Giải (tức Chu Dịch Tập Chú).
Minh. Lai Tri Đức.
Ba Thục Thư Xã 1989 / Sợ
[12]. Trọng Thị Dịch.
Thanh. Mao Kì Linh.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 1990 / Sợ
[13]. Ngự Toản Chu Dịch Chiết
Trung (tức Chu Dịch Chiết Trung).
Thanh. Lí Quang Địa.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 1990 / Sợ
[14]. Chu Dịch Thuật.
Thanh. Huệ Đống.
Thiên Tân Thị Cổ Tịch Thư
Điếm (TQ) 1989 / Sợ
[15]. Chu Dịch Thoại Giải.
Dân Quốc. Lưu Tư Bạch.
Thiên Long Xuất Bản Xã
(ĐL) 1985 / Khuyết.
[16]. Bạch Thoại Dịch Kinh.
Tôn Chấn Thanh.
Tinh Quang Xuất Bản Xã
(ĐL) 1981 / Sợ
[17]. Chu Dịch Dịch Chú.
Hoàng Thọ Kì & Trương
Thiện Văn.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 2000 / 8.
[18]. Chu Dịch Chiêm Thệ Học.
Chương Thu Nông.
Chiết Giang Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 1990 / Sợ
[19]. Chu Dịch Đại Từ Điển.
Ngũ Hoa chủ biên.
Trung Sơn Đại Học Xuất Bản
Xã (TQ) 1993 / Sợ
[20]. Dịch Học Đại Từ Điển.
Trương Kì Thành chủ biên.
Hoa Hạ Xuất Bản Xã
(TQ) 1995 / 3.
[21]. Chu Dịch Từ Điển.
Trương Thiện Văn.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 1995 / 3.
[22]. Càn Tạc Độ.
Vô danh.
Tập trong Bộ 'Vĩ Thư Tập
Thành'.
Nhật Bản. An Cư Hương Sơn
& Trung Thôn Chương Bát tập.
Hà Nam Nhân Dân Xuất Bản
Xã 1994 / Sợ
[23]. Thư Kinh Độc Bản (tức
Thư Kinh Tập Truyện).
Nam Tống. Thái Trầm chú.
Đại Phương Xuất Bản Xã
(ĐL) 1978 / Khuyết.
[24]. Mạnh Tử Chính Nghĩa.
Thanh. Tiêu Tuần chú.
Thượng Hải Thư Điếm
(TQ) 1992 / 2.
[25]. Lễ Kí Tập Giải.
Thanh. Tôn Hi Đán.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1989 / Sợ
[26]. Mặc Khách Huy Tệ
Bắc Tống. Bành Thừa.
Bút Kí Tiểu Thuyết Đại Quan
Bản.
Giang Tô Quảng Lăng Cổ Tịch
Khắc Ấn Xã 1984 / Sợ
[27]. Kinh Điển Thích Văn.
Đường. Lục Đức Minh.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 1985 / Sợ
[28]. Kinh Truyện Thích Từ.
Thanh. Vương Dẫn Chị
Nhạc Lộc Thư Xã (TQ) 1984 / Sợ
[29]. Cựu Đường Thự
Ngũ Đại. Lưu Hụ
Nhị Thập Ngũ Sử Bản.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 1991 / 8.
[30]. Trung Quốc Mĩ Thuật
Gia Nhân Danh Từ Điển.
Du Kiếm Hoa.
Thượng Hải Nhân Dân Mĩ Thuật
Xuất Bản Xã 1996 / 7.
[31]. Trung Quốc Cận Hiện Đại
Nhân Danh Đại Từ Điển.
Lí Thịnh Bình chủ biên.
Trung Quốc Quốc Tế Quảng Bá
Xuất Bản Xã 1989 / Sợ
[32]. Thánh Thán Tuyển Phê
Đường Tài Tử Thị
Thanh. Kim Thánh Thán.
Chính Trung Thư Cục
(ĐL) 1972 / 4.
[33]. Sáp Đồ Bản Trung Quốc
Văn Học Sử.
Trịnh Chấn Đạc.
Thương Vụ Ấn Thư Quán
(HC) 1976 / Trùng ấn.
[34]. Thuyết Văn Giải Tự.
Đông Hán. Hứa Thận.
Bắc Tống. Từ Hiền hiệu định.
Trung Hoa Thư Cục (HC) 1985 / Trùng ấn.
[35]. Thuyết Văn Giải Tự
Nghĩa Chứng.
Đông Hán. Hứa Thận.
Thanh. Quế Phức chú.
Tề Lỗ Thư Xã (TQ) 1987 / Sợ
[36]. Khang Hi Tự Điển (Tân
tu Bản).
Thanh. Thánh tổ (Khang Hi)
sắc soạn.
Lăng Thiệu Văn toản tụ
Cao Thụ Phiên trùng tụ
Linh Kí Xuất Bản Hữu Hạn
Công Ti (HC) 1981 / Sợ
[37]. Từ Hải (Hợp đính Bản.
1947 Bản).
Thư Tân Thành. Thẩm Dị Từ
Nguyên Cáo. Trương Tướng biên tập.
Trung Hoa Thư Cục (HC) 1983 / Trùng ấn.
[38]. Từ Hải (Súc ấn Bản.
1979 Bản).
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản
Xã 1987 / 8.
[39]. Từ Nguyên (Súc ấn Hợp
đính Bản).
Quảng Đông. Quảng Tây. Hồ
Nam. Hà Nam Tu đính Tổ.
Thương Vụ Ấn Thư Quán
(HC) 1987 / Sợ
[40]. Từ Vị.
Lục Sư Thành chủ biên.
Văn Hóa Đồ Thư Công Ty
(ĐL) 1985 / Khuyết.
Anh văn.
[1]. I Ching.
Anh. James Legge.
Edited and with an
Introduction by Raymond van Over.
The New American
Library 1971.
[2]. I Ching, or Book of
Changes.
Đức. Richard Wilhelm. (German version).
Hoa Kì. Cary F. Baynes
(Rendered into English by).
Routledge&Keagan Paul
Plc (RKP. Anh quốc)
1985 / 15.
Đăng nhận xét