TÀI LIỆU ĐẶC BIỆT HOC GIẢ NGUYỄN THÀNH ĐỨC: LƯƠC SỬ 7000 NĂM DÂN TỘC VIỆT NAM
TÀI LIỆU ĐẶC BIỆT HOC GIẢ NGUYỄN THÀNH ĐỨC: LƯƠC SỬ 7000 NĂM DÂN TỘC VIỆT NAM
NGUYỄN
THANH ĐỨC - LƯỢC SỬ 7000 NĂM TỘC VIỆT
2021
Tủ Sách KINH VIỆT - Brisbane, Australia
ISBN
978-1-875413-09-6 © Nguyễn Thanh Đức 2021
Tác
giả giữ bản quyền. Theo Luật Bản Quyền quốc tế.
Liên lạc : 8thanhduc@gmail.com.
Chuyện Queensland: Học giả Nguyễn Thanh Đức với nguồn gốc
dân tộc Việt
Với các sách nghiên cứu “Lược sử 7,000 năm tộc Việt” và “Nguồn
gốc Việt Nam của bốn học thuyết Á Đông”, học giả Nguyễn Thanh Đức cho rằng nguồn
gốc và văn hóa Việt đã bị người Trung Hoa tước đoạt và tiếm nhận. Và ông mong
muốn chúng ta đọc và suy ngẫm coi đúng sai thế nào.
SBS Vietnamese - SBS Việt ngữ
Advertisement
Mỹ Dung: Dạ con chào chú.Hưng Việt: Dạ thưa chú, đáng lẽ thông thường thìchúng cháu phải gọi chú là ông và xưng là chúng tôi ở trong một cuộc phỏng vấn như thế này, nhất là với một bậc học giả, trí thức như chú. Nhưng mà điều, trong vòng thân mật, chúng ta cũng quen nhau một thời gian rồi thì xin phép để được gọi chú là chú và xưng là cháu, có được không ạ?Ông Nguyễn Thanh Đức: Dạ thực sự tôi nghe kêu bằng chú, tôi vui lắm, chớ kêu bằng ông nghe nó xa lạ quá.Mỹ Dung: Dạ cháu thường nghe nói là 4000 năm văn hiến nhưng mà tại sao ở đây chú lại nói là “Lược sử 7,000 năm tộc Việt”. Hẳn là nó cũng phải có một cái ý nghĩa gì chứ?Ông Nguyễn Thanh Đức: Dạ thì nó có ý nghĩa, mà nó cũng hơi kỳ cục một chút. Tại vì đây là tộc Việt chớ không phải Việt Nam. Tộc Việt tức là cái gốc của dân Việt từ trên hồ Động Đình. Dân Việt từ trên đó xuống tới miền Nam, tức miền Bắc hiện nay đó. Thì mình thành lập một nhóm riêng, kêu là Việt Lạc. Rồi Việt Lạc có 5.000 năm lịch sử. Tại vì phải mất một thời gian từ khi thành lập cho tới khoảng 1.000 năm. Rồi từ khi mà thành lập xong thì mất chừng ngàn năm nữa thì mới có cái kêu là văn hiến tức là có một nền văn hóa nhân bản cao.Hưng Việt: Thưa, Cháu để ý thấy là chú vừa dùng một hai từ mà ngược lại với những cái từ mà mình thường nghe. Thí dự như chú gọi là Việt Lạc thay vì Lạc Việt, cũng như Chú gọi là Hồ Động Đình thay vì Động Đình Hồ. Thưa chắc phải có lý do ạ?Ông Nguyễn Thanh Đức: Mình có hai kiểu nói. Kiểu nói của người Hoa là đặt tính từ trước danh từ sau, chứ nói của người Việt là đặt danh từ trước tính từ sau. Ví dụ như tiếng Việt của mình kêu là áo đỏ, thì ngưởi Hoa kêu là hồng y. Bây giờ người Hoa họ kêu mình là Lạc Việt đó là tiếng Hoa, còn người Việt của mình thì mình kêu là Việt Lạc. Người Hoa họ kêu là Động Đình Hồ thì người Việt mình kêu là Hồ Động Đình.Hưng Việt: Cám ơn chú đã giải thích các điểm đó. Trở lại quyển sách “Lược sử 7 ngàn năm tộc Việt” này đó thì các động lực nào đã thúc đẩy chú nghiên cứu và viết ra quyển sách?Ông Nguyễn Thanh Đức: Động lực thì không có gì quan trọng đâu. Bỗng dưng tôi thấy sao mà hình như đọc lịch sử Việt Nam mình đó có nhiều điểm kỳ cục. Và vì nó kỳ cục nên tôi tìm thử những kỳ cục đó là cái gì. Và rồi cứ tìm đi tìm lại nên càng ngày nó càng kỳ cục thêm mà kỳ cục đến nỗi tôi trở thành kỳ cục luôn. Thành ra tất cả những tựa đề của tôi trong quyển sách, nó kỳ cục hết.Ví dụ, thực sự nguồn gốc đầu tiên mà tôi thấy kỳ cục là cái chuyện Hồng Bàng. Kể chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm con. Câu kết của chuyện đó là “Bách Nam là khởi tổ của Bách Việt vậy”, tức là 100 đứa con là tổ của Bách Việt. Cái kỳ cục năm ở đâu? Cái kỳ cục nằm ở chỗ khi ông ta xuống thì đã có dân Bách Việt rồi. Bà Âu Cơ là cho năm chục đứa con đi cai trị khắp nơi. Vậy cai trị ai? Cai trị dân Nam. Mà tại sao kêu họ là thủy tổ? ông Tổ đầu tiên của dân Nam, mà dân Nam có rồi. Đó là cái đầu tiên làm tôi thắc mắc và từ thắc mắc đó, tôi tìm hiểu thêm.Hưng Việt: Nếu mà nói 50 người theo ông, 50 người theo bà tức là mình chấp nhận cái chuyện có 100 trứng rồi hay sao? Cháu nghĩ là có nhiều thính giả cảm thấy khó được thuyết phục nếu mà nói là có người sinh ra một bọc 100 người con, làm sao mà sinh ra một lần 100 người con chú?Ông Nguyễn Thanh Đức: Bây giờ phân biệt hai chuyện. Cái truyền thuyết dân tộc của mình là một bọc trăm con, 50 con theo mẹ 50 con theo cha. Nó là cả một nguyên lý căn bản của một nền văn hóa Việt Nam. Mình thì cái gì cũng có tình, có lý. Tình là mẹ, lý là cha. Mình thì phải có Tài có đức. Tài là Rồng, đức là Tiên. Rồi gì nữa? Cha mẹ của mình là song thân, hai người bằng nhau, 50, 50. Không có Tiên, không có Rồng, Tiên Rồng là biểu tượng của nền văn hóa.Bây giờ ông bà mình ngồi dòm cuộc sống con người thì thấy trong mình hình như có một nửa của mẹ, một nửa của cha. Và nửa của mẹ đó, ông bà mình biểu tượng hóa thành Tiên, một nửa của cha biểu tượng hóa thành Rồng. Biểu tượng văn hóa là gì? Tức là dùng một hình ảnh dễ nhớ để dạy một bài học. Khi mà chúng ta thấy được rằng Tiên Rồng chỉ là biểu tượng văn hóa, Tiên Rồng nhập lại là cuộc sống của một con người. Và khi đó thì cái bọc trăm con không phải là bọc 100 con nữa mà là biểu tượng của xã hội loài người. Cái đó là cái quan trọng. Trong biểu tượng đó, xã hội loài người là gì? Là tất cả mọi người do cùng một mẹ một cha sinh ra, không ai lớn không ai nhỏ tại sinh ra một lần. Không ai nhận sức sống từ cha mẹ nhiều hay ít hơn tại vì được sinh ra một lần, và với biểu tượng đó chứng tỏ hai điều trong xã hội loài người. Điều thứ nhứt, yêu thương nhau như là anh em ruột thịt cùng một mẹ một cha sinh ra một lần. Biểu tượng thứ hai là mọi người bình đẳng từ căn cơ, không có người nào hơn người nào hết. Đó là nền tảng của xã hội, của nền văn hóa Việt.
Sách của tác giả Nguyễn Thanh Đức
Mỹ Dung: Dạ mà Chú tìm những tài liệu này ở đâu hả Chú?Ông Nguyễn Thanh Đức: Chúng ta chỉ có tài liệu của Tàu mà thôi. Gần đây chúng ta có những tài liệu của người Âu, gần hơn nữa là của người Mỹ. Bây giờ thật sự thì theo niên biểu chính thức của người Tàu, họ bắt đầu từ năm 1,046 trước Tây lịch, tức là cách đây mới 3,000 năm. Vậy thì tại sao họ nói họ có 5.000 năm? Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai ở miền Bắc Trung Hoa là vùng sa mạc khô cằn giá lạnh và họ chỉ có nền văn hóa du mục, nuôi súc vật. Còn miền Nam hai bên bờ sông Dương Tử, nên phát sinh ra nền văn hóa lúa nước. Đó là căn cứ lớn nhất mà cuốn sách này được viết. Căn cứ thứ nhứt, người Hoa mới có ba ngàn năm. Căn cứ thứ hai, người Hoa ở vùng khô cằn du mục mà người Việt thì ở vùng lúa nước, vùng Hồ Động Đình, vùng Bà Dương, vùng xung quanh dọc sông Dương Tử, không còn chỗ nào khác, trừ khi họ lấy của miền Nam lên. Tại vì họ là dân du mục, họ không có những cái đó.
Tôi lấy cái ví dụ. Thần Nông. Tới giờ phút này, người Trung Hoa vẫn kêu là Thần Nông, không kêu là Nông Thần. Thần Nông là kiểu nói tiếng Việt. Tên Người Việt. Còn người Hoa họ kêu là Nông Thần. Ông Thần Nông đó được dân thờ, phải là dân nông nghiệp, lúa nước thì mới thờ Thần Nông. Ông ta còn có biệt hiệu nữa là Hiên Viên là ông Vua của vùng nắng ấm mà vùng trên kia là vùng khô cằn giá lạnh thì ông ta đâu có thể là ông Vua trên đó nữa . Điềm thứ tư, ông ta là con của một con rồng, mà rồng là của dân Việt, còn trên kia nó là chó sói.Hưng Việt: Thưa cái vấn đề thứ hai mà cháu muốn hỏi đó là chuyện 18 vị Vua Hùng mà trải qua các triều đại theo lịch sử là tới 2000 năm. Câu hỏi thông thường đầu tiên mà dân chúng thường nói là 18 đời vua mà tại sao sống được tới 2.000 năm, tức là mỗi người gần 200 năm.
Ông Nguyễn Thanh Đức: Sở dĩ chúng ta có tin lịch sử con số 18 là từ đời Vua Lý Thái Tổ năm 1010, cách đây mới 1,012 năm. khi đó Đức Lý Thái Tổ lập lại cái truyền thống thờ cúng các Vua Hùng tại vì suốt mấy ngàn năm bị Tàu nó cấm. Và khi Ngài dâng miếu hiệu cho 18 vị Vua Hùng. Miếu hiệu có nghĩa là cái biệt hiệu để mỗi lần cúng tế đọc lên, đó không phải là tên của các Ngài.Bây giờ trở lại, chúng ta có được cái trống đồng Ngọc Lũ và trống đồng Sông Đà. Hai trống đồng đó, mỗi trống đồng cái vòng xung quanh đều có 18 con chim mà 18 con chim đó tôi đọc ra nó là chữ Hùng. Tại vì tất cả các hình ảnh ở trên trống Ngọc Lũ và tháp Đào Tịnh đều là chữ hết, tại vì cái chữ là chữ tượng hình. Ví dụ như thế này: có hình một người đàn ông đứng trước cái nhà, cái nhà là có cái mái vòm, trong nhà có một người đàn bà đang đánh chiêng, thì là người đàn ông là chữ Nhân, cái nhà có mái vòm là chữ Sơn, Nhân với Sơn là Tiên, đó là hình ảnh của chữ Tiên.Thành thử ví dụ như họ vẽ một cái nhà, mái cong lại có 3 cái chưn nữa, thì nó là cái chữ Thượng. Tất cả các hình trong đó đều là chữ hết.Nghĩ một cách ngây ngô rằng 18 vị thờ đó chia cho 2,000 năm. Tại sao vậy? Tại vì trong cái gia phả, cái thần phả, tức là trong đền thờ đó, của An Dương Vương ghi rõ ràng ông ta là Hùng gia Chi phái tức là An Dương Vương cũng thuộc nhóm Vua Hùng nhưng mà ông ta không được thờ tại vì ông ta làm mất nước. Thành ra không phải hễ ai làm Vua là được thờ. Đó là điều thứ nhất. Bây giờ chữ Vương nghĩa là gì? Đừng có hiểu lầm chữ Vương là người cai trị, là Vua. Vương là một cái tước.
Hưng Việt: Dạ thưa chú, chú đã cho xuất bản nhiều cuốn sách như thế này ở trong thời gian gần đây. Thưa chú, cái việc mà phổ biến những quyển sách này đó thì chú thực hiện ra sao ạ? Có gửi tới những trường học hay là những thư viện công cộng và ở những nước khác hay là ngay cả gửi về Việt Nam hay không ạ?Ông Nguyễn Thanh Đức: Bây giờ thì chuyện này khó ở chỗ có tiếng Việt, tại vì tôi không thể in sách ra bằng tiếng Việt. Bây giờ ví dụ như in cuốn sách này ở đây hai chục đồng, nếu gửi đi nữa 20, 25 đồng. Nếu mà ai mua, mua gì nổi. Cuốn sách toàn nói chuyện kỳ cục không à. Thành ra tôi đã phổ biến bằng cách gửi cho thân hữu, bạn bè chừng sáu, bảy trăm người dưới dạng thức PDF.Sở dĩ tôi ra được 2 cuốn bằng tiếng Anh này là nhờ có Amazon, và mình in cuốn nào, họ lấy tiền cuốn đó. Và điểm thứ hai rất là hay nữa, họ có nhà in trên Mỹ, Canada, Pháp, Nhật, Anh, Bỉ. Nếu mình mua tại nước đó thì họ in tại nước đó, họ gởi cho người trong nước đó thành thử cái giá tiền cước rất là rẻ. Đó là nhờ Amazon nên mới ráng có được hai cuốn tiếng Anh này, còn tiếng Việt thì thua.
Cái này là bổn phận tôi phải làm tại tôi khám phá ra nhiều kỳ cục quá thì phải kỳ cục theo thôi. Nhưng mà tôi hy vọng các thế hệ tương lai thì sẽ có nhiều chuyện thay đổi.
Hưng Việt: Thưa Chú có đề cập tới chuyện là phổ biến cái quyển tiếng Việt này bằng dạng PDF trên computer, thì chính cháu đã Google nó và đã thấy có người phổ biến cái quyển PDF đó. Thì hy vọng như Chú nói là sẽ có nhiều người đọc và sẽ có những lời nhận định hoặc phê bình trong tương lai.
Thưa Chú, đề tài này rất là mênh mông, chúng ta có thể hàn huyên mạn đàm cả ngày cũng không hết. Với thời gian phát thanh có hạn thì chúng cháu xin hỏi chú câu cuối cùng là chú còn có điều gì muốn chia sẻ trong cái buổi mạn đàm ngày hôm nay về cái đề tài này.
Ông Nguyễn Thanh Đức: Cái điều mà tôi trông cậy nhứt vào thính giả và tất cả mọi người phải nhận biết tất cả những tôi viết đều là những chuyện kỳ cục, kỳ quái nhưng mà xin quý vị cứ bình tâm nghe hết và đọc hết, và không phải để quý vị theo ý tôi nhưng mà để quý vị có thể chấp nhận được những cái luận điệu, những cái bằng chứng tôi đưa ra có hợp lý hay không. Đó là điểm quan trọng.
Hưng Việt: Thay mặt cho cô Mỹ Dung và thính giả, chúng cháu thành thật cám ơn Chú rất nhiều đã dành thời giờ để giải thích về cái quyển “Lược sử 7 ngày năm Tộc Việt” cũng như là giải thích những cái điều mà trong dấu ngoặc kép Chú gọi là “kỳ cục”. Nhưng mà cháu nghĩ là nếu những ai mà quan tâm tìm hiểu thì không nghĩ đó là kỳ cục đâu mà đó là những cái điều mà một người học giả hay trí thức phải nhận thấy và tìm hiểu thêm để giải tỏa những cái gọi là sự trái nghịch hoặc là những sự chưa được thông tỏa trong lịch sử Việt Nam. Xin thành thật cám ơn chú rất là nhiều.
Ông Nguyễn Thanh Đức: Xin cám ơn.
Mỹ Dung: Dạ cháu cám ơn Chú.
Mời vào phần audio để nghe toàn bộ nội dung
SHARE
Riêng dành cho bạn
Cùng Tác giả
Đã xuất bản
2022 The Việt Nam Origins of Four East Asian
Theories
2022
7000 Years of Ethnic Việt History
2021 Lược Sử 7000 Năm Tộc Việt
2021 Nguồn Gốc Việt Nam của 4 Học Thuyết Á
Đông
2013 Con Người và Xã Hội Việt
2013 Lược Sử Tộc Việt, bút hiệu Nguyễn
Thanh Đức
1998 Sấm Ký và Giáng Bút với Việt Nam
1925-2025
1994 Một Trăm Năm Việt Nam, 1925-2025
1993 Kinh Việt, toàn bộ
1990 Kinh Việt, q1
1986 Bộ Kinh Việt, bút hiệu Nam Thiên, Nguyệt
san Vì Nước
Sắp xuất bản
Chung
Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, Học
thuyết Tiên Rồng
Song Hiệp
Enjoying
Together the Happiness of Being Humans
Nếp
Sống Tâm Linh Việt Nam
Sứ
Mạng Việt Nam thời Bảo Bình
The
Spiritual Life and the Việt Nam Culture
Việt
Nam in the Age of Aquarius
Mến tặng
Các
Cô Thầy, các Vị đào tạo Tương lai của Dân tộc. Bộ sách nầy được viết
riêng cho các Cô Thầy. Cách trình bày và các tóm lược, sơ đồ, danh
mục... kể cả giọng
văn, cũng để các Thầy Cô dễ dọn bài, dễ nhớ, và dễ diễn giải hơn.
Xin kính dâng Lời Cảm Tạ lên
Hai
Ngài Tộc Tổ, Mười Tám Ngài Quốc Tổ, các Đấng Thánh, Thần, Anh Linh
Việt. Các Ngài đã ưu ái chỉ dạy, chứng giám, và cho con chan chứa
hạnh phúc suốt hơn 40 năm tìm về Cội Nguồn, gặp lại Tổ Tiên siêu
việt.
Xin thành kính Cảm Tạ
Tổ
Tiên, Ôn Mệ Nội, Ôn Mệ Ngoại, và Cha Mạ. Các Ngài là những Vị Thần
đã tiếp ứng Đức Trời Cao cho con được diễm phúc Làm Người. Các Chị,
Anh, Em, đã cùng nhau chung hưởng cuộc sống trọn vẹn thâm tình.
Các
Tôn Sư ở Chủng viện Kontum, Chủng viện Thánh Giuse Sàigòn, Giáo Hoàng
Học Viện Piô X Đà Lạt. Các Thầy đã ưu đãi dạy dỗ và khuyến khích
cho con được như hôm nay.
Thân mến Cảm Tạ
Từng
Người và Đất Nước Úc. Từ ngày trở thành Thuyền nhân Tỵ nạn năm
1975, tôi đã được hưởng một Nếp sống Úc an hòa và thịnh vượng, với
mọi ưu ái, biệt đãi, cơ hội, và phương tiện vào bậc nhất của Thế
giới.
Cám Ơn
Tất cả Anh Chị
đã cùng nhau Hoạt động trong các Lực lượng, các Em đã dự các Khóa
học. Tinh thần và Hoạt động Vì Nước, Bất Khuất, của các Anh Chị,
của các Em, là những tấm gương và kỷ niệm nhớ đời.
Đặc biệt Cám Ơn
Hoàng
nị Triều Linh Hồ Thanh Sử, Bạn Đời tiên báo hơn ngàn năm, Ba Mẹ, và
các con Bích Thùy, Văn Hùng, Đoan Trang, Thùy Trinh, Ngọc Tuyết, các
cháu Thiên Tâm, Thiên An, Thiên Trang Monique, Thiên Huy Sebastian.
Nhờ
lòng yêu quý và hy sinh vượt bực của Em và của các Con các Cháu, Kỳ
tích tim óc nầy của chúng ta mới có thể góp mặt với Đời.
*********
NỘI DUNG LƯỢC SỬ 7000 NĂM TỘC VIỆT
I. Dẫn Nhập : Khác Biệt Nền Tảng giữa Tộc Việt và
Tộc Hoa
II. Vài Minh Định về
Lịch Sử, Văn Hóa, Địa Lý
III. Tộc Việt Thời Khởi Nguyên - 2121 ttH-1 tH,
5000-2879 ttl
IV. Tộc Việt Thời Hùng 1 - 1-809 Thời
Hùng (tH), 2879-2070 ttl
- Tam Hoàng Ngũ Đế là Dân Việt
V. Tộc Việt Thời Hùng 2 - 809-1279 tH,
2070-1600 ttl - Nhà Hạ Đất Hạ
là của Tộc Việt6
VI. Tộc Việt Thời Hùng 3 - 1279-1833 tH, 1600-1046 ttl 32
VII. Việt và Hoa Thời Hùng 4A - 1833-2108 tH, 1046-771 ttl 9
VIII. Việt và Hoa Thời Hùng 4B-4C- 2108-2699 tH, 771-180 ttl4
IX. Việt Lạc cuối Thời Hùng & Nhà Trưng - 2665-2922 tH,
214 ttl-43 dl 9
X. Phụ lục : Tóm gọn 5.000 Năm Sử Việt Xưa - 2121 ttH-2922
tH, 5000 ttl-43 dl 1
PHẦN 2 - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LỊCH SỬ, VĂN HÓA
XII. Nguồn gốc Tiên Rồng - Lạc Long Quân và Âu Cơ : Mưu đồ Đồng hóa Tộc Việt
vào Hoa 60
XIII. Mười Tám Vua Hùng : 9 Vua
Hùng Bà - 9 Vua Hùng Ông5
XIV. Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam9
XV. Đã 13 lần Việt Nam Đại thắng Giặc Phương Bắc7
XVI. Chủ Thuyết Thiên Tử Thế Thiên Hành Đạo, Tử huyệt của
Trung Hoa
XVII. Nam Hải : Biển của Nước Nam4
LỜI MỞ
Dầu
Tộc Việt khởi nguyên ở vùng Hồ Đồng Đình và đã tỏa lan ra khắp các
vùng chung quanh trong hơn 7000 năm qua, và mặc dầu hiện nay dân số mang
dòng máu Việt đã vượt quá 1.184.000.000 người, cho tới hiện nay, chưa
có một tài liệu nào đặc biệt đề cập tới Lịch Sử Tộc Việt.
Sở
dĩ có tình trạng nầy là vì trong suốt 3000 năm qua, người tộc Hoa
không chỉ dùng bạo lực thống trị, đàn áp, và dùng mọi phương cách
để hủy diệt dấu tích của Tộc Việt, mà còn dùng độc quyền ghi chép
để tiếm nhận, cưỡng chiếm, hoặc xuyên tạc lịch sử và mọi hay tốt
của Tộc Việt.
Người
tộc Hoa đã tiếm nhận Quá khứ của Tộc Việt để làm tiền sử linh
thiêng của chúng.
Người
tộc Hoa đã tiếm nhận Danh nhân và Truyền thuyết Việt để làm lịch sử
thần thánh của chúng.
Người
tộc Hoa đã tiếm nhận Văn minh và Kỹ thuật của Tộc Việt làm thiên
tài của chúng.
Người
tộc Hoa đã tiếm nhận Chữ viết của Tộc Việt làm đặc điểm ưu việt
của chúng.
Người
tộc Hoa đã tiếm nhận các Học thuyết Việt để minh chứng trí thức
siêu phàm của chúng.
Người
tộc Hoa đã chiếm đoạt phần Đất của Tộc Việt làm tài sản thiên định
của chúng.
Người
tộc Hoa còn áp đặt nhiều định kiến ngụy tạo, không chỉ nhằm thủ tiêu tinh thần
tộc dân, hủy hoại xã hội và văn hóa Việt, mà còn luôn dùng mọi thủ đoạn hiểm
độc để che giấu sự hiện hữu của Tộc Việt.
Cũng
trong suốt 3000 năm qua, nhất là hiện nay, giới thống trị Hoa đã ngông
nghênh miệt thị dân Việt, và dùng chính những Di sản quí báu của Tộc Việt để
kênh kiệu và hống hách với thế giới.
Vì
vậy, cần nhìn lại toàn bộ Lịch sử cổ xưa của Tộc Việt,
1. Để
trả lại Sự Thực cho Lịch sử.
2. Để
trả lại 5.000 năm Tiền sử Việt cho Tộc Việt.
3. Để
trả lại Đất nước Việt cho Tộc Việt.
4. Để
trả lại Truyền thuyết Việt cho Tộc Việt.
5. Để
trả lại Danh nhân Việt cho Tộc Việt.
6. Để
trả lại Chữ viết Việt cho Tộc Việt.
7. Để
trả lại các Học thuyết Việt cho Tộc Việt.
8. Để
trả lại Văn minh, Văn hóa Việt cho Tộc Việt.
9. Để
trả lại toàn thể Gia sản Việt cho Tộc Việt.
10. Để
trả lại trọn vẹn cho Tộc Việt, danh dự, niềm tự hào, hùng tâm dũng khí, và
vinh quang mà ‘thiên triều’ Trung Hoa đã mưu đồ tước đoạt trong hơn 3000 năm
qua.
*********
TRÍCH DẪN
a. Tộc Dân
và Vùng Đất Trung Hoa
"Sắc
dân, mà ngày nay tự nhận là dân Hoa, đã có nguồn gốc từ thượng lưu Hoàng Hà
vào khoảng từ 3000 tới 4000 năm trước." The Chinese Mosaic, do Leo J. Moser, Westview Press, London 1985,
tr 10.
"Vùng
lịch sử xưa nhất của Trung Hoa là Trung Nguyên, ở giữa lưu vực Hoàng Hà, gồm 1
phần của các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc và Sơn Tây hiện nay. Đó là lãnh thổ của nhà
Thương, thời nhà Chu tự xưng là Trung Quốc". Introduction
to Chinese History, do Bodo Wiethoff, Thames and Hudson, London 1975, tr 38.
b. Nền Văn hóa Trung Hoa
"Trong
việc thành hình nền văn hóa Trung Hoa, ảnh hưởng của những sắc dân thiểu số đã
to lớn hơn những gì những sử gia truyền thống người Hoa công nhận. Sử gia
Trung Hoa đã có khuynh hướng lạm nhận rằng dân Hoa đã khởi nguồn từ thung lũng
Hoàng Hà, vùng Trung Nguyên, rồi tỏa lan và thu hút các dân ‘mọi rợ’ bằng việc
ban phát cho họ những ân huệ của văn minh Hoa."
"Thay vì ước định có một sắc dân chủ yếu
tỏa lan và thu hút các sắc dân khác, có lẽ ta nên nhìn thấy những ảnh hưởng
văn hóa hỗ tương đưa tới những dị biệt trong nền văn minh Trung Hoa. Ở một số
khía cạnh, nền văn minh nầy mang dấu vết của địa phương và của những sắc dân
đã bị đồng hóa vào dân Hoa." Portraits
of China, Lunda H. Gill, Univ of Hawaii Press, Honolulu 1990, tr 2.
c. Cuộc gặp gỡ Việt Hoa
"Người
Hoa tiến về phía Nam không phải là đi vào hoang địa không người... Khi nền văn
minh đặc thù của người Hoa phát khởi ở đồng bằng miền Bắc Trung Hoa, thì những
vùng đất miền Nam đã được chiếm cứ bởi những giống dân... đã phát triển về văn
hóa không quá thấp so với Hoa." China’s
Imperial Past, Charles O. Hucker,
Duckworth, London 1975, tr 14.
"Phản
kháng lớn nhất chống đối sự xâm lấn của người Hoa được biểu lộ nơi dân Việt.
Dân Việt đã có tổ chức vững chắc. Vì ở dọc theo bờ biển đông nam nên họ là chủ
về hàng hải. Dân Việt trỗi vượt trên vùng nước ven biển, kết hợp với núi non
hiểm trở bao quanh, đã tăng phần bảo vệ các quốc gia đó khỏi sự thống trị của
người Hoa." China, an Integrated
Study, do Arthur Cotterel và David Morgan, Harrap, London 1975, tr 63.
"Không
phải tất cả dân bản xứ đều bị người Hoa chinh phục và đồng hóa. Để khỏi bị trở
thành người Trung Hoa, những tộc dân chống đối mạnh mẽ nhất đã di tản khỏi vùng
bị nền văn minh Hoa xâm lấn. Họ đã kiên quyết phát triển những nền văn hóa
riêng, dầu có liên hệ nhưng độc lập, như dân Việt Nam và dân Thái Lan." China’s Imperial Past, Charles O.
Hucker, Duckworth, London 1975, tr 14.
*********
PHẦN 1 - LƯỢC SỬ 7000 NĂM
I. DẪN NHẬP :
KHÁC BIỆT NỀN TẢNG GIỮA TỘC VIỆT VÀ TỘC HOA
1. Sách vở Trung Hoa
Việc
tìm hiểu và xác định quá khứ Tộc Việt, cũng như phân biệt giữa Tộc Việt
và tộc Hoa, phần lớn đã căn cứ trên sách vở Trung Hoa.
Tuy
nhiên, lịch sử cổ xưa của vùng Đông Á Châu đã bị giới thống trị Hoa
liên tục sửa đổi nhiều lần, đặc biệt ở các triều đại Hán, Đường,
Tống, Thanh và Cộng sản hiện nay.
Lần
sửa đổi tận gốc xảy ra ở thời Càn Long. Năm 1793 dl Càn Long hoàn thành
việc sửa đổi với bộ Tứ Khố Toàn Thư gồm 36.275 quyển, sau khi đã thiêu hủy
hơn 6 vạn quyển bị coi là bất lợi cho ‘thiên triều’.
Tất
cả đều để áp đặt chủ trương tộc Hoa là ưu vượt xuyên suốt lịch sử,
đặc biệt với chủ thuyết ‘Thiên Tử Thế Thiên hành đạo’, vua Trung Hoa là
Con Trời, thay Trời trị Dân. Với chủ thuyết nầy, Trung Hoa tự nhận
‘sứ mạng tối cao’ là cướp đoạt mọi tài sản dưới bầu trời và thôn
tính mọi dân tộc trên trái đất thành nô lệ của dân Hoa. Họ đã dùng
độc quyền ghi chép để sửa đổi, xuyên tạc, khỏa lấp lịch sử, và áp đặt
thiên kiến lên các thực trạng đương thời, kể cả lên các thời điểm và địa điểm.
Tuy
nhiên, dầu liên tục sửa đổi, giới thống trị Hoa vẫn không thể che
giấu hoàn toàn mọi sự thực lịch sử. Ta vẫn nhìn thấy nhiều chứng
tích của Tộc Việt trong sách vở Trung Hoa.
2. Khác
biệt Nền tảng giữa Tộc Việt và Tộc Hoa
Những
phát hiện của khảo cổ hiện nay cũng là những dấu tích của sự khác
biệt giữa 2 tộc dân, giữa 2 thời điểm khởi nguyên, giữa 2 vùng đất
phát xuất, giữa 2 văn minh, và giữa 2 nền văn hóa Việt và Hoa.
Tuy
vậy ngày nay, Dầu trái với chứng tích và luận cứ của nhiều nhà
khảo cổ Âu Mỹ, giới học giả Trung Hoa vẫn cố bám víu vào những
truyền thuyết và thiên kiến ngụy tạo của thời trước mà biện giải các
chứng cứ của quá khứ.
3. Thời điểm Thành hình của 2 tộc dân Việt và Hoa
Tộc
Việt thành hình trước Tộc Hoa 4.000 năm.
Tộc Việt
phát xuất từ năm 5.000 ttl. Tộc Hoa thành lập khi tộc Chu kết hợp các
bộ tộc du mục vùng Thiểm Tây, và thành lập Nhà Chu năm 1046 ttl.
4. Vùng Đất Tổ của Việt và Hoa
Đặc tính và hệ quả của vùng Đất Tổ
của 1 Tộc dân ảnh hưởng sâu đậm trên
nếp sống truyền thống của Dân
tộc đó.
Tộc Việt
phát xuất từ vùng Hồ Đồng Đình ở trung lưu Sông Dương Tử. Hồ Đồng Đình là
một hồ lớn, nơi hợp lưu của 5 dòng sông. Mùa nước lớn, Hồ rộng thêm
gấp 10 lần. Vùng ruộng đất phì nhiêu nầy không chỉ giúp phát triển
Tộc Việt, mà còn là gốc của nền Văn hóa Lúa Nước trong vùng.
Đang khi
đó, sau Tộc Việt gần 4000 năm, tộc Hoa được thành hình ở Sông Vị,
thuộc Thiểm Tây, phía tây lưu vực Hoàng Hà, là vùng đất khô cằn giá
lạnh, nơi phát sinh nếp sống và nền văn hóa Du Mục.
5. Đường Ranh Thiên Nhiên giữa các Vùng
Thời
giao thông còn sơ khai, núi cao sông sâu cũng là những đường ranh thiên
nhiên chia cách các tộc dân.
Trên
vùng đất nay thuộc Trung Hoa, đường ranh thiên nhiên Sông Hoài-Tần Lĩnh đã
và đang chia 2 phần Bắc Nam. Phía Nam nhiều sông hồ, nhiều nắng ấm, thuận
lợi lúa nước, cách biệt với phía Bắc khô cằn giá lạnh, thích hợp với
nếp sống du mục. Dầu đã được phát triển với nhiều kỹ thuật tân
tiến, cho tới hiện nay, ranh giới thiên nhiên nầy vẫn còn ảnh hưởng
quan trọng.
Thời
chưa có phân định ranh giới rõ rệt, nơi nào có đông người của tộc dân
sinh sống lâu đời thì vùng đó được coi thuộc quyền sở hữu của tộc
dân đó.
6. Đặc tính Văn hóa khác biệt giữa Việt và Hoa
Do
vùng đất phát xuất, nền Văn hóa gốc Lúa Nước của Tộc Việt và nền
văn hóa gốc Du mục của tộc Hoa có những đặc tính hoàn toàn khác
biệt.
Dân
Việt trồng Lúa Nước phát triển ở các đồng bằng nhiều nước, nhiều mưa, nhiều nắng
ấm. Họ định cư lâu dài, ít chuyển dịch, và di chuyển bằng thuyền. Do đó, họ
có cuộc sống cộng đoàn, nương tựa nhau, hòa hợp với thiên nhiên, ôn hòa, thích
nghệ thuật... và thiên về mẫu hệ.
Đang
khi đó, dân Hoa Du Mục sống vùng đồng cỏ khô cằn, với nghề chăn nuôi luôn chuyển
dịch theo đoàn súc vật, di chuyển bằng ngựa. Họ coi trọng sức mạnh, trọng
phái nam, trọng cá nhân, hiếu thắng, trọng võ nghệ... Vì vậy, họ thiên về độc
lập, độc tôn, chuyên chế... và trọng phụ hệ.
7. Cấu trúc Khác biệt giữa 2
Ngôn ngữ Việt và Hoa
Cấu
tạo ngôn ngữ của dân Việt và dân Hoa có nhiều khác biệt, vì ngôn ngữ
Việt súc tích và tinh tế hơn nhiều. Đây là đặc tính của một cộng
đoàn gốc Lúa nước lâu đời, trỗi vượt trên cộng đoàn Hoa gốc Du mục
mới thành hình.
Vì
phát triển sớm hơn tộc Hoa 4.000 năm, Tộc Việt có hệ thống 5.000 chữ
viết, hơn 3.000 chữ chuẩn xác, trước khi tộc Hoa ra đời. Hiện nay, loại
chữ tượng hình này vẫn lưu truyền hình ảnh, dấu tích, và nội dung của thời
hơn 4.000 năm trước.
8.
Thạp đồng và Trống đồng Đông Sơn
Thạp đồng và Trống đồng thuộc lò đúc ở Đông Sơn, trên
bờ Sông Mạ, Thanh Hóa, thời cách đây hơn 3.000 năm, đã ghi nhận nhiều
chứng tích hiển nhiên của nền văn minh và văn hóa Việt đương thời.
Tổ Tiên Việt Lạc Sông Hồng, Việt Nam ngày nay, đã dùng
hoa văn, trang trí và hình dạng độc đáo của Thạp đồng và Trống đồng Đông Sơn,
đặc biệt Thạp Đào Thịnh và Trống Ngọc Lũ, đã mã hóa và lưu truyền
toàn bộ những ý niệm và học thuyết Việt đương thời. Những học thuyết nầy
gồm học thuyết Âm Dương Hoán Dịch, học thuyết Đất Trời Năm Hành, học
thuyết Tiên Rồng Song Hiệp, và học thuyết Đạo Đức Tuệ Linh.
Những
ý niệm và học thuyết được Tổ tiên VN ký thác lên Thạp Đào Thịnh và Trống
Ngọc Lũ có những lợi điểm mà chữ viết và sách vở không thể có.
Khác với
chữ viết và sách vở, hình dạng và hoa văn khắc trên đồ đồng không biến đổi với
thời gian. Cũng khác với chữ viết và sách vở, ngày nay ta có thể biết địa
điểm và thời điểm phát xuất của đồ đồng, dựa trên hợp kim, hình dạng, trang
trí, kỹ thuật đúc, và những di vật cùng thời. Những hình ảnh được khắc trên
đồ đồng, gốc của chữ tượng hình, cũng có nhiều chi tiết súc tích và nhiều ý
nghĩa chính xác hơn chữ viết.
9. Tộc Việt
Cách đây 7000 năm, người Tộc Việt đã từ vùng Hồ Động Đình tỏa
lan ra khắp 4 phương. Nhánh Tây tiến về phía rừng núi Tứ Xuyên. Nhánh Đông theo
dòng Dương Tử ra biển. Nhánh Bắc lên tới vùng sau nầy được gọi là Trung Nguyên.
Nhánh Việt phương Nam đã có mặt khắp Lĩnh Nam xuống tới vùng Bắc Trung phần Việt
Nam ngày nay.
a. Việt và Hoa
Cách
đây 3.000 năm, nhóm bộ lạc du mục vùng Thiểm Tây tụ họp thành lập
Nhà Chu, gọi là Tộc Hoa. Theo sách vở Trung Hoa, từ đó họ trở thành giai cấp
thống trị và tự nhận mình là ‘thần thánh’, là ‘con Trời’.
Từ thời
Hán, cách đây 2.000 năm, giới thống trị Trung Hoa chia giang sơn Tộc Việt theo
đường ranh Sông Dương Tử. Vùng Bắc Dương Tử trở thành Trung Hoa. Vì chưa rõ
vùng Nam Dương Tử, sách vở Trung Hoa coi đây là vùng Bách Việt sơ khai lạc hậu,
cần được ‘thiên triều’ tiếp thu và khai hóa.
b. Dấu tích Việt
Trước
khi gặp Tộc Hoa, Tộc Việt đã hơn 4.000 năm phát triển về nhân số, và tiến bộ vượt
bực về văn hóa và về nếp sống canh nông và ngư nghiệp. Chỉ sau năm 1.046
ttl, người Tộc Việt phương Bắc mới phải đương đầu với người Tộc Hoa du mục hiếu
chiến đến từ phương tây.
Với bạo
lực thống trị và với mặc cảm hiếu chiến cao ngạo, giới thống trị người Hoa
đã tiếm nhận mọi điều hay tốt của Tộc Việt làm độc quyền của họ. Đồng thời, họ
đã quyết tâm xóa bỏ mọi chứng tích Việt tại địa phương, cũng như trong tài
liệu, và trong tâm hồn người dân.
Tuy
nhiên, vì nhân số Tộc Việt đã đông đảo, vì văn minh và Văn hóa Việt đã phát
triển lâu đời, và vì dân Việt luôn quyết tâm lưu truyền nền Văn hóa ơn ích của
Tổ Tiên, nên dầu bị người Hoa thống trị, Văn hóa Việt vẫn tồn tại nơi nếp
sống của đại chúng Việt và ảnh hưởng tới người Hoa.
Nhờ vậy,
ngày nay ta có thể tìm gặp dấu tích Việt trong tài liệu, truyền thuyết, sách
vở, và lịch sử của Trung Hoa.
10. Lược Sử Tộc Việt
Dấu ấn
của Tộc Việt vẫn hiển hiện nơi nhiều di sản, trong mọi lãnh vực, trên một
vùng đất mênh mông, từ ranh Sông Hoài Tần Lĩnh tới tận Hải Vân, trong
suốt 7000 năm và với hơn một tỷ người đang sống.
Lược
Sử 7000 Năm Tộc Việt từ Thời Khởi Nguyên Tộc Việt, qua suốt Thời
Hùng 2.699 năm, tới hết Thời Nhà Trưng, từ năm 5000 ttl tới năm 33 dl.
Hiện
đã có nhiều tài liệu về các thời đại sau. Chỉ cần theo các cứ điểm
và những tiêu chuẩn đang có, mà hiệu chính, và ghi nhận các sự thực
lịch sử.
II. VÀI MINH ĐỊNH VỀ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, ĐỊA LÝ
1.1. Việt và Hoa
Hai tộc Việt và Hoa phát xuất từ 2 vùng đất
khác nhau, ở 2 thời điểm cách nhau gần 4.000 năm, và thuộc 2 khối văn hóa khác
nhau là gốc nông nghiệp lúa nước và gốc du mục.
Trong
hơn 3.000 năm qua, lãnh thổ, lịch sử, văn minh, văn hóa, chủng tộc, và tất cả
những gì tốt của Tộc Việt, đã bị Trung Hoa xâm lấn, tiếm nhận, chuyển đổi, và dân
Việt còn bị Trung Hoa áp đặt nhiều định kiến sai lạc.
Những
thiên kiến tệ hại nầy đã phổ biến sâu rộng suốt mấy ngàn năm, và hiện nay vẫn
còn được giới thống trị và trí thức Trung Hoa nhắm mắt hỗ trợ, dầu là trái ngược
chứng cứ lịch sử và cổ học.
1.2.
Vấn Đề Chính Yếu
a. Tìm lại Thực Trạng Đương Thời
Tất cả
vấn đề là tìm lại Thực trạng mỗi thời, xác định nhân sự, thời gian và địa điểm
của các sự kiện, mà sách vở Trung Hoa đã cố đánh lận, xáo trộn, thay đổi cho
phù hợp với chủ trương thống trị của tộc Hoa.
b.
Tài Liệu dồi dào
Việc
tìm hiểu quá khứ, đặc biệt những thời kỳ tiền sử, qua những tài liệu sách vở
thời trước, và được hỗ trợ bằng nhiều ngành khảo cứu khác. Ngoài khảo cổ và lịch sử tân tiến, còn
có các ngành nhân chủng, nhân văn, lịch trình và điều kiện phát triển văn hóa,
văn minh, chữ viết, tiếng nói, địa lý
hình thể, sông núi, phong thổ, khí hậu...
Tất cả
đều giúp tìm lại sự thực về Tộc Việt, đã mấy ngàn năm bị xuyên tạc và hủy hoại.
c. Niên biểu
Đã
có nhiều ước tính và tranh cải về niên biểu của những triều đại cổ
xưa.
Từ
năm 1996 tới năm 2000 dl, đã có 200 chuyên gia Trung Hoa thuộc 7 ngành
nghiên cứu, đã hiệu chính niên biểu thời Hạ Thương Chu, đã xuất bản
quyển Hạ Thương Chu niên biểu, do Hạ Thương Chu đoạn Đại Công Trình, 2000.
Đây
là niên biểu chính thức của Trung Hoa hiện nay, và cũng là niên biểu
được dùng trong sách nầy.
1.3. Minh Định
Để việc
tìm hiểu thêm dễ dàng và chính xác, cần minh định một số điểm liên quan đến Lịch
sử :
- Giá
trị và tầm độ của các loại tài liệu, đặc biệt các tài liệu về Văn hóa.
- Tài
liệu qua Chữ viết và Tiếng nói thời xưa.
- Đặc
tính của Văn hóa, và của các Nền Văn hóa.
- Vấn
đề Địa lý, hình thể, các đường ranh thiên nhiên và lịch sử.
- Đặc
biệt về chủ thuyết đã chi phối toàn bộ lịch sử Á Đông.
2.1. Các Loại Tài Liệu
Ngày
nay ta có nhiều tài liệu để tìm lại thực trạng đương thời của quá khứ mấy ngàn
năm. Các tài liệu có nhiều nguồn gốc, nhiều
thứ loại, với nhiều hạn hẹp về giá trị, quan điểm, trương độ, và mức độ ứng dụng
khác nhau.
2.2. Di Tích, Khảo cổ
Di
tích xưa, đặc biệt của thời chưa có chữ viết, là nguồn tài liệu quan trọng. Tuy nhiên, ngoài hạn hẹp do hiếm ít và
ngẫu nhiên, di tích là những hiện vật không hồn, không tiếng nói. Do đó, cần
quan tâm tới giới hạn của các giả thuyết căn cứ trên di vật, đặc biệt về văn
hóa, nhân văn.
Ngoài
nhận định niên đại, cần cứu xét tầm ảnh hưởng thực tại và hợp lý của
chúng.
2.3. Khoa Học
Tài liệu
khoa học có giá trị thực tiễn, nhờ phương pháp thực nghiệm. Vào thời khoa học mới, giới nghiên cứu
đã bị các khám phá mê hoặc, đến nỗi đã tin rằng khoa học giải quyết mọi khúc mắc
của cuộc sống con người.
Càng
phát triển, khoa học càng nhận ra giới hạn. Các khám phá, kết luận, lý thuyết
khoa học ngày càng bộc lộ tính tạm thời, bất toàn, và hạn hẹp... Chúng luôn được
thay thế bằng những khám phá mới, lý thuyết mới.
Ngoài
ra, vì
chỉ căn cứ trên vật chất, khoa học không thể đơn giản khẳng định những vấn đề
vượt ngoài vật chất, như tinh thần, văn hóa, tín ngưỡng, thần linh...
2.4. Truyện Tích Tiền Sử
Các
truyện tích thời tiền sử đã được truyền miệng và cô đọng. Tuy
nhiên, các giải thích về truyện tích tiền sử đều do suy đoán của nhiều
ngàn năm sau.
Vì vậy, nhiều chi tiết của bản văn không thể là những di chứng lịch sử của nhiều
ngàn năm trước. Cùng với suy diễn và tưởng tượng, bản văn còn chịu ảnh hưởng những
định kiến và áp đặt của các trào lưu nhiều thời.
Đặc biệt
nghêm trọng nhất là đối với tài liệu Trung Hoa, toàn bộ các bản văn đều bị các
đời sau, đặc biệt thời Hán, Đường, Tống, Thanh, sửa đổi và thêm bớt. *[1]
2.5.
Truyền thuyết
Truyền
thuyết là những chuyện tích được truyền miệng nhiều đời và phổ biến trong đại
chúng. Các truyền thuyết chỉ còn giữ lại một số điểm đại cương, và mang nhiều đặc
tính văn hóa hơn là lịch sử.
Dầu
luôn gây tranh cải, nhưng trước khi có các bản văn, truyền thuyết không thể tồn
tại 3-4 ngàn năm, nếu không có những cứ điểm ở quá khứ. Đặc tính liên tục và thống
hợp của một nền văn hóa giúp nối kết và gia tăng giá trị của truyền thuyết, và
loại bỏ những thêm thắt, gán ghép.
2.6. Truyền kỳ
Truyền
kỳ là những truyện tích với nhiều biểu tượng văn hóa.
Để lưu
truyền kinh nghiệm sống, người xưa đã để lại nhiều biểu tượng. Biểu tượng không
thô sơ nhắc nhớ Truyền kỳ không phải là những truyện tích bình thường, mà là những
bài học tiềm ẩn.
Vì lẫn
lộn biểu tượng văn hóa với tài liệu lịch sử, nên đã có nhiều suy luận sai lầm,
hàm hồ và xuyên tạc.
2.7. Tài liệu Tôn Giáo
Tài liệu
của Tôn Giáo chủ tâm dẫn đưa cuộc sống con người hướng về Thế Giới Thần Linh.
Vì vậy tài liệu Tôn Giáo tuy có phần hiện thực, nhưng chủ đích xa khác, và nhiều
khi được coi có nguồn gốc siêu phàm.
Lẫn lộn
giữa tài liệu Tôn Giáo với lịch sử, khoa học, đã gây nhiều tác hại.
2.8. Thần thoại
Thần
thoại bao gồm những chuyện tích về Thế Giới Thần Thánh hoặc đã xảy ra trước khi
có con người.
Vấn đề
là làm sao con người có thể có kiến thức về thế giới thần linh, hoặc về những
chuyện đã xảy ra trước khi có con người trên mặt đất. *[2] Nếu không hàm chứa những bài học tiềm ẩn, thần
thoại chỉ là những suy đoán, những phỏng định, những dự phóng được gán ghép cho
quá khứ. *[3]
3. TÀI LIỆU
QUA CHỮ VIẾT và TIẾNG NÓI
3.1. Chữ và Tiếng thời xưa
Theo
khảo cổ hiện nay, từ thời 1.300 ttl, cách đây hơn 3.300 năm, đã có hơn 3.000 chữ
chuẩn xác, ở vùng cố đô An Dương, vùng Hà Nam hiện nay.
Dù
thay đổi theo thời gian, tiếng nói hiện nay vẫn lưu giữ âm thanh và nhiều ý
nghĩa của thời xưa. Một số từ ngữ cổ càng có vai trò quan trọng. Tiếng nói và
chữ viết xưa là nguồn phong phú cho việc khảo cứu.
3.2. Chữ Tượng hình
a. Do Hình Vẽ
Chữ viết
vùng Á Đông Xưa căn cứ trên loại chữ tượng hình. Người xưa dùng hình vẽ để liên
lạc và ghi nhớ. Qua thời gian, hình vẽ được đơn giản hóa thành những đường nét
chính, rồi trở thành chữ viết. Vì nét chữ chỉ giữ lại những đường chính của
hình vẽ, nên hình vẽ nguyên thủy đã chứa đựng nội dung đầy đủ hơn nét chữ.
Nhờ vậy,
tìm hiểu hình vẽ nguyên thủy của nét chữ tượng hình cũng là tài liệu súc tích
giúp khám phá một số di sản và quan niệm của người xưa.
b.
Đặc tính Chữ Tượng Hình
Khác với
loại chữ phiên âm, chữ tượng hình là những nét chính của hình vẽ, nên chữ không
cố kết với âm. Vì vậy, một chữ tượng hình có nhiều cách đọc, và thường có nhiều
âm, nhiều thanh.
Một chữ nhưng các cách phát âm khác nhau giữa Việt, Hoa, Hàn,
Nhật...
Một chữ có thể có nhiều âm. Ví dụ : 貉 Lạc, mạch, 夏 Hạ,
giá...
Một âm, một tiếng, có thể có nhiều chữ, nhiều nghĩa. Ví dụ :
Hồng : 洚 tên sông, nước tràn, nước lụt; 紅 màu đỏ; 洪 lớn; 鴻 loại chim...
Một âm
nhưng có nhiều biến thanh. Ví dụ : 常 Thường
- Thượng, 王 Vương - Vượng, 同 Động - Đồng, Trị - Trì, Nai - Nãi - Nái, Mê - Mẹ - Mệ...
Một âm, được viết bằng Chữ với Âm tương tự : sông Mạ
- sông Mã. *[4]
c. Một số Thông lệ. Do đó, chữ tượng hình có một số thông lệ :
1. Các
chữ sắp thứ tự theo bộ và số nét, không theo âm, không theo nghĩa.
2. Những
chữ đồng âm có thể được xử dụng lẫn lộn, ‘đồng âm thông giả’. Ví dụ : Sông ‘Hồng’
có thể dùng lẫn lộn các chữ 洚, 紅, 洪, 鴻 dầu các Chữ có Nghĩa khác nhau. Âm ‘Phúc’ dùng lẫn lộn
các nghĩa điều tốt lành, cái bụng, con dơi... dầu các Nghĩa có Chữ khác
nhau.
3. Một
chữ có thể có những bộ ghép thêm để diễn giải hàm ý mới. Nhiều bộ không thuộc về hình vẽ nguyên
thủy.
4.1. Văn hóa và Văn minh
Văn minh chủ yếu về tiện nghi, phương tiện, hoặc thành tích
của một thời kỳ. Văn hóa chú trọng cách sống, nếp sống, tinh thần sống.
Văn minh giúp con người dễ sống. Văn hóa làm con người vui sống
hoặc sống đau khổ. Dầu thêm tiện nghi, văn minh, mà không có nền văn hóa phù
hợp, con người sẽ không hưởng được hạnh phúc làm người toàn vẹn.
4.2. Đặc tính 2 Tầng của Văn hóa
Các nền
văn hóa đều có 2 tầng : tầng văn hóa cai trị và văn hóa đại chúng.
Tầng
văn hóa cai trị, tối đa là 5% dân số, gồm nếp sống của tầng lớp lãnh đạo, chỉ
huy. Thông thường, họ là tầng lớp có học, có quyền lực, có tổ chức chặt chẽ, có
phương tiện, có khả năng ghi chép và phổ biến. Vì vậy, tầng văn hóa cai trị được
nhiều người biết tới.
Dầu
95% dân số, đại chúng âm thầm sống cuộc sống thường ngày, theo nếp lưu truyền từ
đời nầy qua đời khác. Vì đại chúng thời xưa ít có phương tiện và khả năng viết
lách, nên tầng văn hóa nầy ít có tài liệu, ít được biết tới.
Nếp sống
đại chúng thời trước là di tích, truyền thuyết, phong tục, lễ hội. Về con người, nền văn hóa đích thực của
1 dân tộc chính là nền văn hóa truyền miệng và nếp sống truyền đời của tuyệt đại
đa số dân nước.
4.3. Đặc Tính Liên Tục và Thống
Hợp của Văn hóa
Văn
hóa là kết tinh của nếp sống truyền đời qua nhiều thế hệ. Đặc tính của nền văn
hóa là sự liên tục và thống hợp.
Như cuộc
sống con người, dòng văn hóa qua các khúc quanh quan trọng.
Tuy
nhiên, các biến chuyển văn hóa của một cộng đoàn luôn tiệm tiến và hình thành
qua nhiều thế hệ nối tiếp. Ở thời xa xưa, thời chưa có chữ viết, thời đa số dân
chúng không biết đọc viết, thời chưa có những phương tiện di chuyển và truyền
thông phổ biến toàn diện như hiện nay... biến chuyển văn hóa càng cần nhiều thời
gian.
Những
liên tục và thống hợp nầy là dây nối kết truyền thuyết thời khuyết sử với các
truyện tích thời hữu sử.
Đây là
mấu chốt để tìm hiểu đặc thù của một nền văn hóa, giúp phát hiện các sửa đổi, lạm nhận, hoặc áp đặt ngoại
lai.
4.4.
Văn hóa gốc Du mục và gốc Lúa Nước
Các nền
văn hóa Á Đông chia thành 2 khối chính : văn hóa gốc Du Mục và văn hóa gốc
nông nghiệp Lúa Nước.
Văn
hóa gốc Du Mục do những giống dân sống vùng đồng cỏ khô cằn, với nghề chăn nuôi
di chuyển theo đoàn súc vật. Văn hóa gốc du mục coi trọng sức mạnh, trọng phái
nam, thích động, hiếu thắng, trọng cá nhân, trọng võ nghệ... Vì vậy, đưa tới trọng
phụ hệ, chuyên chế... với lối suy tư thiên về độc lập, độc tôn, đưa tới các lý
thuyết ‘duy’...*[5]
Dân trồng
Lúa Nước phát triển ở các đồng bằng nhiều nước, mưa, nắng ấm. Họ định cư lâu
dài, ít di chuyển, có cuộc sống cộng đoàn, nương tựa nhau, hòa hợp với thiên
nhiên, ôn hòa, thích nghệ thuật... và thiên về mẫu hệ. *[6]
4.5. Văn hóa Việt
Văn
hóa Việt phát xuất từ vùng Hồ Đồng Đình, đặc tính rõ nông nghiệp lúa nước. Tộc
dân và nền văn hóa Việt tăng triển tới các vùng chung quanh. Trong lịch sử nhân
loại không có nền văn hóa Lúa Nước nào trổi vượt, trọn vẹn, với một tộc dân đông đúc, lưu truyền lâu đời
như nền Văn hóa Việt.
Nhờ Tộc
Việt đã khởi nguyên ở một vùng
đất nước thích hợp và rộng lớn, xa cách các bộ tộc du mục hiếu chiến, được nhiều
thời gian tăng triển đông đúc, để kiện toàn và lưu truyền nếp sống với nhiều cơ
chế vững chắc.
4.6. Văn hóa Hoa
Tộc
Hoa là giống dân phát xuất từ kết hợp nhiều bộ lạc du mục ở vùng sa mạc và lúa
khô Thiểm Tây. Từ thế kỷ 11 ttl, họ tiến về sống ở vùng thung lũng Sông Vị. Năm
1046 ttl, cách đây 3050 năm, họ thành lập Nhà Chu.
Từ năm
771 ttl, một nhóm du mục khác chiếm đóng
vùng Sông Vị, thành lập Nhà Tần. Từ Chu, Tần, Hán, giới thống trị Hán Hoa đã biến
tính độc tôn của văn hóa du mục thành chủ thuyết Thiên tử thế Thiên hành Đạo :
Vua là Con Trời thay Trời trị dân. Hơn 2.000 năm qua, chủ thuyết nầy chi phối
toàn bộ chính trị, xã hội, văn hóa Trung Hoa.
Khổng Tử, 551-479
ttl, đã cố công cải hóa nền văn hóa gốc Du Mục bằng những hay tốt của nền văn
hóa gốc Lúa Nước. Nhưng các triều đại Trung Hoa đã cắt xén, sửa đổi, biến Khổng
học thành phương tiện phục vụ triều đình và chủ thuyết Thiên tử Thế Thiên
cách cực đoan.
5. VẤN ĐỀ ĐỊA LÝ
5.1. Vùng Á Đông Xưa
Vùng Á
Đông Xưa là phần đất gồm các lưu vực Hoàng Hà, Sông Hoài, Sông Dương Tử, Tây
Giang, Sông Hồng, Sông Mạ và Sông Hương tới dãy Hải Vân. Tây giáp Sông Cửu
Long, Đông giáp biển cả.
Trong 7000
năm qua, Tộc Việt đã sinh sống và phát triển trên vùng đất mênh mông từ
Sông Hoài tới Hải Vân. Tuy nhiên, từ 3.000 năm gần đây, vùng lưu
vực Sông Vị ở Thiểm Tây có thêm người Tộc Hoa.
Trong
nhiều ngàn năm trước đó, trên vùng đất nầy đã có nhiều nhóm người sống. Nhưng về
văn hóa và huyết thống, hiện nay ảnh hưởng của các nhóm Thổ dân nầy không đáng
kể.
5.2.
Năm Đường Ranh thiên nhiên
a.
Ranh Núi Sông
Thời
xưa, khi giao thông chưa thuận tiện, chưa có đường đi xe cộ thuyền bè, thì sông
ngăn núi chận, và thời tiết, khí hậu, là đường phân chia các vùng đất, các bộ tộc.
Khi chưa có phương tiện canh tác, chưa có kỹ thuật trồng tưới, thì vùng đồng cỏ
khô cằn lạnh giá và vùng sông hồ phì nhiêu nắng ấm là những phân biệt quan trọng
giữa các nền văn hóa. Từ Bắc xuống Nam, vùng Á Đông có 5 đường ranh thiên
nhiên.
b.
Đường ranh Sông Hoài Tần Lĩnh
Đường
nối Sông Hoài với dãy Tần Lĩnh là đường ranh chia 2 vùng đất, 2 nhóm tộc dân, 2
nền văn hóa khác biệt.
Phía Bắc Sông Hoài Tần Lĩnh nhiều sa mạc, đồng cỏ, khí hậu lạnh
giá, ít sông hồ, đất cằn cỗi, chỉ thuận lợi trồng lúa mì, miến, bắp, kê... Những
bộ tộc vùng nầy thường sống đời du mục, chăn nuôi và di chuyển bằng ngựa.
Phía
Nam Sông Hoài Tần Lĩnh nhiều đồng bằng, nhiều nắng ấm, nhiều nước, ruộng đất
màu mỡ. Do đó, người dân vùng nầy canh tác lúa nước, gạo, và có nếp sống định
cư thành xóm làng, di chuyển bằng thuyền.
Hai bên
ranh Sông Hoài Tần Lĩnh đã thành hình những nhóm tộc dân với nhiều đặc tính
khác nhau rõ rệt. Nam và Bắc khác nhau từ hình dạng, tướng cách, tiếng nói, đến
phong tục, thức ăn, nghệ thuật, tư tưởng, tính tình.
Đây là
đường ranh địa lý quan trọng nhất cho việc tìm hiểu thời kỳ hình thành, tầm độ phát
triển, và đặc tính của 2 tộc dân Việt và Hoa. *[7]
c. Đường ranh Dương Tử
Sông Dương Tử dài, và nhiều nước, đã giữ vai trò quan trọng
trong lịch sử Tộc Việt. Dân Việt đã sinh sống và phát triển ở hai vùng Nam Bắc
Dương Tử, từ nhiều ngàn năm trước khi Tộc Hoa thành hình ở Thiểm Tây.
Cách đây 2.000 năm, áp đặt chủ thuyết Thiên tử Thế Thiên,
thiên triều Hán, 206 ttl-220 dl, ấn định rằng dân phía Bắc Dương Tử là Trung
Hoa văn minh tiên tiến, và phía Nam Dương Tử là Bách Việt, Trăm Việt, man di lạc
hậu.
d.
Đường ranh Ngũ Lĩnh
Ngũ
Lĩnh, còn gọi là Nam Lĩnh, hiện nay là đường ranh phía Bắc của Quảng Tây, Quảng
Đông. Thời Khởi Nguyên của Tộc Việt 5.000 ttl, vì hạ lưu Dương Tử còn ngập
nước, và thượng lưu núi non hiểm trở, Dân Việt tỏa lan theo hướng Nam. Từ
Hồ Đồng Đình, Dân Việt ngược Sông Tương, vào Sông Lỗi, qua Sông Bắc, Tây Giang,
theo đường biển về Vịnh Bắc Việt, và phát triển ở trung lưu Sông Hồng và Sông
Mạ.
Đường
phía Tây vượt thượng nguồn Sông Tương qua Sông Quế, theo Tây Giang xuôi ra biển,
hoặc ngược Sông Tả vào Bắc Phần Việt Nam.
Thời Đế
Nghiêu, cách đây 4.200 năm, đã có truyền thuyết về Việt Sông Hồng Sông Mạ phát
triển tiền tiến. *[8]
e.
Đường ranh Nam Quan
Từ năm 906 dl, dân Lạc Hồng giành lại độc lập cho quận Giao
Châu và các quận phía nam. Vì vậy, ranh giới phía bắc quận Giao Châu trở thành
ranh giới giữa Trung Hoa và Đại Việt, tức là đường ranh Nam Quan hiện nay. Phần
đất phía Bắc bị coi là thuộc Trung Hoa.
g.
Đường ranh Hải Vân
Hải
Vân là dãy núi giữa Thừa Thiên và Quảng Nam, nổi tiếng với Đèo Hải Vân. Hải Vân
là ranh giới thiên nhiên cực Nam của vùng Á Đông Xưa. Năm 196 dl, cách đây
1.800 năm, nước Lâm Ấp được thành lập ở phía Nam Hải Vân. Năm 808 dl Lâm Ấp đổi
tên là Chiêm Thành. *[9]
III. TỘC VIỆT KHỞI NGUYÊN, 2121 ttH - 1 tH,
5000-2879 ttl
1.
ĐỊNH KIẾN VÀ KHẢO CỔ
1.1. Định kiến
Trong
mấy
ngàn năm qua, người Trung Hoa luôn huyênh hoang nền văn minh và văn hóa vùng Á
Đông đều phát xuất từ tộc Hoa ở lưu vực Hoàng Hà. Sách
vở Trung Hoa đã áp đặt định kiến tộc Hoa là giống dân cổ xưa tiền tiến nhất ở
vùng Á Đông. Người Trung Hoa là nguồn phát xuất nền văn minh và văn hóa tuyệt vời
của Á Đông. Mọi giống dân trong vùng được như ngày hôm nay là nhờ Trung Hoa ban
phát ơn ích, nhờ học hỏi người Trung Hoa.
1.2.
Lịch sử
Lịch
sử ghi nhận Dân Hoa đã thành hình trong thung lũng Sông Vị, ở vùng Thiểm
Tây, không lâu trước khi thành lập Nhà Chu, năm 1046 ttl, cách đây gần 3100
năm. Các khoa địa lý hình thể, khí hậu, môi sinh, nhân văn... lại phát hiện
vùng Hoàng Hà khô cằn lạnh giá chỉ có thể là cái nôi của nền văn minh và văn
hóa gốc du mục.
Đang
khi đó, Tộc Việt đã phát xuất từ vùng Hồ Đồng Đình cách đây 7000 năm, trước tộc
Hoa gần 4.000 năm. Vùng Hồ Đồng Đình và phụ cận là vùng đã phát triển ngành
Nông nghiệp Lúa Nước hơn 6.000 năm qua.
1.3. Nông Nghiệp Lúa Nước và trước
1046 ttl
Về thời
điểm và địa điểm, lịch sử hiện nay đã
minh xác những sự kiện trái ngược với những gì Trung Hoa tuyên truyền và áp đặt
suốt 3.000 năm qua.
Những
gì mang vết tích và đặc tính Nông nghiệp Lúa Nước trong lịch sử, văn minh và
văn hóa của vùng Á Đông, đều không phát xuất từ vùng du mục Thiểm Tây, đều
không có nguồn gốc Hoa. Tất cả
những gì xảy ra ngoài vùng thung lũng Sông Vị, trước năm 1046 ttl, đều không có
sự tham dự của tộc Hoa, đều không có nguồn gốc Hoa. *[10]
1.4. Đặt lại toàn bộ vấn đề Nguồn
gốc
Với
phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu ngày càng tinh vi và chính xác hơn, những nhà
khảo cứu vô tư đều phải đặt lại toàn bộ nguồn gốc đích thực của nền văn minh và
văn hóa Á Đông.
2. TỘC VIỆT KHỞI NGUYÊN, NĂM
5000 ttl
2.1.
Vùng Hồ Đồng Đình. Tộc Việt khởi nguyên ở vùng Hồ Đồng
Đình thời 5000 ttl, cách đây 7000 năm. Như nhiều tộc dân khác trong lịch sử
nhân loại, Tộc Việt và Văn hóa Việt khởi nguyên từ khi một cộng đoàn kiện toàn
nếp sống cá nhân và xã hội với những nét đặc trưng Việt.
Theo
thời gian và điều kiện sống, dòng tộc Việt tăng triển dần, lan rộng và ảnh hưởng
các vùng chung quanh. *[11]
2.2.
Cư Dân Địa Phương
Khởi nguyên của Tộc Việt và Văn hóa Việt
không có nghĩa là Tổ Tiên ta xuất hiện ở những chỗ không người. Cùng với các
Ngài và quanh các Ngài, còn có những nhóm người cư dân lâu đời. Theo đà phát triển của dân Việt và Văn
hóa Việt, các đặc tính văn hóa và huyết thống
của cư dân bản địa đã bị pha loãng dần,
không còn ở tỷ lệ đáng kể. *[12]
3. ĐẤT TỔ TỘC VIỆT
3.1.
Vùng Đất Đồng Đình.
Việc
khởi nguyên và hưng thịnh 1 tộc dân cũng tùy thuộc vào Vùng Đất Tổ, vào các điều
kiện về Nhân Sinh. Theo Truyền Thuyết, Tộc Việt phát xuất từ vùng Hồ Đồng Đình,
tâm điểm khởi nguyên Tộc Việt.
3.2. Đất Tổ ưu ái
Hồ Đồng
Đình ở sát phía nam trung lưu sông Dương Tử, nay là tỉnh Hồ Nam. Mùa khô, hồ gồm
6 hồ nhỏ. Mùa nước, diện tích hồ tăng lên tới 20.000 km2, nhiều phù sa màu mỡ.
6-7000 năm trước, hồ rộng hơn nhiều.
Giữa hồ
có hòn đảo lớn với 72 ngọn núi. Đảo thường được coi là nơi ẩn cư của đạo sĩ, nổi
tiếng với phong cảnh thơ mộng. Nơi đây có thể được coi là nơi Tộc Việt và nền
Văn hóa Việt đã khởi nguyên, tăng triển và lưu truyền lâu dài, phần lớn là nhờ
những ưu ái Vùng Đất Nước Đồng Đình. Tuy là nền văn hóa gốc nông nghiệp Lúa nước,
nhưng vùng đất Đồng Đình đã giúp cho nền Văn hóa Việt trở thành đặc biệt hơn
nhiều văn hóa Lúa Nước khác.
Thành
quả Văn Hóa Việt chứng minh các điểm đặc biệt của vùng Đất Tổ.
1. Nơi
phát sinh nền Văn hóa Việt đã là một vùng rộng lớn, ruộng đất phì nhiêu, sông hồ
thanh khiết, nhiều tôm cá, mưa thuận gió hòa, không khí trong lành... thích hợp
cho việc sản xuất thặng dư thực phẩm canh nông và ngư nghiệp, và cho sự sinh
sôi nảy nở của Con Người.
Sông
nước thanh khiết và khí hậu trong lành giúp con người khỏe mạnh sống lâu, ít bệnh
tật, ít trẻ sơ sinh chết sớm, giúp phát triển tài năng, cuộc sống tri thức và
tinh thần. Vùng đất không quá gần rừng núi xích đạo rậm rạp ẩm ướt độc hại,
cũng không ở nơi lạnh giá, khô cằn, không sức sống.
2. Việc
đồng áng và đánh cá thịnh vượng cần tất cả mọi người đóng góp công sức, là cơ hội
phần tạo nên quan niệm sống quân bình giữa nam nữ, giữa già trẻ, vợ chồng, giữa
cha mẹ con cái, giữa gia đình và cộng đoàn. *[14]
3. Cuộc
sống định cư sung túc, bận rộn theo mùa, đã cho mọi người nhiều thời gian rảnh.
Nhờ đó, Tộc Việt đã sớm phát triển các ngành nghệ thuật ca ngâm, múa hát, đàn,
họa vẽ, ghi chép, võ thuật, điêu khắc, kiến trúc...
Cuộc sống
thanh bình sung túc và việc phát triển nghệ thuật, lại cũng giúp con người nhận
ra sức sống sáng tạo trỗi vượt của mình, và giúp quân bình quan niệm đóng góp
công sức giữa thể chất và tinh thần. *[15]
4. Cuộc
sống ít bận tâm tới bon chen, giành xé đã giúp cuộc sống xã hội phát triển tốt
đẹp, với nhiều thăng tiến tinh thần, tương thân tình nghĩa qua nhiều hội họp
vui chơi, hội hè đình đám, tết lễ... Cuộc sống tâm linh của cộng đoàn theo đó
mà khởi phát, với lễ nghĩa, với cưới hỏi, mừng sơ sinh, khao vọng, và nhất là với
tang chế.
Cũng từ
đó, cuộc sống con người và nhân phẩm được quý trọng thêm, con người nhận ra vị
thế đặc biệt của mình trong trời đất, và thêm xác tín về Thế giới Bên kia, với
sự hiện hữu và phù hộ của Tổ Tiên Ông Bà.
5. Một yếu
tố khác cũng góp phần quyết định việc phát triển và lưu truyền. Đó là vùng Đất
Tổ đã không quá gần những tộc dân du mục hiếu chiến.
Nhờ
đó, Tộc Việt đã có thời gian dài 4000 năm để tăng nhân số, mở rộng vùng sinh sống,
và phát triển vững chắc một nền văn hóa đặc thù, trước khi bị bạo lực du mục từ
phương Bắc xâm lăng và cướp phá. *[16]
3.3. Nền Văn hóa tôn quý Con Người
Tất cả
đều bổ túc và hỗ trợ nhau, tất cả đều góp phần cho việc tăng triển nhân số
nhanh chóng, cho việc khởi phát và kiện toàn một nền văn hóa quân bình giữa vật
chất và tinh thần, giữa nam và nữ, giữa cá nhân và xã hội, giữa gia đình và cộng
đoàn, giữa làng và nước, 50/50 trong mọi mặt.
Nhờ
đó, con người được tôn quý đúng mức, mọi sức sống của con người được bộc lộ và
phát triển toàn vẹn trong 1 xã hội trọn vẹn là Người.
4. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VIỆT
4.1. Tên của Tộc Dân
Từ nhiều
ngàn năm trước, người Tộc Việt đã ý thức và hãnh diện về một nền văn hóa đặc
thù ơn ích, và một nền văn minh kỹ thuật vượt bực, đặc biệt về canh tác và ngư
nghiệp. Ngay trong thời kỳ đầu, Tổ Tiên ta đã tự xưng là Việt. Việt còn có
nghĩa là Vượt lên trước, đi trước, tiên tiến.
Cùng một
tên ‘Việt’, nhưng thời xưa lại có ba chữ để ghi tên ‘Việt’ 越, 粤, 鉞. Mỗi
chữ ghi nhớ một đặc điểm nổi bật của Tộc Việt ở một thời kỳ. *[17]
4.2.
Tiếng Nói
a. Ngữ pháp
Tiếng
Việt khác tiếng Hoa trong từ ngữ, trong giọng điệu, cấu trúc và cách hành văn.
Ngữ pháp Việt cũng tinh tế hơn ngữ pháp Trung Hoa. Khác biệt rõ nhất giữa tiếng
nói Việt và Hoa là cách đặt trợ từ. Tiếng Việt đặt trợ từ ở sau tiếng chính, tiếng
Hoa đặt trợ từ ở trước. *[18]
b. Cách xưng hô. Cách xưng hô bộc lộ mối tương quan giữa
con người với con người, và bộc lộ nét đặc thù của một nền văn hóa. Dân Việt có
cách xưng hô đối đáp khác với nhiều giống dân khác.
Thay
vì dùng những từ ngữ tổng quát với người đối diện, như you, vous, nị... dân Việt
dùng những chữ xác định rõ tương quan giữa 2 người. Tiếng Việt dùng những
tiếng chỉ tương quan thân thích trong gia đình, như ông, bà, cô, bác, anh, chị,
con, cháu... với cả những người mới gặp.
Thay
vì gọi nhau bằng tên họ như người Anh, Hoa, Pháp... người Việt luôn gọi nhau bằng
tên riêng hoặc tên gọi.
Tên họ
nhắc tới dòng họ, tên riêng chỉ chính từng cá nhân. *[19]
Cách
trả lời của dân Việt cũng độc đáo. Thay vì trả lời theo câu hỏi, người Việt trả
lời theo tâm ý của người hỏi.
4.3. Phong Tục
Văn hóa
Tộc Việt biểu lộ qua nhiều phong tục và tập quán đặc thù, khác hẳn với nhiều định
kiến do giới thống trị Trung Hoa áp đặt.
Phong
tục Việt vẫn trỗi vượt hơn phong tục Trung Hoa, ở tinh thần quý trọng con người,
quý trọng tình người, quý trọng nữ giới, vợ chồng bình đẳng, hạn chế kết hôn
trong thân tộc, thể hiện nếp sống dân chủ, tinh thần dân tộc... và đặc biệt sự
quân bình trong tâm tư, trong quan niệm sống.
Các
phong tục đó vẫn tồn tại trong nếp sống đại chúng Việt Nam hiện nay.
4.4. Biểu Tượng
Tộc
Việt có biểu tượng Tiên và Rồng với nhiều hàm ý cao siêu tốt đẹp. Tiên Rồng
cũng biểu trưng 2 Ông Bà Khởi Tổ của Tộc Việt. Biểu tượng Tiên Rồng có thêm
hình ảnh dễ nhớ là phụng và long. Các
con số và màu sắc có khác biệt. Tộc Việt phương Nam quý màu đỏ. Người Tộc Việt quý thích số 2, 4, 9, mà
ghét số 3. *[20]
Số 9 là số tròn đầy của Tộc Vệt. Dân ta luôn tính theo bội số
của số 9. *[21]
4.5. Niềm tin và Tết Lễ
Thờ Trời
và thờ kính Tổ Tiên là đặc trưng của Tộc Việt. Người Việt Lạc chúng ta, nay là
Việt Nam, đã liên tục thờ Trời và thờ Tổ Tiên suốt bảy ngàn năm qua. Đang khi
đó, ở phía Bắc, giới thống trị Trung Hoa lại giành quyền thờ Trời cho vua chúa,
và quyền thờ Tổ Tiên cho giới quý tộc. *[22]
Nếp sống
Việt lại còn lưu truyền và nổi bật nơi tinh thần và phương thức giáo dục mọi
người qua các nghi thức và tục lệ của các ngày Tết Lễ. Từ mấy ngàn năm trước, dân Việt đã chú
trọng đến các Tết lễ Tạ Ơn Trời, Tết lễ Mẹ Tiên và Mừng Trăng, Tết lễ
Cha Rồng và Mặt Trời, Tết lễ Quốc Tổ, Tết lễ Tổ Tiên và Đầu Năm, Tết
Văn Hóa Việt, Tết Xá Tội, Tết Tảo Mộ, Lễ các Vị Anh Hùng...*[23]
4.6. Thiên về Mẫu Hệ
Từ
Thời Khởi Nguyên, trong suốt Thời Hùng, và cho đến thế kỷ 6 dl, tức là
trong hơn 5500 năm, dân Việt thiên về mẫu hệ. Trên Thạp Đào Thịnh, cách đây
3000 năm, có hình vị Thủ Lãnh là một Bà. *[24]
220
năm sau Thời Hùng, năm 40 dl, trong các anh hùng tái chiếm toàn đất Việt Lạc,
có nhiều đội nữ binh, nữ tướng nhiều hơn nam tướng. Người lãnh đạo toàn dân, là
Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam Trưng Trắc. *[25]
Sau Đức
Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam hơn 200 năm, năm 248 dl, khi sử Trung Hoa phải ghi nhận
thêm một cuộc khởi nghĩa khác của dân Nam, thì cuộc khởi nghĩa nầy cũng lại do
một nữ nhân lãnh đạo. Vị lãnh tụ đó là Cô thanh nữ 23 tuổi, Bà Vua Triệu. *[26]
Mãi đến
năm 541 dl, gần 300 năm sau Bà Vua Triệu, và cách đây chưa được 1.500 năm, sử
Trung Hoa mới để lại cho chúng ta tên một nam nhân làm thủ lãnh dân Việt Lạc, Đức
Nam Việt Đế, (Đức Lý Nam Đế). *[27]
4.7. Nghề Nông và Nghề Cá, Nghề
Biển
Kỹ thuật
trồng lúa nước của Tộc Việt đã phát triển tinh xảo. Dân Việt đã sáng tác lịch
chỉ dẫn cày cấy, đã phát minh kỹ thuật dùng trâu cày ruộng. *[28]
Cuộc sống
thịnh vượng, an nhiên, hiền hòa, đầy tình người, giúp Tộc Việt tạo ra nền văn
hóa xứng đáng và trọn vẹn Con Người, cho mọi người. *[29]
Ngoài
ra, trên vùng sông nước mênh mông, nghề đánh cá và nghề ghe thuyền của dân Việt
cũng đã phát triển tột bực. Cho đến hiện nay, người miền biển vùng Tộc Việt,
như dân Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, và Việt Nam, luôn nổi tiếng thành
thạo, và là chủ tể về hàng hải quanh vùng.
4.8. Tài Bắn Cung
Tài bắn
cung là một đặc điểm của dân Việt Lạc, vùng Việt Thượng. Thời trước, dân Việt Lạc
có thể bắn tên vào búi tóc của nhau để truyền tin. *[30]
Thiên tài nầy đã thành truyền thuyết nỏ thần, bắn một
phát giết ‘vạn’ quân giặc.
5. BA GIAI ĐOẠN THỜI KHỞI NGUYÊN
Thời Khởi Nguyên của Tộc Việt, 5000-2879 ttl, có thể chia
thành 3 giai đoạn, phát triển ở 3 Vùng chính.
5.1.
Giai đoạn 1 : Lưu vực Đồng Đình và Sông Tương
Đất Tổ Đồng Đình ưu ái cho Tộc Việt phát triển nhanh chóng.
Từ vùng Hồ Đồng Đình, Tộc Việt lan ra các vùng chung quanh. Địa lý, sông núi,
phong thổ, đã tạo thành nhiều vùng dân cư nhiều đặc tính khác nhau.
Vùng thượng lưu Dương Tử nhiều núi rừng hiểm trở, gây khó
khăn cho việc sinh sống đông đúc. Nhiều nhóm người sống rải rác.
Thời đó vùng hạ lưu Dương Tử còn sình lầy, úng nước, chưa thể
khai khẩn trồng trọt. Dân chúng tập trung thành những xóm ghe thuyền. Vì vậy, ở giai đoạn nầy, vùng phát triển
chính của Tộc Việt là Hồ Đồng Đình và lưu vực Sông Tương. Sông Tương có nhiều đồng
ruộng thuận hợp cho việc phát triển nghề
trồng Lúa Nước. Gần 3.000 năm sau, 2070 ttl, với việc Đại Vũ trị thủy,
vùng nầy bắt đầu phát triển, trở thành vùng đất Nhà Hạ, vùng Việt Hạ.
5.2. Giai đoạn 2 : Lưu vực Tây
Giang
a. Việt Thượng
Khi
thêm đông, vì hạ lưu Sông Dương Tử úng nước, và thượng lưu nhiều núi rừng hiểm
trở, Dân Việt đã phát triển ngược lên vùng Thượng lưu Sông Tương, nên vùng nầy
được gọi là Thượng, Việt Thượng.
b. Vùng Tây Giang
Theo đường sông và thung lũng, vượt thượng nguồn Sông Tương,
dân Việt qua Sông Quế xuôi về nam, tới vùng sông lớn Tây Giang. Đây là những
con đường nổi tiếng, nối liền Trường Sa, Hàng Dương, Quế Lâm, Liễu Châu.
Thượng
nguồn Sông Tương có nhánh Sông Lỗi, qua Sông Bắc, tới cửa biển Tây Giang, là
đường Trường Sa, Hàng Dương, Thiều Quan, Quảng Châu.
Nhưng
lưu vực Tây Giang không đủ thuận hợp cho Tộc Việt chuyên nghề Lúa Nước và sông
hồ phát triển lớn.
c.
Chữ NAM : Mặt Trời và Trâu
Trên
đường Nam tiến, thời 1621 ttH, 4500 ttl, Dân Việt gặp vùng đất Nắng ấm
và Trâu, 2 yếu tố giúp Nghề nông Lúa nước phát triển vượt bực. Vì
vậy, Dân Việt vẽ hình Vùng đất có Mặt Trời và Trâu để chỉ phương
Nam.
Chữ Nam gồm : Hình
khung, thành chữ Khuynh, chỉ vùng đất ở xa, là nét
Hình con Trâu, với 2 Sừng lớn, 4 Chân và Đuôi, thành
5.3.
Giai đoạn 3 : Lưu vực Sông Hồng Sông Mạ
a. Đường Sông
Vì
châu thổ Tây Giang không đủ điều kiện thuận hợp, dân Việt đã từ Tây Giang ngược
thung lũng và giòng Sông Tả, vô Bắc Phần Việt Nam. Hiện nay là đường Quảng
Châu, Nam Ninh, Lạng Sơn.
Vào
các thời kỳ sau, các sứ đoàn Đại Việt thường theo con đường nầy, ngang qua
vùng Đồng Đình, lên phía Bắc.
b. Đường Biển
Dân Việt
còn theo Tây Giang ra biển, rồi ven theo biển vào Vịnh Bắc Phần, tới vùng Sông
Hồng và Sông Mạ. Với thời gian, nhờ vùng đất thuận hợp và phì nhiêu, Dân Việt
vùng Sông Hồng Sông Mạ đã trỗi vượt. *[31]
Gần
cửa Sông Mạ, ở Thanh Hóa, là vùng di chỉ đúc đồ đồng Đông Sơn.
c. Tuyệt nghệ Vượt Biển
Đi về
trên đoạn biển Tây Giang - Sông Hồng giúp tài điều khiển ghe thuyền, (phát triển
từ vùng Đất Tổ Hồ Đồng Đình), thành tuyệt nghệ vượt biển.
Hình vẽ chiếc thuyền vượt biển trở thành biểu hiệu của dân
Việt phương Nam, sau đó trở thành chữ Việt 越.
d. Chữ VIỆT Vượt Biển 越
Trên đồ
đồng Đông Sơn thời tuyệt kỹ, 1000 ttl, Chữ Việt 越 được
khắc thành hình vị Thủ lãnh tay cầm cờ hiệu, đứng trên Thuyền chỉ huy đoàn tàu
vượt biển. Hình thuyền trên Thạp Đào Thịnh có chữ Việt 越.
Chữ Việt 越 gồm 2
phần :
1.
Phần
2.
Phần
Trong
hình, vị Thủ Lãnh là một Bà, ngực cao, mông lớn. (hình trên). *[33]
Giữa vị
Thủ Lãnh và người Cầm Lái có Người ngồi điều khiển mặt la bàn (trên đế dễ
xoay, cho hợp với hướng nhìn của vị Thủ Lãnh). Người nầy không đội mũ cao,
tránh che mắt người cầm lái. Đoàn Thuyền vượt biển, thuyền mũi cao, hải âu hộ tống,
có la bàn, cờ cao điều động.
- Đây
là chữ ‘Việt 越’ đầu tiên và phổ quát nhất,
được thành hình do những người đi về bằng đường biển giữa Tây Giang
và Sông Hồng, khoảng năm 4000 ttl. Tuy nhiên chữ Việt nầy đã được dùng
để chỉ toàn thể Dân Việt từ thời Khởi nguyên, năm 5000 ttl, cách đây 7000
năm.
e.
Chữ LẠC Rùa Thần
Tới
Sông Hồng, khoảng năm 1121 ttH, 4000 ttl, gặp được nhiều Rùa ‘Thần’
khổng lồ, Tổ Tiên vui sướng, hãnh diện, và tin tưởng vào tương lai,
nên đã lấy hình Rùa Thần làm Biểu Hiệu và tên Lạc để diễn tả và
lưu truyền Niềm Vui Sướng trước Tương Lai huy hoàng của Dòng Tộc.
Từ
đó, nhóm Việt vùng Sông Hồng tự xưng là Lạc, Việt Lạc, với chữ Lạc
Rùa Thần
Chữ
Lạc hình Rùa Thần với Đầu, Mu hình chữ nhật, và 4 chân ngắn và to.
Mu
Rùa hình chữ Nhật khác thân mình thon và dài của các loài 4 chân
khác. Rùa có 4 chân to và ngắn, các loài 4 chân khác có chân nhỏ và
dài. *[35]
5.4.
Tỏa lan toàn miền
Như vậy,
trong hơn 2000 năm thời Khởi Nguyên, từ 5000 tới 2879 ttl, Tộc Việt đã phát triển
đông đúc, với 3 Vùng Phát Triển chính, là lưu vực Đồng Đình Sông Tương, lưu vực
Tây Giang, và lưu vực Sông Hồng Sông Mạ.
Tuy
nhiên, ngoài 3 vùng chính, Tộc Việt cũng đã có mặt trên khắp miền, từ Hồ Đồng
Đình, rải rác dọc theo Sông Dương Tử ra tới Biển, lên phía Bắc tới ranh thiên
nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, về miền rừng núi phía Tây tới sông Cửu Long, và xuống
phương Nam tới vùng đường ranh Hải Vân.
Từ
2879 ttl, dân Việt Lạc Sông Hồng trỗi vượt, khởi đầu Thời Hùng (tH).
6. NĂM KHỞI
NGUYÊN của TỘC VIỆT và VIỆT LẠC
6.1. Ước định Năm Tộc
Việt Khởi Nguyên : Năm 2121 ttH, 5000 ttl
Không
thể có vết tích gì giúp xác định khởi điểm của Thời Khởi Nguyên,
của Ông Bà Khởi Tổ Tộc Việt.
Tuy
nhiên, trong khi ở hầu hết mọi Tộc Dân, truyền thuyết về Nguồn gốc
chỉ chú trọng tới Một Vị Khởi Tổ, thì Tộc Việt có 2 Vị Khởi Tổ.
2 Ngài trở thành biểu tượng linh thiêng Mẹ Tiên và Cha Rồng. Các Tinh Hệ ảnh hưởng tiêu biểu trên
các nền văn hóa lớn, và thời kỳ thịnh vượng tiêu biểu của 1 Kỷ nguyên ở vào
khoảng giữa kỷ nguyên. *[36]
Hình
Kỷ nguyên Song Sinh là 2
Người nắm tay nhau.
Thời Khởi Nguyên của Tộc Việt, với 2 Ngài Khởi Tổ,
giúp ước định Kỷ Nguyên Song Sinh, 6000-4000 ttl, thời thịnh vượng là
những năm 5000 ttl. Lấy Thời Hùng (tH) làm
chuẩn, năm Khởi Đầu Tộc Việt, năm 5000 ttl, là năm 2121 trước Thời
Hùng (ttH). Thời gian dài 2121 năm cũng đủ để Con Cháu hai Ông Bà Tổ
tăng triển thành một Tộc Dân đông đúc, tỏa lan khắp miền, với 3 vùng
phát triển chính.
6.2.
Việt Lạc Sông Hồng khởi nguyên : năm 1121 ttH, 4000 ttl
Vùng
Sông Hồng Sông Mạ đã là vùng phát triển chính thứ 3 và là vùng
thuận hợp nhất.
Tổ
Tiên Việt Lạc tới định cư và phát triển ở vùng Sông Hồng Sông Mạ
khởi đầu khoảng 1000 năm sau khi Tộc Việt Khởi Nguyên, tức năm 1121
trước Thời Hùng (ttH), năm 4000 ttl, cách đây 6000 năm. Thời đó, vì hạ lưu Sông Hồng ngập
nước, vùng định cư chính là vùng trung lưu Sông Hồng và vùng Sông Mạ.
Trị sở là Việt Trị, nay là Việt Trì.
Trong
1121 năm từ định cư tới đầu Thời Hùng, từ 4000 tới 2879 ttl, Dân Việt
Lạc Sông Hồng Sông Mạ phát triển trỗi vượt hơn các nhóm dân chung
quanh, như được ghi nhận trong Thời Hùng.
*********
IV. TỘC VIỆT THỜI HÙNG 1, 1-809 Thời Hùng (tH), 2879-2070 ttl
TAM HOÀNG NGŨ ĐẾ LÀ DÂN VIỆT
1.1. Việt và Hoa
Theo
truyền thuyết Việt, Tộc Việt khởi nguyên từ vùng Hồ Đồng Đình. Theo khảo cổ hiện
nay, từ hơn 6000 năm trước, vùng Hồ Đồng Đình đã phát triển nghề trồng lúa nước.
Theo lịch
sử hiện nay, tộc Hoa thành hình do bộ tộc Chu gom góp một số bộ lạc du mục ở
vùng Thiểm Tây. Sau đó họ kéo về thung lũng Sông Vị, và thành lập Nhà Chu năm
1046 ttl, cách đây 3000 năm.
Tuy vậy,
theo sách vở Trung Hoa, tộc Hoa có một tiền sử dài mấy ngàn năm trước khi tộc
Hoa thành hình. Đang khi đó, sách vở Trung Hoa lại ghi là dân Việt, Trăm Việt,
từ sông Dương Tử xuống phía Nam, là tộc dân sơ khai mọi rợ, không có quá khứ,
không có truyền thuyết thời tiền sử.
Trái khuấy là tộc Hoa du mục tụ tập
cách đây 3.000 năm thì có truyền thuyết dài
mấy ngàn năm của thời tiền sử. Còn dân Việt hơn 6.000 năm phát triển ở vùng lúa nước Hồ Đồng
Đình lại không có truyền thuyết hoặc tài liệu đáng kể.
1.2.
Hoa cưỡng chiếm
Đây chẳng
qua là kết quả của vụ cướp đoạt lớn nhất lịch sử nhân loại. Người Tộc Hoa đã
hủy hoại, cướp đoạt, sửa đổi, và nhất là, lạm nhận quá khứ, tiền sử, lịch sử,
truyền thuyết, phát minh, kỹ thuật, chữ viết, học thuyết, Sách vở, và tất cả
mọi hay tốt... của Tộc Việt, đặc biệt của dân Việt Lạc vùng Sông Hồng.
Ngày
nay, dựa vào khảo cổ và chính
Sách vở Trung Hoa, chúng ta tìm lại dấu vết của Tổ Tiên Việt, trên đất nước
Việt Nam, và cả trên toàn vùng đất Tộc Việt, lên tới
trên đường ranh thiên nhiên ở Sông Hoài và Tần Lĩnh.
1.3. Hai Tộc Dân
a. Hai thời điểm
Tộc Việt
khởi nguyên từ 7000 năm trước. Tộc Hoa thành hình từ 3.000 năm trước.
b. Hai Vùng Đất Tổ
Tộc Việt
phát triển vùng Hồ Đồng Đình, Lúa Nước, gạo, nhiều mưa, nhiều sông, nắng ấm... ở
phương Nam.
Tộc
Hoa phát nguyên từ vùng Thiểm Tây, khô cằn, giá lạnh, vùng lúa khô, lúa mì, miến,
kê... ở phương Tây Bắc.
Đường
ranh thiên nhiên giữa hai vùng, thời xưa cũng như hiện nay, là đường nối Sông
Hoài - Tần Lĩnh. *[38]
c. Hai nền Văn hóa
Tộc Việt
với nền văn hóa gốc Nông nghiệp Lúa nước : định cư lâu dài, ít di chuyển, có cuộc
sống cộng đoàn, hòa hợp với thiên nhiên, hiếu hòa, trọng nghệ thuật, thiên về mẫu
hệ...
Tộc
Hoa có nền văn hóa gốc Du Mục : trọng sức mạnh, trọng phái nam, hiếu thắng, trọng
võ nghệ, thiên về phụ hệ...
- Những
phân biệt trên sẽ giúp nhận ra nguồn gốc đích thực của truyền thuyết và di tích
cổ xưa.
2.1. Hai Truyền thuyết Việt, Hoa
a. Thời Hùng 2879-180 ttl
Theo
truyền thuyết Việt Lạc, Thời Hùng khởi đầu từ năm 2879 ttl và kéo dài tới năm
180 ttl.
Năm
2879 ttl đánh dấu sự kiện Tộc Việt đã tỏa lan khắp vùng đất rộng lớn từ Đồng
Đình ra tới biển, Bắc giáp ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, miền rừng núi
phía Tây tới Sông Cửu Long, và phía Nam tới vùng ranh Hải Vân.
Thời
Hùng chấm dứt năm 180 ttl, khi đoàn quân của Triệu Đà chiếm đóng Cổ Loa, trị sở
của Việt Lạc.
b.
Sách vở Trung Hoa
Theo sách vở Trung Hoa, thời Tam Hoàng khởi
đầu năm 2852 ttl. Như vậy, Thời
Hùng của Việt Lạc gồm trọn các thời Tam Hoàng, Ngũ Đế, Hạ, Thương, Chu, Tần và
26 năm đầu Nhà Hán của sách vở Trung Hoa.
c.
Tộc Hoa
Tộc Hoa thành hình do tập hợp nhiều bộ lạc du mục vùng Thiểm
Tây, phía tây bắc đường ranh Sông Hoài Tần Lĩnh.
Họ thành lập Nhà Chu từ năm 1046 ttl, là 1800 năm sau các
truyền thuyết Thời Hùng và thời Tam Hoàng Ngũ Đế.
Trước
khi tụ họp và lập Chu năm 1046 ttl, tộc Hoa chỉ
là các bộ lạc du mục lạc hậu sơ khai, chưa tập hợp đông đúc, chưa có tổ chức xã hội phức
tạp, chưa thể chiếm những vùng đất có biên cương cố định và rộng lớn.
Về văn
hóa, họ chưa tới thời kỳ ghi nhận và sáng tạo những truyền thuyết súc tích, mạch
lạc, và có hệ thống.
d.
Tộc Việt
Tộc Việt
phát xuất từ vùng Hồ Đồng Đình từ 5000 ttl, gần 4000 năm trước khi tộc Hoa
thành hình.
Vùng
nông nghiệp lúa nước là nguồn phát xuất các truyền thuyết súc tích, thâm thúy,
xa xưa nhất của nhân loại. *[39]
e. Thực tế Lịch sử
Theo
thực tế lịch sử, Nhà Chu, 1046 ttl, chỉ là tổ xa của tộc Hoa. Tổ gần của tộc
Hoa là nhóm du mục Khuyển Nhung. Nhà Chu chiếm cứ vùng thung lũng Sông Vị từ
năm 1046 tới 771 ttl, thường gọi là Tây Chu.
Năm
771 ttl, cách đây chưa đầy 2800 năm, nhóm du mục Khuyển Nhung từ phương Bắc
tràn xuống xâm chiếm vùng Sông Vị và đuổi Nhà Chu chạy về vùng Lạc Dương. Nhà
Chu trở thành Đông Chu.
Nhóm du mục Khuyển Nhung nầy thành lập Nhà Tần, và ngày càng
thêm hùng mạnh. Nhà Tần lên tới tuyệt đỉnh khi Tần Thủy Hoàng thôn tính các nước
trong vùng, và thành lập nước Trung Hoa năm 221 ttl. Năm 206 ttl Hán lật đổ Tần.
Vì vậy, Nhà Hán, 206 ttl - 220 dl, đã xuyên tạc và tuyên truyền giảm thiểu quyền
lực và ảnh hưởng Nhà Tần.
Do đó,
tất cả sách vở Trung Hoa đều tôn vinh Nhà Chu làm mẫu mực thần thánh cho
‘Thiên triều’, cho quyền thống trị của vương triều Hán, và của tất cả các triều
đại trong suốt lịch sử Trung Hoa. Chủ trương nầy đã tạo ra chủ thuyết ‘Thiên tử
thế Thiên hành Đạo’. *[40]
2.2. Điều kiện Địa Lý thiên
nhiên Thời Hùng
a. Vùng Hoàng Hà sơ khai
Vùng
Hoàng Hà, phía Bắc ranh giới thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, phát triển từ thời
Nhà Thương 1600-1046 ttl.
Vùng
thung lũng Sông Vị ở Thiểm Tây lại khởi phát thời gian ngắn trước Nhà Chu, 1046
ttl. Thiểm Tây là vùng đồng cỏ khô cằn cóng lạnh, chỉ thích hợp với nghề chăn
nuôi du mục, trồng lúa khô, lúa mạch, bo bo... và phát sinh ra nền văn hóa gốc
du mục. *[41]
b. Vùng Lúa nước Đồng Đình và
Sông Hồng
Theo
điều kiện địa lý và khí hậu, theo di tích của thời cách đây 5000 năm, vùng Đồng
Đình và vùng Sông Hồng Sông Mạ là 2 trung tâm phát triển nông nghiệp Lúa Nước
của vùng Á Đông Xưa.
Vùng
nông nghiệp Lúa Nước phát triển ở những đồng bằng nhiều nước, nhiều mưa, nhiều
nắng ấm, có nhiều thổ sản, thủy sản, phương tiện... khác hẳn vùng khô cằn cóng
lạnh. Vùng lúa nước tăng trưởng nền văn hóa với nhiều đặc tính khác hẳn vùng du
mục khô cằn. Đây là thời kỳ Dân Việt Lạc
vùng Sông Hồng khởi đầu Thời Hùng. *[42]
c. Ngày nay, căn cứ trên khảo cổ, trên cấu trúc dị
biệt giữa tiếng Việt và tiếng Hoa,
- trên những đặc tính trái ngược giữa hai nền văn hóa gốc
nông nghiệp lúa nước và gốc du mục,
- trên những khác biệt về thổ ngơi, khí hậu, hình thể địa
lý, thổ sản... giữa hai vùng Nam và Bắc đường ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần
Lĩnh... Có nhiều chứng tích về đặc tính Việt
nông nghiệp Lúa Nước, nơi tất cả những nhân vật truyền thuyết sinh sống thời
trước khi Tộc Hoa thành hình.
2.3.
Bốn Thời Kỳ Thời Hùng
a.
Niên đại Việt
Trước khi tộc Hoa thành hình, tất cả truyền thuyết là của
Tộc Việt.
Các triều đại truyền thuyết trong sách vở Trung Hoa, chỉ
là một phần nhỏ của di tích Tộc Việt đã bị dân Hoa lạm nhận. Sách vở
Trung Hoa cũng không đề cập đến nhiều phần đất rộng lớn khác của Tộc Việt.
Thời Hùng dài từ năm 2879 ttl tới năm 180 ttl, tức là
từ năm 1 Thời Hùng (tH) tới năm 2699 tH.
2
truyền thuyết Việt - Hoa có niên đại gần giống nhau, thời Hùng chia theo 4
thời kỳ, mỗi Thời có 2 hoặc 3 giai đoạn.
b.
Bốn Thời Hùng
1. Thời Hùng 1 : 1-809
Thời Hùng (tH), 2879-2070 ttl, gồm cả thời Tam Hoàng Ngũ Đế. Thời nầy có 2
giai đoạn :
Thời
Hùng 1A : 1-179 tH, 2879-2700 ttl, gồm cả thời Tam Hoàng.
Thời
Hùng 1B : 179-809 tH, 2700-2070 ttl, gồm cả thời Ngũ Đế.
2. Thời Hùng 2 :
809-1279 tH, 2070-1600 ttl, gồm cả thời Hạ :
Thời
Hùng 2A : 809-1079 tH, 2070-1800 ttl, gồm cả Tiền Hạ.
Thời
Hùng 2B : 1079-1279 tH, 1800-1600 ttl, gồm cả Hậu Hạ.
3.
Thời Hùng 3 : 1279-1833 tH, 1600-1046 ttl, gồm cả thời Thương :
Thời
Hùng 3A : 1279-1579 tH, 1600-1300 ttl, gồm cả Tiền Thương.
Thời
Hùng 3B : 1579-1833 tH, 1300-1046 ttl, gồm cả Hậu Thương / Ân.
4. Thời Hùng 4 :
1833-2699 tH, 1046-180 ttl, gồm :
Thời Hùng 4A : 1833-2108 tH, 1046-771 ttl, đồng
thời với Tây Chu / Sở.
Thời Hùng 4B : 2108-2672 tH, 771-207 ttl, đồng
thời với Đông Chu / Tần.
Thời
Hùng 4C : 2672-2699 tH, 207-180 ttl, Việt Lạc với Triệu Đà.
3. TRUYỀN THUYẾT THỜI HÙNG 1, năm
1-809 Thời Hùng (tH), 2879-2070 ttl
3.1. Thời Hùng 1 và Tam Hoàng
Ngũ Đế
Theo
truyền thuyết, Thời Hùng 1, 1-809 tH, 2879-2070 ttl, cũng là thời Tam Hoàng Ngũ
Đế, tức là từ hơn 1800 tới 1000 năm trước khi tộc Hoa thành hình ở vùng thung
lũng Sông Vị, phía Tây Hoàng Hà. *[43]
Nhưng trong 3.000 năm
qua, Trung Hoa đã lạm nhận mọi truyền thuyết xa xưa, và biến tất cả truyền thuyết
và danh nhân của thời chưa có Tộc Hoa trở thành tiền sử của Tộc Hoa. Do đó,
sách vở Trung Hoa đã chuyển dời tất cả từ Hồ Đồng Đình lên vùng Hoàng Hà,
Sông Vị.
Dầu giới thống trị Trung Hoa cố gắng cải sửa,
cũng không thể đánh lận mọi chi tiết được truyền tụng trong đại chúng.
Đọc tiểu sử của các Vị, có thể tìm lại nguồn
gốc Việt đích thực của những truyền thuyết thời Tam Hoàng Ngũ Đế.
3.2. Tam Hoàng
a. Thời chưa có Chữ Viết
Theo
sách vở Trung Hoa, đây là thời tiên khởi của lịch sử Trung Hoa. Trung Hoa
cũng coi các Ngài là người Tộc Hoa, và do đó, quê hương các Ngài ở vùng Hoàng
Hà. Đây lại là thời kỳ chưa có chữ viết, chưa có tài liệu ghi chép. Tất cả đều
chỉ là truyền thuyết, hoặc di cốt, dụng cụ.
Vì người Hoa coi các Ngài là người Tộc Hoa, và do
đó, quê hương các Ngài ở vùng Hoàng Hà. Đây lại là thời kỳ chưa có chữ viết,
chưa có tài liệu ghi chép. Tất cả đều chỉ là truyền thuyết, hoặc di cốt, dụng cụ.
b. Nhiều Danh sách. Danh sách các Ngài, dĩ nhiên, không đồng nhất. Có ít nhất
là 6 dị bản.
Vận Đẩu
Xu và Nguyên Mệnh Bao cho rằng 3 vị là Phục Hy, Nữ Oa và Thần Nông.
Sử Ký
do Tư Mã Thiên, quyển ‘sử’ được tín nhiệm nhất của Trung Hoa, cho rằng Tam
Hoàng gồm có ‘Thiên Hoàng cai trị 18.000 năm, Địa Hoàng cai trị 11.000 năm,
Nhân Hoàng cai trị 45.600 năm ! *[44]
c.
Tiểu sử phỏng định
Tiểu sử
của Tam Hoàng càng mơ hồ, quái dị. Coi các
Ngài là những vị thần tiên, đã hóa phép để giúp dân. Nếu các Ngài có thật, thì
các Ngài đã sống vào thời chưa có chữ viết, những người viết tiểu sử các Ngài đã sống
sau các Ngài 2-3.000 năm. Ngoài vài nét khái quát của truyền thuyết, người
viết tiểu sử không có bất cứ tài liệu, chứng tích nào.
Vì vậy,
họ theo trí tưởng tượng, thiên kiến, và nhất là theo những tuyên truyền cưỡng định
của giới thống trị Trung Hoa đương thời, mà phỏng định và thay đổi. *[45]
3.3.
Thời Ngũ Đế
Ngũ Đế
có nhiều giả thuyết. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên, Ngũ Đế gồm Hoàng Đế, Chuyên
Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. *[46] 5 vị Đế đã khai hóa người dân, chế ra lửa, dạy
làm nhà, mặc quần áo, trồng ngũ cốc, chài lưới... dạy chữ viết, lễ nhạc, lễ
nghĩa. Thời kỳ các Ngài biểu trưng thời thái bình thịnh vượng, an cư lạc nghiệp.
*[47]
4. YẾU TỐ VIỆT NƠI TAM HOÀNG NGŨ ĐẾ
4.1. Tên Việt
Tên của
5 trong số 8 Vị thời Tam Hoàng Ngũ Đế hiện nay vẫn được sách vở Trung Hoa
ghi tên theo cấu trúc Tiếng Việt, ngược với ngữ pháp Hoa : Nữ Oa, Thần Nông, Đế
Khốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Theo cách người Hoa, tên các Ngài phải là Oa Nữ,
Nông Thần, Khốc Đế, Nghiêu Đế, Thuấn Đế. Đặc biệt
là trong hơn 3.000 năm qua, trong khi giới thống
trị Trung Hoa đã làm đủ cách để xóa bỏ mọi vết tích Việt, tên các Ngài vẫn tồn
tại theo cách nói Việt.
Dầu giới
thống trị Trung Hoa xuyên tạc, đại chúng Tộc Việt vẫn kính nhớ và lưu truyền Tên thần thánh của Tổ Tiên.
4.2. Tiểu sử Tam Hoàng : văn
hóa Việt, ở vùng Lúa Nước
Ngoài
tên tiếng Việt, tiểu sử của Tam Hoàng còn có các yếu tố Việt khác :
- Nữ
Oa mặc lông chim, Phục Hy có Tám
Quẻ trên sông Lạc. Phục Hy và Nữ Oa có đuôi như rắn quấn vào nhau.
Rắn là Long của thời khởi nguyên, chim là hiện biểu của
Tiên... Tiên Rồng là biểu tượng của Tộc Việt phương Nam.
Đang
khi đó, vật tổ của vùng Hoàng Hà là gấu, vật tổ của dân du mục Thiểm Tây là chồn
và chó sói.
- Thần
Nông là Vị Thần của nông nghiệp. Chỉ có Dân vùng lúa nước ở phương Nam mới
thờ Thần Nông. Phương Bắc là vùng khô cằn giá lạnh, du mục chăn nuôi, không
quí trọng nghề nông, và không thờ thần Nông nghiệp.
Thần
Nông là con của Thần Long. Long là biểu tượng của dân Việt, có tên là Viêm Đế,
vua xứ nóng ở phương Nam.
4.3.
Tiểu sử Ngũ Đế
Ngũ
Đế đều thuộc nền văn minh và văn hóa Việt, ở vùng nắng ấm và nông nghiệp lúa
nước.
a. Hoàng Đế
Hoàng
Đế là Hiên Viên, dạy làm nhà, đóng xe thuyền, chế kim chỉ nam, y thuật, nuôi tằm
dệt lụa, được Rồng vàng rước về trời. *[48] Tất cả
đều là nền văn minh lúa nước, phương Nam. Rồng vàng là biểu tượng của
Tộc Việt. *[49]
b. Chuyên Húc
Chuyên
Húc là nữ giới, sau khi chết Chuyên Húc biến thành Bà Tiên Cá. *[50]
Nữ giới
làm Đế, hoặc thành Bà Tiên, cũng đều ghi nhận chế độ mẫu hệ nông nghiệp của Tộc
Việt đương thời. *[51]
c. Đế Khốc
Đế Khốc
dạy cách trồng trọt, theo luật vận động của mặt trời, mặt trăng mà đặt ra lịch,
thành kính lo cúng tế... Lịch là thành quả của nếp sống nông nghiệp lúa nước.
Cúng tế là đặc điểm của dân Việt phương Nam.
d. Đế Thuấn
Trong
Ngũ Đế, 2 Vị cuối cùng có tiểu sử chi tiết hơn, và gần thực tế nhất. *[52]
Vị cuối
cùng là Đế Thuấn, v. 762-809 tH, 2117-2070 ttl.
Truyền
thuyết Trung Hoa đã dời thủ đô của Đế Thuấn lên Bồ Phản, thuộc Sơn Tây. Tất cả
chi tiết tiểu sử Đế Thuấn hoàn toàn ở vùng phía Nam sông Dương Tử. Trước khi gặp
Đế Nghiêu, Đế Thuấn đi cày, được voi cày giúp. Voi là thú ở phương Nam nắng ấm,
không sống ở vùng Bắc Sông Hoài Tần Lĩnh. Cày ruộng là kỹ thuật của vùng lúa nước.
Khi Đế Thuấn giúp Đế Nghiêu, Đế Nghiêu cử
Đế Thuấn đi khai khẩn đất ở Nam Giao, phía Nam sông Dương Tử.
Đế
Nghiêu gả cho Thuấn 2 con gái, là Nga Hoàng và Nữ Anh. Năm 762 tH, 2117 ttl,
Thuấn nối quyền Đế Nghiêu.
Đế Thuấn
chết ở Thương Ngô, Quảng Tây ngày nay, năm 809 tH, 2070 ttl.
2 bà vợ
của Đế Thuấn thương khóc Đế Thuấn và tự trầm ở dòng sông Tương. Đến nay, 2 Bà vẫn
được dân vùng sông Tương thờ kính. Sông Tương là sông lớn nhất trong 4 phụ lưu
từ phía Nam chảy vào Hồ Đồng Đình. Trên sông Tương có Trường Sa, thủ phủ nổi tiếng
từ thời xa xưa.
Đế Thuấn
cày ruộng ở phương Nam, rồi làm
quan, cưới vợ, cai trị, và chết ở phương Nam, vùng Đồng Đình.
e.
Đế Nghiêu
Theo sách vở Trung Hoa, Đế Nghiêu, v. 683-762 tH,
2196-2117 ttl, ở vùng Hoàng Hà. Theo truyền thuyết, năm Đế Nghiêu thứ 5, 688
tH, 2191 ttl, Sứ giả Việt Thượng dâng Rùa Thần ngàn năm, trên mu có khắc chữ về
chuyện đất trời vận chuyển và lịch trình cày cấy. Đế Nghiêu sai chép lại và gọi
là Lịch Rùa, quy lịch. *[53]
Đế Thuấn sống ở vùng sông Tương gíup tìm ra tông tích Đế Nghiêu. Đế Nghiêu
là vua và cha vợ của Đế Thuấn.
Đế Nghiêu ở vùng Hoàng Hà du mục khô cằn lúa khô, thì :
- Ông không thể áp dụng lịch trình cày cấy lúa nước của lịch
rùa, phải đi mấy trăm cây số, dẫn theo 2 cô công chúa,
- tìm chàng nông dân cày ruộng ở phương Nam, gả hai con gái,
- cho Thuấn cai trị phương Nam, là vùng đất không thuộc quyền
cai trị ông.
Tất cả đều không thuận hợp cho việc di chuyển Ông lên vùng
Hoàng Hà, mà thành tự nhiên khi Ông và
gia đình sống tại vùng Sông Tương, Đồng Đình.
4.4.
Dân vùng Lúa nước Đồng Đình
Liên tục
từ Tam Hoàng tới hết Ngũ Đế, tất cả 8 Vị đều sống và chết ở tại vùng lúa nước Đồng
Đình. Không Vị nào ở vùng Hoàng Hà du mục khô cằn giá lạnh. Đây là chuyện
đương nhiên, vì truyền thuyết về tất cả các Vị đều đã hơn 1.000 năm trước khi
vùng Hoàng Hà hưng phát, trước khi Tộc Hoa thành hình. Tiểu sử của tất cả
các Vị đều là truyền thuyết của dân Việt, đều phát xuất từ vùng Đồng Đình. Từ sau năm 1833 tH, 1046 ttl, các Vị bị
giới thống trị Trung Hoa lạm nhận, chuyển đổi nơi sinh, và 1 số điểm trong
tiểu sử, lên vùng Hoàng Hà.
5. Ba TRUNG TÂM VIỆT THỜI HÙNG 1
5.1. Tiếp tục Phát Triển
Nối tiếp
Thời Khởi Nguyên, ở Thời Hùng 1, Tộc Việt tiếp tục phát triển vững mạnh ở 3
vùng chính, là Đồng Đình - Sông Tương, Tây Giang, và Sông Hồng, với nền văn
minh và văn hóa Nông nghiệp Lúa nước.
Đang
khi đó, ở thời kỳ nầy, ở Bắc Tần Lĩnh, vùng Hoàng Hà Sông Vị, chưa có dấu hiệu
phát triển. Dân trong vùng chỉ là những bộ lạc du mục sơ khai.
5.2. Vùng Đồng Đình Thời Hùng 1
Tất cả
mọi truyền thuyết về Tam Hoàng Ngũ Đế, thuộc Thời Hùng 1, đều phát xuất từ vùng
Đồng Đình.
Đây là
chuyện đương nhiên, vì Tộc Việt khởi nguyên ngay tại trong vùng.
Đến nay, sự phồn thịnh quan trọng của vùng nầy vẫn âm hưởng
trong chữ viết và nghĩa của tên Đồng Đình 同 廷.
Chữ Đình 廷 trước
đây gồm chữ Vương 王. Nay viết thành chữ Nhâm 壬.
Chữ Đình 廷 với
Vương 王 đứng trên Thuyền
Chữ Đình 廷 trong
chữ ‘Triều Đình’ là nơi vua quan làm việc Nước. Chữ Đồng 同 nghĩa là cùng chung, tụ họp.
Hai chữ Đồng Đình 同 廷 dùng để chỉ nơi tụ họp của sinh hoạt đầu não của Tộc Việt
ở thời Khởi Nguyên. *[55]
5.3. Vùng
Tây Giang Thời Hùng 1
Trong
thời kỳ nầy, vùng phát triển Tây Giang, thủ phủ là Phiên Ngung, chỉ còn lại
truyền thuyết Đế Thuấn chết ở Thương Ngô năm 809 tH, 2070 ttl, kết thúc Thời
Hùng 1. Đây là dấu chỉ trong suốt Thời Hùng 1, ngoài việc sách vở Trung Hoa
đã gian lận và không ghi chép, vùng Tây Giang đã không có những tiến triển đặc
biệt.
5.4. Vùng Sông Hồng Thời Hùng 1
a. Nhiều thuận hợp
Với
nhiều thuận hợp về thủy thổ, đồng ruộng, sông hồ, và khí hậu, vùng Sông Hồng
Sông Mạ đã phát triển mạnh, trở thành trung tâm của Việt Thượng. Do đó, những kỳ
tích của vùng Sông Hồng được coi là truyền thuyết của Việt Thượng. Trị sở của
Dân Việt Sông Hồng là Việt Trị. *[56]
b.
Rùa Thần Sông Hồng
Chủ
trương và sách vở Trung Hoa đã đánh lận, di chuyển thời tiền sử của Tộc Việt
vùng Đồng Đình trở thành nguồn gốc tộc Hoa ở vùng Hoàng Hà. Dầu vậy, truyền
thuyết Sứ giả Việt Thượng dâng Rùa Thần ngàn năm cho Đế Nghiêu năm thứ 5, năm
688 tH, 2191 ttl, được lặp đi lặp lại nhiều lần. *[57]
Rùa khổng
lồ ngàn năm là loại ba ba đặc biệt vùng Sông Hồng. Hiện nay ba ba khổng lồ vẫn
còn sinh sống ở nhiều nơi trong lưu vực Sông Hồng và Sông Mạ. Hồ Hoàn Kiếm và
Tháp Rùa đã nổi tiếng nhờ loại ba ba nầy. Rùa ba ba hiện chưng ở đền Ngọc Sơn
dài 2,1 m, ngang 1,2 m, nặng 250 kg.
Tên khoa
học của loại ba ba nầy là Rafetus Swinhoei. (hình).
Năm 2013 dl, ngoài lưu vực Sông Hồng Sông Mạ, chỉ còn 2 con
ba ba loại nầy ở sở thú Tô Châu.
Ở khắp vùng Việt Thượng, không có loại rùa ba ba khổng lồ
nào khác. *[58]
c. Sông Hồng trỗi vượt
Theo
điều kiện địa lý và khí hậu, theo di tích của thời cách đây 5.000 năm, vùng Đồng
Đình và Sông Hồng đã là 2 trung tâm phát triển nông nghiệp lúa nước của Á
Đông Xưa.
Truyền
thuyết Đế Nghiêu lại ghi nhận trên mu Rùa Thần Việt Thượng có khắc chữ ghi việc
trời đất vận chuyển, và lịch chỉ dẫn thời tiết trồng cấy. Đế Nghiêu chép lấy, gọi
là lịch Rùa.
Thời Đế Nghiêu, cách đây 4.200 năm, Dân Việt vùng Sông Hồng đã vượt
trỗi hơn vùng Đồng Đình của Đế Nghiêu, về kỹ thuật và kinh nghiệm nông nghiệp
Lúa Nước, về chữ viết, thời tiết, đất trời vận chuyển, thiên văn.
Đây là
chứng cứ súc tích ghi nhận sự phát triển tiên tiến về văn minh, văn hóa, văn học
của Dân Việt Sông Hồng. Vùng Sông Hồng là
Trung tâm Phát triển bậc nhất của Tộc Việt và của toàn vùng Á Đông cách đây hơn
4.000 năm.
Dân Việt
Sông Hồng lưu truyền giai đoạn đặc biệt nầy với truyền thuyết : ‘Việt Nam có
4.000 năm văn hiến’. Hiện nay, đích xác là 4.200 năm. *[59]
d. Chữ Thượng Nhà sàn 常
Theo
sách vở xưa và khảo cổ hiện nay, đặc điểm của Việt Thượng là nhà sàn mái
cong. Trên mặt trống Ngọc Lũ, và trên nhiều trống đồng Đông Sơn khác, có hình
nhà sàn mái cong đã trở thành chữ Thượng 常. *[60]
Hình 2 đầu nóc nhà cong lên trở thành hai nét
Hình vẽ
mái nhà, chim đậu trên nóc, và 2 đầu hồi nhà, trở thành nét
Nhà
sàn là đặc điểm kiến trúc bảo đảm an toàn cho sức khỏe con người ở miền Thượng,
giảm bớt tiếp xúc với khí độc do lá cây ủ nhiều ngàn năm. Hình ảnh nhà sàn là chứng cứ nhánh Việt
Lạc vùng lúa nước Sông Hồng đã có cuộc sống phát triển mạnh, đã tăng triển đông
đúc và tiến bộ hơn những vùng Việt ở phương Bắc.
e.
Việt Lạc Việt Thượng - Lĩnh Nam
Theo địa
lý, chủng tộc, và lịch sử, vào Thời Hùng 1, 1-809 tH, 2879-2070 ttl, toàn vùng
đất rộng lớn, từ thượng lưu Sông Tương xuống phía Nam, là vùng Việt Thượng của
dân Việt Lạc, với trung tâm là lưu vực Sông Hồng, trị sở là Việt Trị. Ngày nay,
Việt Thượng của Việt Lạc bao gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, một phần Phúc
Kiến, một phần Vân Nam, Lào, và phía Bắc Việt Nam, xuống tới Hải Vân. *[61]
Đây
cũng là vùng đất mà từ thời Hán, hơn 2000 năm qua, đã được sách vở
Trung Hoa gọi là Lĩnh Nam, tức là phía nam Ngũ Lĩnh, còn gọi là Nam
Lĩnh, là vùng Việt Thượng. Việt Lạc sau nầy còn bao trùm cả Quí Châu, Hồ
Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến.
5.5.
Vùng Hạ lưu Sông Dương Tử
Vào cuối
Thời Hùng 1, tức là gần 2000 năm sau Thời Khởi Nguyên, vùng hạ lưu Sông Dương Tử
đã được dòng nước bồi đắp phù sa, nhiều nơi cao đã có thể được khai thác rộng lớn
hơn, dân cư đông đúc hơn.
V. TỘC VIỆT THỜI HÙNG 2 - 809-1279 tH,
2070-1600 ttl
NHÀ HẠ ĐẤT HẠ LÀ CỦA TỘC VIỆT
1. DẪN
NHẬP
Suốt mấy
ngàn năm qua, Trung Hoa luôn coi Đại Vũ, người sáng lập Nhà Hạ, là một trong ba
Thánh Vương của Trung Hoa, ở vùng Hoàng Hà, và là người được khắp ‘thiên hạ’ thần
phục...
Hiện
nay, Dầu trái ngược với nhận định của các nhà khảo cổ Âu Mỹ, Trung Hoa cũng
đang cố gắng dựa vào khảo cổ để giải thích vùng đất Nhà Hạ nằm trong lưu vực
Hoàng Hà, nơi phát sinh tộc Hoa.
Tuy
nhiên, sách vở Trung Hoa thời Chu, cách đây 3.000 năm, đã ghi nhận con cháu
Nhà Hạ không phải người Hoa, cũng không ở vùng Hoàng Hà. Họ là những dân nước
hùng mạnh ở hai bên bờ sông Dương Tử, nơi có Hồ Đồng Đình, và là người Tộc Việt.
Trước
khi so sánh tiểu sử Đại Vũ, cũng do sách vở Trung Hoa ghi chép, để tìm ra quê
hương đích thực của Đại Vũ, và của vùng Đất Hạ, cần phân biệt 2 vùng đất, với
những đặc tính khác biệt nhau, ở 2 bên Bắc và Nam đường ranh thiên nhiên Sông
Hoài Tần Lĩnh. Vùng Thiểm Tây phía Bắc Tần
Lĩnh, nơi phát xuất tộc Hoa, là vùng khô cằn giá lạnh, và phát sinh nền văn
hóa gốc du mục. Vùng đất Tộc Việt ở phía Nam
ranh Sông Hoài Tần Lĩnh là vùng nhiều nước và nắng ấm, và phát sinh nền văn hóa
nông nghiệp Lúa nước. *[62]
2. VIỆT HẠ và NHÀ HẠ
2.1.
Tài liệu về Nhà Hạ
Theo sách vở Trung Hoa, Nhà Hạ ở vào thời 809-1279 tH,
2070-1600 ttl.
Theo nhiều nhà sử học hiện nay, Nhà Hạ được coi là truyền
thuyết, chưa đủ dữ kiện để xác định tính cách lịch sử.
Không có tài liệu và di tích đương thời về các vị vua Nhà Hạ,
trừ một số cốt lõi của truyền thuyết. Thời Nhà Hạ, chữ viết chưa phổ biến. Tất
cả mọi sách vở về Nhà Hạ đều được sáng tác sau Nhà Hạ cả ngàn năm.
Sách vở Trung Hoa, kể cả khảo cổ hiện nay, không ghi rõ
biên cương của vùng đất được coi là thuộc Nhà Hạ.
Dầu vậy, Trung Hoa luôn quả quyết vùng đất Nhà Hạ ở lưu vực
Hoàng Hà gần sông Vị, và tất cả mọi sắc dân xa gần đều là chư hầu của Nhà Hạ.
2.2. Việt Hạ và Nhà Hạ
Căn cứ vào truyền thuyết cổ xưa, - căn cứ vào chiều hướng
phát triển của các tộc dân, - căn cứ vào tài liệu khảo cổ hiện đại, nhất là -
căn cứ vào khí hậu, phong thổ thời xưa, - vào sông nước, thổ sản, - vào các
thành tố văn minh, văn hóa, chủng tộc, ngôn ngữ, văn tự, thì đất Nhà Hạ vùng Việt Hạ của Tộc Việt, và 2 bên bờ Hạ lưu sông Dương Tử.
Thời nầy,
ngoài Đất Hạ của Nhà Hạ, Tộc Việt
còn các trung tâm lớn Đồng Đình, Việt
Thượng và các vùng liên hệ.
3. ĐẠI VŨ : ÔNG TỔ NHÀ HẠ
3.1.
Đại Vũ trị thủy
a.
Mười Ba Năm
Thời đó vùng Đất Hạ là vùng úng nước, chưa thích hợp phát
triển lớn. Cha của Đại Vũ đã thất bại đào kinh thoát nước, trị thủy. Đại Vũ chỉ
thành công sau 13 năm bỏ ăn bỏ ngủ, đi ngang nhà 3 lần mà không kịp ghé thăm. *[63]
Nhờ đó, Đế Thuấn cho Đại Vũ cai trị đất Hạ. Năm 809 th, 2070 ttl, khi Đế Thuấn chết,
Đại Vũ lập Nhà Hạ. Vì Đại Vũ kế nghiệp Đế Thuấn, nên vùng Đồng Đình cũng thuộc
quyền của Đại Vũ.
b. Đất Hạ sình lầy
Công
cuộc trị thủy khó khăn và lâu dài chứng tỏ vùng đất nầy còn nhiều sình lầy, lụt
lội. Như vậy, đây không thể là vùng đồng cỏ khô cằn ở phía Tây Bắc đường ranh
thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh.
Việc Đại
Vũ trị thủy và thành lập Nhà Hạ cũng chứng tỏ vùng Đất Hạ, ở hạ lưu Dương Tử, bắt
đầu trở thành một trung tâm phát triển mới của Tộc Việt.
Từ đầu
Thời Hùng 2, với Nhà Hạ, năm 809 tH, 2070 ttl, ngoài 2 Trung Tâm Phát triển lớn
là Đồng Đình, Việt Thượng, Tộc Việt có thêm vùng Việt Hạ.
3.2. Đại Vũ không ở vùng Hoàng Hà
Dựa
vào định kiến Trung Hoa về Nhà Hạ, khảo cổ hiện nay coi cương vực Nhà Hạ là
vùng đất ở góc Hoàng Hà gần sông Vị. Thực ra, đây chỉ là phần đất phía Bắc Sông
Hoài thời Hậu Hạ, sau Đại Vũ hơn 200 năm.
Tới nay trí thức Tàu vẫn cố xác định di chỉ khảo cổ Nhị Lý Đầu ở nam
Uyển Sư, Hà Nam, là nơi phát xuất Nhà Hạ.
Nhưng các
nhà khảo cổ khách quan, Âu Mỹ, không đồng ý, vì nghiên cứu cho thấy vào thời Đại Vũ,
năm 809 tH, 2070 ttl, thủy vận không phát triển ở vùng Hoàng Hà, phía Bắc ranh
giới thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh. Thời Hạ, 809-1279 tH, 2070-1600 ttl, chưa
có dụng cụ bằng đồng thau như ở Nhị Lý Đầu, và một số vấn đề khác. *[64]
3.3.
Đại Vũ học Sách Lạc
a. Chín Nhóm Đốm
Theo
truyền thuyết, trong khi trị thủy ở đất Hạ, năm 809 tH, 2070 ttl, Đại Vũ được
Rùa Thần cho Sách Lạc. Sách Lạc, Lạc Thư, được biểu trưng bằng 9 nhóm đốm
trên lưng Rùa Thần, từ 1 tới 9. (hình).
Nhờ Sách Lạc, Đại Vũ thông suốt việc đất trời, biết cách trị
thủy, biết cách trị dân. Nhờ đó, Đại Vũ cũng đã đào 9 con sông, khai thông 9
đường núi, chia nước làm 9 châu và phân chia trời đất vạn vật thành 9 loại, 9
nhóm...
b.
Rùa Thần Việt Lạc
Truyền
thuyết Đại Vũ được Rùa Thần tặng Sách Lạc đã lặp lại truyền thuyết sứ giả Việt
Thượng tặng Rùa Thần cho Đế Nghiêu năm 688 tH, 2191 ttl. Rùa Thần thời Đế
Nghiêu ghi chuyện cao siêu đất trời vận chuyển và lịch cày cấy. Hơn
100 năm sau, 'Rùa thần mang Sách Lạc' thời Đại Vũ đã khai triển rộng rãi
và chi tiết hơn.
Cả 2
đều biểu trưng nền văn minh và văn hóa của Việt Lạc Sông Hồng. *[65]
c.
Chữ Việt Sách Lạc 粤
Hãnh
diện về Sách Lạc, hãnh diện với trình độ văn minh và văn hóa tiên tiến, để
lưu truyền cho con cháu những bài học ngàn đời, dân Việt Lạc Sông Hồng đã dùng
hình ‘Rùa Thần mang Sách Lạc’ làm biểu hiệu của mình.
Từ đó ‘Sách Lạc trên lưng Rùa Thần’ trở thành chữ ‘Việt’ 粤 của Việt Thượng, chữ ‘Việt Sách
Lạc’. *[66]
Chữ Việt 粤 Sách
Lạc gồm : Hình Rùa
- Vì Rùa thần chỉ có ở vùng Sông Hồng Sông Mạ, Sách
Lạc là của Dân Việt Lạc Sông Hồng. *[67]
3.4. Chư hầu của Đại Vũ
Theo sách vở Trung Hoa, sáng tác sau Đại Vũ hơn 1.000 năm,
Đại Vũ có hàng vạn chư hầu, và nhiều lần hội họp. Vào thời đó, tuy là có nhiều
bộ tộc nhỏ trong vùng, nhưng cũng không quá số hàng trăm.
Dầu Đại
Vũ nổi tiếng, cũng không thể có uy danh và phương tiện lôi cuốn sự thần phục và
tụ tập của hàng vạn thủ lãnh từ các vùng xa xôi hẻo lánh.
Thời
Đại Vũ, cách đây hơn 4.000 năm, giao thông trong vùng chưa phát triển, phương
tiện truyền thông còn sơ khai.
Đây chỉ là hoang tưởng tuyên truyền của chủ thuyết Thiên Tử
Thế Thiên, chủ trương thiên hạ đều phải tùng phục vua chúa Trung Hoa. Chủ thuyết
nầy thịnh hành từ thời Nhà Hán, sau năm 2673 tH, 206 ttl.
Họ dụng
tâm trình diễn Đại Vũ, mà họ đánh tráo thành người Hoa, như một vị Thần Linh
cao cả xuất hiện giữa không trung, và mọi lãnh tụ dưới bầu trời, đều phải thần
phục, tôn sùng.
3.5. Đại Vũ cai trị vùng Nam
Sông Hoài
Thiên
Vũ Cống của Kinh Thư có danh sách các phẩm vật của 9 châu triều cống cho Đại
Vũ. Cống phẩm có ngà voi, đồ bằng tre, thẻ tre để viết sách, tơ tằm dệt lụa, đá
làm khánh, đá làm mũi tên...
Tất cả
cống phẩm dâng Đại Vũ đều là sản phẩm miền nắng ấm sông hồ, đều từ vùng nông
nghiệp lúa nước, ở phía Nam Sông Hoài. Khánh và mũi tên bằng đá cũng là di vật
cổ xưa của miền Nam.
3.6. Đại Vũ sống và chết ở vùng
Dương Tử
Đại Vũ
chết và được chôn tại Cối Kê, nay là Tô Châu, gần Thượng Hải, cửa biển của sông
Dương Tử.
- Đại
Vũ đã theo Sách Lạc của Việt Thượng phương Nam mà trị thủy, khai phá ruộng đất,
hệ thống hóa vạn vật, và thi hành chính sách cai trị. Khi làm quan, Đại Vũ trị thủy vùng ngập
nước, tại Việt Hạ, vùng hạ lưu Dương Tử.
- Khi làm vua, Đại Vũ cai trị vùng đất của dân trồng lúa nước
Đồng Đình và Dương Tử.
- Khi chết, Đại Vũ được chôn tại phía Nam sông Dương Tử.
Trọn cuộc đời của Đại Vũ chỉ ở vùng Dương Tử và phương Nam.
Đại Vũ không hề ở vùng Hoàng Hà.
Đại Vũ, 809 tH, 2070 ttl, đã sống ở vùng sông nước lầy lội từ
hơn 1000 năm trước khi dân du mục tây Hoàng Hà tụ tập và thành hình Tộc Hoa,
1833 tH, 1046 ttl. Vì vậy, Đại Vũ cũng không thể là Tổ của Tộc Hoa. *[68]
4.
NHÀ HẠ Ở VIỆT HẠ
4.1.
Đất Hạ trong sách vở Trung Hoa
a. Nước Sở, Nước Việt
Theo
sách vở Trung Hoa, năm 1849 tH, 1030 ttl, ‘Thiên tử Nhà Chu’ thành lập nước Sở
ở vùng đất giữa Sông Hoài và Dương Tử (nay là Hồ Bắc, An Huy), và cho vua Nước
Sở được thờ kính tổ tiên là Nhà Hạ.
Cũng
theo sách vở Trung Hoa về thời Chu, vùng Nam Dương Tử có Nước Việt ở Chiết
Giang, Giang Tô, từ 2383 tH, 496 ttl. Cũng như vua nước Sở, vua Nước Việt cũng
được thờ kính tổ tiên là Nhà Hạ.
Nước Sở
và Nước Việt đã là những nước rộng lớn, đông đúc, và có thời đã cường thịnh nhất
trong vùng. Sở Trang Vương và Việt Câu Tiển là 2 trong Ngũ Bá thời Xuân Thu,
2109-2476 tH, 770-403 ttl.
b.
Dân Hạ Việt Hạ
Tộc
Hoa luôn cưỡng định, và hiện nay đang cố gắng giải thích xuyên tạc các di chỉ
khảo cổ, để chứng minh Đại Vũ, người sáng lập Nhà Hạ, và Nhà Hạ, Đất Hạ, đều ở
vùng Hoàng Hà, và là thủy tổ tộc Hoa.
Thực
ra, ‘cho phép vua Nước Sở và vua Nước Việt được thờ kính Tổ tiên là Nhà Hạ’ chỉ
là cách nói trịch thượng của Trung Hoa khi phải ghi nhận dân Nước Sở và dân Nước
Việt đều là dân Nhà Hạ, đất Nước Sở và đất Nước Việt cũng đều là đất Nhà Hạ.
Sách vở Trung Hoa nhấn mạnh là Con
Cháu Nhà Hạ ở Nước Sở và Nước Việt đều có những phong tục quái dị, có tiếng
nói, phục sức, nhạc cụ, và tính khí, hình dạng khác hẳn dân Hoa. *[69]
Hơn nữa,
Đất Nước Sở và Đất Nước Việt đều ở 2 bên
sông Dương Tử, ở phía nam đường ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, chứ họ
không ở vùng phát xuất tộc Hoa ở phía bắc. *[70]
Đại Vũ, dân Nhà Hạ, đất Nhà Hạ, đều là Việt, tự xưng là
Nước Việt, đều ở vùng Việt Hạ của Tộc Việt, 2 bên bờ hạ lưu sông Dương Tử phì
nhiêu nắng ấm. Ngày nay là các tỉnh Hồ Bắc, An Huy, Chiết Giang, và Giang Tô.
Họ đã
đông đúc cường thịnh từ hơn 1.000 năm trước khi bộ tộc Chu tụ tập các bộ lạc du
mục vùng Thiểm Tây khô cằn giá lạnh, để thành hình tộc Hoa, năm 1833 tH, 1046
ttl.
c. Thủ đô Cối Kê
Cối Kê
ở Chiết Giang, nay là Tô Châu, sách vở Trung Hoa coi là nơi Đại Vũ sáng lập
Nhà Hạ, tụ họp chư hầu. Cối Kê còn ngôi mộ của Đại Vũ. Tần Thủy Hoàng và vua chúa thời sau đều tới Cối Kê cúng tế trọng thể mộ của Đại
Vũ.
Dầu
sách vở Trung Hoa đã chuyển tất cả truyền thuyết Việt lên vùng Hoàng Hà, vào
thời Câu Tiển, v. 2383-2414 tH, 496-465 ttl, Cối Kê được sách vở Trung Hoa
ghi nhận là thủ đô của Nước Việt hùng mạnh nhất đương thời.
Từ Đại
Vũ, 809 tH, 2070 ttl, tới 2414 tH, 465 ttl, và về sau, Cối Kê liên tục là thủ phủ
của Nhà Hạ và Việt Hạ.
- Dầu tộc Hoa gian đoạt và chuyển dời Đại Vũ và Nhà Hạ lên
vùng Hoàng Hà, thì sách vở của họ cũng không thể giấu nhẹm những sự
thật lịch sử.
4.2.
Chữ Hạ 夏
Việt Hạ đã phát triển mạnh nhờ kỹ thuật Trâu kéo
cày.
Nhờ đó, Việt Hạ đã tiến nhanh về kinh tế, về cuộc sống,
cũng như về nhân số. Cũng nhờ đó, hơn 200 năm sau, từ 1079 tH, 1800 ttl, người
Việt Hạ đã có thể vượt lên phía Bắc của đường ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần
Lĩnh.
Biểu hiệu
đương thời của Việt Hạ là hình vẽ con trâu kéo cày. Thời sau, hình vẽ trở thành
chữ Hạ 夏.
Chữ Hạ 夏 gồm :
hình con Trâu, 2 sừng lớn, thân mình, 4 chân,
5.
HẬU HẠ VƯỢT SÔNG HOÀI, 1079 tH, 1800 ttl
Theo
sách vở Trung Hoa, Nhà Hạ kéo dài 470 năm, có 17 đời vua.
Những
di chỉ thuộc thời Hạ ở góc Sông Vị và Hoàng Hà chứng tỏ vào thời cực thịnh, khoảng
từ 1079 tH, 1800 ttl, dân Việt Nhà Hạ đã vượt lên khỏi ranh giới thiên nhiên
Sông Hoài Tần Lĩnh.
Đây là
vùng khảo cổ hiện nay cho là đất Nhà Hạ, thời
Hậu Hạ, là Thời Hùng 2B, 1079-1279 tH, 1800-1600 ttl.
6. CÁC VÙNG ĐẤT VIỆT KHÁC CÙNG VỚI NHÀ HẠ, 809-1279 tH, 2070-1600 ttl
6.1. Tiếp tục phát triển
Ngoài
Nhà Hạ ở Đất Hạ, Tộc Việt còn có những vùng đất khác, đặc biệt với 2 Trung tâm
phát triển lớn, là Trung tâm Đồng Đình, gồm vùng Hồ Đồng Đình Sông Tương, và
Trung tâm Việt Thượng ở Sông Hồng Sông Mạ.
Tất
cả mọi vùng Đất Tộc Việt vẫn tiếp tục phát triển.
Nhưng
vì đã chuyển đổi tất cả quá khứ của Tộc Việt thành của tộc Hoa, và di dời tất cả
tài liệu và truyền thuyết của phương Nam lên vùng Hoàng Hà, sách vở Trung Hoa
không còn gì để nói về đất phương Nam.
6.2. Lạc Hồng trỗi vượt
a. Lạc Hồng phát triển
Truyền
thuyết Rùa Thần Việt Thượng thời Đế Nghiêu, 688 tH, 2191 ttl, chứng tỏ Việt Lạc
ở Sông Hồng, Lạc Hồng, đã phát triển mạnh hơn vùng Đồng Đình. Truyền thuyết
Rùa Thần Sách Lạc thời Đại Vũ 809 tH, 2070 ttl, lại chứng tỏ Việt Lạc đã phồn
thịnh trước Việt Hạ.
Hơn nữa,
kỹ thuật và tri thức của Việt Lạc Sông Hồng cũng tiến mau trong 100 năm giữa Đế
Nghiêu và Đại Vũ. Kinh nghiệm lịch cày cấy của 100 năm trước, trở thành kỹ thuật
trị thủy, đào kinh, đắp đê, khai thông đường núi. Chữ viết ghi chuyện trời đất
trên mu Rùa thời Đế Nghiêu, đã trở thành Sách Lạc với phương thức hệ thống hóa
trời đất và vạn vật thành 9 loại, với chính sách cai trị, hành chánh, phân chia
lãnh thổ...
b. Chữ Hồng Thủy Ngưu 洚
Khoảng
năm 1621 ttH, 4500 ttl, dân Việt tiến về Miền Nam, gặp vùng Mặt Trời
nắng ấm và Trâu, là 2 yếu tố quan trọng của nghề nông lúa nước. Vì
vậy, dân Nam đã vẽ chữ Nam
Phát minh và ảnh hưởng của kỹ thuật
'Trâu kéo cày' quan trọng và đặc biệt đến nổi khi viết chữ Hồng 洚, dân Việt Lạc đã miêu tả Sông Hồng là 'Vùng Sông có
Trâu kéo cày'.
Chữ Hồng 洚 gồm :
Chữ Thuỷ
c. Kỹ thuật Trâu Kéo Cày : Phát
minh của Việt Lạc Sông Hồng
Chữ
Hạ 夏 cũng là hình Trâu kéo cày
Tuy nhiên, hơn 2.400 năm trước khi Đại Vũ khai phá vùng
Việt Hạ, dân Nam đã ghi nhớ Trâu trong chữ Nam
121 năm trước Đại Vũ đã có truyền thuyết Đế Nghiêu
sao chép lại lịch hướng dẫn việc cày cấy từ lưng Rùa Việt Thượng của Sông Hồng,
năm 688 tH, 2191 ttl. *[73]
Hơn 50 năm trước Đại Vũ còn có truyền thuyết voi rừng
giúp Đế Thuấn cày ruộng. *[74]
Như vậy, việc Đại Vũ học Sách Lạc của Việt Lạc
Sông Hồng về cách trị thủy, về chính sách cai trị, về hệ thống hóa
vạn vật, cũng hàm ý Đại Vũ đã học kỹ thuật Trâu kéo cày.
6.3. Văn minh và Văn hóa Toàn
Vùng do Sông Hồng
Việc
sách vở Trung Hoa nhiều lần xưng tụng Rùa Thần và Sách Lạc đến từ Việt Thượng,
đã chứng tỏ ít nhất cách đây 2-3.000 năm, thời các sách vở Trung Hoa được
sáng tác, mọi người đều công nhận Sách Lạc là biểu tượng của văn minh và văn
hóa toàn vùng, và là tuyệt tác của dân Sông Hồng.
Sự
khâm phục nầy đã khiến giới thống trị Trung Hoa tiếm nhận tất cả tiền sử của Tộc
Việt thành tiền sử của tộc Hoa, di dời tất cả lên vùng Hoàng Hà. Thời Bắc thuộc, 2922-3785 tH, 43-906
dl, giới thống trị Trung Hoa đã tận lực cướp phá và hủy hoại mọi di tích văn
minh, văn hóa của Lạc Hồng.
VI. TỘC VIỆT THỜI HÙNG 3, 1279-1833 tH, 1600-1046 ttl
TỘC VIỆT VÀ
NHÀ THƯƠNG
1. THỜI HÙNG 3 VÀ NHÀ THƯƠNG
1.1. Sách vở Trung Hoa.
Cũng
như đối với các Thời trước, ở Thời Hùng 3, sách vở Trung Hoa chỉ chú trọng tới
Nhà Thương và đánh lận rằng khi dân vùng Bắc Sông Hoài lập ra Nhà Thương, họ đã
thống trị toàn thể thiên hạ.
Theo
khảo cứu hiện nay, thời kỳ đầu, đất Nhà
Thương ở trong phần đất phía Bắc Sông
Hoài, hạ lưu Hoàng Hà.
Chỉ từ
thời Hậu Thương, gọi là Ân, từ 1579 tH, 1300 ttl, đất Nhà Thương mới lấn qua bờ
phía Nam sông Hoài.
1.2.
Tính Lịch sử
Theo
khảo cứu hiện nay, chỉ từ thời Hậu Thương, từ 1579 tH, 1300 ttl, mới được coi
là có chứng cứ lịch sử.
Sách
vở Trung Hoa và khảo cổ hiện nay, chỉ chú trọng
vùng đất thuộc Nhà Thương ở thời cường thịnh nhất.
Trung
Hoa không phân định rõ ranh giới giữa vùng đất của Nhà Thương với các vùng
chung quanh. Tất cả đều coi là chư hầu của Nhà Thương. Đối với Trung Hoa, dầu trái với lịch sử và thực tế, tất cả
quyền hành, tất cả những gì hay tốt, đều thuộc về tộc Hoa, đều ở vùng Hoàng Hà,
sông Vị.
1.3.
Nhà Thương
a. Sách vở Trung Hoa
Năm
1279 tH, 1600 ttl, Thành Thang liên kết các bộ lạc ở hạ lưu Hoàng Hà và chiếm
vùng đất ở phía Bắc Sông Hoài. Thành Thang đóng đô tại đất Bạc, huyện Thương
Khâu, Hà Nam ngày nay. Nhà Thương dài 554 năm, 30 đời
vua, 2 thời kỳ : Tiền Thương, 1279-1579 tH, 1600-1300 ttl, và Hậu Thương, gọi
là Ân, 1579 -1833 tH, 1300-1046 ttl.
b. Nhà Thương với tộc Hoa
Mấy
ngàn năm qua, Trung Hoa luôn đánh lận là Nhà Thương cũng là tiền sử của Trung
Hoa, và đã thống trị thiên hạ. Nhưng mọi sách vở Trung Hoa đều ghi Thành
Thang, người sáng lập Nhà Thương, là người Đông di.
Đông
di là 1 trong 'tứ di', 4 ngoại tộc lạc hậu quanh Trung Hoa. Với người Hoa, Nhà
Thương chỉ là dân ngoại tộc sơ khai lạc hậu ở phía Đông. Sự thực, Nhà Thương là
dân ở phía Đông, còn tộc Hoa thành hình từ 1 số bộ lạc du mục vùng Thiểm Tây
khô cằn ở phía Tây. *[75]
1.4. Dân Việt và Cư Dân
Vào thời
Hậu Hạ, trước Nhà Thương 200 năm, dân Việt Hạ đã từ phương Nam vượt lên sống
vùng Bắc Sông Hoài, nay khảo cổ coi là đất Nhà Hạ. *[76]
Từ đó,
dân Việt và các bộ tộc cư dân trong vùng đã cùng nhau phát triển.
Với kỹ
thuật canh tác mới của dân phương Nam, với nhân số tăng triển nhanh, với nếp sống
sung túc hơn, thích hợp hơn, sau 200 năm, Thành Thang đã tụ tập các bộ tộc
trong vùng để cùng thành lập Nhà Thương.
Đang
khi đó, các bộ tộc du mục vùng phía Tây, nay là Thiểm Tây, vẫn còn rời rạc, nhỏ
yếu, lạc hậu. Hơn 550 năm sau, bộ tộc Chu mới tụ tập họ lại, lập ra Nhà Chu, và
hình thành tộc Hoa.
2.
VÙNG DƯƠNG TỬ và VIỆT LẠC THỜI HÙNG 3A, 1279-1579 tH, 1600-1300 ttl
2.1.
Tiếp tục phát triển
Thời
Nhà Thương thành hình ở Bắc Sông Hoài, toàn vùng đất Tộc Việt phía Nam Sông
Hoài vẫn yên lành tiếp tục phát triển về mọi mặt, và tiến bộ hơn Nhà Thương. Đất
Tộc Việt gồm 2 vùng lớn là vùng Đất Nhà Hạ ở 2 bên bờ hạ lưu sông Dương Tử, và
vùng Đất Việt Lạc ở Đồng Đình và Việt Thượng.
2.2.
Đất Hạ cường thịnh
a. Nước Sở, nước Việt
Tài liệu
về thời Chu, 1833-2623 tH, 1046-256 ttl, ghi nhận sự phát triển liên tục của
vùng Việt Hạ, từ thời Hạ, qua thời Thương, tới thời Chu. Năm 1849 tH, 1030 ttl, thiên tử Nhà Chu
cho dòng dõi Nhà Hạ thành lập nước Sở ở Bắc Dương Tử. Chỉ sau thời gian ngắn, Sở
trở thành hùng cường nhất, chiếm cứ vùng rộng lớn nhất đương thời.
Theo
sách vở Trung Hoa về thời Chu, vùng Chiết Giang, ở Nam Dương Tử, có nước Việt.
Năm 2406 tH, 473 ttl, sau khi diệt nước Ngô, nước Việt thần phục thiên tử Nhà
Chu và hùng cường nhất. Thủ đô của nước Việt là Cối Kê là thủ phủ của Đại Vũ, vị
sáng lập Nhà Hạ, từ hơn 1500 năm trước. *[77]
Nếu loại
bỏ sự gán ghép trơ trẻn với thiên tử Nhà Chu, nước Sở ở Bắc Dương Tử và nước Việt
ở Nam Dương Tử là những tộc dân liên tục tiếp nối từ Nhà Hạ, qua hơn 1000 năm
trước khi Nhà Chu được thành lập.
Sở và
Việt đã và đang trỗi vượt hơn Chu về rộng lớn, đông đúc, hùng mạnh, văn minh,
văn hóa..., tiếp tục phát triển trên vùng đất của Tổ Tiên Việt Hạ.
b. Đồ đồng Dương Tử
Thời đồ
đồng Á Đông khởi phát từ khoảng năm 2000 ttl. Theo khảo cổ, vào Thời Hùng 3A,
1279-1579 tH, 1600-1300 ttl, dân Việt vùng Đồng Đình và Dương Tử đã phát triển
ngành đúc đỉnh đồng, vạc đồng, và chuông đồng.
Hoa văn trang trí trên đồ đồng Dương Tử là những phụng long cách
điệu. Trên các đỉnh đồng có nhiều chữ ghi nhớ lý do đúc đỉnh và việc thờ kính
Tổ Tiên. Phụng, long, và thờ kính Tổ Tiên là những đặc điểm của Tộc Việt.
Các di chỉ Tân Can ở Giang Tây và Bàng Long Thành ở Hồ
Bắc, thuộc 2 bên bờ Dương Tử, là những nơi có nhiều đồ đồng được phát hiện nhất. *[78]
2.3. Việt Lạc Độc lập và
Phát triển
Trong
300 năm Thời Hùng 3A, 1279-1579 tH, 1600-1300 ttl, vùng đất mênh mông còn lại của
Tộc Việt, đặc biệt các vùng Đồng Đình, Việt Thượng, và Sông Hồng của Việt
Lạc, không bị ảnh hưởng Nhà Thương, mà ngược lại, còn tiếp tục phát triển vượt
bực về nhiều phương diện.
3.
THỜI HÙNG 3B và NHÀ ÂN, 1579-1833 tH, 1300-1046 ttl
3.1. Nhà Ân
Năm 1579 tH, 1300 ttl, Bàn Canh dời đô từ Trịnh Châu về An
Dương đất Ân, gọi là Nhà Ân, hoặc Nhà Hậu Thương.
Du mục
trọng vũ lực giúp Nhà Thương thêm hùng mạnh, bắt đầu xâm lấn các vùng Tộc Việt ở nam Sông Hoài.
Theo ranh giới Nhà Thương của khảo cổ hiện nay, họ đã chiếm
đóng một phần vùng phía Nam sông Hoài.
Tuy
quân Ân đã thất bại sau các cuộc xâm lăng ngắn, nhưng đủ thời gian để chúng cướp
phá tài sản trong vùng.
3.2.
Ân Cao Tôn xâm lăng Việt Lạc - Truyền kỳ Phù Đổng
a. Phù Đổng và Ân Cao Tôn
Theo
sách vở Trung Hoa, năm 1661 tH, 1218 ttl, Ân Cao Tôn đã đánh Quỉ Phương, vùng
Đồng Đình. Ông đóng quân tại đất Kinh, tả ngạn Dương Tử, gần Hồ Đồng Đình. Sau
3 năm, Ân Cao Tôn không thắng. *[79]
Theo
Truyền kỳ Phù Đổng của Việt Lạc, Ân Cao Tôn đã xâm lấn Việt Lạc 3 năm và đã bị
đánh bại. *[80]
b.
Việt Lạc năm 1661 tH, 1218 ttl
3.200
năm trước, dân Việt Lạc là quốc gia vững mạnh ở vùng Đồng Đình, đã tổ chức chặt
chẽ, có vua quan, có làng xã, có cúng tế, có lúa gạo, có vải áo, có lũy tre, đã
đúc đồ sắt, đã có tinh thần dân tộc cao, và theo sách vở Trung Hoa, đã chiến
thắng giặc Ân vào thời chúng hùng mạnh nhất. *[81]
c. Việt Lạc và Đồng Đình
Trước
khi Ân Cao Tôn xâm lấn, không có dấu vết về thời gian vùng Đồng Đình
trở thành đất Việt Lạc. Tuy nhiên, sự kiện Việt Lạc đánh bại Ân Cao
Tôn chứng tỏ Việt Lạc ở vùng Đồng Đình đã vững chãi và hùng mạnh.
Như
vậy, có thể vùng Đồng Đình đã thuộc về Việt Lạc ít nhất là hơn 80
năm trước, tức khoảng năm 1579 tH, 1300 ttl. Biến động nầy đã làm cho
Bàn Canh phải dời đô từ Trịnh Châu lên An Dương, ở xa hơn về phía Bắc.
4.
VẤN ĐỀ DI VẬT THỜI ÂN
4.1. Di Vật tại cố đô An Dương
a. Đồ đồng và Chữ Viết
Hai di
sản hiện thực quan trọng của thời xưa là đồ đồng và chữ viết.
Đồ đồng
thời Thương, 1279-1833 tH, 1600-1046 ttl, đã được phát hiện nhiều nhất ở các di
chỉ Tân Can, Bàng Long Thành, thuộc 2 bên bờ Sông Dương Tử, ở Trịnh Châu
thuộc Hà Nam, và ở cố đô An Dương. *[82]
Đã
phát hiện hàng ngàn đỉnh đồng, vạc đồng tinh xảo... tại cố đô An Dương của Nhà
Ân. Ở vùng nầy, hiện nay cũng đã phát hiện hơn một trăm ngàn mảnh xương có khắc
chữ. Tổng số chữ trên các mảnh xương nầy lên tới khoảng 5000, trong đó có hơn
3000 chữ đã chuẩn xác, đã có hệ thống. *[83]
Tuy
nhiên, tại An Dương không có dấu vết giai đoạn sơ khai của kỹ nghệ đúc đồng. An
Dương cũng không có dấu vết của chữ viết thời sơ khai. Tất cả đều đột hiện ở An
Dương, từ 1579-1833 tH, 1300-1046 ttl. (hình).
b.
Thành hình Đồ đồng và Chữ viết
Thời
xưa, kỹ nghệ luyện kim và đúc đồ đồng phải mấy trăm năm mới có thể tiến từ
giai đoạn sơ khai tới giai đoạn tinh vi như đồ đồng Thời Thương.
Về chữ
viết, loại chữ phát xuất từ hình vẽ cũng phải mất thời gian dài để từ một vài
hình vẽ sơ khai, tới chỗ ghi nhận, biến cải, hoán chuyển, gia giảm hàm ý trừu
tượng... Vì vậy, cũng cần nhiều trăm năm để thành hình một hệ thống hơn 3000
chữ chuẩn xác, được mọi người cùng theo.
c. Cướp về từ phương Nam
Báu vật
bằng đồng và chữ viết đột hiện ở An Dương nêu lên nhiều vấn đề :
1. Việc
đột nhiên xuất hiện hàng ngàn đồ đồng tinh xảo, và hàng vạn mảnh xương ghi hơn
3.000 chữ chuẩn xác, đã xảy ra cùng lúc Nhà Ân xâm lấn và cướp phá vùng đất Tộc
Việt phương Nam, năm 1661 tH, 1218 ttl.
2. Trước
Nhà Ân 1.500 năm, Tộc Việt đã phát triển đông và trỗi vượt nghề trồng lúa nước,
đánh cá, và ghe thuyền, ở vùng Đồng Đình và Dương Tử.
3. Trước
Nhà Ân hơn 800 năm, thời Đế Nghiêu, dân Việt Lạc ở Sông Hồng Việt Thượng đã có
chữ viết, và đã truyền cho vùng Đồng Đình.
4. Trước
Nhà Ân 700 năm, vùng Việt Hạ, Đồng Đình và Sông Hồng đã vào thời kỳ đồ đồng. *[84]
5. Trước
khi bị Nhà Ân xâm phạm, vùng Dương Tử đã sản xuất nhiều đỉnh và vạc đồng tinh
xảo. Dân Việt miền Nam đã có di chỉ Đông Sơn.
6. Thời
Tiền Thương, 1279-1579 tH, 1600-1300 ttl, trước khi An Dương thành thủ đô, vùng
đất Nhà Thương, ở Bắc Sông Hoài, không có dấu vết của kỹ nghệ đồ đồng tinh xảo,
và không có dấu vết của loại chữ
viết sơ khai.
7. Như
vậy, cố đô An Dương chỉ là nơi chất chứa chiến lợi phẩm từ phương Nam. Những
báu vật đó không chứng tỏ trình độ kỹ thuật, văn minh, văn hóa của vùng đất
Hoàng Hà.
4.2. Di Tích Văn Minh và Văn
Hóa Việt
a. 3.000 năm Trung Hoa tiếm đoạt
Những phát hiện ở An Dương đánh tan hệ thống Trung Hoa tuyên truyền xảo
quyệt suốt 3.000 năm qua và hiện nay.
Kỹ thuật và tuyệt tác đồ đồng mà Trung Hoa đang huyênh
hoang, đều là do tiếm đoạt từ Dân Việt. Những Chữ khắc ghi trên Thạp Đào
Thịnh và Trống Ngọc Lũ thời đồ đồng Đông Sơn tuyệt kỹ là chứng cứ
hiển nhiên của hệ thống Chữ Viết và Tư tưởng Việt từ hơn 3.000 năm
trước. Toàn bộ chữ Hán hiện nay có nguồn gốc
Việt, với hơn 3.000 chữ đã chuẩn xác từ hơn 200 năm trước khi tộc Hoa thành
hình.
Cùng với việc kiện toàn hệ thống hơn 3000 chữ viết hoàn chỉnh,
Tộc Việt, đặc biệt vùng Việt Lạc Sông Hồng, chắc chắn đã có nhiều tác phẩm văn
học và tri thức đáng kể. Chính những tác phẩm nầy cũng đã góp phần hệ thống hóa
và phát triển chữ viết. Nhưng tất cả đều bị Trung Hoa tiếm đoạt.
b.
Nghiên cứu Tác phẩm Việt
Việc khảo cứu hàng ngàn chữ Việt nguyên thủy, cùng với việc
tìm hiểu và so sánh những tác phẩm cổ xưa, sẽ là nguồn phát hiện dồi dào của
nhiều chứng tích lịch sử đích thực của Tộc Việt, về mọi phương diện. *[85]
Tìm hiểu tuyệt tác đồ đồng, đặc biệt Thạp và Trống Đông Sơn,
sẽ là những đóng góp và chứng cứ không thể thiếu cho việc xác định nguồn gốc của
các tác phẩm kỹ thuật, mỹ thuật, văn học, lịch sử, văn hóa, và tri thức của thời
kỳ trước khi nhóm dân du mục vùng Thiểm Tây thành hình Tộc Hoa. *[86]
4.3. Thực Trạng các Thủ Đô Trung
Hoa
a.
Do cướp đoạt
Thủ đô An Dương, và các thủ đô khác của Trung Hoa, chất chứa
nhiều tuyệt tác, không phải do tài trí và trình độ của dân Hoa Hán. Đó là do cướp
đoạt.
Trung Hoa cướp đoạt trong các cuộc xâm lăng, và do chính
sách trường kỳ của chế độ triều cống, trong suốt lịch sử Trung Hoa. Cống phẩm
là những sản phẩm quí giá nhất, và những nhân tài, những thợ lành nghề nhất. *[87]
b.
Dấu chứng Văn minh Việt
Đã không ngừng cướp đoạt tài vật quí hiếm, thì lạ gì thủ đô
chất chứa nhiều phẩm vật tinh xảo, thượng hạng. Đã không ngừng lùng bắt thợ giỏi,
cướp đoạt tri thức và tài khéo, thì thủ đô phải lập những cơ sở thích đáng cho
các kỳ tài dùng, thì thủ đô có cơ xưởng và chứa nhiều tác phẩm tuyệt trần.
Tuy nhiên, tất cả đều không phải là dấu chứng tài trí của
dân thủ đô, càng không phải của người tộc Hoa du mục sơ khai lạc hậu, chỉ trọng
bạo lực. Trái lại, đó là chứng cứ cho
trình độ văn minh tiên tiến của Tộc Việt, và các dân tộc mà Trung Hoa áp đặt định
kiến là man di mọi rợ, cần được khai hóa.
5. VIỆT LẠC THỜI HÙNG 3B,
1579-1833 tH, 1300-1046 ttl
5.1.
Nền Văn hóa kiện toàn
Vào Thời Hùng 3B, Việt Lạc đã kiện toàn một nếp sống đem lại
thịnh vượng, thanh bình, hạnh phúc đích thực.
Nền Văn hóa nầy phổ biến rộng rãi trong toàn dân, và được
lưu truyền qua hàng trăm đời. Tất cả đều được truyền lại qua nếp sống từng
ngày, thuần phong mỹ tục, các định chế, tục ngữ ca dao, nhất là bằng lời truyền
dạy, các Truyền kỳ, truyện tích hàm chứa biểu tượng trong từng câu, từng chữ.
Nhờ vậy, đồng thời với nếp sống đại chúng, ngày nay chúng ta
còn có được Bộ Truyền Kỳ Tộc Việt, gồm tóm toàn bộ những kinh nghiệm Làm Người,
những nguyên tắc sống, và tâm huyết của Tổ Tiên. *[88]
5.2. Thạp và Trống Đông Sơn
a.
Tuyệt kỹ Việt Lạc
Nghề đồng
của Việt Lạc Sông Hồng phát triển đồng thời với đồ đồng Việt Hạ ở Dương Tử. Nhưng khi dân Việt Dương Tử có những vạc, đỉnh,
chuông đồng tinh vi, thì Việt Lạc
Sông Hồng xuất sắc trong việc đúc trống đồng.
Vào cuối thời Hùng 3B, hơn 3000 năm trước, trung tâm sản
xuất đồ đồng Đông Sơn, ở Thanh Hóa, đã phát minh cách pha chế đồng thau đặc biệt
và đúc nhiều thạp và trống đồng tuyệt kỹ. Kỹ thuật luyện kim và đúc trống đồng
cần tinh tế hơn, để tạo tiếng trống trầm hùng và vang vọng.
Thạp
và trống Đông Sơn không chỉ đặc biệt ở hợp chất, ở tiếng vang, mà còn độc đáo ở
hình dạng và ở cách trang trí.
b. Kho tàng Văn hóa
Tuyệt
diệu hơn, qua hoa văn và hình dạng độc đáo của Thạp và Trống Đông Sơn, Tổ Tiên
Việt Lạc Sông Hồng đã mã hóa toàn bộ những ý niệm và học thuyết đã khởi phát từ
trước thời Đế Nghiêu, cách đây hơn 4.200 năm.
Nhờ
đó, sau hơn 3.000 năm, ngày nay chúng ta còn có những Thạp và Trống hàm chứa những
bảo chứng của Học thuyết Việt cổ đại, hoàn thiện trước Tộc Hoa thành hình. *[89]
5.3. Trống đồng Việt Lạc
Cho đến
hiện nay, sau hàng ngàn năm bị Trung Hoa cướp phá, vùng đất Việt Lạc, - nay
gồm Việt Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Quí Châu, Hải Nam và 1 phần Tứ
Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến - vẫn là vùng còn nhiều trống đồng cổ xưa.
Ở Việt
Nam, cho đến năm 1980, số trống đồng cổ tìm được là 360 trống, trong đó có 140
trống thuộc loại Đông Sơn. Từ đó tới nay, đã phát hiện thêm nhiều trống
đồng khác.
Theo Trung Quốc Cổ đại
Đồng Cổ Nghiên cứu Hội, năm 1988, Trung Quốc đã tìm được 1.460 trống đồng cổ
ở Quảng Tây 560 trống, Quảng Đông 230, Vân Nam 160, Quí Châu 88, Tứ Xuyên 51,
Hồ Nam 27, Hồ Bắc 6, Chiết Giang 6, Sơn Đông 8, Liêu Ninh 4, Thượng Hải 230, Bắc
Kinh 84. *[91]
5.4.
Chữ Việt Đồ Đồng 鉞
Ý thức
kỳ diệu trong nghệ thuật đúc đồng, nhất là ghi nhớ công trình tác tạo và ký
thác các học thuyết tuyệt vời vào Thạp
và Trống, Tổ tiên Lạc Hồng đã tạo thêm 1 chữ
‘Việt’ mới, xứng với tâm huyết và niềm hãnh diện của mình.
Thay chữ Việt 越 hình
Thủ Lãnh
5.5.
Gia sản Tổ Tiên
Suốt mấy
ngàn năm qua, Tổ Tiên Việt Lạc Sông Hồng, còn để lại biết bao sản nghiệp, di vật,
tài liệu và tác phẩm quý giá ở mọi phương diện.
Tiếc
thay, trong thời Trung Hoa xâm lấn và hơn 800 năm Bắc thuộc, tất cả đã bị người
Trung Hoa soán đoạt, xuyên tạc, khỏa lấp hoặc hủy hoại.
Dầu
qua những soán đoạt, xuyên tạc, khỏa lấp đó, nhiều di sản của Tổ Tiên vẫn kiên
trì tồn tại, đang chờ đợi chúng ta khám phá, thu thập, và trân quý.
6. VẤN ĐỀ VIỆT
LẠC và ĐỒNG ĐÌNH
6.1. Tên Lạc
a.
Chữ LẠC Rùa Thần
Trên
đường Nam tiến, khoảng năm 1.121 ttH, 4.000 ttl, Tổ Tiên tới Sông Hồng,
gặp nhiều Rùa Thần khổng lồ. Các Ngài vui sướng, hãnh diện, tin
tưởng vào tương lai, đã lấy hình Rùa Thần làm Biểu Hiệu và tên Lạc
để lưu truyền Niềm Vui Sướng về Tương Lai huy hoàng của Dòng Tộc. Nhóm
Việt vùng Sông Hồng tự xưng là Lạc, Việt Lạc, với chữ Lạc Rùa Thần
Chữ Lạc là hình Rùa Thần, Đầu, Mu hình chữ
nhật, 4 chân ngắn và to. Mu
Rùa hình chữ Nhật phân biệt với thân mình thon dài của các loài 4
chân khác. Rùa có 4 chân to và ngắn, các loài 4 chân khác chân nhỏ và
dài. *[93]
b. Việt Thượng, Rùa Thần, và
Sách Lạc
Sách
vở Trung Hoa ghi vào khoảng đầu Thời Hùng, 2879 ttl, Phục Hy đã được Rùa
Thần ở Lạc Hà cho đồ biểu Âm Dương. Nhờ đó, ông tính ra Tám Quẻ tiên thiên. *[94]
Gần
700 năm sau, năm Đế Nghiêu thứ 5, 688 tH, 2191 ttl, Đế Nghiêu cũng được sứ giả
vùng Sông Hồng của Việt Thượng dâng Rùa Thần, trên lưng Rùa có chữ viết, có lịch.
*[95]
Cũng
theo sách vở Trung Hoa, Đại Vũ, 809 tH, 2070 ttl, cũng được Rùa Thần cho Sách
Lạc. *[96]
Thời
khai sáng Nhà Chu, 1833 tH, 1046 ttl, Chu Văn Vương cũng học Sách Lạc, viết
Kinh Dịch. Con ông là Chu Công Đán lại tiếp sứ giả Việt Thượng, và viết Chu Lễ.
*[97]
Theo
sách vở Trung Hoa, từ Phục Hy, Đế Nghiêu, Đại Vũ, Chu Văn Vương, Chu Công
Đán, truyền thuyết về Âm Dương, Kinh Dịch, đều đi chung với Rùa Thần, đồ biểu,
chữ viết trên lưng Rùa, với Sách Lạc,
và với Việt Thượng.
Chữ Việt Sách Lạc 粤 là chứng cứ Tổ Tiên Việt Lạc khôn thiêng đã dùng hình ‘Rùa
Thần mang Sách Lạc’ ghi lại danh xưng và dấu ấn của riêng mình.
Hình Rùa
c.
Dân Lạc
Với chữ Lạc Rùa Thần
Vậy đến
hiện nay, toàn dân vùng Việt Thượng đang mang tên Việt Sách Lạc 粤 đều là dân Lạc. *[99]
6.2.
Ảnh Hưởng của Dân Lạc
1. Với
truyền thuyết Phục Hy gặp Rùa Thần, ảnh hưởng của dân Lạc đã xuất hiện ở Đồng
Đình từ đầu Thời Hùng.
Tuy nhiên, hành trạng Phục Hy có nhiều huyền thoại hơn là
truyền thuyết. Vì vậy, Phục Hy gặp Rùa Thần có thể là do gán ghép của thời sau. *[100]
2. Việc
Đế Nghiêu được Sứ giả Việt Thượng dâng Rùa Thần, năm 688 tH, 2191 ttl, gần với
hiện thực hơn. Điểm hiện thực nhất là đã ghi nhận nguồn gốc Việt Thượng của
Rùa Thần, vì đây là nguồn gốc mà truyền thống tiếm đoạt của Trung Hoa không muốn
nhắc tới.
Ngoài
truyền thuyết của Trung Hoa, chính dân Việt Lạc có truyền thuyết đặc biệt nhắc
nhớ sự kiện nầy. Dân Việt Lạc đã lấy năm 688 tH, 2191 ttl làm cứ điểm đánh dấu
sự trỗi vượt của mình. Từ lâu, mọi người Việt Nam đều hãnh diện ‘Việt
Nam có 4.000 năm văn hiến’, trỗi vượt
về văn học và chính trị. Hiện nay là ‘4.200 năm văn hiến’. *[101]
Ngoài ra, việc ‘Đế Nghiêu chép lại lịch’ cũng chứng tỏ ở thời
điểm nầy, nền Văn minh và Văn hóa Lúa Nước của Dân Lạc Sông Hồng không chỉ
trỗi vượt mà còn ảnh hưởng tới vùng Đồng Đình.
3. Truyền
thuyết Đại Vũ học Sách Lạc mà biết cách trị thủy và trị dân, ghi nhận Dân Lạc
Sông Hồng đã tăng triển mau chóng về kỹ thuật và tri thức, và ảnh hưởng tới
toàn bộ việc phát triển của vùng Việt Hạ.
4. Việc
Chu Văn Vương và Chu Công Đán học Sách Lạc để viết Kinh Dịch và Chu Lễ, lại xác
chứng sự tăng triển liên tục và ảnh hưởng của Dân Lạc Sông Hồng trên Tộc Việt
và trên toàn bộ cơ cấu tổ chức, học thuật, và xã hội của nhóm bộ tộc du mục
thành lập Nhà Chu ở thung lũng Sông Vị.
5. Như
vậy, từ hơn 4.200 năm qua, học thuật và văn hóa của Dân Lạc Sông Hồng đã trỗi
vượt và ảnh hưởng tới toàn bộ lịch sử vùng Á Đông. *[102]
6.3. Dân Lạc và vùng Đồng Đình
a. Thời Đế Nghiêu
Văn minh và văn hóa của Dân Lạc Sông Hồng đã ảnh hưởng tới
vùng Đồng Đình từ đời Đế Nghiêu, 688 tH, 2191 ttl.
Tuy nhiên, từ đó tới thời Ân Cao Tôn, chưa thấy chứng cứ lúc
nào vùng Đồng Đình được kể là đất Lạc.
Lý do thiếu vắng truyền thuyết của thời kỳ nầy là vì tộc Hoa
đã tiếm nhận tất cả quá khứ của Tộc Việt, đã chuyển đổi, di dời tất cả lên vùng
Hoàng Hà.
b. Thời Ân Cao Tôn
Sở dĩ chúng ta có di chứng thời Ân Cao Tôn, là vì Nhà Ân ở
vùng Bắc Sông Hoài, và được sách vở Trung Hoa thời sau ghi nhận như là lịch sử
của họ.
Theo sách vở Trung Hoa, năm 1661 tH, 1218 ttl, Ân Cao Tôn
đem quân đánh chiếm vùng Đồng Đình gần sông Dương Tử. Sau 3 năm, thất bại. *[103]
Việt Lạc có Truyền Kỳ Phù Đổng với đủ chi tiết việc Ân Cao Tôn xâm lấn và bị
Phù Đổng đánh bại. *[104]
Ngoài những chi tiết khác, điều đáng ghi nhận là vào thời kỳ
đó, vùng Đồng Đình đã là đất của Việt Lạc. *[105]
Sự kiện nầy còn được xác chứng bởi những biến cố ở các thời
sau.
c. Thời Tần - Triệu Đà
Năm
2665 tH, 214 ttl, Nhà Tần xâm lăng đất Việt Lạc ở Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng
Đông. Nhưng thất bại. *[106]
Năm
2872 tH, 207 ttl, Triệu Đà chiếm đất nay là Quảng Tây Quảng Đông, đánh Hồ Nam,
Đồng Đình của Việt Lạc.
d.
Thời Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam
Năm
2919 tH, 40 dl, trong mấy tháng, quân khởi nghĩa do Đức Trưng Trắc lãnh đạo, đã
chiếm lại 65 thành. Trong suốt 2000 năm qua, sách vở Trung Hoa đã giảm thiểu
và xuyên tạc chiến công hiển hách nầy.
Hiện
nay đã có khảo cứu về địa bàn hoạt động của quân khởi nghĩa đương thời. Việc khảo
cứu căn cứ trên những dấu vết trong sách vở Trung Hoa, dấu tích tại hiện
trường, và đặc biệt qua nhiều đền thờ, thần tích của các Vị Anh Hùng ở vùng đất
đã xảy ra chiến trận.
Kết quả
xác chứng nghĩa quân Việt Lạc đã chiếm lại toàn đất Việt Lạc, gồm vùng Lĩnh Nam
và Đồng Đình. *[107]
e. Truyện Hồng Bàng
Năm
3414 tH, 535 dl, quan Trung Hoa Lịch Đạo Nguyên đã viết Truyện Hồng Bàng trong
quyển Thủy Kinh Chú.
Dầu
nhiều chi tiết đã bị sửa đổi do mưu đồ đồng hóa dân Việt vào tộc Hoa, Truyện Hồng
Bàng cũng đã ghi nhận bờ cõi của Hùng Vương (Vua Hùng), Việt Lạc, "Đông
giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục, Bắc đến Hồ Đồng Đình, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh
(Chiêm Thành)". *[108]
Như vậy, hơn 600 năm sau khi vùng Đồng Đình bị Nhà Hán tách
ra khỏi đất Việt Lạc, không chỉ người Tộc Việt, mà cả quan lại Trung Hoa cũng
ghi nhận đất Việt Lạc ‘Bắc đến Hồ Đồng Đình’.
*********
VII. VIỆT VÀ HOA THỜI HÙNG 4A, 1833-2108 tH, 1046-771 ttl
1.
VẤN ĐỀ TỘC HOA
1.1. Tộc Hoa
a. Du mục Thiểm Tây
Bộ tộc
Chu khởi phát ở vùng đồng cỏ khô cằn giá lạnh Thiểm Tây, vùng phía Bắc Tần
Lĩnh.
Qua
nhiều đời và nhiều thay đổi chỗ ở, bộ tộc Chu phát triển thành 1 bộ lạc lớn, liên minh với các bộ lạc khác thành 1 tiểu quốc, dời đô về phía đông vùng Sông Vị. Quanh thung lũng Sông Vị là vùng đồng cỏ
khô cằn rộng lớn.
Năm
1833 tH, 1046 ttl, Chu Vũ Vương thành lập Nhà Chu. Nhóm người nầy trở thành tộc
Hoa.
Tộc
Hoa thành hình do bộ tộc Chu tụ tập nhiều nhóm dân du mục, nhờ Nhà Chu mà trở
thành một tộc dân. Tộc
Hoa chỉ là 1 đám du mục sơ khai, bạo
động, chưa có Hệ thống Tư Tưởng,
cả Ngôn từ và Chữ viết đều sơ đẳng.
b.
Nhà Chu. Nhà Chu được chia thành 2 thời kỳ :
Thời
đóng đô tại đất Cảo, gần Tây An, nay là tỉnh
Thiểm Tây gọi là Tây Chu, từ năm 1833-2108
tH, 1046-771 ttl.
Thời kỳ
chạy về Lạc Dương, 2108-2623 tH, 771-256 ttl, gọi là Đông Chu.
c. Nước Tần. Năm
2108 tH, 771 ttl, vùng Sông Vị của Nhà Chu bị nhóm du mục Khuyển Nhung xâm chiếm,
thành lập Nhà Tần. Nhà Chu dời đô về phía đông, gần Lạc Dương. Năm
2623 tH, 256 ttl Tần diệt Chu. Năm 2658 tH, 221 ttl, Tần Doanh Chính thành lập
nước Trung Hoa, và tự xưng là Tần Thủy Hoàng, vua đầu tiên của tộc Hoa. *[109]
d. Thuyết Thiên Tử Thế Thiên
Với
di sản độc tôn độc tài của nền văn hóa gốc du mục, với âm mưu thần
thánh hóa giai cấp thống trị, thời Chu hình thành thuyết 'Thiên tử
thế Thiên hành Đạo', vua là 'con Trời, thay Trời trị dân'.
‘Thiên
tử Nhà Chu’ thành Hoàng đế thống trị và ban phát quyền lực cho mọi sắc tộc, mọi
dân nước khắp thiên hạ.
Trong 3.000 năm qua, tộc Hoa luôn tự tuyên
dương là tộc dân văn minh, tiền tiến, thần thánh, và là tầng lớp thống trị cao
cả đầy ơn ích cho toàn thể mọi tộc dân trong vùng. *[110]
1.2. Những Sự Thực Lịch Sử
1. Sự thực
lịch sử là một nhóm dân du mục lạc hậu ở vùng lạnh giá khô cằn Thiểm Tây đã được
bộ tộc Chu gom góp. Năm 1833 tH, 1046 ttl, họ thành lập Nhà Chu ở thung lũng
Sông Vị. Sau nầy họ được gọi là tộc Hoa.
2. Sự thực
trước tộc Hoa hơn 4.000
năm, Tộc Việt đã khởi nguyên ở vùng Lúa Nước phì nhiêu quanh Hồ Đồng Đình.
3. Trước
tộc Hoa 2000 năm, Tộc Việt đã sinh sống trên khắp vùng Á Đông, từ Sông Hoài Tần
Lĩnh tới Hải Vân. Tộc Việt đã phát triển nền Văn minh và Văn hóa Lúa Nước trỗi
vượt.
4. Trước
tộc Hoa 1100 năm, và 1000 năm, Việt Lạc Sông Hồng đã nhiều lần phổ
biến kiến thức và kỹ thuật tiên tiến lên vùng Đồng Đình và Việt
Hạ. *[111]
5. Trước
tộc Hoa hơn 300 năm, Tộc Việt đã kiện toàn nền Văn hóa nhân bản cao, đã có hệ
thống chữ viết với hơn 5.000 chữ, có 3.000 chữ chuẩn xác,
6. Năm
1046 ttl, dân Hoa thành hình, với nhóm du mục sơ khai, không thể lưu lại
truyền thuyết hoặc tiền sử nào.
7. Gần
như đồng thời với việc thành hình của tộc Hoa du mục ở Thiểm Tây, Việt
Lạc Sông Hồng đã đúc những tuyệt tác bằng đồng và đã ghi lại toàn bộ Hệ thống
Tư Tưởng Á Đông trên Thạp và Trống đồng Đông Sơn.
8. Ngay
lúc nhà Chu được thành lập, đoàn Sứ giả Việt Lạc Sông Hồng đã tới
tận thủ đô Cảo Kinh để phổ biến chính sách cai trị, học thuyết, lễ
nghĩa, học thuật, kể cả la bàn, cho triều đình Chu du mục lạc hậu. *[112]
9. Vào
thời Chu, 1833-2623 tH, 1046-256 ttl, chưa có nước Trung Hoa. Nhà Chu đã chỉ là
một nước nhỏ trong một vùng có nhiều nước rộng lớn, đông đúc, và cường thịnh
hơn.
10. Thời
Tây Chu, 1833-2108 tH, 1046-771 ttl, nước hùng mạnh nhất trong vùng là Nước Sở,
dân Việt, ở vùng đất giữa Sông Dương Tử và Sông Hoài.
11. Năm
2108 tH, 771 ttl, triều Chu bị nhóm du mục Khuyển Nhung đuổi khỏi vùng thung
lũng Sông Vị, và trở thành Đông Chu. Vùng Sông Vị bị Khuyển Nhung chiếm cứ và
trở thành Tần. Tần dần dần trở thành hùng mạnh. Năm 2623 tH, 256 ttl, Tần diệt
Chu.
12. Tổ
tiên gần của tộc Hoa là nhóm du mục Khuyển Nhung nhà Tần, 2108 tH, 771
ttl. Chúng sơ khai, lạc hậu và tham tàn hơn nhóm nhà Chu. *[113]
13. Năm
2658 tH, 221 ttl, bắt đầu có nước Trung Hoa, khi Tần Doanh Chính thôn tính toàn
vùng Trung Nguyên. Doanh Chính đã ý thức rõ ràng sự thực nầy, nên tự xưng là Thủy
Hoàng, Vua Đầu Tiên của Trung Hoa.
14. Năm
2672 tH, 207 ttl, phần đất Quảng Tây và Quảng Đông của Việt Lạc bị Triệu Đà
chiếm đóng. Đây là tiếp xúc đầu tiên của Việt Lạc với Trung Hoa. Nhưng Triệu Đà
lại tự sửa đổi theo phong hóa Việt. *[114]
15. Những
oai phong và quyền thế của ‘thiên tử Nhà Chu’ chỉ có trong sách vở của giới
thống trị Trung Hoa. Cắt bỏ các thêm
thắt gượng ép về vai trò của thiên tử Nhà Chu, và của tộc Hoa, lịch sử sẽ rõ
nét và trung thực hơn.
2. THỜI HÙNG 4A và TÂY CHU,
1833-2108 tH, 1046-771 ttl
2.1.
Thời Hùng 4 và Nhà Chu
Thời
Hùng 4 khởi đầu cùng với năm thành lập Nhà Chu, 1833 tH, 1046 ttl.
Trái với
tuyên truyền xảo trá của Trung Hoa, đối với Tộc Việt, Chu chỉ là 1 nước nhỏ bé
mới thành lập ở thung lũng Sông Vị xa xôi trên phương Bắc. Toàn thể Tộc Việt, đặc biệt vùng rộng lớn
từ Sông Dương Tử tới Hải Vân, đã có nếp sống phát triển, và đã không hề chịu ảnh
hưởng gì của Nhà Chu.
2.2. Thực
lực Tây Chu
a. Tây Chu, sông Vị
Thời 1833 tới 2108 tH, 1046-771 ttl, Nhà
Chu ở tại Cảo Kinh, gần Tây An, Thiểm Tây, không mở rộng lãnh thổ. Suốt 275 năm đó, Nhà Chu là 1 đất nước vừa đủ sức ở thung lũng Sông Vị. Sau đó, bị đuổi chạy. Quanh Nhà Chu, chỉ riêng phía Bắc Sông Hoài, là các thành phần Nhà Thương, nhiều sắc dân
đông đảo và cường thịnh hơn Nhà Chu.
Những
nước bị sách vở Trung Hoa coi là phụ dung của Nhà Chu, nếu có, cũng chỉ là
những liên minh lỏng lẻo.
b. Tuyên truyền xảo trá
Những
đặc ân, khai hóa, tiên tiến của ‘thiên triều Chu’ du mục lạc hậu, của tộc
Hoa... đã chỉ là những bịa đặt bất lương của bọn phục vụ chủ nghĩa 'Thiên Tử
Thế Thiên', nô hóa thiên hạ, trấn áp tinh thần của mọi sắc dân khác.
Những
uy thế của Chu Vũ Vương tụ tập 800 chư hầu, những quyền lực thành lập các chư hầu
vĩ đại, như nước Sở ở Nam Sông Hoài... đều là những hoang tưởng, những gán ghép
của thời sau.
Những
nhà bác học thần thánh như Chu Văn Vương học Sách Lạc, viết Kinh Dịch, những vị
thánh đức như Chu Công Đán viết Chu Lễ... cũng chỉ là những soán đoạt tác phẩm,
những gán ghép của giới thống trị Trung Hoa, để thần thánh hóa vua chúa Trung
Hoa.
2.3. Hoa và Việt thời Tây Chu
a. Hoa và vùng Bắc Sông Hoài
Sinh sống
ở vùng du mục khô cằn giá lạnh Thiểm Tây, người Tộc Hoa đã phát triển cuộc sống
dựa vào vũ lực, phát triển những đặc tính của du mục là coi trọng sức mạnh, võ
nghệ, trọng phái nam, hiếu thắng, tàn bạo, áp bức.
Từ thời Hậu Hạ, qua thời Thương, dân
vùng Bắc Sông Hoài và hạ lưu Hoàng Hà đã có thêm văn hóa lúa nước của người Tộc
Việt. Nhờ đó, cuộc sống con người đã tốt đẹp hơn, thêm hòa hợp với thiên nhiên,
thêm hiếu hòa. *[115]
b. Lãnh thổ và Dân số
Nơi phát xuất Nhà Chu là vùng thung lũng Sông Vị ở Thiểm
Tây, phía Bắc Tần Lĩnh. Vì vậy, vùng đất Chu Vũ Vương ảnh hưởng, nếu có, cũng
chỉ là vùng đất tiếp giáp với thung lũng Sông Vị.
Như vậy, trong thời gian đầu, lãnh thổ Nhà Chu tối đa cũng
không bằng 5% toàn thể Đất Tộc Việt.
Ngoài ra, vì mới tụ tập từ các bộ lạc du mục, dân số Tộc Hoa
không thể đông hơn 5% toàn thể dân Tộc Việt đã có hơn 4.000 năm phát triển ở khắp
vùng Á Đông.
c.
Văn minh và Văn hóa
Việt
và Hoa lại càng xa cách nhau về văn minh và văn hóa.
Dầu
cùng là du mục, giữa các bộ tộc Hoa cũng có nhiều điểm khác biệt. Việc tụ tập
càng chứng tỏ họ chưa có thời gian để phát triển những đặc điểm của một nền
văn minh và văn hóa lớn. Họ còn là những bộ tộc du mục với nền văn hóa du mục
sơ khai. Đang khi đó, Tộc Việt đã có mấy
ngàn năm phát triển nền văn minh và văn hóa Lúa Nước, với nhiều tấn phát mọi mặt,
như được ghi nhận trong truyền thuyết suốt mấy ngàn năm trước tộc Hoa.
d. Dòng Máu Hoa
Qua thời gian dài chung sống, máu Hoa, chỉ với 5% dân số,
đã hòa loãng dần trong máu của 95% dân chúng Việt. Càng xuống Nam, càng tiếp
xúc với đông người Tộc Việt thuần chủng, dòng máu Hoa đã thành không đáng
kể.
Tuy vậy, giới
thống trị Trung Hoa ngày càng khai thác tận dụng chủ
nghĩa 'Thiên tử thế Thiên' cực đoan của tộc Hoa, ngày càng tạo ảo tưởng tộc Hoa chính là
tầng lớp thống trị toàn quyền, cao cả, đang ngự trị toàn thể thiên hạ.
3. VIỆT HẠ THỜI HÙNG 4A,
1833-2108 tH, 1046-771 ttl
3.1. Nước Sở vùng Bắc Dương Tử
a. Trung Hoa Xuyên tạc
Theo
sách vở Trung Hoa, năm 1849 tH, 1030 ttl, Chu Thành Vương phong Hùng Dịch lập
Nước Sở ở vùng giữa Sông Hoài và Sông Dương Tử. Vua Nước Sở được Chu Thành
Vương cho thờ cúng Tổ tiên là Nhà Hạ.[116]
Thực
ra, việc Chu Thành Vương ‘phong cho’ Hùng Dịch ‘thành lập’ Nước Sở, chỉ là kiểu
nói xuyên tạc của chủ thuyết 'vua Trung Hoa là con Trời', khi phải đề cập tới
một Nước khác trong vùng.
Thời Chu, nước Sở rộng gấp mấy lần Nhà
Chu. Văn minh và văn hóa Nước Sở phát triển vượt xa Nhà Chu. *[117]
b.
Văn minh Nước Sở
Sách vở Trung Hoa ghi dân Sở là người Tộc Việt, dân Sở có
tiếng nói, phục sức, nhạc cụ, âm nhạc, và tính khí, hình dạng... đều khác với
dân Hoa.
Khảo cổ hiện nay ghi nhận Nước Sở có nhiều nét văn hóa ‘thời
Thương’. Di vật Sở có nhiều đồ đồng, đồ sắt, sơn mài, tơ lụa với nhiều nét đặc thù,
nhiều hình rắn, long, chim Việt. Dân Nước Sở đã truyền đời thờ cúng Tổ Tiên.
Tất cả đều là dấu chỉ Nước Sở nối tiếp Thời Hạ, ở vùng đất
nhà Hạ, giữa Sông Dương Tử và Sông Hoài. *[118]
c. Thực lực Nước Sở
Theo sách vở Trung Hoa, ngay khi vừa thành lập, nước Sở đã
hùng mạnh, mở rộng lãnh thổ, liên minh với nhiều nước khác. Từ Bắc Sông Dương
Tử, Sở đã mở rộng lãnh thổ lên phía Bắc Sông Hoài, khiến nhiều nước trong vùng
phải liên minh chống Sở.
Sở hùng mạnh hơn 800 năm, từ 1849 tới 2656 tH, 1030-223
ttl, nhiều thời kỳ làm bá chủ toàn vùng. *[119]
Sự kiện
Sở hùng mạnh ngay khi vừa được ‘thiên tử Nhà Chu’ cho thành lập, chứng tỏ sức mạnh
của Sở đã có trước khi Nhà Chu thành hình. Sức mạnh nầy là do việc liên tục phát triển từ thời Hạ,
qua thời Thương, tới thời Đông Chu.
d.
Thời Sở
Dầu với
luận điệu đè bẹp mọi dân nước dưới uy quyền ‘thiên tử Nhà Chu’, sách vở Trung
Hoa cũng không thể giấu được sự thực là dân nước rộng lớn và hùng cường nhất
trong thời Tây Chu là Sở. Tìm hiểu khách quan về tình hình đương thời trong
vùng, thời kỳ nầy phải được gọi là Thời Sở.
3.2. Vùng Nam Dương Tử
Trong
khi Nước Sở nối tiếp Nhà Hạ, liên tục phát triển ở vùng Bắc Dương Tử, và mở rộng
lãnh thổ lên đồng bằng Hoàng Hà, dân Việt Hạ ở Nam Dương Tử cũng lớn mạnh và
thành lập Nước Việt vùng Chiết Giang. Sở và Việt cũng có liên lạc thường xuyên.
Tuy nhiên, đối với Trung Hoa, vùng Nam Dương Tử quá xa xôi, chỉ được nói tới
khi Nước Việt vượt Sông Hoài, ở thời kỳ sau.
4. VIỆT THƯỢNG THỜI HÙNG 4A,
1833-2108 tH, 1046-771 ttl
4.1.
Liên tục Phát triển
a.
Chim trĩ
Đối với
Trung Hoa, vùng Việt Thượng xa lạ hơn Nam Dương Tử. Tuy vậy, có vài sự kiện được
ghi nhận trong sách vở Trung Hoa về thời Chu.
Theo
sách vở Trung Hoa, đời Chu Thành Vương,
1837-1858 tH, 1042-1021 ttl, có sứ của Việt Thượng tới dâng chim trĩ trắng.
Nhiếp chính Chu Công Đán nói : ‘Chính lệnh không ban đến thì người quân tử
không coi người ta là bề tôi của mình’. Rồi sai làm xe chỉ nam đưa sứ giả về nước
bằng đường biển. *[120]
Như
vậy, Dầu áp đặt chủ thuyết Thiên tử thế Thiên, áp đặt thiên tử Nhà Chu thống
trị thiên hạ, sách vở Trung Hoa cũng ghi nhận Việt Thượng ‘không phải là bề
tôi’ của thiên tử Chu.
b. Sông Hồng Việt Thượng tiến bộ
Theo
Kinh Lễ, chim trĩ gáy theo đúng thời tiết. Truyền thuyết nầy ghi truyền thuyết
Đế Nghiêu nhận lịch chỉ dẫn thời tiết của Sứ giả Việt Thượng. *[121]
Việc
sách vở Trung Hoa sửa đổi truyền thuyết trên, chứng tỏ thời đó Trung Hoa đã
công nhận Sông Hồng Việt Thượng là 1 nước có văn hiến quy củ, đã gởi sứ ngoại
giao đến các vùng xa không thuộc ‘bề tôi’ của Nhà Chu. *[122]
Thực vậy,
200 năm trước khi Nhà Chu thành hình, dân Việt Lạc đã đánh bại Ân Cao Tôn. *[123]
4.2. Sông Hồng phồn thịnh
a. Đông đúc trù phú
Từ thời
1879 tH, 1000 ttl, đồng thời với Nhà Chu lập nghiệp, vùng Đông Sơn trên bờ Sông
Mạ, Thanh Hóa, đã để lại nhiều Thạp và Trống đồng, lưu lại dấu tích nền kỹ nghệ
phồn thịnh, với những tuyệt tác vượt thời gian.
Tài liệu
về thời cách đây 2.000 năm đã ghi sự
phát triển trỗi vượt, đông đúc trù phú của vùng Sông Hồng Sông Mạ.
Theo Từ
Tùng Thạch trong Việt Giang Lưu Vực Nhân Dân Sử, so sánh dân số thời đó đã cho
thấy Giao Chỉ, tức là vùng Sông Hồng Sông Mạ, có đông người nhất, số người
trong mỗi gia đình cũng đông nhất. *[124]
Theo
Quảng Đông Tân Ngữ của Khuất Đại Quân : "Giao Chỉ mỗi năm nộp thóc cho
quan tư nông hơn 1.360 vạn hộc, (13.600.000). Tính ra tất cả thuế các châu
Mân (Phúc Kiến), Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây), Điền (Vân Nam), Kiềm
(Quí Châu) cũng không bằng". *[125]
b. Thanh bình thịnh vượng
Đặc điểm
quan trọng khác là trong hơn 800 năm thời Chu, trong khi phương Bắc luôn chiến
tranh xâu xé, Việt Lạc phát triển thanh bình thịnh vượng. Cuộc sống thịnh vượng
và thanh bình nầy đã là dấu chứng cho những phát triển về mọi mặt, không chỉ kỹ
thuật trồng cấy, kim loại... mà nhất là về văn hóa, văn học, và học thuyết.
Tất cả
đều trỗi vượt dân Việt ở vùng Dương Tử, vượt xa dân vùng Bắc Sông Hoài chậm tiến,
vượt rất xa dân du mục Hoa Nhà Chu lạc hậu sơ khai.
5.
VẤN ĐỀ CHU DỊCH và CHU LỄ
5.1. Vấn đề Chu Dịch
a. Theo sách vở Trung Hoa
Theo
sách vở Trung Hoa, Chu Vũ Vương sáng lập Nhà Chu. Nhưng cha của ông, Chu Văn
Vương, là người đặt nền móng cho mọi sự. Vì khởi tạo biến động lật đổ Nhà
Thương, Văn Vương bị giam. Trong thời gian ngồi tù, Ông đã nghiên cứu Sách Lạc
mà viết quyển Kinh Dịch. *[126]
Cũng
theo sách vở Trung Hoa, trước Chu Văn Vương hơn 1800 năm, Phục Hy đã từ ý niệm
và ký hiệu Âm Dương lập ra Bát quái Tiên thiên.
Trước
Chu Văn Vương 1.000 năm, Đại Vũ đã có Sách Lạc về vũ trụ. Nhưng trong hơn 800 năm giữa Phục
Hy và Đại Vũ, và trong hơn 1.000 năm giữa Đại Vũ
và Chu Văn Vương, không có dấu vết khai triển thuyết Âm Dương.
b. Khảo cổ hiện nay
Khảo cổ
hiện nay cho thấy trong hơn 5.000 chữ
tìm thấy ở thủ đô An Dương của thời Ân, 1579-1833 tH, 1300–1046 ttl, không hề
có dấu vết của Âm Dương Tám Quẻ. An Dương ở vùng Hoàng Hà, Bắc Sông Hoài.
Theo
các học giả Trung Hoa hiện đại, thuyết Âm Dương xuất hiện vào cuối thời Thương
hoặc đầu thời Chu, khoảng 1779-1879 tH, 1100-1000 ttl. *[127]
Đang
khi đó, cũng
vào thời cuối Thương đầu Chu, qua hoa văn, trang trí, và hình dạng của Thạp và
Trống Đông Sơn, dân Việt Lạc Sông Hồng đã để lại chứng cứ không chỉ nguồn gốc của
chữ Âm chữ Dương, và nội hàm của ý niệm Âm Dương, mà còn cả ký hiệu và hàm ý
của Tám Quẻ. *[128]
5.2. Vấn đề Chu Lễ
a. Ai học Sách Lạc và viết Chu Lễ
?
Sự
nghiệp quân sự của Chu Văn Vương được con là Chu Vũ Vương nối tiếp, và con khác
là Chu Công Đán / Cơ Đán tiếp tục công trình văn hóa.
Chu
Công Đán được cho là đã học Sách Lạc và viết sách Chu Lễ, đặt nền móng chính
sách ‘Nhân trị’ cho thời Chu. Khổng Tử và nhà Nho mọi thời đều tôn Chu Công
Đán là Ông Tổ của văn hóa Trung Hoa. *[129]
b. Soán đoạt trơ trẻn
Như
Chu Văn Vương, Chu Công Đán phát xuất từ dân du mục tàn bạo, kém lễ nghĩa. Đột nhiên ông trở thành vị
‘Đại thánh’ phát khởi việc dạy Lễ Nghĩa và chính sách ‘Nhân trị’ cho dân trong
vùng. Dân trong vùng lại là những người vốn đã có truyền thống ít nhất hơn
500 năm sống trong lễ nghĩa hòa hiếu của nền văn hóa Nông nghiệp Lúa nước.
Trái khoáy nầy, lại một lần nữa, là chứng
cứ soán đoạt trơ trẻn, để tôn vinh 'thiên triều' và các vị Tổ của tộc Hoa.
VIII. VIỆT và
HOA THỜI HÙNG 4B và 4C, 2108-2699 tH, 771-180 ttl
1.
PHƯƠNG BẮC THỜI HÙNG 4B : ĐÔNG CHU VÀ TẦN
1.1. Đông Chu
a. Xuân Thu và Chiến Quốc
Theo sách vở Trung Hoa, năm 2108 tH, 771 ttl, sau 275 năm ở
vùng thung lũng Sông Vị, triều đình Nhà Chu đã bị nhóm du mục Khuyển Nhung đuổi
chạy. Bộ lạc Khuyển Nhung gốc vùng Ninh Hạ, thờ chó sói trắng.
Năm 2108 tH, 771 ttl, Chu Bình Vương dời đô tới vùng Lạc
Dương, Hà Nam hiện nay. Từ đó gọi là Đông Chu. Đông Chu chia 2 thời kỳ : Xuân
Thu, 2108-2476 tH, 771-403 ttl, và Chiến Quốc, 2476-2623 tH, 403-256 ttl.
Sử Trung Hoa mô tả 515 năm thời Đông Chu là thời nội chiến
Trung Hoa, khi mọi tộc dân đều thần phục thiên tử Nhà Chu của tộc Hoa. ‘Thiên tử
Nhà Chu’ luôn được trình bày như trung tâm quyền lực của toàn ‘thiên hạ’.
Dầu vậy, dầu triệt
để khai thác chủ trương Nô hóa Thiên hạ, sách vở Trung Hoa cũng chỉ có thể tạo
cho ‘thiên tử Nhà Chu’ một vai trò bù nhìn trong suốt mấy trăm năm. Thời Chiến
Quốc, 2476-2623 tH, 403-256 ttl, vai trò bù nhìn cũng đã mất hẳn. Vua các nước
cũng lần lược tự coi mình là thiên tử.
b. Thực tế Đông Chu
Thực tế,
lãnh thổ Đông Chu chỉ là mảnh đất nhỏ quanh Lạc Dương, ở giữa ‘thiên hạ’ rộng lớn,
đông đúc, và cường thịnh. Thời nầy chưa có nước Trung Hoa. Triều đình Nhà Chu
không ảnh hưởng gì các cuộc giao tranh giữa các nhóm quyền lực hùng mạnh trong
vùng. *[130]
1.2. Nước Tần
a. Theo sách vở
Trung Hoa
Theo sách vở Trung
Hoa, năm 2108 tH, 771 ttl, khi thiên tử Chu Bình Vương bị nhóm du mục Khuyển
Nhung từ Ninh Hạ tấn công và bỏ vùng Sông Vị chạy tới gần Lạc Dương, thì Chu
Bình Vương cho nhóm Khuyển Nhung thành lập nước Tần trên vùng Sông Vị. Nhóm du mục Tần nầy bị các nước trong
vùng đố kỵ, chống đối. Nhưng Tần đã trở nên hùng mạnh trong suốt hơn 500 năm.
Nhiều liên minh được thành lập cùng với Sở để chống Tần.
Năm 2623 tH, 256 ttl, Tần diệt Chu. Năm 2656 tH, 223 ttl, Tần
diệt Sở. Năm 2658 tH, 221 ttl, Tần Doanh Chính xâm chiếm tất cả các nước trong
vùng, thành lập Nước Trung Hoa. Doanh Chính tự xưng là Tần Thủy Hoàng, vua đầu
tiên của Trung Hoa. Tần đạt tuyệt đỉnh với Tần Thủy
Hoàng, nhưng bị Nhà Hán chấm dứt 15 năm sau, 2673 tH, 206 ttl.
b. Thời Tần, 2108-2673 tH,
771-206 ttl
Tuy sách vở Trung Hoa cố tình đề cao vai trò ‘thiên tử’ của
Nhà Chu, tình hình thời Đông Chu vẫn quay quanh hai nước hùng mạnh nhất là Sở
và Tần.
Nhóm du mục Tần đánh chiếm vùng Sông Vị của Chu. Với văn hóa
du mục trọng võ nghệ, hung bạo, hiếu chiến, Tần đã hùng mạnh với đội quân đông
đảo, được huấn luyện chặt chẽ và khắt khe. Sự tàn ác của Tần đã góp phần đem lại
chiến thắng. Tần hùng mạnh trong suốt thời Đông Chu. *[131]
Như nước
Sở thời Tây Chu, theo thực tế lịch sử, thời Đông Chu phải gọi là Thời Tần,
2108-2673 tH, 771-206 ttl.
c. Tần với tộc Hoa
Nhóm du mục Tần là những vị tổ nối tiếp dòng văn hóa du mục
của tộc Hoa, khi nhóm du mục Chu bị tàn rụi.
Nhóm du mục Tần quá khích, tàn bạo hơn du mục Chu, đã để lại
nhiều hậu quả tai hại trên đại chúng Trung Hoa và trên các dân nước trong vùng.
2. TƯ
TƯỞNG và VĂN HÓA THỜI HÙNG 4B
2.1. Phát triển
Thời
Đông Chu là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của tư tưởng và văn hóa ở vùng bắc
Sông Hoài, Hoàng Hà. Đây là thời của Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử, Trang Tử, Hàn
Phi Tử, Mặc Tử... Giữa các học thuyết, Khổng học và Lão giáo có nhiều truyền
nhân và ảnh hưởng sâu rộng nhất.
Ở thời kỳ nầy, thương mại trở nên quan trọng, chiến thuật
quân sự thay đổi. Đây không phải là kết quả của chính sách cai trị của Nhà Chu,
hoặc Nhà Tần, mà do xu thế tự phát vì thời cuộc của các dân, các nước trong
vùng.
2.2. Lão giáo
a. Lão Tử
Lão Tử
được coi là người viết quyển Kinh Đạo Đức. Nhưng tên và tiểu sử của Ông đã được
sáng tác sau ảnh hưởng của Kinh Đạo Đức, và của phong trào thờ kính Ông như vị
Sáng Tổ của Đạo giáo, được tôn là Thái Thượng Lão Quân, với nhiều quyền uy siêu
phàm.
b.
Kinh Đạo Đức
Theo sử Trung Hoa, Kinh Đạo Đức xuất hiện khoảng năm 2339
tH, 540 ttl.
Kinh Đạo Đức gồm 37 chương luận về chữ Đạo, 41 chương luận
về chữ Đức, với lời lẽ khúc chiết, uyên thâm. Tổng cộng khoảng 5.000 chữ. - Kinh Đạo Đức hướng dẫn con người chấp
nhận hiện trạng, sống hòa hợp với thiên nhiên và tuân theo quy luật của thiên
nhiên để sống gần với Đạo. - Kinh Đạo
Đức còn được coi là quyển sách hướng dẫn vua chúa cách cai trị đất nước theo
cách thức tự nhiên.
Quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của Kinh Đạo Đức về cơ trời,
vạn vật sinh hóa... được coi là phương pháp tu luyện huyền bí để được trường
sinh.
c. Kinh Đạo Đức với truyền thống
Việt Lạc
Kinh Đạo
Đức đã luôn là những tư tưởng khó thấu triệt đối với Trung Hoa. Kinh Đạo Đức xuất
hiện giữa nền văn hóa Trung Hoa như một tuyệt tác lạ thường, nằm ngoài trào lưu
tư tưởng của Trung Hoa.
Hành
tung của Lão Tử cũng bất thường giữa thế giới quan lại trọng quyền chức tiền
tài của Trung Hoa. Lão Tử là vị thần độc nhất được Trung Hoa thờ kính với hình ảnh
1 nông dân cởi trâu của dân vùng nông nghiệp lúa nước.
Mọi thần
thánh Trung Hoa đều là các quan mập, phè phỡn, ăn no mặc đẹp. 3 vị Phúc Lộc Thọ
là 3 Thủ tướng 3 triều.
Niềm
tin, các vị thần, và nghi thức của Đạo giáo cũng thuộc nền văn hóa gốc nông
nghiệp lúa nước.
Ngoài
ra, trước Kinh Đạo Đức hơn 400 năm, Thạp đồng Đào Thịnh và Trống đồng Ngọc
Lũ đã đúc những ký hiệu mã hóa và diễn tả ý nghĩa chữ Đạo, chữ Đức mà Kinh Đạo
Đức khai triển. *[132]
Kinh Đạo
Đức còn xác quyết : 'Đạo trụ Nam Thiên', Đạo ở tại Phương Nam.
Tất cả
đều nằm trong truyền thống xuyên suốt tư tưởng và văn hóa Việt Lạc.
2.3. Khổng Tử, Khổng học *[133]
Khổng Tử, 2328-2400 tH, 551-479 ttl, người Sơn Đông, vùng đất
Nhà Thương, vùng đất đã hơn ngàn năm kết hợp ảnh hưởng nền văn hóa gốc du mục của
dân địa phương với nền văn hóa gốc lúa nước của dân Việt.Khổng Tử đã cố gắng gạn
lọc và tổng hợp 2 nền văn hóa nông nghiệp lúa nước của Tộc Việt và du mục của tộc
Hoa.
Khổng
Tử san định lại những sách cũ thành bộ Lục Kinh : Thư, Thi, Lễ, Dịch, Xuân Thu,
Nhạc. Khổng Tử đã cố gắng gạn lọc và tổng hợp 2 nền văn hóa nông nghiệp lúa nước,
nêu rõ nhiều điểm trước đây chỉ tiềm tàng.
Trong
các tác phẩm của Khổng Tử, những yếu tố thuộc Tộc Việt, tức là thuộc nền văn
hóa gốc nông nghiệp lúa nước, thiên về tình người, đã chiếm ưu thế hơn các yếu
tố khác.
2.4. Nguồn gốc các Kinh và
Khổng Tử
a. Thuật nhi bất tác
Khổng
Tử có câu nói nổi tiếng : "Thuật nhi bất tác". Ông chỉ kể
lại, diễn giải, chứ không sáng tác. Như vậy, Khổng Tử xác định
những sách của Ông, hoặc ít nhất là nội dung của sách, đã có trước
khi Ông san định.
Đặc biệt
ngoài 3 quyển Kinh Đạo Đức, Chu Dịch và Chu Lễ, mà tác giả được gán
cho người Hoa, không nơi nào nhắc tới Tác giả của những quyển có
trước Khổng Tử. Theo thói tự gán cho tộc Hoa mọi điều hay tốt, đây
là chứng cứ những Tác giả bị bỏ quên nầy không phải người tộc Hoa.
Ngày
nay, những sách Khổng Tử san định đều mang tên Khổng Tử. *[134]
b. Lý lịch của Kinh Dịch
Trước
Khổng Tử, Kinh Dịch đã có lý lịch
dài từ
Phục Hy (2879 ttl ), Đại
Vũ (2070
ttl),
thành Chu Dịch thời Chu
Văn Vương 1046 ttl. Nhưng tất
cả lý lịch đó chỉ ngụy trang việc thoán đoạt Kinh Dịch từ Dân Việt
Lạc Sông Hồng. *[135]
c.
Kinh Dịch của Việt Lạc Sông Hồng
Kinh
Dịch dựa vào 2 ý niệm Âm Dương mà suy luận và diễn dịch mọi hiện
tượng trong trời đất. Cho đến hiện nay, chưa hề có một học giả Hoa
nào có thể tìm ra nguồn gốc và ý nghĩa nguyên thủy của tên gọi,
của ý nghĩa, cũng như hình dạng nguyên thủy của chữ viết và ký
hiệu của Âm, của Dương, của từng quẻ trong 8 quẻ, và của các tên
Dịch, quái, quẻ, hào... Chỉ có những suy đoán mông lung rời rạc.
Thực
ra, tiếng Âm và Dương và cả chữ Âm chữ Dương, có gốc từ tên gọi và
hình dạng của Om và Rưng của dân Việt Lạc Sông Hồng, Việt Nam ngày
nay. Om là cái Thạp, Rưng là cái Trống. *[136]
Cách
đây hơn 3000 năm, Tổ Tiên Việt Nam vùng Sông Hồng Sông Mạ đã ký thác
tên gọi, chữ viết, đồ
biểu, nội dung súc tích của nhận thức, ý niệm và cách diễn giải Âm
Dương và 8 Quẻ vào cấu trúc, trang trí, đặc tính và công dụng của Thạp Đào
Thịnh và Trống Ngọc Lũ.
Sơ đồ Thạp
Đào Thịnh và Trống Ngọc Lũ với Ký Hiệu 8 Quẻ :
|
THẠP/Om/ÂM/ |
|
TRỐNG/Rưng/DƯƠNG/+ |
||
Đỉnh
Nắp/Mặt |
Càn
- |
|
|
Càn
+ |
|
Quanh
Nắp/Mặt |
Khôn
- |
|
|
Khôn
+ |
|
Thân |
Khảm
- |
|
|
Ly
+ |
|
Lòng
Đầy |
Đoài
- |
|
|
Tốn
+ |
|
Lòng
Rỗng |
Chấn
- |
|
|
Cấn
+ |
|
d.
Kinh Thư của Dân Việt
Kinh
Thư còn gọi là Thượng Thư, ghi lại các truyền thuyết, biến cố, kể cả lời nói
của các vua quan từ thời Đế Nghiêu, Đế Thuấn cho đến thời Nhà Hạ, Nhà
Thương, và Tây Chu. Kinh Thư ghi các chuyện hơn 1.150 năm trước khi tộc Hoa
thành hình (năm 1046 ttl), chỉ là truyện tích của Dân Việt, không thể
của dân Hoa. *[137]
e.
Kinh Thi của Dân Việt
Kinh
Thi gồm 305 bài thơ, được Khổng Tử san định hơn 3.000 bài, có 3 phần :
160 bài ca dao, 105 bài hát nơi triều đình, 40 bài ca tụng các vua
thời trước. Nhiều bài trong Kinh Thi có những điểm giống ca dao Việt
Nam. Nhiều bài diễn tả tình yêu trai gái, tình chung thủy vợ chồng, cảnh
sinh hoạt của nông dân, và nỗi thống hận của người dân với vua quan. Vì
vậy, nhiều tác giả coi Kinh Thi là chứng cứ cho cuộc sống nông dân thời
cổ.
Các
điểm trên xác nhận những đặc điểm cuộc sống nông nghiệp lúa nước, của
Dân Việt, của những tác giả Việt.
g. Kinh Nhạc của Dân Việt
Tần
Thủy Hoàng thiêu hủy Kinh Nhạc năm 221 ttl. 1 ít bài sót lại đã trở
thành thiên Nhạc ký trong Kinh Lễ. Sau
khi bị Tần Thủy Hoàng đốt, nhiều sách được ghi lại nhờ nhiều người
đã thuộc lòng. Nhưng Kinh Nhạc chỉ còn lại ít bài. Chứng tỏ đa số
giới học giả thời Tần là dân Hoa, không mấy yêu thích nhạc. Dân Hoa du
mục không say mê thơ nhạc bằng dân Việt, với nền văn hóa nông nghiệp
lúa nước định cư. Phần mất mát, kể cả về Nhạc, là của dân Việt.
h.
Kinh Lễ của Dân Việt
Kinh Lễ,
Lễ Ký do môn đồ Khổng Tử ghi chép các lễ nghi thời trước. Các lễ nghi nầy
có trước Khổng Tử.
Kinh Lễ miêu tả các nghi thức và dạy nhân nghĩa đạo đức,
đặc điểm của văn hóa Việt và xa lạ với văn hóa Hoa.
Kinh Lễ cùng với Chu Lễ và Nghi Lễ được gọi chung là Tam Lễ.
*[138]
i. Kinh Xuân Thu
Kinh
Xuân Thu là bộ sử biên niên của nước Lỗ từ 722-481 ttl. Theo
Mạnh Tử, sách nầy do Khổng Tử soạn.
3. VÙNG DƯƠNG TỬ THỜI HÙNG 4B,
2108-2672 tH, 771-207 ttl -
ĐỒNG
THỜI VỚI ĐÔNG CHU / TẦN
3.1.
Bắc Dương Tử
Thời
Hùng 4B là thời hỗn loạn tranh giành. Vùng đất giữa Dương Tử và Sông Hoài bị kết
vào vùng phía Bắc Sông Hoài, Trung Nguyên của Hán Hoa. Di tích, tài liệu, tác
phẩm, phong tục, văn minh, văn hóa, niềm tự tin của dân Việt vùng Bắc Dương Tử,
đã bị giới thống trị Trung Hoa tham tàn, muốn đồng hóa, hủy hoại, tiếm nhận và
xuyên tạc.
3.2. Nam Dương Tử
a. Tiếp tục tăng triển
Vì Nam
Dương Tử xa cách vùng Hoàng Hà Sông Hoài, nên sách vở Trung Hoa không quan
tâm. Vì ở ngoài vùng rối loạn Hoàng Hà Sông Hoài và Bắc Dương Tử, Tộc Việt vùng
Nam Dương Tử vẫn tiếp tục theo đà tăng trưởng dân số, văn minh và văn hóa thuần
túy Việt.
b. Nước Việt ở Chiết Giang
Tình
hình thay đổi khi Nước Việt, thủ đô Cối Kê ở Chiết Giang, có Câu Tiển thôn
tính Nước Ngô, vượt Sông Hoài, và trở thành hùng mạnh nhất trong vùng, năm 2406
tH, 473 ttl. Vùng đã phát triển liên tục, được Đại Vũ lập thủ đô Cối Kê từ hơn
1.500 năm trước. Sách vở Trung Hoa ôm đồm ghi Câu Tiển xin thần phục Nhà Chu,
được thiên tử Nhà Chu phong làm Bá để lo phụng thờ tổ tiên là Nhà Hạ, được
thiên hạ nể phục.
Ngày
nay, nhiều tài liệu về nước Việt Chiết Giang bị sáp nhập vào thời Chu, ngoại trừ
đoàn chiến thuyền vô địch.
4. VIỆT LẠC THỜI HÙNG 4B,
2108-2672 tH, 771-207 ttl
Thời
Chu của Trung Hoa kết thúc năm 2623 tH, 256 ttl, vì bị Tần diệt. Nhà Tần kết
thúc năm 2673 tH, 206 ttl, vì bị Hán diệt. Tuy nhiên, Thời Hùng của Việt Lạc chỉ
kết thúc năm 2699 tH, 180 ttl.
4.1.
Tuyệt tác Văn hóa của Việt Lạc
Vào Thời
Hùng 4, 1833-2699 tH, 1046-180 ttl, vùng đất Việt Lạc, gồm Đồng Đình và Việt
Thượng, quá xa lạ với dân Bắc Sông Hoài, kể cả sách vở Trung Hoa viết về thời
Chu. Nhưng sau khi bị Ân Cao Tôn xâm lăng, năm 1661 tH, 1218 ttl, và trước nạn
giặc du mục phương Bắc tàn phá xã hội và nền Văn hóa của dân Việt vùng Bắc
Dương Tử, Tổ Tiên Việt Lạc, đặc biệt vùng Sông Hồng, càng củng cố nền Văn hóa đặc
thù của mình.
Nếp sống
Việt Lạc vững mạnh qua mấy ngàn năm, với các định chế, phong tục, ca dao,
truyện tích, Tết Lễ, đặc biệt với Bộ Truyền Kỳ thâm sâu thống hợp. Nhờ đó,
sau hàng ngàn năm bị bạo quyền Trung Hoa phá hoại và áp chế, ngày nay đại chúng
Việt Nam vẫn tiếp tục sống trọn nếp sống truyền đời đầy ơn ích của nền Văn hóa
Việt Lạc. *[139]
4.2. Tuyệt tác Tri thức và Kỹ
thuật
Ngoài
phát huy và lưu truyền văn hóa, Tổ Tiên Lạc Hồng còn cất giữ tinh hoa tri thức
Việt Lạc vào các tuyệt tác bằng đồng ở Đông Sơn, thời 1879 tH, 1000 ttl.
Đồ đồng
kiên trì với thời gian, giữ nguyên hình dáng, đường nét, và dấu tích qua nhiều
ngàn năm. Tuyệt tác Thạp đồng và Trống đồng quí giá linh thiêng, nên được con
cháu cất giữ chôn giấu qua mọi biến cố.
Tuyệt
tác bằng đồng khích động lòng tham của giặc. Nhờ vậy, thay vì bị giặc hủy hoại
như những sản vật khác, tuyệt tác bằng đồng được chính bọn giặc gian tham gìn
giữ và lưu truyền.
Qua những
ưu điểm tuyệt vời của tuyệt tác bằng đồng, Tổ Tiên đã ký thác và lưu truyền trọn
vẹn ý niệm, học thuyết và tâm huyết của mình vào hoa văn, trang trí, và hình dạng
của Thạp và Trống đồng Đông Sơn.
Hoa
văn trên đồ đồng tinh vi và hàm súc đến nỗi, không chỉ bọn giặc tộc Hoa lạc hậu
không thể nghi ngờ, mà bất cứ ai không thuộc dòng văn hóa thống hợp và toàn diện
của Lạc Hồng, đều không thể thấu triệt.
Ngày
nay, sau 2.000 năm gia sản Việt Lạc bị Trung Hoa tàn phá và soán đoạt, Thạp và
Trống đồng Đông Sơn đã trở thành những chứng cứ sự phát triển vượt bực của Tổ
Tiên Lạc Hồng cách đây hơn 3.000 năm, và vạch rõ những bạo ngược, gian lận và bất
lương của giới thống trị Trung Hoa. *[140]
4.3. Việt Lạc hùng mạnh
Năm
221 ttl Tần Thủy Hoàng xâm chiếm toàn vùng Hoàng Hà, Bắc Dương Tử và lập Nước
Trung Hoa. 7 năm sau, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư dẫn 50 vạn quân xâm lấn đất Việt
Lạc ở vùng Hồ Nam, Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay. Đây là đoàn quân tinh nhuệ,
chiến thắng, thống nhất toàn Trung Nguyên. Nhưng bị Việt Lạc đánh tan, Đồ Thư bị
giết. *[141]
Đến
năm 2665 tH, 214 ttl, dân Việt Lạc, toàn thể vùng Đồng Đình và Việt Thượng, đã
là một dân nước hùng mạnh, vẫn ở ngoài những biến động vùng Bắc Dương Tử, ngoài
ảnh hưởng của Trung Hoa. *[142]
5. VIỆT LẠC THỜI HÙNG 4C,
2672-2699 tH, 207-180 ttl
Năm
2672 tH, 207 ttl, Tần Thủy Hoàng sai Triệu Đà dẫn quân xâm lăng Việt Lạc, chiếm
đóng 1 phần đất nay thuộc Quảng Tây, Quảng Đông. Nhưng năm 2673 tH, 206 ttl,
khi Tần bị Hán diệt, Triệu Đà giết tất cả quan chức Nhà Tần, thay đổi nếp sống
theo phong tục Việt Lạc, và quyết cùng Việt Lạc thành lập một Đế quốc riêng.
Năm
2699 tH, 180 ttl, Triệu Đà dùng kế Trọng Thủy ở rể, đánh chiếm Thành Ốc của vua
An Dương, trị sở của Việt Lạc, nay là Cổ Loa. Năm 2699 tH, 180 ttl, chấm dứt Thời
Hùng. *[143]
6. DI SẢN CHU - TẦN
6.1.
Chủ thuyết Thiên Tử Thế Thiên
Tuy văn hóa Trung Hoa cũng gốc du mục như nhiều nền văn hóa
toàn cầu khác, nhưng giới thống trị Trung Hoa đã đưa đặc tính trọng vũ lực, độc
tôn, độc tài, thành một chủ thuyết. Đó là chủ thuyết Thiên Tử Thế Thiên, vua
Trung Hoa là con Trời, thay Trời thống trị mọi dân mọi vật dưới bầu trời.
Chủ thuyết nầy manh nha ở thời du mục Chu, phát triển ở thời
du mục Tần, và được Nhà Hán khai thác. *[144]
Vua Trung Hoa là Thiên tử Con Trời, các quan giúp Vua Trung
Hoa thống trị dân là Thần Thánh, là Thiên Triều.
Do đó, thiên hạ, mọi người, mọi vật dưới bầu trời, có nhiệm
vụ thiêng liêng là khuất phục mọi ý muốn của Vua chúa và quan lại Trung Hoa,
như là thần phục Trời và thần thánh, phát sinh chủ nghĩa Nô hóa thiên hạ : thiên
triều Trung Hoa có sứ mạng khuất phục mọi người thành nô lệ của Trung Hoa.
Thiên triều Trung Hoa thi hành chính sách Soán đoạt hủy diệt : chiếm đoạt mọi
hay tốt, và hủy diệt mọi vết tích trỗi vượt của những tộc dân khác.
Để thể hiện, thiên triều Trung Hoa dùng sách lược Ngoại nho
Nội pháp : bên ngoài, và ngoại giao, thì tuyên truyền chính sách nhân trị,
nhưng ngầm bên trong, và đối nội, thì khắc khe, tàn độc, sắt máu.
6.2. Đại họa Trung Hoa
Qua mọi biến cố suốt lịch sử Trung Hoa, bọn gian tham lợi dụng
chủ thuyết nầy, tụ tập thành Thiên triều, áp đặt quyền sinh sát tuyệt đối trên
toàn dân Trung Hoa, nô lệ hóa mọi dân sa vào móng vuốt chúng. Trung Hoa đã xâm
lăng nhiều nước, tàn sát nhiều sắc dân, đã soán đoạt, hủy hoại, sửa đổi,
xuyên tạc mọi di tích và tài liệu lịch sử.
Hiện nay, chủ thuyết quái ác nầy đang biến Trung Hoa thành
nguy cơ đại họa cho toàn thể Nhân loại. *[145]
*********
IX. VIỆT LẠC CUỐI THỜI HÙNG VÀ THỜI NHÀ TRƯNG
2665-2922 tH, 214 ttl-43 dl
1.
VIỆT LẠC CUỐI THỜI HÙNG
1.1. Khởi đầu Áp Lực Trung Hoa
trên Việt Lạc
Tần Thủy
Hoàng diệt Nhà Chu năm 2623 tH, 256 ttl, thống nhất Trung Hoa năm 2658 tH, 221
ttl, sai Đồ Thư năm 2665 tH, 214 ttl dẫn 50 vạn quân xâm lấn Việt Lạc. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Trung
Hoa áp lực vùng đất Việt Lạc, ở vùng Hồ Nam, nay là Quảng Tây, Quảng Đông.
Sau 3 năm Đồ Thư thua trận, bị giết. *[146]
Trước
đó, năm 1661 tH, 1218 ttl, Việt Lạc đã bị Ân Cao Tôn xâm lấn. Sau 3 năm, Ân Cao
Tôn bị đánh bại. Nhưng Ân Cao Tôn không phải người Hoa. Tộc Hoa chỉ thành hình
năm 1833 tH, 1046 ttl, 172 năm sau. *[147]
1.2. Việt Lạc với Triệu Đà
a. Nước Nam Việt
Năm
2672 tH, 207 ttl, Tần Thủy Hoàng lại sai tướng Triệu Đà đánh chiếm một
phần đất của Việt Lạc, nay thuộc Quảng Tây, Quảng Đông. Nhân việc Tần bị Hán diệt
năm 2673 tH, 206 ttl, Triệu Đà giết tất cả quan tướng của Tần, tự xưng Hoàng đế,
đặt quốc hiệu là Nam Việt, đóng đô tại Phiên Ngung, nay là Quảng Châu.
Triệu
Đà cố gắng thu phục lòng dân Việt Lạc trong vùng. Triệu Đà đặc biệt phát triển
về chính trị, quân sự, và văn hóa bản địa, để trở thành một đế quốc biệt lập với
triều Hán. Chính ông đã thay đổi nếp sống riêng, thay đổi trang phục, thay đổi
cách xưng hô, theo phong tục Việt Lạc, lấy vợ Việt.
Đang
khi đó, vùng Đồng Đình của Việt Lạc có Trường Sa Vương, và Việt Lạc Sông Hồng
có Vua An Dương.
Năm
2698 tH, 181 ttl, quân Hán đánh phá Nam Việt, nhưng đại bại. *[148]
b. Triệu Đà chiếm Thành Ốc -
Kết thúc Thời Hùng
Năm
2699 tH, 180 ttl, Triệu Đà chiếm đóng Thành Ốc (Loa Thành), trị sở của Việt Lạc
Sông Hồng, (nay là Cổ Loa, cách Hà Nội 15 km). Theo truyền kỳ Mỵ Châu, Triệu
Đà đã đánh bại Vua An Dương, với kế Trọng Thủy ở rể làm gián điệp.Năm 2699 tH,
180 ttl chấm dứt Thời Hùng. *[149]
2. VIỆT LẠC THỜI SUY VI
2.1. Nước Phụ dung của Nhà Triệu
Tuy Triệu Đà cai trị, nhưng chính Triệu Đà lại tự thay đổi
theo Dân Việt để mong thành lập một đế quốc riêng.
Vì vậy, trong 69 năm, 2699-2768 tH, 180-111 ttl, vùng Sông Hồng,
và trong 96 năm, 2672-2768 tH, 207-111 ttl, các vùng Nam Việt khác, Dầu sống
dưới triều Nhà Triệu, dân Việt Lạc vẫn tiếp tục sống theo Văn hóa của Tổ Tiên,
các Trưởng Lão Việt Lạc tiếp tục cai quản dân theo truyền thống. Lực lượng an
ninh cũng tiếp tục được củng cố.
Trên
thực tế, Việt Lạc Sông Hồng chỉ là một nước phụ dung. Thời kỳ nầy không thể coi
là thời Bắc thuộc. *[150]
2.2.
Thời Phụ Dung Tây Hán
a. Phụ dung đóng thuế
Năm 2768 tH, 111 ttl, Nam Việt bị Hán xâm lăng. Từ 2768 tới
2909 tH, 111 ttl - 30 dl, suốt 141 năm, tuy danh nghĩa là Nam Việt phụ thuộc
Nhà Hán, nhưng, sách vở Trung Hoa không nói tới vùng đất Việt Lạc.
Đây là dấu chỉ vào thời kỳ nầy, Việt Lạc vẫn chưa có liên
lạc nhiều với Hán. *[151]
Thời Tây Hán, 2673-2887 tH, 206 ttl - 8 dl, quan thứ sử các
vùng đất phụ dung có nhiệm vụ mỗi năm 3 tháng đi thu thuế về nộp cho triều
đình. Không có hệ thống cai trị trực tiếp, không có quân ngoại xâm trên phần đất
Việt Lạc.
Từ năm 2887 tới 2904 tH, 8 dl - 25 dl, là thời loạn lạc của
Trung Hoa, việc thu thuế cũng lơ là.
Trong suốt thời nầy, Việt Lạc là một nước phụ dung đóng thuế
cho triều Hán, như các thời sau triều cống. *[152]
b. Nếp sống Truyền thống
Theo thực trạng thời ấy, từ 2768-2909 tH, 111 ttl-30 dl,
ngoài việc mỗi năm 1 lần đóng thuế cho thứ sử, cuộc sống dân Việt Lạc vẫn như
cũ. Trung Hoa chưa chi phối nếp sống xã hội, văn hóa, chính trị, quân sự, an
ninh của Việt Lạc.
Trong suốt 141 năm đó, dân Việt Lạc vẫn tiếp tục sống nếp sống
truyền đời của Tổ Tiên. Việc cai trị vẫn ở trong tay các Trưởng Lão Việt Lạc.
Thành phần bảo vệ an ninh cho Làng, Nước, vẫn sinh hoạt bình thường.
Cuộc sống thường ngày của người Dân, nếp sống văn minh Lúa
Nước, kỹ thuật trồng cấy, kỹ nghệ đồ đồng đồ sứ, văn học, thơ văn, chữ viết...
của Việt Lạc, vẫn tiếp tục phát triển. Nếp sống Làng thôn, với tất cả đặc tính
và sức mạnh của thể chế Làng-Nước Việt Lạc, vẫn sống động và tăng trưởng. *[153]
2.3.
Hán Quang Vũ xâm lăng
Tình
hình thay đổi từ năm 2909 tH, 30 dl, khi Hán Quang Vũ áp đặt chính sách hà khắc,
đưa quan lại tới trực tiếp cai trị các vùng Việt Lạc. Từ đó xuất hiện quan quân
trú đóng, chiếm đoạt, tham ô, tàn ác. 4 năm sau, 2913 tH, 34 dl, thái thú Tô Định
khắc nghiệt thêm nhiều điều luật và sắc thuế mới. *[154]
3. VIỆT LẠC THỜI NHÀ TRƯNG
3.1. Việt Lạc kháng chiến
Từ năm
2909 tH, 30 dl, do Hán Quang Vũ áp đặt quan lại, cuộc sống Dân Nước toàn vùng
Việt Lạc, từ Đồng Đình, Quảng Tây, Quảng Đông, tới Sông Hồng, bỗng bị xáo trộn.
Toàn Dân Việt Lạc khắp nơi đều sẵn sàng đứng lên.
Toàn bộ
hệ thống và sức mạnh của xã hội, chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa... đều được
vận dụng để đối phó với giặc. Mọi nơi, mọi đơn vị lớn nhỏ, đều sẵn sàng, với lực
lượng, tổ chức, và thủ lãnh sẵn có. Trong tình trạng sôi động đó, do vùng Sông
Hồng ưu thế, do 2 vùng Mê Linh và Châu Diên quê của vợ chồng Trưng Trắc và Thi
Sách liên kết và chủ động, qua biến cố Tô Định giết hại Lạc Tướng Thi Sách, và
do truyền thống mẫu hệ mấy ngàn năm của Việt Lạc, Đức Trưng Trắc đã trở thành
Thủ Lãnh kháng chiến của toàn Dân Việt Lạc. *[155]
3.2. Thời Đức Đại Đế Đồng Đình
Lĩnh Nam
a. Tài Liệu. Tới gần
đây, sử Việt có rất ít tài liệu về cuộc khởi nghĩa của Dân Việt Lạc do Đức Trưng
Vương lãnh đạo.
Tài
liệu hầu hết đều trích dẫn từ sử Trung Hoa, phía đối nghịch, luôn thiếu xác thực,
nhiều chủ quan.
Gần
đây, nhờ những phát hiện ở Việt Nam và trên vùng đất của Việt Lạc xưa, đặc biệt
qua các Đền thờ, Thần tích, và di tích, chúng ta có thêm nhiều chi tiết đã
không được sách vở Trung Hoa ghi chép chính xác.
b. Theo lịch sử và di tích
Sử Việt
đã ghi lại các Sứ thần Đại Việt kính viếng Đền thờ Đức Trưng Vương và các Danh
Tướng của Ngài tại Hồ Đồng Đình, Thẩm Giang, Trường Sa, Phiên Ngung, Khúc
Giang, Uất Lâm, hiện nay thuộc các tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến
và Hải Nam. Nhiều nơi còn truyện tích, di tích các trận đánh thời Đức Trưng
Vương. Căn cứ trên các thần phả và di tích, hiện nay chúng ta có tên tuổi và tiểu
sử của 162 vị danh tướng thời Đức Trưng Vương. Các Vị đã được dân Việt Lạc thờ
kính trong suốt hai ngàn năm qua. Đền thờ của các Ngài đầy dẫy nhiều nơi khắp
vùng nay là Nam Trung Hoa, Bắc Phần và Bắc Trung Phần Việt Nam. Trước năm 4824
tH, 1945 dl, chỉ vùng ven sông Đáy, đã có Đền thờ của 94 vị. Hiện nay, di tích
vẫn còn nhiều. *[156]
Tiểu sử
các vị Anh Hùng cộng sự của Đức Trưng Vương chứng tỏ tinh thần của Toàn Dân Việt
Lạc đương thời. Các Ngài nổi dậy ở vùng Sông Hồng và khắp nơi. Nhiều vị đã đánh
giặc trước khi liên kết với Đức Trưng Vương. *[157]
c. Tiểu sử Mã Viện
Tiểu sử
tướng giặc Mã Viện, qua sử Trung Hoa, Mã Viện Truyện trong Hậu Hán Thư, do quan
Trung Hoa Phạm Diệp, viết cách đây hơn 1.500 năm, ghi nhận sức mạnh và địa bàn
hoạt động của nghĩa quân Việt Lạc thời đó. Theo Mã Viện Truyện, sau khi tướng
tá của 65 thành thua chạy, triều đình Hán hoảng hốt, không tướng nào dám nhận
quân. Quang Vũ phải phong tước vị tột bực toàn quyền cho tướng già Mã Viện, để
Mã Viện dám liều chết. Trước khi đi, Mã Viện để lại thư tuyệt mạng cho gia
đình. Mã Viện đưa 2.000 chiến thuyền lầu cao và 2 vạn quân. Mỗi chiến
thuyền chỉ có 50 quân thì tổng số đã là 10 vạn quân. *[158]
Chỉ
trong trận ra quân đầu tiên ở Hồ Đồng Đình, dưới sự chỉ huy tối cao của Đại Lão
Tướng quyền chức tột bực Mã Viện, 7 vạn thủy quân thiên triều đã tan tác trước
5 vạn quân của cô tướng trẻ Phật Nguyệt.
Đại tướng chỉ huy trưởng thủy quân Đoàn Chí cũng bỏ mạng trong trận nầy
! *[159]
d. Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam
Từ năm
2909 tH, 30 dl, toàn dân Việt Lạc đã vùng lên chống quân ngoại xâm Đông Hán.
Năm 2919 tH, 40 dl, Đức Trưng Vương ra quân, và trong mấy tháng, đã hoàn tất
việc tái chiếm toàn vùng đất Việt Lạc. Ngày nay là ngoài phần đất Nước ta, còn
gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, phần đất
phía nam Dương Tử của Tứ Xuyên và của Hồ Bắc, một phần của Giang Tây và của Phúc Kiến.
Đây là phần đất thuộc 2 Vùng Đồng Đình và Lĩnh Nam. Đức
Trưng Vương đáng được tôn hiệu Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. *[160]
Đức Đại
Đế Đồng Đình Lĩnh Nam qua đời ngày 6.2.2922 tH, 43 dl, khi mới 31 tuổi.
Trong
suốt lịch sử Nhân loại, cho đến hiện nay, chưa hề có một Nữ Nhân nào tạo chiến
công hiển hách, thần tốc, tái chiếm vùng đất mênh mông, như Đức Đại Đế Đồng
Đình Lĩnh Nam. Nam nhân có được mấy người ?
*********
X. PHỤ LỤC : TÓM GỌN 5.000 NĂM SỬ VIỆT XƯA, 2121 ttH-2922 tH, 5000 ttl-43 dl
1. THỜI KHỞI NGUYÊN 2121 NĂM,
2121 ttH-1 tH, 5000-2879 ttl
1.1. Hai Ông Bà Khởi Tổ và vùng
Đất Khởi Nguyên
a. Hồ Đồng Đình, năm 5000 ttl
Hai Ông Bà Khởi Tổ của Tộc Việt ở vùng Hồ
Đồng Đình, phía nam giữa sông Dương Tử, khoảng năm 2121 ttH, 5000 ttl, cách đây
7000 năm.
Từ đó,
Dân Việt ngày thêm đông đúc, tỏa lan khắp các vùng chung quanh. Vùng sông nước
Đồng Đình đã giúp Dân Việt thạo nghề đánh cá và nông nghiệp lúa nước. Nhờ nhiều
thuận hợp đặc biệt của vùng Đất Tổ Đồng Đình, dân Việt đã phát triển nền Văn
hóa Nông nghiệp Lúa nước nổi bật hơn những nền văn hóa lúa nước khác.
b.
Di tích Tiêu biểu Hai Ông Bà Khởi Tổ
1. Mấy trăm triệu con cháu. Ngày nay chúng ta không còn di
tích của Hai Ông Bà Khởi Tổ. Tuy nhiên, mấy trăm triệu con cháu Tộc Việt, trên
vùng đất mênh mông Á Đông, với một nền Văn hóa Việt đặc biệt, là di tích sống động
và trường tồn của Hai Vị Hiển Thánh Khởi Tổ Linh Thiêng.
2. Mẹ Tiên Cha Rồng. Dân Việt coi Mẹ là Bà Tiên và gọi
Cha là Ông Rồng. Theo đà phát triển, với tình kính quý và biết ơn sâu xa 2 Vị Tổ
Đầu Tiên, Tổ Tiên ta đã tôn 2 Ngài thành Biểu Tượng Tiên Rồng Linh Thiêng cao
quý nhất của Dân Việt. Dân Việt âu yếm gọi Ông Bà Khởi Tổ là Mẹ Tiên và Cha Rồng,
tự xưng là Dòng Giống Tiên Rồng.
1.2. Ba Giai đoạn Thời Khởi
Nguyên
a. Ba Giai đoạn 3 Vùng
Vì hạ
lưu sông Dương Tử còn úng nước, và vì thượng lưu Dương Tử núi rừng hiểm trở,
Dân Việt đã phát triển về hướng thượng lưu Sông Tương, gọi là Việt Thượng, rồi
vượt thượng lưu Sông Tương, tiến về Nam và phát triển với 3 Trung tâm chính là
vùng Đồng Đình Sông Tương, lưu vực Tây Giang, lưu vực Sông Hồng Sông Mạ.
b. Đặc điểm
Biệt
tài trên sông nước là hãnh diện của Tộc Việt từ thời Khởi Nguyên ở vùng Hồ Đồng
Đình đến hiện nay. Trên đường Nam tiến, vượt biển về giữa cửa Tây Giang và Sông
Hồng, dân Việt phương Nam đã phát triển tuyệt nghệ vượt biển. Hơn nữa, từ nhiều
ngàn năm trước, nhà sàn mái cong là đặc điểm của vùng Sông Hồng xuôi nam. *[161]
c.
Di tích Tiêu biểu Thời Khởi Nguyên
1. Chữ Việt Vượt Biển 越. Hãnh diện với tuyệt nghệ vượt
biển, hình ảnh vị Thủ Lãnh trên Thuyền vượt biển trở thành biểu hiệu của dân Việt
phương Nam. Hình ảnh nầy trở thành chữ Việt 越 cho
toàn thể Dân Việt. *[162]
2. Chữ Lạc Rùa Thần
3. Chữ Thượng Nhà sàn 常. Chính hình vẽ nhà sàn mái cong là nguồn gốc của chữ Thượng
常. Chữ Việt Thượng 越 常 chỉ vùng Đất Dân Việt từ
thượng lưu Sông Tương xuôi Nam. *[163]
2.
THỜI HÙNG : 2.699 NĂM, 1-2699 tH, 2879-180 ttl
2.1. Khởi đầu Thời Hùng
Thời
Hùng khởi đầu năm 1 tH, 2879 ttl, hơn 2000 năm sau Ông Bà Tổ, khi dân Việt đã tỏa
lan khắp vùng Á Đông.
Ngoài
3 vùng phát triển chính, Tộc Việt cũng đã có mặt trên khắp vùng từ Hồ Đồng
Đình, rải rác dọc theo Sông Dương Tử ra tới Biển, lên phía Bắc tới ranh thiên
nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, về miền rừng núi phía Tây tới sông Cửu Long, và xuống
phương Nam tới vùng đường ranh Hải Vân.
Những
điều kiện địa lý và khí hậu đã biến 2 vùng Đồng Đình và Sông Hồng thành 2 trung
tâm Nông nghiệp Lúa nước quan trọng nhất trong vùng.
2.2. Di tích Tiêu biểu Đầu Thời
Hùng
5.000 năm lịch sử. Dân
Việt ghi nhớ năm Khởi đầu Thời Hùng liên tục đếm thời gian : "Dân Việt có
5.000 năm lịch sử". (2879 +2023 = 4902 tH).
2.3.
Kết thúc Thời Hùng
Thời
Hùng kết thúc năm 2699 tH, 180 ttl, khi Thành Ốc của Vua An Dương bị Triệu Đà
xâm chiếm. Thành Ốc nay là Cổ Loa, gần Hà Nội.
- Thời Hùng bao trùm tất cả mọi biến cố của
Tộc Việt. Nhưng Trung Hoa đã đánh lận 1 phần lịch sử Tộc Việt thành
của họ. Dầu vậy, để chia Thời Hùng, ta có thể theo các thời kỳ sẵn có. *[164]
3.
THỜI HÙNG 1 : 809 NĂM, 1-809
tH, 2879-2070 ttl. Thời nầy
chia là 2 giai đoạn.
3.1. Thời Hùng 1A: 179 Năm, 1-179 tH,
2879-2700 ttl - Gồm cả thời
Tam Hoàng
a. Ba Vị Tam Hoàng
Tam
Hoàng là Nữ Oa, Phục Hy, Thần Nông. Tam Hoàng đã sống trước khi tộc Hoa thành
hình hơn 1.800 năm. Từ cách gọi tên tới tiểu sử, Tam Hoàng đều thuộc nền văn
hóa nông nghiệp lúa nước. Vì vậy, quê hương của các Vị chỉ có thể là vùng Hồ Đồng
Đình, và các Vị là Dân Việt. *[165]
b. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng
1A.
Tam
Hoàng : Nữ Oa mặc
áo lông chim, Nữ Oa và Phục Hy có đuôi rắn, thuộc văn hóa Tiên Rồng của dân Việt.
Thần Nông là vị thần vùng Nông nghiệp lúa nước. (hình). *[166]
3.2.
Thời Hùng 1B : 630 Năm,
179-809 tH, 2700-2070 ttl. - Gồm cả
thời Ngũ Đế
a. Ngũ Đế - Việt Lạc
Ngũ Đế
gồm : Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Như với Tam Hoàng, sử
Trung Hoa đã biến Ngũ Đế thành tổ của tộc Hoa. Tuy nhiên, lý lịch của 5 Ngài chứng
tỏ 5 Ngài thuộc nền văn hóa gốc nông nghiệp lúa nước của Tộc Việt, ở vùng lúa nước Đồng Đình. *[167]
Các Trung tâm phát triển khác của Tộc Việt, là Tây Giang và
Sông Hồng, cũng tiếp tục phát triển.
b.
Đặc điểm
1. Rùa Việt Thượng. Năm Đế Nghiêu thứ 5, 688 tH,
2191 ttl, Sứ giả Việt Thượng dâng Rùa, trên mu ghi chữ. Đế Nghiêu ghi lại gọi
là Lịch Rùa.
Cho tới hiện nay, khắp vùng Á Đông, loại Rùa
ngàn năm nầy chỉ có ở lưu vực Sông Hồng và Sông Mạ. (Hồ Hoàn Kiếm). Vậy thời
đó, 688 tH, 2191 ttl, dân Việt Sông Hồng đã có chữ viết và lịch truyền tới các
vùng khác.
2.
Rùa thần Sách Lạc. Cuối
Thời Hùng 1B, có truyền thuyết Đại Vũ được Rùa thần trên mu ghi Sách Lạc, biểu
trưng bằng 9 nhóm chấm trên lưng Rùa Thần. Đại Vũ học được cách trị thủy và
cách trị dân.
Như vậy, truyền thuyết Rùa thần Việt Thượng và Rùa thần
Sách Lạc có cùng một nguồn gốc và cùng một nội dung. Chỉ khác nội dung truyện
Rùa thần Sách Lạc súc tích và chi tiết hơn. Sách Lạc là của Việt Lạc.
c.
Di tích Tiêu biểu Thời Hùng 1B
1. Rùa thần ngàn năm. Khắp Á Đông,
chỉ có vùng Sông Hồng Sông Mạ có loại Rùa khổng lồ ngàn năm nầy.
2. Chữ Việt Sách Lạc
粤. Dân
Việt Sông Hồng dùng hình Rùa thần mang Sách Lạc làm biểu hiệu riêng. Hình Rùa
thần mang Sách Lạc đã trở thành chữ Việt 粤 riêng
của dân Lạc. *[168]
3. 4.200 năm Văn hiến. Để
ghi nhớ thời dân Việt Lạc Sông Hồng đã có thể phổ biến chữ viết và kiến thức của
mình, Tổ Tiên ta có câu "Ta có 4.000 năm Văn hiến". Hiện nay đã là
4.200 năm.
4.
THỜI HÙNG 2 : 470 NĂM, 809-1279 tH,
2070-1600 ttl - Gồm cả
NHÀ HẠ
4.1. Thời Hùng 2A : 270 Năm, 809-1079 tH, 2070-1800 ttl - Gồm cả
Tiền Hạ
a. Nhà Hạ - Các vùng Việt
khác
Năm
809 tH, 2070 ttl, sau khi theo Sách Lạc
để khai thông đường thủy, thoát nước vùng hạ lưu sông Dương Tử, Đại Vũ trở
thành người cai trị vùng đất mới khai phá, tức là vùng Đất Hạ. Sau đó, Ông
thành lập Nhà Hạ.
Sử
Trung Hoa chỉ chú trọng Nhà Hạ, đánh tráo Việt Hạ thành tổ tiên người Hoa.
Nhưng các vùng Việt khác vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Đặc biệt, vùng Sông Hồng
đã nổi danh kỹ thuật trị thủy và đường lối cai trị của Đại Vũ.
Nhờ
cho trâu kéo cày, vùng Sông Hồng Việt Thượng và Việt Hạ đã phát triển mạnh về
kinh tế, cuộc sống, dân số.
b. Di tích Tiêu biểu Thời
Hùng 2A
1.
Chữ Hạ Trâu Cày 夏.
Hình vẽ trâu kéo cày là biểu hiệu của Việt Hạ thời đó, trở thành chữ Hạ 夏.
*[169]
2.
Chữ Hồng Thủy
Ngưu 洚. Thay
hình vẽ trâu kéo cày, người Việt Lạc Sông Hồng viết tên Hồng 洚 cách trí thức hơn (vì đã có chữ
viết từ lâu), bằng cách ghép các chữ. *[170]
4.2. Thời Hùng 2B 200 Năm, 1079-1279 tH, 1800-1600 ttl - Gồm cả
Hậu Hạ
a. Vượt Sông Hoài.
Từ
năm 1079 tH, 1800 ttl, người dân Việt Hạ đã vượt Sông Hoài, lên lưu vực Hoàng
Hà.
b. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng
2B. Khảo cổ nay coi vùng đất Sông Vị chảy vào Hoàng Hà là đất
Nhà Hạ.
5. THỜI HÙNG 3: 554 NĂM, 1279-1833 tH, 1600-1046 ttl - Gồm cả Nhà Thương
5.1. Thời Hùng 3A: 300 Năm, 1279-1579
tH, 1600-1300 ttl - Gồm cả
Tiền Thương
a. Nhà Thương - Đồ đồng
Năm
1279 tH, 1600 ttl, sau 200 năm được trợ lực bởi kỹ thuật, văn hóa, và nhân sự của
Dân Việt mới nhập cư, dân địa phương vùng đông bắc Sông Hoài đã có thể thành lập
Nhà Thương. *[171]
Trong
thời kỳ nầy, dân Việt vùng Dương Tử cũng phát triển mạnh, đặc biệt xuất sắc nghề
đúc đỉnh và vạc đồng. *[172]
Đang
khi đó, dân Việt Lạc Sông Hồng trỗi vượt trong nghề đúc trống đồng. Hiện nay,
vùng Việt Lạc vẫn là nơi phát hiện nhiều trống đồng cổ nhất. Cho đến năm 1980
dl, Việt Nam có 360 trống đồng cổ, trong đó có 140 trống thuộc loại Đông Sơn.
Tới 1988, Trung Quốc đã tìm được 1.460 trống đồng cổ. Hầu hết là ở vùng
Việt Lạc xưa.
b. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng
3A
1. Đông Di. Dầu
lạm nhận Nhà Thương thành tiền sử, dân Hoa vẫn coi Nhà Thương là Đông Di,
dân mọi rợ ở phía Đông, không phải tộc Hoa.
2. Đồ đồng Dương Tử. Ngày
càng nhiều phát hiện ở các di chỉ 2 bên bờ Dương Tử.
3. Văn minh Trống đồng Việt Lạc. Hiện
nay, ngoài vùng Việt Lạc, các vùng khác có rất ít trống đồng cổ.
5.2.
Thời Hùng 3B 254 Năm, 1579-1833 tH, 1300-1046 ttl - Gồm cả Hậu Thương / Ân
a. Nhà Ân
Năm
1579 tH, 1300 ttl, Nhà Thương dời đô tới An Dương, thuộc đất Ân, gọi là Nhà Ân,
hùng mạnh, lấn chiếm vùng phía nam Sông Hoài. *[173]
Năm
1661 tH, 1218 ttl, Ân Cao Tôn xâm lăng vùng Đồng Đình của Việt Lạc. Đây là thời
cường thịnh nhất của Nhà Ân. Dầu vậy, 3 năm sau, Ân Cao Tôn bị dân ta đánh bại.
Tuy nhiên, thời gian xâm lăng đã đủ để Ân Cao Tôn cướp đoạt Dân Việt ở toàn
vùng sông Dương Tử. *[174]
Do đó,
thủ đô An Dương trở thành kho chứa báu vật, đồ đồng và chữ viết, gia sản của
Dân Việt.
Hiện
nay đã khám phá tại An Dương hàng ngàn đồ đồng, và khoảng 5.000 chữ viết trên
xương, hơn 3.000 chữ đã chuẩn xác. Nhưng tại An Dương không có dấu vết thời sơ
khai của chữ viết và kỹ nghệ đúc đồng. Tất cả đều đột hiện ở An Dương từ khi
nhà Ân cướp phá dân Việt phương Nam.
Đang
khi đó, dân Việt Lạc Sông Hồng đã kiện toàn nếp sống đem lại thịnh vượng, thanh
bình, và hạnh phúc. Vào cuối Thời Hùng 3B, kỹ thuật đúc đồ đồng của Lạc Hồng đã
bước vào thời tuyệt kỹ. *[175]
b. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng
3B
1. Truyền kỳ Phù Đổng. Cuộc
chiến đấu chống Ân Cao Tôn đã trở thành Truyền kỳ dạy Việc Cứu Nước.
2. Chữ Viết và Đồ Đồng của Dân Việt. 5000
chữ viết, hàng ngàn đồ đồng, đặc biệt đỉnh và vạc đồng. (hình).
3. Tuyệt tác đồ đồng Việt Lạc,
đặc biệt Thạp và Trống. (hình).
6. THỜI HÙNG 4 : 866 NĂM,
1833-2699 tH, 1046-180 ttl
6.1. Thời Hùng 4A : 275 Năm,
1833-2108 tH, 1046-771 ttl - Đồng thời với Tây Chu
a. Tộc Hoa – Nước Sở – Lạc
Hồng
Năm
1833 tH, 1046 ttl, sau thời gian tụ tập các bộ lạc du mục ở vùng Thiểm Tây khô
cằn giá lạnh, bộ tộc Chu thành lập Nhà Chu ở thung lũng Sông Vị. Từ đó, tộc Hoa
thành hình. Tộc Hoa thuộc nền văn hóa gốc du mục.
Về
lãnh thổ, dân số, văn minh, văn hóa, sức mạnh quân sự, tộc Hoa chỉ bằng 1 phần
nhỏ của dân Việt thời đó.
Dân Việt
vùng Dương Tử đã có Nước Sở và Nước Việt hùng mạnh. Nhưng thời kỳ nầy, sách
vở Trung Hoa chỉ biết tới nước Sở ở Bắc Dương Tử.
Sử
Trung Hoa ghét phục sức, tính tình, phong tục, ca nhạc nước Sở, vì khác với tộc
Hoa du mục. Sở hùng mạnh thời 1849-2656 tH, 1030-223 ttl.
Dân Việt
Lạc vùng Sông Hồng đã đông đúc, phồn thịnh, phát triển vượt bực mọi phương diện,
đặc biệt về văn hóa, văn học, tư tưởng, học thuyết.
Đặc điểm
tuyệt vời của Lạc Hồng là đúc Thạp và Trống đồng để lưu truyền nền Văn minh và
Văn hóa Việt, nhất là mã hóa trọn 4 Học thuyết Việt.
Với chữ
viết thuần từ hơn 1000 năm, tất nhiên dân Lạc Hồng thấu triệt và ghi chép
toàn bộ các Học thuyết.
b.
Di tích Tiêu biểu Thời Hùng 4A
1. Đồ đồng nước Sở có
nhiều hình và trang trí chim, rắn. (hình).
2. 3.000 năm Học thuyết Lạc Hồng. Trên
Thạp Đào Thịnh và Trống Ngọc Lũ, Tổ Tiên Lạc Hồng đã lưu truyền 4 Học thuyết Việt
: Đất Trời 5 Hành, Âm Dương Hoán Dịch, Tiên Rồng Song Hiệp, Đạo Đức
Tuệ Linh.
Và
Lịch Rùa, Sách Lạc, Kinh Lễ, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Nhạc...
3. Chữ Việt Đồ Đồng
越. Hãnh
diện và trao truyền cho con cháu thành công của mình, dân Việt Lạc Sông Hồng đã
sáng tạo một chữ Việt thứ ba 鉞 với
chữ Kim 金, đồ đồng.
Chữ Việt 鉞 ghi dấu
3.000 năm Tuyệt kỹ đồ đồng, cũng là 3.000 năm Học thuyết Lạc Hồng.
6.2. Thời Hùng 4B : 564 Năm,
2108-2672 tH, 771-207 ttl - Đồng thời với Đông Chu và Tần
a.
Nước Tần – Nước Việt – Việt Lạc
Năm 2108 tH, 771 ttl, nhóm du mục Khuyển Nhung từ Ninh Hạ
chiếm vùng Sông Vị, lập Nước Tần. Nhà Chu chạy về phía đông, gọi là Đông Chu.
Du mục Tần tàn bạo hơn du mục Chu. Dân chịu hơn 500 năm loạn lạc thời Xuân Thu
và Chiến Quốc. Tần Thủy Hoàng diệt tất cả các nước quanh, lập nước Trung Hoa
năm 2658 tH, 221 ttl.
Các biến
động ở miền bắc đã lan xuống phần đất giữa Sông Hoài và Dương Tử của Dân Việt,
bị kết chung với miền bắc, gọi là Trung Nguyên.
Miền
Nam Dương Tử có Nước Việt, thủ đô là Cối Kê, do Đại Vũ thành lập từ 1600 năm
trước, trở thành hùng mạnh. Năm 2396 tH, 473 ttl, Việt Câu Tiển tiến lên phía bắc,
chiếm nước Ngô. Dân Việt Lạc ở vùng Đồng Đình và Việt Thượng vẫn tiếp tục phát
triển trong thanh bình, và sáng tạo nhiều tuyệt tác tri thức cũng như kỹ thuật.
Dân Việt
Lạc đã đánh thắng 50 vạn quân Tần. Năm 2665 tH, 214 ttl, Tần Thủy Hoàng sai Đồ
Thư kéo tinh nhuệ, vừa thống nhất Trung Nguyên, xâm lăng vùng đất Việt Lạc. Đây
là lần đầu tiên Việt Lạc bị ảnh hưởng của Trung Hoa. Nhưng sau 3 năm, Đồ Thư bại
trận và bị giết.
b. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng
4B
1. Nước Việt Chiết Giang. Việt
Câu Tiển là 1 trong Ngũ Bá thời Xuân Thu.
2.
Việt Lạc đánh bại 50 vạn quân Tần. Đoàn quân của Tần Thủy Hoàng bị
đại bại ở Việt Lạc.
6.3.Thời Hùng
4C : 27 Năm, 2672-2699 tH, 207-180 ttl - Việt Lạc với Triệu Đà
a. Nước Nam Việt - Kết thúc
Thời Hùng
Năm
2672 tH, 207 ttl, tướng Triệu Đà chiếm vùng Quảng Đông và Quảng Tây của Việt Lạc,
lập nước Nam Việt.
Nhưng
vì muốn lập 1 đế quốc riêng, Triệu Đà đã tự mình thay đổi theo phong tục, cách
sống của Dân Việt Lạc. *[176]
Vùng
Việt Lạc Đồng Đình có Trường Sa Vương, vùng Việt Lạc Sông Hồng, trung tâm Việt
Lạc, có Vua An Dương.
Năm
2699 tH, 180 ttl, với kế cho Trọng Thủy ở rể làm gián điệp, Triệu Đà chiếm
Thành Ốc, trị sở của Việt Lạc. Thời Hùng kết thúc. *[177]
b.
Di tích Tiêu biểu Thời Hùng 4C
1. Truyền kỳ Mỵ Châu. Kinh
nghiệm mất nước đã trở thành Truyền kỳ dạy Việc Giữ Nước. (bản đồ).
2. Tượng Mỵ Châu không đầu. Vì trọn
tình Nhà, Mỵ Châu được thờ kính. Nhưng vì có trách nhiệm làm mất Nước, (bị chém
đầu), và được thờ với tượng không đầu. (hình). *[178]
7. THỜI SUY VI : 1086 NĂM, 2699-3785 tH, 180 ttl - 906 dl. Thời
Suy Vi có 5 giai đoạn :
7.1. Thời Phụ Dung : 210 Năm, 2699-2909 tH,
180 ttl - 30 dl
Trong
69 năm, 2699-2768 tH, 180-111 ttl, vùng Sông Hồng (và trong 96 năm, 2672-2768
tH, 207-111 ttl, các vùng Nam Việt), dầu sống dưới triều Nhà Triệu, dân Việt Lạc
vẫn tiếp tục sống nếp sống và thể chế của Tổ Tiên, nên chỉ là một nước phụ
dung. *[179] - Từ
2768-2909 tH, 111 ttl-30 dl, Nam Việt trở thành một nước phụ dung đóng thuế cho
triều Hán. (Như việc triều cống của các thời sau). *[180]
Năm
2909 tH, 30 dl, Việt Lạc bị Hán Quang Vũ đưa quan lại tới trực tiếp cai trị, áp
đặt chính sách Trung Hoa. *[181]
7.2.
Nhà Trưng :
13 Năm, 2909-2922 tH, 30-43 dl - Đức Đại
Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.
a.
Nhà Trưng
Từ năm
2909 tH, 30 dl, toàn thể Việt Lạc đã vùng lên chống giặc Hán, Đức Trưng Trắc trở
thành Thủ Lãnh. *[182]
Năm 2919 tH, 40 dl, Việt Lạc tái chiếm toàn vùng đất Việt Lạc.
Ngày nay, ngoài Việt Nam, còn Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, Vân Nam, Quí
Châu, Hồ Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến.
Đây là
đất của 2 Vùng Đồng Đình và Lĩnh Nam. Đức Trưng Vương được tôn là Đại Đế Đồng
Đình Lĩnh Nam. *[183]
b. Di tích Tiêu biểu Thời Nhà
Trưng
2000
năm qua, dân Việt Lạc từ Mê Linh tới Hồ Đồng Đình, đều lập đền thờ kính Đức Đại
Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.
7.3.
Bắc Thuộc lần 1 :
498 Năm, 2922-3420 tH, 43-541 dl
Năm
2922 tH, 43 dl, giặc Hán áp đặt chế độ trực trị, khởi đầu thời Bắc thuộc. *[184]
Từ
2922-3420 tH, 43-541 dl, dài 498 năm, Bắc thuộc có nhiều giai đoạn và tình huống
khác nhau, tùy theo tình hình và những thay đổi triều đại, đặc biệt tùy những
xáo trộn trong nội bộ Trung Hoa.
Đây là
thời kỳ giặc Tàu cướp phá, soán đoạt, mạo nhận, xóa bỏ nguồn gốc những gì hay tốt,
xóa bỏ vật dụng và nền văn minh, học thuyết, văn hóa của Việt Lạc, đặc biệt của
Việt Lạc Sông Hồng.
Bà
Triệu khởi nghĩa, năm 3127 tH, 248 dl. *[185]
7.4.
Nhà Tiền Lý :
61 Năm, 3420-3481 tH, 541-602 dl
Đức
Nam Việt Đế, (Lý Nam Đế), khởi nghĩa năm 3420 tH, 541 dl, thành công từ năm
3423 tH, 544 dl. Lần đầu tiên sách vở Trung Hoa ghi lại một vua Việt Lạc với
Đế hiệu. Niên hiệu là Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân.
Nhà Tiền Lý dài 61 năm. *[186]
7.5.
Bắc Thuộc lần 2 : 304
năm, 3481-3785
tH, 602-906 dl
Mai Hắc
Đế, khởi nghĩa năm 3601 tH, 722 dl. *[187]
Bố Cái Đại Vương, khởi nghĩa năm 3670 tH, 791 dl. *[188]
7.6.
Bắc Thuộc 802 năm.
Bắc
thuộc lần 1, 2922-3420 tH, 43-541 dl, gồm 498 năm.
Bắc thuộc lần 2, 3481-3785 tH, 602-906 dl, gồm 304 năm.
Tổng cộng 2 lần Bắc thuộc là 802 năm.
8. THỜI PHỤC
HƯNG : TỪ 3785 tH, 906 dl
8.1. Từ
năm 3785 tH, 906 dl, dân Việt vùng Giao Châu, Bắc Việt Nam ngày nay, giành
quyền tự trị, mở đầu thời Phục Hưng nền tự chủ và nếp sống Việt, ranh giới phía
bắc của Giao Châu thành ranh giới nước Đại Việt.
Năm
3785 tH, 906 dl, Khúc Thừa Dụ được dân bầu (chúng cử) thành thủ lãnh cai trị
Giao Châu. Năm sau, quân Tàu kéo qua, nhưng đại bại. Năm 3810 tH, 931 dl, tướng
Dương Diên Nghệ nối tiếp cuộc khởi nghĩa. *[189]
Năm
3817 tH, 938 dl, tướng Ngô Quyền đại thắng giặc Nam Hán ở sông Bạch Đằng, thành
lập Nhà Ngô. *[190]
Từ
đây, tuy cần được nhuận chính theo đúng tinh thần tự chủ, nhưng đã có nhiều tài
liệu Việt Nam.
8.2. Tộc Việt năm 4879 tH,
2018 dl
Việt
Nam, Trung Hoa & Đông Nam Á 2018 hôm
nay
|
Dân
số |
km2 |
sqm |
Việt
Nam |
95.000.000 |
331.000 |
127.760 |
Nam
Trung Hoa |
906.000.000 |
2.829.000 |
1.091.990 |
Myanmar |
54.000.000 |
677000 |
261.300 |
Thái
Lan |
69.000.000 |
513.000 |
198.000 |
Lào |
7000.000 |
238.000 |
91.860 |
Đài
Loan |
23.000.000 |
36.000 |
13.890 |
Quốc
Tế |
30.000.000 |
|
|
TỔNG
SỐ |
1.184.000.000 |
4.624.000 |
1.784.864 |
PHẦN 2 MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LỊCH SỬ, VĂN HÓA
XI. BỐN CHỮ VIỆT LINH
THIÊNG -
Kính dâng Tổ Tiên Linh Hiển
1.
TÊN VÀ CHỮ “VIỆT”
Trong
kho tàng vô giá của Tổ Tiên, tên ‘Việt’ và chữ viết tên ‘Việt’ là di sản linh
thiêng và quý báu nhất. Trong Tên và Chữ ‘Việt’, Tổ Tiên đã lưu truyền trọn vẹn
tinh hoa và niềm hãnh diện của Dòng Tộc.
Cho
đến hiện nay, có 4 chữ ‘Việt’ ghi nhận những dấu ấn quan trọng nhất
trong Lịch Sử và Văn Hóa Việt Lạc, Việt Nam ngày nay :
- Chữ Việt 越 Vượt
Biển, ghi nhận 6.000 năm Lịch sử Việt Lạc,
- Chữ Việt 粵 4.200 năm Văn hiến, văn minh, văn hóa, văn học và chính
trị của Việt Lạc,
- Chữ Việt 鉞 3.000
năm Tuyệt kỹ đồ đồng và 4 Học thuyết tuyệt vời của Việt Lạc, và
- Chữ Việt
2. BA CHỮ VIỆT XƯA
Thời trước, chúng ta có 3 chữ để viết tên Việt : 越, 粵, 鉞.
2.1.
Chữ Việt Vượt Biển
越
Biệt
tài trên sông nước là hãnh diện của Tộc Việt từ thời ở vùng Hồ Đồng Đình đến
nay. Khi nam tiến và đi về giữa Tây Giang và Sông Hồng, tài vẫy vùng sông hồ ở
Đồng Đình đã phát triển thành tuyệt nghệ vượt biển. *[191]
Vì vậy,
hình ảnh vị Thủ Lãnh chỉ huy trên Thuyền vượt biển đã trở thành hình ảnh biểu
hiệu đặc biệt và linh thiêng cho tài năng và niềm tin của dân Việt. Từ đó, hình
ảnh nầy trở thành chữ Việt 越. *[192]
Chữ
Việt nầy là do Dân Việt miền Nam, khi xuống tới Sông Hồng Sông Mạ,
khoảng năm 4.000 ttl, cách đây 6.000 năm, đã được dùng để chỉ toàn thể
Tộc Việt, kể từ thời Khởi nguyên, 5.000 ttl.
2.2.
Chữ Việt Sách Lạc
Theo
truyền thuyết, năm Đế Nghiêu thứ 5, 688 tH, 2191 ttl, Sứ giả Việt Thượng dâng
Rùa Thần ngàn năm, trên mu có khắc chữ về chuyện trời đất vận chuyển và lịch
trình cày cấy. *[193]
Đại Vũ
được Rùa Thần tặng Sách Lạc năm 809 tH, 2070 ttl, biểu trưng bằng 9 nhóm chấm
trên lưng Rùa Thần. *[194]
Thời
thành lập nhà Chu năm 1833 tH, 1046 ttl, Chu Văn Vương cũng học Sách Lạc, và
viết Kinh Dịch.
Trong
mấy ngàn năm qua, Sách Lạc được tôn xưng là Sách Thần. Hãnh diện với văn minh và văn hóa tiên
tiến, Dân Việt Lạc Sông Hồng, Việt Nam ngày nay, đã dùng hình ‘Rùa Thần mang
Sách Lạc’ làm biểu hiệu.
Từ đó,
hình ‘Sách Lạc trên lưng Rùa Thần’ trở thành chữ ‘Việt’ 粤 của Việt Thượng, chữ ‘Việt Sách Lạc’. *[195]
2.3.
Chữ Việt Đồ Đồng 鉞
Thời
Đồ Đồng của Việt Lạc đã bước vào thời tuyệt kỹ của kỹ thuật đúc
trống đồng năm 1879 tH, 1000 ttl.
Qua
trang trí, hoa văn, và hình dạng độc đáo của Thạp và Trống Đông Sơn, đặc biệt của
Thạp Đào Thịnh và Trống Ngọc Lũ, Tổ Tiên Lạc Hồng đã mã hóa và lưu truyền toàn
bộ ý niệm và học thuyết Việt. *[196]
Hãnh
diện với kỹ thuật tuyệt hảo trong nghệ thuật đúc đồng, và nhất là để ghi nhớ
việc lưu truyền các Học thuyết trên thạp và trống đồng, Tổ tiên Việt
Nam đã tạo thêm một chữ ‘Việt’ mới.
Thay vì dùng hình ảnh vị Thủ Lãnh
2.4.
Ba Chữ Việt, Ba Chữ Lạc
Đặc biệt cùng lúc sáng tác 3 Chữ Việt, Tổ Tiên tạo 3
Chữ Lạc đi kèm. Với chữ Việt Vượt Biển 越, khi tới vùng Sông Hồng Sông Mạ, gặp được Rùa Thần,
Tổ Tiên ghi lại Tên Lạc và Chữ Lạc Rùa Thần
và nhiều trống đồng cùng thời, và Chữ Lạc Biệt Tài
貉, ghi nhớ 3 tuyệt kỹ đương
thời. *[197]
3. Ý NGHĨA 3 CHỮ VIỆT
3.1. Ba chữ Việt 3 Giai Đoạn
Chữ Việt Vượt Biển 越 là chữ Việt, cùng với chữ
Lạc Rùa Thần
Chữ Việt
Sách Lạc 粵, trên lưng Rùa Thần mang Sách Lạc
Chữ Việt
Đồ Đồng 鉞 là chữ
Việt Thạp Trống Đông Sơn tuyệt kỹ, cùng với chữ Lạc Biệt Tài 貉, là - chữ Việt của Dân Lạc
xác chứng tinh hoa kỹ thuật Lạc Hồng từ năm 1000 ttl, - chữ Việt lưu chứng 3000
Năm Kỹ thuật Việt Lạc xuất chúng và Học thuyết Việt Lạc cao siêu. (1000 +
2013 = 3013).
3.2. Ba chữ Việt 3 Đặc Trưng
Chữ Việt Vượt Biển 越 là chữ Việt của Dân Việt lướt sóng dưới sự hướng dẫn và
phù hộ của Tổ Tiên, (các đàn chim) - chữ Việt từ Đất Tổ Đồng Đình vượt rừng
vượt biển, tung cánh khắp bốn phương, - chữ Việt quyết tâm, tinh lanh, dũng cảm,
- chữ Việt tự hào của toàn thể Tộc Việt.
Chữ Việt Sách Lạc 粵 của
Việt Lạc thấu suốt việc đất trời cao siêu, (với Đế Nghiêu) chữ Việt dạy các
Thánh Vương an dân thịnh nước, (với Đại Vũ) chữ Việt giải quyết mọi biến dịch
trong cuộc sống, (với sách Dịch, Chu văn Vương) chữ Việt đem thanh bình, thịnh
vượng, hạnh phúc cho con người.
Chữ Việt Đồ Đồng 鉞 là chữ Việt của Việt Lạc hãnh diện nền văn minh đồ đồng
tinh xảo hơn ngàn năm, - chữ Việt thêm lẫy lừng với những tuyệt tác Đông Sơn, -
chữ Việt bảo chứng kỹ thuật và nghệ thuật Tộc Việt, - chữ Việt tàng trữ văn
minh và tinh hoa các Học Thuyết vô giá của Lạc Hồng.
3.3.
Ba chữ Việt 3 Sắc Thái
Chữ Việt
Vượt Biển 越 là Chữ Việt Thần Võ, chữ Việt
khai phá, thắng vượt, trị an diệt tà, chữ Việt cường thịnh.
Chữ Việt Sách Lạc 粵 là Chữ Việt Thánh Văn, chữ Việt an dân thịnh nước, văn học
nghệ thuật, chữ Việt hạnh phúc.
Chữ Việt Đồ Đồng 鉞 là Chữ
Việt tuyệt kỹ, phát triển, văn minh, chữ Việt thăng tiến kỹ nghệ, khoa học, ấm
no.
3.4. Ba chữ Việt một Việt Nam
Cả 3
chữ 越 粵 鉞, gồm trọn 3 chữ, là dân Việt,
Việt Lạc, Tộc Việt.
Cả 3
chữ đều là Việt Thần Võ, Việt Thánh Văn, Việt Tuyệt Kỹ, đều là Việt cường thịnh,
Việt hạnh phúc, Việt ấm no.
Cả 3
chữ đều là Khởi nguyên Tộc Việt trỗi vượt, là Văn Hiến Việt Lạc rạng ngời,
là Học Thuyết Việt Lạc cao siêu, là Kỹ thuật Việt xuất chúng. Trọn 3 chữ, đều là Việt, Việt Lạc, Đại
Việt, Đại Nam, Việt Nam.
4.
CHỮ
Đây là chữ Việt thứ 4, chữ Việt theo mẫu tự la tinh
Chữ
Đây là Chữ
Việt Xuyên Vượt,
- chữ Việt của năm 4879 tH, năm 2000 dl, - chữ Việt 7000 năm tích tụ tâm huyết và thần
trí của Tổ Tiên,
- chữ Việt của Dân Việt trở thành tác nhân thăng tiến Thế
giới,
- chữ Việt phổ biến nền Văn hóa Tình Người để vực dậy Loài
Người,
- chữ Việt thể hiện những kỳ diệu của Kỷ nguyên
Bảo Bình. *[199]
Đây là chữ Việt gồm trọn 4 chữ 越, 粵, 鉞,
XII. NGUỒN GỐC TIÊN RỒNG
LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ : MƯU ĐỒ ĐỒNG HÓA TỘC
VIỆT VÀO TỘC HOA
1. TỔNG QUAN
1.1.
Con Cháu Tiên Rồng
a.
Niềm Tự Hào
Từ
ngàn xưa, dân Việt vẫn tự hào mình là Con Cháu Tiên Rồng. Đây là niềm tự hào nền
tảng của Nòi Giống. Đại chúng Việt luôn dựa vào nguồn gốc Tiên Rồng để thấy
mình khác biệt, trỗi vượt với những giống dân khác.
Trong
suốt lịch sử, niềm tự hào Tiên Rồng đã trở thành nền tảng thâm sâu nhất của tâm
hồn Dân Việt. Vì vậy, bài nói về Khởi Tổ là một bản ca tụng ơn đức thần thánh của
Các Ngài, những ân đức mà mấy trăm triệu con cháu được hưởng nhờ trong suốt 7000
năm qua.
b. Tân học lúng túng. Thời gần đây, trong khi đại
chúng Việt hãnh diện phát huy các biểu tượng của Tổ Tiên, thì lớp người tân học
lại tỏ ra lúng túng trong việc giải thích Truyền kỳ. Vì vậy, trước khi có thể
đúc kết về 2 Ngài Khởi Tổ linh thiêng, chúng ta phải nhận định kỹ rõ về hiện trạng.
1.2.
Truyện Hồng Bàng
a. Bản văn. Hiện
nay nguồn gốc Con Cháu Tiên Rồng có thêm nhiều chi tiết căn cứ vào Truyện Hồng
Bàng.
Phần
nhận định nầy căn cứ trên bản văn ‘Truyện Hồng Bàng’ trích từ quyển Lĩnh Nam
Chích Quái của Trần Thế Pháp, được học giả Lê Hữu Mục dịch và xuất bản bằng chữ
quốc ngữ năm 1960.
Lĩnh
Nam Chích Quái Bản chữ nho gốc đã được Cụ Vũ Quỳnh hiệu chính năm 1492, cách
đây hơn 500 năm. *[200]
b. Tác giả Truyện Hồng Bàng
Theo dịch
giả Lê Hữu Mục, "Maspéro chứng minh Truyện Hùng Vương (tên khác của Truyện
Hồng Bàng) là truyện trích ở các tác phẩm Trung Hoa", ở cuốn Thủy Kinh Chú
của Lịch Đạo Nguyên, viết năm 535 dl, và ở cuốn Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc Sử,
930-1007 dl.
1.3. Lý do lúng túng. Nhiều
lý do tạo ra các lúng túng trong giải thích Truyện Hồng Bàng : *[201]
1. Truyện
Hồng Bàng mặc nhiên được coi là bản văn về Nguồn Gốc của Trăm Việt, mà không hoặc
thiếu quan tâm tới Truyền thuyết được truyền tụng rộng rãi trong đại chúng Việt.
2. Ngây
thơ chấp nhận bản văn một chuyện kể năm 535 dl như là những biến cố lịch sử của
4.000 năm trước đó.
3. Thản
nhiên nông cạn chấp nhận tất cả mọi chi tiết của một chuyện kể về một Biểu tượng
Văn hóa, như là những sự kiện lịch sử của thời tiền sử.
4. Truyện
Hồng Bàng chứa đựng nhiều thâm ý hàm hồ về liên hệ chủng tộc và văn hóa giữa
dân tộc Việt Nam và dân nước Trung Hoa.
5. Ngoài
ra, những suy luận khiếm khuyết và thiên kiến càng làm cho các giải thích và
gán ghép thêm lố bịch.
1.4. Tường Tận và Đích xác.
Cần đặt
vấn đề tường tận và đích xác về niềm tự hào Nguồn Gốc Con Cháu Tiên Rồng, và về
những liên hệ của dân tộc Việt Nam với những dân tộc chung quanh, đặc biệt với
người Tộc Hoa.
Vấn đề
có thể được khảo sát dưới nhiều khía cạnh. Bài nầy chỉ đối chiếu Truyền thuyết
về Nguồn gốc Tiên Rồng được truyền miệng phổ quát trong đại chúng Việt với nội
dung bản văn Truyện Hồng Bàng.
2. BẢN VĂN TRUYỆN HỒNG BÀNG
Truyện
Hồng Bàng, trích từ Lĩnh Nam Chích Quái, do Trần Thế Pháp, Lê Hữu Mục dịch, xb
Huế 1960, tr 43-45.
Đây là
nguyên văn bản dịch Truyện Hồng Bàng đánh số thành 108 câu :
"1 Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên là Đế Minh,
sinh ra Đế Nghi, 2 đi nam tuần đến Ngũ Lĩnh,
3 gặp con gái Vụ Tiên thì yêu mến, cưới đem về, 4 sinh ra Lộc
Tục, dung mạo đoan chính, thông minh túc thành;
5 Đế Minh cho nối ngôi vua; Lộc Tục cố nhường cho anh, Đế
Minh lập Đế Nghi làm tự quân cai trị phương Bắc,
6 phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, đặt
quốc hiệu là Xích Quỉ Quốc.
7 Kinh Dương Vương xuống Thủy phủ, 8 cưới con gái vua Đồng
Đình là Long Nữ, 9 sinh ra Sùng Lãm,
10 tức là Lạc Long Quân; 11 Lạc Long Quân thay cha trị nước,
Kinh Dương Vương không biết đi đâu.
12 Lạc Long Quân dạy dân ăn mặc, 13 có trật tự về quân thần
tôn ty, 14 có luân thường về phụ tử phu phụ;
15 có lúc đi về Thủy phủ nhưng 16 trăm họ vẫn được yên.
17 Dân lúc có việc cần thì kêu Lạc Long Quân : Bố đi đàng
nào, không đến cứu chúng ta,
18 thì Lạc Long Quân lập tức đến ngay, uy linh cảm ứng không
ai có thể trắc lượng được.
19 người Nam gọi cha là Bố, gọi quân là vua, 20 Đế Nghi truyền
ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc, thiên hạ vô sự,
21 sực nhớ chuyện ông nội là Đế Minh nam tuần 22 gặp được
tiên nữ,
23 Đế Lai khiến Xi Vưu tác chủ quốc sự mà nam tuần qua nước
Xích Quỉ,
24 thấy Long Quân đã về Thủy phủ, 25 trong nước không vua,
26 mới lưu ái thê là Âu Cơ
27 cùng với bộ chúng thị thiếp ở lại hành tại. 28 Đế Lai chu
lưu thiên hạ, trải xem tất cả hình thế,
29 thấy kỳ hoa dị thảo, trân cầm dị thú, tê tượng, đồi mồi,
30 kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn,
31 các loại sơn hào hải vị không thứ nào là không có; 32 khí
hậu bốn mùa không nóng không lạnh,
33 Đế Lai ái mộ quá, quên cả ngày về.34 Nhân dân nước Nam 35
khổ về sự phiền nhiểu, không yên ổn như xưa,
36 đêm ngày mong đợi Long Quân về, nên cùng kêu rằng : Bố ở
phương nào, nên mau về cứu nhân dân.
37 Lạc Long Quân bỗng nhiên lại về, 38 thấy nàng Âu Cơ ở một
mình, dung mạo đẹp lạ lùng, yêu quá,
39 mới hóa ra một chàng nhi lang phong tư mỹ lệ, tả hữu thị
tùng đông đảo, tiếng đàn ca vang đến hành tại.
40 Âu Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo; 41 Long Quân bèn
rước nàng về núi Long Trang.
42 Đế Lai về không thấy Âu Cơ, sai quần thần tìm khắp thiên
hạ. 43 Long Quân có thần thuật, biến hiện trăm cách,
44 nào là yêu tinh quỉ mị, nào là long xà hổ tượng, 45 kẻ đi
tìm úy cụ, không dám lục đảo tận cùng.
46 Đế Lai trở về Bắc, lại truyền ngôi cho Đế Du, cùng với
Hoàng Đế đánh nhau ở Bản Tuyền không hơn nên tử trận; họ Thần Nông bèn mất. 47
Âu Cơ ở với Lạc Long Quân giáp một năm, 48 sinh ra một bọc trứng,
49 cho là điềm không hay, 50 nên đem bỏ ra ngoài đồng nội;
hơn bảy ngày,
51 trong bọc nở ra trăm trứng, 52 mỗi trứng là một con trai,
53 nàng đem về nuôi nấng, 54 không phải cho ăn, cho bú 55 mà tự nhiên trường đại,
trí dũng song toàn, ai cũng úy phục, bảo nhau đó là những anh em phi thường.
56 Long Quân ở lâu dưới Thủy phủ; 57 mẹ con ở một mình, 58
nhớ về Bắc quốc liền đi lên biên cảnh;
59 Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan
tái; 60 mẹ con không về Bắc được,
61 ngày đêm gọi Long Quân : Bố ở phương nào làm mẹ con ta
thương nhớ.
62 Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp hai mẹ con ở Tương Dạ;
63 Âu Cơ nói : Thiếp vốn người Bắc,
64 cùng ở một nơi với quân, 65 sinh được trăm trai 66 mà
không có gì cúc dưỡng,
67 xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người
không chồng không vợ, một mình vò võ.
68 Long Quân bảo : Ta là loài rồng, sống ở thủy tộc; 69 nàng
là giống tiên, người ở trên đất, 70 vốn chẳng như nhau, 71 tuy khí âm dương hợp
mà có con 72 nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó ở cùng nhau
mãi.
73 Bây giờ phải ly biệt, 74 ta đem năm mươi trai về Thủy phủ
75 phân trị các xứ,
76 năm mươi trai theo nàng ở trên đất, 77 chia nước cai trị,
78 Dầu lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe,
79 không được bỏ nhau. 80 Trăm trai đều nghe mệnh, rồi mới từ
giả mà đi.
81 Âu Cơ với năm mươi con trai ở Phong Châu, 82 nay là huyện
Bạch Hạc, 83 suy tôn người hùng trưởng làm vua,
84 hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang; 85 về bờ cõi của
nước thì Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Hồ Động Đình, Nam đến nước
Hồ Tôn Tinh 86 nay là nước Chiêm Thành,
87 chia nước ra mười lăm bộ là : Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh
Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài
Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận,
88 sai các em phân trị, 89 đặt em thứ làm tướng võ, tướng
văn; tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng,
90 con trai vua gọi là Quang [Quan] Lang, con gái gọi là Mỵ
Nương, 91 quan Hữu ty là Bồ Chính,
92 thần bộc nô lệ là nô tỳ, xưng thần là khôi,
93 đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền
cho nhau đều hiệu là Hùng Vương không đổi.
94 Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá, thường bị giao
long làm hại nên bạch với vua. 95 Vua bảo rằng : - Núi và loài rồng cùng với thủy
tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại.
96 Bèn khiến lấy mực chạm hình thủy quái ở thân thể, tránh
được nạn giao long cắn hại;
97 tục văn thân [vẽ mình] của Bách Việt khởi thủy từ đó. 98
Ban đầu quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu
nằm; 99 lấy gạo ngâm làm rượu, lấy cây quang lang, cây soa đồng làm bánh;
100 lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối;
101 lấy dao cày, lấy nước cấy; đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm;
102 gác cây làm nhà để tránh nạn hổ lang; 103 cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng
núi, 104 con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; 105 nhà có người chết thì giã gạo để
hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp;
106 trai gái cưới nhau lấy muối làm lễ hỏi, giết trâu dê làm
lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới
thương thông; 107 lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.
108 Bách Nam là thủy tổ của Bách Việt vậy."
3. NHẬN ĐỊNH PHẦN GIA PHẢ
a. Gia phả
Sau
đây là tóm lược phần gia phả trong Truyện Hồng Bàng : vua Đế Minh, cháu ba đời
của Viêm Đế, đi thăm dân vùng Ngũ Lĩnh, lấy Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục được
Đế Minh cho làm vua vùng đất đông giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến Hồ Đồng
Đình, nam đến nước Hồ Tôn Tinh.
Lộc Tục
lấy con vua Đồng Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm thay cha làm vua,
lấy hiệu là Lạc Long Quân. Sùng Lãm cướp vợ yêu của Đế Lai tên là Âu Cơ.
Âu Cơ
sinh bọc 100 trứng, nở ra 100 con trai. Sùng Lãm đi vắng, Âu Cơ dẫn 100 con về
Bắc Quốc, nhưng không được, đành trở lại. Sùng Lãm chia con làm hai, 50 con
theo Sùng Lãm xuống thủy phủ, 50 con theo Âu Cơ ở lại cai trị dân. 100 con trai
đó là 100 Tổ đầu tiên của Trăm Việt. *[202]
b.
Những Điểm Chính phần gia phả của Truyện Hồng Bàng sau đây :
1. Sùng
Lãm và Âu Cơ sinh 100 con trai, và chúng là thủy tổ của Bách Việt, được hiểu là
của toàn thể Tộc Việt.
2. Bà Nội
của Sùng Lãm là Vụ Tiên, ở vùng núi Ngũ Lĩnh.
3. Mẹ của
Sùng Lãm là Long Nữ, con của vua Đồng Đình, ở thủy phủ.
4. Ông nội,
ông cố, ông sơ của Sùng Lãm đều là dòng vua người Hoa, ở phương Bắc.
5. Sùng
Lãm nối ngôi cha, lấy hiệu là Lạc Long Quân.
6. Âu Cơ là người Hoa, vợ của Đế Lai, dẫn
con về Bắc quốc, mà về không
được.
7. Trong 100 con trai, 50 theo Sùng Lãm về
ở thủy phủ, 50 theo Âu Cơ ở lại Nước Nam và
chia nước mà cai trị.
8. Dưới sự cai trị của dòng họ đó
là
đám dân đen đang phục vụ họ và bị họ phiền nhiễu.
9. Địa phận vùng đất của Tộc Việt là vùng
phía nam sông Dương Tử và vùng Ngũ Lĩnh.
10. Vùng đất
nầy thuộc về vua Trung Hoa, nhưng chia cho Lộc Tục cai trị, nên được coi là phần
đất Tộc Việt.
3.2. Truyện Hồng
Bàng Đánh lận Xảo quyệt
a. Bề ngoài Trùng hợp
Truyện
Hồng Bàng ghi lại nhiều chi tiết bề ngoài đúng với Truyền thuyết lưu truyền
trong toàn dân Việt. Nhưng bên trong luôn có điều lệch lạc.
1. Từ
ngàn xưa, dân Việt coi mình là Con Cháu Tiên Rồng. Truyện Hồng Bàng lại ghi đó
chỉ là do Bà Nội và Mẹ của Sùng Lãm. Bà nội của Sùng Lãm có tên Vụ Tiên, mẹ của
Sùng Lãm có họ Long Nữ [câu số 3,8]. *[203]
2. Từ ngàn xưa, dân Việt lưu truyền vùng đất khởi
nguyên là Hồ Đồng Đình. Truyện Hồng Bàng cho đó chỉ là quê hương của Long Nữ
[c.8].
3. Từ
ngàn xưa, dân ta tự xưng là Việt Lạc. Truyện Hồng Bàng dùng đặt tên hiệu cho
Sùng Lãm là Lạc Long Quân.
4. Dầu
hoàn toàn ra ngoài văn mạch, Truyện Hồng Bàng cũng gán cho Lạc Long Quân nói với
Âu Cơ : ‘Ta là loài Rồng... nàng là giống Tiên’ [c.68, 69]. - Theo đúng văn mạch
Truyện Hồng Bàng, Sùng Lãm phải nói : ‘Ta hiệu là Lạc Long Quân [c.10], ta có
bà nội tên là Tiên [c.3], và có mẹ tên họ là Long [c.8], còn nàng là người
phàm’ [c.26].
5. Biểu
tượng Rồng của dân Việt ở vùng sông biển, và biểu tượng Tiên ở vùng đất, núi.
Truyện Hồng Bàng gán thêm đó là nơi cai trị của Lạc Long Quân và Âu Cơ
[c.74-77].
6. Với
biểu tượng ‘50 con theo Mẹ, 50 con theo Cha’ của Truyền thuyết Việt, Truyện Hồng
Bàng ấn định rằng 50 đứa theo cha về ở luôn thủy phủ, giao quyền cai trị dân Việt
cho 50 đứa theo bà mẹ người Hoa [c.81, 83].
7. Theo
Truyền thuyết Việt, Cha Rồng đã dặn ‘Khi cần thì gọi, ta về ngay’. Truyện Hồng
Bàng cũng cho Lạc Long Quân trở về, nhưng để cướp vợ của người anh chú bác ruột
[c.37-41].
8. Vùng
đất Tộc Việt rộng lớn toàn vùng, lên tới đường ranh Sông Hoài Tần Lĩnh. Truyện
Hồng Bàng hạn hẹp lãnh thổ dân Việt vào phía nam Hồ Đồng Đình [c.85, 86], kể
tên các bộ của mảnh đất nhỏ bé ở cực nam [c.87].
9. Theo Truyền thuyết
Việt, mọi người dân Việt đều có cùng nguồn gốc Tiên Rồng, đều từ Một Bọc Trăm Con. Truyện Hồng Bàng cho
100 trai là con của dòng họ triều vua
người Hoa [c.1, 4-11, 47-48].
b. Thay đổi Nội dung
Như vậy,
Truyện Hồng Bàng đã dựa trên một số điểm nồng cốt của Truyền Thuyết Việt để
thay đổi nội dung đích thực của truyền thuyết. Đây chính là ứng dụng xảo quyệt
của sách lược ‘Ngoại nho nội pháp’ trong chủ nghĩa Nô hóa Thiên hạ của giới thống
trị Trung Hoa.
3.3. Truyện Hồng Bàng Mưu Đồ Đồng Hóa
Truyện
Hồng Bàng không dừng lại ở chỗ đánh lận. Sau khi sửa đổi nội dung của Truyền
thuyết Việt, Truyện Hồng Bàng mưu đồ dùng chính Truyền thuyết Việt để đồng hóa
toàn thể tộc dân Việt và toàn thể vùng đất mấy ngàn năm của Tộc Việt thành của
Trung Hoa.
a. Đồng hóa Tiên Rồng thành người
tộc Hoa
Theo
Truyền thuyết phổ quát trong toàn Việt Lạc, thì Tộc Việt do Bọc Trăm Con, có Mẹ
là Tiên, có Cha là Rồng.
Ở Truyện
Hồng Bàng, 100 đứa trai có bà nội mang họ Long (Long Nữ), và bà cố nội có tên
Tiên (Vụ Tiên). (Theo phụ hệ cực đoan, người Hoa cho rằng mẹ và bà không ảnh hưởng
tới huyết thống của con cháu). *[204]
Dòng họ
nội của Sùng Lãm là dòng vua Trung Hoa, tất cả đều là người phàm [c.1, 3, 5, 6,
8]. Lạc Long Quân là hiệu của Sùng Lãm [c.10].
Âu Cơ là vợ của vua phương Bắc Đế Lai [c.20]. Đế Lai ‘nhớ chuyện ông nội
là Đế Minh nam tuần gặp được tiên nữ.’ [c.21-22], nên Đế Lai đi tìm [c.23], đưa
Âu Cơ đi theo [c.26-27]. Âu Cơ không thể là Tiên.
Âu Cơ
luôn xác quyết nàng là người Hoa phương Bắc [c.63], về lại phương Bắc [c.58],
mà về không được [c.60].
- Như vậy, bề ngoài có vẻ là Rồng, Tiên,
nhưng thực sự Lạc Long Quân và Âu Cơ là người Hoa 100%. Ngoài ra, theo sách
vở Trung Hoa, họ Âu mới xuất hiện năm 306 ttl, sau Bà Tổ Tộc Việt gần 5.000
năm.
b. Đồng hóa Trăm Họ Việt thành
người tộc Hoa
Truyện
Hồng Bàng kết thúc : ‘Bách nam là thủy tổ của Bách Việt’ [c.108]. Theo đó, 100
trai con của 2 người Hoa Lạc Long Quân và Âu Cơ đã là những vị tổ đầu tiên của
Trăm Việt.
Truyện
Hồng Bàng xác nhận trước khi có Trăm Trai đã có Trăm Họ [c.12, 16, 17], là 1 nước
có vua quan [c.6, 11, 34], có quốc hiệu [c.6], có cuộc sống yên vui [c.16],
ăn ngon mặc đẹp [c.30, 31], trù phú hơn phương Bắc [c.29-33].
Như vậy,
làm sao 100 đứa con của Sùng Lãm và Âu Cơ lại có thể là những vị tổ đầu tiên của
muôn triệu người đã sống trước chúng từ mấy ngàn năm ?
c.
Đồng hóa Lãnh thổ Việt thành Lãnh thổ Hoa
Tộc
Việt sinh sống trên vùng Đồng Đình từ những năm 5000 ttl, và tới Thời Hùng, từ năm 2879 ttl, đã tỏa lan ra khắp vùng Nam Bắc lưu vực Sông Dương Tử.
Như vậy, Dân Việt đã có mặt trong khắp vùng từ hơn 1800 năm trước khi tộc Hoa
thành hình ở phương Bắc.
Vậy mà Truyện Hồng Bàng lại cho
rằng đó là lãnh thổ của người Hoa, thuộc quyền cai trị của dòng họ vua chúa
người Hoa, và được chia cho đứa con lai Lộc Tục [c.2, 5, 6].. *[205]
* Truyện
Hồng Bàng đã cướp toàn thể vùng đất rộng lớn của Tộc Việt và đặt dưới quyền cai
trị của dòng tộc Hoa.
* Với
việc đặt tên hiệu cho Tổ của Tộc Việt là Lạc Long Quân [c.10], Truyện Hồng
Bàng hạn hẹp Cha Rồng sinh Trăm Con thành Tổ của 1 nhánh Lạc. Tất cả các nhánh
Việt khác đều đã bị đồng hóa vào Trung Hoa.
** Tuy
nhiên, như vậy Truyện Hồng Bàng cũng thêm chứng cứ cho Truyền thuyết Trăm Con
là của Việt Lạc.
** Với
ranh giới của Vua Hùng, Truyện Hồng Bàng xác nhận ranh giới của Việt Lạc ‘Bắc đến
Hồ Đồng Đình’ [c.83].
d.
Đồng hóa Văn hóa Việt vào văn hóa Hoa
Từ khởi nguyên đến cách đây dưới 2.000 năm, xã hội Tộc Việt
thiên về mẫu hệ, con gái là chính, dòng họ đều theo bên mẹ, theo tên họ của mẹ. Nhưng Truyện Hồng Bàng kể dòng
cha là chính. Tất cả
dòng nội đều được ghi tỉ mỉ, với tên riêng và tên hiệu của từng người,
[c.1,3,5,6,8], từ Đế Minh tới Lộc Tục, Sùng Lãm, rồi 100 trai. Nhưng Truyện Hồng
Bàng thiếu tên ông bà ngoại, và không có tên ‘mẹ’ Âu Cơ. Theo mẫu hệ, Lạc là
tên của Bà Tổ của dân Việt Lạc. Truyện Hồng Bàng đổi họ Lạc thành 1 phần của biệt
hiệu của ‘cha’ Sùng Lãm, Lạc Long Quân. *[206]
* Truyện
Hồng Bàng đã chuyển đổi truyền thống mẫu hệ của dân Việt Lạc thành văn hóa phụ
hệ của người Hoa.
e. Hủy hoại Truyền thống Việt
Quan
trọng nhất của Truyền thuyết Việt là biểu tượng Tiên Rồng tôn thành 2 Biểu Tượng
Linh Thiêng, biểu trưng 2 Ông Bà Tổ của Tộc Việt, vào thời đầu lịch sử. Bọc
Trăm Con là biểu tượng của Dòng Tộc Việt. Truyện Hồng Bàng lại đặt Tiên, Rồng
và Bọc Trăm Con vào lịch sử, và gán cho một loạt ‘tổ tiên ông bà cha mẹ’ của
Tiên và Rồng.
* Như vậy, Truyện Hồng Bàng hủy hoại tính
cách Biểu Tượng và Linh Thiêng quan trọng nhất của Truyền thống Văn hóa Việt,
và biến Truyền kỳ của Dân Việt thành phản tự nhiên, phản khoa học.
3.4. Truyện Hồng Bàng nặng lời
Miệt thị Tộc Việt
Truyện
Hồng Bàng mưu đồ đồng hóa nguồn gốc Việt. *[207]
t, đoạt
lãnh thổ Việt, đổi văn hóa Việt, hủy hoại truyền thống.
1. Sùng
Lãm tuy là gốc Hoa, nhưng gian manh háo sắc và vô tâm, dùng thủ đoạn chiếm đoạt
vợ của người anh chú bác ruột [c.39, 43-45], và bỏ lờ trách nhiệm làm vua
[c.36-39, 56], làm chồng [c.57, 67], làm cha [c.65-66].
2. Tuy
là người Hoa, nhưng Âu Cơ lăng loàn mất nết, trốn vua, trốn chồng theo trai tơ
[c.40-41]. Cả 2 đều vô luân.
3. Theo
Truyện Hồng Bàng, toàn thể trăm đứa con đều nhận mình là dòng dõi người Hoa
[c.63], đều đã theo mẹ Âu Cơ đi về Bắc quốc [c.58]. Nhưng về không được [c.60],
nên phải ở lại Nước Nam ! Vì vua nước Nam nhẫn tâm bỏ về thủy phủ, chúng phải
chia nhau cai trị dân Nam ! [c.74,76,77].
4. Truyện Hồng Bàng mưu đồ muốn
người Tộc Việt tin rằng mình gốc Hoa, nhưng chính người Hoa luôn coi dân Việt
là ‘Nam man’, là dân mọi rợ ở phương Nam, và không xứng đáng là người Hoa.
4. MẸ TIÊN CHA RỒNG
4.1. Khởi Tổ. Khởi Tổ
là 2 Vị đầu tiên đã sinh ra đàn con cháu phát triển thành Tộc Việt. Để thành một tộc dân đông đúc và phát triển như Tộc
Việt hôm nay, 2 Vị Khởi Tổ đã sống khoảng
7000
năm trước. Tuy ngày nay không còn dấu vết gì của
Các Ngài. Nhưng sự hiện hữu của mấy trăm triệu con cháu Tộc Việt đã là bằng chứng
hiển nhiên.
4.2. Nhận thức về Con Người
a. Tôn kính yêu quý Mẹ Cha
Từ
đầu Thời Hùng, cách đây 5.000 năm, người Tộc Việt đã nhận ra mình là thành
phần của một tộc dân lớn, bao trùm khắp các vùng phía nam Sông Hoài Tần Lĩnh,
và phát triển đặc biệt ở vùng Việt Thượng Sông Hồng.Với thời gian, văn hóa Việt
thành hình và trỗi vượt với những nhận định xác đáng về Con Người. Qua cuộc sống
thường ngày, Dân Việt nhận biết mỗi người là 1 phối hiệp toàn vẹn của Mẹ và
Cha. Mẹ Cha có những đặc tính riêng, nhưng bổ túc và hòa hiệp đồng đều trong mỗi
Con Người.
Cha nổi
bật sức sống dũng mãnh và tài trí biến hóa, Mẹ hiền dịu yêu thương và cảm thông
linh mẫn.
Trong
tình kính quý và hãnh diện, dân Việt coi Mẹ là Bà Tiên và gọi Cha là Ông Rồng.
Tiên Rồng thành Biểu Tượng của Mẹ Cha, Mẹ Tiên Cha Rồng, và cũng biểu trưng những
đặc tính nền tảng của mỗi Con Người. *[208]
b.
Anh Em Một Bọc
Kinh
nghiệm sống với Mẹ Cha đưa tới xác định : cuộc sống con người luôn tùy thuộc
vào người khác. Con người không thể sống trọn vẹn nếu không chung sống với người
khác, là đặc tính Xã Hội bẩm sinh của Con Người.
Sống với
Gia đình, Mẹ Cha, anh chị em, đưa tới 2 xác định nền tảng cho cuộc sống xã hội.
Là con người hoàn toàn bình đẳng và thương nhau tận tình, như giữa những người
cùng 1 Mẹ 1 Cha, và được sinh ra cùng 1 lần.
*[209]
Những
xác định tuyệt vời đó đưa tới hình ảnh biểu tượng Mọi Người đều đã được Mẹ Tiên
Cha Rồng sinh ra cùng 1 lần, trong 1 Bọc chứa 100 Anh Em.
c. Biểu Tượng cao quý. Vì kính quý và biết ơn sâu xa 2 Vị Tổ Đầu
Tiên của Tộc Việt, Tổ Tiên ta đã tôn 2 Ngài thành Biểu Tượng Tiên Rồng Linh
Thiêng cao quý nhất của Dân Việt, gọi 2 Ngài Khởi Tổ là Mẹ Tiên Cha Rồng, tự
nhận là Con Cháu Tiên Rồng, vui sướng gọi nhau là Anh Chị Em cùng 1 Bọc, Đồng
Bào. Đặc biệt duy nhất chỉ có người Việt gọi Dân mình là Đồng
Bào. *[210]
4.3. Hai Ngài Khởi Tổ linh
thiêng
Hai
Ngài Khởi Tổ Tiên Rồng chính là Biểu Tượng Linh Thiêng nhất và là niềm tự hào
cao cả nhất trong tâm hồn mọi người dân Việt. Giờ đây, Hồn Thiêng của Hai Ngài
vẫn linh hiển, và với sứ mạng Trời ban sinh ra cả một giống dân đông đúc trỗi
vượt, là Tổ trên hết các Tổ của Tộc Việt, là Nguồn Sinh mọi Thánh Thần Anh Linh
Việt, Hai Ngài cao trọng và uy thế khôn tả, đáng để mọi người tôn vinh và cầu
khẩn.
4.4. Nguồn gốc Tộc Việt : Truyền
kỳ Tiên Rồng. Để ghi
nhớ ơn đức của Hai Ngài Khởi Tổ, lưu lại nền tảng tuyệt vời của Văn hóa Việt,
Nguồn gốc Tộc Việt được truyền thống Văn hóa Việt thăng hoa, kết tinh thành
Truyền kỳ Tiên Rồng, truyền khẩu trong toàn đại chúng Việt, suốt mấy ngàn năm :
Giống dân Việt khởi nguồn từ khi Bà Tiên và Ông Rồng phối hiệp nhau, Bà Tiên
sinh ra bọc chứa 100 người con.
‘Sau
đó Ông Rồng nói với Bà Tiên : ‘Ta là giống Rồng, nàng thuộc dòng Tiên, nên nàng
đem 50 con lên núi, ta đem 50 con xuống biển. Khi cần thì gọi, ta về ngay.’ ‘Từ
đó dòng giống Việt ngày một phát triển."
*********
XIII. 18 VUA HÙNG : 9 VUA HÙNG BÀ + 9
VUA HÙNG ÔNG
1. TỘC VIỆT và TỘC HOA
1.1. Tộc Việt Thời Khởi nguyên
Tộc Việt khởi nguyên nhờ 2 Ông Bà Khởi Tổ ở Hồ Đồng Đình,
nam trung lưu sông Dương Tử, khoảng năm 5.000 ttl, cách đây 7000 năm. 2.000 năm
đầu, dân Việt tỏa lan khắp vùng. Phía Nam đến vùng Sông Hồng.
Theo địa
lý, khí hậu và di tích khảo cổ về thời cách đây 5.000 năm, vùng Á Đông Xưa có 2
trung tâm phát triển nông nghiệp Lúa Nước là vùng Hồ Đồng Đình và vùng Sông Hồng.
Vùng nông nghiệp Lúa Nước phát triển ở những đồng bằng nhiều nước, nhiều mưa,
nhiều nắng ấm, có nhiều thổ sản, thủy sản, phương tiện, khác xa vùng khô cằn
giá lạnh.
Như
trên thế giới, vùng nông nghiệp lúa nước là nguồn phát xuất những truyền thuyết
súc tích, thâm thúy, xa xưa nhất của nhân loại hiện nay. *[211]
1.2. Tộc Hoa khởi nguyên
Ngày
nay, lịch sử đã xác định Tộc Hoa thành hình do bộ lạc Chu tập họp 1 số bộ lạc
du mục vùng Thiểm Tây, tây bắc đường ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, thành
lập Nhà Chu năm 1046 ttl, cách đây 3.000 năm.
Thiểm
Tây là vùng đồng cỏ khô cằn giá lạnh, chỉ thích hợp với nghề chăn nuôi du mục,
trồng lúa khô, lúa mạch, bo bo, bắp... và phát sinh ra nền văn hóa gốc du mục.
Tụ họp
và thành Nhà Chu, tộc Hoa chỉ là các bộ lạc du mục lạc hậu sơ khai, chưa tập họp
đông và tổ chức xã hội, chưa thể chiếm các vùng đất riêng.
Về văn
hóa, họ chưa tới thời kỳ ghi nhận và sáng tạo những truyền thuyết súc tích, mạch
lạc, và có hệ thống.
2.
THỜI HÙNG
2.1. Hai nguồn Truyền thuyết Việt,
Hoa
a.
Truyền thuyết Việt Lạc : Thời Hùng 2879-180 ttl
Theo truyền thuyết Việt Lạc, Thời Hùng khởi đầu từ năm 2879
ttl. Năm 2879 ttl đánh dấu sự kiện Tộc Việt đã tỏa lan trên khắp vùng đất rộng
lớn từ
Hồ Đồng Đình, ra tới
biển, Bắc giáp ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, Tây tới Sông Cửu Long, phía
Nam tới ranh Hải Vân. *[212]
Thời Hùng chấm dứt năm 180 ttl, khi đoàn quân của Triệu Đà
chiếm đóng Cổ Loa, trị sở của Việt Lạc. *[213]
b. Sách vở Trung Hoa
Theo
sách vở Trung Hoa, thời Tam Hoàng khởi đầu năm 2852 ttl. Như vậy, Thời Hùng của Việt Lạc gồm trọn
các thời Tam Hoàng, Ngũ Đế, Hạ, Thương, Chu, Tần và 26 năm đầu Nhà Hán của
sách vở Trung Hoa.
Tộc
Hoa, thành hình năm 1046 ttl, sau Tam Hoàng Ngũ Đế hơn 1800 năm. Như vậy, tất cả
truyền thuyết thời trước 1046 ttl, và những truyền thuyết thuộc nền văn hóa lúa
nước, không phải là của Tộc Hoa du mục.
Ngoài
ra, vì lạm nhận một phần truyền thuyết của Tộc Việt làm Tổ tiên của tộc Hoa,
nên truyền thuyết về các triều đại trong sách vở Trung Hoa, từ khởi nguyên tới
1046 ttl, chỉ là một phần nhỏ của tiền sử Tộc Việt. Tộc Việt còn nhiều phần đất
rộng lớn khác mà sách vở Trung Hoa không đề cập tới.
Ngày
nay, với niên đại gần giống nhau giữa Thời Hùng 2879 ttl và thời Tam Hoàng 2852
ttl, Thời Hùng có thể được chia theo 4 thời kỳ sẵn có. Mỗi Thời kỳ lại có
2 hoặc 3 giai đoạn.*[214]
2.2. Bốn Thời kỳ Thời Hùng
1.
Thời Hùng 1 : 1-809 Thời Hùng (tH), 2879-2070 ttl, gồm cả thời Tam
Hoàng Ngũ Đế. Thời nầy có 2 giai đoạn :
Thời Hùng 1A :
1-179 tH, 2879-2700 ttl, gồm cả thời Tam Hoàng.
Thời Hùng 1B :
179-809 tH, 2700-2070 ttl, gồm cả thời Ngũ Đế.
2.
Thời Hùng 2 : 809-1279 tH, 2070-1600 ttl, gồm cả thời Hạ :
Thời Hùng 2A :
809-1079 tH, 2070-1800 ttl, gồm cả Tiền Hạ.
Thời Hùng 2B :
1079-1279 tH, 1800-1600 ttl, gồm cả Hậu Hạ.
3. Thời Hùng 3 :
1279-1833 tH, 1600-1046 ttl, gồm cả thời Thương, với :
Thời Hùng 3A :
1279-1579 tH, 1600-1300 ttl, gồm cả Tiền Thương.
Thời Hùng 3B :
1579-1833 tH, 1300-1046 ttl, gồm cả Hậu Thương / Ân.
4.
Thời Hùng 4 : 1833-2699 tH, 1046-180 ttl, đồng thời với Tây Chu / Sở, và
Đông Chu / Tần, gồm :
Thời Hùng 4A : 1833-2108 tH, 1046-771 ttl, đồng thời với Tây
Chu / Sở.
Thời Hùng 4B : 2108-2672 tH, 771-207 ttl, đồng thời với Đông
Chu / Tần.
Thời Hùng 4C : 2672-2699 tH, 207-180 ttl, Việt Lạc với Triệu
Đà.
3. VUA HÙNG
3.1. Lạc và Hùng
Đã có
lẫn lộn giữa 2 chữ nho Lạc và Hùng, vì vậy mới có ‘Lạc vương’ và ‘Hùng vương’.
Liên tục trong suốt mấy ngàn năm đến nay, đại chúng Việt vẫn tôn xưng và cầu khẩn
‘18 Vua Hùng’. Dân ta vẫn luôn tự xưng là ‘Lạc’ hoặc ‘Việt Lạc’. Vậy, không thể
lẫn lộn giữa âm ‘Lạc’ và âm ‘Hùng’.
Lạc
vương là ‘vua dân Lạc’. Còn Lạc hầu, Lạc tướng, Lạc điền, Lạc dân. *[215]
Vua
Hùng, Hùng Vương, là miếu hiệu Dân Việt Lạc tôn xưng 18 Vị Tiêu Biểu đặc biệt
trong tăng triển Dân tộc và Văn hóa Việt Lạc. Có hàng trăm Lạc vương, nhưng Dân
Lạc chỉ thờ kính làm Quốc Tổ 18 Vua Hùng, thời Khởi Nguyên hoặc thời Hùng,
nhưng không nhất thiết đã làm vua.
3.2.
Việc Thờ Kính các Vua Hùng
a. Truyền thống
Từ nhiều
ngàn năm trước, Tộc Việt đã có truyền thống thờ kính Tổ Tiên của mỗi người đưa
tới việc thờ kính các Vị Tổ của Tộc Dân và của Nước.Truyền thuyết xưa nhất của
dân ta, luôn nhắc đến Vua Hùng là biểu tượng cao quý quyền uy nhất của xã hội
Việt, có mặt trong mọi Truyền Kỳ về đời sống xã hội, gia đình, làng nước. *[216]
Hơn
3.000 năm trước, tất cả Thạp và Trống Đông Sơn thời tuyệt kỹ đều có đàn Chim
cách điệu hóa thành
Chữ Hùng 熊 linh thiêng.
Đầu Chim mỏ dài thành nét
b.
Thời Bắc thuộc
Hiện
nay, không còn nhiều chứng tích về các Vua Hùng. Chỉ vì trong suốt thời Bắc thuộc,
Trung Hoa đã hủy hoại mọi di tích, mọi tài liệu, và cấm đoán mọi thờ kính
công khai các Vị Tổ của Dân Ta. Việc Thờ Kính Tổ phải tổ chức riêng lẻ, thầm
kín, ngụy trang các hình thức và danh xưng khác.
Có dấu
vết cốt lõi của niềm tin, của đối tượng thờ kính của đại chúng Việt ở các đạo
giáo, như đạo Lão, đạo Thờ Mẫu, thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế.
c. Thời Phục Hưng
Khi
dân Lạc Hồng giành lại đất phương Nam của Việt Lạc, khai sáng Thời Phục Hưng, từ
năm 906 dl, đã tái lập việc công khai thờ kính Các Vị Tổ. Năm 1010 dl, Đức Lý
Thái Tổ long trọng khôi phục nghi lễ và Đền Thờ Tổ trên núi Hy Cương, tái lập Lễ
Thờ Kính Tổ trong cả Nước. Đức Lý Thái Tổ đã dâng kính 18 Miếu Hiệu lên 18 Vị
‘Vua Hùng’, như có hiện nay. *[219]
Miếu
hiệu để thờ kính, tuyên xưng trong Lễ Tế, không phải tên riêng 18 Vị. *[220]
3.3.
Mười Tám Vua Hùng
a.
Con số 18. Chưa có tài liệu ghi nhận cách đây 1.000 năm Đức Lý Thái Tổ
chỉ thờ kính ‘18 Vua Hùng’ suốt từ Khởi Nguyên tới hết Thời Hùng, dài hơn 5.000
năm. Nhưng
trước Đức Lý Thái Tổ hơn 2.000 năm, tất cả mọi Nắp Thạp và Mặt Trống Đông
Sơn đều có hình Chim cách điệu chữ Hùng 熊, và
trống Ngọc Lũ, trống Sông Đà, 2 trong 4 trống tinh xảo nhất hiện có, đã có hình
18 Chim Hùng linh thiêng. *[221]
Hơn 2000 năm trước Đức Lý Thái Tổ, đã có truyền thống thờ
kính 18 Vị ‘Vua Hùng’.
b. Con số 2699
Gần 500 năm sau khi Đức Lý Thái Tổ dâng Miếu Hiệu cho 18 Vua
Hùng, mới có Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, [do Ngô Sĩ Liên, viết xong năm 1479 dl],
ghi lại Thời Hùng từ năm Nhâm Tuất 2879 ttl tới 258 ttl, gồm 2621 năm.
Theo cách tính hiện nay, Thời Hùng dài 2.699 năm, từ 2879 tới
180 ttl. *[222].
Thời
Hùng 2.699 năm chứng tỏ 18 Vua Hùng được thờ kính không phải là những Vị Vua
liên tục nối tiếp nhau. Thời Hùng không phải là 1 triều đại. Khi tính ra số
2.621 năm cho Thời Hùng, sử gia Ngô Sĩ Liên biết không thể ngây ngô đem số
2.621 năm chia cho 18 Vị.
c. Vua An Dương
Theo
thần phả của Đền Vua An Dương ở Cổ Loa, Vua An Dương cũng là ‘Hùng Gia Chi
Phái’, thuộc dòng dõi Họ Hùng. Dầu làm vua Thời Hùng, nhưng Vua An Dương đã
làm mất nước, nên không được kể là ‘Vua Hùng’, không được thờ ở Đền Hùng, chỉ
là Lạc Vương ở cuối Thời Hùng. *[223]
Không
phải làm Vua ở Thời Hùng là được thờ kính. *[224]
4. VUA HÙNG QUỐC TỔ
4.1. Vua Hùng. Vua Hùng là Biểu Tượng của Những Vị đã Đóng Góp Đặc Biệt
vào tiến trình hình thành của Tộc Dân và Văn Hóa Việt từ Thời Khởi Nguyên. Các
Ngài là những Vị trỗi vượt thuộc mọi lãnh vực, đặc biệt về Xã hội và Văn hóa,
chứ không nhất thiết là người có quyền cai trị.
4.2. Mười Tám Vua Hùng
Biểu tượng hóa các Ngài với con số tôn quý là 18 Vị. Số 18
là 2 lần 9. Số 9 là số cao quý nhất của Tộc Việt. [225]
18 Vua
Hùng là những Vị cao quý tột bực, được kính trọng tột bực, được Truyền Thống Việt
thờ kính. *[226]
4.3.
Vua Hùng Bà
Từ
Thời Khởi Nguyên cách đây 7000 năm, đến 1.700 năm, thế kỷ 3 dl, dân Việt thiên
về mẫu hệ, phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống xã hội. Nhiều Vị Nữ
Giới đã góp đặc biệt thành hình xã hội và văn hóa Việt. *[227]
Trên
thạp Đông Sơn, cách đây 3.000 năm, có hình vị Thủ Lãnh là một Bà, ngực cao,
mông lớn.
Mãi
tới 220 năm sau Thời Hùng, năm 40 dl, trong số các anh hùng tái chiếm toàn thể
vùng đất Việt Lạc, vẫn có nhiều đội nữ binh, và số nữ tướng nhiều hơn nam tướng.
Lại nữa, người nhận trách nhiệm lãnh đạo toàn dân, cũng lại là một nữ nhân, Đức
Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam Trưng Trắc.Sau Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam hơn 200
năm, năm 248 dl, khi sử Trung Hoa phải ghi nhận thêm một cuộc khởi nghĩa khác của
dân Nam, thì cuộc khởi nghĩa nầy cũng lại do một nữ nhân lãnh đạo.
Vị
lãnh tụ đó là Cô thanh nữ 23 tuổi, Bà Vua Triệu. *[228]
Năm
541 dl, 300 năm sau Bà Vua Triệu, cách đây dưới 1.500 năm, sử Trung Hoa ghi tên
1 nam nhân làm thủ lãnh dân Việt Lạc, Đức Nam Việt Đế.
4.4. 9 Vua Hùng Bà, 9 Vua Hùng Ông
Như vậy,
trong suốt thời gian hơn 2000 năm trước Thời Hùng, 2700 năm trong Thời Hùng, và
hơn 400 năm sau Thời Hùng, Dân Việt sống trong chế độ mẫu hệ, nữ giới chủ động
và lãnh đạo cuộc sống xã hội. *[229]
Suốt
thời kỳ hơn 5.100 năm, số Vị Vua Hùng Bà nhiều hơn Vua Hùng Ông. Vua Hùng trở
thành biểu tượng, với số 9 là số tuyệt hảo của Dân Việt. Theo đúng truyền thống
Mẹ Tiên Cha Rồng 50/50 siêu việt, ta thờ kính 9 Vua Hùng Bà và 9 Vua Hùng Ông.
Số 9 là số cao quý tròn đầy của Tộc Việt, 18 Vị. Các Ngài không nhất thiết là vợ
chồng. *[230]
4.5. Đại lễ Kính 18 Quốc Tổ
Đại
Lễ kính 18 Đức Vua Hùng Quốc tổ cử hành ngày 10 tháng 3 lịch Việt,
ngày 10 là ngày Dậu, tháng 3 là tháng Thìn. Trong 12 giáp, Dậu tượng
trưng cho Phụng, Thìn là Long. Phụng và Long là hiện biểu của Tiên và
Rồng.
Ngày
10 tháng 3 là Ngày Tiên Tháng Rồng, Tiên Rồng Song Hiệp, sinh ra Con
Người. Cử hành Đại Lễ kính 18 Vua Hùng mừng Tiên Rồng Song Hiệp, Tổ
Tiên ta xác định 18 Đức Vua Hùng là 18 Vị tiêu biểu Tiên Rồng song hiệp,
đã sống Làm Người tuyệt hảo, đã Đóng Góp Đặc Biệt vào tiến trình hình
thành Tộc Dân, Văn Hóa, và Đất Nước Việt.
*********
XIV. ĐẠI ĐẾ ĐỒNG ĐÌNH LĨNH NAM
LÃNH THỔ và SỨC SỐNG của VIỆT LẠC, 2909-2922 tH, 30-43 dl
1.
DẪN NHẬP
Trong 1000 năm vừa qua, nhiều Sứ thần Đại Việt
ta đã tới cúng tế tại Đền Đức Trưng Vương ớ Hồ Đồng Đình.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, viết năm 1479
dl, ở Phiên Ngung, gần thủ phủ Quảng Châu của tỉnh Quảng Đông ngày nay, có đền
thờ Đức Trưng Vương. Năm 1793 dl, vào thời Tây Sơn, khi đặc sứ Ngô Thời Nhiệm
cùng phái đoàn đi ngang phía nam Hồ Đồng Đình, ông đã đến viếng đền thờ Đức
Trưng Vương tại đó. Ông cũng ghi : quân Đức Trưng Vương đã đánh với quân Mã Viện
ở Hồ Nam.
Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca, 1870 dl, cũng ghi :
‘Đô kỳ đóng cõi Mê Linh, Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta’. (câu 339-340).
Lĩnh Nam nay là vùng Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, và Bắc phần Nước
ta.
Sau đây là những tài liệu và
nhận định mới về thực trạng Việt Lạc, về Đức Trưng Vương, về động cơ và nhân sự
quật khởi, về địa bàn hoạt động, về sức mạnh của Dân ta năm 2919 tH, 40 dl, và
về Mã Viện, về binh lực của Trung Hoa.
2. TỔNG QUAN
2.1. Tài Liệu
Tới gần
đây, rất ít tài liệu về cuộc khởi nghĩa của Dân Việt Lạc đầu thế kỷ I dương lịch,
do Bà Trưng lãnh đạo. Hầu hết những gì được ghi chép đều được trích dẫn từ
sách vở Trung Hoa, tức là từ phía đối nghịch. Tài liệu của kẻ thù thường chủ
quan, thiếu xác thực. Về dân Việt, Trung Hoa luôn thêm xuyên tạc, vu khống do
mưu đồ đồng hóa suốt mấy ngàn năm.
Gần
đây, nhờ những phát hiện ở Việt Nam và trên vùng đất của Việt Lạc xưa, đặc biệt
qua các Đền thờ và Thần tích, chúng ta có thêm nhiều chi tiết đã không được
sách vở Trung Hoa ghi chép chính xác.
2.2 Danh Xưng
a. Hai Bà Trưng
Đã từ
lâu, danh xưng ‘Hai Bà Trưng’ thường được dùng để chỉ 2 chị em Bà Trưng Trắc,
Trưng Nhị. Việc gọi chung 2 Bà gây ấn tượng là cả 2 Chị Em cùng nhau nổi lên chống
giặc và cùng hoàn thành công cuộc cứu nước.
Quả thực Hai Chị Em cùng đứng lên cứu dân cứu nước và đã tạo
những kỳ công đáng khâm phục. Nhưng sách vở ghi rõ chỉ có Bà Chị nhận quyền
lãnh đạo toàn cuộc khởi nghĩa. Phần Bà Em, dầu cũng là bậc kỳ tài nổi tiếng
đương thời và đóng góp nhiều công lao xuất chúng, nhưng Bà chỉ nhận tước Công
chúa Bình Khôi. Cùng với Bà, nhiều vị nữ tướng khác cũng có tước Công chúa, như
An Bình, Thánh Thiên, Gia Hưng, Vĩnh Huy, Trinh Thục, Nga Sơn, Nghi Hòa... Vì vậy,
tuy là 2 chị em, nhưng khi Bà Chị được các anh hùng nghĩa sĩ đương thời đặt lên
lãnh đạo công cuộc cứu nước, thì chỉ có Bà Chị chính thức đại diện cho toàn
dân.
Năm
2919 tH, 40 dl, chỉ có Bà Chị lên ngôi, thống lãnh toàn thể Việt Lạc.
b. Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam
Vì chủ
trương đồng hóa và xóa bỏ mọi dấu vết của Tộc Việt, giới thống trị Trung Hoa đã
quyết tâm giấu kín mọi cuộc khởi nghĩa. Nhưng vì không thể che đậy những biến động
to lớn, sách vở Trung Hoa lại xuyên tạc và hạ giảm sức mạnh, tầm ảnh hưởng và
địa bàn hoạt động của dân bị trị.
Hiện
nay chúng ta không có danh xưng chính thức của Bà khi Bà lên ngôi. Nhưng phát
hiện về địa bàn hoạt động, vùng đất cai trị và ảnh hưởng của Bà xác định Bà là Đại Đế của Việt Lạc Đồng Đình và Việt
Lạc Lĩnh Nam.
3. THỰC TRẠNG VIỆT LẠC 2665-2922
tH, 214 ttl - 43 dl
3.1. Thời Tần Thủy Hoàng
Năm
2665 tH, 214 ttl, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư dẫn 50 vạn quân lính xâm lăng vùng
đất Việt Lạc. Đây là áp lực đầu tiên của Trung Hoa trên một phần đất Việt Lạc.
Nhưng sau 3 năm, Đồ Thư bại trận và bị giết. *[231]
3.2. Thời Phụ Dung Triệu Đà
a. Nước Nam Việt
Năm
2672 tH, 207 ttl, tướng Nhà Tần Triệu Đà đã chiếm vùng nay là Quảng Tây, Quảng Đông. Khi Tần bị Hán diệt. Triệu Đà giết tất cả
quan tướng của Tần, tự xưng Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Nam Việt, đóng đô tại
Phiên Ngung, nay là Quảng Châu. Triều Hán đưa quân đánh chiếm, nhưng đại bại.
Triệu
Đà đã cố gắng thu phục lòng dân Việt Lạc trong vùng. Chính Ông đã thay đổi nếp
sống, thay đổi trang phục, thay đổi cách xưng hô, theo phong tục Việt Lạc, lấy
vợ Việt. Triệu Đà đặc biệt phát triển về chính trị, quân sự, và văn hóa bản địa,
để trở thành một đế quốc biệt lập với triều Hán.
Đang
khi đó, Việt Lạc Đồng Đình có Trường Sa Vương, và Việt Lạc Sông Hồng có Vua An
Dương.
b. Triệu Đà chiếm Cổ Loa
Năm
2699 tH, 180 ttl, theo truyền kỳ Mỵ Châu, với kế Trọng Thủy ở rể, Triệu Đà đã
đánh bại Vua An Dương, chiếm đóng Cổ Loa, trị sở của Việt Lạc Sông Hồng. Triệu
Đà vẫn để người bản xứ cai trị dân, cuộc sống người dân không thay đổi. Nhưng
Việt Lạc Sông Hồng chỉ là một nước phụ dung.
Năm
2768 tH, 111 ttl, Nam Việt bị Hán xâm lấn. *[232]
c. Sống theo truyền thống
Trong
96 năm, Dầu Nhà Triệu cai trị, dân Việt Lạc Nam Việt vẫn tiếp tục sống Văn hóa
của Tổ Tiên, các Trưởng Lão Việt Lạc tiếp tục cai quản dân theo truyền thống,
kinh tế và lực lượng an ninh cũng tiếp tục được củng cố...
Như vậy,
thời kỳ nầy chưa thể được coi là thời Bắc thuộc.
Nhưng
lúc Nhà Triệu suy, nhiều địa phương vùng Sông Hồng đã quật khởi.
3.3. Thời Phụ Dung Tây Hán
Suốt
141 năm, từ 2768 tới 2909 tH, 111 ttl - 30 dl, tuy Nam Việt bị Nhà Hán xâm
lăng, sách vở Trung Hoa không nói tới đất Việt
Lạc, dấu chỉ thời kỳ nầy, Việt Lạc
chưa liên hệ nhiều với Hán.
Nhà Tây Hán 2679-2887 tH, 206 ttl-8 dl, quan
thứ sử các vùng đất phụ dung mỗi năm 3 tháng đi thu thuế cho triều đình. Không
có nền cai trị mới của ngoại xâm trên Việt Lạc. Thời 2887-2904 tH, 8-25 dl, là thời loạn lạc của Trung Hoa, lơ là thu thuế. Trong suốt thời nầy, Việt
Lạc chỉ là một nước phụ dung đóng thuế cho triều Hán. *[233]
3.4. Quang Vũ Xâm Lăng
Tình
hình thay đổi từ năm 2909 tH, 30 dl, khi Hán Quang Vũ áp đặt chính sách hà khắc,
đưa quân và quan lại tàn ác, chiếm đoạt, tham ô tới trú đóng các vùng Việt Lạc.
4 năm sau, 2913 tH, 34 dl, xuất hiện thái thú Tô Định.
3.5.
Tình Hình Việt Lạc năm 2909 tH, 30 dl
a. Nếp sống Truyền thống
Từ
2768 tới 2909 tH, 111 ttl - 30 dl, ngoài việc mỗi năm một lần đóng thuế cho thứ
sử, cuộc sống dân Việt Lạc vẫn không thay đổi. Trung Hoa chưa ảnh hưởng nếp sống
xã hội, văn hóa, chính trị, quân sự, an ninh của Việt Lạc.
Trong
suốt 141 năm đó, dân Việt Lạc vẫn tiếp tục sống nếp sống truyền đời của Tổ
Tiên. Việc cai trị vẫn ở trong tay các Trưởng Lão Việt Lạc. Thành phần bảo vệ an ninh cho Làng, Nước,
vẫn sinh hoạt bình thường.
Nếp sống văn minh Lúa Nước, kỹ thuật trồng
cấy, kỹ nghệ đồ đồng đồ gốm, văn học, thơ văn, chữ viết... của Việt Lạc, vẫn tiếp
tục phát triển. Nếp sống Làng thôn với thể
chế Làng-Nước Việt Lạc, vẫn sống động và tăng trưởng.
Văn
hóa Việt Lạc vẫn ngày một thêm tốt đẹp, sâu sắc. *[234]
b. Việt Lạc bị xâm lăng
Từ năm
2909 tH, 30 dl, do việc xua quân áp đặt quan lại của Hán Quang Vũ, cuộc sống của
Dân Nước khắp toàn vùng Việt Lạc, từ Đồng Đình, qua Lưỡng Quảng, tới Sông Hồng,
bỗng bị xáo trộn.
Thái
thú Tô Định làm cho tình hình thêm tồi tệ, thêm giặc tham tàn ác, thêm luật lệ
mới, thêm sắc thuế mới. *[235]
c. Việt Lạc kháng chiến
Toàn
thể Việt Lạc khắp nơi đều sẵn sàng đứng lên. Toàn hệ thống sức mạnh xã hội,
chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa đều vận dụng để chống giặc. Mọi nơi, mọi
đơn vị đều sẵn sàng, với lực lượng, tổ chức, và thủ lãnh sẵn có.
Trong
tình trạng sôi động, do ưu thế của vùng Sông Hồng, liên kết và chủ động của 2
vùng Mê Linh và Châu Diên, quê của vợ chồng Trưng Trắc và Thi Sách, qua biến cố
Tô Định giết hại Lạc Tướng Thi Sách, và do truyền thống mẫu hệ mấy ngàn năm của
Việt Lạc, Đức Trưng Trắc đã trở thành Thủ Lãnh kháng chiến của toàn Dân Việt Lạc.
4. ĐỘNG CƠ QUẬT KHỞI
4.1. Theo Sách vở Trung Hoa
a.
Vì thù chồng. Theo sách vở Trung Hoa, Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam người
đất Mê Linh. Bên ngoại Bà thuộc dòng Vua Hùng, bên nội là dòng Lạc Tướng. Bà kết
hôn với Thi Sách, dòng Lạc Tướng, người vùng Châu Diên. Vì thái thú Tô Định giết
chồng Bà, nên Bà nổi dậy đánh đuổi Tô Định năm 2919 tH, 40 dl, đóng đô tại Mê
Linh. Sách Trung Hoa nhấn mạnh Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam thù chồng, giảm nhẹ
tinh thần Vì Dân Vì Nước của Ngài và của toàn dân Việt Lạc thời đó. Việc hạ giá
trị lý do chiến đấu của phái nữ bị sử
Trung Hoa gán ghép cho nhiều Nữ Tướng anh hùng khác. Cuộc khởi nghĩa của Công
chúa Thánh Thiên ghi là để trả thù cho cậu. Bà Cao Thị Liên rửa thù cho cha.
Nhiều Bà khác cùng vì thù chồng.
b. Vì Tô Định bạo ngược
Sách
vở Trung Hoa đã nhấn mạnh Tô Định tham tàn bạo ngược. Tuy đây là sự thực,
nhưng cũng là cớ đánh lạc hướng động cơ quật khởi của Việt Lạc.
Lý do
‘tham tàn quá đáng’ luôn được sách vở Trung Hoa nhấn mạnh cho tất cả các quan
cai trị thất bại. Họ luôn trút tội lên đầu những kẻ thất bại, để chạy tội cho
toàn thể truyền thống dã tâm xâm lược của họ, như thể dân bị trị luôn vui lụy
phục ách bạo tàn của họ, chỉ chống đối bọn tham quan tồi tệ.
c. Vì luật lệ hà khắc
Dầu quen xuyên tạc, sách vở Trung Hoa, như Hậu
Hán Thư, Việt Kiều Thư, An Nam Chí Nguyên... cũng ghi : "Vì thái thú Giao
Chỉ là Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc, nên Trưng Trắc oán giận mà làm phản"
! Hậu Hán Thư ghi : "Trưng Trắc là con gái Lạc
tướng ở Mê Linh, vợ người huyện Châu Diên tên là Thi Sách, rất hùng dũng".
4.2.
Chống Giặc Xâm Lăng
Sách
vở của giặc cũng phải công nhận là Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam khởi nghĩa để
chống bạo quyền. Sự kiện người Nữ Kiệt đất Mê Linh kết duyên với vị Tướng Tài
vùng Châu Diên, và rồi Thi Sách bị Tô Định sát hại, cũng cho thấy sự liên kết
và tình hình sôi động thời bấy giờ.
Dầu
dòng dõi nhà tướng, Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam không thể chỉ vì thù chồng mà
điều động được toàn dân đánh đuổi bọn quan quân Tô Định.
Dưới sự
kềm chế của giặc và với phương tiện thời bấy giờ, nếu chỉ vì thù chồng, làm sao
Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam có thể điều động đủ sức mạnh binh mã để, chỉ
trong mấy tháng, đánh chiếm lại 65 thành từ tay giặc ?
Từ năm 2909 tH, 30 dl, Đức Đại Đế Đồng
Đình Lĩnh Nam lãnh đạo toàn dân Việt Lạc
chống giặc Hán xâm lăng.
5. NHÂN SỰ QUẬT KHỞI
5.1. Từ Khắp Vùng Việt Lạc
Dù cố
tình giấu, sử sách Hán Hoa vẫn ghi nhận thời đó dân ta đã có nhiều anh hùng
hào kiệt chống giặc phương Bắc.
Tiểu sử
của các vị Anh Hùng cộng sự của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam càng chứng tỏ
tinh thần Toàn Dân Việt Lạc thời đó. Các Ngài nổi dậy khắp nơi, ở vùng Sông Hồng,
và ở vùng Lưỡng Quảng, Đồng Đình.
Căn cứ trên các thần phả và di tích, hiện nay chúng ta có
tên tuổi và tiểu sử của 162 Vị Danh tướng
thời Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. Nhiều Vị đã có quân sĩ trước khi hợp tác ra
quân với Đức Đại Đế, như : *[236]
- Bà Lê Chân đến từ Hải Dương, đem theo cả một đội chiến
thuyền.
- Công chúa Nguyễn Thánh Thiên, trước khi về với Đức Đại Đế,
đã có binh tướng riêng, đã đánh bại quân Tô Định.
- Bà Lê Thị Hoa có chiến khu tại vùng Nga Sơn ở Thanh Hóa.
- Bà Trần Vĩnh Huy khởi binh từ Cổ Châu, gần Hà Nội ngày
nay.
- Công chúa Lĩnh Nam Sa Giang, người Trường Sa, vùng Đồng
Đình.
- Đại tướng Đồng Đình Công Đô Thiên, vùng Quảng Tây.
- Liệt nữ Trần Thiếu Lan, Nam Thành Vương Trần Công Minh,
Long Biên Công Đặng Dương Hoán và nhiều Anh Hùng khác đã nhiều năm chống giặc
phương Bắc, trước khi liên kết với Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. *[237]
5.2. Việt
Lạc Thống Nhất
Các đoàn quân quật khởi bất khuất thống nhất của toàn dân Việt Lạc từ
vùng Sông Hồng tới Đồng Đình. Đặc biệt nổi bật nhất là Thành phần quật khởi hiện
rõ đặc tính thiên Mẫu hệ của Việt Lạc đương thời.
Ngoài Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam, hơn 2/3 Danh tướng đều
là Nữ giới, với nhiều đội Nữ binh. *[238]
6.
ĐỊA BÀN HOẠT ĐỘNG
6.1. 65 Thành
a. Theo sách vở Trung Hoa
Sách
vở Trung Hoa, sau nầy các sử gia Việt Nam chép lại, chỉ ghi nhận vùng ảnh hưởng
của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam trong khu vực các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật
Nam và Hợp Phố, là vùng từ Thừa Thiên ra Bắc Phần Việt Nam, và 1 phần tỉnh Quảng
Tây Trung Quốc hiện nay.
Tuy
nhiên, nhiều sách ngoại sử Trung Hoa đã ghi là Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam
tái lập toàn thể vùng Lĩnh Nam của Việt Lạc. *[239]
Sách vở Trung Hoa ghi Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đã chiếm
giữ ‘65 thành’. *[240]
Nhiều học giả đã giải thích tại sao chỉ trong 4 quận, lại có
tới 65 nơi đóng quân kiên cố của giặc, với thành cao, với hào lũy. Số ‘65
thành’ là 1 sơ suất, trái với sách vở Trung Hoa ém nhẹm. Nhưng đó lại là dấu
chỉ sự thực.
b. Theo thực trạng đương thời
Theo
thực trạng đương thời, vùng đất Việt Lạc không chỉ ở Lĩnh Nam, mà bao gồm cả
vùng Đồng Đình. *[241]
Theo
cách xử sự của triều Tây Hán đối với các nước phụ dung, cho tới năm 2909 tH, 30
dl, mỗi năm thứ sử chỉ đi một vòng để thâu thuế, mọi việc khác đều do người bản
xứ điều động, dân Việt Lạc vẫn tiếp tục phát triển nếp sống truyền đời. Như vậy, ngay từ khi bị Hán Quang Vũ đưa quan
quân bách hại và trấn đóng, toàn thể dân Việt Lạc đồng loạt quật khởi là chuyện
phải có.
Với
niềm hãnh diện và tinh thần bất khuất của Việt Lạc, địa bàn quật khởi toàn vùng đất
Việt Lạc, vùng Sông Hồng, Quảng Tây Quảng Đông, Đồng Đình... là chuyện đương
nhiên.
Với lực
lượng túc trực trong nếp sống làng thôn của toàn thể Việt Lạc, việc tái chiếm
65 thành trong mấy tháng, tập họp hàng vạn dân quân... cũng là thực tế.
6.2. Di tích ở Hoa Nam hiện nay
a. Chiến tích.
Chiến
tích của nghĩa quân Việt Lạc tại vùng nay là Hoa Nam, được các thần phả ghi,
còn nhiều di tích hiện trường.
Đặc
biệt, hiện
nay, sau gần 2.000 năm, tại bờ Hồ Đồng Đình và tại nhiều nơi ở các tỉnh Hồ Nam,
Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam... còn
nhiều di tích chiến trận, nhiều đền thờ kính Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam và
các danh tướng đương thời. *[242]
b. Lịch sử và Đền Thờ.
Các vị
Anh Hùng sau đây, và nhiều Vị khác ở thời Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đã được
dân Tộc Việt thờ kính trong suốt 2.000 năm qua. Đền thờ của các Ngài còn khắp
vùng nay là Nam Trung Quốc, Bắc Phần và Bắc Trung Phần Việt Nam. Đây chỉ sơ lược
một số di tích tại những vùng ngày nay đã bị sáp nhập vào Trung Quốc.
1.
Sử ta ghi
: năm 4167 tH, 1288 dl, vua Trần Nhân Tôn sai quan đại thần qua
Khúc Giang, Quảng Đông, tu sửa đền thờ Nữ tướng Công chúa Nam Hải Trần Thị
Phương Châu tuẩn quốc ở đây năm 2919 tH, 40 dl.
2. Theo
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, viết năm 4358 tH, 1479 dl, ở Phiên Ngung, gần thủ phủ
Quảng Châu của tỉnh Quảng Đông ngày nay, có đền thờ Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh
Nam.
3. Năm
4672 tH, 1793 dl, vào thời Tây Sơn, khi đặc sứ Ngô Thời Nhiệm cùng phái đoàn đi
ngang phía nam Hồ Đồng Đình, ông đã đến viếng đền thờ Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh
Nam. Ông cũng ghi : quân Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đã đánh với quân Mã Viện
ở Hồ Nam.
4. Đại
Nam Quốc Sử Diễn Ca, tu sửa năm 4749 tH, 1870 dl, ghi : "Đô kỳ đóng cõi Mê
Linh, Lĩnh Nam riêng 1 triều đình nước ta". (câu 339-340).
5. Cũng tại Khúc Giang, Quảng Đông, còn đền thờ
Nữ tướng Công chúa Nguyệt Điện Đàm Ngọc Nga, với nhiều di tích trận đánh của Bà
với quân Mã Viện.
6. Tại
Quảng Tây và Quảng Đông còn nhiều đền thờ Nữ tướng Công chúa Nguyễn Thánh
Thiên. Bà hy sinh tại vùng nầy năm 2921 tH, 42 dl.
7. Suốt dọc bờ biển Quảng Đông, Phúc Kiến, và đảo
Hải Nam, hiện còn rất nhiều đền thờ Bà Công chúa Gia Hưng Trần Quốc. Ở Uất Lâm
còn di tích của trận thủy chiến lừng lẫy. Dân tin Bà là Giao Long Tiên Nữ giáng
trần.
8. Tại cửa
Thẩm Giang chảy vào Hồ Đồng Đình, còn miếu thờ Liệt nữ Trần Thiếu Lan. Suốt hơn
ngàn năm qua, mỗi lần các sứ thần nước ta đi ngang qua đây, đều đến cúng tế Bà.
- Đền thờ Bà vừa bị Vệ Binh Đỏ của Mao Trạch Đông thiêu hủy năm 1966 dl, nay chỉ
còn nền và mộ của Bà.
9. Tại
vùng Hồ Đồng Đình và Trường Sa của Hồ Nam, đến ngày nay, sau gần 2.000 năm, dân
địa phương còn khiếp sợ trận đánh của Công chúa Phật Nguyệt chiến thắng Mã Viện,
Lưu Long, Đoàn Chí. - Bà đại thắng trận thủy chiến trên Hồ Đồng Đình, dầu
Mã Viện có bảy vạn quân, và Bà chỉ có năm vạn. Đại tướng Đoàn Chí của giặc bị
quân ta giết trong trận nầy.
Công
chúa Phật Nguyệt là Tổng trấn khu Đồng Đình-Trường Sa, được thờ ở chùa Kiến Quốc
Trường Sa, và chùa núi Thiên Đài, có tên trong sử Trung Hoa.
10. Tại
huyện Phong Đô, Tứ Xuyên, hiện còn đền thờ Công chúa Lĩnh Nam Sa Giang. Bà là người Trường Sa, tướng tài của Đại Đế
Đồng Đình Lĩnh Nam.
11. Vùng Quảng Tây Quảng Đông hiện
còn rất nhiều đền miếu thờ Đại tướng Đồng Đình Công Đô Thiên Ông cũng là
người địa phương, và giữ chức Tổng trấn Trường Sa.
6.3. Toàn Thể Vùng Đất Việt Lạc
Trong
suốt dòng lịch sử 2000 năm qua, toàn dân Việt Lạc, đặc biệt những người ở vùng
đất ngày nay đang bị Trung Hoa chiếm giữ, luôn ghi nhớ công đức, chiến tích, và
vùng Việt Lạc rộng lớn, nghĩa quân của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đã thâu hồi
đầu thế kỷ I dương lịch.
Nghĩa
quân Việt Lạc, dưới sự lãnh đạo của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam, đã tái chiếm
toàn thể vùng đất Việt Lạc nay là Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng
Đông, Hải Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến. Thủ đô của
toàn vùng là Mê Linh. Theo Đức Nguyễn Trãi, Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đặt
tên nước là Hùng Lạc. *[243]
7.
SỬ TRUNG HOA VỚI MÃ VIỆN
7.1. Luận Điệu Xuyên Tạc.
Sách
vở Trung Hoa luôn giảm thiểu tình hình chống đối và sức mạnh của các dân tộc bị
trị. Khi không thể che giấu nổi, sách vở Trung Hoa lại luôn toa rập theo một
luận điệu mấy ngàn năm không đổi.
Theo
luận điệu Trung Hoa, sở dĩ có ‘làm phản’ chỉ vì
tên quan lại tham ô và khiếp nhược. Dân địa phương sơ khai lạc hậu, quân
khởi nghĩa chỉ là bọn ô hợp, thủ lãnh khởi nghĩa là những tội phạm sợ luật pháp
trừng trị.
Các cuộc
hành quân đàn áp khởi nghĩa cũng bị sách vở Trung Hoa hạ thấp tầm quan trọng,
số quân lính tham dự cuộc đàn áp được giảm thiểu, địa bàn hoạt động được ghi
chép co rút lại, và, đặc biệt, những lần thua bại được bỏ qua, hoặc chỉ ghi là
do khí hậu địa phương quá khắc nghiệt.
Tình
hình và phản ứng của triều đình Trung Hoa, thanh thế và binh lực của tướng giặc
Mã Viện, lại đã bộc lộ rõ ràng tầm quan trọng, sức mạnh và địa bàn hoạt động của
nghĩa quân thời Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.
7.2.
Địa Bàn của Mã Viện theo sách vở Trung Hoa
Sách
vở Trung Hoa chỉ ghi các chiến thắng của Mã Viện ở bốn quận vùng Giao Châu, tức
Giao Chỉ, Hợp Phố, Cửu Chân và Nhật Nam.
Họ cố
tình bỏ qua những trận đại bại ở nhiều nơi khác, đặc biệt ở các vùng sau đó đã
bị sáp nhập thành phần đất Trung Hoa, như ở Hồ Nam, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng
Đông, Phúc Kiến, Hải Nam.
7.3. Lý Do Yếu Kém của Mã Viện
a. Lam sơn chướng khí
Sách
vở Trung Hoa ghi rằng : quân tướng của Mã Viện bị lam sơn chướng khí nên bịnh
tật rất nhiều, vị chỉ huy thủy quân của ông, đại tướng Đoàn Chí, cũng bị bịnh
chết.
‘Khí hậu
ác độc’ của phương Nam đã làm cho binh sĩ Đông Hán tật bệnh nhiều, nào nước lụt,
nào mưa nhiều, "nắng hạ bốc lên như lửa đốt, trên trời diều hâu đang bay bỗng
rớt xuống mà chết" (!).
b.
Theo sử Trung Hoa *[244]
Lam
sơn chướng khí luôn là nguyên nhân được mọi sử gia Trung Hoa ghi nhận cho mọi
cuộc xâm lăng thất bại tại nước Nam. Sử Việt chép lại :
1. Năm
2665 tH, 214 ttl, tướng của Tần Thủy Hoàng là Hiệu úy Đồ Thư và đại tướng Sử Lộc
kéo quân xâm lăng Việt Lạc. Nhưng "Đồ Thư bị hại, quân Tần mất vài chục vạn,
phần bị giết, phần vì lam sơn chướng khí". *[245]
2. Năm
2690 tH, 181 ttl, tướng nhà Hán là Long lân hầu Chu Táo kéo quân sang Nước Nam.
Nhưng do "Thủy thổ Phương Nam không thích hợp với Hán quân, nên họ ốm đau,
chết hại rất nhiều… và phải bãi binh". *[246]
3. Thời
Đức Trưng Vương, tức là Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam, năm 2921 tH, 42 dl, khi
tướng Nhà Hán là Mã Viện sang xâm lấn Nước ta, có đại tướng Đoàn Chí, tướng nhà
Hán, "bị bệnh và chết". Ngoài ra, "Khí hậu ác độc" của
phương Nam đã làm cho binh sĩ Đông Hán tật bệnh nhiều, "nào nước lụt, nào
mưa nhiều, nắng hạ bốc lên như lửa đốt, trên trời diều hâu đang bay bỗng rớt xuống
mà chết" (!). *[247]
4. Thời
Đức Lý Nam Đế, 3423 tH, 544 dl, Tả vệ tướng quân Lan Khâm, tướng nhà Lương, kéo
quân đánh Nước ta, nhưng "bị bệnh và chết". *[248]
5. Thời
Đức Lý Nhân Tôn, năm 3955 tH, 1076 dl, Chiêu thảo sứ Triệu Tiết, và đại tướng
Quách Quì, tướng nhà Tống, "bị hại quá nửa vừa do chiến tranh và cũng do bất
phục thủy thổ". *[249]
Chi tiết
hơn : vì "không tính đến nhiệt khí, lam chướng... và nước độc’ để ‘quân tải
lương chết mất 8 vạn, quân chiến đấu ngã nước chết mất 11 vạn"... 30 vạn
quân kéo đi, chỉ còn 2 vạn tám thoát chết chạy về. *[250]
6. Thời
Đức Trần Thái Tôn, năm 4136 tH, 1257 dl, có đại tướng Ngột Lương Hợp Thai, tướng
Mông Cổ, xâm lăng Nước ta. Nhưng "Quân Mông Cổ mỏi mệt vì không chịu được
thủy thổ"... rút về Tàu’. *[251]
7. Thời
Đức Trần Nhân Tôn, Đức Hưng Đạo Vương, năm 4164 tH, 1285 dl, có hoàng thái tử
Thoát Hoan, thượng tướng Toa Đô, nguyên soái Ô Mã Nhi, Lưu Khuê, Lý Hằng, Lý
Quán, A Bát Xích, Phàn Tiếp, bị "nắng sém da bỏng thịt, nóng cháy mây hun
đá, lam sơn chướng khí, quân ốm đau tật bệnh chết nhiều."
50 vạn quân với hàng ngàn dũng tướng...phải rút về.
*[252]
8. Năm
4166 tH, 1287 dl, Thoát Hoan lại kéo quân tướng sang, và rồi vì "khí trời
nóng nực, đất thì ẩm thấp"... nên
thua Trận Bạch Đằng (!). *[253]
9. Thời
Hồ Hán Thương 4286 tH, 1407 dl, Phó tướng Mộc Thạnh nhà Minh bị thất bại, và vì
"quân Minh bị đau bệnh nhiều nên phải lui…". *[254]
10. Thời
Đức Lê Thái Tổ, năm 4305 tH, 1426 dl, Chinh di tướng quân Vương Thông của nhà
Minh, ở trận Tuy Động, "trời đang mưa, đường lầy lội", nên bị bại,
Thượng thư Trần Hiệp bị chém. *[255]
11. Ở trận
Chi Lăng, năm 4306 tH, 1427 dl, An viễn hầu Liễu Thăng,tướng nhà Minh, đến
"chỗ bùn lầy", nên bị chém. Đô đốc Thôi Tụ, Thượng thư Hoàng Phúc, gặp
"trời mưa bão, không tiến được"... nên bị bắt. *[256]
12. Thời
Đức Quang Trung, năm 4668 tH, 1789 dl, Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương
Triều Long, Tả dực Thượng Duy Thăng nhà Thanh, bị "trời quay gió nồm"
nên ‘bỏ mạng’. Sau đó Sầm Nghi Đống tự tử, Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị bỏ
chạy. *[257]
-
Chỉ có lần Ân Cao Tôn đại bại, năm 1661 tH, 1218
ttl, là không nói do 'lam sơn chướng khí', mà nói là "không thắng"... vì phải
172 năm sau mới thành hình tộc Hoa. *[258]
c.
Tổng kết sơ khởi
Chỉ kể 12 lần Trung Hoa xua đại quân xâm lấn Nước Nam, Dầu
sách vở Trung Hoa đã giấu bớt quân số vì bị thất trận, đoàn quân xâm lăng
Trung Hoa hơn 30 danh tướng, hàng ngàn đại tướng, hơn 400 vạn quân sĩ. *[259]
Tất cả bọn họ đều được sách vở Trung Hoa ghi là vì bị lam
sơn chướng khí, bệnh tật
mà chết, mà chạy về Tàu, chứ
dân Nam mọi rợ ô hợp hèn nhát, làm
sao thắng được hơn 400 vạn
tinh binh, hàng ngàn kiện tướng, hơn
30 danh tướng, gồm các thượng thư, các tổng đốc,
các hoàng thái tử... của Thiên Triều
!
Trong suốt hơn 2000 năm, mà Trung Hoa chỉ có một luận điệu
xuyên tạc gian trá: Trung Hoa chỉ bại trận vì Lam sơn chướng khí. - Lịch sử
nhân loại có trường hợp gian manh cố chấp nào khủng khiếp hơn ?
d. Thực tế lịch sử
Sách sử
Trung Hoa quên ghi thêm : bọn quan quân tranh nhau sang vơ vét nước Nam cả ngàn
năm thì không sao cả, không hề bị lam sơn chướng khí.
Sự thực,
theo tài liệu đương thời, đất Giao Chỉ ít chướng khí nhất, thích hợp với sự cư
trú của con người nhất, dân cư đông đúc và trù phú nhất, đã đóng thuế nhiều hơn
tất cả mọi vùng chung quanh gom góp lại.
Theo Từ
Tùng Thạch trong Việt Giang Lưu Vực Nhân Dân Sử, so sánh dân số thời đó, Giao
Chỉ đông người nhất, con cháu trong gia đình cũng đông nhất, chứng tỏ Giao Chỉ
là nơi thích hợp với cuộc sống con người nhất. *[260]
Theo
Quảng Đông Tân Ngữ của Khuất đại Quân : Giao Chỉ mỗi năm nộp thóc hơn 1360 vạn
hộc. Tính ra tất cả thuế các châu Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam,
Quí Châu cũng không bằng. *[261]
7.4. Thực trạng của Mã Viện
a.
Mã Viện Truyện. Mã Viện Truyện tôn vinh Đại tướng thời danh của Đại Hoàng đế
Đại Đông Hán Quang Vũ, ta có thêm một số chi tiết. Mã Viện Truyện ghi : Quân sĩ bị chướng
khí làm ông ngao ngán. Nhưng sau ông nghĩ lại sứ mạng vua đã long trọng giao
phó, nên ông đã cố gắng. *[262]
Hàng trăm đại tướng của thiên triều Đại Hán ở 65 thành đều
đã thua chạy trước những đoàn nghĩa quân của Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. Tất cả
các đại tướng Đại Hán đều khiếp sợ, không dám đương đầu, nên Đại Hoàng đế Đại
Đông Hán Quang Vũ phải cầu tới danh tướng lão thành Mã Viện. Để ép buộc Mã Viện
và quân sĩ liều chết xuất quân, Đại Hoàng đế Quang Vũ đã ủy thác sứ mạng, và
phong thêm chức tột bực cho Mã Viện. Toàn thể tướng tá tùy tùng cũng được gia
phong. Theo Mã Viện Truyện, trước khi đi, Mã Viện đã lo sợ để lại lời tuyệt mạng
cho gia đình. *[263]
b. Triều Hán khiếp đảm
Quả thực, thanh thế đoàn quân Việt Lạc của Đức Đại Đế Đồng
Đình Lĩnh Nam không chỉ đã kinh động thiên triều, gây khiếp đảm cho toàn thể đại
quân của Đại Đông Hán, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới thanh thế của Quang
Vũ, và nhất là tới sự sống còn của đại đế quốc Đại Đông Hán.
Việc lo sợ đúng là có căn cứ. Trong trận ra quân đầu tiên ở Hồ Đồng Đình, dưới sự chỉ huy tối
cao của Đại Lão Tướng quyền chức tột bực, 7 vạn thủy quân thiên triều đã tan tác
trước 5 vạn quân của cô tướng trẻ Phật Nguyệt.
Đại tướng chỉ huy trưởng thủy quân Đoàn Chí cũng chết trong
trận nầy !
c. May mắn thắng trận. Dầu sao, sách vở Trung Hoa cũng đúng khi khen Mã Viện cố gắng. Dầu sao
ông cũng đã may mắn hơn nhiều vua chúa, thái tử, đại tướng, danh tướng... của
Thiên triều.
Dầu sao, dầu có nhiều thất bại ở buổi đầu, rốt cuộc,
sau nhiều cố gắng, Đại Lão Tướng Phục Ba của Đại Hoàng Đế Quang Vũ lừng danh lịch
sử Trung Hoa, cũng đã thắng được Cô Gái Thủ Lãnh 31 tuổi của dân Nam.
d. Thất phu ngông cuồng
Sau
chiến thắng, Mã Viện còn nhiều cố gắng khác. Nhưng một cố gắng đã làm ông nổi
tiếng sách vở. Đó là việc Mã Viện dựng cột đồng với lời nguyền : Trụ đồng chiết,
Giao Chỉ diệt.
Trong
2000 năm qua, câu chuyện trụ đồng và lời nguyền đó đã có giá trị ghi lại hành động
và phát ngôn ngông cuồng của một tên thất phu cùng quẫn. Hắn bỗng kiêu hãnh đến
phát điên, vì chiến thắng không ngờ ! - Sách vở Trung Hoa lại cố tình làm như
thể sự ngông cuồng của tên giặc điên Mã Viện sẽ ảnh hưởng tới vận mệnh nước Nam
(!). *[264]
Đại
Lão Tướng thời danh của Quang Vũ Đại Hoàng đế Đại Đông Hán như Phục Ba Đại Tướng
Quân Mã Viện mà khiếp sợ gái Việt đến thế sao ?
7.5. Binh Lực của Mã Viện
a. 2.000
chiến thuyền có lầu cao
Sách
vở Trung Hoa nói thoáng qua Mã Viện có 2.000 chiến thuyền có lầu cao, không
ghi số quân trên chiến thuyền.
Mỗi
chiến thuyền có lầu cao phải có bao nhiêu thủy thủ ? bao nhiêu tay chèo chống ?
chở bao nhiêu chiến binh ? ở cả các tầng trên dưới ?
Tổng số
không thể dưới 50 người cho mỗi chiếc. 2000 chiếc nhân cho 50 người là 100.000
người.Tuy thời điểm khác nhau, nhưng đời nhà Nguyên có 600 chiến thuyền chở 6 vạn
quân. Vậy, 2000 chiến thuyền có lầu cao của Mã Viện đã chở theo ít nhất từ 10 tới
20 vạn quân. *[265]
b. Toàn thể binh lực thiên triều
Sách vở Trung Hoa cũng ghi là Mã Viện đã dẫn theo 2 vạn
quân. Làm sao 2 vạn lính có thể đánh chiếm 65 thành vừa mất vào tay nghĩa quân
Việt Lạc ? Số quân 2 vạn cũng quá ít ỏi, nhất là khi so với 50 vạn quân
của Đồ Thư trước đó 250 năm. Dầu với số quân gấp 25 lần, Đồ Thư cũng đã thảm bại.
*[266]
So với những cuộc chiến khác trong lịch sử Trung Hoa, Dầu
Mã Viện có gấp 10 lần số 2 vạn quân, cũng không đủ đánh phá 65 thành. Dầu gấp
20 lần số 2 vạn, cũng không xứng với tầm nghiêm trọng và nổi khiếp sợ của thiên
triều Trung Hoa, như Mã Viện Truyện đã ghi nhận.
Dầu gấp
25 lần số 2 vạn, như quân của Đồ Thư trước đó 250 năm, cũng chưa xứng với thanh
thế chủ soái của vị Đệ nhất Đại Tướng thời danh vừa được Đại Hoàng Đế tấn phong
tước vị tột bực.
Theo thói thường binh tướng, để xứng đáng với việc tấn phong
chức tước tột bực cho một danh tướng, để xứng đáng với lễ ra quân long trọng, để
đương đầu với đoàn nghĩa quân Việt Lạc vừa đuổi chạy hàng trăm vị đại tướng, để
giải cứu Đại Đông Hán khỏi nguy cơ diệt vong, và để tương xứng với hàng chục vạn
quân trên 2.000 chiến thuyền lầu cao, Đại Hoàng Đế Đại Đông Hán Quang Vũ đã
trao cho Mã Viện toàn binh lực của thiên triều.
Và dầu với toàn thể binh lực thiên triều,
Mã Viện cũng đã có lúc phải ngao ngán vì thất bại dưới sức mạnh và quyết tâm của
nghĩa quân Việt Lạc, với sự điều động của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.
8. ĐỨC ĐẠI ĐẾ
Từ năm
2909 tới 2922 tH, 30-43 dl, Việt Lạc kháng chiến chống xâm lăng. Năm 2919 tH,
40 dl, Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đã lãnh đạo tái chiếm toàn thể vùng đất Việt
Lạc. Ngày nay, phần đất phía Bắc gồm Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng
Đông, Hải Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến.
Đức Đại
Đế Đồng Đình Lĩnh Nam về thần ngày 6.2.2922 tH, 43 dl, khi mới 31 tuổi.
Trong
suốt lịch sử Nhân loại đến nay, chưa hề có Nữ Nhân nào tạo chiến công hiển
hách, thần tốc, tái chiếm vùng đất mênh mông, như Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh
Nam. Nam nhân có được mấy người ?
XV. ĐÃ 13 LẦN VIỆT NAM ĐẠI THẮNG GIẶC
PHƯƠNG BẮC
A. 13 LẦN ĐẠI THẮNG !
Trong
mưu đồ xâm chiếm của Giặc Phương Bắc, không kể nhiều cuộc hành quân nhỏ,
đã có 13 lần Giặc Phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt
Nam.
Trong
13 lần đó, trừ lần đầu tiên Giặc Ân xâm lấn Việt Lạc ở vùng Hồ
Đồng Đình cách đây hơn 3.200 năm, những lần khác đều bắt đầu từ Tần
Thủy Hoàng, cách đây 2.200 năm. Những cuộc xâm lấn nầy, phần nhiều là
do giới thống trị Hoa khởi hấn, nhưng cũng có những lần do các nước
tộc Việt ở phương Bắc xâm lăng.
Về
lãnh thổ, lần đầu tiên và 3 lần tiếp theo về toàn dân Việt Lạc từ Hồ Đồng
Đình tới Đèo Hải Vân. Trong tất cảc cuộc
chiến đấu chống ngoại xâm đó, dân Việt Lạc Sông Hồng, Việt Nam ngày
nay, đều là phần chủ chốt.
Từ lần thứ 5, các cuộc xâm lấn vùng nay là Việt Nam.
Tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng quân Phương Bắc.
Lần thứ 1 : Đức PHÙ ĐỔNG đại thắng
Giặc ÂN
Theo
sách vở Trung Hoa, năm 1661 tH, 1218 ttl, Ân Cao Tôn đã đánh Quỉ Phương ở Đồng
Đình. Ân Cao Tôn đóng quân tại đất Kinh, tả ngạn sông Dương Tử. Thời đó, đất
Việt Lạc trải rộng từ Hồ Đồng Đình tới Hải Vân.
Theo
Truyền kỳ Phù Đổng của Việt Lạc, Ân Cao Tôn đã xâm lấn nước Việt Lạc 3 năm và
đã bị đánh bại. Sau 3 năm, Ân Cao Tôn ‘không thắng’.
Theo
Truyền kỳ Phù Đổng, cách đây 3.200 năm, dân Việt Lạc đã là một quốc gia vững mạnh,
đã có tổ chức chặt chẽ, có vua quan, làng xã, cúng tế, lúa gạo, vải áo, lũy
tre... đã đúc được ngựa sắt, roi sắt, đã có tinh thần dân tộc cao độ... và,
theo sách vở Trung Hoa, đã chiến thắng giặc Ân vào thời kỳ hùng mạnh nhất của
chúng. *[267]
Lần thứ 2 :
VIỆT LẠC đại thắng Giặc TẦN
Năm
2665 tH, 214 ttl, Tần Thủy Hoàng, vua Trung Hoa đầu tiên, sai tướng Đồ Thư kéo
50 vạn quân xâm lăng đất Việt Lạc, nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng
Đông. Đây là đoàn quân giúp Tần Thủy Hoàng đánh chiếm 6 nước, lập nước Trung
Hoa. Nhưng Đồ Thư đã bị quân Việt đánh bại, Đồ Thư bị giết, quân giặc chết quá
nửa. *[268]
Theo
Trung Hoa, mỗi người lính đem theo một phu phục dịch. Số người vận chuyển lương
thực không được kể là lính. Vì vậy, số người Trung Hoa xâm nhập có thể nhiều gấp
3 lần số quân lính được kể, Dầu là số trung thực.
Lần
thứ 3 : NAM VIỆT đại thắng Giặc TÂY HÁN
Năm
2698 tH, 181 ttl, triều Hán sai Long Lân hầu Chu Táo kéo quân sang Lĩnh Nam,
đánh Nam Việt. Theo sử Trung Hoa, quân Hán không chịu được thủy thổ phương Nam,
nhiều người phải bệnh tật, phải thua chạy về bắc. Triều Hán xét thấy Nam chinh
không lợi, nên không đánh nữa ! *[269]
Lần thứ 4 : Đức Đại Đế Đồng Đình
Lĩnh Nam đại thắng Giặc Đông Hán giành lại toàn vùng đất Việt Lạc.
Năm
2909 tH, 30 dl, Hán Quang Vũ áp đặt chế độ trực trị trên đất Việt Lạc. Toàn dân
Việt vùng lên chiến đấu, bầu Đức Trưng Trắc làm Thủ Lãnh.
Sau 10
năm, 2919 tH, 40 dl, Dân ta đã đánh đuổi toàn bộ quân Tàu ra khỏi vùng đất Việt
Lạc, chiếm lại 65 thành.
Sách
vở Trung Hoa đã giảm thiểu vùng đất và sức mạnh của dân Việt thời đó. Nay đã
có đủ chứng cứ xác định vị trí vùng đất bao la khi quân dân Việt đánh thắng đại
quân của hoàng đế Quang Vũ nhà Hán, chiếm lại 65 thành.
Thời
đó, vùng đất Việt Lạc nay là Hồ Nam, Quí Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông,
Hải Nam, và 1 phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến của Trung Hoa, xuống
tới Hải Vân. Hán Quang Vũ đã phải vận dụng toàn thể binh lực của ‘thiên triều’. *[270]
Đức
Trưng Nữ Vương được tôn hiệu Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.
Lần thứ 5 : Đức NAM VIỆT ĐẾ đại
thắng Giặc LƯƠNG
Năm
3420 tH, 541 dl, Đức Nam Việt Đế Lý Bôn, đánh đuổi quân trú đóng Trung Hoa,
giành độc lập. Năm 3423 tH, 544 dl, Ngài xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu Thiên
Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Lập ra Nhà Tiền Lý.
Lần đầu
tiên sách sử Trung Hoa ghi lại quốc hiệu và niên hiệu của dân ta.
Nhà Tiền
Lý kéo dài 61 năm, từ 3420 tới 3481 tH, 541 tới 602 dl. *[271]
Lần
thứ 6 : Đức NGÔ NAM ĐẾ đại thắng Giặc NAM HÁN
Từ năm
3785 tH, 906 dl, Đức Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự trị khỏi tay người Trung
Hoa. Truyền được 3 đời.
Năm
3817 tH, 938 dl, vua Trung Hoa Nam Hán sai thái tử Hoằng Tháo kéo quân xâm lấn.
Với trận cọc gỗ bọc sắt trên sông Bạch Đằng, Đức Ngô Nam Đế Ngô Quyền, đã đại
thắng quân Hán, giết chết thái tử Hoằng Tháo. Hoàng đế Nam Hán Lưu Cung kéo quân tiếp ứng.
Nghe tin, ông rút về. *[272]
Lần
thứ 7 : Đức LÊ ĐẠI HÀNH đại thắng Giặc TỐNG
Năm
3860 tH, 981 dl, vua Tống sai tướng Hầu Nhân Bảo kéo quân xâm lấn, theo đường bộ
và thủy. Vì vua nước ta là Đinh Tuệ mới 8 tuổi, nên quân sĩ tôn tướng Lê Hoàn
lên ngôi, là Đức Lê Đại Hành. Với trận Chi Lăng, quân ta phá tan quân Tàu, giết
Hầu Nhân Bảo. Quân giặc vội rút lui. *[273]
Lần thứ 8 : Đức
LÝ NHÂN TÔN và Tướng LÝ THƯỜNG KIỆT đại thắng Giặc TỐNG
Năm
3951 tH, 1072 dl, vua Lý Nhân Tôn 7 tuổi lên ngôi, nên việc quân đều trong tay
danh tướng Lý Thường Kiệt. Năm 3954 tH, 1075 dl, Lý Thường Kiệt và Tôn Đản kéo
10 vạn quân tái chiếm vùng châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, nay thuộc Quảng
Đông, Quảng Tây. *[274]
Năm
3955 tH, 1076 dl, vua Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết kéo hơn 30 vạn quân sang
xâm lấn Nước ta. Nhưng chúng bị đánh tan ở sông Như Nguyệt. Giặc Tàu kéo tới
hơn 30 vạn, chỉ còn 2 vạn 8 trở về ! *[275]
Lần thứ 9 : Đức
TRẦN THÁI TÔN đại thắng Giặc MÔNG CỔ
Năm
4133 tH, 1254 dl, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý, vùng Vân Nam. Mông Cổ thời
đó là đế quốc mạnh nhất thế giới, chìếm đóng từ Á sang Âu. Năm 4136 tH, 1257 dl, từ Vân Nam, tướng
Ngột Lương Hợp Thai đem 3 vạn quân Mông
Cổ và 1 vạn quân Đại Lý tấn công Đại Việt, chiếm Thăng Long, giết mọi người
trong thành. *[276]
Vua Trần
Thái Tôn hỏi ý kiến Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ thưa: Đầu tôi chưa rơi, xin Bệ Hạ
đừng lo !
Chỉ mấy ngày sau, vua Trần Thái Tôn dẫn quân phản công, đánh
thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ còn
bị quân ta chận đánh tan tành ở vùng Qui Hóa. *[277]
Lần
thứ 10 : Đức
TRẦN NHÂN TÔN đại thắng giặc NGUYÊN (Lần 1)
Danh
Tướng HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG
Năm
4150 tH, 1271 dl, Hốt Tất Liệt thành Đại Hãn của đế quốc Mông Cổ, đổi quốc hiệu
thành Nguyên. Năm 4158 tH, 1279 dl, quân Nguyên chiếm trọn đất Trung Hoa. Đế quốc
Mông Cổ bao trùm 40 nước từ Á
sang Âu.
Năm
4162 tH, 1283 dl, Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan (Toghan), cùng với các
danh tướng Toa Đô (Suodu), Ô Mã Nhi, kéo 50 vạn quân xâm lăng Đại Việt. Quân
Nguyên còn có thủy binh từ Chiêm Thành đánh lên. Khi đó, toàn thể quân Đại Việt
chỉ có 20 vạn. Trước nguy biến, nhiều lính muốn
hàng hoặc tìm kế hoãn binh. Nhưng các tướng Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư
cương quyết đem quân trấn giữ.
Vua Trần
Nhân Tôn triệu tập các bô lão trong dân tại điện Diên Hồng để hỏi ý kiến. Toàn
thể đồng thanh xin Đánh !
Trước
thế giặc quá mạnh, quân ta rút về Vạn Kiếp. Ở phía Nam, quân Nguyên từ Chiêm
Thành đã chiếm Nghệ An.
Vua
Nhân Tôn lại lo sợ, "muốn hàng để cứu muôn dân". Nhưng Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn đáp : “Bệ Hạ nói câu ấy thật là lời nhân đức. Nhưng Quê hương
Dân tộc thì sao ? Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin chém đầu tôi trước đã !” Thoát Hoan dùng đại bác bắn phá, và vào
được Thăng Long. Triều đình ta chạy về Thanh Hóa.
Tướng
Trần Bình Trọng bị bắt. Thoát Hoan dụ hàng và hỏi : “Có muốn làm Vương không ?”
Trần Bình Trọng quát to : “Ta thà làm quỷ Nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc
!” Tháng 5 năm 4164 tH, 1285 dl, tướng Trần Nhật Duật phá được quân Toa Đô ở cửa
Hàm Tử. Tướng Trần Quang Khải đưa quân đi thuyền từ Thanh Hóa ra đánh tan quân
Nguyên ở bến Chương Dương, dùng phục binh chiếm lại Thăng Long. Đức Hưng Đạo
Vương đem quân đánh ở Tây Kết, giết được Toa Đô. Quân ta bắt được 3 vạn quân
Nguyên và vô số chiến thuyền, khí giới.
Hưng Đạo
Vương lại sai phục kích chận mọi đường quân Nguyên có thể rút lui, và tự mình dẫn
đại quân lên Bắc Giang đánh Thoát Hoan. Quân Nguyên thua chạy, tới bến Vạn Kiếp
bị phục kích, chết quá nửa.
Theo Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư, in năm 1697 dl, quân Nguyên kéo 50 vạn và 6 tháng sau, chỉ
còn 5 vạn rút về. *[278]
Lần thứ 11 : Đức TRẦN NHÂN TÔN đại thắng Giặc
NGUYÊN (Lần 2)
Danh
Tướng HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG
Cuối tháng 12 năm 4166 tH, 1287 dl, Thoát Hoan theo 2 đường
thủy bộ, kéo thêm 50 vạn quân xâm lấn, hơn 800 chiến thuyền, cùng đoàn tàu 100
chiếc chở lương thực. Phía Đại Việt có khoảng từ 20 tới 30 vạn quân. *[279]
Quân Nguyên chiếm được Thăng Long, nhưng sợ bị cắt đường
liên lạc, nên tập trung ở Vạn Kiếp. Bộ chỉ huy Đại Việt rút về vùng Đồ Sơn, Hải
Phòng.
Tướng Trần Khánh Dư đưa quân đến Vân Đồn phá tan đoàn thuyền lương.
Tháng 3 năm 4167 tH, 1288 dl, cạn lương, Thoát Hoan sai Ô mã
Nhi mở đường theo sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương lại dùng kế đóng cọc bịt sắt
xuống sông Bạch Đằng. *[280]
Với trận Bạch Đằng, quân ta tiêu diệt hoàn toàn thủy quân của
giặc Nguyên. Nghe tin thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan kéo chạy về qua vùng Bắc
Giang và Lạng Sơn, và cũng bị quân Đại Việt chận đánh tan tành. *[281]
Lần thứ
12 : Đức LÊ THÁI TỔ đại thắng Giặc MINH
Năm
4285 tH, 1406 dl, giặc Minh kéo quân xâm lấn nước ta. Nhà Hồ thua. Giặc Minh, với
Trương Phụ, bắt đầu đồng hóa dân ta với dân Tàu. Năm 4297 tH, 1418 dl, nông dân
Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hóa, tự xưng là Bình Định Vương, gởi hịch kể
tội giặc Minh và nêu rõ mục đích đánh đuổi quân giặc cướp nước.
Năm
4305 tH, 1426 dl, sau 8 năm gian khổ, nhiều
lần nguy cấp, Bình Định Vương thắng trận Tụy Động, và bao vây thành Đông Quan,
Thăng Long. Cuối năm 4306 tH, 1427 dl, giặc Minh đưa thêm 2 đạo quân sang đánh
Đại Việt. Đạo quân của Liễu Thăng hơn 10 vạn lính, 2 vạn ngựa. Đạo quân do Mộc
Thạnh dẫn 5 vạn lính và 1 vạn ngựa. Nhưng tại Chi Lăng, quân ta giết Liễu
Thăng, phá tan toàn bộ quân tiếp viện của giặc, bắt sống hơn 3 vạn quân Tàu. Mộc
Thạnh nghe tin, bỏ chạy. Quân Nam theo đánh, giết hơn 1 vạn giặc Minh.
Nghe
tin, Vương Thông đang chiếm đóng Đông Quan [Thăng Long], viết thư cầu hòa, và
xin cho chúng rút quân về Tàu. Số tù binh, hàng binh và vợ con được thả về Tàu
hơn 10 vạn người. *[282]
Lần thứ
13 : Đức QUANG TRUNG đại thắng Giặc THANH
Năm
4667 tH, 1788 dl, Tôn Sĩ Nghị kéo 20 vạn quân Nhà Thanh, chia làm 3 đạo, tiến
đánh Đại Việt, chiếm đóng Thăng Long. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang ở Huế,
được tin, tính chuyện tiến đánh. Quan quân xin Ngài lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu
là Quang Trung.
Đức
Quang Trung kéo quân ra tới Nghệ An, nghỉ 10 ngày để mộ thêm lính. Tất cả được
10 vạn quân và 100 con voi.
Đức
Quang Trung cho ăn Tết sớm, đêm 30 kéo quân đi, và hẹn ngày mùng 7 Tết sẽ ăn Tết
lại tại Thăng Long.
Trận
đánh thần tốc đã phá hết các đồn giặc, đến nỗi chúng không kịp báo tin cho
nhau. Chỉ trong mấy ngày, quân ta đánh chiếm từ Giản Thủy, tới Phú Xuyên, Hà Hồi,
Ngọc Hồi... Sáng mùng 5 Tết, quân ta vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc
giáp, lên ngựa tháo chạy. Giặc Tàu chạy theo, chết đuối chật sông Hồng. Các đạo
quân giặc ở phía Bắc cũng tất tả rút chạy. Tất cả đều chỉ trong 5 ngày. *[283]
B. TRUNG HOA
: TÊN KHỔNG LỒ CHIẾN BẠI
1. Tổng kết Sơ khởi
Như vậy,
chỉ kể những lần Trung Hoa xua đại quân xâm lấn Nước Nam, dầu sách vở Trung
Hoa đã giấu bớt quân số vì bị thất trận, tổng số các đoàn quân xâm lăng Trung
Hoa đã có hơn 40 danh tướng, hàng ngàn đại tướng, và hơn 400 vạn quân sĩ. *[284]
Đang
khi đó, kể cả dân số, tài nguyên, quân sĩ, phương tiện chiến đấu... dân ta
không bao giờ tương xứng với quân Trung Hoa xâm lược. Nhưng bất cứ lần nào, Đại
Việt cũng đại thắng !
Điểm
đáng chú ý là trong 900 năm vừa qua, trong khi Việt Nam đánh bại mọi cuộc xâm
lăng của Trung Hoa, thì chính Trung Hoa lại bị Kim, Mông, Mãn, Âu, chiếm đóng
và thống trị.
Đáng
chú ý hơn nữa, trong tất cả những lần Kim, Mông, Mãn... xâm chiếm Trung Hoa, lần
nào thực lực xâm lấn, kể cả dân số, lãnh thổ, sản lượng, kỹ thuật, chiến cụ,
quân đội... cũng đều không bằng một phần mười của Trung Hoa đương thời. Nhưng
Trung Hoa đã luôn là kẻ chiến bại.
Những
nhóm người man di ít oi đó, lại thống trị Trung Hoa 'vĩ đại' tổng cộng hơn 500
năm. Kim 108 năm (1126-1234 dl), Mông 134 năm (1234-1368 dl), Mãn 267 năm
(1644-1911 dl), có 72 năm chung với Âu (1839-1911 dl). Đó là chưa kể từ năm
1949 dl tới nay, Trung Hoa lại nằm dưới gọng kềm chủ nghĩa Cộng sản phát
xuất từ Âu.
Trong
suốt hơn 5 thế kỷ đó, kể cả hiện nay, người dân Trung Hoa buông xuôi, khuất phục,
còn giới nho sĩ Trung Hoa lại chỉ biết phủ phục tuân lịnh ‘vị Thiên tử’ ngoại
xâm để thẳng tay hành hạ và đàn áp người dân.
Thực vậy,
Trung Hoa luôn là tên khổng lồ chiến bại. Nguyên nhân chính là ách thống trị của
bọn ‘thiên tử, thiên triều’ tham tàn bạo ngược, đã biến người dân Trung Hoa
thành những tên nô lệ đói ăn truyền kiếp. Trong suốt 3000 năm qua, hơn 99% người
dân Trung Hoa chỉ là những tên nô lệ đói khát, tự ti, khiếp nhược, không lý tưởng,
không nhân phẩm, chỉ biết tham lợi bất chấp thủ đoạn.
Khi mọi
người dân chỉ là những tên nô lệ đói ăn truyền kiếp, khiếp nhược, không ý chí,
không tinh thần dân tộc, không đoàn kết... thì sức mạnh trình diển của bọn quan
quyền ‘thiên triều’ Trung Hoa chỉ là cái vỏ mỏng che đậy hàng tỉ mảnh vụn vị kỷ,
rời rạc, hèn nhát. Bong bóng căng cứng nầy sẽ sớm vỡ tan với chỉ một thoáng cọ
xát.
Đây là
thực tế lịch sử ngàn năm, và cũng là hiện tại.
Hơn nữa,
trong tất cả mọi cuộc chiến chống Phương Bắc, Tổ Tiên chúng ta đã chỉ tự sức
chiến đấu đơn độc một mình. Các Ngài đã không có bất cứ một yểm trợ nào do bất
cứ từ đâu tới. Nhưng bất cứ lần nào, Việt Nam cũng đại thắng Trung Hoa ! Tất cả
13 lần, đều đại thắng.
Hiện
nay chúng ta đang được khắp nơi yểm trợ. Trước hiểm họa Trung Hoa bành trướng,
xâm lăng, trộm cướp, gian manh, phá hoại các nền kinh tế, lũng đoạn các thể chế,
mọi người, mọi dân nước trên toàn thế giới, đều sẵn sàng tiếp tay chúng ta triệt
hạ mối họa chung là Giặc Trung Hoa. Bạn hữu chúng ta lại nhiều ưu thế hơn Giặc
Tàu.
Với bất
cứ giá nào, bất cứ phương diện nào, các cường quốc hiện đại không thể nhường
Trung Hoa cưỡng đoạt vị thế hùng mạnh nhất thế giới, nhất là khi toàn thể binh
lực Trung Hoa không bằng một phần nhỏ các hạm đội đối nghịch.
Hơn nữa,
toàn thể dân Việt hiện nay, ở khắp làng xóm hang cùng ngõ hẻm, đều nao nức vùng lên chiến đấu Đánh Giặc Tàu.
Tinh thần dân tộc đoàn kết chưa từng bộc lộ rõ và mạnh như hiện nay. Mọi người
đều sẵn sàng.
Mấy triệu người Việt trên thế giới đang
sẵn sàng đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực, và nhất là trí lực, chuyên môn,
kiến thức, kỹ thuật, kinh nghiệm, và ảnh hưởng... ở mọi lãnh vực ngoại giao,
chính trị, kinh tế, tài chính, quân sự, xã hội... Tất cả đều được huy động tối
đa để Đánh Giặc Tàu !
Chúng
ta có nhiều ưu thế hơn Tổ Tiên chúng ta gấp bội. CHÚNG TA sẽ ĐẠI THẮNG giặc TÀU, lần thứ 14.
*********
XVI. CHỦ THUYẾT THIÊN TỬ
THẾ THIÊN HÀNH ĐẠO,
TỬ HUYỆT CỦA TRUNG HOA
1.
DẪN NHẬP
1.1. Xuyên
suốt Lịch sử
Trong
hơn 3000 năm qua, từ ngày Tộc Hoa thành hình với Nhà Chu ở thung lũng Sông Vị
năm 1046 ttl, lịch sử Tộc Việt, và nhiều tộc dân vùng Á Đông, đã dính liền với
cuồng vọng thôn tính của dân Hoa. *[285]
Qua suốt
lịch sử, giới thống trị Trung Hoa đã áp đặt một quan niệm thống trị cực đoan, với
nhiều hệ quả tai hại. Họ đã thành hình chủ thuyết ‘Thiên Tử Thế Thiên Hành Đạo’,
và chủ trương vua Trung Hoa là con Trời thay Trời thi hành Đạo Trời, để thống
trị vạn vật.
Quan
niệm ‘Thiên tử thế thiên hành đạo, thiên tử, thiên triều’, đã là chủ lực của
toàn bộ nền chính trị Trung Hoa, đã tạo ra não trạng Trung Hoa, với nhiều hệ lụy
khốc hại cho nhiều dân tộc, đặc biệt cho chính dân Trung Hoa.
‘Thiên
tử thế thiên hành đạo’ đã biến giới thống trị Trung Hoa thành bọn gian hùng,
điêu ngoa, tự phụ, cuồng si với tham vọng thống trị thiên hạ... biến Trung Hoa
thành nguy cơ đại họa cho toàn thể Nhân loại.
1.2. Nguồn
gốc Chủ thuyết Thiên Tử Thế Thiên Hành Đạo
a. Tộc Hoa
Chủ
thuyết nầy thành hình từ thời Chu, Tần, thời Hán khai
thác triệt để.
Từ khi
bị ảnh hưởng của tộc Hoa, từ năm 1046 ttl với nhà Chu, và đặc biệt từ năm 771
ttl với nhà Tần, xã hội vùng lưu vực Hoàng Hà, đã chia thành 2 giai cấp rõ rệt.
- Dân
Hoa gốc du mục, lạc hậu về văn hóa, nhưng tàn bạo, nên chiến thắng, và trở
thành giới thống trị.
- Cư
dân địa phương thuộc văn hóa nông dân lúa nước, giàu có, văn hóa cao, hiền
hòa, bị trở thành giai cấp bị trị.
Tự phụ
chiến thắng toàn năng, tự ti vì lạc hậu về văn hóa, đã khiến giới thống trị Hoa
tiếm nhận tất cả những gì hay tốt của cư dân địa phương làm của Hoa, đồng thời,
quyết tâm tiêu diệt mọi niềm tự hào khỏi người dân bị trị.
Với
nền văn hóa du mục, tâm lý tự cao độc tôn, dân Hoa đã tôn vinh vua Hoa thành
‘con Trời', thay Trời thống trị vạn vật. Quan chức Hoa thành ‘Thiên triều’,
thành thần thánh, thay ‘Thiên tử’ trực tiếp thống trị người dân. *[286]
Hễ có
quyền chức, quan lại Trung Hoa liền tự nhận được Trời tiền định nhập Thiên triều,
thành thần thánh vượt trên mọi người dân, và thành cuồng si trong tham vọng
thống trị, khinh khi, bức hiếp, coi rẻ mạng sống người dân.
b. Mọi Thời.
Chủ
thuyết ‘Thiên tử thế thiên hành đạo’ đã được giới thống trị Trung Hoa tận dụng
xuyên suốt mọi triều đại, và đã chi phối mọi quan niệm của Trung Hoa đối với thế
giới. Khổng
Tử, 551-479 ttl, đã cố công đưa ra tiêu chuẩn thích đáng cho giới có quyền.
Nhưng mọi triều đại Trung Hoa, Hán, Đường, Tống, đã cắt xén sửa đổi, biến
Khổng học thành phương tiện phục vụ cho Thiên tử, Thiên triều. Do đó, thiên triều ngày càng trở thành
quái ác với người dân lương thiện, và ngày càng trở thành tụ điểm thu
hút bọn gian hùng cuồng vọng. *[287]
2. CHỦ THUYẾT QUÁI ĐẢN
2.1. Thiên
tử thế thiên hành đạo
Theo
chủ thuyết ‘Thiên tử thế thiên hành đạo’, bất cứ ai, do bất cứ nguồn gốc hoặc
thủ đoạn gì, hễ chiếm được ngai vàng Trung Hoa là đã được Trời tiền định trở
thành Con Trời để thay Trời thi hành Đạo Trời. Do đó, ý muốn của vua Trung Hoa
là ý Trời. Vua Trung Hoa là vua của toàn thể Nhân loại. Vạn vật dưới bầu trời,
thiên hạ, đều thuộc về vua Trung Hoa. Vua Trung Hoa có toàn quyền sinh sát mọi
người, là chủ nhân mọi tài sản trên trái đất.
Toàn
thể Nhân loại, và toàn vạn vật, có bổn phận tuân phục
vua Trung Hoa.
2.2. Thiên
triều Thống trị
Hễ làm
vua là có thiên mệnh, là đã được thiên định thành Con Trời, để thay Trời thống
trị muôn dân. Nhưng thiên tử cần quan lại để thể hiện quyền sinh sát trên vạn vật.
Triều đình, quan lại Trung Hoa, là thần thánh lớn nhỏ của thiên tử, là thiên
triều thần thánh. Thiên triều lãnh mệnh của thiên tử trực tiếp thống trị muôn
dân. Dân phải tuân phục quan chức
như tuân phục thần thánh. Vì vậy,
trong suốt dòng lịch sử Trung Hoa, giới sĩ phu Trung Hoa luôn luôn phủ phục thờ
lạy bất cứ ai đã trở thành ‘thiên tử’, dầu là bạo chúa, dầu là ngoại xâm, để được
công nhận là thành phần của ‘thiên triều’, để được toàn quyền thống trị và
sinh sát mọi người dân. *[288]
2.3. Nhân
loại hạ tiện
Đối
với người Hoa, dân Hoa là thiên triều, mọi giống dân khác trên đất
Trung Hoa và toàn thể Nhân loại đều hạ tiện.
Người
dân Trung Hoa bị truất bỏ mọi quyền sống tự lập. Người dân Trung Hoa hoàn
toàn lệ thuộc vào thiên triều, chỉ là nô lệ truyền kiếp của thiên triều.
Trong suốt dòng lịch sử Trung Hoa, thiên triều luôn tùy tiện hành hạ, bóc lột,
và tàn sát người dân. *[289] Mọi
dân 4 phía quanh Trung Hoa đều là man
di, tứ di. Tứ di nhờ ở gần Thiên triều Trung Hoa mà có tốt đẹp, văn minh. *[290] Các dân xa hơn tứ di, là khỉ và đười
ươi. Chiêm Thành bị gọi là Nước của Khỉ, Hồ Tôn Quốc. *[291] Các dân xa xôi hơn đều là quỉ.
Người châu Phi da đen là quỉ, người Âu, Mỹ là bạch quỉ.
2.4. Sứ mạng
Nô lệ hóa Thiên hạ
Do đó,
theo 'mệnh trời', Trung Hoa có sứ mạng cao cả là Nô lệ hóa Thiên hạ, biến mọi
con người, biến vạn vật dưới bầu trời, thành thần dân, thành nô lệ của Thiên
triều Trung Hoa thần thánh.
3. THỰC HÀNH QUÁI ÁC
3.1. Sách
lược Ngoại Nho Nội Pháp
Trong
mấy ngàn năm qua, để thể hiện ‘sứ mạng thi hành đạo trời’, để thực thi chủ
trương Nô lệ hóa thiên hạ, Thiên triều Trung Hoa đã xử dụng sách lược ‘Ngoại
nho Nội pháp’.
Bên
ngoài, ngoại giao, hoặc nơi phần đất chưa thể xâm lăng, thì núp dưới bóng
Khổng học, tuyên truyền chính sách nhân trị, khoan dung, viện trợ, từ thiện...
Nhưng bên trong, với những người đã nằm dưới ách thống trị, thì áp đặt
luật pháp hà khắc của 'thiên triều'.
3.2. Chính
sách Soán đoạt và Hủy diệt
Cũng
trong suốt dòng lịch sử, giới thống trị Trung Hoa, thiên triều, đã thực thi
chính sách Soán đoạt và Hủy diệt.
Bằng mọi
phương cách, thủ đoạn, Trung Hoa soán đoạt mọi hay tốt, mọi văn minh, kỹ thuật
của mọi dân mọi nước.
Đồng
thời, Trung Hoa tận diệt mọi dấu vết cao trội hoặc khác biệt với Trung Hoa, và
áp đặt định kiến mọi giống dân địa phương đều lạc hậu sơ khai, mọi sự hay tốt đều
do và nhờ Trung Hoa mà có. *[292]
4. HỆ QUẢ KHỐC HẠI CHO NGƯỜI DÂN
TRUNG HOA
4.1. Thân
phận Người Dân Trung Hoa
Trong
suốt lịch sử, dân Trung Hoa đã luôn là mồi ngon để giới quyền chức Trung Hoa thỏa
mãn mọi cuồng vọng man rợ nhất của văn hóa du mục.
Càng
cho mình cao sang thần thánh, được Trời tiền định, giới quyền chức Trung Hoa
càng dùng mọi cách hiếp bức và hạ nhục người dân. Trong tầm mắt của thiên triều,
người dân phải thấp hèn, ngu si, hủ lậu, không tông tích, không cội nguồn,
không lịch sử, không văn hóa, không nhân phẩm. *[293]
Dân Trung Hoa bị tước bỏ mọi tư hữu, mọi
quyền sống. Cuộc sống người dân hoàn toàn lệ thuộc vào đại ân đức của thiên triều
gian tham bạo ngược.
Thực tế
và lịch sử Trung Hoa là một bảng liệt kê những khốn cùng vô tận của người dân
Trung Hoa.
4.2. Gần
600 năm Nô lệ Ngoại Tộc
Trong
900 năm gần đây, Trung Hoa lại bị gần 600 năm dưới ách thống trị của Kim,
Mông, Mãn, Âu.
Điểm
đáng chú ý là trong tất cả những lần xâm chiếm Trung Hoa, từ Kim, đến Mông,
Mãn, Âu... lần nào thực lực xâm lấn, kể cả dân số, lãnh thổ, sản lượng, kỹ thuật,
quân đội... cũng đều không bằng 1 phần 10 của Trung Hoa đương thời. Nhưng Trung
Hoa đã luôn là kẻ chiến bại.
Đáng
chú ý hơn, là những nhóm người ít oi đó, lại thống trị Trung Hoa tổng cộng gần
600 năm. Kim 108 năm (1126-1234 dl), Mông 134 năm (1234-1368 dl), Mãn 267 năm
(1644-1911 dl), trong đó có 72 năm chung với Âu (1839-1911 dl), và hiện nay, từ
năm 1949, gần 70 năm dưới ách tham tàn của bọn nô lệ chủ nghĩa cộng sản
châu Âu.
Trong
những thời kỳ nầy, kể cả hiện nay, chủ nghĩa ‘Thiên triều và Nô lệ’ càng
được giới thống trị ngoại tộc củng cố và tận dụng. Càng ngày giới quyền chức
Trung Hoa càng hống hách và tàn bạo hơn đối với người dân.
Trong
suốt gần 6 thế kỷ nầy, và cả hiện nay, người dân Trung Hoa buông xuôi, giới
nho sĩ Trung Hoa lại chỉ biết phủ phục tuân lịnh ‘vị Thiên tử’ ngoại xâm để thẳng
tay đày đọa người dân.
5. HỆ QUẢ HIỆN NAY : NGUY CƠ ĐẠI
HỌA và TỬ HUYỆT CỦA TRUNG HOA
5.1. Não
trạng Trung Hoa
Sau gần
3000 năm bị mọi triều đại áp đặt, người dân Trung Hoa sống với niềm tin vua là
con Trời, quan lại là thần thánh, người dân là nô lệ. Trung Hoa có sứ mạng Nô
lệ hóa toàn thể thiên hạ, theo sách lược Ngoại nho nội pháp, và chính sách
Soán đoạt và Hủy diệt.
Đối với
giới thống trị Trung Hoa, đây là những đương nhiên, không cần bàn cải, không thể
thay đổi.
5.2. Mặt nạ
Khổng học
Thực
thi sách lược Ngoại nho Nội pháp, Khổng học mà Trung Hoa trình bày với thế giới,
chỉ là chiếc mặt nạ che giấu cuồng vọng tham tàn bạo ngược của những kẻ tự cho
mình có ‘thiên mệnh’. Bên ngoài chúng truyền bá Khổng học, nhưng bên
trong chúng dùng mọi thủ đoạn để Soán đoạt và Hủy hoại mọi hay tốt
của nơi chúng sinh sống.
Khổng
học là tấm màn thống nhất giả tạo che giấu sự rời rạc hàng tỷ mảnh vụn của 99%
dân Trung Hoa nô lệ. *[294]
5.3. Tử
huyệt Trung Hoa
Hệ quả
hiển nhiên nhất của chủ thuyết Thiên tử thế Thiên hành Đạo là : suốt 3000
năm, từ 1046 ttl, những tiếm đoạt, áp đặt, hống hách, lăng mạ, cưỡng bức, hung
bạo, đầu độc, tàn sát... của giới quyền chức Trung Hoa, đã là gánh nặng ngàn
cân nghiền nát tinh thần và nhân phẩm người dân Trung Hoa. Người dân Trung Hoa
là những tên nô lệ khiếp nhược truyền kiếp 3000 năm, đói khát, tự ti, không lý
tưởng, không nhân phẩm, chỉ tham tư lợi bất chấp thủ đoạn.
Cũng vì vậy, Trung Hoa không bao giờ có được sức mạnh dân tộc
và đoàn kết đúng nghĩa. Tinh thần dân tộc và đoàn kết không thể nảy mầm nơi 99%
dân số truyền kiếp nô lệ, đói ăn, và khiếp nhược. *[295]
- Đây
chính là nguyên nhân của gần 600 năm Trung Hoa lụy phục dưới ách thống trị của
những nhóm dân chỉ có 1/10 sức mạnh của Trung Hoa. Chính 600 năm bị nghiền nát
cùng cực nầy càng làm cho tình trạng tệ hại hơn, thành nhược điểm chí tử, thành tử huyệt
của Trung Hoa hiện nay. *[296]
5.4. Giới
quyền chức Trung Hoa Cuồng vọng Ảo tưởng
Đang
khi đó, giới quyền chức Trung Hoa lại là những tên tự coi mình là có dự phần
thiên mệnh, siêu phàm, luôn sống trong Cuồng vọng thống trị và Ảo tưởng khoa
trương. Đã không có thực lực tiềm tàng, lại hống hách tham tàn, cùng với những
tăng trưởng kinh tế bấp bênh, những kỹ thuật trộm cắp, vá víu, những khoa
trương tăng trưởng tạm bợ như Đập Tam Hiệp chông chênh, hàng ngàn khu đô
thị không người, những đảo nhân tạo túi cát... đang làm cho trái bong
bóng Trung Hoa phình lớn và bay cao, nhưng đầy nguy cơ nổ tung tức thời.
Những
mua chuộc giới quyền chức tham nhũng ở Châu Phi, Nam Mỹ, không có giá trị hậu
thuẫn thực tế, chính sách đàn áp hung bạo ở Tây Tạng, Mông Cổ, Tân Cương, Tứ
Xuyên, và chính sách ‘đẻ 1 con’ thiêu
rụi tương lai... càng làm cho bong bóng thêm căng, thêm mỏng manh, thêm dễ
nổ.
Vì
gian tham, hung hãn và cường bạo, Trung Hoa ngày
càng khiêu khích, càng trở thành đại họa phá rối toàn thế giới.
Bất cứ
giá nào, ở bất cứ phương diện nào, các cường quốc hiện đại không thể khoanh tay
để Trung Hoa cưỡng đoạt vị thế thống trị thế giới, khi toàn thể binh lực
Trung Hoa không bằng một phần nhỏ các hạm đội đối nghịch...
6. THIÊN HẠ THÁI BÌNH
Chỉ cần một thoáng cọ xát, Trung Hoa sẽ
nổ tan thành vài mươi ‘thiên tử’ hoang tàn. Bọn gian hùng Trung Hoa lại hung hãn tàn
sát nhau, tranh phần giữa mấy mươi ‘thiên triều’. Khi đó, rất gần thôi, Thiên
hạ sẽ Thái Bình.
XVII. NAM HẢI : BIỂN CỦA NƯỚC NAM
1.
Hai Phương Nam, Bắc
Theo Địa
lý, Nam Bắc chỉ 2 phương vị : Phương Nam, Phương Bắc.
Ở Á
Đông, Phương Nam là vùng
có Mặt Trời nắng ấm, phương của sông nước, của phì nhiêu sung túc. Phương Bắc
âm u lạnh lẽo khô cằn. Thời xa xưa, Sông Hoài Tần Lĩnh là đường ranh thiên
nhiên chia 2 vùng, 2 giống dân, Phương Nam canh nông lúa nước, và Phương Bắc du
mục. *[297]
Sông
Hoài Tần Lĩnh luôn là ranh giới thiên nhiên giữa Phương Nam Tộc Việt, Phương Bắc
người Tộc Hoa. Tuy nhiên, từ thời Hán, 206 ttl - 220 dl, sông Dương Tử bị cưỡng
định là ranh giới giữa Trung Hoa và Trăm Việt.
Sách
vở Trung Hoa hiện vẫn còn dùng chữ Nam Nhân để chỉ dân Việt trên phần đất nay
là nam Trung Hoa, và Bắc Nhân để chỉ Người Hoa.
Chữ Bắc
Thuộc nêu rõ ý thức thời phụ thuộc Phương Bắc. Phương Bắc nầy lại là những nhóm
người hoặc quốc gia thuộc Tộc Việt, chứ không nhất thiết là người tộc Hoa. Số
quân xâm lấn và chiếm đóng nước ta hầu hết là dân Việt vùng Hồ Nam, Quảng Tây,
Quảng Đông. *[298]
2. Nam, Bắc : Việt, Hoa
Cách
đây khoảng 6.000 năm, dân Việt đã từ vùng Hồ Đồng Đình tiến về Nam. Dân Việt vùng Sông Hồng Sông Mạ đã tự
xưng là Dân Nam. Thói quen nầy vẫn lưu truyền cho đến hiện nay. *[299]
Chữ
Nam là Việt Lạc, Lạc Hồng, Đại Việt,
khác với Bắc, chỉ Trung Hoa.
Về quốc gia, Nam quốc, Bắc quốc; về triều đình là Nam Triều, Bắc Triều;
Về lịch
sử : Nam sử, Bắc sử; thuốc
có thuốc Nam, thuốc Bắc...
Năm
1076, Đức Lý Thường Kiệt có bài ca chiến thắng, với câu đầu là : ‘Nam Quốc sơn
hà Nam Đế cư’.
Năm
1428, Đức Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô đại cáo : ‘Sơn hà cương vực đã
chia, phong tục Bắc Nam có khác.’
3.
Nước Đại Nam
Năm
1839 vua Minh Mạng đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam.
Hiện
nay ta vẫn còn nhiều ấn ngọc, và nhiều tài liệu ngoại giao có đóng ấn vua, với
quốc hiệu Đại Nam :
Ấn ngọc
‘Đại Nam Thiên Tử Chi Tỷ’, khắc năm 1839, thời vua Minh Mạng.
Ấn ngọc
‘Đại Nam Hoàng Đế Chi Tỷ’, khắc năm 1844, thời vua Thiệu Trị.
Hai ấn
ngọc nầy dùng trên các văn kiện ban sắc thư cho người nước ngoài, và khi vua đi
tuần tra các địa phương.
Ấn ngọc
‘Đại Nam Thụ Thiên Vĩnh Mệnh Truyền Quốc Tỷ’, khắc năm 1847. Ấn ngọc nầy dùng
để tế cáo Đại Lễ Tế Trời ở Đàn Nam Giao, hoặc đóng trên những bản sắc mệnh ban
bố cho thiên hạ, hoặc cho các nước chư hầu của Đại Nam, là Thái Lan, Ai Lao,
Chân Lạp / Campuchia. *[300]
4. NAM HẢI : Biển của Nước Nam, NAM QUAN : Cửa của Nước Nam
Từ khi
dân Việt từ Hồ Đồng Đình tiến vào vịnh Bắc Phần, tên Biển Nam, Biển phương Nam,
đã trở thành thông dụng, từ 6000 năm trước. Tộc Hoa mới thành hình năm 1046
ttl, cách đây 3000 năm, và họ đọc thành Nam Hải. *[301]
Khi
dân Việt Lạc vùng Sông Hồng, Lạc Hồng, tự xưng là Dân Nam, Nước Nam, Đại
Nam, Việt Nam, thì Biển Nam, Nam Hải, trở thành tên riêng : Biển của Nước Nam,
chứ không như người Hoa đã đánh lận là Biển Hoa Nam.
Cũng vậy,
Nam Quan, ở Lạng Sơn, nghĩa là Cửa của Nước Nam, không có nghĩa là cửa ở phía
nam của Trung Quốc.
Ngày
nay, dĩ nhiên, Biển Nam, Nam Hải, còn được gọi là Biển Đông.
5. BIỂN ĐÔNG VỚI ĐƯỜNG 9
ĐOẠN
5.1. Tóm lược
Tháng
2.1948, Trung Hoa Dân Quốc phổ biến bản đồ Biển Đông với 11 Đoạn, coi
là phần lãnh thổ Trung Hoa, bao gồm hơn 90% Biển Đông, kể cả hơn một
nửa Vịnh Hạ Long của Việt Nam.
Ngày
1 tháng 10 năm 1949, Cộng sản Trung Quốc thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa. Trung Hoa Dân Quốc chỉ còn đảo Đài Loan.
Năm
1953 Trung Cộng bỏ hai đoạn trong Vịnh Hạ Long, trở thành ‘Đường 9 Đoạn’.
Năm
1993, chính phủ Đài Loan lại công bố rằng Đường 9 Đoạn phân định ra vùng nước
lịch sử của Trung Hoa.
Ngày
6.5.2009 Trung Cộng trình lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tấm bản đồ Đường 9 Đoạn
trên Biển Đông, và tuyên bố quyền tối cao đối với "các đảo ở Biển Đông và
các vùng biển lân cận".
Ngày
12.7.2016, toà Permanent Court of Arbitration ở The Hague, Netherlands, căn
cứ vào Phụ Lục 7 của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982, đã tuyên
bố yêu sách Đường 9 Đoạn của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý, Trung Quốc
cũng không có “quyền lịch sử” với các vùng biển ở Biển Đông. *[302]
5.2. Vài Nhận định
a. Giặc trơ tráo
Tháng
2.1948, khi Trung Hoa Dân Quốc phổ biến "Đường 11 Đoạn", lúc Trung
Hoa đang được coi là 1 cường quốc thắng trận, và là 1 trong 5 thành
viên có quyền phủ quyết của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Nhưng đây
cũng là thời kỳ nguy ngập nhất của chế độ. Do đó, Trung Hoa Dân Quốc
không có giờ xác định bản đồ trên với thế giới.
Dầu
vậy, năm 1993, 45 năm sau, dầu chỉ còn là một hòn Đài Loan nhỏ nhoi
tiểu nhược, Trung Hoa Dân Quốc vẫn trơ tráo nhắc lại Đường 9 Đoạn, vẫn
ngang ngược bám víu ảo vọng.
Phần
Trung Cộng, năm 1953 cũng đã nhắc tới “Đường 9 Đoạn”. Nhưng lại cũng
vướng bận quá nhiều rắc rối nội bộ và không có hậu thuẫn quốc tế,
nên đành lơ là cho tới năm 2009.
b.
Giặc 3.000 ngàn năm
Cuồng
vọng xâm lược 3.000 năm của Dân Hoa vẫn không thay đổi, Dầu là Hoa Dân
Quốc hay Hoa Cộng Sản. Hoa nào cũng là Giặc Tàu.
Nếu
xét bản đồ 11 Đoạn và bản đồ 9 Đoạn, thì Giặc Tàu Dân Quốc gian
tham hơn Giặc Tàu Cộng Sản.
c.
Giặc hết thời
Nếu
Giặc Tàu Dân Quốc không bị Giặc Tàu Cộng Sản bức tử năm 1949, thì
với uy thế cường quốc thắng trận Thế chiến 2, việc Giặc Tàu Dân
Quốc cướp chiếm Biển Đông đã không một chút trở ngại. Thời đó, Giặc
Tàu là đại cường quốc, Việt Nam không có tiếng nói nào trên thế
giới, cũng chưa có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982.
Thời
1948, vì thấy con cháu không đủ sức giải cứu Biển Đông, Tổ Tiên Việt
Nam đã góp phần để 2 Giặc Tàu giết nhau, và Giặc Tàu Dân Quốc, chủ
mưu cướp Biển Đông, phải đại bại. Nhờ đó, Biển Đông đã không bị
cướp.
Năm
2009, sau 61 năm, khi Giặc Tàu Cộng Sản ra mặt tranh cướp Biển Đông,
thì Thế Giới đã có Luật Biển, và cũng là lúc Thế Giới, vì lợi
ích chung, phải toàn lực giải cứu Biển Đông và triệt hạ Giặc Tàu.
d. Giặc giết nhau
Như
năm 1949, Giặc Tàu Dân Quốc, chủ mưu chiếm Biển Đông, đã bị đại bại,
lần nầy, từ 2009, Giặc Tàu Cộng sản càng
hung hăng ở Biển Đông sẽ càng bị tàn bại như chưa từng có, và tự xé
tan thành vài mươi mảnh nhỏ hoang tàn.
Đây
cũng là lúc Giặc Tàu, cả Cộng Sản và Dân Quốc, tan mộng xâm lăng,
những mảnh Tàu nhỏ sẽ tàn sát lẫn nhau và lại sẽ bị xâm chiếm.
*********
SÁCH THAM KHẢO
An Nam
Chí Nguyên, do Cao Hùng Trưng, thế kỷ 17 dl. Bản dịch Hoa Bằng,
nxb Đại Học Sư Phạm, Hà Nội 2017.
Anh
Hùng Lĩnh Nam, phần Di Tích Lịch Sử, do Trần Đại Sỹ, nxb Nam Á, Paris
1986, 4 quyển.
Bronze
Drums in Vietnam, do Nguyễn Duy Hinh, The Vietnam Forum 9, 1987.
Chinese
Regional Stereotypes, do Wolfram Eberhard, trong Asian
Survey, Univ. of California Press, 5 (12), 1965.
Cương
Mục Tiền Biên, do Kim Lý Tường.
Đại
Việt Sử Ký, do Lê Văn Hưu, hoàn thành năm 1272 dl.
Nếp
Sống Tâm Linh Việt Nam, do Nguyễn Thanh Đức, Tủ sách Kinh
Việt, Brisbane, Australia.
Nguồn
Gốc Việt Nam của Bốn
Học Thuyết Á Đông, do Nguyễn Thanh Đức, Ts Kinh Việt, Brisbane, Australia 2021.
The
Việt Nam Origins of Four East
Asian Theories, do Nguyễn Thanh Đức, Ts Kinh Việt, Brisbane, Australia 2022.
Sứ
Mạng Việt Nam thời Bảo Bình, do Nguyễn Thanh Đức, Tủ sách Kinh
Việt, Brisbane, Australia.
Enjoying
Together the Happiness of Being Humans, do Nguyễn Thanh Đức, Ts Kinh Việt, Brisbane, Australia 2024.
Chung
Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, Học thuyết Tiên Rồng Song Hiệp, do
Nguyễn Thanh Đức, Ts Kinh
Việt, Brisbane, Australia 2024. Hậu Hán Thư, do Phạm Diệp, thế kỷ 5 dl.
Bản in Trung Hoa Thư Cục, Thượng Hải 1960.
Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư, do Ngô Sĩ Liên, 1479 dl. Phạm Công Trứ và Lê Hy dịch,
nxb KHXH, Hà Nội 1993.
Đại Việt
Sử Lược. Bản dịch Nguyễn Gia Tường, nxb TP HCM 1993.
Đại
Hoang Tây Kinh, trong Sơn Hải Kinh
Di sản
Hán Nôm Việt Nam, Thư mục đề yếu, do Viện Hán Nôm Việt Nam,
nxb KHXH, Hà Nội 1993, 3 quyển.
Dư Địa
Chí,
do Đức Nguyễn Trãi, viết năm 4317 tH, 1438 dl. Bản dịch Viện Sử Học, nxb KHXH,
Hà Nội 1976.
Dong
Son Drums in Vietnam, do Phạm Huy Thông, nxb Khoa học Xã Hội,
Hà Nội 1990.
Chinese
Writing (Wenzi-xue-gaiyao), do
Qiu Xigui, Society for the Study of Early China, Univ. of California, Berkeley
2000.
Echoes
from Old China : Life, Legends
and Lore of the Middle Kingdom, do K.S.Tom, University of Hawaii
Press, 1989.
Erlitou
and the Formation of Chinese Civilization : Toward a New Paradigm, do
Sarah Allan.
The
Journal of Asian Studies, Cambridge Univ. Press 66 (2),
2007, tt 461–496.
Etudes
d’Histoire d’Annam, IV, BEFEO XVIII.
Giao
Châu Ký, thế kỷ 4 dl, dẫn ở Thủy Kinh Chú, q.14.
Hán Việt
Tự Điển, do Thiều Chửu, nxb tp HCM 2002.
Hạ
Thương Chu niên biểu, do Hạ Thương Chu đoạn Đại Công Trình,
2000.
Hán Việt
Từ Đìển, do Đào Duy Anh, nxb Trường Thi, Sàigòn 1957.
Hậu
Hán Thư, do Phạm Diệp, thế kỷ 5 dl. Bản in Trung Hoa Thư Cục,
Thượng Hải 1960.
Hán Việt
Từ Điển Trích Dẫn, do Đặng Thế Kiệt, www, Paris 2006-2011.
Khâm định
Việt sử Thông giám cương mục, do Quốc Sử Quán Triều Nguyễn,
viết trong những năm 1856-1884. Bản dịch Viện Sử học Việt Nam, nxb
Giáo Dục, Hà Nội 1960.
Kiến
Văn Tiểu Lục, do Lê Quý Đôn, 1726-1784. Nguyễn Trọng Điềm dịch, Viện Sử
học, nxb Trẻ, tp HCM 2013.
Kim Ngọc
Bảo Tỷ, do Nguyễn Đình Chiến, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội
2009.
Đạo
Đức Kinh. Bản dịch Nguyễn Hiến Lê, nxb Văn Hóa Văn Nghệ, tp HCM 2017.
Kinh
Dịch. Ngô Tất Tố dịch, nxb Văn
Học, tp HCM 2014.
Kinh
Lễ.
Nguyễn Tôn Nhan dịch, nxb Văn học, tp HCM 1996.
Kinh
Thi.
Tạ Quang Phát dịch, nxb Văn học, tp HCM 2004.
Kinh
Thư.
Thẩm Quỳnh dịch, nxb Trung tâm Học liệu, Sàigòn
1968, 1973.
La
Justice de l'Ancien Annam,
Traduction et Commentaires du Code des Lê, do R. Deloustal, IDEO, Hà Nội 1911.
Lã
Thị Xuân Thu, do Lã Bất Vi, hoàn thành năm 239 ttl.
Lịch
Triều Hiến Chương Loại Chí, do Phan Huy Chú, 1819. Viện Sử
học VN dịch, nxb KHXH, Hà Nội 1992.
Lĩnh
Nam Chích Quái, do Trần Thế Pháp. Lê Hữu Mục dịch, xb Huế 1960.
Mỹ Thuật
Cổ Truyền Việt Nam, do Nguyễn Khắc Ngữ, Nghiên Cứu Sử Địa, Montreal 1981.
Đại
truyện, trong Kinh Thư.
Mã Viện
Truyện, trong Hậu
Hán Thư.
Nam
Việt Chí, thế kỷ 5 dl.
Nam
Man truyện, trong Hậu Hán Thư.
Nghiên
Cứu Chữ Hán, do Vũ Thế Ngọc, nxb East-west Institute, San Jose, CA
1989.
Nguyễn
Trãi Toàn Tập. Bản dịch Viện Sử Học, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1976.
Người
Trung Quốc Xấu Xí, do Bá Dương, xb Đài Loan. Bản dịch Nguyễn Hồi Thủ, L.A.
1999.
Nhị
Trình Di Thư, do Trình Di (1033–1107) và Trình Hạo.
Quảng
Châu ký, do Bùi Uyên, viết năm 420-426 dl. Sử Ký,
do Tư Mã Thiên, viết năm 109-91 ttl.
Quảng
Đông Tân Ngữ, do Khuất đại Quân, 1630-1696 dl, trích ở Vân Đài Loại Ngữ.
Tam Quốc
Chí,
do Trần Thọ, thế kỷ 3 dl. (Khác với Tam Quốc Diễn Nghĩa, thế kỷ 14
dl).
Thái
Bình Hoàn Vũ Ký, do Nhạc Sử, 930 - 1007 dl.
Sơn Hải
Kinh, do Bá Ích, thế kỷ 3 ttl.
Trúc
Thư Kỷ Niên, thế kỷ 4 ttl.
The
Origins of Chinese Civilization, do David N. Keightly, Univ. of
California Press, Berkeley, Los Angeles 1983.
The
Present Echoes of the Ancient Bronze Drum: Nationalism and Archeology in Modern
Vietnam and China, do Han Xiaorong, Explorations in Southeast Asian Studies,
Vol. 2, No. 2, Fall 1998, Hawaii University.
The
South China Sea Arbitration Award of 12 July 2016,
Permanent Court of Arbitration, PCA Case Nº 2013-19.
Thục
An Dương Vương Tiên Đế Ngọc Phả Cổ Lục. Thời Đại Hùng Vương, nhiều TG, nxb KHXH, Hà Nội 1976.
Thủy
Kinh Chú, do Lịch Đạo Nguyên, viết năm 535 dl.
Thông
Chí,
do Trịnh Tiều, 1104-1162 dl.
Trung
Quốc Cổ Đại Đồng Cổ, do Trung Quốc Cổ đại Đồng cổ Nghiên cứu
hội, Wenwu Press, Bắc Kinh 1988.
Trung
Quốc Triết Học Sử, do Phùng Hữu Lan, xb Hồng Kông 1950.
Truyền
kỳ mạn lục, do Nguyễn Dữ, đề tựa 1547 dl. Bản dịch chữ Nôm do Nguyễn Thế Nghi,
phiên âm do Nguyễn Quang Hồng, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 2001.
Tứ Khố
Toàn Thư, hoàn thành năm 1782 dl.
Vân
Đài Loại Ngữ, do Lê Quí Đôn, 1772 dl. Bản dịch Phạm Vũ, Lê Hiền, nxb Tự
Lực, Sàigòn 1974.
Việt Sử
Toàn Thư, do Phạm văn Sơn, nxb Thư Lâm, Sàigòn 1960.
Uyên
Giám, do Hoàng đình Kiên, thế kỷ 12 dl.
Việt
Giang Lưu Vực Nhân Dân Sử, do Từ Tùng Thạch, nxb Thượng Hải, Thượng Hải 1947.
Việt
Kiều Thư. Bản chép tay của Thư viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, ký
hiệu 1731/I.
Việt
Nam Sử Lược, do Trần Trọng Kim, nxb Trung Tâm Học Liệu, Sàigòn 1971, 2
quyển.
Việt
Sử Thông Lãm, do Vũ Huy Chân, Kim Lai ấn quán, Sàigòn 1973.
*********
BẢN ĐỒ
Năm Đường Ranh vùng Á Đông
Xưa 12
Hai Vùng Nam Bắc Trung Hoa 13
Vùng Tộc Việt Khởi Nguyên 14
Ba Vùng Phát Triển chính 18
Đất Tộc Việt đầu Thời Hùng 24
Ba vùng Việt đầu Thời Hùng
2A 27
Các Di Chỉ Khảo cổ 27
Chu, Sở, Việt năm 2406 tH, 473
ttl 29
Thời Hùng 2B : Việt Lạc và
Hậu Hạ 30
Đất Tộc Việt đầu Thời Hùng 3A 31
Đất Tộc Việt đầu Thời Hùng 3B 33
Ân Cao Tôn
xâm lăng Việt Lạc 33
Văn Minh Trống Đồng Việt Lạc 36
Việt và Hoa đầu Thời Hùng
4A 40
Việt Lạc thời Đức Đại Đế
Đồng Đình Lĩnh Nam 50
Di tích Thành Ốc - Cổ Loa 55
Tộc Việt năm 4897 tH, 2018 dl 56
*********
CHỮ TẮT
c : câu
dl : dương lịch, tây lịch
đb : đặc biệt
đọc :
đọc thêm ở
gc :
ghi chú
k : khoảng năm
lv : lịch
Việt, âm lịch
nt : nơi
trích dẫn trên
nxb :
nhà xuất bản
q : quyển
qđ :
năm qua đời
sđd :
sách đã dẫn
tH :
năm Thời Hùng
tr : trang
tt : các
trang
ttH :
trước Thời Hùng
ttl : trước tây lịch
v. : vua, thời gian trị vì
Xem :
đọc ở quyển nầy; tr xx : 2.5.4b : bài 2, phần 5, đoạn 4, mục
b.
www :
trên mạng
*********
[1]. Năm 1793 dl Càn
Long hoàn thành bộ Tứ Khố Toàn Thư gồm
36.275 quyển, sau khi thiêu hủy hơn 6
vạn quyển bị coi là bất lợi cho ‘thiên triều’. Đốt 6 vạn quyển đã nói lên tính cách chủ quan cực đoan trong việc
‘san định’, sửa chữa 36.275 quyển còn lại. - www.
Tứ Khố Toàn Thư.
[2]. Như việc tạo
thành trời đất, tạo dựng núi sông, tạo dựng con người...
[3]. Tưởng tượng thời
thanh bình thịnh vượng cổ đại, những vị ‘Vua vĩ đại và thánh đức’ của nho
học... đều trái ngược với tiến trình tăng triển tự nhiên của xã hội loài người.
[4]. Sông Mạ ở
Thanh Hóa. Mạ là âm Việt : Mẹ. Khi giặc Tàu cấm dùng chữ Việt, chữ
Mạ Việt bị viết thành chữ Mã.
Những ví dụ về chữ, nét, nghĩa, âm, và thanh, theo Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn, Paris 2006-2011. Đọc www.
[5]. Hơn 200 năm
qua, các nhóm văn hóa lớn đã biến cải các văn hóa gốc du mục, với ý thức tự do,
dân chủ, nam nữ bình quyền, nhân quyền...
[6]. Với sự phát triển
cuộc sống thành thị, đông đúc, các xã hội mẫu hệ dần dần đổi thành phụ hệ.
[7]. Đọc Chinese Regional Stereotypes, do Wolfram
Eberhard, trong Asian Survey, Univ. of California Press, 5 (12), 1965, tr
596–608. - Bản đồ 800635 (544061) 5-86 do US CIA 1986.
[8]. Sứ giả Việt Thượng
dâng Đế Nghiêu Rùa ngàn năm, trên mu có khắc chữ. - Xem tr 24 :
4.4.3e, và tr 25 : 4.5.4.
[9]. Năm 433 dl người
Lâm Ấp quấy phá, chiếm giữ phía Bắc Hải Vân. Năm 1069 dl vua Chế Củ trả lại 3
châu cho Đại Việt, nay là vùng Quảng Bình, Quảng Trị. Năm 1306 dl vua Chế Mân
trả lại vùng đất nay thuộc Quảng Trị và Thừa Thiên, làm sính lễ cưới công chúa
Huyền Trân 5000-2879 ttl.
[10]. Sách vở Trung
Hoa có nhiều truyện tích về thời khai thiên lập địa, nhiều trận đánh giữa các vị
‘thần’ thời đó. Nhưng tất cả
đều do tưởng tượng suy đoán, không có giá trị thực tế. Bàn Cổ để ra 18.000 năm
để tạo ra trời đất. Sao con
người có thể biết những chuyện xảy ra trước khi có con người ? ở
thế giới của các vị Thần ? Xem tr 30,
2.2.8.
[11]. Hiện nay quen lẫn lộn cách nói Việt : Tộc Việt, hoặc cách nói Hán Việt : Việt
Tộc. Nhưng thời trước năm 1046 ttl, thời chỉ có Tộc
Việt, chưa có tộc Hoa, thì chỉ có cách nói Việt : Tộc Việt, Hồ Đồng Đình, Việt
Thượng, Việt Lạc.
Dầu khi cách nói Hoa đã phổ biến, Tổ Tiên ta vẫn luôn dùng tên
‘Việt Thượng’ (cách nói Việt) chứ không là ‘Thượng Việt’ (theo cách
Hoa). Vì vậy, ‘Việt Thượng’ biến âm thành ‘Việt Thường’.
[12]. Đối với các di
chứng khảo cổ về văn hóa, cần cứu xét tầm ảnh hưởng thực tại và hợp lý của
chúng, qua thời gian.
[13]. Thời trước khi có tổ chức chia ranh giới
rõ, nơi nào 1 tộc dân tập trung sống thì nơi đó là vùng đất của tộc dân đó.
[14]. Trái lại, cuộc
sống du mục lại cần sức mạnh thường trực. Phụ nữ bị yếu thế trong thời thai
nghén.
[15]. Đang khi đó, cuộc sống khó khăn ở vùng đất khô
cằn đã tạo ra nếp sống du mục thiên về bạo lực.
[16]. Dân du mục
Thiểm Tây tụ tập, rồi trở thành tộc Hoa, nhờ thành lập nhà Chu, từ
năm 1046 ttl.
[17]. Về 3 chữ ‘Việt’,
xem tr 58 : 11.2. - Thứ chữ nay gọi là chữ nho,
cũng là chữ của Tộc Việt. - Xem tr 34 : 6.4.1.
[18]. Ví dụ : Việt : áo đỏ,
Việt Lạc. Hoa : hồng y, Lạc Việt. Đọc Nghiên Cứu Chữ Hán, do Vũ Thế Ngọc, nxb East-west Institute, San
Jose, CA 1989, tr 134.
[19]. Ví dụ : Cụ
Nguyễn Du (nguyên tên, tên dài), hoặc Cụ Du (tên gọi, tên ngắn). - Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, do
Nguyễn Thanh Đức, bài 3, đoạn 6.2.
[20]. Tiếng Việt với
số 3 : ba trợn, ba đá, ba kẹo, ba xạo, ba lơn, ba nhe, ba hoa, ba tàu... Trong
khi đó người Hoa thích số 3, số 8 (bát, bạc), và sợ số 4 (vì họ phát âm chữ
tứ như chữ tử, chết).
[21]. Từ thời Hán,
206 ttl, số 9 và hình ảnh Phụng Long, đã bị giới thống trị Trung Hoa độc
chiếm để dùng cho vua chúa, hoàng tộc.
[22]. Hầu hết các
gia đình Trung Hoa thờ kính Tổ Tiên đều là người gốc Việt.
[23]. Giới thống trị Hoa
đã xuyên tạc bằng đủ cách, đặc biệt bằng cách tạo ra những truyền thuyết quái đản
về nguồn gốc các Tết, Lễ. - Đọc Nếp Sống
Tâm Linh Việt Nam, do Nguyễn Thanh
Đức,
bài 9 và bài 10.
[24]. Hình thủ lãnh,
đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học
Thuyết Á Đông, tr 39 : 3.2.3b. Trong mấy ngàn năm, trống đồng luôn là hiệu
lịnh, là biểu hiệu của uy quyền. Cho tới ngày nay, dân ta vẫn còn tập tục để một
Bà đánh tiếng trống khai trương trống đồng mới đúc.
[25]. Xem tr 72 : 14.4.2.
[26]. Về Bà Vua Triệu,
đọc Việt Nam Sử Lược, do Trần Trọng
Kim, nxb Trung Tâm Học Liệu, Sàigòn 1971, q.1, tr 44.
- Ở phương Bắc, Tần Thủy Hoàng 221 ttl, buộc đổi từ họ mẹ qua họ cha.
[27]. Theo Tam Quốc Chí, thế kỷ 3 dl, q 9 : 'Người
Giao Chỉ còn nhiều phong tục theo mẫu hệ'. - Theo Hậu Hán Thư, thế kỷ 5 dl, q 116 : ‘Người Giao Chỉ không phân biệt
trưởng ấu… không biết tình cha con… không tổ chức gia tộc theo chế độ phụ hệ…’
- Đọc Việt Sử Toàn Thư, do Phạm văn
Sơn, nxb Thư Lâm, Sàigòn 1960, tr 34.
Gần đây, với nếp sống thành thị, nền kinh tế phát triển đa dạng, xã hội
lần lần chuyển qua phụ hệ. Năm 203 dl Giao Chỉ đổi tên thành Giao Châu.
[28]. Truyền thuyết Sứ thần
Việt Thượng tặng Đế Nghiêu Rùa ngàn năm có ghi lịch, xem tr 25 : 4.5.4b.
- Về Kỹ thuật Trâu kéo cày, xem tr 31 : 5.6.2c.
[29]. Nên so sánh với
mọi nền văn hóa toàn thế giới, đương thời và hiện nay.
[30]. Cho tới gần đây, Dân Việt, cả bà lẫn
ông, đều để tóc dài và cuộn thành một búi lớn sau đầu.
[31]. Vào thời nầy, hạ lưu Sông Hồng còn sũng nước, biển
còn ăn sâu vô đất liền.
[32]. Về La bàn, đọc Nguồn Gốc
Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 56 : 3.3.2.
[33]. Thời đó, Dân
Việt theo mẫu hệ.
[34]. Cũng đọc là
Nhạc, âm nhạc.
[35]. Về Rùa
Thần, xem tr 25 : 4.5.4b. Đây là chữ
Lạc thứ nhất. Ta còn có Sách Lạc
[36]. Đọc Sứ Mạng Việt Nam thời Bảo Bình, do
Nguyễn Thanh Đức, bài 11, các đoạn 4.1, 5.1, 6.1, và 8.1.
[37]. Đọc nt, bài 11, đoạn 3.1. - Truyền
thuyết Do Thái cũng có Hai Ông Bà Tổ, Adam và Eva.
[38]. Xem bản đồ tr 12 : 2.5.2b.
[39]. Như vùng Lưỡng
Hà nay thuộc Iraq, và vùng hạ lưu sông Nile ở Ai Cập.
[40]. Xem tr 81 : bài 16.
[41]. Xem tr 11 : 2.4.4, và tr 12
: 2.4.6.
[42]. Hiện nay ta có
câu : 'Dân Việt có 5.000 năm lịch sử'. (2879 +2013 = 4892 tH).
[43]. 3.000 năm trước
khi Chiêm Thành thành hình ở nam Hải Vân. 4.200 năm trước khi Lào thành hình ở
Trấn Nam. - Xem bản đồ tr 25
: 4.5.2.
[44]. Sử Ký do Tư Mã Thiên, viết năm 109-91
ttl. - Làm sao con người có thể biết được sự kiện, số năm ?
[45]. Đọc Tiểu Sử của
tất cả các Vị trên Mạng. Phần tiếng Anh có nhiều chi tiết hơn. www.
[46]. Sách Kinh Lễ ghi Ngũ Đế là 5 họ : họ Hữu Sào,
họ Toại Nhân, họ Phục Hy, họ Nữ Oa, và họ Thần Nông.
[47]. Khổng tử,
557-479 ttl, nhận Đế Nghiêu, Đế Thuấn (và Đại Vũ) là thánh vương, là những vị
vua gương mẫu.
[48]. Hiện nay, nghề
nuôi tằm dệt lụa vẫn phát triển mạnh ở phương Nam.
[49]. Phải hơn 1.000
năm sau, vận chuyển đường thủy mới phát
triển ở vùng Hoàng Hà.
[50]. Theo Sơn Hải Kinh và Đại Hoang Tây Kinh.
[51]. Cuộc sống du mục không thích hợp với chế độ
mẫu hệ.
[52]. Đây có thể
chỉ sao chép truyền thuyết phổ thông về Đế Nghiêu.
[53]. Theo Thông Chí do Trịnh Tiều, 1104-1162 dl,
và Cương Mục Tiền Biên do Kim Lý Tường.
[54]. Về Chữ Việt 越, xem tr 19 :
3.5.3d.
[55]. Đọc thêm Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết
Á Đông, tr 68 : 3.4.8-9.
[56]. Trị sở nay gọi
là thủ phủ, thủ đô. Cũng như Việt Thượng thành Việt Thường, Việt Trị biến âm
thành Việt Trì.
[57]. Về Đường giao
thông giữa vùng Sông Hồng và Đồng Đình, xem
tr 18 : 3.5.2, và bản đồ.
[58]. Đọc
www/Rafetus Swinhoei. 2013.
[59]. 2191 ttl +
2013 dl = 4204 năm.
[60]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á
Đông, tr 37 : 3.2.2.
[61]. Xem bản đồ tr 18.
[62]. Về Đường Ranh,
xem tr 12 : 2.5.2, và bản đồ. - Về Đặc tính Văn
hóa gốc trồng Lúa nước và văn hóa gốc Du mục, xem tr 11 :
2.4.4-6.
[63]. Thời Đại Vũ
chưa có chữ viết hoàn chỉnh để có thể ghi chép chi tiết những kỳ công của Đại
Vũ, như sách vở Trung Hoa đã bịa đặt sau nầy.
[64]. Đọc thêm Erlitou and the Formation of Chinese Civilization : Toward a New
Paradigm, do Allan, Sarah, The Journal of Asian Studies, Cambridge Univ.
Press 66 (2), 2007, tt 461–496.
[65]. Đến hiện nay, ngoài vùng châu thổ Sông
Hồng Sông Mạ, không nơi nào khác có Rùa khổng lồ ngàn năm. Xem tr 25
: 4.5.4b-c.
[66]. Đây là chữ Việt
thứ 2. Thời trước, có 3 chữ để viết tên Việt : 越, 粤, 鉞.
[67]. Những vùng đất
của Việt Lạc vừa bị sáp nhập vào đất Trung Hoa, như Quảng Tây, Quảng Đông, Vân
Nam, và Hải Nam, vẫn còn dùng chữ Việt Sách Lạc nầy 粤 làm tên của mình. Hiện
nay, sách vở Trung Hoa vẫn gọi các tỉnh nầy là vùng Việt 粤 : Việt
Tây, Việt Đông, Lưỡng Việt thay vì Quảng Tây, Quảng Đông, Lưỡng Quảng.
Vùng nầy vừa bị chia ranh khỏi Đại Việt từ năm 906 dl, cách đây 1100 năm.
Cùng với lịch sử, đây cũng là dấu chứng dân vùng Quảng Tây, Quảng Đông, Vân
Nam, và Hải Nam, cũng là dân Việt Lạc.
- Riêng Việt Nam, từ sau 3785 tH, 906 dl, Đại Việt chỉ học chữ nho
trong sách vở, nên dùng chữ Việt cổ điển 越.
[68]. Đại Vũ, như Đế
Thuấn, đã bị giới thống trị Trung Hoa chuyển lên vùng Hoàng Hà. Việc Đế Thuấn
và Đại Vũ được chôn tại phía Nam Dương Tử đều bị Trung Hoa ghi là do Đế Thuấn
tuần du, do Đại Vũ đi họp chư hầu.
[69]. Đọc thêm phần
tiếng Anh : www/Chu State (Sở).
[70]. Ở vùng bắc
Sông Hoài, không có dân nước nào được ghi nhận là con cháu Nhà Hạ.
[71]. Xem tr 18 : 3.5.2c.
[72]. Cách viết
‘ghép chữ’ nầy cũng được dùng cho chữ Đức
[73]. Xem tr 24 : 4.4.3e.
[74]. Xem tr 24 : 4.4.3d.
[75]. Tứ di gồm
bắc Địch, đông Di, tây Nhung, nam Man.
[76]. Xem tr 30 : 5.5 và bản đồ.
[77]. Sở Trang Vương
và Việt Câu Tiển là 2 trong Ngũ Bá thời Xuân Thu, 2108-2476 tH, 771-403 ttl.
[78]. Xem bản đồ các di chỉ tr 28 : 5.3.2.
[79]. Theo Trúc Thư Kỷ Niên, Ân Cao Tôn ‘Tam thập
nhị niên, phạt Quỷ Phương, thứ vu Kinh’ : năm thứ 32, đánh Quỷ Phương, đóng
quân tại đất Kinh. - Theo Hạ Thương Chu
niên biểu, năm Ân Cao Tôn 32 là 1218 ttl.
[80]. Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người,
bài 10, phần 2, và đoạn 4.1.
[81]. Các địa danh ở
Bắc Phần Việt Nam không nhất thiết phải là những chứng tích địa điểm của lịch sử.
Bất cứ đi đâu, dân Việt cũng luôn có bên mình ấn tích của Tổ Tiên. Với cuộc di
cư 1954 từ Bắc vào Nam, và từ năm 1975 tỏa khắp thế giới, dân Việt không những
đã đem theo địa danh, ấn tích lịch sử, văn hóa, mà cả cỏ cây rau trái.
[82] Đọc www/tên các
Di chỉ. - Xem bản đồ tr 28 : 5.3.2.
[83]. Chinese writing (Wenzi-xue-gaiyao), do
Qiu Xigui, Society for the Study of Early China, Univ. of California, Berkeley,
2000, tt 49-50.
[84]. Thời đồ đồng của
tộc Việt khởi đầu khoảng năm 879 tH, 2000 ttl.
[85]. Có thể tìm thấy dấu vết của các tác
phẩm có trước Khổng Tử, trong những
sách Ông đã san định, như Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ... - Xem tr 46 : 8.2.4.
[86]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học thuyết Á
Đông.
[87]. Thời Tam Quốc,
hàng ngàn thợ khéo Việt Lạc bị đưa đi xây dựng thủ đô Kiến Nghiệp, Nam Kinh
ngày nay.
[88]. Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người.
[89]. Về Thạp và Trống,
đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học
Thuyết Á Đông, tr 13-15
[90]. Bronze Drums in Vietnam, do Nguyễn Duy
Hinh, The Vietnam Forum 9, 1987, tr 4-5. - Đọc thêm Dong Son Drums in Vietnam, do Phạm Huy Thông, nxb Khoa học Xã Hội,
Hà Nội, 1990, tr 275, 282.
[91]. Theo Trung Quốc Cổ Đại Đồng Cổ, do Trung Quốc
Cổ đại Đồng cổ Nghiên cứu hội, Bắc Kinh, Wenwu Press, 1988. Trích dẫn ở The present Echoes of the Ancient Bronze
Drum: Nationalism and Archeology in Modern Vietnam and China, do Han
Xiaorong, Explorations in Southeast Asian Studies, Vol. 2, No. 2, Fall 1998,
Hawaii University. - Bắc Kinh và Thượng Hải có nhiều trống, vì là trung tâm
chính trị và kinh tế thời gần đây.
- Sách Trung Hoa ghi : Mã Viện thu gom và phá hủy
nhiều trống đồng của Lĩnh Nam, để đúc ngựa đồng và cột đồng. Sau Mã Viện
là Khổng Minh, Lan Khâm, Âu Dương Ngỗi, Lưu Hiểu... đều nổi tiếng đã cướp nhiều
trống đồng của Việt Lạc. Có tài liệu ghi Mã Viện là ông tổ nghề đúc
đồ đồng (!).
[92]. Về chi tiết
hình vẽ và các nét của chữ Việt 越, xem
tr 19 : 3.5.3d.
[93]. Về Rùa
Thần, xem tr 25 : 4.5.4b.
[94]. Nên gọi là Hà
Đồ. Một số sách giải thích Hà Đồ là do long mã từ Hoàng Hà. Hà Đồ chỉ là
Sách Lạc biến dạng. Thực ra, cũng chỉ là Truyền thuyết Rùa Thần
Việt Thượng. Sông Lạc chỉ để tránh né nguồn phát xuất từ Dân Lạc.
Long Mã là để né tránh Rùa Thần.
[95]. Xem tr 24 : 4.4.3e.
[96]. Xem tr 28 : 5.3.3.
[97]. Xem tr 43 : 7.5.
[98]. Xem tr 29 : 5.3.3c.
[99]. Tên của Dân Việt
vùng Việt Thượng là Lạc. Khi
nhấn mạnh đặc tính Việt, khác với Hoa, thì dùng tên Việt Lạc.
[100]. Các bản văn về
Phục Hy sáng tác sau Phục Hy hơn 2.000 năm.
[101]. 2191 ttl +
2013 dl = 4204 năm.
[102]. Qua Thạp và
Trống đồng Đông Sơn, học thuyết Âm Dương Hoán Dịch, Đất Trời 5 Hành, Tiên
Rồng Song Hiệp, Đạo Đức Tuệ Linh, có nguồn gốc Việt Lạc. - Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á
Đông.
[103]. Theo Trúc Thư Kỷ Niên.
[104]. Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người,
bài 10, đoạn 4.1.
[105]. Vùng Đồng
Đình là đất Việt Lạc từ năm 1300 ttl. Xem
tr 34 : 6.3.2c.
[106]. Xem tr 36 : 8.4.3.
[107]. Xem tr 74 : 14.6.3, và
bản đồ.
[108]. Xem tr 62 : 12.2, câu
85.
[109]. Xem tr 21 : 4.2.1e.
[110]. Về Thuyết
Thiên Tử Thế Thiên Hành Đạo, xem tr
81 : 16.
[111]. Xem tr 24 : 4.4.3e, và tr 28
: 5.3.3.
[112]. Xem tr 42 : 7.4.1a. - Về Mặt La bàn, đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 57 : 3.3.2b.
[113]. Nhà (Đông)
Chu coi chúng là rợ Tây Nhung.
[114]. Xem tr 49 : 9.1.2a. - Dầu Triệu Đà là người Hoa, việc Triệu Đà cai trị
không có nghĩa là toàn dân trong vùng đột nhiên bị đồng hóa thành Hoa.
[115]. Về Văn hóa Du
mục và Lúa nước, xem tr 11 : 2.4.4.
[116]. Theo cưỡng định
Trung Hoa, các nước chung quanh đều do các quí tộc Trung Hoa thành lập, cũng
như trước đó các nhóm du mục đã được bộ tộc Chu tụ tập để thành hình Nhà
Chu và tộc Hoa.
[117]. Xem bản đồ tr 30 : 5.4.1b.
[118]. Đọc thêm www/Chu State (Sở)/Culture. - Từ thời Hán,
Trung Hoa gán cho Sở là sơ khai man rợ, văn hóa Sở, Việt, không thích hợp với
Hán khổng.
[119]. Nước Sở cường
thịnh nhất vào thời Sở Trang Vương, v. 2266-2288 tH, 613-591 ttl. Ông là một
trong Ngũ Bá.
[120]. Kinh thư, phần Đại truyện; Hậu Hán Thư, Nam Man truyện. Về Xe chỉ
nam, đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn
Học Thuyết Á Đông, tr 57 : 3.3.2c.
[121]. Sứ giả
Việt Thượng dâng Rùa thần Sông Hồng cho Đế Nghiêu năm 688 tH, 2191 ttl. - Xem tr 24 :
4.4.3e.
[122]. Sau những
thay đổi danh xưng thời Tiền Hán, sách vở Trung Hoa lẫn lộn vùng Việt Thượng (đổi
tên thành Lĩnh Nam, và chia ra thành 14 hoặc 15 bộ) với ‘bộ Việt Thượng’ vùng
Quảng Trị, Thừa Thiên ngày nay. - Đây cũng là dấu chỉ dân Hoa không biết
gì nhiều về Việt Thượng.
[123]. Xem tr 34 : 6.3.2.
[124]. Việt Giang Lưu Vực Nhân Dân Sử, do Từ
Tùng Thạch, Nxb Thượng Hải, 1947.
[125]. Đọc Vân Đài Loại Ngữ, do Lê Quí Đôn, 1772, bản
dịch Phạm Vũ, nxb Tự Lực, Sàigòn 1974, tr 149.
[126]. Sách Lạc, Lạc
Thư, là đồ biểu trên lưng Rùa Thần, từ đó tính ra Dịch. Kinh Dịch là sách bàn
luận về Âm Dương. - Kinh Dịch được cho là do Chu Văn Vương viết, nên gọi là Chu
Dịch.
[127]. Trung Quốc Triết Học Sử, do Phùng Hữu
Lan, xb Hồng Kông 1950, tr 457. - Phùng Hữu Lan là triết gia thời danh
của Trung Hoa hiện nay.
[128]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á
Đông, tr 75 : 4.2.
[129]. Gọi là Chu Lễ
vì Chu Công Đán được cho là tác giả.
[130]. Xem bản đồ
tr 30 : 5.4.1b.
[131]. Tần giết tất
cả thanh niên của nước đối thủ. Sau trận Trường Bình, năm 2619 tH, 260 ttl, Tần
giết 40 vạn tù binh.
[132]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á
Đông, tr 46 : 3.2.8-9, và tr : 152 : 7.2 và 7.3.
[133]. Dân Việt vượt
Sông Hoài thời Hậu Hạ, từ 1079 tH,1800 ttl. Xem tr 30 : 5.5.
[134]. Các Kinh đã
‘được’ Khổng Tử sửa đổi, và sau Khổng Tử, đặc biệt thời các triều
Hán, Đường, Tống, Thanh, tất cả đều đã được diễn dịch, sửa đổi,
thêm, bớt... cho hợp với chủ đích chính trị của triều đại đương
thời. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn
Học Thuyết Á Đông, tr 220 : 9.1.3.
[135]. Phục Hy và
Đại Vũ là dân Việt. Xem tr 23 : 4.4.2, và tr 27 : 5.3.
[136]. Đọc Nguồn Gốc VN của Bốn Học Thuyết Á
Đông, tr 74 : 4.2, và tr
81 : 4.4.
[137].Thời Tam
Hoàng Ngũ Đế, có chữ viết, nhưng chưa thịnh hành, nên không thể ghi
lại từng lời nói. Thời sau diễn dịch và gán ghép các chi tiết.
[138]. Về Chu Lễ, xem tr 44 : 7.5.2.
[139]. Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người.
[140]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết
Á Đông. - Về Thạp và Trống, đọc nt, tr 17 : bài 2.
[141]. Quảng Châu ký và Giao Châu ngoại vực ký. - Sau khi bị Việt Lạc đánh tan, sách vở
Trung Hoa ghi là 50 vạn quân du thủ du thực (!), và thất bại vì ‘không chịu được
thủy thổ’.
[142]. Lịch sử chỉ
còn trận Ân Cao Tôn xâm lăng Việt Lạc năm 1661 tH, 1218 ttl. Nhưng cuộc xâm
lăng nầy đã xảy ra 172 năm trước khi tộc Hoa thành hình. - Xem tr 34 : 6.3.2.
[143]. Theo Sử Ký do Tư Mã Thiên. - Đọc thêm Việt Sử Toàn Thư, tr 60, gc 1. - Xem tr 49 : 9.1.2b. - Bài
học chiến bại đã trở thành Truyền kỳ Mỵ Châu, dạy việc Giữ Nước. - Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người,
bài 9. - Về Triệu Đà, vua An Dương, và Thành Ốc, đọc phần 10.
[144]. Khi khai thác
chủ thuyết nầy, triều Hán tránh tôn vinh triều đại Tần vừa bị họ lật đổ, nên đã
tôn vinh triều Chu thành các thiên tử thần kỳ, để thiên hạ thần phục thiên tử
Hán theo mẫu đó. Mọi tài liệu các thời trước bị sửa đổi theo.
[145]. Xem
thêm tr 81 : 16.
[146]. Đọc Việt Nam Sử Lược q.1, tr 18 tt. - Xem tr 48 : 8.4.3.
[147]. Xem tr 34 : 6.3.2.
[148]. Đọc Việt Nam Sử Lược q.1, tr 30.
[149]. Năm 2699 tH,
180 ttl, ghi theo Sử Ký, do Tư Mã
Thiên, viết năm 2770-2788 tH, 109-91 ttl. - Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 60, chú thích 1. - Đọc thêm Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người,
bài 9.
[150]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 58, và tr 86-87.
[151]. Đọc Việt Nam Sử Lược, q.1, tr 38; và Việt Sử Toàn Thư, tr 105.
[152]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 101-102, 105.
[153]. Về Tầm quan
trọng của Định chế Làng-Nước Việt Lạc, đọc Chung
Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, bài 6, đb phần 7, và bài 10, đoạn 9.1.
[154]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 106.
[155]. Xem tr 69 : 14.
[156]. Xem tr 68 : 14.6.2. Thần phả là tiểu sử các Vị được thờ trong
Đền.
[157]. Danh sách và
tiểu sử nhiều Vị ghi nhận ở phần Di Tích Lịch Sử trong bộ Anh Hùng Lĩnh Nam, do Trần Đại Sỹ, 4 quyển, nxb Nam Á, Paris 1986.
[158]. Bản in Trung
Hoa Thư Cục, Thượng Hải 1960.
[159]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 109-111.
[160]. Theo Dư Địa Chí của Cụ Nguyễn Trãi viết năm
4317 tH, 1438 dl, Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đặt tên Nước là Hùng Lạc. - Đọc Nguyễn Trãi Toàn Tập,
Viện Sử Học dịch, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1976, tr 215.
[161]. Đọc Mỹ Thuật Cổ Truyền Việt Nam, do Nguyễn
Khắc Ngữ, Nghiên Cứu Sử Địa, Montreal 1981, tr 63.
[162]. Về chi tiết
chữ Việt 越,
xem tr 19 : 2.5.2d.
[163]. Về chi tiết
chữ Thượng 常,
đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học
Thuyết Á Đông, tr 26-27.
[164]. Xem tr 73 : 4.2.3a.
[165]. Tộc Hoa có
năm 1833 tH, 1046 ttl, vùng Thiểm Tây.
[166]. Thần Nông
không thể là vị thần của dân sa mạc du mục. Xem tr 23 : 4.4.2.
[167]. Khác với tộc
Hoa thuộc nền văn hóa gốc du mục. - - Xem tr 24 : 4.4.3.
[168]. Xem tr
26 : 4.5.4e.
[169]. Xem tr 30 : 5.4.2.
[170]. Xem tr 31 : 5.6.2b.
[171]. Xem tr 32 : 6.1.3a và bản đồ.
[172]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn
Học Thuyết Á Đông, tr 20 : 2.3.1.
[173]. Đây là vùng đất
khảo cổ hiện nay coi là đất Nhà Thương. Xem tr 33 : 6.3.1 và bản đồ.
[174]. Vào thời kỳ nầy,
vùng Đồng Đình cũng là phần đất Việt Lạc.
Xem tr
34 : 6.3.2 và bản đồ -
[175]. Hơn 170 năm
trước khi tộc Hoa thành hình.
[176]. Xem tr 49 : 9.1.2a.
[177]. Xem tr 49 : 9.1.2b.
[178]. Đọc Chung Hưởng
Hạnh Phúc Làm Người, bài 9.
[179]. Xem tr 50 :
9.2.2b. - Đọc thêm Việt Sử
Toàn Thư, tr 58; và tr 86-87.
[180]. Đọc thêm nt,
tr 101-102, 105.
[181]. Đọc thêm nt,
tr 106.
[182]. Đọc thêm nt,
tr 107.
[183]. Xem tr 50 : 9.3.2, và bản đồ tr 51.
[184]. Đọc nt, tr 115.
[185]. Đọc thêm Việt Nam Sử
Lược q.1, tr 44.
[186]. Đọc thêm nt, tr 53.
[187]. Đọc thêm nt, tr 59.
[188]. Đọc thêm nt, tr 60.
[189]. Đọc thêm nt, tr 66.
[190]. Đọc thêm nt, tr 67
[191]. Xem tr 18 : 3.5.
[192]. Xem chi tiết tr 19 : 3.5.3c-d.
[193]. Xem tr 24 : 4.4.3e.
[194]. Về Sách Lạc, xem tr 28 : 5.3.3a.
[195]. Xem chi tiết tr 29 : 5.3.3c.
[196]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á
Đông.
[197]. Về Chữ Lạc
Biệt Tài 貉,
đọc Nguồn
Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông,
tr 40 : 3.2.4. - Ngoài
3 chữ Việt và 3 chữ Lạc ghi lại lịch sử, chữ Mặt Trời và Trâu
[198]. Ngày nay,
người Việt Nam đã tỏa lan hầu như khắp nơi toàn thế giới, theo tỷ lệ
thuận hợp với dân số và tầm phát triển kỹ thuật của từng địa
phương.
[199]. Đọc Sứ Mạng Việt Nam thời Bảo Bình, bài
7 và 8. Kỷ nguyên Bảo Bình thể hiện thời 2000-4000 dl.
[200]. Trước đây,
khi chữ quốc ngữ chưa phổ thông, Truyện Hồng Bàng chỉ được một số ít nhà nho biết.
Đại chúng chỉ theo Truyền kỳ truyền miệng.
[201]. Lĩnh Nam Chích Quái, do Trần Thế Pháp,
Lê Hữu Mục dịch , xb Huế 1960, tr 16,19, và các ghi chú. Maspéro: Etudes d’Histoire d’Annam, IV, BEFEO
XVIII, 3, p. 6s. Thủy Kinh Chú, q.
37. Thái Bình Hoàn Vũ Ký, q. 170, tr
9.
- Không có tài liệu nào về Trần Thế Pháp. Chỉ có Lê Quý Đôn, 1726-1784,
ghi 1 câu trong Kiến Văn Tiểu Lục :
"Lĩnh Nam Chích Quái tương truyền là tác phẩm của Trần Thế Pháp". Đọc
nt, tr 9, 12.
[202]. Vì tộc Hoa
thành hình nhờ bộ tộc Chu tụ tập các bộ lạc du mục, nên giới thống trị Hoa cưỡng
định rằng mọi tộc dân khác cũng đều do quí tộc Hoa phát sinh. - Xem tr 39 : 7.1.1a.
[203]. Chữ Long do
chữ Rồng đọc theo giọng Hoa không có âm ‘R’ tiếng Việt. Âm ‘R’ của Hoa, Việt là
‘L’. Tiếng Hoa không có giọng dấu : ‘ồng’ thành ‘ong’. Hán Việt Tự Đìển do Đào Duy Anh, nxb Trường Thi, Sài gòn 1957,
không có chữ âm ‘R’. Hán Việt Tự Điển
do Thiều Chửu, nxb TP HCM 2002, bảng tra chữ cũng không có chữ ‘R’.
[204]. Long Nữ là
nàng họ Long. Tác giả Truyện Hồng Bàng là người Hoa.
[205]. Thời Hùng từ
năm 2879 ttl. Tộc Hoa thành hình năm 1046 ttl. - Xem tr 69 : 4.2.1.
[206]. Âu Cơ chỉ có
nghĩa ‘người đẹp Đất Âu’, không phải tên riêng của một người. Lịch sử Trung Hoa
còn có những Tần cơ, Vệ cơ, Sở cơ, Yến cơ...
[207]. Về Biểu Tượng
Tiên Rồng, đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc
Làm Người, bài 2, đoạn 4.1, và bài 13. Truyện Hồng Bàng xuyên tạc tính
Biểu Tượng vì giải thích tục xâm hình Long là để tránh thủy quái [c.96]. Có thể
đánh lừa được thủy quái bằng hình vẽ sao ? Tổ Tiên vẽ hình Long lên người là để
tự hào và hưởng nhận sức sống từ Biểu Tượng linh thiêng của Dòng Tộc Việt.
[208]. Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người,
bài 2, đoạn 4.1 và 4.2.
[209]. Đọc nt, bài 2, mục 5.2.
[210]. Không phải là
2 người Hoa ‘Lạc Long Quân’ và ‘Âu Cơ’. Đó là do tên quan Trung Hoa Lịch Đạo
Nguyên bịa đặt cách đây chưa tới
1.600 năm.
Đồng bào : Đồng là cùng, chung. Bào là Bọc Mẹ, cái nhau, bào thai. Mọi
người là Anh Em cùng Một Bọc Tiên Rồng. - Đọc nt, bài 10, mục 5.2b gc.
[211]. Như vùng Lưỡng
Hà nay thuộc Iraq, vùng hạ lưu sông Nile ở Ai Cập.
[212]. Xem tr 20 : 3.5.4.
[213]. Xem tr 19 : 9.1.2.
[214]. Phân biệt khá dễ dàng, dựa vào các yếu
tố phân biệt giữa Tộc Việt với nền văn hóa nông nghiệp, và tộc Hoa với nền văn
hóa du mục. Xem tr 40 :
7.1.2. - Về Khác Biệt Nền Tảng giữa Tộc Việt và Tộc Hoa, xem tr 7 : 1.
[215]. Do Giao Châu Ngoại Vực Ký (thế kỷ 4 dl) ghi
nhận.
[216]. Truyền Kỳ
Chử Đồng, Tiết Liêu, An Tiêm, Mỵ Châu, Phù Đổng. Đọc Chung
Hưởng Hạnh Phúc Làm Người.
[217]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á
Đông, tr 42 : 3.2.5.
[218]. Bộ Hỏa
[219]. Về năm 906
dl, xem tr 57 : 10.8.
[220]. 18 Miếu
hiệu : 1. Hùng Dương Vương, 2. Hùng Hiền Vương, 3. Hùng Lân Vương, 4.
Hùng Hiệp Vương, 5. Hùng Hy Vương, 6. Hùng Huy Vương, 7. Hùng Chiêm Vương,
8. Hùng Vỹ Vương, 9. Hùng Định Vương, 10. Hùng Vi Vương, 11. Hùng Trinh
Vương, 12. Hùng Võ Vương, 13. Hùng Việt Vương, 14. Hùng Anh Vương, 15.
Hùng Triệu Vương, 16. Hùng Tạo Vương, 17. Hùng Nghị Vương, 18. Hùng Duệ
Vương. - Đọc Việt Sử Thông Lãm,
do Vũ Huy Chân, xb Sàigòn 1973, tr 3 và 74.
[221]. Trống Sông Đà
phát hiện cuối thế kỷ 19. Tang trống 78 cm, cao 61 cm. Mặt trời 14 tia, là Trống
Moulié, ở bào tàng Guimet, Paris. Về Trống Ngọc Lũ, đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn
Học Thuyết Á Đông, tr 27 : 2.4.4.
[222]. Xem tr 49 : 9.1.2b.
[223]. Thục An Dương
Vương Tiên Đế Ngọc Phả Cổ Lục, dẫn ở Thời
Đại Hùng Vương, nhiều tác giả, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1976, tr 243.
[224]. Theo sách vở
Trung Hoa, vùng Bắc Dương Tử có Nước Sở, người Tộc Việt, do Hùng Dịch sáng lập,
1030-223 ttl, có 42 vua cũng mang họ Hùng. - Tuy nhiên, Thời Hùng có trước Nước
Sở hơn 1.800 năm, Vua Hùng thắng Ân Cao Tôn trước Hùng Dịch 178 năm, đồng thời
với Hùng Dịch đã có nhiều Thạp và Trống Đông Sơn ghi khắc việc thờ kính các Vua
Hùng...
[225]. Vua, Vương
không chỉ là người cai trị nước, còn là tước vị. Bà Triệu, khởi nghĩa năm 248
dl, được Dân xưng tụng là ‘Bà Vua’, Dầu Bà chỉ tự xưng là Tướng. Ca dao : “Muốn
coi lên núi mà coi, Coi Bà Vua Triệu cỡi voi đánh cồng”. Tước Vương cũng không
có nghĩa là vị vua cai trị, như Đức Hưng Đạo Đại Vương, Đức Hưng Nhượng
Vương... Vì tính biểu tượng, tên riêng và tiểu sử của từng Vị đã không còn cần
thiết. Tất cả đều được tôn xưng bằng miếu hiệu ‘Vua Hùng’.
[226]. Như Phụng
Long, khi thấy văn hóa và biểu hiệu Tộc Việt cao quý, vua chúa Trung Hoa dành số
9 cho hoàng tộc. [số tốt đẹp của dân Hoa là số 8].
[227]. Theo Hậu Hán Thư, q 116 : "Người Giao Chỉ
không phân biệt trưởng ấu… không biết tình cha con… không tổ chức gia tộc theo
chế độ phụ hệ…" - Theo Tam Quốc Chí,
q 9 : "Người Giao Chỉ còn nhiều phong tục theo mẫu hệ". - Đọc thêm Việt Sử Toàn Thư, tr 34.
[228]. Trong suốt mấy
ngàn năm, trống đồng luôn là hiệu lịnh, là biểu hiệu của uy quyền. Cho tới ngày
nay, dân ta vẫn còn tập tục để một Bà đánh tiếng trống khai trương trống đồng mới
đúc.
[229]. Hiện nay làng
Thượng Thanh, huyện Thanh Oai, Hà Tây, còn miếu thờ vị Tướng đã giả gái để được
đem quân của mình gia nhập cuộc quật khởi của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. Xem tr 69 : 14.
[230]. Ngài khởi
nghĩa năm 3420 tH, 541 dl, thành công từ năm 3423 tH, 544 dl. Ngài tự xưng
là Nam Việt Đế, niên hiệu là Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân. Sử còn ghi
Ngài là Lý Nam Đế. - Xem tr 57 : 10.7.4.
[231]. Theo Việt Nam Sử Lược, q.1, tr 18 tt. - Xem tr 49 : 9.1.1.
[232]. Theo Sử Ký Tư Mã Thiên viết năm 109-91 ttl. -
Đọc thêm Việt Sử Toàn Thư, tr 60, chú
thích 1; và đb tr 86-87.
[233]. Đọc Việt Nam Sử Lược q.1, tr 38; và Việt Sử Toàn Thư, tr 105.
[234]. Về Định chế
Làng-Nước Việt Lạc, đọc Chung Hưởng
Hạnh Phúc Làm Người, bài 6, phần 7, bài 10, đoạn 9.1.
[235]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 107.
[236]. Đến năm 4824
tH, 1945 dl, khắp nơi hoạt động của các Ngài đều có đền thờ. Chỉ vùng ven sông
Đáy, đã có tới 94 vị Anh Hùng thời Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam được thờ kính.
Anh là người sáng suốt thấy việc phải làm. Hùng là người đủ sức mạnh tinh thần
để làm việc đã thấy. Chữ anh hùng dùng chung cho cả nam nữ, cả văn võ.
[237]. Danh sách và
tiểu sử của nhiều Vị được ghi nhận ở phần "Di Tích Lịch Sử" trong bộ Anh Hùng Lĩnh Nam, do Trần Đại Sỹ, 4
quyển, nxb Nam Á, Paris 1986. - Nhiều chi tiết cũng trích dẫn từ Bộ sách nầy.
[238]. Hiện nay làng
Thượng Thanh, huyện Thanh Oai, Hà Tây, còn miếu thờ vị Tướng đã giả gái để được
đem quân gia nhập cuộc quật khởi của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. - Sau Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh
Nam hơn 200 năm, năm 3127 tH, 248 dl, dân Việt Lạc có thêm một Nữ nhân lãnh đạo khởi nghĩa : Bà Vua
Triệu. Phải gần 300 năm nữa, năm 3423 tH, 544 dl, mới có một thủ lãnh nam nhân
được ghi nhận : Đức Nam Việt Đế, (Lý Nam Đế)).
[239]. Chỉ có ngoại
sử mới dám ghi nhận một phần sự thực. Chính sử Trung Hoa luôn xuyên tạc, theo chủ trương hủy diệt di tích Tộc
Việt.
[240]. Đọc Việt Nam Sử Lược q.1, tr 39.
[241]. Xem tr 39 : 6.6.3.
[242]. Đọc thêm Anh Hùng Lĩnh Nam.
[243]. Theo Dư
Địa Chí của Đức Nguyễn Trãi, viết
năm 4317 tH, 1438 dl. Đọc Nguyễn Trãi Toàn Tập, Viện Sử Học dịch,
nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1976, tr 215.
[244]. Tại nơi loài
người đã sinh sống mấy ngàn năm, làm sao có thể có hiện tượng "diều hâu
đang bay mà chỉ vì nóng quá nên rơi xuống chết" ? Có chăng là núi lửa chợt
phun !
[245]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 57.
[246]. Đọc nt, tr 89.
[247]. Đọc nt, tr 109.
[248]. Đọc nt, tr 133.
[249]. Đọc nt, tr 210.
[250]. Đọc Vân Đài Loại Ngữ, do Lê Quý Đôn, 1772, bản
dịch Phạm Vũ, nxb Tự Lực, Sàigòn 1974, tr 174.
[251]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 249.
[252]. Đọc nt, tr 271, 272.
[253]. Đọc nt, tr 282.
[254]. Đọc nt, tr 336.
[255]. Đọc nt, tr 366.
[256]. Đọc nt, tr 371-372.
[257]. Đọc nt, tr 552.
[258]. Xem tr 34 : 6.3.2.
[259]. Theo con số
thông thường, tức là hơn 4.000.000 giặc.
[260]. Nxb Thượng Hải,
1947.
[261]. Xem tr 43 : 7.4.2a. - Vân Đài Loại Ngữ,
tr 149.
[262]. Mã Viện Truyện
trong Hậu Hán Thư, do Phạm Diệp, thế
kỷ 5 dl.
[263]. Thực oái oăm
và bêu xấu, trong lời tuyệt mạng, một câu đã trở thành danh ngôn của Mã Viện :
"Thôi thì ! Làm tướng da ngựa bọc thây, hơn là chết tại xó nhà". - Họ
Mã, da ngựa !
[264]. Cũng theo Mã Viện Truyện, vì Mã Viện đã giấu bớt
một xe minh châu và sừng tê đã cướp từ nước ta, nên khi chết, Mã Viện bị lột bỏ
mọi tước vị, vợ con không dám đem xác đi chôn.
[265]. Chỉ riêng 1
trận ở Hồ Đồng Đình, Mã Viện đã mất 7 vạn quân thủy chiến, dưới tay Công chúa
Phật Nguyệt.
[266]. Đại tướng của Tần Thủy Hoàng, năm 2665 tH, 214 ttl.
[267]. Xem tr 34 : 6.3.2. Nhà Ân, Nhà Hậu Thương. Thời nầy tộc Hoa chưa thành
hình. Hơn 100 năm sau, bộ lạc Chu góp các bộ lạc du mục khác vùng Thiểm Tây, lập
Nhà Chu năm 1046 ttl. Tộc Hoa mới thành hình và phát triển.
[268]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q.1, tr 18. - Xem tr 48 : 8.4.3.
[269]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q.1, tr 30; Việt Sử Toàn Thư, tr 89.
[270]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q.1, tr 39-40.
[271]. Đọc thêm nt, tr 53-56.
[272]. Đọc thêm nt, tr 66-68.
[273]. Đọc thêm nt, tr 89-90.
[274]. Vốn thuộc vùng đất Việt Lạc.
[275]. Đọc Vân
Đài Loại Ngữ, tr 174-175, dẫn Nhị
Trình Di Thư, do Trình Di, và Uyên
Giám, do Hoàng Đình Kiên.
[276]. Ngột Lương Hợp Thai là công thần thứ 3 của
Nhà Nguyên, từng tham gia đánh chiếm nước Kim, nước Đức, Ba Lan, Bagdad, và diệt
nước Đại Lý.
[277]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược q.1, tr 126-128.
[278]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược q.1, tr 137-150; Việt Sử Toàn Thư, tr 246-248.
[279]. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.
[280]. Như Đức Ngô
Nam Đế năm 938 dl.
[281]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược q.1, tr 151-161.
[282]. Đọc thêm nt, tr 217-234.
[283]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược q.2, tr 130-134.
[284]. Theo số đếm thông thường, tức là hơn
4.000.000 giặc.
[285]. Về tộc Hoa thành hình, xem tr 39 : 7.1.1.
[286]. Về Văn hóa
Du mục, xem tr 11 : 2.4.4, và tr 12 : 2.4.6.
[287]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á
Đông, tr 220 : 9.1.3.
[288]. Thần thánh của Trung Hoa đều là các vua
quan lớn nhỏ. Ông nào cũng mập mạp, phè phỡn, ăn no mặc đẹp. Ba ông Phúc Lộc Thọ
là 3 thủ tướng của 3 triều vua. Chỉ trừ Lão Tử. - Xem tr 45 :
8.2.2c.
[289]. Trong mọi cuộc tranh giành quyền lực, người
dân Trung Hoa luôn là nạn nhân của những cuộc tàn sát tập thể do mọi phía. Nhiều
làng, nhiều thành, nhiều vùng bị tuyệt diệt.
[290]. Về Tứ di, xem tr 33 : 6.1.3b và gc.
[291]. Còn gọi là
Hồ Tôn Tinh. - Hồ : mọi, (người hồ). Tôn : khỉ, (Tôn hành giả). Tinh :
đười ươi (tinh tinh).
[292]. Sắc lịnh ngày 21.8.1406 dl của Minh
Thành Tổ, gởi Trương Phụ, ghi rõ chính sách của Trung Hoa : “Nhất thiết các thứ
sách vở chữ viết, cho đến các câu ca lý dân gian, sách dạy trẻ... thì một mảnh
một chữ đều đốt hết... Các bia do An Nam lập ra thì phá hủy tất cả, một chữ chớ
để còn.”
Chính sách Soán đoạt và Hủy diệt nầy không chỉ xảy ra trong
quá khứ, mà mọi thời, ngay cả trong hiện tại.
[293]. Chỉ có Thiên tử mới được thờ Trời.
Chỉ có quan chức mới được tôn vinh Ông Bà Tổ Tiên. Ngược với Nếp sống Việt Nam. Mọi nhà
Việt đều có Bàn Thiên thờ Trời, trước sân, giữa trời, và có Bàn
thờ Tổ Tiên trong nhà. Đọc Nguồn Gốc
Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 165 : 7.5.3.
[294]. Đọc thêm Người Trung Quốc Xấu Xí, do Bá Dương, xb
Đài Loan, bản dịch Nguyễn Hồi Thủ, L.A., 1999.
[295]. Những xảo trá, lường gạt, gian manh,
buôn lậu, đầu cơ, hàng giả, hàng nhái, hàng độc, hàng dơ...của người Hoa đã nổi tiếng
từ thời xa xưa đến nay.
[296]. Trong lần Nhật Bản
xâm lăng Trung Hoa 1937-1945, 1
người lính Nhật, với 1 cây
súng, đã 1 mình tiến chiếm,1 mình cai trị 1 làng Trung Hoa trong suốt thời chiến. Nhật Bản đã phổ biến Phim tài liệu
mô tả 5000 tù binh Trung Hoa bị 100 lính Nhật tập trung, suốt mấy giờ đồng
hồ sắp đặt dàn súng máy để tàn sát. Nhưng 5000 lính Trung Hoa chỉ đứng chờ
bị bắn chết, không người lính Trung Hoa nào tính chuyện kháng cự lại 100 lính
Nhật, hoặc bỏ chạy.
[297]. Xem
tr 12 : 2.5.2 và bản đồ. -
Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 109.
[298]. Giặc Nam Hán là quốc gia ở vùng Quảng
Đông, trước năm 917 dl còn có quốc hiệu là Đại Việt. Đức Ngô Nam Đế (Quyền)
đã đánh bại quân Nam Hán tại trận Bạch Đằng năm 938 dl. - Đọc Việt Nam Sử Lược q.1, tr 67.
[299]. Xem tr 19 : 3.5.3.
[300]. Đọc thêm Kim Ngọc Bảo Tỷ, Bảo tàng Lịch sử Việt
Nam, Hà Nội 2009, tr 36-37 và 160-165.
[301]. Về Tộc Hoa thành hình, xem tr 39 : 7.1.1a.
[302]. Permanent
Court of Arbitration, PCA Case Nº 2013-19, The
South China Sea Arbitration Award of 12 July 2016. - Tòa xét rằng không
có bằng chứng lịch sử hiển nhiên nào chứng tỏ Trung Quốc đã hành
xử chủ quyền trên vùng nước và tài nguyên trong vùng Đường 9 Đoạn.
Đăng nhận xét