TÀI LIỆU ĐẶC BIỆT HOC GIẢ NGUYỄN THÀNH ĐỨC: LƯƠC SỬ 7000 NĂM DÂN TỘC VIỆT NAM

 TÀI LIỆU ĐẶC BIỆT HOC GIẢ NGUYỄN THÀNH ĐỨC: LƯƠC SỬ 7000 NĂM DÂN TỘC VIỆT NAM

NGUYỄN THANH ĐỨC - LƯỢC SỬ 7000 NĂM TỘC VIỆT

2021 Tủ Sách KINH VIỆT - Brisbane, Australia

ISBN 978-1-875413-09-6 © Nguyễn Thanh Đức 2021

Tác giả giữ bản quyền. Theo Luật Bản Quyền quốc tế.

Liên lạc : 8thanhduc@gmail.com.

***

Chuyện Queensland: Học giả Nguyễn Thanh Đức với nguồn gốc dân tộc Việt

Với các sách nghiên cứu “Lược sử 7,000 năm tộc Việt” và “Nguồn gốc Việt Nam của bốn học thuyết Á Đông”, học giả Nguyễn Thanh Đức cho rằng nguồn gốc và văn hóa Việt đã bị người Trung Hoa tước đoạt và tiếm nhận. Và ông mong muốn chúng ta đọc và suy ngẫm coi đúng sai thế nào.

 Với các sách nghiên cứu “Lược sử 7,000 năm tộc Việt” và “Nguồn gốc Việt Nam của bốn học thuyết Á Đông”, học giả Nguyễn Thanh Đức cho rằng nguồn gốc và văn hóa Việt đã bị người Trung Hoa tước đoạt và tiếm nhận. Và ông mong muốn chúng ta đọc và suy ngẫm coi đúng sai thế nào.

SBS Vietnamese - SBS Việt ngữ

 https://www.sbs.com.au/language/vietnamese/vi/podcast-episode/chuyen-queensland-hoc-gia-nguyen-thanh-%C4%91uc-voi-nguon-goc-dan-toc-viet/scc5fvcho

 Kính mời thính giả theo dõi cuộc mạn đàm sau đây giữa học giả Nguyễn Thanh Đức và chúng tôi để cùng tìm hiểu phần nào về vấn đề này.Hưng Việt: Dạ xin kính chào Chú ạ.Ông Nguyễn Thanh Đức: Kính chào anh Hưng Việt, cô Mỹ Dung và toàn thể thính giả đài SBS.

Advertisement

Mỹ Dung: Dạ con chào chú.Hưng Việt: Dạ thưa chú, đáng lẽ thông thường thìchúng cháu phải gọi chú là ông và xưng là chúng tôi ở trong một cuộc phỏng vấn như thế này, nhất là với một bậc học giả, trí thức như chú. Nhưng mà điều, trong vòng thân mật, chúng ta cũng quen nhau một thời gian rồi thì xin phép để được gọi chú là chú và xưng là cháu, có được không ạ?Ông Nguyễn Thanh Đức: Dạ thực sự tôi nghe kêu bằng chú, tôi vui lắm, chớ kêu bằng ông nghe nó xa lạ quá.Mỹ Dung: Dạ cháu thường nghe nói là 4000 năm văn hiến nhưng mà tại sao ở đây chú lại nói là “Lược sử 7,000 năm tộc Việt”. Hẳn là nó cũng phải có một cái ý nghĩa gì chứ?Ông Nguyễn Thanh Đức: Dạ thì nó có ý nghĩa, mà nó cũng hơi kỳ cục một chút. Tại vì đây là tộc Việt chớ không phải Việt Nam. Tộc Việt tức là cái gốc của dân Việt từ trên hồ Động Đình. Dân Việt từ trên đó xuống tới miền Nam, tức miền Bắc hiện nay đó. Thì mình thành lập một nhóm riêng, kêu là Việt Lạc. Rồi Việt Lạc có 5.000 năm lịch sử. Tại vì phải mất một thời gian từ khi thành lập cho tới khoảng 1.000 năm. Rồi từ khi mà thành lập xong thì mất chừng ngàn năm nữa thì mới có cái kêu là văn hiến tức là có một nền văn hóa nhân bản cao.Hưng Việt: Thưa, Cháu để ý thấy là chú vừa dùng một hai từ mà ngược lại với những cái từ mà mình thường nghe. Thí dự như chú gọi là Việt Lạc thay vì Lạc Việt, cũng như Chú gọi là Hồ Động Đình thay vì Động Đình Hồ. Thưa chắc phải có lý do ạ?Ông Nguyễn Thanh Đức: Mình có hai kiểu nói. Kiểu nói của người Hoa là đặt tính từ trước danh từ sau, chứ nói của người Việt là đặt danh từ trước tính từ sau. Ví dụ như tiếng Việt của mình kêu là áo đỏ, thì ngưởi Hoa kêu là hồng y. Bây giờ người Hoa họ kêu mình là Lạc Việt đó là tiếng Hoa, còn người Việt của mình thì mình kêu là Việt Lạc. Người Hoa họ kêu là Động Đình Hồ thì người Việt mình kêu là Hồ Động Đình.Hưng Việt: Cám ơn chú đã giải thích các điểm đó. Trở lại quyển sách “Lược sử 7 ngàn năm tộc Việt” này đó thì các động lực nào đã thúc đẩy chú nghiên cứu và viết ra quyển sách?Ông Nguyễn Thanh Đức: Động lực thì không có gì quan trọng đâu. Bỗng dưng tôi thấy sao mà hình như đọc lịch sử Việt Nam mình đó có nhiều điểm kỳ cục. Và vì nó kỳ cục nên tôi tìm thử những kỳ cục đó là cái gì. Và rồi cứ tìm đi tìm lại nên càng ngày nó càng kỳ cục thêm mà kỳ cục đến nỗi tôi trở thành kỳ cục luôn. Thành ra tất cả những tựa đề của tôi trong quyển sách, nó kỳ cục hết.Ví dụ, thực sự nguồn gốc đầu tiên mà tôi thấy kỳ cục là cái chuyện Hồng Bàng. Kể chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm con. Câu kết của chuyện đó là “Bách Nam là khởi tổ của Bách Việt vậy”, tức là 100 đứa con là tổ của Bách Việt. Cái kỳ cục năm ở đâu? Cái kỳ cục nằm ở chỗ khi ông ta xuống thì đã có dân Bách Việt rồi. Bà Âu Cơ là cho năm chục đứa con đi cai trị khắp nơi. Vậy cai trị ai? Cai trị dân Nam. Mà tại sao kêu họ là thủy tổ? ông Tổ đầu tiên của dân Nam, mà dân Nam có rồi. Đó là cái đầu tiên làm tôi thắc mắc và từ thắc mắc đó, tôi tìm hiểu thêm.Hưng Việt: Nếu mà nói 50 người theo ông, 50 người theo bà tức là mình chấp nhận cái chuyện có 100 trứng rồi hay sao? Cháu nghĩ là có nhiều thính giả cảm thấy khó được thuyết phục nếu mà nói là có người sinh ra một bọc 100 người con, làm sao mà sinh ra một lần 100 người con chú?Ông Nguyễn Thanh Đức: Bây giờ phân biệt hai chuyện. Cái truyền thuyết dân tộc của mình là một bọc trăm con, 50 con theo mẹ 50 con theo cha. Nó là cả một nguyên lý căn bản của một nền văn hóa Việt Nam. Mình thì cái gì cũng có tình, có lý. Tình là mẹ, lý là cha. Mình thì phải có Tài có đức. Tài là Rồng, đức là Tiên. Rồi gì nữa? Cha mẹ của mình là song thân, hai người bằng nhau, 50, 50. Không có Tiên, không có Rồng, Tiên Rồng là biểu tượng của nền văn hóa.Bây giờ ông bà mình ngồi dòm cuộc sống con người thì thấy trong mình hình như có một nửa của mẹ, một nửa của cha. Và nửa của mẹ đó, ông bà mình biểu tượng hóa thành Tiên, một nửa của cha biểu tượng hóa thành Rồng. Biểu tượng văn hóa là gì? Tức là dùng một hình ảnh dễ nhớ để dạy một bài học. Khi mà chúng ta thấy được rằng Tiên Rồng chỉ là biểu tượng văn hóa, Tiên Rồng nhập lại là cuộc sống của một con người. Và khi đó thì cái bọc trăm con không phải là bọc 100 con nữa mà là biểu tượng của xã hội loài người. Cái đó là cái quan trọng. Trong biểu tượng đó, xã hội loài người là gì? Là tất cả mọi người do cùng một mẹ một cha sinh ra, không ai lớn không ai nhỏ tại sinh ra một lần. Không ai nhận sức sống từ cha mẹ nhiều hay ít hơn tại vì được sinh ra một lần, và với biểu tượng đó chứng tỏ hai điều trong xã hội loài người. Điều thứ nhứt, yêu thương nhau như là anh em ruột thịt cùng một mẹ một cha sinh ra một lần. Biểu tượng thứ hai là mọi người bình đẳng từ căn cơ, không có người nào hơn người nào hết. Đó là nền tảng của xã hội, của nền văn hóa Việt.

Sách của tác giả Nguyễn Thanh Đức

Mỹ Dung: Dạ mà Chú tìm những tài liệu này ở đâu hả Chú?Ông Nguyễn Thanh Đức: Chúng ta chỉ có tài liệu của Tàu mà thôi. Gần đây chúng ta có những tài liệu của người Âu, gần hơn nữa là của người Mỹ. Bây giờ thật sự thì theo niên biểu chính thức của người Tàu, họ bắt đầu từ năm 1,046 trước Tây lịch, tức là cách đây mới 3,000 năm. Vậy thì tại sao họ nói họ có 5.000 năm? Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai ở miền Bắc Trung Hoa là vùng sa mạc khô cằn giá lạnh và họ chỉ có nền văn hóa du mục, nuôi súc vật. Còn miền Nam hai bên bờ sông Dương Tử, nên phát sinh ra nền văn hóa lúa nước. Đó là căn cứ lớn nhất mà cuốn sách này được viết. Căn cứ thứ nhứt, người Hoa mới có ba ngàn năm. Căn cứ thứ hai, người Hoa ở vùng khô cằn du mục mà người Việt thì ở vùng lúa nước, vùng Hồ Động Đình, vùng Bà Dương, vùng xung quanh dọc sông Dương Tử, không còn chỗ nào khác, trừ khi họ lấy của miền Nam lên. Tại vì họ là dân du mục, họ không có những cái đó.

Tôi lấy cái ví dụ. Thần Nông. Tới giờ phút này, người Trung Hoa vẫn kêu là Thần Nông, không kêu là Nông Thần. Thần Nông là kiểu nói tiếng Việt. Tên Người Việt. Còn người Hoa họ kêu là Nông Thần. Ông Thần Nông đó được dân thờ, phải là dân nông nghiệp, lúa nước thì mới thờ Thần Nông. Ông ta còn có biệt hiệu nữa là Hiên Viên là ông Vua của vùng nắng ấm mà vùng trên kia là vùng khô cằn giá lạnh thì ông ta đâu có thể là ông Vua trên đó nữa . Điềm thứ tư, ông ta là con của một con rồng, mà rồng là của dân Việt, còn trên kia nó là chó sói.Hưng Việt: Thưa cái vấn đề thứ hai mà cháu muốn hỏi đó là chuyện 18 vị Vua Hùng mà trải qua các triều đại theo lịch sử là tới 2000 năm. Câu hỏi thông thường đầu tiên mà dân chúng thường nói là 18 đời vua mà tại sao sống được tới 2.000 năm, tức là mỗi người gần 200 năm.

Ông Nguyễn Thanh Đức: Sở dĩ chúng ta có tin lịch sử con số 18 là từ đời Vua Lý Thái Tổ năm 1010, cách đây mới 1,012 năm. khi đó Đức Lý Thái Tổ lập lại cái truyền thống thờ cúng các Vua Hùng tại vì suốt mấy ngàn năm bị Tàu nó cấm. Và khi Ngài dâng miếu hiệu cho 18 vị Vua Hùng. Miếu hiệu có nghĩa là cái biệt hiệu để mỗi lần cúng tế đọc lên, đó không phải là tên của các Ngài.Bây giờ trở lại, chúng ta có được cái trống đồng Ngọc Lũ và trống đồng Sông Đà. Hai trống đồng đó, mỗi trống đồng cái vòng xung quanh đều có 18 con chim mà 18 con chim đó tôi đọc ra nó là chữ Hùng. Tại vì tất cả các hình ảnh ở trên trống Ngọc Lũ và tháp Đào Tịnh đều là chữ hết, tại vì cái chữ là chữ tượng hình. Ví dụ như thế này: có hình một người đàn ông đứng trước cái nhà, cái nhà là có cái mái vòm, trong nhà có một người đàn bà đang đánh chiêng, thì là người đàn ông là chữ Nhân, cái nhà có mái vòm là chữ Sơn, Nhân với Sơn là Tiên, đó là hình ảnh của chữ Tiên.Thành thử ví dụ như họ vẽ một cái nhà, mái cong lại có 3 cái chưn nữa, thì nó là cái chữ Thượng. Tất cả các hình trong đó đều là chữ hết.Nghĩ một cách ngây ngô rằng 18 vị thờ đó chia cho 2,000 năm. Tại sao vậy? Tại vì trong cái gia phả, cái thần phả, tức là trong đền thờ đó, của An Dương Vương ghi rõ ràng ông ta là Hùng gia Chi phái tức là An Dương Vương cũng thuộc nhóm Vua Hùng nhưng mà ông ta không được thờ tại vì ông ta làm mất nước. Thành ra không phải hễ ai làm Vua là được thờ. Đó là điều thứ nhất. Bây giờ chữ Vương nghĩa là gì? Đừng có hiểu lầm chữ Vương là người cai trị, là Vua. Vương là một cái tước.

Hưng Việt: Dạ thưa chú, chú đã cho xuất bản nhiều cuốn sách như thế này ở trong thời gian gần đây. Thưa chú, cái việc mà phổ biến những quyển sách này đó thì chú thực hiện ra sao ạ? Có gửi tới những trường học hay là những thư viện công cộng và ở những nước khác hay là ngay cả gửi về Việt Nam hay không ạ?Ông Nguyễn Thanh Đức: Bây giờ thì chuyện này khó ở chỗ có tiếng Việt, tại vì tôi không thể in sách ra bằng tiếng Việt. Bây giờ ví dụ như in cuốn sách này ở đây hai chục đồng, nếu gửi đi nữa 20, 25 đồng. Nếu mà ai mua, mua gì nổi. Cuốn sách toàn nói chuyện kỳ cục không à. Thành ra tôi đã phổ biến bằng cách gửi cho thân hữu, bạn bè chừng sáu, bảy trăm người dưới dạng thức PDF.Sở dĩ tôi ra được 2 cuốn bằng tiếng Anh này là nhờ có Amazon, và mình in cuốn nào, họ lấy tiền cuốn đó. Và điểm thứ hai rất là hay nữa, họ có nhà in trên Mỹ, Canada, Pháp, Nhật, Anh, Bỉ. Nếu mình mua tại nước đó thì họ in tại nước đó, họ gởi cho người trong nước đó thành thử cái giá tiền cước rất là rẻ. Đó là nhờ Amazon nên mới ráng có được hai cuốn tiếng Anh này, còn tiếng Việt thì thua.

Cái này là bổn phận tôi phải làm tại tôi khám phá ra nhiều kỳ cục quá thì phải kỳ cục theo thôi. Nhưng mà tôi hy vọng các thế hệ tương lai thì sẽ có nhiều chuyện thay đổi.

Hưng Việt: Thưa Chú có đề cập tới chuyện là phổ biến cái quyển tiếng Việt này bằng dạng PDF trên computer, thì chính cháu đã Google nó và đã thấy có người phổ biến cái quyển PDF đó. Thì hy vọng như Chú nói là sẽ có nhiều người đọc và sẽ có những lời nhận định hoặc phê bình trong tương lai.

Thưa Chú, đề tài này rất là mênh mông, chúng ta có thể hàn huyên mạn đàm cả ngày cũng không hết. Với thời gian phát thanh có hạn thì chúng cháu xin hỏi chú câu cuối cùng là chú còn có điều gì muốn chia sẻ trong cái buổi mạn đàm ngày hôm nay về cái đề tài này.

Ông Nguyễn Thanh Đức: Cái điều mà tôi trông cậy nhứt vào thính giả và tất cả mọi người phải nhận biết tất cả những tôi viết đều là những chuyện kỳ cục, kỳ quái nhưng mà xin quý vị cứ bình tâm nghe hết và đọc hết, và không phải để quý vị theo ý tôi nhưng mà để quý vị có thể chấp nhận được những cái luận điệu, những cái bằng chứng tôi đưa ra có hợp lý hay không. Đó là điểm quan trọng.

Hưng Việt: Thay mặt cho cô Mỹ Dung và thính giả, chúng cháu thành thật cám ơn Chú rất nhiều đã dành thời giờ để giải thích về cái quyển “Lược sử 7 ngày năm Tộc Việt” cũng như là giải thích những cái điều mà trong dấu ngoặc kép Chú gọi là “kỳ cục”. Nhưng mà cháu nghĩ là nếu những ai mà quan tâm tìm hiểu thì không nghĩ đó là kỳ cục đâu mà đó là những cái điều mà một người học giả hay trí thức phải nhận thấy và tìm hiểu thêm để giải tỏa những cái gọi là sự trái nghịch hoặc là những sự chưa được thông tỏa trong lịch sử Việt Nam. Xin thành thật cám ơn chú rất là nhiều.

Ông Nguyễn Thanh Đức: Xin cám ơn.

Mỹ Dung: Dạ cháu cám ơn Chú.

 Mời vào phần audio để nghe toàn bộ nội dung


SHARE

Riêng dành cho bạn

Cùng Tác giả

Đã xuất bản

2022  The Việt Nam Origins of Four East Asian Theories

2022 7000 Years of Ethnic Việt History

2021  Lược Sử 7000 Năm Tộc Việt

2021  Nguồn Gốc Việt Nam của 4 Học Thuyết Á Đông

2013  Con Người và Xã Hội Việt

2013  Lược Sử Tộc Việt, bút hiệu Nguyễn Thanh Đức

1998  Sấm Ký và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025

1994  Một Trăm Năm Việt Nam, 1925-2025

1993  Kinh Việt, toàn bộ

1990  Kinh Việt, q1

1986  Bộ Kinh Việt, bút hiệu Nam Thiên, Nguyệt san Vì Nước

 

Sắp xuất bản

Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, Học thuyết Tiên Rồng

       Song Hiệp

Enjoying Together the Happiness of Being Humans

Nếp Sống Tâm Linh Việt Nam

Sứ Mạng Việt Nam thời Bảo Bình

The Spiritual Life and the Việt Nam Culture

Việt Nam in the Age of Aquarius

 

Mến tặng

Các Cô Thầy, các Vị đào tạo Tương lai của Dân tộc. Bộ sách nầy được viết riêng cho các Cô Thầy. Cách trình bày và các tóm lược, sơ đồ, danh mục... kể cả giọng văn, cũng để các Thầy Cô dễ dọn bài, dễ nhớ, và dễ diễn giải hơn.


Xin kính dâng Lời Cảm Tạ lên

Hai Ngài Tộc Tổ, Mười Tám Ngài Quốc Tổ, các Đấng Thánh, Thần, Anh Linh Việt. Các Ngài đã ưu ái chỉ dạy, chứng giám, và cho con chan chứa hạnh phúc suốt hơn 40 năm tìm về Cội Nguồn, gặp lại Tổ Tiên siêu việt.

Xin thành kính Cảm Tạ

Tổ Tiên, Ôn Mệ Nội, Ôn Mệ Ngoại, và Cha Mạ. Các Ngài là những Vị Thần đã tiếp ứng Đức Trời Cao cho con được diễm phúc Làm Người. Các Chị, Anh, Em, đã cùng nhau chung hưởng cuộc sống trọn vẹn thâm tình.

Các Tôn Sư ở Chủng viện Kontum, Chủng viện Thánh Giuse Sàigòn, Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đà Lạt. Các Thầy đã ưu đãi dạy dỗ và khuyến khích cho con được như hôm nay.

Thân mến Cảm Tạ

Từng Người và Đất Nước Úc. Từ ngày trở thành Thuyền nhân Tỵ nạn năm 1975, tôi đã được hưởng một Nếp sống Úc an hòa và thịnh vượng, với mọi ưu ái, biệt đãi, cơ hội, và phương tiện vào bậc nhất của Thế giới.

Cám Ơn

Tất cả Anh Chị đã cùng nhau Hoạt động trong các Lực lượng, các Em đã dự các Khóa học. Tinh thần và Hoạt động Vì Nước, Bất Khuất, của các Anh Chị, của các Em, là những tấm gương và kỷ niệm nhớ đời.

Đặc biệt Cám Ơn

Hoàng nị Triều Linh Hồ Thanh Sử, Bạn Đời tiên báo hơn ngàn năm, Ba Mẹ, và các con Bích Thùy, Văn Hùng, Đoan Trang, Thùy Trinh, Ngọc Tuyết, các cháu Thiên Tâm, Thiên An, Thiên Trang Monique, Thiên Huy Sebastian.

Nhờ lòng yêu quý và hy sinh vượt bực của Em và của các Con các Cháu, Kỳ tích tim óc nầy của chúng ta mới có thể góp mặt với Đời.

*********

NỘI DUNG LƯỢC SỬ 7000 NĂM TỘC VIỆT

Lời Mở  5

Trích Dẫn  6

PHẦN 1 - LƯỢC SỬ 7000 NĂM

I. Dẫn Nhập : Khác Biệt Nền Tảng giữa Tộc Việt và Tộc Hoa   7

II. Vài Minh Định  về Lịch Sử, Văn Hóa, Địa Lý    9

III. Tộc Việt Thời Khởi Nguyên - 2121 ttH-1 tH, 5000-2879 ttl 14

IV. Tộc Việt Thời Hùng 1 - 1-809 Thời Hùng (tH), 2879-2070 ttl - Tam Hoàng Ngũ Đế là Dân Việt 20

V. Tộc Việt Thời Hùng 2 - 809-1279 tH, 2070-1600 ttl - Nhà Hạ Đất Hạ là của Tộc Việt 26

VI. Tộc Việt Thời Hùng 3 - 1279-1833 tH, 1600-1046 ttl                                                                               32

VII. Việt và Hoa Thời Hùng 4A - 1833-2108 tH, 1046-771 ttl                                                                       39

VIII. Việt và Hoa Thời Hùng 4B-4C- 2108-2699 tH, 771-180 ttl 44

IX. Việt Lạc cuối Thời Hùng & Nhà Trưng - 2665-2922 tH, 214 ttl-43 dl                                                     49

X. Phụ lục : Tóm gọn 5.000 Năm Sử Việt Xưa - 2121 ttH-2922 tH, 5000 ttl-43 dl                                       51

PHẦN 2 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LỊCH SỬ, VĂN HÓA

XI. Bốn Chữ Việt Linh Thiêng  58

XII. Nguồn gốc Tiên Rồng - Lạc Long Quân và Âu Cơ : Mưu đồ Đồng hóa Tộc Việt vào Hoa       60                                                    

XIII. Mười Tám Vua Hùng : 9 Vua Hùng Bà - 9 Vua Hùng Ông  65

XIV. Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam     69

XV. Đã 13 lần Việt Nam Đại thắng Giặc Phương Bắc          77

XVI. Chủ Thuyết Thiên Tử Thế Thiên Hành Đạo, Tử huyệt của Trung Hoa          81

XVII. Nam Hải : Biển của Nước Nam           84

Sách Tham Khảo    86

Bản Đồ  87

Chữ Tắt 88

LỜI MỞ

Dầu Tộc Việt khởi nguyên ở vùng Hồ Đồng Đình và đã tỏa lan ra khắp các vùng chung quanh trong hơn 7000 năm qua, và mặc dầu hiện nay dân số mang dòng máu Việt đã vượt quá 1.184.000.000 người, cho tới hiện nay, chưa có một tài liệu nào đặc biệt đề cập tới Lịch Sử Tộc Việt.

Sở dĩ có tình trạng nầy là vì trong suốt 3000 năm qua, người tộc Hoa không chỉ dùng bạo lực thống trị, đàn áp, và dùng mọi phương cách để hủy diệt dấu tích của Tộc Việt, mà còn dùng độc quyền ghi chép để tiếm nhận, cưỡng chiếm, hoặc xuyên tạc lịch sử và mọi hay tốt của Tộc Việt.

Người tộc Hoa đã tiếm nhận Quá khứ của Tộc Việt để làm tiền sử linh thiêng của chúng.

Người tộc Hoa đã tiếm nhận Danh nhân và Truyền thuyết Việt để làm lịch sử thần thánh của chúng.

Người tộc Hoa đã tiếm nhận Văn minh và Kỹ thuật của Tộc Việt làm thiên tài của chúng.

Người tộc Hoa đã tiếm nhận Chữ viết của Tộc Việt làm đặc điểm ưu việt của chúng.

Người tộc Hoa đã tiếm nhận các Học thuyết Việt để minh chứng trí thức siêu phàm của chúng.

Người tộc Hoa đã chiếm đoạt phần Đất của Tộc Việt làm tài sản thiên định của chúng.

Người tộc Hoa còn áp đặt nhiều định kiến ngụy tạo, không chỉ nhằm thủ tiêu tinh thần tộc dân, hủy hoại xã hội và văn hóa Việt, mà còn luôn dùng mọi thủ đoạn hiểm độc để che giấu sự hiện hữu của Tộc Việt.

Cũng trong suốt 3000 năm qua, nhất là hiện nay, giới thống trị Hoa đã ngông nghênh miệt thị dân Việt, và dùng chính những Di sản quí báu của Tộc Việt để kênh kiệu và hống hách với thế giới.

Vì vậy, cần nhìn lại toàn bộ Lịch sử cổ xưa của Tộc Việt,

1. Để trả lại Sự Thực cho Lịch sử.

2. Để trả lại 5.000 năm Tiền sử Việt cho Tộc Việt.

3. Để trả lại Đất nước Việt cho Tộc Việt.

4. Để trả lại Truyền thuyết Việt cho Tộc Việt.

5. Để trả lại Danh nhân Việt cho Tộc Việt.

6. Để trả lại Chữ viết Việt cho Tộc Việt.

7. Để trả lại các Học thuyết Việt cho Tộc Việt.

8. Để trả lại Văn minh, Văn hóa Việt cho Tộc Việt.

9. Để trả lại toàn thể Gia sản Việt cho Tộc Việt.

10. Để trả lại trọn vẹn cho Tộc Việt, danh dự, niềm tự hào, hùng tâm dũng khí, và vinh quang mà ‘thiên triều’ Trung Hoa đã mưu đồ tước đoạt trong hơn 3000 năm qua.

*********

TRÍCH DẪN

a. Tộc Dân và Vùng Đất Trung Hoa

"Sắc dân, mà ngày nay tự nhận là dân Hoa, đã có nguồn gốc từ thượng lưu Hoàng Hà vào khoảng từ 3000 tới 4000 năm trước." The Chinese Mosaic, do Leo J. Moser, Westview Press, London 1985, tr 10.

"Vùng lịch sử xưa nhất của Trung Hoa là Trung Nguyên, ở giữa lưu vực Hoàng Hà, gồm 1 phần của các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc và Sơn Tây hiện nay. Đó là lãnh thổ của nhà Thương, thời nhà Chu tự xưng là Trung Quốc". Introduction to Chinese History, do Bodo Wiethoff, Thames and Hudson, London 1975, tr 38.

b. Nền Văn hóa Trung Hoa

"Trong việc thành hình nền văn hóa Trung Hoa, ảnh hưởng của những sắc dân thiểu số đã to lớn hơn những gì những sử gia truyền thống người Hoa công nhận. Sử gia Trung Hoa đã có khuynh hướng lạm nhận rằng dân Hoa đã khởi nguồn từ thung lũng Hoàng Hà, vùng Trung Nguyên, rồi tỏa lan và thu hút các dân ‘mọi rợ’ bằng việc ban phát cho họ những ân huệ của văn minh Hoa."

 "Thay vì ước định có một sắc dân chủ yếu tỏa lan và thu hút các sắc dân khác, có lẽ ta nên nhìn thấy những ảnh hưởng văn hóa hỗ tương đưa tới những dị biệt trong nền văn minh Trung Hoa. Ở một số khía cạnh, nền văn minh nầy mang dấu vết của địa phương và của những sắc dân đã bị đồng hóa vào dân Hoa." Portraits of China, Lunda H. Gill, Univ of Hawaii Press, Honolulu 1990, tr 2.

c. Cuộc gặp gỡ Việt Hoa

"Người Hoa tiến về phía Nam không phải là đi vào hoang địa không người... Khi nền văn minh đặc thù của người Hoa phát khởi ở đồng bằng miền Bắc Trung Hoa, thì những vùng đất miền Nam đã được chiếm cứ bởi những giống dân... đã phát triển về văn hóa không quá thấp so với Hoa." China’s Imperial Past,  Charles O. Hucker, Duckworth, London 1975, tr 14.

"Phản kháng lớn nhất chống đối sự xâm lấn của người Hoa được biểu lộ nơi dân Việt. Dân Việt đã có tổ chức vững chắc. Vì ở dọc theo bờ biển đông nam nên họ là chủ về hàng hải. Dân Việt trỗi vượt trên vùng nước ven biển, kết hợp với núi non hiểm trở bao quanh, đã tăng phần bảo vệ các quốc gia đó khỏi sự thống trị của người Hoa." China, an Integrated Study, do Arthur Cotterel và David Morgan, Harrap, London 1975, tr 63.

"Không phải tất cả dân bản xứ đều bị người Hoa chinh phục và đồng hóa. Để khỏi bị trở thành người Trung Hoa, những tộc dân chống đối mạnh mẽ nhất đã di tản khỏi vùng bị nền văn minh Hoa xâm lấn. Họ đã kiên quyết phát triển những nền văn hóa riêng, dầu có liên hệ nhưng độc lập, như dân Việt Nam và dân Thái Lan." China’s Imperial Past, Charles O. Hucker, Duckworth, London 1975, tr 14.

*********

PHẦN 1 - LƯỢC SỬ 7000 NĂM

I. DẪN NHẬP :  KHÁC BIỆT NỀN TẢNG GIỮA TỘC VIỆT VÀ TỘC HOA

1. Sách vở Trung Hoa

Việc tìm hiểu và xác định quá khứ Tộc Việt, cũng như phân biệt giữa Tộc Việt và tộc Hoa, phần lớn đã căn cứ trên sách vở Trung Hoa.

Tuy nhiên, lịch sử cổ xưa của vùng Đông Á Châu đã bị giới thống trị Hoa liên tục sửa đổi nhiều lần, đặc biệt ở các triều đại Hán, Đường, Tống, Thanh và Cộng sản hiện nay.

Lần sửa đổi tận gốc xảy ra ở thời Càn Long. Năm 1793 dl Càn Long hoàn thành việc sửa đổi với bộ Tứ Khố Toàn Thư gồm 36.275 quyển, sau khi đã thiêu hủy hơn 6 vạn quyển bị coi là bất lợi cho ‘thiên triều’.

Tất cả đều để áp đặt chủ trương tộc Hoa là ưu vượt xuyên suốt lịch sử, đặc biệt với chủ thuyết ‘Thiên Tử Thế Thiên hành đạo’, vua Trung Hoa là Con Trời, thay Trời trị Dân. Với chủ thuyết nầy, Trung Hoa tự nhận ‘sứ mạng tối cao’ là cướp đoạt mọi tài sản dưới bầu trời và thôn tính mọi dân tộc trên trái đất thành nô lệ của dân Hoa. Họ đã dùng độc quyền ghi chép để sửa đổi, xuyên tạc, khỏa lấp lịch sử, và áp đặt thiên kiến lên các thực trạng đương thời, kể cả lên các thời điểm và địa điểm.

Tuy nhiên, dầu liên tục sửa đổi, giới thống trị Hoa vẫn không thể che giấu hoàn toàn mọi sự thực lịch sử. Ta vẫn nhìn thấy nhiều chứng tích của Tộc Việt trong sách vở Trung Hoa.

2. Khác biệt Nền tảng giữa Tộc Việt và Tộc Hoa

Những phát hiện của khảo cổ hiện nay cũng là những dấu tích của sự khác biệt giữa 2 tộc dân, giữa 2 thời điểm khởi nguyên, giữa 2 vùng đất phát xuất, giữa 2 văn minh, và giữa 2 nền văn hóa Việt và Hoa.

Tuy vậy ngày nay, Dầu trái với chứng tích và luận cứ của nhiều nhà khảo cổ Âu Mỹ, giới học giả Trung Hoa vẫn cố bám víu vào những truyền thuyết và thiên kiến ngụy tạo của thời trước mà biện giải các chứng cứ của quá khứ.

3. Thời điểm Thành hình của 2 tộc dân Việt và Hoa

Tộc Việt thành hình trước Tộc Hoa 4.000 năm.

Tộc Việt phát xuất từ năm 5.000 ttl. Tộc Hoa thành lập khi tộc Chu kết hợp các bộ tộc du mục vùng Thiểm Tây, và thành lập Nhà Chu năm 1046 ttl.

4. Vùng Đất Tổ của Việt và Hoa

Đặc tính và hệ quả của vùng Đất Tổ của 1 Tộc dân ảnh hưởng sâu đậm trên nếp sống truyền thống của Dân tộc đó.

Tộc Việt phát xuất từ vùng Hồ Đồng Đình ở trung lưu Sông Dương Tử. Hồ Đồng Đình là một hồ lớn, nơi hợp lưu của 5 dòng sông. Mùa nước lớn, Hồ rộng thêm gấp 10 lần. Vùng ruộng đất phì nhiêu nầy không chỉ giúp phát triển Tộc Việt, mà còn là gốc của nền Văn hóa Lúa Nước trong vùng.

Đang khi đó, sau Tộc Việt gần 4000 năm, tộc Hoa được thành hình ở Sông Vị, thuộc Thiểm Tây, phía tây lưu vực Hoàng Hà, là vùng đất khô cằn giá lạnh, nơi phát sinh nếp sống và nền văn hóa Du Mục.

5. Đường Ranh Thiên Nhiên giữa các Vùng

Thời giao thông còn sơ khai, núi cao sông sâu cũng là những đường ranh thiên nhiên chia cách các tộc dân.

Trên vùng đất nay thuộc Trung Hoa, đường ranh thiên nhiên Sông Hoài-Tần Lĩnh đã và đang chia 2 phần Bắc Nam. Phía Nam nhiều sông hồ, nhiều nắng ấm, thuận lợi lúa nước, cách biệt với phía Bắc khô cằn giá lạnh, thích hợp với nếp sống du mục. Dầu đã được phát triển với nhiều kỹ thuật tân tiến, cho tới hiện nay, ranh giới thiên nhiên nầy vẫn còn ảnh hưởng quan trọng.

Thời chưa có phân định ranh giới rõ rệt, nơi nào có đông người của tộc dân sinh sống lâu đời thì vùng đó được coi thuộc quyền sở hữu của tộc dân đó.

6. Đặc tính Văn hóa khác biệt giữa Việt và Hoa

Do vùng đất phát xuất, nền Văn hóa gốc Lúa Nước của Tộc Việt và nền văn hóa gốc Du mục của tộc Hoa có những đặc tính hoàn toàn khác biệt.

Dân Việt trồng Lúa Nước phát triển ở các đồng bằng nhiều nước, nhiều mưa, nhiều nắng ấm. Họ định cư lâu dài, ít chuyển dịch, và di chuyển bằng thuyền. Do đó, họ có cuộc sống cộng đoàn, nương tựa nhau, hòa hợp với thiên nhiên, ôn hòa, thích nghệ thuật... và thiên về mẫu hệ.

Đang khi đó, dân Hoa Du Mục sống vùng đồng cỏ khô cằn, với nghề chăn nuôi luôn chuyển dịch theo đoàn súc vật, di chuyển bằng ngựa. Họ coi trọng sức mạnh, trọng phái nam, trọng cá nhân, hiếu thắng, trọng võ nghệ... Vì vậy, họ thiên về độc lập, độc tôn, chuyên chế... và trọng phụ hệ.

7. Cấu trúc Khác biệt giữa 2 Ngôn ngữ Việt và Hoa

Cấu tạo ngôn ngữ của dân Việt và dân Hoa có nhiều khác biệt, vì ngôn ngữ Việt súc tích và tinh tế hơn nhiều. Đây là đặc tính của một cộng đoàn gốc Lúa nước lâu đời, trỗi vượt trên cộng đoàn Hoa gốc Du mục mới thành hình.

Vì phát triển sớm hơn tộc Hoa 4.000 năm, Tộc Việt có hệ thống 5.000 chữ viết, hơn 3.000 chữ chuẩn xác, trước khi tộc Hoa ra đời. Hiện nay, loại chữ tượng hình này vẫn lưu truyền hình ảnh, dấu tích, và nội dung của thời hơn 4.000 năm trước.

8. Thạp đồng và Trống đồng Đông Sơn

Thạp đồng và Trống đồng thuộc lò đúc ở Đông Sơn, trên bờ Sông Mạ, Thanh Hóa, thời cách đây hơn 3.000 năm, đã ghi nhận nhiều chứng tích hiển nhiên của nền văn minh và văn hóa Việt đương thời.

Tổ Tiên Việt Lạc Sông Hồng, Việt Nam ngày nay, đã dùng hoa văn, trang trí và hình dạng độc đáo của Thạp đồng và Trống đồng Đông Sơn, đặc biệt Thạp Đào Thịnh và Trống Ngọc Lũ, đã mã hóa và lưu truyền toàn bộ những ý niệm và học thuyết Việt đương thời. Những học thuyết nầy gồm học thuyết Âm Dương Hoán Dịch, học thuyết Đất Trời Năm Hành, học thuyết Tiên Rồng Song Hiệp, và học thuyết Đạo Đức Tuệ Linh.

Những ý niệm và học thuyết được Tổ tiên VN ký thác lên Thạp Đào Thịnh và Trống Ngọc Lũ có những lợi điểm mà chữ viết và sách vở không thể có.

Khác với chữ viết và sách vở, hình dạng và hoa văn khắc trên đồ đồng không biến đổi với thời gian. Cũng khác với chữ viết và sách vở, ngày nay ta có thể biết địa điểm và thời điểm phát xuất của đồ đồng, dựa trên hợp kim, hình dạng, trang trí, kỹ thuật đúc, và những di vật cùng thời. Những hình ảnh được khắc trên đồ đồng, gốc của chữ tượng hình, cũng có nhiều chi tiết súc tích và nhiều ý nghĩa chính xác hơn chữ viết.

9.  Tộc Việt

Cách đây 7000 năm, người Tộc Việt đã từ vùng Hồ Động Đình tỏa lan ra khắp 4 phương. Nhánh Tây tiến về phía rừng núi Tứ Xuyên. Nhánh Đông theo dòng Dương Tử ra biển. Nhánh Bắc lên tới vùng sau nầy được gọi là Trung Nguyên. Nhánh Việt phương Nam đã có mặt khắp Lĩnh Nam xuống tới vùng Bắc Trung phần Việt Nam ngày nay.

a. Việt và Hoa

Cách đây 3.000 năm, nhóm bộ lạc du mục vùng Thiểm Tây tụ họp thành lập Nhà Chu, gọi là Tộc Hoa. Theo sách vở Trung Hoa, từ đó họ trở thành giai cấp thống trị và tự nhận mình là ‘thần thánh’, là ‘con Trời’.

Từ thời Hán, cách đây 2.000 năm, giới thống trị Trung Hoa chia giang sơn Tộc Việt theo đường ranh Sông Dương Tử. Vùng Bắc Dương Tử trở thành Trung Hoa. Vì chưa rõ vùng Nam Dương Tử, sách vở Trung Hoa coi đây là vùng Bách Việt sơ khai lạc hậu, cần được ‘thiên triều’ tiếp thu và khai hóa.

b. Dấu tích Việt

Trước khi gặp Tộc Hoa, Tộc Việt đã hơn 4.000 năm phát triển về nhân số, và tiến bộ vượt bực về văn hóa và về nếp sống canh nông và ngư nghiệp. Chỉ sau năm 1.046 ttl, người Tộc Việt phương Bắc mới phải đương đầu với người Tộc Hoa du mục hiếu chiến đến từ phương tây.

Với bạo lực thống trị và với mặc cảm hiếu chiến cao ngạo, giới thống trị người Hoa đã tiếm nhận mọi điều hay tốt của Tộc Việt làm độc quyền của họ. Đồng thời, họ đã quyết tâm xóa bỏ mọi chứng tích Việt tại địa phương, cũng như trong tài liệu, và trong tâm hồn người dân.

Tuy nhiên, vì nhân số Tộc Việt đã đông đảo, vì văn minh và Văn hóa Việt đã phát triển lâu đời, và vì dân Việt luôn quyết tâm lưu truyền nền Văn hóa ơn ích của Tổ Tiên, nên dầu bị người Hoa thống trị, Văn hóa Việt vẫn tồn tại nơi nếp sống của đại chúng Việt và ảnh hưởng tới người Hoa.

Nhờ vậy, ngày nay ta có thể tìm gặp dấu tích Việt trong tài liệu, truyền thuyết, sách vở, và lịch sử của Trung Hoa.

10. Lược Sử Tộc Việt

Dấu ấn của Tộc Việt vẫn hiển hiện nơi nhiều di sản, trong mọi lãnh vực, trên một vùng đất mênh mông, từ ranh Sông Hoài Tần Lĩnh tới tận Hải Vân, trong suốt 7000 năm và với hơn một tỷ người đang sống.

Lược Sử 7000 Năm Tộc Việt từ Thời Khởi Nguyên Tộc Việt, qua suốt Thời Hùng 2.699 năm, tới hết Thời Nhà Trưng, từ năm 5000 ttl tới năm 33 dl.

Hiện đã có nhiều tài liệu về các thời đại sau. Chỉ cần theo các cứ điểm và những tiêu chuẩn đang có, mà hiệu chính, và ghi nhận các sự thực lịch sử.

II. VÀI MINH ĐỊNH VỀ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, ĐỊA LÝ

1. NHÌN CHUNG

1.1. Việt và Hoa

Hai tộc Việt và Hoa phát xuất từ 2 vùng đất khác nhau, ở 2 thời điểm cách nhau gần 4.000 năm, và thuộc 2 khối văn hóa khác nhau là gốc nông nghiệp lúa nước và gốc du mục.

Trong hơn 3.000 năm qua, lãnh thổ, lịch sử, văn minh, văn hóa, chủng tộc, và tất cả những gì tốt của Tộc Việt, đã bị Trung Hoa xâm lấn, tiếm nhận, chuyển đổi, và dân Việt còn bị Trung Hoa áp đặt nhiều định kiến sai lạc.

Những thiên kiến tệ hại nầy đã phổ biến sâu rộng suốt mấy ngàn năm, và hiện nay vẫn còn được giới thống trị và trí thức Trung Hoa nhắm mắt hỗ trợ, dầu là trái ngược chứng cứ lịch sử và cổ học.

1.2. Vấn Đề Chính Yếu

a. Tìm lại Thực Trạng Đương Thời

Tất cả vấn đề là tìm lại Thực trạng mỗi thời, xác định nhân sự, thời gian và địa điểm của các sự kiện, mà sách vở Trung Hoa đã cố đánh lận, xáo trộn, thay đổi cho phù hợp với chủ trương thống trị của tộc Hoa.

b. Tài Liệu dồi dào

Việc tìm hiểu quá khứ, đặc biệt những thời kỳ tiền sử, qua những tài liệu sách vở thời trước, và được hỗ trợ bằng nhiều ngành khảo cứu khác. Ngoài khảo cổ và lịch sử tân tiến, còn có các ngành nhân chủng, nhân văn, lịch trình và điều kiện phát triển văn hóa, văn minh, chữ viết, tiếng nói, địa lý hình thể, sông núi, phong thổ, khí hậu...

Tất cả đều giúp tìm lại sự thực về Tộc Việt, đã mấy ngàn năm bị xuyên tạc và hủy hoại.

c. Niên biểu

Đã có nhiều ước tính và tranh cải về niên biểu của những triều đại cổ xưa.

Từ năm 1996 tới năm 2000 dl, đã có 200 chuyên gia Trung Hoa thuộc 7 ngành nghiên cứu, đã hiệu chính niên biểu thời Hạ Thương Chu, đã xuất bản quyển Hạ Thương Chu niên biểu, do Hạ Thương Chu đoạn Đại Công Trình, 2000.

Đây là niên biểu chính thức của Trung Hoa hiện nay, và cũng là niên biểu được dùng trong sách nầy.

1.3. Minh Định

Để việc tìm hiểu thêm dễ dàng và chính xác, cần minh định một số điểm liên quan đến Lịch sử :

- Giá trị và tầm độ của các loại tài liệu, đặc biệt các tài liệu về Văn hóa.

- Tài liệu qua Chữ viết và Tiếng nói thời xưa.

- Đặc tính của Văn hóa, và của các Nền Văn hóa.

- Vấn đề Địa lý, hình thể, các đường ranh thiên nhiên và lịch sử.

- Đặc biệt về chủ thuyết đã chi phối toàn bộ lịch sử Á Đông.

2. VẤN ĐỀ TÀI LIỆU

2.1. Các Loại Tài Liệu

Ngày nay ta có nhiều tài liệu để tìm lại thực trạng đương thời của quá khứ mấy ngàn năm. Các tài liệu có nhiều nguồn gốc, nhiều thứ loại, với nhiều hạn hẹp về giá trị, quan điểm, trương độ, và mức độ ứng dụng khác nhau.

2.2. Di Tích, Khảo cổ

Di tích xưa, đặc biệt của thời chưa có chữ viết, là nguồn tài liệu quan trọng. Tuy nhiên, ngoài hạn hẹp do hiếm ít và ngẫu nhiên, di tích là những hiện vật không hồn, không tiếng nói. Do đó, cần quan tâm tới giới hạn của các giả thuyết căn cứ trên di vật, đặc biệt về văn hóa, nhân văn.

Ngoài nhận định niên đại, cần cứu xét tầm ảnh hưởng thực tại và hợp lý của chúng.

2.3. Khoa Học

Tài liệu khoa học có giá trị thực tiễn, nhờ phương pháp thực nghiệm. Vào thời khoa học mới, giới nghiên cứu đã bị các khám phá mê hoặc, đến nỗi đã tin rằng khoa học giải quyết mọi khúc mắc của cuộc sống con người.

Càng phát triển, khoa học càng nhận ra giới hạn. Các khám phá, kết luận, lý thuyết khoa học ngày càng bộc lộ tính tạm thời, bất toàn, và hạn hẹp... Chúng luôn được thay thế bằng những khám phá mới, lý thuyết mới.

Ngoài ra, vì chỉ căn cứ trên vật chất, khoa học không thể đơn giản khẳng định những vấn đề vượt ngoài vật chất, như tinh thần, văn hóa, tín ngưỡng, thần linh...

2.4. Truyện Tích Tiền Sử

Các truyện tích thời tiền sử đã được truyền miệng và cô đọng. Tuy nhiên, các giải thích về truyện tích tiền sử đều do suy đoán của nhiều ngàn năm sau. Vì vậy, nhiều chi tiết của bản văn không thể là những di chứng lịch sử của nhiều ngàn năm trước. Cùng với suy diễn và tưởng tượng, bản văn còn chịu ảnh hưởng những định kiến và áp đặt của các trào lưu nhiều thời.

Đặc biệt nghêm trọng nhất là đối với tài liệu Trung Hoa, toàn bộ các bản văn đều bị các đời sau, đặc biệt thời Hán, Đường, Tống, Thanh, sửa đổi và thêm bớt. *[1]

2.5. Truyền thuyết

Truyền thuyết là những chuyện tích được truyền miệng nhiều đời và phổ biến trong đại chúng. Các truyền thuyết chỉ còn giữ lại một số điểm đại cương, và mang nhiều đặc tính văn hóa hơn là lịch sử.

Dầu luôn gây tranh cải, nhưng trước khi có các bản văn, truyền thuyết không thể tồn tại 3-4 ngàn năm, nếu không có những cứ điểm ở quá khứ. Đặc tính liên tục và thống hợp của một nền văn hóa giúp nối kết và gia tăng giá trị của truyền thuyết, và loại bỏ những thêm thắt, gán ghép.

2.6. Truyền kỳ

Truyền kỳ là những truyện tích với nhiều biểu tượng văn hóa.

Để lưu truyền kinh nghiệm sống, người xưa đã để lại nhiều biểu tượng. Biểu tượng không thô sơ nhắc nhớ Truyền kỳ không phải là những truyện tích bình thường, mà là những bài học tiềm ẩn.

Vì lẫn lộn biểu tượng văn hóa với tài liệu lịch sử, nên đã có nhiều suy luận sai lầm, hàm hồ và xuyên tạc.

2.7. Tài liệu Tôn Giáo

Tài liệu của Tôn Giáo chủ tâm dẫn đưa cuộc sống con người hướng về Thế Giới Thần Linh. Vì vậy tài liệu Tôn Giáo tuy có phần hiện thực, nhưng chủ đích xa khác, và nhiều khi được coi có nguồn gốc siêu phàm.

Lẫn lộn giữa tài liệu Tôn Giáo với lịch sử, khoa học, đã gây nhiều tác hại.

2.8. Thần thoại

Thần thoại bao gồm những chuyện tích về Thế Giới Thần Thánh hoặc đã xảy ra trước khi có con người.

Vấn đề là làm sao con người có thể có kiến thức về thế giới thần linh, hoặc về những chuyện đã xảy ra trước khi có con người trên mặt đất. *[2]  Nếu không hàm chứa những bài học tiềm ẩn, thần thoại chỉ là những suy đoán, những phỏng định, những dự phóng được gán ghép cho quá khứ. *[3]

3. TÀI LIỆU QUA CHỮ VIẾT và TIẾNG NÓI

3.1. Chữ và Tiếng thời xưa

Theo khảo cổ hiện nay, từ thời 1.300 ttl, cách đây hơn 3.300 năm, đã có hơn 3.000 chữ chuẩn xác, ở vùng cố đô An Dương, vùng Hà Nam hiện nay.

Dù thay đổi theo thời gian, tiếng nói hiện nay vẫn lưu giữ âm thanh và nhiều ý nghĩa của thời xưa. Một số từ ngữ cổ càng có vai trò quan trọng. Tiếng nói và chữ viết xưa là nguồn phong phú cho việc khảo cứu.

3.2. Chữ Tượng hình

a. Do Hình Vẽ

Chữ viết vùng Á Đông Xưa căn cứ trên loại chữ tượng hình. Người xưa dùng hình vẽ để liên lạc và ghi nhớ. Qua thời gian, hình vẽ được đơn giản hóa thành những đường nét chính, rồi trở thành chữ viết. Vì nét chữ chỉ giữ lại những đường chính của hình vẽ, nên hình vẽ nguyên thủy đã chứa đựng nội dung đầy đủ hơn nét chữ.

Nhờ vậy, tìm hiểu hình vẽ nguyên thủy của nét chữ tượng hình cũng là tài liệu súc tích giúp khám phá một số di sản và quan niệm của người xưa.

b. Đặc tính Chữ Tượng Hình

Khác với loại chữ phiên âm, chữ tượng hình là những nét chính của hình vẽ, nên chữ không cố kết với âm. Vì vậy, một chữ tượng hình có nhiều cách đọc, và thường có nhiều âm, nhiều thanh.

Một chữ nhưng các cách phát âm khác nhau giữa Việt, Hoa, Hàn, Nhật...

Một chữ có thể có nhiều âm. Ví dụ : Lạc, mạch, Hạ, giá...

Một âm, một tiếng, có thể có nhiều chữ, nhiều nghĩa. Ví dụ : Hồng : tên sông, nước tràn, nước lụt; màu đỏ; lớn; loại chim...

Một âm nhưng có nhiều biến thanh. Ví dụ : Thường - Thượng, Vương - Vượng, Động - Đồng, Trị - Trì, Nai - Nãi - Nái, Mê - Mẹ - Mệ...

Một âm, được viết bằng Chữ với Âm tương tự : sông Mạ - sông Mã. *[4]

c. Một số Thông lệ.  Do đó, chữ tượng hình có một số thông lệ :

1. Các chữ sắp thứ tự theo bộ và số nét, không theo âm, không theo nghĩa.

2. Những chữ đồng âm có thể được xử dụng lẫn lộn, ‘đồng âm thông giả’. Ví dụ : Sông ‘Hồng’ có thể dùng lẫn lộn các chữ  , , , dầu các Chữ có Nghĩa khác nhau. Âm ‘Phúc’ dùng lẫn lộn các nghĩa điều tốt lành, cái bụng, con dơi... dầu các Nghĩa có Chữ khác nhau.

3. Một chữ có thể có những bộ ghép thêm để diễn giải hàm ý mới. Nhiều bộ không thuộc về hình vẽ nguyên thủy.

4. VẤN ĐỀ VĂN HÓA

4.1. Văn hóa và Văn minh

Văn minh chủ yếu về tiện nghi, phương tiện, hoặc thành tích của một thời kỳ. Văn hóa chú trọng cách sống, nếp sống, tinh thần sống.

Văn minh giúp con người dễ sống. Văn hóa làm con người vui sống hoặc sống đau khổ. Dầu thêm tiện nghi, văn minh, mà không có nền văn hóa phù hợp, con người sẽ không hưởng được hạnh phúc làm người toàn vẹn.

4.2. Đặc tính 2 Tầng của Văn hóa

Các nền văn hóa đều có 2 tầng : tầng văn hóa cai trị và văn hóa đại chúng.

Tầng văn hóa cai trị, tối đa là 5% dân số, gồm nếp sống của tầng lớp lãnh đạo, chỉ huy. Thông thường, họ là tầng lớp có học, có quyền lực, có tổ chức chặt chẽ, có phương tiện, có khả năng ghi chép và phổ biến. Vì vậy, tầng văn hóa cai trị được nhiều người biết tới.

Dầu 95% dân số, đại chúng âm thầm sống cuộc sống thường ngày, theo nếp lưu truyền từ đời nầy qua đời khác. Vì đại chúng thời xưa ít có phương tiện và khả năng viết lách, nên tầng văn hóa nầy ít có tài liệu, ít được biết tới.

Nếp sống đại chúng thời trước là di tích, truyền thuyết, phong tục, lễ hội. Về con người, nền văn hóa đích thực của 1 dân tộc chính là nền văn hóa truyền miệng và nếp sống truyền đời của tuyệt đại đa số dân nước.

4.3. Đặc Tính Liên Tục và Thống Hợp của Văn hóa

Văn hóa là kết tinh của nếp sống truyền đời qua nhiều thế hệ. Đặc tính của nền văn hóa là sự liên tục và thống hợp.

Như cuộc sống con người, dòng văn hóa qua các khúc quanh quan trọng.

Tuy nhiên, các biến chuyển văn hóa của một cộng đoàn luôn tiệm tiến và hình thành qua nhiều thế hệ nối tiếp. Ở thời xa xưa, thời chưa có chữ viết, thời đa số dân chúng không biết đọc viết, thời chưa có những phương tiện di chuyển và truyền thông phổ biến toàn diện như hiện nay... biến chuyển văn hóa càng cần nhiều thời gian.

Những liên tục và thống hợp nầy là dây nối kết truyền thuyết thời khuyết sử với các truyện tích thời hữu sử.

Đây là mấu chốt để tìm hiểu đặc thù của một nền văn hóa, giúp phát hiện các sửa đổi, lạm nhận, hoặc áp đặt ngoại lai.

4.4. Văn hóa gốc Du mục và gốc Lúa Nước

Các nền văn hóa Á Đông chia thành 2 khối chính : văn hóa gốc Du Mục và văn hóa gốc nông nghiệp Lúa Nước.

Văn hóa gốc Du Mục do những giống dân sống vùng đồng cỏ khô cằn, với nghề chăn nuôi di chuyển theo đoàn súc vật. Văn hóa gốc du mục coi trọng sức mạnh, trọng phái nam, thích động, hiếu thắng, trọng cá nhân, trọng võ nghệ... Vì vậy, đưa tới trọng phụ hệ, chuyên chế... với lối suy tư thiên về độc lập, độc tôn, đưa tới các lý thuyết ‘duy’...*[5]

Dân trồng Lúa Nước phát triển ở các đồng bằng nhiều nước, mưa, nắng ấm. Họ định cư lâu dài, ít di chuyển, có cuộc sống cộng đoàn, nương tựa nhau, hòa hợp với thiên nhiên, ôn hòa, thích nghệ thuật... và thiên về mẫu hệ. *[6]

4.5. Văn hóa Việt

Văn hóa Việt phát xuất từ vùng Hồ Đồng Đình, đặc tính rõ nông nghiệp lúa nước. Tộc dân và nền văn hóa Việt tăng triển tới các vùng chung quanh. Trong lịch sử nhân loại không có nền văn hóa Lúa Nước nào trổi vượt, trọn vẹn, với một tộc dân đông đúc, lưu truyền lâu đời như nền Văn hóa Việt.

Nhờ Tộc Việt đã khởi nguyên ở một vùng đất nước thích hợp và rộng lớn, xa cách các bộ tộc du mục hiếu chiến, được nhiều thời gian tăng triển đông đúc, để kiện toàn và lưu truyền nếp sống với nhiều cơ chế vững chắc.

4.6. Văn hóa Hoa

Tộc Hoa là giống dân phát xuất từ kết hợp nhiều bộ lạc du mục ở vùng sa mạc và lúa khô Thiểm Tây. Từ thế kỷ 11 ttl, họ tiến về sống ở vùng thung lũng Sông Vị. Năm 1046 ttl, cách đây 3050 năm, họ thành lập Nhà Chu.

Từ năm 771 ttl, một nhóm du mục khác chiếm đóng vùng Sông Vị, thành lập Nhà Tần. Từ Chu, Tần, Hán, giới thống trị Hán Hoa đã biến tính độc tôn của văn hóa du mục thành chủ thuyết Thiên tử thế Thiên hành Đạo : Vua là Con Trời thay Trời trị dân. Hơn 2.000 năm qua, chủ thuyết nầy chi phối toàn bộ chính trị, xã hội, văn hóa Trung Hoa.

Khổng Tử, 551-479 ttl, đã cố công cải hóa nền văn hóa gốc Du Mục bằng những hay tốt của nền văn hóa gốc Lúa Nước. Nhưng các triều đại Trung Hoa đã cắt xén, sửa đổi, biến Khổng học thành phương tiện phục vụ triều đình và chủ thuyết Thiên tử Thế Thiên cách cực đoan.

5. VẤN ĐỀ ĐỊA LÝ

5.1. Vùng Á Đông Xưa

Vùng Á Đông Xưa là phần đất gồm các lưu vực Hoàng Hà, Sông Hoài, Sông Dương Tử, Tây Giang, Sông Hồng, Sông Mạ và Sông Hương tới dãy Hải Vân. Tây giáp Sông Cửu Long, Đông giáp biển cả.

Trong 7000 năm qua, Tộc Việt đã sinh sống và phát triển trên vùng đất mênh mông từ Sông Hoài tới Hải Vân. Tuy nhiên, từ 3.000 năm gần đây, vùng lưu vực Sông Vị ở Thiểm Tây có thêm người Tộc Hoa.

Trong nhiều ngàn năm trước đó, trên vùng đất nầy đã có nhiều nhóm người sống. Nhưng về văn hóa và huyết thống, hiện nay ảnh hưởng của các nhóm Thổ dân nầy không đáng kể.

5.2. Năm Đường Ranh thiên nhiên

a. Ranh Núi Sông

Thời xưa, khi giao thông chưa thuận tiện, chưa có đường đi xe cộ thuyền bè, thì sông ngăn núi chận, và thời tiết, khí hậu, là đường phân chia các vùng đất, các bộ tộc. Khi chưa có phương tiện canh tác, chưa có kỹ thuật trồng tưới, thì vùng đồng cỏ khô cằn lạnh giá và vùng sông hồ phì nhiêu nắng ấm là những phân biệt quan trọng giữa các nền văn hóa. Từ Bắc xuống Nam, vùng Á Đông có 5 đường ranh thiên nhiên.

b. Đường ranh Sông Hoài Tần Lĩnh

Đường nối Sông Hoài với dãy Tần Lĩnh là đường ranh chia 2 vùng đất, 2 nhóm tộc dân, 2 nền văn hóa khác biệt.

Phía Bắc Sông Hoài Tần Lĩnh nhiều sa mạc, đồng cỏ, khí hậu lạnh giá, ít sông hồ, đất cằn cỗi, chỉ thuận lợi trồng lúa mì, miến, bắp, kê... Những bộ tộc vùng nầy thường sống đời du mục, chăn nuôi và di chuyển bằng ngựa.

Phía Nam Sông Hoài Tần Lĩnh nhiều đồng bằng, nhiều nắng ấm, nhiều nước, ruộng đất màu mỡ. Do đó, người dân vùng nầy canh tác lúa nước, gạo, và có nếp sống định cư thành xóm làng, di chuyển bằng thuyền.

Hai bên ranh Sông Hoài Tần Lĩnh đã thành hình những nhóm tộc dân với nhiều đặc tính khác nhau rõ rệt. Nam và Bắc khác nhau từ hình dạng, tướng cách, tiếng nói, đến phong tục, thức ăn, nghệ thuật, tư tưởng, tính tình.

Đây là đường ranh địa lý quan trọng nhất cho việc tìm hiểu thời kỳ hình thành, tầm độ phát triển, và đặc tính của 2 tộc dân Việt và Hoa. *[7]

c. Đường ranh Dương Tử

Sông Dương Tử dài, và nhiều nước, đã giữ vai trò quan trọng trong lịch sử Tộc Việt. Dân Việt đã sinh sống và phát triển ở hai vùng Nam Bắc Dương Tử, từ nhiều ngàn năm trước khi Tộc Hoa thành hình ở Thiểm Tây.

Cách đây 2.000 năm, áp đặt chủ thuyết Thiên tử Thế Thiên, thiên triều Hán, 206 ttl-220 dl, ấn định rằng dân phía Bắc Dương Tử là Trung Hoa văn minh tiên tiến, và phía Nam Dương Tử là Bách Việt, Trăm Việt, man di lạc hậu.

d. Đường ranh Ngũ Lĩnh

Ngũ Lĩnh, còn gọi là Nam Lĩnh, hiện nay là đường ranh phía Bắc của Quảng Tây, Quảng Đông. Thời Khởi Nguyên của Tộc Việt 5.000 ttl, vì hạ lưu Dương Tử còn ngập nước, và thượng lưu núi non hiểm trở, Dân Việt tỏa lan theo hướng Nam. Từ Hồ Đồng Đình, Dân Việt ngược Sông Tương, vào Sông Lỗi, qua Sông Bắc, Tây Giang, theo đường biển về Vịnh Bắc Việt, và phát triển ở trung lưu Sông Hồng và Sông Mạ.

Đường phía Tây vượt thượng nguồn Sông Tương qua Sông Quế, theo Tây Giang xuôi ra biển, hoặc ngược Sông Tả vào Bắc Phần Việt Nam.

Thời Đế Nghiêu, cách đây 4.200 năm, đã có truyền thuyết về Việt Sông Hồng Sông Mạ phát triển tiền tiến. *[8]

e. Đường ranh Nam Quan

Từ năm 906 dl, dân Lạc Hồng giành lại độc lập cho quận Giao Châu và các quận phía nam. Vì vậy, ranh giới phía bắc quận Giao Châu trở thành ranh giới giữa Trung Hoa và Đại Việt, tức là đường ranh Nam Quan hiện nay. Phần đất phía Bắc bị coi là thuộc Trung Hoa.

g. Đường ranh Hải Vân

Hải Vân là dãy núi giữa Thừa Thiên và Quảng Nam, nổi tiếng với Đèo Hải Vân. Hải Vân là ranh giới thiên nhiên cực Nam của vùng Á Đông Xưa. Năm 196 dl, cách đây 1.800 năm, nước Lâm Ấp được thành lập ở phía Nam Hải Vân. Năm 808 dl Lâm Ấp đổi tên là Chiêm Thành. *[9]

III. TỘC VIỆT KHỞI NGUYÊN, 2121 ttH - 1 tH, 5000-2879 ttl

1. ĐỊNH KIẾN VÀ KHẢO CỔ

1.1. Định kiến

Trong mấy ngàn năm qua, người Trung Hoa luôn huyênh hoang nền văn minh và văn hóa vùng Á Đông đều phát xuất từ tộc Hoa ở lưu vực Hoàng Hà. Sách vở Trung Hoa đã áp đặt định kiến tộc Hoa là giống dân cổ xưa tiền tiến nhất ở vùng Á Đông. Người Trung Hoa là nguồn phát xuất nền văn minh và văn hóa tuyệt vời của Á Đông. Mọi giống dân trong vùng được như ngày hôm nay là nhờ Trung Hoa ban phát ơn ích, nhờ học hỏi người Trung Hoa.

1.2. Lịch sử

Lịch sử ghi nhận Dân Hoa đã thành hình trong thung lũng Sông Vị, ở vùng Thiểm Tây, không lâu trước khi thành lập Nhà Chu, năm 1046 ttl, cách đây gần 3100 năm. Các khoa địa lý hình thể, khí hậu, môi sinh, nhân văn... lại phát hiện vùng Hoàng Hà khô cằn lạnh giá chỉ có thể là cái nôi của nền văn minh và văn hóa gốc du mục.

Đang khi đó, Tộc Việt đã phát xuất từ vùng Hồ Đồng Đình cách đây 7000 năm, trước tộc Hoa gần 4.000 năm. Vùng Hồ Đồng Đình và phụ cận là vùng đã phát triển ngành Nông nghiệp Lúa Nước hơn 6.000 năm qua.

1.3. Nông Nghiệp Lúa Nước và trước 1046 ttl

Về thời điểm địa điểm, lịch sử hiện nay đã minh xác những sự kiện trái ngược với những gì Trung Hoa tuyên truyền và áp đặt suốt 3.000 năm qua.

Những gì mang vết tích và đặc tính Nông nghiệp Lúa Nước trong lịch sử, văn minh và văn hóa của vùng Á Đông, đều không phát xuất từ vùng du mục Thiểm Tây, đều không có nguồn gốc Hoa. Tất cả những gì xảy ra ngoài vùng thung lũng Sông Vị, trước năm 1046 ttl, đều không có sự tham dự của tộc Hoa, đều không có nguồn gốc Hoa. *[10]

1.4. Đặt lại toàn bộ vấn đề Nguồn gốc

Với phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu ngày càng tinh vi và chính xác hơn, những nhà khảo cứu vô tư đều phải đặt lại toàn bộ nguồn gốc đích thực của nền văn minh và văn hóa Á Đông.

2. TỘC VIỆT KHỞI NGUYÊN, NĂM 5000 ttl

2.1. Vùng Hồ Đồng Đình. Tộc Việt khởi nguyên ở vùng Hồ Đồng Đình thời 5000 ttl, cách đây 7000 năm. Như nhiều tộc dân khác trong lịch sử nhân loại, Tộc Việt và Văn hóa Việt khởi nguyên từ khi một cộng đoàn kiện toàn nếp sống cá nhân và xã hội với những nét đặc trưng Việt.

Theo thời gian và điều kiện sống, dòng tộc Việt tăng triển dần, lan rộng và ảnh hưởng các vùng chung quanh. *[11]

2.2. Cư Dân Địa Phương

Khởi nguyên của Tộc Việt và Văn hóa Việt không có nghĩa là Tổ Tiên ta xuất hiện ở những chỗ không người. Cùng với các Ngài và quanh các Ngài, còn có những nhóm người cư dân lâu đời. Theo đà phát triển của dân Việt và Văn hóa Việt, các đặc tính văn hóa và huyết thống của cư dân bản địa đã bị pha loãng dần, không còn ở tỷ lệ đáng kể. *[12]

3. ĐẤT TỔ TỘC VIỆT

 *[13]

3.1. Vùng Đất Đồng Đình.

Việc khởi nguyên và hưng thịnh 1 tộc dân cũng tùy thuộc vào Vùng Đất Tổ, vào các điều kiện về Nhân Sinh. Theo Truyền Thuyết, Tộc Việt phát xuất từ vùng Hồ Đồng Đình, tâm điểm khởi nguyên Tộc Việt.

3.2. Đất Tổ ưu ái

Hồ Đồng Đình ở sát phía nam trung lưu sông Dương Tử, nay là tỉnh Hồ Nam. Mùa khô, hồ gồm 6 hồ nhỏ. Mùa nước, diện tích hồ tăng lên tới 20.000 km2, nhiều phù sa màu mỡ. 6-7000 năm trước, hồ rộng hơn nhiều.

Giữa hồ có hòn đảo lớn với 72 ngọn núi. Đảo thường được coi là nơi ẩn cư của đạo sĩ, nổi tiếng với phong cảnh thơ mộng. Nơi đây có thể được coi là nơi Tộc Việt và nền Văn hóa Việt đã khởi nguyên, tăng triển và lưu truyền lâu dài, phần lớn là nhờ những ưu ái Vùng Đất Nước Đồng Đình. Tuy là nền văn hóa gốc nông nghiệp Lúa nước, nhưng vùng đất Đồng Đình đã giúp cho nền Văn hóa Việt trở thành đặc biệt hơn nhiều văn hóa Lúa Nước khác.

Thành quả Văn Hóa Việt chứng minh các điểm đặc biệt của vùng Đất Tổ.

1. Nơi phát sinh nền Văn hóa Việt đã là một vùng rộng lớn, ruộng đất phì nhiêu, sông hồ thanh khiết, nhiều tôm cá, mưa thuận gió hòa, không khí trong lành... thích hợp cho việc sản xuất thặng dư thực phẩm canh nông và ngư nghiệp, và cho sự sinh sôi nảy nở của Con Người.

Sông nước thanh khiết và khí hậu trong lành giúp con người khỏe mạnh sống lâu, ít bệnh tật, ít trẻ sơ sinh chết sớm, giúp phát triển tài năng, cuộc sống tri thức và tinh thần. Vùng đất không quá gần rừng núi xích đạo rậm rạp ẩm ướt độc hại, cũng không ở nơi lạnh giá, khô cằn, không sức sống.

2. Việc đồng áng và đánh cá thịnh vượng cần tất cả mọi người đóng góp công sức, là cơ hội phần tạo nên quan niệm sống quân bình giữa nam nữ, giữa già trẻ, vợ chồng, giữa cha mẹ con cái, giữa gia đình và cộng đoàn. *[14]

3. Cuộc sống định cư sung túc, bận rộn theo mùa, đã cho mọi người nhiều thời gian rảnh. Nhờ đó, Tộc Việt đã sớm phát triển các ngành nghệ thuật ca ngâm, múa hát, đàn, họa vẽ, ghi chép, võ thuật, điêu khắc, kiến trúc...

Cuộc sống thanh bình sung túc và việc phát triển nghệ thuật, lại cũng giúp con người nhận ra sức sống sáng tạo trỗi vượt của mình, và giúp quân bình quan niệm đóng góp công sức giữa thể chất và tinh thần. *[15]

4. Cuộc sống ít bận tâm tới bon chen, giành xé đã giúp cuộc sống xã hội phát triển tốt đẹp, với nhiều thăng tiến tinh thần, tương thân tình nghĩa qua nhiều hội họp vui chơi, hội hè đình đám, tết lễ... Cuộc sống tâm linh của cộng đoàn theo đó mà khởi phát, với lễ nghĩa, với cưới hỏi, mừng sơ sinh, khao vọng, và nhất là với tang chế.

Cũng từ đó, cuộc sống con người và nhân phẩm được quý trọng thêm, con người nhận ra vị thế đặc biệt của mình trong trời đất, và thêm xác tín về Thế giới Bên kia, với sự hiện hữu và phù hộ của Tổ Tiên Ông Bà.

5. Một yếu tố khác cũng góp phần quyết định việc phát triển và lưu truyền. Đó là vùng Đất Tổ đã không quá gần những tộc dân du mục hiếu chiến.

Nhờ đó, Tộc Việt đã có thời gian dài 4000 năm để tăng nhân số, mở rộng vùng sinh sống, và phát triển vững chắc một nền văn hóa đặc thù, trước khi bị bạo lực du mục từ phương Bắc xâm lăng và cướp phá. *[16]

3.3. Nền Văn hóa tôn quý Con Người

Tất cả đều bổ túc và hỗ trợ nhau, tất cả đều góp phần cho việc tăng triển nhân số nhanh chóng, cho việc khởi phát và kiện toàn một nền văn hóa quân bình giữa vật chất và tinh thần, giữa nam và nữ, giữa cá nhân và xã hội, giữa gia đình và cộng đoàn, giữa làng và nước, 50/50 trong mọi mặt.

Nhờ đó, con người được tôn quý đúng mức, mọi sức sống của con người được bộc lộ và phát triển toàn vẹn trong 1 xã hội trọn vẹn là Người.

4. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VIỆT

4.1. Tên của Tộc Dân

Từ nhiều ngàn năm trước, người Tộc Việt đã ý thức và hãnh diện về một nền văn hóa đặc thù ơn ích, và một nền văn minh kỹ thuật vượt bực, đặc biệt về canh tác và ngư nghiệp. Ngay trong thời kỳ đầu, Tổ Tiên ta đã tự xưng là Việt. Việt còn có nghĩa là Vượt lên trước, đi trước, tiên tiến.

Cùng một tên ‘Việt’, nhưng thời xưa lại có ba chữ để ghi tên ‘Việt’ , , . Mỗi chữ ghi nhớ một đặc điểm nổi bật của Tộc Việt ở một thời kỳ. *[17]

4.2. Tiếng Nói

a. Ngữ pháp

Tiếng Việt khác tiếng Hoa trong từ ngữ, trong giọng điệu, cấu trúc và cách hành văn. Ngữ pháp Việt cũng tinh tế hơn ngữ pháp Trung Hoa. Khác biệt rõ nhất giữa tiếng nói Việt và Hoa là cách đặt trợ từ. Tiếng Việt đặt trợ từ ở sau tiếng chính, tiếng Hoa đặt trợ từ ở trước. *[18]

b. Cách xưng hô. Cách xưng hô bộc lộ mối tương quan giữa con người với con người, và bộc lộ nét đặc thù của một nền văn hóa. Dân Việt có cách xưng hô đối đáp khác với nhiều giống dân khác.

Thay vì dùng những từ ngữ tổng quát với người đối diện, như you, vous, nị... dân Việt dùng những chữ xác định rõ tương quan giữa 2 người. Tiếng Việt dùng những tiếng chỉ tương quan thân thích trong gia đình, như ông, bà, cô, bác, anh, chị, con, cháu... với cả những người mới gặp.

Thay vì gọi nhau bằng tên họ như người Anh, Hoa, Pháp... người Việt luôn gọi nhau bằng tên riêng hoặc tên gọi.

Tên họ nhắc tới dòng họ, tên riêng chỉ chính từng cá nhân. *[19]

Cách trả lời của dân Việt cũng độc đáo. Thay vì trả lời theo câu hỏi, người Việt trả lời theo tâm ý của người hỏi.

4.3. Phong Tục

Văn hóa Tộc Việt biểu lộ qua nhiều phong tục và tập quán đặc thù, khác hẳn với nhiều định kiến do giới thống trị Trung Hoa áp đặt.

Phong tục Việt vẫn trỗi vượt hơn phong tục Trung Hoa, ở tinh thần quý trọng con người, quý trọng tình người, quý trọng nữ giới, vợ chồng bình đẳng, hạn chế kết hôn trong thân tộc, thể hiện nếp sống dân chủ, tinh thần dân tộc... và đặc biệt sự quân bình trong tâm tư, trong quan niệm sống.

Các phong tục đó vẫn tồn tại trong nếp sống đại chúng Việt Nam hiện nay.

4.4. Biểu Tượng

Tộc Việt có biểu tượng Tiên và Rồng với nhiều hàm ý cao siêu tốt đẹp. Tiên Rồng cũng biểu trưng 2 Ông Bà Khởi Tổ của Tộc Việt. Biểu tượng Tiên Rồng có thêm hình ảnh dễ nhớ là phụng và long. Các con số và màu sắc có khác biệt. Tộc Việt phương Nam quý màu đỏ. Người Tộc Việt quý thích số 2, 4, 9, mà ghét số 3. *[20]

Số 9 là số tròn đầy của Tộc Vệt. Dân ta luôn tính theo bội số của số 9. *[21]

4.5. Niềm tin và Tết Lễ

Thờ Trời và thờ kính Tổ Tiên là đặc trưng của Tộc Việt. Người Việt Lạc chúng ta, nay là Việt Nam, đã liên tục thờ Trời và thờ Tổ Tiên suốt bảy ngàn năm qua. Đang khi đó, ở phía Bắc, giới thống trị Trung Hoa lại giành quyền thờ Trời cho vua chúa, và quyền thờ Tổ Tiên cho giới quý tộc. *[22]

Nếp sống Việt lại còn lưu truyền và nổi bật nơi tinh thần và phương thức giáo dục mọi người qua các nghi thức và tục lệ của các ngày Tết Lễ. Từ mấy ngàn năm trước, dân Việt đã chú trọng đến các Tết lễ Tạ Ơn Trời, Tết lễ Mẹ Tiên và Mừng Trăng, Tết lễ Cha Rồng và Mặt Trời, Tết lễ Quốc Tổ, Tết lễ Tổ Tiên và Đầu Năm, Tết Văn Hóa Việt, Tết Xá Tội, Tết Tảo Mộ, Lễ các Vị Anh Hùng...*[23]

4.6. Thiên về Mẫu Hệ

Từ Thời Khởi Nguyên, trong suốt Thời Hùng, và cho đến thế kỷ 6 dl, tức là trong hơn 5500 năm, dân Việt thiên về mẫu hệ. Trên Thạp Đào Thịnh, cách đây 3000 năm, có hình vị Thủ Lãnh là một Bà. *[24]

220 năm sau Thời Hùng, năm 40 dl, trong các anh hùng tái chiếm toàn đất Việt Lạc, có nhiều đội nữ binh, nữ tướng nhiều hơn nam tướng. Người lãnh đạo toàn dân, là Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam Trưng Trắc. *[25]

Sau Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam hơn 200 năm, năm 248 dl, khi sử Trung Hoa phải ghi nhận thêm một cuộc khởi nghĩa khác của dân Nam, thì cuộc khởi nghĩa nầy cũng lại do một nữ nhân lãnh đạo. Vị lãnh tụ đó là Cô thanh nữ 23 tuổi, Bà Vua Triệu. *[26]

Mãi đến năm 541 dl, gần 300 năm sau Bà Vua Triệu, và cách đây chưa được 1.500 năm, sử Trung Hoa mới để lại cho chúng ta tên một nam nhân làm thủ lãnh dân Việt Lạc, Đức Nam Việt Đế, (Đức Lý Nam Đế). *[27]

4.7. Nghề Nông và Nghề Cá, Nghề Biển

Kỹ thuật trồng lúa nước của Tộc Việt đã phát triển tinh xảo. Dân Việt đã sáng tác lịch chỉ dẫn cày cấy, đã phát minh kỹ thuật dùng trâu cày ruộng. *[28]

Cuộc sống thịnh vượng, an nhiên, hiền hòa, đầy tình người, giúp Tộc Việt tạo ra nền văn hóa xứng đáng và trọn vẹn Con Người, cho mọi người. *[29]

Ngoài ra, trên vùng sông nước mênh mông, nghề đánh cá và nghề ghe thuyền của dân Việt cũng đã phát triển tột bực. Cho đến hiện nay, người miền biển vùng Tộc Việt, như dân Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, và Việt Nam, luôn nổi tiếng thành thạo, và là chủ tể về hàng hải quanh vùng.

4.8. Tài Bắn Cung

Tài bắn cung là một đặc điểm của dân Việt Lạc, vùng Việt Thượng. Thời trước, dân Việt Lạc có thể bắn tên vào búi tóc của nhau để truyền tin. *[30]

Thiên tài nầy đã thành truyền thuyết nỏ thần, bắn một phát giết ‘vạn’ quân giặc.  

5. BA GIAI ĐOẠN THỜI KHỞI NGUYÊN

Thời Khởi Nguyên của Tộc Việt, 5000-2879 ttl, có thể chia thành 3 giai đoạn, phát triển ở 3 Vùng chính. 

5.1. Giai đoạn 1 : Lưu vực Đồng Đình và Sông Tương

Đất Tổ Đồng Đình ưu ái cho Tộc Việt phát triển nhanh chóng. Từ vùng Hồ Đồng Đình, Tộc Việt lan ra các vùng chung quanh. Địa lý, sông núi, phong thổ, đã tạo thành nhiều vùng dân cư nhiều đặc tính khác nhau.

Vùng thượng lưu Dương Tử nhiều núi rừng hiểm trở, gây khó khăn cho việc sinh sống đông đúc. Nhiều nhóm người sống rải rác.

Thời đó vùng hạ lưu Dương Tử còn sình lầy, úng nước, chưa thể khai khẩn trồng trọt. Dân chúng tập trung thành những xóm ghe thuyền. Vì vậy, ở giai đoạn nầy, vùng phát triển chính của Tộc Việt là Hồ Đồng Đình và lưu vực Sông Tương. Sông Tương có nhiều đồng ruộng thuận hợp cho việc phát triển  nghề trồng Lúa Nước. Gần 3.000 năm sau, 2070 ttl, với việc Đại Vũ trị thủy, vùng nầy bắt đầu phát triển, trở thành vùng đất Nhà Hạ, vùng Việt Hạ.

5.2. Giai đoạn 2 : Lưu vực Tây Giang

a. Việt Thượng

Khi thêm đông, vì hạ lưu Sông Dương Tử úng nước, và thượng lưu nhiều núi rừng hiểm trở, Dân Việt đã phát triển ngược lên vùng Thượng lưu Sông Tương, nên vùng nầy được gọi là Thượng, Việt Thượng.

b. Vùng Tây Giang

Theo đường sông và thung lũng, vượt thượng nguồn Sông Tương, dân Việt qua Sông Quế xuôi về nam, tới vùng sông lớn Tây Giang. Đây là những con đường nổi tiếng, nối liền Trường Sa, Hàng Dương, Quế Lâm, Liễu Châu.

Thượng nguồn Sông Tương có nhánh Sông Lỗi, qua Sông Bắc, tới cửa biển Tây Giang, là đường Trường Sa, Hàng Dương, Thiều Quan, Quảng Châu.

Nhưng lưu vực Tây Giang không đủ thuận hợp cho Tộc Việt chuyên nghề Lúa Nước và sông hồ phát triển lớn.

c. Chữ NAM : Mặt Trời và Trâu

Trên đường Nam tiến, thời 1621 ttH, 4500 ttl, Dân Việt gặp vùng đất Nắng ấm và Trâu, 2 yếu tố giúp Nghề nông Lúa nước phát triển vượt bực. Vì vậy, Dân Việt vẽ hình Vùng đất có Mặt Trời và Trâu để chỉ phương Nam.

Chữ Nam  gồm : Hình khung, thành chữ Khuynh, chỉ vùng đất ở xa, là nét . Hình Mặt Trời phía trên, thành nét .

Hình con Trâu, với 2 Sừng lớn, 4 Chân và Đuôi, thành . Hình Trâu trở thành chữ Ngưu, trâu, . (2 nét Sừng trở thành nét Đầu và 1 Sừng !).

5.3. Giai đoạn 3 : Lưu vực Sông Hồng Sông Mạ

a. Đường Sông

Vì châu thổ Tây Giang không đủ điều kiện thuận hợp, dân Việt đã từ Tây Giang ngược thung lũng và giòng Sông Tả, vô Bắc Phần Việt Nam. Hiện nay là đường Quảng Châu, Nam Ninh, Lạng Sơn.

Vào các thời kỳ sau, các sứ đoàn Đại Việt thường theo con đường nầy, ngang qua vùng Đồng Đình, lên phía Bắc.

b. Đường Biển

Dân Việt còn theo Tây Giang ra biển, rồi ven theo biển vào Vịnh Bắc Phần, tới vùng Sông Hồng và Sông Mạ. Với thời gian, nhờ vùng đất thuận hợp và phì nhiêu, Dân Việt vùng Sông Hồng Sông Mạ đã trỗi vượt. *[31]

Gần cửa Sông Mạ, ở Thanh Hóa, là vùng di chỉ đúc đồ đồng Đông Sơn.

c. Tuyệt nghệ Vượt Biển

Đi về trên đoạn biển Tây Giang - Sông Hồng giúp tài điều khiển ghe thuyền, (phát triển từ vùng Đất Tổ Hồ Đồng Đình), thành tuyệt nghệ vượt biển.

Hình vẽ chiếc thuyền vượt biển trở thành biểu hiệu của dân Việt phương Nam, sau đó trở thành chữ Việt .

d. Chữ VIỆT Vượt Biển        

Trên đồ đồng Đông Sơn thời tuyệt kỹ, 1000 ttl, Chữ Việt được khắc thành hình vị Thủ lãnh tay cầm cờ hiệu, đứng trên Thuyền chỉ huy đoàn tàu vượt biển. Hình thuyền trên Thạp Đào Thịnh có chữ Việt .

Chữ Việt gồm 2 phần :

1. Phần  có : Đuôi thuyền và Tay lái thành nét . Người cầm lái và 4 Chim trời cùng bay là nét .

2. Phần  có : Vị Thủ lãnh đứng , tay cầm cờ cao  để hiệu lệnh các thuyền khác, thành nét . Mặt la bàn , dựng trên đế  là nét .   Cờ cao  và La bàn  là biểu hiệu quyền hành của vị Thủ Lãnh . *[32]

Trong hình, vị Thủ Lãnh là một Bà, ngực cao, mông lớn. (hình trên).  *[33]

Giữa vị Thủ Lãnh và người Cầm Lái có Người ngồi điều khiển mặt la bàn (trên đế dễ xoay, cho hợp với hướng nhìn của vị Thủ Lãnh). Người nầy không đội mũ cao, tránh che mắt người cầm lái. Đoàn Thuyền vượt biển, thuyền mũi cao, hải âu hộ tống, có la bàn, cờ cao điều động.

- Đây là chữ ‘Việt ’ đầu tiên và phổ quát nhất, được thành hình do những người đi về bằng đường biển giữa Tây Giang và Sông Hồng, khoảng năm 4000 ttl. Tuy nhiên chữ Việt nầy đã được dùng để chỉ toàn thể Dân Việt từ thời Khởi nguyên, năm 5000 ttl, cách đây 7000 năm.

e. Chữ LẠC Rùa Thần

Tới Sông Hồng, khoảng năm 1121 ttH, 4000 ttl, gặp được nhiều Rùa ‘Thần’ khổng lồ, Tổ Tiên vui sướng, hãnh diện, và tin tưởng vào tương lai, nên đã lấy hình Rùa Thần làm Biểu Hiệu và tên Lạc để diễn tả và lưu truyền Niềm Vui Sướng trước Tương Lai huy hoàng của Dòng Tộc.

Từ đó, nhóm Việt vùng Sông Hồng tự xưng là Lạc, Việt Lạc, với chữ Lạc Rùa Thần . Chữ Lạc  còn có nghĩa là vui, yêu thích, vui sướng. *[34]

Chữ Lạc hình Rùa Thần với Đầu, Mu hình chữ nhật, và 4 chân ngắn và to.          

Mu Rùa hình chữ Nhật khác thân mình thon và dài của các loài 4 chân khác. Rùa có 4 chân to và ngắn, các loài 4 chân khác có chân nhỏ và dài. *[35]

5.4. Tỏa lan toàn miền

Như vậy, trong hơn 2000 năm thời Khởi Nguyên, từ 5000 tới 2879 ttl, Tộc Việt đã phát triển đông đúc, với 3 Vùng Phát Triển chính, là lưu vực Đồng Đình Sông Tương, lưu vực Tây Giang, và lưu vực Sông Hồng Sông Mạ.

Tuy nhiên, ngoài 3 vùng chính, Tộc Việt cũng đã có mặt trên khắp miền, từ Hồ Đồng Đình, rải rác dọc theo Sông Dương Tử ra tới Biển, lên phía Bắc tới ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, về miền rừng núi phía Tây tới sông Cửu Long, và xuống phương Nam tới vùng đường ranh Hải Vân.

Từ 2879 ttl, dân Việt Lạc Sông Hồng trỗi vượt, khởi đầu Thời Hùng (tH).

6. NĂM KHỞI NGUYÊN của TỘC VIỆT và VIỆT LẠC

6.1. Ước định Năm Tộc Việt Khởi Nguyên : Năm 2121 ttH, 5000 ttl

Không thể có vết tích gì giúp xác định khởi điểm của Thời Khởi Nguyên, của Ông Bà Khởi Tổ Tộc Việt.

Tuy nhiên, trong khi ở hầu hết mọi Tộc Dân, truyền thuyết về Nguồn gốc chỉ chú trọng tới Một Vị Khởi Tổ, thì Tộc Việt có 2 Vị Khởi Tổ. 2 Ngài trở thành biểu tượng linh thiêng Mẹ Tiên và Cha Rồng. Các Tinh Hệ ảnh hưởng tiêu biểu trên các nền văn hóa lớn, và thời kỳ thịnh vượng tiêu biểu của 1 Kỷ nguyên ở vào khoảng giữa kỷ nguyên. *[36]

Hình Kỷ nguyên Song Sinh 2 Người nắm tay nhau.  *[37]

Thời Khởi Nguyên của Tộc Việt, với 2 Ngài Khởi Tổ, giúp ước định Kỷ Nguyên Song Sinh, 6000-4000 ttl, thời thịnh vượng là những năm 5000 ttl. Lấy Thời Hùng (tH) làm chuẩn, năm Khởi Đầu Tộc Việt, năm 5000 ttl, là năm 2121 trước Thời Hùng (ttH). Thời gian dài 2121 năm cũng đủ để Con Cháu hai Ông Bà Tổ tăng triển thành một Tộc Dân đông đúc, tỏa lan khắp miền, với 3 vùng phát triển chính.

6.2. Việt Lạc Sông Hồng khởi nguyên : năm 1121 ttH, 4000 ttl

Vùng Sông Hồng Sông Mạ đã là vùng phát triển chính thứ 3 và là vùng thuận hợp nhất.

Tổ Tiên Việt Lạc tới định cư và phát triển ở vùng Sông Hồng Sông Mạ khởi đầu khoảng 1000 năm sau khi Tộc Việt Khởi Nguyên, tức năm 1121 trước Thời Hùng (ttH), năm 4000 ttl, cách đây 6000 năm. Thời đó, vì hạ lưu Sông Hồng ngập nước, vùng định cư chính là vùng trung lưu Sông Hồng và vùng Sông Mạ. Trị sở là Việt Trị, nay là Việt Trì.

Trong 1121 năm từ định cư tới đầu Thời Hùng, từ 4000 tới 2879 ttl, Dân Việt Lạc Sông Hồng Sông Mạ phát triển trỗi vượt hơn các nhóm dân chung quanh, như được ghi nhận trong Thời Hùng.

*********

IV. TỘC VIỆT THỜI HÙNG 1, 1-809 Thời Hùng (tH), 2879-2070 ttl

TAM HOÀNG NGŨ ĐẾ LÀ DÂN VIỆT

1. DẪN NHẬP

1.1. Việt và Hoa

Theo truyền thuyết Việt, Tộc Việt khởi nguyên từ vùng Hồ Đồng Đình. Theo khảo cổ hiện nay, từ hơn 6000 năm trước, vùng Hồ Đồng Đình đã phát triển nghề trồng lúa nước.

Theo lịch sử hiện nay, tộc Hoa thành hình do bộ tộc Chu gom góp một số bộ lạc du mục ở vùng Thiểm Tây. Sau đó họ kéo về thung lũng Sông Vị, và thành lập Nhà Chu năm 1046 ttl, cách đây 3000 năm.

Tuy vậy, theo sách vở Trung Hoa, tộc Hoa có một tiền sử dài mấy ngàn năm trước khi tộc Hoa thành hình. Đang khi đó, sách vở Trung Hoa lại ghi là dân Việt, Trăm Việt, từ sông Dương Tử xuống phía Nam, là tộc dân sơ khai mọi rợ, không có quá khứ, không có truyền thuyết thời tiền sử.

Trái khuấy là tộc Hoa du mục tụ tập cách đây 3.000 năm thì có truyền thuyết dài mấy ngàn năm của thời tiền sử. Còn dân Việt hơn 6.000 năm phát triển ở vùng lúa nước Hồ Đồng Đình lại không có truyền thuyết hoặc tài liệu đáng kể.

1.2. Hoa cưỡng chiếm

Đây chẳng qua là kết quả của vụ cướp đoạt lớn nhất lịch sử nhân loại. Người Tộc Hoa đã hủy hoại, cướp đoạt, sửa đổi, và nhất là, lạm nhận quá khứ, tiền sử, lịch sử, truyền thuyết, phát minh, kỹ thuật, chữ viết, học thuyết, Sách vở, và tất cả mọi hay tốt... của Tộc Việt, đặc biệt của dân Việt Lạc vùng Sông Hồng.

Ngày nay, dựa vào khảo cổ chính Sách vở Trung Hoa, chúng ta tìm lại dấu vết của Tổ Tiên Việt, trên đất nước Việt Nam, và c trên toàn vùng đất Tộc Việt, lên tới trên đường ranh thiên nhiên ở Sông Hoài và Tần Lĩnh.

1.3. Hai Tộc Dân

a. Hai thời điểm

Tộc Việt khởi nguyên từ 7000 năm trước. Tộc Hoa thành hình từ 3.000 năm trước.

b. Hai Vùng Đất Tổ

Tộc Việt phát triển vùng Hồ Đồng Đình, Lúa Nước, gạo, nhiều mưa, nhiều sông, nắng ấm... ở phương Nam.

Tộc Hoa phát nguyên từ vùng Thiểm Tây, khô cằn, giá lạnh, vùng lúa khô, lúa mì, miến, kê... ở phương Tây Bắc.

Đường ranh thiên nhiên giữa hai vùng, thời xưa cũng như hiện nay, là đường nối Sông Hoài - Tần Lĩnh. *[38]

c. Hai nền Văn hóa

Tộc Việt với nền văn hóa gốc Nông nghiệp Lúa nước : định cư lâu dài, ít di chuyển, có cuộc sống cộng đoàn, hòa hợp với thiên nhiên, hiếu hòa, trọng nghệ thuật, thiên về mẫu hệ...

Tộc Hoa có nền văn hóa gốc Du Mục : trọng sức mạnh, trọng phái nam, hiếu thắng, trọng võ nghệ, thiên về phụ hệ...

- Những phân biệt trên sẽ giúp nhận ra nguồn gốc đích thực của truyền thuyết và di tích cổ xưa.

2. THỜI HÙNG

2.1. Hai Truyền thuyết Việt, Hoa

a. Thời Hùng 2879-180 ttl

Theo truyền thuyết Việt Lạc, Thời Hùng khởi đầu từ năm 2879 ttl và kéo dài tới năm 180 ttl.

Năm 2879 ttl đánh dấu sự kiện Tộc Việt đã tỏa lan khắp vùng đất rộng lớn từ Đồng Đình ra tới biển, Bắc giáp ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, miền rừng núi phía Tây tới Sông Cửu Long, và phía Nam tới vùng ranh Hải Vân.

Thời Hùng chấm dứt năm 180 ttl, khi đoàn quân của Triệu Đà chiếm đóng Cổ Loa, trị sở của Việt Lạc.

b. Sách vở Trung Hoa

Theo sách vở Trung Hoa, thời Tam Hoàng khởi đầu năm 2852 ttl. Như vậy, Thời Hùng của Việt Lạc gồm trọn các thời Tam Hoàng, Ngũ Đế, Hạ, Thương, Chu, Tần và 26 năm đầu Nhà Hán của sách vở Trung Hoa.

c. Tộc Hoa

Tộc Hoa thành hình do tập hợp nhiều bộ lạc du mục vùng Thiểm Tây, phía tây bắc đường ranh Sông Hoài Tần Lĩnh.

Họ thành lập Nhà Chu từ năm 1046 ttl, là 1800 năm sau các truyền thuyết Thời Hùng và thời Tam Hoàng Ngũ Đế.

Trước khi tụ họp và lập Chu năm 1046 ttl, tộc Hoa chỉ là các bộ lạc du mục lạc hậu sơ khai, chưa tập hợp đông đúc, chưa có tổ chức xã hội phức tạp, chưa thể chiếm những vùng đất có biên cương cố định và rộng lớn.

Về văn hóa, họ chưa tới thời kỳ ghi nhận và sáng tạo những truyền thuyết súc tích, mạch lạc, và có hệ thống.

d. Tộc Việt

Tộc Việt phát xuất từ vùng Hồ Đồng Đình từ 5000 ttl, gần 4000 năm trước khi tộc Hoa thành hình.

Vùng nông nghiệp lúa nước là nguồn phát xuất các truyền thuyết súc tích, thâm thúy, xa xưa nhất của nhân loại. *[39]

e. Thực tế Lịch sử

Theo thực tế lịch sử, Nhà Chu, 1046 ttl, chỉ là tổ xa của tộc Hoa. Tổ gần của tộc Hoa là nhóm du mục Khuyển Nhung. Nhà Chu chiếm cứ vùng thung lũng Sông Vị từ năm 1046 tới 771 ttl, thường gọi là Tây Chu.

Năm 771 ttl, cách đây chưa đầy 2800 năm, nhóm du mục Khuyển Nhung từ phương Bắc tràn xuống xâm chiếm vùng Sông Vị và đuổi Nhà Chu chạy về vùng Lạc Dương. Nhà Chu trở thành Đông Chu.

Nhóm du mục Khuyển Nhung nầy thành lập Nhà Tần, và ngày càng thêm hùng mạnh. Nhà Tần lên tới tuyệt đỉnh khi Tần Thủy Hoàng thôn tính các nước trong vùng, và thành lập nước Trung Hoa năm 221 ttl. Năm 206 ttl Hán lật đổ Tần. Vì vậy, Nhà Hán, 206 ttl - 220 dl, đã xuyên tạc và tuyên truyền giảm thiểu quyền lực và ảnh hưởng Nhà Tần.

Do đó, tất cả sách vở Trung Hoa đều tôn vinh Nhà Chu làm mẫu mực thần thánh cho ‘Thiên triều’, cho quyền thống trị của vương triều Hán, và của tất cả các triều đại trong suốt lịch sử Trung Hoa. Chủ trương nầy đã tạo ra chủ thuyết ‘Thiên tử thế Thiên hành Đạo’. *[40]

2.2. Điều kiện Địa Lý thiên nhiên Thời Hùng

a. Vùng Hoàng Hà sơ khai

Vùng Hoàng Hà, phía Bắc ranh giới thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, phát triển từ thời Nhà Thương 1600-1046 ttl.

Vùng thung lũng Sông Vị ở Thiểm Tây lại khởi phát thời gian ngắn trước Nhà Chu, 1046 ttl. Thiểm Tây là vùng đồng cỏ khô cằn cóng lạnh, chỉ thích hợp với nghề chăn nuôi du mục, trồng lúa khô, lúa mạch, bo bo... và phát sinh ra nền văn hóa gốc du mục. *[41]

b. Vùng Lúa nước Đồng Đình và Sông Hồng

Theo điều kiện địa lý và khí hậu, theo di tích của thời cách đây 5000 năm, vùng Đồng Đình và vùng Sông Hồng Sông Mạ là 2 trung tâm phát triển nông nghiệp Lúa Nước của vùng Á Đông Xưa.

Vùng nông nghiệp Lúa Nước phát triển ở những đồng bằng nhiều nước, nhiều mưa, nhiều nắng ấm, có nhiều thổ sản, thủy sản, phương tiện... khác hẳn vùng khô cằn cóng lạnh. Vùng lúa nước tăng trưởng nền văn hóa với nhiều đặc tính khác hẳn vùng du mục khô cằn. Đây là thời kỳ Dân Việt Lạc vùng Sông Hồng khởi đầu Thời Hùng. *[42]

c. Ngày nay, căn cứ  trên khảo cổ, trên cấu trúc dị biệt giữa tiếng Việt và tiếng Hoa,

- trên những đặc tính trái ngược giữa hai nền văn hóa gốc nông nghiệp lúa nước và gốc du mục,

- trên những khác biệt về thổ ngơi, khí hậu, hình thể địa lý, thổ sản... giữa hai vùng Nam và Bắc đường ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh... Có nhiều chứng tích về đặc tính Việt nông nghiệp Lúa Nước, nơi tất cả những nhân vật truyền thuyết sinh sống thời trước khi Tộc Hoa thành hình.

2.3. Bốn Thời Kỳ Thời Hùng

a. Niên đại Việt

Trước khi tộc Hoa thành hình, tất cả truyền thuyết là của Tộc Việt.

Các triều đại truyền thuyết trong sách vở Trung Hoa, chỉ là một phần nhỏ của di tích Tộc Việt đã bị dân Hoa lạm nhận. Sách vở Trung Hoa cũng không đề cập đến nhiều phần đất rộng lớn khác của Tộc Việt.

Thời Hùng dài từ năm 2879 ttl tới năm 180 ttl, tức là từ năm 1 Thời Hùng (tH) tới năm 2699 tH.

2 truyền thuyết Việt - Hoa có niên đại gần giống nhau, thời Hùng chia theo 4 thời kỳ, mỗi Thời có 2 hoặc 3 giai đoạn.

b. Bốn Thời Hùng

1. Thời Hùng 1 : 1-809 Thời Hùng (tH), 2879-2070 ttl, gồm cả thời Tam Hoàng Ngũ Đế. Thời nầy có 2 giai đoạn :

Thời Hùng 1A : 1-179 tH, 2879-2700 ttl, gồm cả thời Tam Hoàng.

Thời Hùng 1B : 179-809 tH, 2700-2070 ttl, gồm cả thời Ngũ Đế.

2. Thời Hùng 2 : 809-1279 tH, 2070-1600 ttl, gồm cả thời Hạ :

Thời Hùng 2A : 809-1079 tH, 2070-1800 ttl, gồm cả Tiền Hạ.

Thời Hùng 2B : 1079-1279 tH, 1800-1600 ttl, gồm cả Hậu Hạ.

3. Thời Hùng 3 : 1279-1833 tH, 1600-1046 ttl, gồm cả thời Thương :

Thời Hùng 3A : 1279-1579 tH, 1600-1300 ttl, gồm cả Tiền Thương.

Thời Hùng 3B : 1579-1833 tH, 1300-1046 ttl, gồm cả Hậu Thương / Ân.

4. Thời Hùng 4 : 1833-2699 tH, 1046-180 ttl, gồm :

 Thời Hùng 4A : 1833-2108 tH, 1046-771 ttl, đồng thời với Tây Chu / Sở.

 Thời Hùng 4B : 2108-2672 tH, 771-207 ttl, đồng thời với Đông Chu / Tần.

Thời Hùng 4C : 2672-2699 tH, 207-180 ttl, Việt Lạc với Triệu Đà.

3. TRUYỀN THUYẾT THỜI HÙNG 1, năm 1-809 Thời Hùng (tH), 2879-2070 ttl

3.1. Thời Hùng 1 và Tam Hoàng Ngũ Đế

Theo truyền thuyết, Thời Hùng 1, 1-809 tH, 2879-2070 ttl, cũng là thời Tam Hoàng Ngũ Đế, tức là từ hơn 1800 tới 1000 năm trước khi tộc Hoa thành hình ở vùng thung lũng Sông Vị, phía Tây Hoàng Hà. *[43]

Nhưng trong  3.000 năm qua, Trung Hoa đã lạm nhận mọi truyền thuyết xa xưa, và biến tất cả truyền thuyết và danh nhân của thời chưa có Tộc Hoa trở thành tiền sử của Tộc Hoa. Do đó, sách vở Trung Hoa đã chuyển dời tất cả từ Hồ Đồng Đình lên vùng Hoàng Hà, Sông Vị.

Dầu giới thống trị Trung Hoa cố gắng cải sửa, cũng không thể đánh lận mọi chi tiết được truyền tụng trong đại chúng.

Đọc tiểu sử của các Vị, có thể tìm lại nguồn gốc Việt đích thực của những truyền thuyết thời Tam Hoàng Ngũ Đế.

3.2. Tam Hoàng

a. Thời chưa có Chữ Viết

Theo sách vở Trung Hoa, đây là thời tiên khởi của lịch sử Trung Hoa. Trung Hoa cũng coi các Ngài là người Tộc Hoa, và do đó, quê hương các Ngài ở vùng Hoàng Hà. Đây lại là thời kỳ chưa có chữ viết, chưa có tài liệu ghi chép. Tất cả đều chỉ là truyền thuyết, hoặc di cốt, dụng cụ.

Vì người Hoa coi các Ngài là người Tộc Hoa, và do đó, quê hương các Ngài ở vùng Hoàng Hà. Đây lại là thời kỳ chưa có chữ viết, chưa có tài liệu ghi chép. Tất cả đều chỉ là truyền thuyết, hoặc di cốt, dụng cụ.

b. Nhiều Danh sách. Danh sách các Ngài, dĩ nhiên, không đồng nhất. Có ít nhất là 6 dị bản.

Vận Đẩu Xu và Nguyên Mệnh Bao cho rằng 3 vị là Phục Hy, Nữ Oa và Thần Nông.

Sử Ký do Tư Mã Thiên, quyển ‘sử’ được tín nhiệm nhất của Trung Hoa, cho rằng Tam Hoàng gồm có ‘Thiên Hoàng cai trị 18.000 năm, Địa Hoàng cai trị 11.000 năm, Nhân Hoàng cai trị 45.600 năm ! *[44]

c. Tiểu sử phỏng định

Tiểu sử của Tam Hoàng càng mơ hồ, quái dị. Coi các Ngài là những vị thần tiên, đã hóa phép để giúp dân. Nếu các Ngài có thật, thì các Ngài đã sống vào thời chưa có chữ viết, những người viết tiểu sử các Ngài đã sống sau các Ngài 2-3.000 năm. Ngoài vài nét khái quát của truyền thuyết, người viết tiểu sử không có bất cứ tài liệu, chứng tích nào.

Vì vậy, họ theo trí tưởng tượng, thiên kiến, và nhất là theo những tuyên truyền cưỡng định của giới thống trị Trung Hoa đương thời, mà phỏng định và thay đổi. *[45]

3.3. Thời Ngũ Đế

Ngũ Đế có nhiều giả thuyết. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên, Ngũ Đế gồm Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. *[46]  5 vị Đế đã khai hóa người dân, chế ra lửa, dạy làm nhà, mặc quần áo, trồng ngũ cốc, chài lưới... dạy chữ viết, lễ nhạc, lễ nghĩa. Thời kỳ các Ngài biểu trưng thời thái bình thịnh vượng, an cư lạc nghiệp. *[47]

4. YẾU TỐ VIỆT NƠI TAM HOÀNG NGŨ ĐẾ

4.1. Tên Việt

Tên của 5 trong số 8 Vị thời Tam Hoàng Ngũ Đế hiện nay vẫn được sách vở Trung Hoa ghi tên theo cấu trúc Tiếng Việt, ngược với ngữ pháp Hoa : Nữ Oa, Thần Nông, Đế Khốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Theo cách người Hoa, tên các Ngài phải là Oa Nữ, Nông Thần, Khốc Đế, Nghiêu Đế, Thuấn Đế. Đặc biệt là trong hơn 3.000 năm qua, trong khi giới thống trị Trung Hoa đã làm đủ cách để xóa bỏ mọi vết tích Việt, tên các Ngài vẫn tồn tại theo cách nói Việt.

Dầu giới thống trị Trung Hoa xuyên tạc, đại chúng Tộc Việt vẫn kính nhớ và lưu truyền Tên thần thánh của Tổ Tiên.

4.2. Tiểu sử Tam Hoàng : văn hóa Việt, ở vùng Lúa Nước

Ngoài tên tiếng Việt, tiểu sử của Tam Hoàng còn có các yếu tố Việt khác :

- Nữ Oa mặc lông chim, Phục Hy có Tám Quẻ trên sông Lạc. Phục Hy và Nữ Oa có đuôi như rắn quấn vào nhau.

Rắn là Long của thời khởi nguyên, chim là hiện biểu của Tiên... Tiên Rồng là biểu tượng của Tộc Việt phương Nam.

Đang khi đó, vật tổ của vùng Hoàng Hà là gấu, vật tổ của dân du mục Thiểm Tây là chồn và chó sói.

- Thần Nông là Vị Thần của nông nghiệp. Chỉ có Dân vùng lúa nước ở phương Nam mới thờ Thần Nông. Phương Bắc là vùng khô cằn giá lạnh, du mục chăn nuôi, không quí trọng nghề nông, và không thờ thần Nông nghiệp.

Thần Nông là con của Thần Long. Long là biểu tượng của dân Việt, có tên là Viêm Đế, vua xứ nóng ở phương Nam.

4.3. Tiểu sử Ngũ Đế

Ngũ Đế đều thuộc nền văn minh và văn hóa Việt, ở vùng nắng ấm và nông nghiệp lúa nước.

a. Hoàng Đế

Hoàng Đế là Hiên Viên, dạy làm nhà, đóng xe thuyền, chế kim chỉ nam, y thuật, nuôi tằm dệt lụa, được Rồng vàng rước về trời. *[48] Tất cả đều là nền văn minh lúa nước, phương Nam. Rồng vàng là biểu tượng của Tộc Việt. *[49]

b. Chuyên Húc

Chuyên Húc là nữ giới, sau khi chết Chuyên Húc biến thành Bà Tiên Cá. *[50]

Nữ giới làm Đế, hoặc thành Bà Tiên, cũng đều ghi nhận chế độ mẫu hệ nông nghiệp của Tộc Việt đương thời. *[51]

c. Đế Khốc 

Đế Khốc dạy cách trồng trọt, theo luật vận động của mặt trời, mặt trăng mà đặt ra lịch, thành kính lo cúng tế... Lịch là thành quả của nếp sống nông nghiệp lúa nước. Cúng tế là đặc điểm của dân Việt phương Nam.

d. Đế Thuấn

Trong Ngũ Đế, 2 Vị cuối cùng có tiểu sử chi tiết hơn, và gần thực tế nhất. *[52]

Vị cuối cùng là Đế Thuấn, v. 762-809 tH, 2117-2070 ttl.

Truyền thuyết Trung Hoa đã dời thủ đô của Đế Thuấn lên Bồ Phản, thuộc Sơn Tây. Tất cả chi tiết tiểu sử Đế Thuấn hoàn toàn ở vùng phía Nam sông Dương Tử. Trước khi gặp Đế Nghiêu, Đế Thuấn đi cày, được voi cày giúp. Voi là thú ở phương Nam nắng ấm, không sống ở vùng Bắc Sông Hoài Tần Lĩnh. Cày ruộng là kỹ thuật của vùng lúa nước.

Khi Đế Thuấn giúp Đế Nghiêu, Đế Nghiêu cử Đế Thuấn đi khai khẩn đất ở Nam Giao, phía Nam sông Dương Tử.

Đế Nghiêu gả cho Thuấn 2 con gái, là Nga Hoàng và Nữ Anh. Năm 762 tH, 2117 ttl, Thuấn nối quyền Đế Nghiêu.

Đế Thuấn chết ở Thương Ngô, Quảng Tây ngày nay, năm 809 tH, 2070 ttl.

2 bà vợ của Đế Thuấn thương khóc Đế Thuấn và tự trầm ở dòng sông Tương. Đến nay, 2 Bà vẫn được dân vùng sông Tương thờ kính. Sông Tương là sông lớn nhất trong 4 phụ lưu từ phía Nam chảy vào Hồ Đồng Đình. Trên sông Tương có Trường Sa, thủ phủ nổi tiếng từ thời xa xưa.

Đế Thuấn cày ruộng ở phương Nam, rồi làm quan, cưới vợ, cai trị, và chết ở phương Nam, vùng Đồng Đình.

e. Đế Nghiêu

Theo sách vở Trung Hoa, Đế Nghiêu, v. 683-762 tH, 2196-2117 ttl, ở vùng Hoàng Hà. Theo truyền thuyết, năm Đế Nghiêu thứ 5, 688 tH, 2191 ttl, Sứ giả Việt Thượng dâng Rùa Thần ngàn năm, trên mu có khắc chữ về chuyện đất trời vận chuyển và lịch trình cày cấy. Đế Nghiêu sai chép lại và gọi là Lịch Rùa, quy lịch. *[53]

Đế Thuấn sống ở vùng sông Tương gíup tìm ra tông tích Đế Nghiêu. Đế Nghiêu là vua và cha vợ của Đế Thuấn.

Đế Nghiêu ở vùng Hoàng Hà du mục khô cằn lúa khô, thì :

- Ông không thể áp dụng lịch trình cày cấy lúa nước của lịch rùa, phải đi mấy trăm cây số, dẫn theo 2 cô công chúa,

- tìm chàng nông dân cày ruộng ở phương Nam, gả hai con gái,

- cho Thuấn cai trị phương Nam, là vùng đất không thuộc quyền cai trị ông.

Tất cả đều không thuận hợp cho việc di chuyển Ông lên vùng Hoàng Hà, mà  thành tự nhiên khi Ông và gia đình sống tại vùng Sông Tương, Đồng Đình.

4.4. Dân vùng Lúa nước Đồng Đình

Liên tục từ Tam Hoàng tới hết Ngũ Đế, tất cả 8 Vị đều sống và chết ở tại vùng lúa nước Đồng Đình. Không Vị nào ở vùng Hoàng Hà du mục khô cằn giá lạnh. Đây là chuyện đương nhiên, vì truyền thuyết về tất cả các Vị đều đã hơn 1.000 năm trước khi vùng Hoàng Hà hưng phát, trước khi Tộc Hoa thành hình. Tiểu sử của tất cả các Vị đều là truyền thuyết của dân Việt, đều phát xuất từ vùng Đồng Đình. Từ sau năm 1833 tH, 1046 ttl, các Vị bị giới thống trị Trung Hoa lạm nhận, chuyển đổi nơi sinh, và 1 số điểm trong tiểu sử, lên vùng Hoàng Hà.

5. Ba TRUNG TÂM VIỆT THỜI HÙNG 1

5.1. Tiếp tục Phát Triển

Nối tiếp Thời Khởi Nguyên, ở Thời Hùng 1, Tộc Việt tiếp tục phát triển vững mạnh ở 3 vùng chính, là Đồng Đình - Sông Tương, Tây Giang, và Sông Hồng, với nền văn minh và văn hóa Nông nghiệp Lúa nước.

Đang khi đó, ở thời kỳ nầy, ở Bắc Tần Lĩnh, vùng Hoàng Hà Sông Vị, chưa có dấu hiệu phát triển. Dân trong vùng chỉ là những bộ lạc du mục sơ khai.

5.2. Vùng Đồng Đình Thời Hùng 1

Tất cả mọi truyền thuyết về Tam Hoàng Ngũ Đế, thuộc Thời Hùng 1, đều phát xuất từ vùng Đồng Đình.

Đây là chuyện đương nhiên, vì Tộc Việt khởi nguyên ngay tại trong vùng.

Đến nay, sự phồn thịnh quan trọng của vùng nầy vẫn âm hưởng trong chữ viết và nghĩa của tên Đồng Đình .

Chữ Đình trước đây gồm chữ Vương . Nay viết thành chữ Nhâm .

Chữ Đình với Vương đứng trên Thuyền , chữ Việt với Thủ Lãnh  trên Thuyền vượt biển . *[54]

Chữ Đình trong chữ ‘Triều Đình’ là nơi vua quan làm việc Nước. Chữ Đồng nghĩa là cùng chung, tụ họp.

Hai chữ Đồng Đình dùng để chỉ nơi tụ họp của sinh hoạt đầu não của Tộc Việt ở thời Khởi Nguyên. *[55]

5.3. Vùng Tây Giang Thời Hùng 1

Trong thời kỳ nầy, vùng phát triển Tây Giang, thủ phủ là Phiên Ngung, chỉ còn lại truyền thuyết Đế Thuấn chết ở Thương Ngô năm 809 tH, 2070 ttl, kết thúc Thời Hùng 1. Đây là dấu chỉ trong suốt Thời Hùng 1, ngoài việc sách vở Trung Hoa đã gian lận và không ghi chép, vùng Tây Giang đã không có những tiến triển đặc biệt.

5.4. Vùng Sông Hồng Thời Hùng 1

a. Nhiều thuận hợp

Với nhiều thuận hợp về thủy thổ, đồng ruộng, sông hồ, và khí hậu, vùng Sông Hồng Sông Mạ đã phát triển mạnh, trở thành trung tâm của Việt Thượng. Do đó, những kỳ tích của vùng Sông Hồng được coi là truyền thuyết của Việt Thượng. Trị sở của Dân Việt Sông Hồng là Việt Trị. *[56]

b. Rùa Thần Sông Hồng

Chủ trương và sách vở Trung Hoa đã đánh lận, di chuyển thời tiền sử của Tộc Việt vùng Đồng Đình trở thành nguồn gốc tộc Hoa ở vùng Hoàng Hà. Dầu vậy, truyền thuyết Sứ giả Việt Thượng dâng Rùa Thần ngàn năm cho Đế Nghiêu năm thứ 5, năm 688 tH, 2191 ttl, được lặp đi lặp lại nhiều lần. *[57]

Rùa khổng lồ ngàn năm là loại ba ba đặc biệt vùng Sông Hồng. Hiện nay ba ba khổng lồ vẫn còn sinh sống ở nhiều nơi trong lưu vực Sông Hồng và Sông Mạ. Hồ Hoàn Kiếm và Tháp Rùa đã nổi tiếng nhờ loại ba ba nầy. Rùa ba ba hiện chưng ở đền Ngọc Sơn dài 2,1 m, ngang 1,2 m, nặng 250 kg.

Tên khoa học của loại ba ba nầy là Rafetus Swinhoei. (hình).

Năm 2013 dl, ngoài lưu vực Sông Hồng Sông Mạ, chỉ còn 2 con ba ba loại nầy ở sở thú Tô Châu.

Ở khắp vùng Việt Thượng, không có loại rùa ba ba khổng lồ nào khác. *[58]

c. Sông Hồng trỗi vượt

Theo điều kiện địa lý và khí hậu, theo di tích của thời cách đây 5.000 năm, vùng Đồng Đình và Sông Hồng đã là 2 trung tâm phát triển nông nghiệp lúa nước của Á Đông Xưa.

Truyền thuyết Đế Nghiêu lại ghi nhận trên mu Rùa Thần Việt Thượng có khắc chữ ghi việc trời đất vận chuyển, và lịch chỉ dẫn thời tiết trồng cấy. Đế Nghiêu chép lấy, gọi là lịch Rùa.

Thời Đế Nghiêu, cách đây 4.200 năm, Dân Việt vùng Sông Hồng đã vượt trỗi hơn vùng Đồng Đình của Đế Nghiêu, về kỹ thuật và kinh nghiệm nông nghiệp Lúa Nước, về chữ viết, thời tiết, đất trời vận chuyển, thiên văn.

Đây là chứng cứ súc tích ghi nhận sự phát triển tiên tiến về văn minh, văn hóa, văn học của Dân Việt Sông Hồng. Vùng Sông Hồng là Trung tâm Phát triển bậc nhất của Tộc Việt và của toàn vùng Á Đông cách đây hơn 4.000 năm.

Dân Việt Sông Hồng lưu truyền giai đoạn đặc biệt nầy với truyền thuyết : ‘Việt Nam có 4.000 năm văn hiến’. Hiện nay, đích xác là 4.200 năm. *[59]

d. Chữ Thượng Nhà sàn 常

Theo sách vở xưa và khảo cổ hiện nay, đặc điểm của Việt Thượng là nhà sàn mái cong. Trên mặt trống Ngọc Lũ, và trên nhiều trống đồng Đông Sơn khác, có hình nhà sàn mái cong đã trở thành chữ Thượng . *[60]

Hình 2 đầu nóc nhà cong lên trở thành hai nét .  Hình khuôn nhà, (trong có người ngồi), trở thành nét  .

Hình vẽ mái nhà, chim đậu trên nóc, và 2 đầu hồi nhà, trở thành nét .   3 chân của sàn nhà là nét .

Nhà sàn là đặc điểm kiến trúc bảo đảm an toàn cho sức khỏe con người ở miền Thượng, giảm bớt tiếp xúc với khí độc do lá cây ủ nhiều ngàn năm. Hình ảnh nhà sàn là chứng cứ nhánh Việt Lạc vùng lúa nước Sông Hồng đã có cuộc sống phát triển mạnh, đã tăng triển đông đúc và tiến bộ hơn những vùng Việt ở phương Bắc.

e. Việt Lạc Việt Thượng - Lĩnh Nam

Theo địa lý, chủng tộc, và lịch sử, vào Thời Hùng 1, 1-809 tH, 2879-2070 ttl, toàn vùng đất rộng lớn, từ thượng lưu Sông Tương xuống phía Nam, là vùng Việt Thượng của dân Việt Lạc, với trung tâm là lưu vực Sông Hồng, trị sở là Việt Trị. Ngày nay, Việt Thượng của Việt Lạc bao gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, một phần Phúc Kiến, một phần Vân Nam, Lào, và phía Bắc Việt Nam, xuống tới Hải Vân. *[61]

Đây cũng là vùng đất mà từ thời Hán, hơn 2000 năm qua, đã được sách vở Trung Hoa gọi là Lĩnh Nam, tức là phía nam Ngũ Lĩnh, còn gọi là Nam Lĩnh, là vùng Việt Thượng. Việt Lạc sau nầy còn bao trùm cả Quí Châu, Hồ Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến.

5.5. Vùng Hạ lưu Sông Dương Tử

Vào cuối Thời Hùng 1, tức là gần 2000 năm sau Thời Khởi Nguyên, vùng hạ lưu Sông Dương Tử đã được dòng nước bồi đắp phù sa, nhiều nơi cao đã có thể được khai thác rộng lớn hơn, dân cư đông đúc hơn.

V. TỘC VIỆT THỜI HÙNG 2 - 809-1279 tH, 2070-1600 ttl

NHÀ HẠ ĐẤT HẠ LÀ CỦA TỘC VIỆT

1. DẪN NHẬP

Suốt mấy ngàn năm qua, Trung Hoa luôn coi Đại Vũ, người sáng lập Nhà Hạ, là một trong ba Thánh Vương của Trung Hoa, ở vùng Hoàng Hà, và là người được khắp ‘thiên hạ’ thần phục...

Hiện nay, Dầu trái ngược với nhận định của các nhà khảo cổ Âu Mỹ, Trung Hoa cũng đang cố gắng dựa vào khảo cổ để giải thích vùng đất Nhà Hạ nằm trong lưu vực Hoàng Hà, nơi phát sinh tộc Hoa.

Tuy nhiên, sách vở Trung Hoa thời Chu, cách đây 3.000 năm, đã ghi nhận con cháu Nhà Hạ không phải người Hoa, cũng không ở vùng Hoàng Hà. Họ là những dân nước hùng mạnh ở hai bên bờ sông Dương Tử, nơi có Hồ Đồng Đình, và là người Tộc Việt.

Trước khi so sánh tiểu sử Đại Vũ, cũng do sách vở Trung Hoa ghi chép, để tìm ra quê hương đích thực của Đại Vũ, và của vùng Đất Hạ, cần phân biệt 2 vùng đất, với những đặc tính khác biệt nhau, ở 2 bên Bắc và Nam đường ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh. Vùng Thiểm Tây phía Bắc Tần Lĩnh, nơi phát xuất tộc Hoa, là vùng khô cằn giá lạnh, và phát sinh nền văn hóa gốc du mục. Vùng đất Tộc Việt ở phía Nam ranh Sông Hoài Tần Lĩnh là vùng nhiều nước và nắng ấm, và phát sinh nền văn hóa nông nghiệp Lúa nước. *[62]

2. VIỆT HẠ và NHÀ HẠ

2.1. Tài liệu về Nhà Hạ

Theo sách vở Trung Hoa, Nhà Hạ ở vào thời 809-1279 tH, 2070-1600 ttl.

Theo nhiều nhà sử học hiện nay, Nhà Hạ được coi là truyền thuyết, chưa đủ dữ kiện để xác định tính cách lịch sử.

Không có tài liệu và di tích đương thời về các vị vua Nhà Hạ, trừ một số cốt lõi của truyền thuyết. Thời Nhà Hạ, chữ viết chưa phổ biến. Tất cả mọi sách vở về Nhà Hạ đều được sáng tác sau Nhà Hạ cả ngàn năm.

Sách vở Trung Hoa, kể cả khảo cổ hiện nay, không ghi rõ biên cương của vùng đất được coi là thuộc Nhà Hạ.

Dầu vậy, Trung Hoa luôn quả quyết vùng đất Nhà Hạ ở lưu vực Hoàng Hà gần sông Vị, và tất cả mọi sắc dân xa gần đều là chư hầu của Nhà Hạ.

2.2. Việt Hạ và Nhà Hạ

Căn cứ vào truyền thuyết cổ xưa, - căn cứ vào chiều hướng phát triển của các tộc dân, - căn cứ vào tài liệu khảo cổ hiện đại, nhất là - căn cứ vào khí hậu, phong thổ thời xưa, - vào sông nước, thổ sản, - vào các thành tố văn minh, văn hóa, chủng tộc, ngôn ngữ, văn tự,  thì đất Nhà Hạ vùng Việt Hạ của Tộc Việt, và 2 bên bờ Hạ lưu sông Dương Tử.

Thời nầy, ngoài Đất Hạ của Nhà Hạ, Tộc Việt còn các trung tâm lớn Đồng Đình, Việt Thượng và các vùng liên hệ.

3. ĐẠI VŨ : ÔNG TỔ NHÀ HẠ      

3.1. Đại Vũ trị thủy

a. Mười Ba Năm

Thời đó vùng Đất Hạ là vùng úng nước, chưa thích hợp phát triển lớn. Cha của Đại Vũ đã thất bại đào kinh thoát nước, trị thủy. Đại Vũ chỉ thành công sau 13 năm bỏ ăn bỏ ngủ, đi ngang nhà 3 lần mà không kịp ghé thăm. *[63]

Nhờ đó, Đế Thuấn cho Đại Vũ cai trị đất Hạ. Năm 809 th, 2070 ttl, khi Đế Thuấn chết, Đại Vũ lập Nhà Hạ. Vì Đại Vũ kế nghiệp Đế Thuấn, nên vùng Đồng Đình cũng thuộc quyền của Đại Vũ.

b. Đất Hạ sình lầy

Công cuộc trị thủy khó khăn và lâu dài chứng tỏ vùng đất nầy còn nhiều sình lầy, lụt lội. Như vậy, đây không thể là vùng đồng cỏ khô cằn ở phía Tây Bắc đường ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh.

Việc Đại Vũ trị thủy và thành lập Nhà Hạ cũng chứng tỏ vùng Đất Hạ, ở hạ lưu Dương Tử, bắt đầu trở thành một trung tâm phát triển mới của Tộc Việt.

Từ đầu Thời Hùng 2, với Nhà Hạ, năm 809 tH, 2070 ttl, ngoài 2 Trung Tâm Phát triển lớn là Đồng Đình, Việt Thượng, Tộc Việt có thêm vùng Việt Hạ.

3.2.  Đại Vũ không ở vùng Hoàng Hà

Dựa vào định kiến Trung Hoa về Nhà Hạ, khảo cổ hiện nay coi cương vực Nhà Hạ là vùng đất ở góc Hoàng Hà gần sông Vị. Thực ra, đây chỉ là phần đất phía Bắc Sông Hoài thời Hậu Hạ, sau Đại Vũ hơn 200 năm.

Tới nay trí thức Tàu vẫn cố xác định di chỉ khảo cổ Nhị Lý Đầu ở nam Uyển Sư, Hà Nam, là nơi phát xuất Nhà Hạ.

Nhưng các nhà khảo cổ khách quan, Âu Mỹ, không đồng ý, vì nghiên cứu cho thấy vào thời Đại Vũ, năm 809 tH, 2070 ttl, thủy vận không phát triển ở vùng Hoàng Hà, phía Bắc ranh giới thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh. Thời Hạ, 809-1279 tH, 2070-1600 ttl, chưa có dụng cụ bằng đồng thau như ở Nhị Lý Đầu, và một số vấn đề khác. *[64]

3.3. Đại Vũ học Sách Lạc 

a. Chín Nhóm Đốm

Theo truyền thuyết, trong khi trị thủy ở đất Hạ, năm 809 tH, 2070 ttl, Đại Vũ được Rùa Thần cho Sách Lạc. Sách Lạc, Lạc Thư, được biểu trưng bằng 9 nhóm đốm trên lưng Rùa Thần, từ 1 tới 9. (hình).

Nhờ Sách Lạc, Đại Vũ thông suốt việc đất trời, biết cách trị thủy, biết cách trị dân. Nhờ đó, Đại Vũ cũng đã đào 9 con sông, khai thông 9 đường núi, chia nước làm 9 châu và phân chia trời đất vạn vật thành 9 loại, 9 nhóm...

b. Rùa Thần Việt Lạc

Truyền thuyết Đại Vũ được Rùa Thần tặng Sách Lạc đã lặp lại truyền thuyết sứ giả Việt Thượng tặng Rùa Thần cho Đế Nghiêu năm 688 tH, 2191 ttl. Rùa Thần thời Đế Nghiêu ghi chuyện cao siêu đất trời vận chuyển và lịch cày cấy. Hơn 100 năm sau, 'Rùa thần mang Sách Lạc' thời Đại Vũ đã khai triển rộng rãi và chi tiết hơn.

Cả 2 đều biểu trưng nền văn minh và văn hóa của Việt Lạc Sông Hồng. *[65]

c. Chữ Việt Sách Lạc 粤

Hãnh diện về Sách Lạc, hãnh diện với trình độ văn minh và văn hóa tiên tiến, để lưu truyền cho con cháu những bài học ngàn đời, dân Việt Lạc Sông Hồng đã dùng hình ‘Rùa Thần mang Sách Lạc’ làm biểu hiệu của mình.

Từ đó ‘Sách Lạc trên lưng Rùa Thần’ trở thành chữ ‘Việt’ của Việt Thượng, chữ ‘Việt Sách Lạc’. *[66]

Chữ Việt Sách Lạc gồm : Hình Rùa  là khuôn ngoài , với đầu, mu, chân, đuôi Rùa. 9 nhóm chấm của Sách Lạc  thành các nét trong, với đủ mọi nét, , của chữ Việt .

- Vì Rùa thần chỉ có ở vùng Sông Hồng Sông Mạ, Sách Lạc là của Dân Việt Lạc Sông Hồng. *[67]

3.4. Chư hầu của Đại Vũ

Theo sách vở Trung Hoa, sáng tác sau Đại Vũ hơn 1.000 năm, Đại Vũ có hàng vạn chư hầu, và nhiều lần hội họp. Vào thời đó, tuy là có nhiều bộ tộc nhỏ trong vùng, nhưng cũng không quá số hàng trăm.

Dầu Đại Vũ nổi tiếng, cũng không thể có uy danh và phương tiện lôi cuốn sự thần phục và tụ tập của hàng vạn thủ lãnh từ các vùng xa xôi hẻo lánh.

Thời Đại Vũ, cách đây hơn 4.000 năm, giao thông trong vùng chưa phát triển, phương tiện truyền thông còn sơ khai.

Đây chỉ là hoang tưởng tuyên truyền của chủ thuyết Thiên Tử Thế Thiên, chủ trương thiên hạ đều phải tùng phục vua chúa Trung Hoa. Chủ thuyết nầy thịnh hành từ thời Nhà Hán, sau năm 2673 tH, 206 ttl.

Họ dụng tâm trình diễn Đại Vũ, mà họ đánh tráo thành người Hoa, như một vị Thần Linh cao cả xuất hiện giữa không trung, và mọi lãnh tụ dưới bầu trời, đều phải thần phục, tôn sùng.

3.5. Đại Vũ cai trị vùng Nam Sông Hoài

Thiên Vũ Cống của Kinh Thư có danh sách các phẩm vật của 9 châu triều cống cho Đại Vũ. Cống phẩm có ngà voi, đồ bằng tre, thẻ tre để viết sách, tơ tằm dệt lụa, đá làm khánh, đá làm mũi tên...

Tất cả cống phẩm dâng Đại Vũ đều là sản phẩm miền nắng ấm sông hồ, đều từ vùng nông nghiệp lúa nước, ở phía Nam Sông Hoài. Khánh và mũi tên bằng đá cũng là di vật cổ xưa của miền Nam.

3.6. Đại Vũ sống và chết ở vùng Dương Tử

Đại Vũ chết và được chôn tại Cối Kê, nay là Tô Châu, gần Thượng Hải, cửa biển của sông Dương Tử.

- Đại Vũ đã theo Sách Lạc của Việt Thượng phương Nam mà trị thủy, khai phá ruộng đất, hệ thống hóa vạn vật, và thi hành chính sách cai trị. Khi làm quan, Đại Vũ trị thủy vùng ngập nước, tại Việt Hạ, vùng hạ lưu Dương Tử.

- Khi làm vua, Đại Vũ cai trị vùng đất của dân trồng lúa nước Đồng Đình và Dương Tử.

- Khi chết, Đại Vũ được chôn tại phía Nam sông Dương Tử.

Trọn cuộc đời của Đại Vũ chỉ ở vùng Dương Tử và phương Nam. Đại Vũ không hề ở vùng Hoàng Hà.

Đại Vũ, 809 tH, 2070 ttl, đã sống ở vùng sông nước lầy lội từ hơn 1000 năm trước khi dân du mục tây Hoàng Hà tụ tập và thành hình Tộc Hoa, 1833 tH, 1046 ttl. Vì vậy, Đại Vũ cũng không thể là Tổ của Tộc Hoa. *[68]

4. NHÀ HẠ Ở VIỆT HẠ

4.1. Đất Hạ trong sách vở Trung Hoa

a. Nước Sở, Nước Việt

Theo sách vở Trung Hoa, năm 1849 tH, 1030 ttl, ‘Thiên tử Nhà Chu’ thành lập nước Sở ở vùng đất giữa Sông Hoài và Dương Tử (nay là Hồ Bắc, An Huy), và cho vua Nước Sở được thờ kính tổ tiên là Nhà Hạ.

Cũng theo sách vở Trung Hoa về thời Chu, vùng Nam Dương Tử có Nước Việt ở Chiết Giang, Giang Tô, từ 2383 tH, 496 ttl. Cũng như vua nước Sở, vua Nước Việt cũng được thờ kính tổ tiên là Nhà Hạ.

Nước Sở và Nước Việt đã là những nước rộng lớn, đông đúc, và có thời đã cường thịnh nhất trong vùng. Sở Trang Vương và Việt Câu Tiển là 2 trong Ngũ Bá thời Xuân Thu, 2109-2476 tH, 770-403 ttl.

b. Dân Hạ Việt Hạ

Tộc Hoa luôn cưỡng định, và hiện nay đang cố gắng giải thích xuyên tạc các di chỉ khảo cổ, để chứng minh Đại Vũ, người sáng lập Nhà Hạ, và Nhà Hạ, Đất Hạ, đều ở vùng Hoàng Hà, và là thủy tổ tộc Hoa.

Thực ra, ‘cho phép vua Nước Sở và vua Nước Việt được thờ kính Tổ tiên là Nhà Hạ’ chỉ là cách nói trịch thượng của Trung Hoa khi phải ghi nhận dân Nước Sở và dân Nước Việt đều là dân Nhà Hạ, đất Nước Sở và đất Nước Việt cũng đều là đất Nhà Hạ. Sách vở Trung Hoa nhấn mạnh Con Cháu Nhà Hạ ở Nước Sở và Nước Việt đều có những phong tục quái dị, có tiếng nói, phục sức, nhạc cụ, và tính khí, hình dạng khác hẳn dân Hoa. *[69]

Hơn nữa, Đất Nước Sở và Đất Nước Việt đều ở 2 bên sông Dương Tử, ở phía nam đường ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, chứ họ không ở vùng phát xuất tộc Hoa ở phía bắc. *[70]

Đại Vũ, dân Nhà Hạ, đất Nhà Hạ, đều là Việt, tự xưng là Nước Việt, đều ở vùng Việt Hạ của Tộc Việt, 2 bên bờ hạ lưu sông Dương Tử phì nhiêu nắng ấm. Ngày nay là các tỉnh Hồ Bắc, An Huy, Chiết Giang, và Giang Tô.

Họ đã đông đúc cường thịnh từ hơn 1.000 năm trước khi bộ tộc Chu tụ tập các bộ lạc du mục vùng Thiểm Tây khô cằn giá lạnh, để thành hình tộc Hoa, năm 1833 tH, 1046 ttl.

c. Thủ đô Cối Kê

Cối Kê ở Chiết Giang, nay là Tô Châu, sách vở Trung Hoa coi là nơi Đại Vũ sáng lập Nhà Hạ, tụ họp chư hầu. Cối Kê còn ngôi mộ của Đại Vũ. Tần Thủy Hoàng vua chúa thời sau  đều tới Cối Kê cúng tế trọng thể mộ của Đại Vũ.

Dầu sách vở Trung Hoa đã chuyển tất cả truyền thuyết Việt lên vùng Hoàng Hà, vào thời Câu Tiển, v. 2383-2414 tH, 496-465 ttl, Cối Kê được sách vở Trung Hoa ghi nhận là thủ đô của Nước Việt hùng mạnh nhất đương thời.

Từ Đại Vũ, 809 tH, 2070 ttl, tới 2414 tH, 465 ttl, và về sau, Cối Kê liên tục là thủ phủ của Nhà Hạ và Việt Hạ.

- Dầu tộc Hoa gian đoạt và chuyển dời Đại Vũ và Nhà Hạ lên vùng Hoàng Hà, thì sách vở của họ cũng không thể giấu nhẹm những sự thật lịch sử.

4.2. Chữ Hạ 夏 

Việt Hạ đã phát triển mạnh nhờ kỹ thuật Trâu kéo cày.

Nhờ đó, Việt Hạ đã tiến nhanh về kinh tế, về cuộc sống, cũng như về nhân số. Cũng nhờ đó, hơn 200 năm sau, từ 1079 tH, 1800 ttl, người Việt Hạ đã có thể vượt lên phía Bắc của đường ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh.

Biểu hiệu đương thời của Việt Hạ là hình vẽ con trâu kéo cày. Thời sau, hình vẽ trở thành chữ Hạ .

Chữ Hạ gồm : hình con Trâu, 2 sừng lớn, thân mình, 4 chân, , thành nét , , hình cái cày  thành .

5. HẬU HẠ VƯỢT SÔNG HOÀI, 1079 tH, 1800 ttl

Theo sách vở Trung Hoa, Nhà Hạ kéo dài 470 năm, có 17 đời vua.

Những di chỉ thuộc thời Hạ ở góc Sông Vị và Hoàng Hà chứng tỏ vào thời cực thịnh, khoảng từ 1079 tH, 1800 ttl, dân Việt Nhà Hạ đã vượt lên khỏi ranh giới thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh.

Đây là vùng khảo c hiện nay cho là đất Nhà Hạ, thời Hậu Hạ, là Thời Hùng 2B, 1079-1279 tH, 1800-1600 ttl.

6. CÁC VÙNG ĐẤT VIỆT KHÁC CÙNG VỚI NHÀ HẠ, 809-1279 tH, 2070-1600 ttl

6.1. Tiếp tục phát triển

Ngoài Nhà Hạ ở Đất Hạ, Tộc Việt còn có những vùng đất khác, đặc biệt với 2 Trung tâm phát triển lớn, là Trung tâm Đồng Đình, gồm vùng Hồ Đồng Đình Sông Tương, và Trung tâm Việt Thượng ở Sông Hồng Sông Mạ.

Tất cả mọi vùng Đất Tộc Việt vẫn tiếp tục phát triển.

Nhưng vì đã chuyển đổi tất cả quá khứ của Tộc Việt thành của tộc Hoa, và di dời tất cả tài liệu và truyền thuyết của phương Nam lên vùng Hoàng Hà, sách vở Trung Hoa không còn gì để nói về đất phương Nam.

6.2. Lạc Hồng trỗi vượt

a. Lạc Hồng phát triển

Truyền thuyết Rùa Thần Việt Thượng thời Đế Nghiêu, 688 tH, 2191 ttl, chứng tỏ Việt Lạc ở Sông Hồng, Lạc Hồng, đã phát triển mạnh hơn vùng Đồng Đình. Truyền thuyết Rùa Thần Sách Lạc thời Đại Vũ 809 tH, 2070 ttl, lại chứng tỏ Việt Lạc đã phồn thịnh trước Việt Hạ.

Hơn nữa, kỹ thuật và tri thức của Việt Lạc Sông Hồng cũng tiến mau trong 100 năm giữa Đế Nghiêu và Đại Vũ. Kinh nghiệm lịch cày cấy của 100 năm trước, trở thành kỹ thuật trị thủy, đào kinh, đắp đê, khai thông đường núi. Chữ viết ghi chuyện trời đất trên mu Rùa thời Đế Nghiêu, đã trở thành Sách Lạc với phương thức hệ thống hóa trời đất và vạn vật thành 9 loại, với chính sách cai trị, hành chánh, phân chia lãnh thổ...

b. Chữ Hồng Thủy Ngưu

Khoảng năm 1621 ttH, 4500 ttl, dân Việt tiến về Miền Nam, gặp vùng Mặt Trời nắng ấm và Trâu, là 2 yếu tố quan trọng của nghề nông lúa nước. Vì vậy, dân Nam đã vẽ chữ Nam  là vùng đất có Mặt trời và Trâu. *[71]

 Phát minh và ảnh hưởng của kỹ thuật 'Trâu kéo cày' quan trọng và đặc biệt đến nổi khi viết chữ Hồng , dân Việt Lạc đã miêu tả Sông Hồng là 'Vùng Sông có Trâu kéo cày'.      

Chữ Hồng gồm : Chữ Thuỷ chỉ nước, sông. Chữ Ngưu , , trâu,  Hình cái cày , .  *[72]

c. Kỹ thuật Trâu Kéo Cày : Phát minh của Việt Lạc Sông Hồng

Chữ Hạ cũng là hình Trâu kéo cày .

Tuy nhiên, hơn 2.400 năm trước khi Đại Vũ khai phá vùng Việt Hạ, dân Nam đã ghi nhớ Trâu trong chữ Nam .

121 năm trước Đại Vũ đã có truyền thuyết Đế Nghiêu sao chép lại lịch hướng dẫn việc cày cấy từ lưng Rùa Việt Thượng của Sông Hồng, năm 688 tH, 2191 ttl. *[73]

Hơn 50 năm trước Đại Vũ còn có truyền thuyết voi rừng giúp Đế Thuấn cày ruộng. *[74]

Như vậy, việc Đại Vũ học Sách Lạc của Việt Lạc Sông Hồng về cách trị thủy, về chính sách cai trị, về hệ thống hóa vạn vật, cũng hàm ý Đại Vũ đã học kỹ thuật Trâu kéo cày. 

6.3. Văn minh và Văn hóa Toàn Vùng do Sông Hồng

Việc sách vở Trung Hoa nhiều lần xưng tụng Rùa Thần và Sách Lạc đến từ Việt Thượng, đã chứng tỏ ít nhất cách đây 2-3.000 năm, thời các sách vở Trung Hoa được sáng tác, mọi người đều công nhận Sách Lạc là biểu tượng của văn minh và văn hóa toàn vùng, và là tuyệt tác của dân Sông Hồng.

Sự khâm phục nầy đã khiến giới thống trị Trung Hoa tiếm nhận tất cả tiền sử của Tộc Việt thành tiền sử của tộc Hoa, di dời tất cả lên vùng Hoàng Hà. Thời Bắc thuộc, 2922-3785 tH, 43-906 dl, giới thống trị Trung Hoa đã tận lực cướp phá và hủy hoại mọi di tích văn minh, văn hóa của Lạc Hồng.

VI. TỘC VIỆT THỜI HÙNG 3, 1279-1833 tH, 1600-1046 ttl

TỘC VIỆT VÀ NHÀ THƯƠNG

1. THỜI HÙNG 3 VÀ NHÀ THƯƠNG

1.1. Sách vở Trung Hoa.

Cũng như đối với các Thời trước, ở Thời Hùng 3, sách vở Trung Hoa chỉ chú trọng tới Nhà Thương và đánh lận rằng khi dân vùng Bắc Sông Hoài lập ra Nhà Thương, họ đã thống trị toàn thể thiên hạ.

Theo khảo cứu hiện nay, thời kỳ đầu, đất Nhà Thương trong phần đất phía Bắc Sông Hoài, hạ lưu Hoàng Hà.

Chỉ từ thời Hậu Thương, gọi là Ân, từ 1579 tH, 1300 ttl, đất Nhà Thương mới lấn qua bờ phía Nam sông Hoài.

1.2. Tính Lịch sử

Theo khảo cứu hiện nay, chỉ từ thời Hậu Thương, từ 1579 tH, 1300 ttl, mới được coi là có chứng cứ lịch sử.

Sách vở Trung Hoa khảo cổ hiện nay, chỉ chú trọng vùng đất thuộc Nhà Thương ở thời cường thịnh nhất.

Trung Hoa không phân định rõ ranh giới giữa vùng đất của Nhà Thương với các vùng chung quanh. Tất cả đều coi là chư hầu của Nhà Thương. Đối với Trung Hoa, dầu trái với lịch sử và thực tế, tất cả quyền hành, tất cả những gì hay tốt, đều thuộc về tộc Hoa, đều ở vùng Hoàng Hà, sông Vị.

1.3. Nhà Thương

a. Sách vở Trung Hoa

Năm 1279 tH, 1600 ttl, Thành Thang liên kết các bộ lạc ở hạ lưu Hoàng Hà và chiếm vùng đất ở phía Bắc Sông Hoài. Thành Thang đóng đô tại đất Bạc, huyện Thương Khâu, Hà Nam ngày nay. Nhà Thương dài 554 năm, 30 đời vua, 2 thời kỳ : Tiền Thương, 1279-1579 tH, 1600-1300 ttl, và Hậu Thương, gọi là Ân, 1579 -1833 tH, 1300-1046 ttl.

b. Nhà Thương với tộc Hoa

Mấy ngàn năm qua, Trung Hoa luôn đánh lận là Nhà Thương cũng là tiền sử của Trung Hoa, và đã thống trị thiên hạ. Nhưng mọi sách vở Trung Hoa đều ghi Thành Thang, người sáng lập Nhà Thương, là người Đông di.

Đông di là 1 trong 'tứ di', 4 ngoại tộc lạc hậu quanh Trung Hoa. Với người Hoa, Nhà Thương chỉ là dân ngoại tộc sơ khai lạc hậu ở phía Đông. Sự thực, Nhà Thương là dân ở phía Đông, còn tộc Hoa thành hình từ 1 số bộ lạc du mục vùng Thiểm Tây khô cằn ở phía Tây. *[75]

1.4. Dân Việt và Cư Dân

Vào thời Hậu Hạ, trước Nhà Thương 200 năm, dân Việt Hạ đã từ phương Nam vượt lên sống vùng Bắc Sông Hoài, nay khảo cổ coi là đất Nhà Hạ. *[76]

Từ đó, dân Việt và các bộ tộc cư dân trong vùng đã cùng nhau phát triển.

Với kỹ thuật canh tác mới của dân phương Nam, với nhân số tăng triển nhanh, với nếp sống sung túc hơn, thích hợp hơn, sau 200 năm, Thành Thang đã tụ tập các bộ tộc trong vùng để cùng thành lập Nhà Thương.

Đang khi đó, các bộ tộc du mục vùng phía Tây, nay là Thiểm Tây, vẫn còn rời rạc, nhỏ yếu, lạc hậu. Hơn 550 năm sau, bộ tộc Chu mới tụ tập họ lại, lập ra Nhà Chu, và hình thành tộc Hoa.

2. VÙNG DƯƠNG TỬ và VIỆT LẠC THỜI HÙNG 3A, 1279-1579 tH, 1600-1300 ttl

2.1. Tiếp tục phát triển

Thời Nhà Thương thành hình ở Bắc Sông Hoài, toàn vùng đất Tộc Việt phía Nam Sông Hoài vẫn yên lành tiếp tục phát triển về mọi mặt, và tiến bộ hơn Nhà Thương. Đất Tộc Việt gồm 2 vùng lớn là vùng Đất Nhà Hạ ở 2 bên bờ hạ lưu sông Dương Tử, và vùng Đất Việt Lạc ở Đồng Đình và Việt Thượng.

2.2. Đất Hạ cường thịnh

a. Nước Sở, nước Việt

Tài liệu về thời Chu, 1833-2623 tH, 1046-256 ttl, ghi nhận sự phát triển liên tục của vùng Việt Hạ, từ thời Hạ, qua thời Thương, tới thời Chu. Năm 1849 tH, 1030 ttl, thiên tử Nhà Chu cho dòng dõi Nhà Hạ thành lập nước Sở ở Bắc Dương Tử. Chỉ sau thời gian ngắn, Sở trở thành hùng cường nhất, chiếm cứ vùng rộng lớn nhất đương thời.

Theo sách vở Trung Hoa về thời Chu, vùng Chiết Giang, ở Nam Dương Tử, có nước Việt. Năm 2406 tH, 473 ttl, sau khi diệt nước Ngô, nước Việt thần phục thiên tử Nhà Chu và hùng cường nhất. Thủ đô của nước Việt là Cối Kê là thủ phủ của Đại Vũ, vị sáng lập Nhà Hạ, từ hơn 1500 năm trước. *[77]

Nếu loại bỏ sự gán ghép trơ trẻn với thiên tử Nhà Chu, nước Sở ở Bắc Dương Tử và nước Việt ở Nam Dương Tử là những tộc dân liên tục tiếp nối từ Nhà Hạ, qua hơn 1000 năm trước khi Nhà Chu được thành lập.

Sở và Việt đã và đang trỗi vượt hơn Chu về rộng lớn, đông đúc, hùng mạnh, văn minh, văn hóa..., tiếp tục phát triển trên vùng đất của Tổ Tiên Việt Hạ.

b. Đồ đồng Dương Tử

Thời đồ đồng Á Đông khởi phát từ khoảng năm 2000 ttl. Theo khảo cổ, vào Thời Hùng 3A, 1279-1579 tH, 1600-1300 ttl, dân Việt vùng Đồng Đình và Dương Tử đã phát triển ngành đúc đỉnh đồng, vạc đồng, và chuông đồng.

Hoa văn trang trí trên đồ đồng Dương Tử là những phụng long cách điệu. Trên các đỉnh đồng có nhiều chữ ghi nhớ lý do đúc đỉnh và việc thờ kính Tổ Tiên. Phụng, long, và thờ kính Tổ Tiên là những đặc điểm của Tộc Việt.

Các di chỉ Tân Can ở Giang Tây và Bàng Long Thành ở Hồ Bắc, thuộc 2 bên bờ Dương Tử, là những nơi có nhiều đồ đồng được phát hiện nhất. *[78]

2.3. Việt Lạc Độc lập và Phát triển

Trong 300 năm Thời Hùng 3A, 1279-1579 tH, 1600-1300 ttl, vùng đất mênh mông còn lại của Tộc Việt, đặc biệt các vùng Đồng Đình, Việt Thượng, và Sông Hồng của Việt Lạc, không bị ảnh hưởng Nhà Thương, mà ngược lại, còn tiếp tục phát triển vượt bực về nhiều phương diện.

3. THỜI HÙNG 3B và NHÀ ÂN, 1579-1833 tH, 1300-1046 ttl

3.1. Nhà Ân

Năm 1579 tH, 1300 ttl, Bàn Canh dời đô từ Trịnh Châu về An Dương đất Ân, gọi là Nhà Ân, hoặc Nhà Hậu Thương.

Du mục trọng vũ lực giúp Nhà Thương thêm hùng mạnh, bắt đầu xâm lấn các vùng Tộc Việt ở nam Sông Hoài.

Theo ranh giới Nhà Thương của khảo cổ hiện nay, họ đã chiếm đóng một phần vùng phía Nam sông Hoài.

Tuy quân Ân đã thất bại sau các cuộc xâm lăng ngắn, nhưng đủ thời gian để chúng cướp phá tài sản trong vùng.

3.2. Ân Cao Tôn xâm lăng Việt Lạc - Truyền kỳ Phù Đổng

a. Phù Đổng và Ân Cao Tôn

Theo sách vở Trung Hoa, năm 1661 tH, 1218 ttl, Ân Cao Tôn đã đánh Quỉ Phương, vùng Đồng Đình. Ông đóng quân tại đất Kinh, tả ngạn Dương Tử, gần Hồ Đồng Đình. Sau 3 năm, Ân Cao Tôn không thắng. *[79]

Theo Truyền kỳ Phù Đổng của Việt Lạc, Ân Cao Tôn đã xâm lấn Việt Lạc 3 năm và đã bị đánh bại. *[80]

b. Việt Lạc năm 1661 tH, 1218 ttl    

3.200 năm trước, dân Việt Lạc là quốc gia vững mạnh ở vùng Đồng Đình, đã tổ chức chặt chẽ, có vua quan, có làng xã, có cúng tế, có lúa gạo, có vải áo, có lũy tre, đã đúc đồ sắt, đã có tinh thần dân tộc cao, và theo sách vở Trung Hoa, đã chiến thắng giặc Ân vào thời chúng hùng mạnh nhất. *[81]

c. Việt Lạc và Đồng Đình

Trước khi Ân Cao Tôn xâm lấn, không có dấu vết về thời gian vùng Đồng Đình trở thành đất Việt Lạc. Tuy nhiên, sự kiện Việt Lạc đánh bại Ân Cao Tôn chứng tỏ Việt Lạc ở vùng Đồng Đình đã vững chãi và hùng mạnh.

Như vậy, có thể vùng Đồng Đình đã thuộc về Việt Lạc ít nhất là hơn 80 năm trước, tức khoảng năm 1579 tH, 1300 ttl. Biến động nầy đã làm cho Bàn Canh phải dời đô từ Trịnh Châu lên An Dương, ở xa hơn về phía Bắc.

4. VẤN ĐỀ DI VẬT THỜI ÂN

4.1. Di Vật tại cố đô An Dương

a. Đồ đồng và Chữ Viết

Hai di sản hiện thực quan trọng của thời xưa là đồ đồng và chữ viết.

Đồ đồng thời Thương, 1279-1833 tH, 1600-1046 ttl, đã được phát hiện nhiều nhất ở các di chỉ Tân Can, Bàng Long Thành, thuộc 2 bên bờ Sông Dương Tử, ở Trịnh Châu thuộc Hà Nam, và ở cố đô An Dương. *[82]

Đã phát hiện hàng ngàn đỉnh đồng, vạc đồng tinh xảo... tại cố đô An Dương của Nhà Ân. Ở vùng nầy, hiện nay cũng đã phát hiện hơn một trăm ngàn mảnh xương có khắc chữ. Tổng số chữ trên các mảnh xương nầy lên tới khoảng 5000, trong đó có hơn 3000 chữ đã chuẩn xác, đã có hệ thống. *[83]

Tuy nhiên, tại An Dương không có dấu vết giai đoạn sơ khai của kỹ nghệ đúc đồng. An Dương cũng không có dấu vết của chữ viết thời sơ khai. Tất cả đều đột hiện ở An Dương, từ 1579-1833 tH, 1300-1046 ttl. (hình).

b. Thành hình Đồ đồng và Chữ viết

Thời xưa, kỹ nghệ luyện kim và đúc đồ đồng phải mấy trăm năm mới có thể tiến từ giai đoạn sơ khai tới giai đoạn tinh vi như đồ đồng Thời Thương.

Về chữ viết, loại chữ phát xuất từ hình vẽ cũng phải mất thời gian dài để từ một vài hình vẽ sơ khai, tới chỗ ghi nhận, biến cải, hoán chuyển, gia giảm hàm ý trừu tượng... Vì vậy, cũng cần nhiều trăm năm để thành hình một hệ thống hơn 3000 chữ chuẩn xác, được mọi người cùng theo.

c. Cướp về từ phương Nam

Báu vật bằng đồng và chữ viết đột hiện ở An Dương nêu lên nhiều vấn đề :

1. Việc đột nhiên xuất hiện hàng ngàn đồ đồng tinh xảo, và hàng vạn mảnh xương ghi hơn 3.000 chữ chuẩn xác, đã xảy ra cùng lúc Nhà Ân xâm lấn và cướp phá vùng đất Tộc Việt phương Nam, năm 1661 tH, 1218 ttl.

2. Trước Nhà Ân 1.500 năm, Tộc Việt đã phát triển đông và trỗi vượt nghề trồng lúa nước, đánh cá, và ghe thuyền, ở vùng Đồng Đình và Dương Tử.

3. Trước Nhà Ân hơn 800 năm, thời Đế Nghiêu, dân Việt Lạc ở Sông Hồng Việt Thượng đã có chữ viết, và đã truyền cho vùng Đồng Đình.

4. Trước Nhà Ân 700 năm, vùng Việt Hạ, Đồng Đình và Sông Hồng đã vào thời kỳ đồ đồng. *[84]

5. Trước khi bị Nhà Ân xâm phạm, vùng Dương Tử đã sản xuất nhiều đỉnh và vạc đồng tinh xảo. Dân Việt miền Nam đã có di chỉ Đông Sơn.

6. Thời Tiền Thương, 1279-1579 tH, 1600-1300 ttl, trước khi An Dương thành thủ đô, vùng đất Nhà Thương, ở Bắc Sông Hoài, không có dấu vết của kỹ nghệ đồ đồng tinh xảo, không có dấu vết của loại chữ viết sơ khai.

7. Như vậy, cố đô An Dương chỉ là nơi chất chứa chiến lợi phẩm từ phương Nam. Những báu vật đó không chứng tỏ trình độ kỹ thuật, văn minh, văn hóa của vùng đất Hoàng Hà.

4.2. Di Tích Văn Minh và Văn Hóa Việt

a. 3.000 năm Trung Hoa tiếm đoạt

Những phát hiện ở An Dương đánh tan hệ thống Trung Hoa tuyên truyền xảo quyệt suốt 3.000 năm qua và hiện nay.

Kỹ thuật và tuyệt tác đồ đồng mà Trung Hoa đang huyênh hoang, đều là do tiếm đoạt từ Dân Việt. Những Chữ khắc ghi trên Thạp Đào Thịnh và Trống Ngọc Lũ thời đồ đồng Đông Sơn tuyệt kỹ là chứng cứ hiển nhiên của hệ thống Chữ Viết và Tư tưởng Việt từ hơn 3.000 năm trước. Toàn bộ chữ Hán hiện nay có nguồn gốc Việt, với hơn 3.000 chữ đã chuẩn xác từ hơn 200 năm trước khi tộc Hoa thành hình.

Cùng với việc kiện toàn hệ thống hơn 3000 chữ viết hoàn chỉnh, Tộc Việt, đặc biệt vùng Việt Lạc Sông Hồng, chắc chắn đã có nhiều tác phẩm văn học và tri thức đáng kể. Chính những tác phẩm nầy cũng đã góp phần hệ thống hóa và phát triển chữ viết. Nhưng tất cả đều bị Trung Hoa tiếm đoạt.

b. Nghiên cứu Tác phẩm Việt

Việc khảo cứu hàng ngàn chữ Việt nguyên thủy, cùng với việc tìm hiểu và so sánh những tác phẩm cổ xưa, sẽ là nguồn phát hiện dồi dào của nhiều chứng tích lịch sử đích thực của Tộc Việt, về mọi phương diện. *[85]

Tìm hiểu tuyệt tác đồ đồng, đặc biệt Thạp và Trống Đông Sơn, sẽ là những đóng góp và chứng cứ không thể thiếu cho việc xác định nguồn gốc của các tác phẩm kỹ thuật, mỹ thuật, văn học, lịch sử, văn hóa, và tri thức của thời kỳ trước khi nhóm dân du mục vùng Thiểm Tây thành hình Tộc Hoa. *[86]

4.3. Thực Trạng các Thủ Đô Trung Hoa

a. Do cướp đoạt

Thủ đô An Dương, và các thủ đô khác của Trung Hoa, chất chứa nhiều tuyệt tác, không phải do tài trí và trình độ của dân Hoa Hán. Đó là do cướp đoạt.

Trung Hoa cướp đoạt trong các cuộc xâm lăng, và do chính sách trường kỳ của chế độ triều cống, trong suốt lịch sử Trung Hoa. Cống phẩm là những sản phẩm quí giá nhất, và những nhân tài, những thợ lành nghề nhất. *[87]

b. Dấu chứng Văn minh Việt

Đã không ngừng cướp đoạt tài vật quí hiếm, thì lạ gì thủ đô chất chứa nhiều phẩm vật tinh xảo, thượng hạng. Đã không ngừng lùng bắt thợ giỏi, cướp đoạt tri thức và tài khéo, thì thủ đô phải lập những cơ sở thích đáng cho các kỳ tài dùng, thì thủ đô có cơ xưởng và chứa nhiều tác phẩm tuyệt trần.

Tuy nhiên, tất cả đều không phải là dấu chứng tài trí của dân thủ đô, càng không phải của người tộc Hoa du mục sơ khai lạc hậu, chỉ trọng bạo lực. Trái lại, đó là chứng cứ cho trình độ văn minh tiên tiến của Tộc Việt, và các dân tộc mà Trung Hoa áp đặt định kiến là man di mọi rợ, cần được khai hóa.

5. VIỆT LẠC THỜI HÙNG 3B, 1579-1833 tH, 1300-1046 ttl

5.1. Nền Văn hóa kiện toàn

Vào Thời Hùng 3B, Việt Lạc đã kiện toàn một nếp sống đem lại thịnh vượng, thanh bình, hạnh phúc đích thực.

Nền Văn hóa nầy phổ biến rộng rãi trong toàn dân, và được lưu truyền qua hàng trăm đời. Tất cả đều được truyền lại qua nếp sống từng ngày, thuần phong mỹ tục, các định chế, tục ngữ ca dao, nhất là bằng lời truyền dạy, các Truyền kỳ, truyện tích hàm chứa biểu tượng trong từng câu, từng chữ.

Nhờ vậy, đồng thời với nếp sống đại chúng, ngày nay chúng ta còn có được Bộ Truyền Kỳ Tộc Việt, gồm tóm toàn bộ những kinh nghiệm Làm Người, những nguyên tắc sống, và tâm huyết của Tổ Tiên. *[88]

5.2. Thạp và Trống Đông Sơn

a. Tuyệt kỹ Việt Lạc

Nghề đồng của Việt Lạc Sông Hồng phát triển đồng thời với đồ đồng Việt Hạ ở Dương Tử. Nhưng khi dân Việt Dương Tử có những vạc, đỉnh, chuông đồng tinh vi, thì Việt Lạc Sông Hồng xuất sắc trong việc đúc trống đồng.

Vào cuối thời Hùng 3B, hơn 3000 năm trước, trung tâm sản xuất đồ đồng Đông Sơn, ở Thanh Hóa, đã phát minh cách pha chế đồng thau đặc biệt và đúc nhiều thạp và trống đồng tuyệt kỹ. Kỹ thuật luyện kim và đúc trống đồng cần tinh tế hơn, để tạo tiếng trống trầm hùng và vang vọng.

Thạp và trống Đông Sơn không chỉ đặc biệt ở hợp chất, ở tiếng vang, mà còn độc đáo ở hình dạng và ở cách trang trí.

b. Kho tàng Văn hóa

Tuyệt diệu hơn, qua hoa văn và hình dạng độc đáo của Thạp và Trống Đông Sơn, Tổ Tiên Việt Lạc Sông Hồng đã mã hóa toàn bộ những ý niệm và học thuyết đã khởi phát từ trước thời Đế Nghiêu, cách đây hơn 4.200 năm.

Nhờ đó, sau hơn 3.000 năm, ngày nay chúng ta còn có những Thạp và Trống hàm chứa những bảo chứng của Học thuyết Việt cổ đại, hoàn thiện trước Tộc Hoa thành hình. *[89]

5.3. Trống đồng Việt Lạc

Cho đến hiện nay, sau hàng ngàn năm bị Trung Hoa cướp phá, vùng đất Việt Lạc, - nay gồm Việt Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Quí Châu, Hải Nam và 1 phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến - vẫn là vùng còn nhiều trống đồng cổ xưa.

Ở Việt Nam, cho đến năm 1980, số trống đồng cổ tìm được là 360 trống, trong đó có 140 trống thuộc loại Đông Sơn. Từ đó tới nay, đã phát hiện thêm nhiều trống đồng khác.

 *[90]

Theo Trung Quốc Cổ đại Đồng Cổ Nghiên cứu Hội, năm 1988, Trung Quốc đã tìm được 1.460 trống đồng cổ ở Quảng Tây 560 trống, Quảng Đông 230, Vân Nam 160, Quí Châu 88, Tứ Xuyên 51, Hồ Nam 27, Hồ Bắc 6, Chiết Giang 6, Sơn Đông 8, Liêu Ninh 4, Thượng Hải 230, Bắc Kinh 84. *[91]

5.4. Chữ Việt Đồ Đồng

Ý thức kỳ diệu trong nghệ thuật đúc đồng, nhất là ghi nhớ công trình tác tạo và ký thác các học thuyết tuyệt vời vào Thạp và Trống, Tổ tiên Lạc Hồng đã tạo thêm 1 chữ ‘Việt’ mới, xứng với tâm huyết và niềm hãnh diện của mình.

Thay chữ Việt hình Thủ Lãnh  trên Thuyền vượt biển , Tổ Tiên dùng chữ Việt gồm vị Thủ Lãnh  và chữ Kim . *[92]

5.5. Gia sản Tổ Tiên

Suốt mấy ngàn năm qua, Tổ Tiên Việt Lạc Sông Hồng, còn để lại biết bao sản nghiệp, di vật, tài liệu và tác phẩm quý giá ở mọi phương diện.

Tiếc thay, trong thời Trung Hoa xâm lấn và hơn 800 năm Bắc thuộc, tất cả đã bị người Trung Hoa soán đoạt, xuyên tạc, khỏa lấp hoặc hủy hoại.

Dầu qua những soán đoạt, xuyên tạc, khỏa lấp đó, nhiều di sản của Tổ Tiên vẫn kiên trì tồn tại, đang chờ đợi chúng ta khám phá, thu thập, và trân quý.

6. VẤN ĐỀ VIỆT LẠC và ĐỒNG ĐÌNH

6.1. Tên Lạc

a. Chữ LẠC Rùa Thần

Trên đường Nam tiến, khoảng năm 1.121 ttH, 4.000 ttl, Tổ Tiên tới Sông Hồng, gặp nhiều Rùa Thần khổng lồ. Các Ngài vui sướng, hãnh diện, tin tưởng vào tương lai, đã lấy hình Rùa Thần làm Biểu Hiệu và tên Lạc để lưu truyền Niềm Vui Sướng về Tương Lai huy hoàng của Dòng Tộc. Nhóm Việt vùng Sông Hồng tự xưng là Lạc, Việt Lạc, với chữ Lạc Rùa Thần .      

Chữ Lạc là hình Rùa Thần, Đầu, Mu hình chữ nhật, 4 chân ngắn và to. Mu Rùa hình chữ Nhật phân biệt với thân mình thon dài của các loài 4 chân khác. Rùa có 4 chân to và ngắn, các loài 4 chân khác chân nhỏ và dài. *[93]

b. Việt Thượng, Rùa Thần, và Sách Lạc

Sách vở Trung Hoa ghi vào khoảng đầu Thời Hùng, 2879 ttl, Phục Hy đã được Rùa Thần ở Lạc Hà cho đồ biểu Âm Dương. Nhờ đó, ông tính ra Tám Quẻ tiên thiên. *[94]

Gần 700 năm sau, năm Đế Nghiêu thứ 5, 688 tH, 2191 ttl, Đế Nghiêu cũng được sứ giả vùng Sông Hồng của Việt Thượng dâng Rùa Thần, trên lưng Rùa có chữ viết, có lịch. *[95]

Cũng theo sách vở Trung Hoa, Đại Vũ, 809 tH, 2070 ttl, cũng được Rùa Thần cho Sách Lạc. *[96]

Thời khai sáng Nhà Chu, 1833 tH, 1046 ttl, Chu Văn Vương cũng học Sách Lạc, viết Kinh Dịch. Con ông là Chu Công Đán lại tiếp sứ giả Việt Thượng, và viết Chu Lễ. *[97]

Theo sách vở Trung Hoa, từ Phục Hy, Đế Nghiêu, Đại Vũ, Chu Văn Vương, Chu Công Đán, truyền thuyết về Âm Dương, Kinh Dịch, đều đi chung với Rùa Thần, đồ biểu, chữ viết trên lưng Rùa, với Sách Lạc, và với Việt Thượng.

Chữ Việt Sách Lạc là chứng cứ Tổ Tiên Việt Lạc khôn thiêng đã dùng hình ‘Rùa Thần mang Sách Lạc’ ghi lại danh xưng và dấu ấn của riêng mình.  

Hình Rùa  thành khuôn ngoài , với đầu, mu, chân và đuôi. 9 nhóm chấm  thành các nét trong, đủ mọi nét, , của chữ . *[98]

c. Dân Lạc

Với chữ Lạc Rùa Thần  Sông Hồng Việt Thượng từ 6.000 năm trước, với đồ biểu trên lưng Rùa Thần là Sách Lạc , chữ Việt hình Rùa Thần với Sách Lạc từ 4.200 năm trước, tên Dân Việt Sông Hồng Việt Thượng là Lạc.

Vậy đến hiện nay, toàn dân vùng Việt Thượng đang mang tên Việt Sách Lạc đều là dân Lạc. *[99]

6.2. Ảnh Hưởng của Dân Lạc

1. Với truyền thuyết Phục Hy gặp Rùa Thần, ảnh hưởng của dân Lạc đã xuất hiện ở Đồng Đình từ đầu Thời Hùng.

Tuy nhiên, hành trạng Phục Hy có nhiều huyền thoại hơn là truyền thuyết. Vì vậy, Phục Hy gặp Rùa Thần có thể là do gán ghép của thời sau. *[100]

2. Việc Đế Nghiêu được Sứ giả Việt Thượng dâng Rùa Thần, năm 688 tH, 2191 ttl, gần với hiện thực hơn. Điểm hiện thực nhất là đã ghi nhận nguồn gốc Việt Thượng của Rùa Thần, vì đây là nguồn gốc mà truyền thống tiếm đoạt của Trung Hoa không muốn nhắc tới.

Ngoài truyền thuyết của Trung Hoa, chính dân Việt Lạc có truyền thuyết đặc biệt nhắc nhớ sự kiện nầy. Dân Việt Lạc đã lấy năm 688 tH, 2191 ttl làm cứ điểm đánh dấu sự trỗi vượt của mình. Từ lâu, mọi người Việt Nam đều hãnh diện ‘Việt Nam có 4.000 năm văn hiến’, trỗi vượt về văn học và chính trị. Hiện nay là ‘4.200 năm văn hiến’. *[101]

Ngoài ra, việc ‘Đế Nghiêu chép lại lịch’ cũng chứng tỏ ở thời điểm nầy, nền Văn minh và Văn hóa Lúa Nước của Dân Lạc Sông Hồng không chỉ trỗi vượt mà còn ảnh hưởng tới vùng Đồng Đình.

3. Truyền thuyết Đại Vũ học Sách Lạc mà biết cách trị thủy và trị dân, ghi nhận Dân Lạc Sông Hồng đã tăng triển mau chóng về kỹ thuật và tri thức, và ảnh hưởng tới toàn bộ việc phát triển của vùng Việt Hạ.

4. Việc Chu Văn Vương và Chu Công Đán học Sách Lạc để viết Kinh Dịch và Chu Lễ, lại xác chứng sự tăng triển liên tục và ảnh hưởng của Dân Lạc Sông Hồng trên Tộc Việt và trên toàn bộ cơ cấu tổ chức, học thuật, và xã hội của nhóm bộ tộc du mục thành lập Nhà Chu ở thung lũng Sông Vị.

5. Như vậy, từ hơn 4.200 năm qua, học thuật và văn hóa của Dân Lạc Sông Hồng đã trỗi vượt và ảnh hưởng tới toàn bộ lịch sử vùng Á Đông. *[102]

6.3. Dân Lạc và vùng Đồng Đình

a. Thời Đế Nghiêu

Văn minh và văn hóa của Dân Lạc Sông Hồng đã ảnh hưởng tới vùng Đồng Đình từ đời Đế Nghiêu, 688 tH, 2191 ttl.

Tuy nhiên, từ đó tới thời Ân Cao Tôn, chưa thấy chứng cứ lúc nào vùng Đồng Đình được kể là đất Lạc.

Lý do thiếu vắng truyền thuyết của thời kỳ nầy là vì tộc Hoa đã tiếm nhận tất cả quá khứ của Tộc Việt, đã chuyển đổi, di dời tất cả lên vùng Hoàng Hà.

b. Thời Ân Cao Tôn

Sở dĩ chúng ta có di chứng thời Ân Cao Tôn, là vì Nhà Ân ở vùng Bắc Sông Hoài, và được sách vở Trung Hoa thời sau ghi nhận như là lịch sử của họ.

Theo sách vở Trung Hoa, năm 1661 tH, 1218 ttl, Ân Cao Tôn đem quân đánh chiếm vùng Đồng Đình gần sông Dương Tử. Sau 3 năm, thất bại. *[103]

Việt Lạc có Truyền Kỳ Phù Đổng với đủ chi tiết việc Ân Cao Tôn xâm lấn và bị Phù Đổng đánh bại. *[104]

Ngoài những chi tiết khác, điều đáng ghi nhận là vào thời kỳ đó, vùng Đồng Đình đã là đất của Việt Lạc. *[105]

Sự kiện nầy còn được xác chứng bởi những biến cố ở các thời sau.

c. Thời Tần - Triệu Đà

Năm 2665 tH, 214 ttl, Nhà Tần xâm lăng đất Việt Lạc ở Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Nhưng thất bại. *[106]

Năm 2872 tH, 207 ttl, Triệu Đà chiếm đất nay là Quảng Tây Quảng Đông, đánh Hồ Nam, Đồng Đình của Việt Lạc.

d. Thời Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam

Năm 2919 tH, 40 dl, trong mấy tháng, quân khởi nghĩa do Đức Trưng Trắc lãnh đạo, đã chiếm lại 65 thành. Trong suốt 2000 năm qua, sách vở Trung Hoa đã giảm thiểu và xuyên tạc chiến công hiển hách nầy.

Hiện nay đã có khảo cứu về địa bàn hoạt động của quân khởi nghĩa đương thời. Việc khảo cứu căn cứ trên những dấu vết trong sách vở Trung Hoa, dấu tích tại hiện trường, và đặc biệt qua nhiều đền thờ, thần tích của các Vị Anh Hùng ở vùng đất đã xảy ra chiến trận.

Kết quả xác chứng nghĩa quân Việt Lạc đã chiếm lại toàn đất Việt Lạc, gồm vùng Lĩnh Nam và Đồng Đình. *[107]

e. Truyện Hồng Bàng

Năm 3414 tH, 535 dl, quan Trung Hoa Lịch Đạo Nguyên đã viết Truyện Hồng Bàng trong quyển Thủy Kinh Chú.

Dầu nhiều chi tiết đã bị sửa đổi do mưu đồ đồng hóa dân Việt vào tộc Hoa, Truyện Hồng Bàng cũng đã ghi nhận bờ cõi của Hùng Vương (Vua Hùng), Việt Lạc, "Đông giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục, Bắc đến Hồ Đồng Đình, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh (Chiêm Thành)". *[108]

Như vậy, hơn 600 năm sau khi vùng Đồng Đình bị Nhà Hán tách ra khỏi đất Việt Lạc, không chỉ người Tộc Việt, mà cả quan lại Trung Hoa cũng ghi nhận đất Việt Lạc ‘Bắc đến Hồ Đồng Đình’.

*********

VII. VIỆT VÀ HOA THỜI HÙNG 4A, 1833-2108 tH, 1046-771 ttl

1. VẤN ĐỀ TỘC HOA

1.1. Tộc Hoa

a. Du mục Thiểm Tây

Bộ tộc Chu khởi phát ở vùng đồng cỏ khô cằn giá lạnh Thiểm Tây, vùng phía Bắc Tần Lĩnh.

Qua nhiều đời và nhiều thay đổi chỗ ở, bộ tộc Chu phát triển thành 1 bộ lạc lớn, liên minh với các bộ lạc khác thành 1 tiểu quốc, dời đô về phía đông vùng Sông Vị. Quanh thung lũng Sông Vị là vùng đồng cỏ khô cằn rộng lớn.

Năm 1833 tH, 1046 ttl, Chu Vũ Vương thành lập Nhà Chu. Nhóm người nầy trở thành tộc Hoa.

Tộc Hoa thành hình do bộ tộc Chu tụ tập nhiều nhóm dân du mục, nhờ Nhà Chu mà trở thành một tộc dân. Tộc Hoa chỉ là 1 đám du mục sơ khai, bạo động, chưa có Hệ thống Tư Tưởng, cả Ngôn từ và Chữ viết đều sơ đẳng.

b. Nhà Chu. Nhà Chu được chia thành 2 thời kỳ :

Thời đóng đô tại đất Cảo, gần Tây An, nay là tỉnh Thiểm Tây gọi là Tây Chu, từ năm 1833-2108 tH, 1046-771 ttl.

Thời kỳ chạy về Lạc Dương, 2108-2623 tH, 771-256 ttl, gọi là Đông Chu.

c. Nước Tần. Năm 2108 tH, 771 ttl, vùng Sông Vị của Nhà Chu bị nhóm du mục Khuyển Nhung xâm chiếm, thành lập Nhà Tần. Nhà Chu dời đô về phía đông, gần Lạc Dương. Năm 2623 tH, 256 ttl Tần diệt Chu. Năm 2658 tH, 221 ttl, Tần Doanh Chính thành lập nước Trung Hoa, và tự xưng là Tần Thủy Hoàng, vua đầu tiên của tộc Hoa. *[109]

d. Thuyết Thiên Tử Thế Thiên 

Với di sản độc tôn độc tài của nền văn hóa gốc du mục, với âm mưu thần thánh hóa giai cấp thống trị, thời Chu hình thành thuyết 'Thiên tử thế Thiên hành Đạo', vua là 'con Trời, thay Trời  trị dân'.

‘Thiên tử Nhà Chu’ thành Hoàng đế thống trị và ban phát quyền lực cho mọi sắc tộc, mọi dân nước khắp thiên hạ.

Trong 3.000 năm qua, tộc Hoa luôn tự tuyên dương là tộc dân văn minh, tiền tiến, thần thánh, và là tầng lớp thống trị cao cả đầy ơn ích cho toàn thể mọi tộc dân trong vùng. *[110]

1.2. Những Sự Thực Lịch Sử

1. Sự thực lịch sử là một nhóm dân du mục lạc hậu ở vùng lạnh giá khô cằn Thiểm Tây đã được bộ tộc Chu gom góp. Năm 1833 tH, 1046 ttl, họ thành lập Nhà Chu ở thung lũng Sông Vị. Sau nầy họ được gọi là tộc Hoa.

2. Sự thực trước tộc Hoa hơn 4.000 năm, Tộc Việt đã khởi nguyên ở vùng Lúa Nước phì nhiêu quanh Hồ Đồng Đình.

3. Trước tộc Hoa 2000 năm, Tộc Việt đã sinh sống trên khắp vùng Á Đông, từ Sông Hoài Tần Lĩnh tới Hải Vân. Tộc Việt đã phát triển nền Văn minh và Văn hóa Lúa Nước trỗi vượt.

4. Trước tộc Hoa 1100 năm, và 1000 năm, Việt Lạc Sông Hồng đã nhiều lần phổ biến kiến thức và kỹ thuật tiên tiến lên vùng Đồng Đình và Việt Hạ. *[111]

5. Trước tộc Hoa hơn 300 năm, Tộc Việt đã kiện toàn nền Văn hóa nhân bản cao, đã có hệ thống chữ viết với hơn 5.000 chữ, có 3.000 chữ chuẩn xác,

6. Năm 1046 ttl, dân Hoa thành hình, với nhóm du mục sơ khai, không thể lưu lại truyền thuyết hoặc tiền sử nào.

7. Gần như đồng thời với việc thành hình của tộc Hoa du mục ở Thiểm Tây, Việt Lạc Sông Hồng đã đúc những tuyệt tác bằng đồng và đã ghi lại toàn bộ Hệ thống Tư Tưởng Á Đông trên Thạp và Trống đồng Đông Sơn.

8. Ngay lúc nhà Chu được thành lập, đoàn Sứ giả Việt Lạc Sông Hồng đã tới tận thủ đô Cảo Kinh để phổ biến chính sách cai trị, học thuyết, lễ nghĩa, học thuật, kể cả la bàn, cho triều đình Chu du mục lạc hậu. *[112]

9. Vào thời Chu, 1833-2623 tH, 1046-256 ttl, chưa có nước Trung Hoa. Nhà Chu đã chỉ là một nước nhỏ trong một vùng có nhiều nước rộng lớn, đông đúc, và cường thịnh hơn.

10. Thời Tây Chu, 1833-2108 tH, 1046-771 ttl, nước hùng mạnh nhất trong vùng là Nước Sở, dân Việt, ở vùng đất giữa Sông Dương Tử và Sông Hoài.

11. Năm 2108 tH, 771 ttl, triều Chu bị nhóm du mục Khuyển Nhung đuổi khỏi vùng thung lũng Sông Vị, và trở thành Đông Chu. Vùng Sông Vị bị Khuyển Nhung chiếm cứ và trở thành Tần. Tần dần dần trở thành hùng mạnh. Năm 2623 tH, 256 ttl, Tần diệt Chu.

12. Tổ tiên gần của tộc Hoa là nhóm du mục Khuyển Nhung nhà Tần, 2108 tH, 771 ttl. Chúng sơ khai, lạc hậu và tham tàn hơn nhóm nhà Chu. *[113]

13. Năm 2658 tH, 221 ttl, bắt đầu có nước Trung Hoa, khi Tần Doanh Chính thôn tính toàn vùng Trung Nguyên. Doanh Chính đã ý thức rõ ràng sự thực nầy, nên tự xưng là Thủy Hoàng, Vua Đầu Tiên của Trung Hoa.

14. Năm 2672 tH, 207 ttl, phần đất Quảng Tây và Quảng Đông của Việt Lạc bị Triệu Đà chiếm đóng. Đây là tiếp xúc đầu tiên của Việt Lạc với Trung Hoa. Nhưng Triệu Đà lại tự sửa đổi theo phong hóa Việt. *[114]

15. Những oai phong và quyền thế của ‘thiên tử Nhà Chu’ chỉ có trong sách vở của giới thống trị Trung Hoa. Cắt bỏ các thêm thắt gượng ép về vai trò của thiên tử Nhà Chu, và của tộc Hoa, lịch sử sẽ rõ nét và trung thực hơn.

2. THỜI HÙNG 4A và TÂY CHU, 1833-2108 tH, 1046-771 ttl

2.1. Thời Hùng 4 và Nhà Chu

Thời Hùng 4 khởi đầu cùng với năm thành lập Nhà Chu, 1833 tH, 1046 ttl.

Trái với tuyên truyền xảo trá của Trung Hoa, đối với Tộc Việt, Chu chỉ là 1 nước nhỏ bé mới thành lập ở thung lũng Sông Vị xa xôi trên phương Bắc. Toàn thể Tộc Việt, đặc biệt vùng rộng lớn từ Sông Dương Tử tới Hải Vân, đã có nếp sống phát triển, và đã không hề chịu ảnh hưởng gì của Nhà Chu.

2.2. Thực lực Tây Chu

a. Tây Chu, sông Vị

Thời 1833 tới 2108 tH, 1046-771 ttl, Nhà Chu ở tại Cảo Kinh, gần Tây An, Thiểm Tây, không mở rộng lãnh thổ. Suốt 275 năm đó, Nhà Chu là 1 đất nước vừa đủ sức thung lũng Sông Vị. Sau đó, bị đuổi chạy. Quanh Nhà Chu, chỉ riêng phía Bắc Sông Hoài, là các thành phần Nhà Thương, nhiều sắc dân đông đảo và cường thịnh hơn Nhà Chu.

Những nước bị sách vở Trung Hoa coi là phụ dung của Nhà Chu, nếu có, cũng chỉ là những liên minh lỏng lẻo.

b. Tuyên truyền xảo trá

Những đặc ân, khai hóa, tiên tiến của ‘thiên triều Chu’ du mục lạc hậu, của tộc Hoa... đã chỉ là những bịa đặt bất lương của bọn phục vụ chủ nghĩa 'Thiên Tử Thế Thiên', nô hóa thiên hạ, trấn áp tinh thần của mọi sắc dân khác.

Những uy thế của Chu Vũ Vương tụ tập 800 chư hầu, những quyền lực thành lập các chư hầu vĩ đại, như nước Sở ở Nam Sông Hoài... đều là những hoang tưởng, những gán ghép của thời sau.

Những nhà bác học thần thánh như Chu Văn Vương học Sách Lạc, viết Kinh Dịch, những vị thánh đức như Chu Công Đán viết Chu Lễ... cũng chỉ là những soán đoạt tác phẩm, những gán ghép của giới thống trị Trung Hoa, để thần thánh hóa vua chúa Trung Hoa.

2.3. Hoa và Việt thời Tây Chu

a. Hoa và vùng Bắc Sông Hoài

Sinh sống ở vùng du mục khô cằn giá lạnh Thiểm Tây, người Tộc Hoa đã phát triển cuộc sống dựa vào vũ lực, phát triển những đặc tính của du mục là coi trọng sức mạnh, võ nghệ, trọng phái nam, hiếu thắng, tàn bạo, áp bức.

Từ thời Hậu Hạ, qua thời Thương, dân vùng Bắc Sông Hoài và hạ lưu Hoàng Hà đã có thêm văn hóa lúa nước của người Tộc Việt. Nhờ đó, cuộc sống con người đã tốt đẹp hơn, thêm hòa hợp với thiên nhiên, thêm hiếu hòa. *[115]

b. Lãnh thổ và Dân số

Nơi phát xuất Nhà Chu là vùng thung lũng Sông Vị ở Thiểm Tây, phía Bắc Tần Lĩnh. Vì vậy, vùng đất Chu Vũ Vương ảnh hưởng, nếu có, cũng chỉ là vùng đất tiếp giáp với thung lũng Sông Vị.

Như vậy, trong thời gian đầu, lãnh thổ Nhà Chu tối đa cũng không bằng 5% toàn thể Đất Tộc Việt.

Ngoài ra, vì mới tụ tập từ các bộ lạc du mục, dân số Tộc Hoa không thể đông hơn 5% toàn thể dân Tộc Việt đã có hơn 4.000 năm phát triển ở khắp vùng Á Đông.

c. Văn minh và Văn hóa

Việt và Hoa lại càng xa cách nhau về văn minh và văn hóa.

Dầu cùng là du mục, giữa các bộ tộc Hoa cũng có nhiều điểm khác biệt. Việc tụ tập càng chứng tỏ họ chưa có thời gian để phát triển những đặc điểm của một nền văn minh và văn hóa lớn. Họ còn là những bộ tộc du mục với nền văn hóa du mục sơ khai. Đang khi đó, Tộc Việt đã có mấy ngàn năm phát triển nền văn minh và văn hóa Lúa Nước, với nhiều tấn phát mọi mặt, như được ghi nhận trong truyền thuyết suốt mấy ngàn năm trước tộc Hoa.

d. Dòng Máu Hoa

Qua thời gian dài chung sống, máu Hoa, chỉ với 5% dân số, đã hòa loãng dần trong máu của 95% dân chúng Việt. Càng xuống Nam, càng tiếp xúc với đông người Tộc Việt thuần chủng, dòng máu Hoa đã thành không đáng kể.

Tuy vậy, giới thống trị Trung Hoa ngày càng khai thác tận dụng chủ nghĩa 'Thiên tử thế Thiên' cực đoan của tộc Hoa, ngày càng tạo ảo tưởng tộc Hoa chính là tầng lớp thống trị toàn quyền, cao cả, đang ngự trị toàn thể thiên hạ.

3. VIỆT HẠ THỜI HÙNG 4A, 1833-2108 tH, 1046-771 ttl

3.1. Nước Sở vùng Bắc Dương Tử

a. Trung Hoa Xuyên tạc

Theo sách vở Trung Hoa, năm 1849 tH, 1030 ttl, Chu Thành Vương phong Hùng Dịch lập Nước Sở ở vùng giữa Sông Hoài và Sông Dương Tử. Vua Nước Sở được Chu Thành Vương cho thờ cúng Tổ tiên là Nhà Hạ.[116]

Thực ra, việc Chu Thành Vương ‘phong cho’ Hùng Dịch ‘thành lập’ Nước Sở, chỉ là kiểu nói xuyên tạc của chủ thuyết 'vua Trung Hoa là con Trời', khi phải đề cập tới một Nước khác trong vùng.

Thời Chu, nước Sở rộng gấp mấy lần Nhà Chu. Văn minh và văn hóa Nước Sở phát triển vượt xa Nhà Chu. *[117]

b. Văn minh Nước Sở

Sách vở Trung Hoa ghi dân Sở là người Tộc Việt, dân Sở có tiếng nói, phục sức, nhạc cụ, âm nhạc, và tính khí, hình dạng... đều khác với dân Hoa.

Khảo cổ hiện nay ghi nhận Nước Sở có nhiều nét văn hóa ‘thời Thương’. Di vật Sở có nhiều đồ đồng, đồ sắt, sơn mài, tơ lụa với nhiều nét đặc thù, nhiều hình rắn, long, chim Việt. Dân Nước Sở đã truyền đời thờ cúng Tổ Tiên.

Tất cả đều là dấu chỉ Nước Sở nối tiếp Thời Hạ, ở vùng đất nhà Hạ, giữa Sông Dương Tử và Sông Hoài. *[118]

c. Thực lực Nước Sở

Theo sách vở Trung Hoa, ngay khi vừa thành lập, nước Sở đã hùng mạnh, mở rộng lãnh thổ, liên minh với nhiều nước khác. Từ Bắc Sông Dương Tử, Sở đã mở rộng lãnh thổ lên phía Bắc Sông Hoài, khiến nhiều nước trong vùng phải liên minh chống Sở.

Sở hùng mạnh hơn 800 năm, từ 1849 tới 2656 tH, 1030-223 ttl, nhiều thời kỳ làm bá chủ toàn vùng. *[119]

Sự kiện Sở hùng mạnh ngay khi vừa được ‘thiên tử Nhà Chu’ cho thành lập, chứng tỏ sức mạnh của Sở đã có trước khi Nhà Chu thành hình. Sức mạnh nầy là do việc liên tục phát triển từ thời Hạ, qua thời Thương, tới thời Đông Chu.

d. Thời Sở

Dầu với luận điệu đè bẹp mọi dân nước dưới uy quyền ‘thiên tử Nhà Chu’, sách vở Trung Hoa cũng không thể giấu được sự thực là dân nước rộng lớn và hùng cường nhất trong thời Tây Chu là Sở. Tìm hiểu khách quan về tình hình đương thời trong vùng, thời kỳ nầy phải được gọi là Thời Sở.

3.2. Vùng Nam Dương Tử

Trong khi Nước Sở nối tiếp Nhà Hạ, liên tục phát triển ở vùng Bắc Dương Tử, và mở rộng lãnh thổ lên đồng bằng Hoàng Hà, dân Việt Hạ ở Nam Dương Tử cũng lớn mạnh và thành lập Nước Việt vùng Chiết Giang. Sở và Việt cũng có liên lạc thường xuyên. Tuy nhiên, đối với Trung Hoa, vùng Nam Dương Tử quá xa xôi, chỉ được nói tới khi Nước Việt vượt Sông Hoài, ở thời kỳ sau.

4. VIỆT THƯỢNG THỜI HÙNG 4A, 1833-2108 tH, 1046-771 ttl

4.1. Liên tục Phát triển

a. Chim trĩ

Đối với Trung Hoa, vùng Việt Thượng xa lạ hơn Nam Dương Tử. Tuy vậy, có vài sự kiện được ghi nhận trong sách vở Trung Hoa về thời Chu.

Theo sách vở Trung Hoa, đời Chu Thành Vương,  1837-1858 tH, 1042-1021 ttl, có sứ của Việt Thượng tới dâng chim trĩ trắng. Nhiếp chính Chu Công Đán nói : ‘Chính lệnh không ban đến thì người quân tử không coi người ta là bề tôi của mình’. Rồi sai làm xe chỉ nam đưa sứ giả về nước bằng đường biển. *[120]

Như vậy, Dầu áp đặt chủ thuyết Thiên tử thế Thiên, áp đặt thiên tử Nhà Chu thống trị thiên hạ, sách vở Trung Hoa cũng ghi nhận Việt Thượng ‘không phải là bề tôi’ của thiên tử Chu.

b. Sông Hồng Việt Thượng tiến bộ

Theo Kinh Lễ, chim trĩ gáy theo đúng thời tiết. Truyền thuyết nầy ghi truyền thuyết Đế Nghiêu nhận lịch chỉ dẫn thời tiết của Sứ giả Việt Thượng. *[121]

Việc sách vở Trung Hoa sửa đổi truyền thuyết trên, chứng tỏ thời đó Trung Hoa đã công nhận Sông Hồng Việt Thượng là 1 nước có văn hiến quy củ, đã gởi sứ ngoại giao đến các vùng xa không thuộc ‘bề tôi’ của Nhà Chu. *[122]

Thực vậy, 200 năm trước khi Nhà Chu thành hình, dân Việt Lạc đã đánh bại Ân Cao Tôn. *[123]

4.2. Sông Hồng phồn thịnh

a. Đông đúc trù phú

Từ thời 1879 tH, 1000 ttl, đồng thời với Nhà Chu lập nghiệp, vùng Đông Sơn trên bờ Sông Mạ, Thanh Hóa, đã để lại nhiều Thạp và Trống đồng, lưu lại dấu tích nền kỹ nghệ phồn thịnh, với những tuyệt tác vượt thời gian.

Tài liệu về thời cách đây 2.000 năm đã ghi sự phát triển trỗi vượt, đông đúc trù phú của vùng Sông Hồng Sông Mạ.

Theo Từ Tùng Thạch trong Việt Giang Lưu Vực Nhân Dân Sử, so sánh dân số thời đó đã cho thấy Giao Chỉ, tức là vùng Sông Hồng Sông Mạ, có đông người nhất, số người trong mỗi gia đình cũng đông nhất. *[124]

Theo Quảng Đông Tân Ngữ của Khuất Đại Quân : "Giao Chỉ mỗi năm nộp thóc cho quan tư nông hơn 1.360 vạn hộc, (13.600.000). Tính ra tất cả thuế các châu Mân (Phúc Kiến), Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây), Điền (Vân Nam), Kiềm (Quí Châu) cũng không bằng". *[125]

b. Thanh bình thịnh vượng

Đặc điểm quan trọng khác là trong hơn 800 năm thời Chu, trong khi phương Bắc luôn chiến tranh xâu xé, Việt Lạc phát triển thanh bình thịnh vượng. Cuộc sống thịnh vượng và thanh bình nầy đã là dấu chứng cho những phát triển về mọi mặt, không chỉ kỹ thuật trồng cấy, kim loại... mà nhất là về văn hóa, văn học, và học thuyết.

Tất cả đều trỗi vượt dân Việt ở vùng Dương Tử, vượt xa dân vùng Bắc Sông Hoài chậm tiến, vượt rất xa dân du mục Hoa Nhà Chu lạc hậu sơ khai.

5. VẤN ĐỀ CHU DỊCH và CHU LỄ

5.1.  Vấn đề Chu Dịch

a. Theo sách vở Trung Hoa

Theo sách vở Trung Hoa, Chu Vũ Vương sáng lập Nhà Chu. Nhưng cha của ông, Chu Văn Vương, là người đặt nền móng cho mọi sự. Vì khởi tạo biến động lật đổ Nhà Thương, Văn Vương bị giam. Trong thời gian ngồi tù, Ông đã nghiên cứu Sách Lạc mà viết quyển Kinh Dịch. *[126]

Cũng theo sách vở Trung Hoa, trước Chu Văn Vương hơn 1800 năm, Phục Hy đã từ ý niệm và ký hiệu Âm Dương lập ra Bát quái Tiên thiên.

Trước Chu Văn Vương 1.000 năm, Đại Vũ đã có Sách Lạc vvũ trụ. Nhưng trong hơn 800 năm giữa Phục Hy và Đại Vũ, trong hơn 1.000 năm giữa Đại Vũ và Chu Văn Vương, không có dấu vết khai triển thuyết Âm Dương.

b. Khảo cổ hiện nay

Khảo cổ hiện nay cho thấy trong hơn 5.000 chữ tìm thấy ở thủ đô An Dương của thời Ân, 1579-1833 tH, 1300–1046 ttl, không hề có dấu vết của Âm Dương Tám Quẻ. An Dương ở vùng Hoàng Hà, Bắc Sông Hoài.

Theo các học giả Trung Hoa hiện đại, thuyết Âm Dương xuất hiện vào cuối thời Thương hoặc đầu thời Chu, khoảng 1779-1879 tH, 1100-1000 ttl. *[127]

Đang khi đó, cũng vào thời cuối Thương đầu Chu, qua hoa văn, trang trí, và hình dạng của Thạp và Trống Đông Sơn, dân Việt Lạc Sông Hồng đã để lại chứng cứ không chỉ nguồn gốc của chữ Âm chữ Dương, và nội hàm của ý niệm Âm Dương, mà còn cả ký hiệu và hàm ý của Tám Quẻ. *[128]

5.2. Vấn đề Chu Lễ

a. Ai học Sách Lạc và viết Chu Lễ ?

Sự nghiệp quân sự của Chu Văn Vương được con là Chu Vũ Vương nối tiếp, và con khác là Chu Công Đán / Cơ Đán tiếp tục công trình văn hóa.

Chu Công Đán được cho là đã học Sách Lạc và viết sách Chu Lễ, đặt nền móng chính sách ‘Nhân trị’ cho thời Chu. Khổng Tử và nhà Nho mọi thời đều tôn Chu Công Đán là Ông Tổ của văn hóa Trung Hoa. *[129]

b. Soán đoạt trơ trẻn

Như Chu Văn Vương, Chu Công Đán phát xuất từ dân du mục tàn bạo, kém lễ nghĩa. Đột nhiên ông trở thành vị ‘Đại thánh’ phát khởi việc dạy Lễ Nghĩa và chính sách ‘Nhân trị’ cho dân trong vùng. Dân trong vùng lại là những người vốn đã có truyền thống ít nhất hơn 500 năm sống trong lễ nghĩa hòa hiếu của nền văn hóa Nông nghiệp Lúa nước.

Trái khoáy nầy, lại một lần nữa, là chứng cứ soán đoạt trơ trẻn, để tôn vinh 'thiên triều' và các vị Tổ của tộc Hoa.

VIII. VIỆT và HOA THỜI HÙNG 4B và 4C,  2108-2699 tH, 771-180 ttl

1. PHƯƠNG BẮC THỜI HÙNG 4B : ĐÔNG CHU VÀ TẦN

1.1. Đông Chu

a. Xuân Thu và Chiến Quốc

Theo sách vở Trung Hoa, năm 2108 tH, 771 ttl, sau 275 năm ở vùng thung lũng Sông Vị, triều đình Nhà Chu đã bị nhóm du mục Khuyển Nhung đuổi chạy. Bộ lạc Khuyển Nhung gốc vùng Ninh Hạ, thờ chó sói trắng.

Năm 2108 tH, 771 ttl, Chu Bình Vương dời đô tới vùng Lạc Dương, Hà Nam hiện nay. Từ đó gọi là Đông Chu. Đông Chu chia 2 thời kỳ : Xuân Thu, 2108-2476 tH, 771-403 ttl, và Chiến Quốc, 2476-2623 tH, 403-256 ttl.

Sử Trung Hoa mô tả 515 năm thời Đông Chu là thời nội chiến Trung Hoa, khi mọi tộc dân đều thần phục thiên tử Nhà Chu của tộc Hoa. ‘Thiên tử Nhà Chu’ luôn được trình bày như trung tâm quyền lực của toàn ‘thiên hạ’.

Dầu vậy, dầu triệt để khai thác chủ trương Nô hóa Thiên hạ, sách vở Trung Hoa cũng chỉ có thể tạo cho ‘thiên tử Nhà Chu’ một vai trò bù nhìn trong suốt mấy trăm năm. Thời Chiến Quốc, 2476-2623 tH, 403-256 ttl, vai trò bù nhìn cũng đã mất hẳn. Vua các nước cũng lần lược tự coi mình là thiên tử.

b. Thực tế Đông Chu

Thực tế, lãnh thổ Đông Chu chỉ là mảnh đất nhỏ quanh Lạc Dương, ở giữa ‘thiên hạ’ rộng lớn, đông đúc, và cường thịnh. Thời nầy chưa có nước Trung Hoa. Triều đình Nhà Chu không ảnh hưởng gì các cuộc giao tranh giữa các nhóm quyền lực hùng mạnh trong vùng. *[130]

1.2. Nước Tần

a. Theo sách vở Trung Hoa

Theo sách vở Trung Hoa, năm 2108 tH, 771 ttl, khi thiên tử Chu Bình Vương bị nhóm du mục Khuyển Nhung từ Ninh Hạ tấn công và bỏ vùng Sông Vị chạy tới gần Lạc Dương, thì Chu Bình Vương cho nhóm Khuyển Nhung thành lập nước Tần trên vùng Sông Vị. Nhóm du mục Tần nầy bị các nước trong vùng đố kỵ, chống đối. Nhưng Tần đã trở nên hùng mạnh trong suốt hơn 500 năm. Nhiều liên minh được thành lập cùng với Sở để chống Tần.

Năm 2623 tH, 256 ttl, Tần diệt Chu. Năm 2656 tH, 223 ttl, Tần diệt Sở. Năm 2658 tH, 221 ttl, Tần Doanh Chính xâm chiếm tất cả các nước trong vùng, thành lập Nước Trung Hoa. Doanh Chính tự xưng là Tần Thủy Hoàng, vua đầu tiên của Trung Hoa. Tần đạt tuyệt đỉnh với Tần Thủy Hoàng, nhưng bị Nhà Hán chấm dứt 15 năm sau, 2673 tH, 206 ttl.

b. Thời Tần, 2108-2673 tH, 771-206 ttl

Tuy sách vở Trung Hoa cố tình đề cao vai trò ‘thiên tử’ của Nhà Chu, tình hình thời Đông Chu vẫn quay quanh hai nước hùng mạnh nhất là Sở và Tần.

Nhóm du mục Tần đánh chiếm vùng Sông Vị của Chu. Với văn hóa du mục trọng võ nghệ, hung bạo, hiếu chiến, Tần đã hùng mạnh với đội quân đông đảo, được huấn luyện chặt chẽ và khắt khe. Sự tàn ác của Tần đã góp phần đem lại chiến thắng. Tần hùng mạnh trong suốt thời Đông Chu. *[131]

Như nước Sở thời Tây Chu, theo thực tế lịch sử, thời Đông Chu phải gọi là Thời Tần, 2108-2673 tH, 771-206 ttl.

c. Tần với tộc Hoa

Nhóm du mục Tần là những vị tổ nối tiếp dòng văn hóa du mục của tộc Hoa, khi nhóm du mục Chu bị tàn rụi.

Nhóm du mục Tần quá khích, tàn bạo hơn du mục Chu, đã để lại nhiều hậu quả tai hại trên đại chúng Trung Hoa và trên các dân nước trong vùng.

2. TƯ TƯỞNG và VĂN HÓA THỜI HÙNG 4B

2.1. Phát triển

Thời Đông Chu là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của tư tưởng và văn hóa ở vùng bắc Sông Hoài, Hoàng Hà. Đây là thời của Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử, Trang Tử, Hàn Phi Tử, Mặc Tử... Giữa các học thuyết, Khổng học và Lão giáo có nhiều truyền nhân và ảnh hưởng sâu rộng nhất.

Ở thời kỳ nầy, thương mại trở nên quan trọng, chiến thuật quân sự thay đổi. Đây không phải là kết quả của chính sách cai trị của Nhà Chu, hoặc Nhà Tần, mà do xu thế tự phát vì thời cuộc của các dân, các nước trong vùng.

2.2. Lão giáo

a. Lão Tử

Lão Tử được coi là người viết quyển Kinh Đạo Đức. Nhưng tên và tiểu sử của Ông đã được sáng tác sau ảnh hưởng của Kinh Đạo Đức, và của phong trào thờ kính Ông như vị Sáng Tổ của Đạo giáo, được tôn là Thái Thượng Lão Quân, với nhiều quyền uy siêu phàm.

b. Kinh Đạo Đức

Theo sử Trung Hoa, Kinh Đạo Đức xuất hiện khoảng năm 2339 tH, 540 ttl.

Kinh Đạo Đức gồm 37 chương luận về chữ Đạo, 41 chương luận về chữ Đức, với lời lẽ khúc chiết, uyên thâm. Tổng cộng khoảng 5.000 chữ. - Kinh Đạo Đức hướng dẫn con người chấp nhận hiện trạng, sống hòa hợp với thiên nhiên và tuân theo quy luật của thiên nhiên để sống gần với Đạo. - Kinh Đạo Đức còn được coi là quyển sách hướng dẫn vua chúa cách cai trị đất nước theo cách thức tự nhiên.

Quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của Kinh Đạo Đức về cơ trời, vạn vật sinh hóa... được coi là phương pháp tu luyện huyền bí để được trường sinh.

c. Kinh Đạo Đức với truyền thống Việt Lạc

Kinh Đạo Đức đã luôn là những tư tưởng khó thấu triệt đối với Trung Hoa. Kinh Đạo Đức xuất hiện giữa nền văn hóa Trung Hoa như một tuyệt tác lạ thường, nằm ngoài trào lưu tư tưởng của Trung Hoa.

Hành tung của Lão Tử cũng bất thường giữa thế giới quan lại trọng quyền chức tiền tài của Trung Hoa. Lão Tử là vị thần độc nhất được Trung Hoa thờ kính với hình ảnh 1 nông dân cởi trâu của dân vùng nông nghiệp lúa nước.

Mọi thần thánh Trung Hoa đều là các quan mập, phè phỡn, ăn no mặc đẹp. 3 vị Phúc Lộc Thọ là 3 Thủ tướng 3 triều.

 

Niềm tin, các vị thần, và nghi thức của Đạo giáo cũng thuộc nền văn hóa gốc nông nghiệp lúa nước.

Ngoài ra, trước Kinh Đạo Đức hơn 400 năm, Thạp đồng Đào Thịnh và Trống đồng Ngọc Lũ đã đúc những ký hiệu mã hóa và diễn tả ý nghĩa chữ Đạo, chữ Đức mà Kinh Đạo Đức khai triển. *[132]

Kinh Đạo Đức còn xác quyết : 'Đạo trụ Nam Thiên', Đạo ở tại Phương Nam.

Tất cả đều nằm trong truyền thống xuyên suốt tư tưởng và văn hóa Việt Lạc.

2.3. Khổng Tử, Khổng học  *[133]

Khổng Tử, 2328-2400 tH, 551-479 ttl, người Sơn Đông, vùng đất Nhà Thương, vùng đất đã hơn ngàn năm kết hợp ảnh hưởng nền văn hóa gốc du mục của dân địa phương với nền văn hóa gốc lúa nước của dân Việt.Khổng Tử đã cố gắng gạn lọc và tổng hợp 2 nền văn hóa nông nghiệp lúa nước của Tộc Việt và du mục của tộc Hoa.

Khổng Tử san định lại những sách cũ thành bộ Lục Kinh : Thư, Thi, Lễ, Dịch, Xuân Thu, Nhạc. Khổng Tử đã cố gắng gạn lọc và tổng hợp 2 nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, nêu rõ nhiều điểm trước đây chỉ tiềm tàng.

Trong các tác phẩm của Khổng Tử, những yếu tố thuộc Tộc Việt, tức là thuộc nền văn hóa gốc nông nghiệp lúa nước, thiên về tình người, đã chiếm ưu thế hơn các yếu tố khác.

2.4. Nguồn gốc các Kinh và Khổng Tử

a. Thuật nhi bất tác

Khổng Tử có câu nói nổi tiếng : "Thuật nhi bất tác". Ông chỉ kể lại, diễn giải, chứ không sáng tác. Như vậy, Khổng Tử xác định những sách của Ông, hoặc ít nhất là nội dung của sách, đã có trước khi Ông san định.

Đặc biệt ngoài 3 quyển Kinh Đạo Đức, Chu Dịch và Chu Lễ, mà tác giả được gán cho người Hoa, không nơi nào nhắc tới Tác giả của những quyển có trước Khổng Tử. Theo thói tự gán cho tộc Hoa mọi điều hay tốt, đây là chứng cứ những Tác giả bị bỏ quên nầy không phải người tộc Hoa.

Ngày nay, những sách Khổng Tử san định đều mang tên Khổng Tử. *[134]

b. Lý lịch của Kinh Dịch

Trước Khổng Tử, Kinh Dịch đã có lý lịch dài từ Phục Hy (2879 ttl ), Đại Vũ (2070 ttl), thành Chu Dịch thời Chu Văn Vương 1046 ttl. Nhưng tất cả lý lịch đó chỉ ngụy trang việc thoán đoạt Kinh Dịch từ Dân Việt Lạc Sông Hồng. *[135]

c. Kinh Dịch của Việt Lạc Sông Hồng

Kinh Dịch dựa vào 2 ý niệm Âm Dương mà suy luận và diễn dịch mọi hiện tượng trong trời đất. Cho đến hiện nay, chưa hề có một học giả Hoa nào có thể tìm ra nguồn gốc và ý nghĩa nguyên thủy của tên gọi, của ý nghĩa, cũng như hình dạng nguyên thủy của chữ viết và ký hiệu của Âm, của Dương, của từng quẻ trong 8 quẻ, và của các tên Dịch, quái, quẻ, hào... Chỉ có những suy đoán mông lung rời rạc.

Thực ra, tiếng Âm và Dương và cả chữ Âm chữ Dương, có gốc từ tên gọi và hình dạng của Om và Rưng của dân Việt Lạc Sông Hồng, Việt Nam ngày nay. Om là cái Thạp, Rưng là cái Trống. *[136]

Cách đây hơn 3000 năm, Tổ Tiên Việt Nam vùng Sông Hồng Sông Mạ đã ký thác tên gọi, chữ viết, đồ biểu, nội dung súc tích của nhận thức, ý niệm và cách diễn giải Âm Dương và 8 Quẻ vào cấu trúc, trang trí, đặc tính và công dụng của Thạp Đào Thịnh và Trống Ngọc Lũ.  

      

Sơ đồ Thạp Đào Thịnh và Trống Ngọc Lũ với Ký Hiệu 8 Quẻ :

 

THẠP/Om/ÂM/

 

 

TRỐNG/Rưng/DƯƠNG/+

Đỉnh Nắp/Mặt

Càn -

 

Càn +

Quanh Nắp/Mặt

Khôn -

 

Khôn +

Thân

Khảm -

 

Ly +

Lòng Đầy

Đoài -

 

Tốn +

Lòng Rỗng

Chấn -

 

Cấn +

d. Kinh Thư của Dân Việt

Kinh Thư còn gọi là Thượng Thư, ghi lại các truyền thuyết, biến cố, kể cả lời nói của các vua quan từ thời Đế Nghiêu, Đế Thuấn cho đến thời Nhà Hạ, Nhà Thương, và Tây Chu. Kinh Thư ghi các chuyện hơn 1.150 năm trước khi tộc Hoa thành hình (năm 1046 ttl), chỉ là truyện tích của Dân Việt, không thể của dân Hoa.  *[137]

e. Kinh Thi của Dân Việt

Kinh Thi gồm 305 bài thơ, được Khổng Tử san định hơn 3.000 bài, có 3 phần : 160 bài ca dao, 105 bài hát nơi triều đình, 40 bài ca tụng các vua thời trước. Nhiều bài trong Kinh Thi có những điểm giống ca dao Việt Nam. Nhiều bài diễn tả tình yêu trai gái, tình chung thủy vợ chồng, cảnh sinh hoạt của nông dân, và nỗi thống hận của người dân với vua quan. Vì vậy, nhiều tác giả coi Kinh Thi là chứng cứ cho cuộc sống nông dân thời cổ.

Các điểm trên xác nhận những đặc điểm cuộc sống nông nghiệp lúa nước, của Dân Việt, của những tác giả Việt.

g. Kinh Nhạc của Dân Việt

Tần Thủy Hoàng thiêu hủy Kinh Nhạc năm 221 ttl. 1 ít bài sót lại đã trở thành thiên Nhạc ký trong Kinh Lễ.  Sau khi bị Tần Thủy Hoàng đốt, nhiều sách được ghi lại nhờ nhiều người đã thuộc lòng. Nhưng Kinh Nhạc chỉ còn lại ít bài. Chứng tỏ đa số giới học giả thời Tần là dân Hoa, không mấy yêu thích nhạc. Dân Hoa du mục không say mê thơ nhạc bằng dân Việt, với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước định cư. Phần mất mát, kể cả về Nhạc, là của dân Việt.

h. Kinh Lễ của Dân Việt

Kinh Lễ, Lễ Ký do môn đồ Khổng Tử ghi chép các lễ nghi thời trước. Các lễ nghi nầy có trước Khổng Tử.

Kinh Lễ miêu tả các nghi thức và dạy nhân nghĩa đạo đức, đặc điểm của văn hóa Việt và xa lạ với văn hóa Hoa.

Kinh Lễ cùng với Chu Lễ và Nghi Lễ được gọi chung là Tam Lễ. *[138]

i. Kinh Xuân Thu

Kinh Xuân Thu là bộ sử biên niên của nước Lỗ từ 722-481 ttl. Theo Mạnh Tử, sách nầy do Khổng Tử soạn.

3. VÙNG DƯƠNG TỬ THỜI HÙNG 4B, 2108-2672 tH, 771-207 ttl -

ĐỒNG THỜI VỚI ĐÔNG CHU / TẦN

3.1. Bắc Dương Tử

Thời Hùng 4B là thời hỗn loạn tranh giành. Vùng đất giữa Dương Tử và Sông Hoài bị kết vào vùng phía Bắc Sông Hoài, Trung Nguyên của Hán Hoa. Di tích, tài liệu, tác phẩm, phong tục, văn minh, văn hóa, niềm tự tin của dân Việt vùng Bắc Dương Tử, đã bị giới thống trị Trung Hoa tham tàn, muốn đồng hóa, hủy hoại, tiếm nhận và xuyên tạc.

3.2. Nam Dương Tử

a. Tiếp tục tăng triển

Vì Nam Dương Tử xa cách vùng Hoàng Hà Sông Hoài, nên sách vở Trung Hoa không quan tâm. Vì ở ngoài vùng rối loạn Hoàng Hà Sông Hoài và Bắc Dương Tử, Tộc Việt vùng Nam Dương Tử vẫn tiếp tục theo đà tăng trưởng dân số, văn minh và văn hóa thuần túy Việt.

b. Nước Việt ở Chiết Giang

Tình hình thay đổi khi Nước Việt, thủ đô Cối Kê ở Chiết Giang, có Câu Tiển thôn tính Nước Ngô, vượt Sông Hoài, và trở thành hùng mạnh nhất trong vùng, năm 2406 tH, 473 ttl. Vùng đã phát triển liên tục, được Đại Vũ lập thủ đô Cối Kê từ hơn 1.500 năm trước. Sách vở Trung Hoa ôm đồm ghi Câu Tiển xin thần phục Nhà Chu, được thiên tử Nhà Chu phong làm Bá để lo phụng thờ tổ tiên là Nhà Hạ, được thiên hạ nể phục.

Ngày nay, nhiều tài liệu về nước Việt Chiết Giang bị sáp nhập vào thời Chu, ngoại trừ đoàn chiến thuyền vô địch.

4. VIỆT LẠC THỜI HÙNG 4B, 2108-2672 tH, 771-207 ttl

Thời Chu của Trung Hoa kết thúc năm 2623 tH, 256 ttl, vì bị Tần diệt. Nhà Tần kết thúc năm 2673 tH, 206 ttl, vì bị Hán diệt. Tuy nhiên, Thời Hùng của Việt Lạc chỉ kết thúc năm 2699 tH, 180 ttl.

4.1. Tuyệt tác Văn hóa của Việt Lạc

Vào Thời Hùng 4, 1833-2699 tH, 1046-180 ttl, vùng đất Việt Lạc, gồm Đồng Đình và Việt Thượng, quá xa lạ với dân Bắc Sông Hoài, kể cả sách vở Trung Hoa viết về thời Chu. Nhưng sau khi bị Ân Cao Tôn xâm lăng, năm 1661 tH, 1218 ttl, và trước nạn giặc du mục phương Bắc tàn phá xã hội và nền Văn hóa của dân Việt vùng Bắc Dương Tử, Tổ Tiên Việt Lạc, đặc biệt vùng Sông Hồng, càng củng cố nền Văn hóa đặc thù của mình.

Nếp sống Việt Lạc vững mạnh qua mấy ngàn năm, với các định chế, phong tục, ca dao, truyện tích, Tết Lễ, đặc biệt với Bộ Truyền Kỳ thâm sâu thống hợp. Nhờ đó, sau hàng ngàn năm bị bạo quyền Trung Hoa phá hoại và áp chế, ngày nay đại chúng Việt Nam vẫn tiếp tục sống trọn nếp sống truyền đời đầy ơn ích của nền Văn hóa Việt Lạc. *[139]

4.2. Tuyệt tác Tri thức và Kỹ thuật

Ngoài phát huy và lưu truyền văn hóa, Tổ Tiên Lạc Hồng còn cất giữ tinh hoa tri thức Việt Lạc vào các tuyệt tác bằng đồng ở Đông Sơn, thời 1879 tH, 1000 ttl.  

Đồ đồng kiên trì với thời gian, giữ nguyên hình dáng, đường nét, và dấu tích qua nhiều ngàn năm. Tuyệt tác Thạp đồng và Trống đồng quí giá linh thiêng, nên được con cháu cất giữ chôn giấu qua mọi biến cố.

Tuyệt tác bằng đồng khích động lòng tham của giặc. Nhờ vậy, thay vì bị giặc hủy hoại như những sản vật khác, tuyệt tác bằng đồng được chính bọn giặc gian tham gìn giữ và lưu truyền.

Qua những ưu điểm tuyệt vời của tuyệt tác bằng đồng, Tổ Tiên đã ký thác và lưu truyền trọn vẹn ý niệm, học thuyết và tâm huyết của mình vào hoa văn, trang trí, và hình dạng của Thạp và Trống đồng Đông Sơn.

Hoa văn trên đồ đồng tinh vi và hàm súc đến nỗi, không chỉ bọn giặc tộc Hoa lạc hậu không thể nghi ngờ, mà bất cứ ai không thuộc dòng văn hóa thống hợp và toàn diện của Lạc Hồng, đều không thể thấu triệt.

Ngày nay, sau 2.000 năm gia sản Việt Lạc bị Trung Hoa tàn phá và soán đoạt, Thạp và Trống đồng Đông Sơn đã trở thành những chứng cứ sự phát triển vượt bực của Tổ Tiên Lạc Hồng cách đây hơn 3.000 năm, và vạch rõ những bạo ngược, gian lận và bất lương của giới thống trị Trung Hoa. *[140]

4.3. Việt Lạc hùng mạnh

Năm 221 ttl Tần Thủy Hoàng xâm chiếm toàn vùng Hoàng Hà, Bắc Dương Tử và lập Nước Trung Hoa. 7 năm sau, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư dẫn 50 vạn quân xâm lấn đất Việt Lạc ở vùng Hồ Nam, Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay. Đây là đoàn quân tinh nhuệ, chiến thắng, thống nhất toàn Trung Nguyên. Nhưng bị Việt Lạc đánh tan, Đồ Thư bị giết. *[141]

Đến năm 2665 tH, 214 ttl, dân Việt Lạc, toàn thể vùng Đồng Đình và Việt Thượng, đã là một dân nước hùng mạnh, vẫn ở ngoài những biến động vùng Bắc Dương Tử, ngoài ảnh hưởng của Trung Hoa. *[142]

5. VIỆT LẠC THỜI HÙNG 4C, 2672-2699 tH, 207-180 ttl

Năm 2672 tH, 207 ttl, Tần Thủy Hoàng sai Triệu Đà dẫn quân xâm lăng Việt Lạc, chiếm đóng 1 phần đất nay thuộc Quảng Tây, Quảng Đông. Nhưng năm 2673 tH, 206 ttl, khi Tần bị Hán diệt, Triệu Đà giết tất cả quan chức Nhà Tần, thay đổi nếp sống theo phong tục Việt Lạc, và quyết cùng Việt Lạc thành lập một Đế quốc riêng.

Năm 2699 tH, 180 ttl, Triệu Đà dùng kế Trọng Thủy ở rể, đánh chiếm Thành Ốc của vua An Dương, trị sở của Việt Lạc, nay là Cổ Loa. Năm 2699 tH, 180 ttl, chấm dứt Thời Hùng. *[143]

6. DI SẢN CHU - TẦN

6.1. Chủ thuyết Thiên Tử Thế Thiên

Tuy văn hóa Trung Hoa cũng gốc du mục như nhiều nền văn hóa toàn cầu khác, nhưng giới thống trị Trung Hoa đã đưa đặc tính trọng vũ lực, độc tôn, độc tài, thành một chủ thuyết. Đó là chủ thuyết Thiên Tử Thế Thiên, vua Trung Hoa là con Trời, thay Trời thống trị mọi dân mọi vật dưới bầu trời.

Chủ thuyết nầy manh nha ở thời du mục Chu, phát triển ở thời du mục Tần, và được Nhà Hán khai thác. *[144]

Vua Trung Hoa là Thiên tử Con Trời, các quan giúp Vua Trung Hoa thống trị dân là Thần Thánh, là Thiên Triều.

Do đó, thiên hạ, mọi người, mọi vật dưới bầu trời, có nhiệm vụ thiêng liêng là khuất phục mọi ý muốn của Vua chúa và quan lại Trung Hoa, như là thần phục Trời và thần thánh, phát sinh chủ nghĩa Nô hóa thiên hạ : thiên triều Trung Hoa có sứ mạng khuất phục mọi người thành nô lệ của Trung Hoa. Thiên triều Trung Hoa thi hành chính sách Soán đoạt hủy diệt : chiếm đoạt mọi hay tốt, và hủy diệt mọi vết tích trỗi vượt của những tộc dân khác.

Để thể hiện, thiên triều Trung Hoa dùng sách lược Ngoại nho Nội pháp : bên ngoài, và ngoại giao, thì tuyên truyền chính sách nhân trị, nhưng ngầm bên trong, và đối nội, thì khắc khe, tàn độc, sắt máu.

6.2. Đại họa Trung Hoa

Qua mọi biến cố suốt lịch sử Trung Hoa, bọn gian tham lợi dụng chủ thuyết nầy, tụ tập thành Thiên triều, áp đặt quyền sinh sát tuyệt đối trên toàn dân Trung Hoa, nô lệ hóa mọi dân sa vào móng vuốt chúng. Trung Hoa đã xâm lăng nhiều nước, tàn sát nhiều sắc dân, đã soán đoạt, hủy hoại, sửa đổi, xuyên tạc mọi di tích và tài liệu lịch sử.

Hiện nay, chủ thuyết quái ác nầy đang biến Trung Hoa thành nguy cơ đại họa cho toàn thể Nhân loại. *[145]

*********

IX. VIỆT LẠC CUỐI THỜI HÙNG VÀ THỜI NHÀ TRƯNG

2665-2922 tH, 214 ttl-43 dl

1. VIỆT LẠC CUỐI THỜI HÙNG

1.1. Khởi đầu Áp Lực Trung Hoa trên Việt Lạc

Tần Thủy Hoàng diệt Nhà Chu năm 2623 tH, 256 ttl, thống nhất Trung Hoa năm 2658 tH, 221 ttl, sai Đồ Thư năm 2665 tH, 214 ttl dẫn 50 vạn quân xâm lấn Việt Lạc. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Trung Hoa áp lực vùng đất Việt Lạc, ở vùng Hồ Nam, nay là Quảng Tây, Quảng Đông. Sau 3 năm Đồ Thư thua trận, bị giết. *[146]

Trước đó, năm 1661 tH, 1218 ttl, Việt Lạc đã bị Ân Cao Tôn xâm lấn. Sau 3 năm, Ân Cao Tôn bị đánh bại. Nhưng Ân Cao Tôn không phải người Hoa. Tộc Hoa chỉ thành hình năm 1833 tH, 1046 ttl, 172 năm sau. *[147]

1.2. Việt Lạc với Triệu Đà

a. Nước Nam Việt

Năm 2672 tH, 207 ttl, Tần Thủy Hoàng lại sai tướng Triệu Đà đánh chiếm một phần đất của Việt Lạc, nay thuộc Quảng Tây, Quảng Đông. Nhân việc Tần bị Hán diệt năm 2673 tH, 206 ttl, Triệu Đà giết tất cả quan tướng của Tần, tự xưng Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Nam Việt, đóng đô tại Phiên Ngung, nay là Quảng Châu.

Triệu Đà cố gắng thu phục lòng dân Việt Lạc trong vùng. Triệu Đà đặc biệt phát triển về chính trị, quân sự, và văn hóa bản địa, để trở thành một đế quốc biệt lập với triều Hán. Chính ông đã thay đổi nếp sống riêng, thay đổi trang phục, thay đổi cách xưng hô, theo phong tục Việt Lạc, lấy vợ Việt.

Đang khi đó, vùng Đồng Đình của Việt Lạc có Trường Sa Vương, và Việt Lạc Sông Hồng có Vua An Dương.

Năm 2698 tH, 181 ttl, quân Hán đánh phá Nam Việt, nhưng đại bại. *[148]

b. Triệu Đà chiếm Thành Ốc - Kết thúc Thời Hùng

Năm 2699 tH, 180 ttl, Triệu Đà chiếm đóng Thành Ốc (Loa Thành), trị sở của Việt Lạc Sông Hồng, (nay là Cổ Loa, cách Hà Nội 15 km). Theo truyền kỳ Mỵ Châu, Triệu Đà đã đánh bại Vua An Dương, với kế Trọng Thủy ở rể làm gián điệp.Năm 2699 tH, 180 ttl chấm dứt Thời Hùng. *[149]

2. VIỆT LẠC THỜI SUY VI

2.1. Nước Phụ dung của Nhà Triệu

Tuy Triệu Đà cai trị, nhưng chính Triệu Đà lại tự thay đổi theo Dân Việt để mong thành lập một đế quốc riêng.

Vì vậy, trong 69 năm, 2699-2768 tH, 180-111 ttl, vùng Sông Hồng, và trong 96 năm, 2672-2768 tH, 207-111 ttl, các vùng Nam Việt khác, Dầu sống dưới triều Nhà Triệu, dân Việt Lạc vẫn tiếp tục sống theo Văn hóa của Tổ Tiên, các Trưởng Lão Việt Lạc tiếp tục cai quản dân theo truyền thống. Lực lượng an ninh cũng tiếp tục được củng cố.

Trên thực tế, Việt Lạc Sông Hồng chỉ là một nước phụ dung. Thời kỳ nầy không thể coi là thời Bắc thuộc. *[150]

2.2. Thời Phụ Dung Tây Hán

a. Phụ dung đóng thuế

Năm 2768 tH, 111 ttl, Nam Việt bị Hán xâm lăng. Từ 2768 tới 2909 tH, 111 ttl - 30 dl, suốt 141 năm, tuy danh nghĩa là Nam Việt phụ thuộc Nhà Hán, nhưng, sách vở Trung Hoa không nói tới vùng đất Việt Lạc.

Đây là dấu chỉ vào thời kỳ nầy, Việt Lạc vẫn chưa có liên lạc nhiều với Hán. *[151]

Thời Tây Hán, 2673-2887 tH, 206 ttl - 8 dl, quan thứ sử các vùng đất phụ dung có nhiệm vụ mỗi năm 3 tháng đi thu thuế về nộp cho triều đình. Không có hệ thống cai trị trực tiếp, không có quân ngoại xâm trên phần đất Việt Lạc.

Từ năm 2887 tới 2904 tH, 8 dl - 25 dl, là thời loạn lạc của Trung Hoa, việc thu thuế cũng lơ là.

Trong suốt thời nầy, Việt Lạc là một nước phụ dung đóng thuế cho triều Hán, như các thời sau triều cống. *[152]

b. Nếp sống Truyền thống

Theo thực trạng thời ấy, từ 2768-2909 tH, 111 ttl-30 dl, ngoài việc mỗi năm 1 lần đóng thuế cho thứ sử, cuộc sống dân Việt Lạc vẫn như cũ. Trung Hoa chưa chi phối nếp sống xã hội, văn hóa, chính trị, quân sự, an ninh của Việt Lạc.

Trong suốt 141 năm đó, dân Việt Lạc vẫn tiếp tục sống nếp sống truyền đời của Tổ Tiên. Việc cai trị vẫn ở trong tay các Trưởng Lão Việt Lạc. Thành phần bảo vệ an ninh cho Làng, Nước, vẫn sinh hoạt bình thường.

Cuộc sống thường ngày của người Dân, nếp sống văn minh Lúa Nước, kỹ thuật trồng cấy, kỹ nghệ đồ đồng đồ sứ, văn học, thơ văn, chữ viết... của Việt Lạc, vẫn tiếp tục phát triển. Nếp sống Làng thôn, với tất cả đặc tính và sức mạnh của thể chế Làng-Nước Việt Lạc, vẫn sống động và tăng trưởng. *[153]

2.3. Hán Quang Vũ xâm lăng

Tình hình thay đổi từ năm 2909 tH, 30 dl, khi Hán Quang Vũ áp đặt chính sách hà khắc, đưa quan lại tới trực tiếp cai trị các vùng Việt Lạc. Từ đó xuất hiện quan quân trú đóng, chiếm đoạt, tham ô, tàn ác. 4 năm sau, 2913 tH, 34 dl, thái thú Tô Định khắc nghiệt thêm nhiều điều luật và sắc thuế mới. *[154]

3. VIỆT LẠC THỜI NHÀ TRƯNG

3.1. Việt Lạc kháng chiến

Từ năm 2909 tH, 30 dl, do Hán Quang Vũ áp đặt quan lại, cuộc sống Dân Nước toàn vùng Việt Lạc, từ Đồng Đình, Quảng Tây, Quảng Đông, tới Sông Hồng, bỗng bị xáo trộn. Toàn Dân Việt Lạc khắp nơi đều sẵn sàng đứng lên.

Toàn bộ hệ thống và sức mạnh của xã hội, chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa... đều được vận dụng để đối phó với giặc. Mọi nơi, mọi đơn vị lớn nhỏ, đều sẵn sàng, với lực lượng, tổ chức, và thủ lãnh sẵn có. Trong tình trạng sôi động đó, do vùng Sông Hồng ưu thế, do 2 vùng Mê Linh và Châu Diên quê của vợ chồng Trưng Trắc và Thi Sách liên kết và chủ động, qua biến cố Tô Định giết hại Lạc Tướng Thi Sách, và do truyền thống mẫu hệ mấy ngàn năm của Việt Lạc, Đức Trưng Trắc đã trở thành Thủ Lãnh kháng chiến của toàn Dân Việt Lạc. *[155]

3.2. Thời Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam

a. Tài Liệu. Tới gần đây, sử Việt có rất ít tài liệu về cuộc khởi nghĩa của Dân Việt Lạc do Đức Trưng Vương lãnh đạo. Tài liệu hầu hết đều trích dẫn từ sử Trung Hoa, phía đối nghịch, luôn thiếu xác thực, nhiều chủ quan.

Gần đây, nhờ những phát hiện ở Việt Nam và trên vùng đất của Việt Lạc xưa, đặc biệt qua các Đền thờ, Thần tích, và di tích, chúng ta có thêm nhiều chi tiết đã không được sách vở Trung Hoa ghi chép chính xác.

b. Theo lịch sử và di tích

Sử Việt đã ghi lại các Sứ thần Đại Việt kính viếng Đền thờ Đức Trưng Vương và các Danh Tướng của Ngài tại Hồ Đồng Đình, Thẩm Giang, Trường Sa, Phiên Ngung, Khúc Giang, Uất Lâm, hiện nay thuộc các tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến và Hải Nam. Nhiều nơi còn truyện tích, di tích các trận đánh thời Đức Trưng Vương. Căn cứ trên các thần phả và di tích, hiện nay chúng ta có tên tuổi và tiểu sử của 162 vị danh tướng thời Đức Trưng Vương. Các Vị đã được dân Việt Lạc thờ kính trong suốt hai ngàn năm qua. Đền thờ của các Ngài đầy dẫy nhiều nơi khắp vùng nay là Nam Trung Hoa, Bắc Phần và Bắc Trung Phần Việt Nam. Trước năm 4824 tH, 1945 dl, chỉ vùng ven sông Đáy, đã có Đền thờ của 94 vị. Hiện nay, di tích vẫn còn nhiều. *[156]

Tiểu sử các vị Anh Hùng cộng sự của Đức Trưng Vương chứng tỏ tinh thần của Toàn Dân Việt Lạc đương thời. Các Ngài nổi dậy ở vùng Sông Hồng và khắp nơi. Nhiều vị đã đánh giặc trước khi liên kết với Đức Trưng Vương. *[157]

c. Tiểu sử Mã Viện

Tiểu sử tướng giặc Mã Viện, qua sử Trung Hoa, Mã Viện Truyện trong Hậu Hán Thư, do quan Trung Hoa Phạm Diệp, viết cách đây hơn 1.500 năm, ghi nhận sức mạnh và địa bàn hoạt động của nghĩa quân Việt Lạc thời đó. Theo Mã Viện Truyện, sau khi tướng tá của 65 thành thua chạy, triều đình Hán hoảng hốt, không tướng nào dám nhận quân. Quang Vũ phải phong tước vị tột bực toàn quyền cho tướng già Mã Viện, để Mã Viện dám liều chết. Trước khi đi, Mã Viện để lại thư tuyệt mạng cho gia đình. Mã Viện đưa 2.000 chiến thuyền lầu cao và 2 vạn quân. Mỗi chiến thuyền chỉ có 50 quân thì tổng số đã là 10 vạn quân. *[158]

Chỉ trong trận ra quân đầu tiên ở Hồ Đồng Đình, dưới sự chỉ huy tối cao của Đại Lão Tướng quyền chức tột bực Mã Viện, 7 vạn thủy quân thiên triều đã tan tác trước 5 vạn quân của cô tướng trẻ Phật Nguyệt.  Đại tướng chỉ huy trưởng thủy quân Đoàn Chí cũng bỏ mạng trong trận nầy ! *[159]

d. Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam

Từ năm 2909 tH, 30 dl, toàn dân Việt Lạc đã vùng lên chống quân ngoại xâm Đông Hán. Năm 2919 tH, 40 dl, Đức Trưng Vương ra quân, và trong mấy tháng, đã hoàn tất việc tái chiếm toàn vùng đất Việt Lạc. Ngày nay là ngoài phần đất Nước ta, còn gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, phần đất phía nam Dương Tử của Tứ Xuyên và của Hồ Bắc, một phần của Giang Tây và của Phúc Kiến.

Đây là phần đất thuộc 2 Vùng Đồng Đình và Lĩnh Nam. Đức Trưng Vương đáng được tôn hiệu Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. *[160]

Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam qua đời ngày 6.2.2922 tH, 43 dl, khi mới 31 tuổi.

Trong suốt lịch sử Nhân loại, cho đến hiện nay, chưa hề có một Nữ Nhân nào tạo chiến công hiển hách, thần tốc, tái chiếm vùng đất mênh mông, như Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. Nam nhân có được mấy người ?

*********

X. PHỤ LỤC : TÓM GỌN 5.000 NĂM SỬ VIỆT XƯA, 2121 ttH-2922 tH, 5000 ttl-43 dl

1. THỜI KHỞI NGUYÊN 2121 NĂM, 2121 ttH-1 tH, 5000-2879 ttl

1.1. Hai Ông Bà Khởi Tổ và vùng Đất Khởi Nguyên

a. Hồ Đồng Đình, năm 5000 ttl

Hai Ông Bà Khởi Tổ của Tộc Việt ở vùng Hồ Đồng Đình, phía nam giữa sông Dương Tử, khoảng năm 2121 ttH, 5000 ttl, cách đây 7000 năm.

Từ đó, Dân Việt ngày thêm đông đúc, tỏa lan khắp các vùng chung quanh. Vùng sông nước Đồng Đình đã giúp Dân Việt thạo nghề đánh cá và nông nghiệp lúa nước. Nhờ nhiều thuận hợp đặc biệt của vùng Đất Tổ Đồng Đình, dân Việt đã phát triển nền Văn hóa Nông nghiệp Lúa nước nổi bật hơn những nền văn hóa lúa nước khác.

b. Di tích Tiêu biểu Hai Ông Bà Khởi Tổ

1. Mấy trăm triệu con cháu. Ngày nay chúng ta không còn di tích của Hai Ông Bà Khởi Tổ. Tuy nhiên, mấy trăm triệu con cháu Tộc Việt, trên vùng đất mênh mông Á Đông, với một nền Văn hóa Việt đặc biệt, là di tích sống động và trường tồn của Hai Vị Hiển Thánh Khởi Tổ Linh Thiêng.

2. Mẹ Tiên Cha Rồng. Dân Việt coi Mẹ là Bà Tiên và gọi Cha là Ông Rồng. Theo đà phát triển, với tình kính quý và biết ơn sâu xa 2 Vị Tổ Đầu Tiên, Tổ Tiên ta đã tôn 2 Ngài thành Biểu Tượng Tiên Rồng Linh Thiêng cao quý nhất của Dân Việt. Dân Việt âu yếm gọi Ông Bà Khởi Tổ là Mẹ Tiên và Cha Rồng, tự xưng là Dòng Giống Tiên Rồng.

1.2. Ba Giai đoạn Thời Khởi Nguyên

a. Ba Giai đoạn 3 Vùng

Vì hạ lưu sông Dương Tử còn úng nước, và vì thượng lưu Dương Tử núi rừng hiểm trở, Dân Việt đã phát triển về hướng thượng lưu Sông Tương, gọi là Việt Thượng, rồi vượt thượng lưu Sông Tương, tiến về Nam và phát triển với 3 Trung tâm chính là vùng Đồng Đình Sông Tương, lưu vực Tây Giang, lưu vực Sông Hồng Sông Mạ.

b. Đặc điểm

Biệt tài trên sông nước là hãnh diện của Tộc Việt từ thời Khởi Nguyên ở vùng Hồ Đồng Đình đến hiện nay. Trên đường Nam tiến, vượt biển về giữa cửa Tây Giang và Sông Hồng, dân Việt phương Nam đã phát triển tuyệt nghệ vượt biển. Hơn nữa, từ nhiều ngàn năm trước, nhà sàn mái cong là đặc điểm của vùng Sông Hồng xuôi nam. *[161]

c. Di tích Tiêu biểu Thời Khởi Nguyên

1. Chữ Việt Vượt Biển . Hãnh diện với tuyệt nghệ vượt biển, hình ảnh vị Thủ Lãnh trên Thuyền vượt biển trở thành biểu hiệu của dân Việt phương Nam. Hình ảnh nầy trở thành chữ Việt cho toàn thể Dân Việt. *[162]

             

2. Chữ Lạc Rùa Thần . Thời Nam tiến, tới Sông Hồng, gặp được nhiều Rùa Thần khổng lồ, Tổ Tiên lấy hình Rùa Thần tên Lạc làm Biểu Hiệu.

3. Chữ Thượng Nhà sàn . Chính hình vẽ nhà sàn mái cong là nguồn gốc của chữ Thượng . Chữ Việt Thượng chỉ vùng Đất Dân Việt từ thượng lưu Sông Tương xuôi Nam. *[163]

2. THỜI HÙNG : 2.699 NĂM, 1-2699 tH, 2879-180 ttl

2.1. Khởi đầu Thời Hùng

Thời Hùng khởi đầu năm 1 tH, 2879 ttl, hơn 2000 năm sau Ông Bà Tổ, khi dân Việt đã tỏa lan khắp vùng Á Đông.

Ngoài 3 vùng phát triển chính, Tộc Việt cũng đã có mặt trên khắp vùng từ Hồ Đồng Đình, rải rác dọc theo Sông Dương Tử ra tới Biển, lên phía Bắc tới ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, về miền rừng núi phía Tây tới sông Cửu Long, và xuống phương Nam tới vùng đường ranh Hải Vân.

Những điều kiện địa lý và khí hậu đã biến 2 vùng Đồng Đình và Sông Hồng thành 2 trung tâm Nông nghiệp Lúa nước quan trọng nhất trong vùng.

2.2. Di tích Tiêu biểu Đầu Thời Hùng

5.000 năm lịch sử. Dân Việt ghi nhớ năm Khởi đầu Thời Hùng liên tục đếm thời gian : "Dân Việt có 5.000 năm lịch sử". (2879 +2023 = 4902 tH).

2.3. Kết thúc Thời Hùng

Thời Hùng kết thúc năm 2699 tH, 180 ttl, khi Thành Ốc của Vua An Dương bị Triệu Đà xâm chiếm. Thành Ốc nay là Cổ Loa, gần Hà Nội.

- Thời Hùng bao trùm tất cả mọi biến cố của Tộc Việt. Nhưng Trung Hoa đã đánh lận 1 phần lịch sử Tộc Việt thành của họ. Dầu vậy, để chia Thời Hùng, ta có thể theo các thời kỳ sẵn có. *[164]

3. THỜI HÙNG 1 : 809 NĂM, 1-809 tH, 2879-2070 ttl. Thời nầy chia là 2 giai đoạn.

3.1. Thời Hùng 1A: 179 Năm, 1-179 tH, 2879-2700 ttl - Gồm cả thời Tam Hoàng

a. Ba Vị Tam Hoàng

Tam Hoàng là Nữ Oa, Phục Hy, Thần Nông. Tam Hoàng đã sống trước khi tộc Hoa thành hình hơn 1.800 năm. Từ cách gọi tên tới tiểu sử, Tam Hoàng đều thuộc nền văn hóa nông nghiệp lúa nước. Vì vậy, quê hương của các Vị chỉ có thể là vùng Hồ Đồng Đình, và các Vị là Dân Việt. *[165]

b. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng 1A.

Tam Hoàng : Nữ Oa mặc áo lông chim, Nữ Oa và Phục Hy có đuôi rắn, thuộc văn hóa Tiên Rồng của dân Việt. Thần Nông là vị thần vùng Nông nghiệp lúa nước. (hình). *[166]

3.2. Thời Hùng 1B : 630 Năm, 179-809 tH, 2700-2070 ttl. - Gồm cả thời Ngũ Đế

a. Ngũ Đế - Việt Lạc

Ngũ Đế gồm : Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Như với Tam Hoàng, sử Trung Hoa đã biến Ngũ Đế thành tổ của tộc Hoa. Tuy nhiên, lý lịch của 5 Ngài chứng tỏ 5 Ngài thuộc nền văn hóa gốc nông nghiệp lúa nước của Tộc Việt, ở vùng  lúa nước Đồng Đình. *[167]

Các Trung tâm phát triển khác của Tộc Việt, là Tây Giang và Sông Hồng, cũng tiếp tục phát triển.

b. Đặc điểm

1. Rùa Việt Thượng. Năm Đế Nghiêu thứ 5, 688 tH, 2191 ttl, Sứ giả Việt Thượng dâng Rùa, trên mu ghi chữ. Đế Nghiêu ghi lại gọi là Lịch Rùa.

Cho tới hiện nay, khắp vùng Á Đông, loại Rùa ngàn năm nầy chỉ có ở lưu vực Sông Hồng và Sông Mạ. (Hồ Hoàn Kiếm). Vậy thời đó, 688 tH, 2191 ttl, dân Việt Sông Hồng đã có chữ viết và lịch truyền tới các vùng khác.

2. Rùa thần  Sách Lạc. Cuối Thời Hùng 1B, có truyền thuyết Đại Vũ được Rùa thần trên mu ghi Sách Lạc, biểu trưng bằng 9 nhóm chấm trên lưng Rùa Thần. Đại Vũ học được cách trị thủy và cách trị dân.

Như vậy, truyền thuyết Rùa thần Việt Thượng và Rùa thần Sách Lạc có cùng một nguồn gốc và cùng một nội dung. Chỉ khác nội dung truyện Rùa thần Sách Lạc súc tích và chi tiết hơn. Sách Lạc là của Việt Lạc.

c. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng 1B

1. Rùa thần ngàn năm. Khắp Á Đông, chỉ có vùng Sông Hồng Sông Mạ có loại Rùa khổng lồ ngàn năm nầy.

2. Chữ Việt Sách Lạc 粤. Dân Việt Sông Hồng dùng hình Rùa thần mang Sách Lạc làm biểu hiệu riêng. Hình Rùa thần mang Sách Lạc đã trở thành chữ Việt riêng của dân Lạc. *[168]

3. 4.200 năm Văn hiến. Để ghi nhớ thời dân Việt Lạc Sông Hồng đã có thể phổ biến chữ viết và kiến thức của mình, Tổ Tiên ta có câu "Ta có 4.000 năm Văn hiến". Hiện nay đã là 4.200 năm.

4. THỜI HÙNG 2 : 470 NĂM, 809-1279 tH, 2070-1600 ttl - Gồm cả NHÀ HẠ

4.1. Thời Hùng 2A : 270 Năm, 809-1079 tH, 2070-1800 ttl - Gồm cả Tiền Hạ

a. Nhà Hạ - Các vùng Việt khác

Năm 809 tH,  2070 ttl, sau khi theo Sách Lạc để khai thông đường thủy, thoát nước vùng hạ lưu sông Dương Tử, Đại Vũ trở thành người cai trị vùng đất mới khai phá, tức là vùng Đất Hạ. Sau đó, Ông thành lập Nhà Hạ.

Sử Trung Hoa chỉ chú trọng Nhà Hạ, đánh tráo Việt Hạ thành tổ tiên người Hoa. Nhưng các vùng Việt khác vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Đặc biệt, vùng Sông Hồng đã nổi danh kỹ thuật trị thủy và đường lối cai trị của Đại Vũ.

Nhờ cho trâu kéo cày, vùng Sông Hồng Việt Thượng và Việt Hạ đã phát triển mạnh về kinh tế, cuộc sống, dân số.

b. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng 2A

1. Chữ Hạ Trâu Cày 夏.  Hình vẽ trâu kéo cày là biểu hiệu của Việt Hạ thời đó, trở thành chữ Hạ . *[169]

      

2. Chữ Hồng Thủy Ngưu 洚. Thay hình vẽ trâu kéo cày, người Việt Lạc Sông Hồng viết tên Hồng cách trí thức hơn (vì đã có chữ viết từ lâu), bằng cách ghép các chữ. *[170]    

4.2. Thời Hùng 2B 200 Năm, 1079-1279 tH, 1800-1600 ttl - Gồm cả Hậu Hạ

a. Vượt Sông Hoài. Từ năm 1079 tH, 1800 ttl, người dân Việt Hạ đã vượt Sông Hoài, lên lưu vực Hoàng Hà.

b. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng 2B. Khảo cổ nay coi vùng đất Sông Vị chảy vào Hoàng Hà là đất Nhà Hạ.

5. THỜI HÙNG 3: 554 NĂM, 1279-1833 tH, 1600-1046 ttl - Gồm cả Nhà Thương

5.1. Thời Hùng 3A: 300 Năm, 1279-1579 tH, 1600-1300 ttl - Gồm cả Tiền Thương

a. Nhà Thương - Đồ đồng

Năm 1279 tH, 1600 ttl, sau 200 năm được trợ lực bởi kỹ thuật, văn hóa, và nhân sự của Dân Việt mới nhập cư, dân địa phương vùng đông bắc Sông Hoài đã có thể thành lập Nhà Thương. *[171]

Trong thời kỳ nầy, dân Việt vùng Dương Tử cũng phát triển mạnh, đặc biệt xuất sắc nghề đúc đỉnh và vạc đồng. *[172]

Đang khi đó, dân Việt Lạc Sông Hồng trỗi vượt trong nghề đúc trống đồng. Hiện nay, vùng Việt Lạc vẫn là nơi phát hiện nhiều trống đồng cổ nhất. Cho đến năm 1980 dl, Việt Nam có 360 trống đồng cổ, trong đó có 140 trống thuộc loại Đông Sơn. Tới 1988, Trung Quốc đã tìm được 1.460 trống đồng cổ. Hầu hết là ở vùng Việt Lạc xưa.

b. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng 3A

1. Đông Di. Dầu lạm nhận Nhà Thương thành tiền sử, dân Hoa vẫn coi Nhà Thương là Đông Di, dân mọi rợ ở phía Đông, không phải tộc Hoa.

2. Đồ đồng Dương Tử. Ngày càng nhiều phát hiện ở các di chỉ 2 bên bờ Dương Tử.

3. Văn minh Trống đồng Việt Lạc. Hiện nay, ngoài vùng Việt Lạc, các vùng khác có rất ít trống đồng cổ.

5.2. Thời Hùng 3B 254 Năm, 1579-1833 tH, 1300-1046 ttl - Gồm cả Hậu Thương / Ân

a. Nhà Ân

Năm 1579 tH, 1300 ttl, Nhà Thương dời đô tới An Dương, thuộc đất Ân, gọi là Nhà Ân, hùng mạnh, lấn chiếm vùng phía nam Sông Hoài. *[173]

Năm 1661 tH, 1218 ttl, Ân Cao Tôn xâm lăng vùng Đồng Đình của Việt Lạc. Đây là thời cường thịnh nhất của Nhà Ân. Dầu vậy, 3 năm sau, Ân Cao Tôn bị dân ta đánh bại. Tuy nhiên, thời gian xâm lăng đã đủ để Ân Cao Tôn cướp đoạt Dân Việt ở toàn vùng sông Dương Tử. *[174]

Do đó, thủ đô An Dương trở thành kho chứa báu vật, đồ đồng và chữ viết, gia sản của Dân Việt.

Hiện nay đã khám phá tại An Dương hàng ngàn đồ đồng, và khoảng 5.000 chữ viết trên xương, hơn 3.000 chữ đã chuẩn xác. Nhưng tại An Dương không có dấu vết thời sơ khai của chữ viết và kỹ nghệ đúc đồng. Tất cả đều đột hiện ở An Dương từ khi nhà Ân cướp phá dân Việt phương Nam.

Đang khi đó, dân Việt Lạc Sông Hồng đã kiện toàn nếp sống đem lại thịnh vượng, thanh bình, và hạnh phúc. Vào cuối Thời Hùng 3B, kỹ thuật đúc đồ đồng của Lạc Hồng đã bước vào thời tuyệt kỹ. *[175]

b. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng 3B

1. Truyền kỳ Phù Đổng. Cuộc chiến đấu chống Ân Cao Tôn đã trở thành Truyền kỳ dạy Việc Cứu Nước.

2. Chữ Viết và Đồ Đồng của Dân Việt. 5000 chữ viết, hàng ngàn đồ đồng, đặc biệt đỉnh và vạc đồng. (hình).

3. Tuyệt tác đồ đồng Việt Lạc, đặc biệt Thạp và Trống. (hình).

                

6. THỜI HÙNG 4 : 866 NĂM, 1833-2699 tH, 1046-180 ttl

6.1. Thời Hùng 4A : 275 Năm, 1833-2108 tH, 1046-771 ttl - Đồng thời với Tây Chu

a. Tộc Hoa – Nước Sở – Lạc Hồng

Năm 1833 tH, 1046 ttl, sau thời gian tụ tập các bộ lạc du mục ở vùng Thiểm Tây khô cằn giá lạnh, bộ tộc Chu thành lập Nhà Chu ở thung lũng Sông Vị. Từ đó, tộc Hoa thành hình. Tộc Hoa thuộc nền văn hóa gốc du mục.

Về lãnh thổ, dân số, văn minh, văn hóa, sức mạnh quân sự, tộc Hoa chỉ bằng 1 phần nhỏ của dân Việt thời đó.

Dân Việt vùng Dương Tử đã có Nước Sở và Nước Việt hùng mạnh. Nhưng thời kỳ nầy, sách vở Trung Hoa chỉ biết tới nước Sở ở Bắc Dương Tử.

Sử Trung Hoa ghét phục sức, tính tình, phong tục, ca nhạc nước Sở, vì khác với tộc Hoa du mục. Sở hùng mạnh thời 1849-2656 tH, 1030-223 ttl.

Dân Việt Lạc vùng Sông Hồng đã đông đúc, phồn thịnh, phát triển vượt bực mọi phương diện, đặc biệt về văn hóa, văn học, tư tưởng, học thuyết.

Đặc điểm tuyệt vời của Lạc Hồng là đúc Thạp và Trống đồng để lưu truyền nền Văn minh và Văn hóa Việt, nhất là mã hóa trọn 4 Học thuyết Việt.

Với chữ viết thuần từ hơn 1000 năm, tất nhiên dân Lạc Hồng thấu triệt và ghi chép toàn bộ các Học thuyết.

b. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng 4A

1. Đồ đồng nước Sở có nhiều hình và trang trí chim, rắn. (hình).        

2. 3.000 năm Học thuyết Lạc Hồng. Trên Thạp Đào Thịnh và Trống Ngọc Lũ, Tổ Tiên Lạc Hồng đã lưu truyền 4 Học thuyết Việt : Đất Trời 5 Hành, Âm Dương Hoán Dịch, Tiên Rồng Song Hiệp, Đạo Đức Tuệ Linh.

Và Lịch Rùa, Sách Lạc, Kinh Lễ, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Nhạc...

3. Chữ Việt Đồ Đồng 越. Hãnh diện và trao truyền cho con cháu thành công của mình, dân Việt Lạc Sông Hồng đã sáng tạo một chữ Việt thứ ba với chữ Kim , đồ đồng.   

Chữ Việt ghi dấu 3.000 năm Tuyệt kỹ đồ đồng, cũng là 3.000 năm Học thuyết Lạc Hồng.

6.2. Thời Hùng 4B : 564 Năm, 2108-2672 tH, 771-207 ttl - Đồng thời với Đông Chu và Tần

a. Nước Tần – Nước Việt – Việt Lạc

Năm 2108 tH, 771 ttl, nhóm du mục Khuyển Nhung từ Ninh Hạ chiếm vùng Sông Vị, lập Nước Tần. Nhà Chu chạy về phía đông, gọi là Đông Chu. Du mục Tần tàn bạo hơn du mục Chu. Dân chịu hơn 500 năm loạn lạc thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Tần Thủy Hoàng diệt tất cả các nước quanh, lập nước Trung Hoa năm 2658 tH, 221 ttl.

Các biến động ở miền bắc đã lan xuống phần đất giữa Sông Hoài và Dương Tử của Dân Việt, bị kết chung với miền bắc, gọi là Trung Nguyên.

Miền Nam Dương Tử có Nước Việt, thủ đô là Cối Kê, do Đại Vũ thành lập từ 1600 năm trước, trở thành hùng mạnh. Năm 2396 tH, 473 ttl, Việt Câu Tiển tiến lên phía bắc, chiếm nước Ngô. Dân Việt Lạc ở vùng Đồng Đình và Việt Thượng vẫn tiếp tục phát triển trong thanh bình, và sáng tạo nhiều tuyệt tác tri thức cũng như kỹ thuật.

Dân Việt Lạc đã đánh thắng 50 vạn quân Tần. Năm 2665 tH, 214 ttl, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư kéo tinh nhuệ, vừa thống nhất Trung Nguyên, xâm lăng vùng đất Việt Lạc. Đây là lần đầu tiên Việt Lạc bị ảnh hưởng của Trung Hoa. Nhưng sau 3 năm, Đồ Thư bại trận và bị giết.

b. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng 4B

1. Nước Việt Chiết Giang. Việt Câu Tiển là 1 trong Ngũ Bá thời Xuân Thu.

2. Việt Lạc đánh bại 50 vạn quân Tần. Đoàn quân của Tần Thủy Hoàng bị đại bại ở Việt Lạc.

      

6.3.Thời Hùng 4C : 27 Năm, 2672-2699 tH, 207-180 ttl - Việt Lạc với Triệu Đà

a. Nước Nam Việt - Kết thúc Thời Hùng

Năm 2672 tH, 207 ttl, tướng Triệu Đà chiếm vùng Quảng Đông và Quảng Tây của Việt Lạc, lập nước Nam Việt.

Nhưng vì muốn lập 1 đế quốc riêng, Triệu Đà đã tự mình thay đổi theo phong tục, cách sống của Dân Việt Lạc. *[176]

Vùng Việt Lạc Đồng Đình có Trường Sa Vương, vùng Việt Lạc Sông Hồng, trung tâm Việt Lạc, có Vua An Dương.

Năm 2699 tH, 180 ttl, với kế cho Trọng Thủy ở rể làm gián điệp, Triệu Đà chiếm Thành Ốc, trị sở của Việt Lạc. Thời Hùng kết thúc. *[177]

b. Di tích Tiêu biểu Thời Hùng 4C

    

     Di tích thời Nhà Trưng

1. Truyền kỳ Mỵ Châu. Kinh nghiệm mất nước đã trở thành Truyền kỳ dạy Việc Giữ Nước. (bản đồ).

2. Tượng Mỵ Châu không đầu. Vì trọn tình Nhà, Mỵ Châu được thờ kính. Nhưng vì có trách nhiệm làm mất Nước, (bị chém đầu), và được thờ với tượng không đầu. (hình). *[178]

7. THỜI SUY VI : 1086 NĂM, 2699-3785 tH, 180 ttl - 906 dl. Thời Suy Vi có 5 giai đoạn :

7.1. Thời Phụ Dung : 210 Năm, 2699-2909 tH, 180 ttl - 30 dl

Trong 69 năm, 2699-2768 tH, 180-111 ttl, vùng Sông Hồng (và trong 96 năm, 2672-2768 tH, 207-111 ttl, các vùng Nam Việt), dầu sống dưới triều Nhà Triệu, dân Việt Lạc vẫn tiếp tục sống nếp sống và thể chế của Tổ Tiên, nên chỉ là một nước phụ dung. *[179]   - Từ 2768-2909 tH, 111 ttl-30 dl, Nam Việt trở thành một nước phụ dung đóng thuế cho triều Hán. (Như việc triều cống của các thời sau). *[180]

Năm 2909 tH, 30 dl, Việt Lạc bị Hán Quang Vũ đưa quan lại tới trực tiếp cai trị, áp đặt chính sách Trung Hoa. *[181]

7.2. Nhà Trưng : 13 Năm, 2909-2922 tH, 30-43 dl - Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.

a. Nhà Trưng

Từ năm 2909 tH, 30 dl, toàn thể Việt Lạc đã vùng lên chống giặc Hán, Đức Trưng Trắc trở thành Thủ Lãnh. *[182]

Năm 2919 tH, 40 dl, Việt Lạc tái chiếm toàn vùng đất Việt Lạc. Ngày nay, ngoài Việt Nam, còn Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến.

Đây là đất của 2 Vùng Đồng Đình và Lĩnh Nam. Đức Trưng Vương được tôn là Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. *[183]

b. Di tích Tiêu biểu Thời Nhà Trưng

2000 năm qua, dân Việt Lạc từ Mê Linh tới Hồ Đồng Đình, đều lập đền thờ kính Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.

7.3. Bắc Thuộc lần 1 : 498 Năm, 2922-3420 tH, 43-541 dl

Năm 2922 tH, 43 dl, giặc Hán áp đặt chế độ trực trị, khởi đầu thời Bắc thuộc. *[184]   

Từ 2922-3420 tH, 43-541 dl, dài 498 năm, Bắc thuộc có nhiều giai đoạn và tình huống khác nhau, tùy theo tình hình và những thay đổi triều đại, đặc biệt tùy những xáo trộn trong nội bộ Trung Hoa.

Đây là thời kỳ giặc Tàu cướp phá, soán đoạt, mạo nhận, xóa bỏ nguồn gốc những gì hay tốt, xóa bỏ vật dụng và nền văn minh, học thuyết, văn hóa của Việt Lạc, đặc biệt của Việt Lạc Sông Hồng.

Bà Triệu khởi nghĩa, năm 3127 tH, 248 dl. *[185]

7.4. Nhà Tiền Lý : 61 Năm, 3420-3481 tH, 541-602 dl

Đức Nam Việt Đế, (Lý Nam Đế), khởi nghĩa năm 3420 tH, 541 dl, thành công từ năm 3423 tH, 544 dl. Lần đầu tiên sách vở Trung Hoa ghi lại một vua Việt Lạc với Đế hiệu. Niên hiệu là Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân.

Nhà Tiền Lý dài 61 năm. *[186]

7.5. Bắc Thuộc lần 2 : 304 năm, 3481-3785 tH, 602-906 dl

Mai Hắc Đế, khởi nghĩa năm 3601 tH, 722 dl. *[187]

Bố Cái Đại Vương, khởi nghĩa năm 3670 tH, 791 dl. *[188]

7.6. Bắc Thuộc 802 năm.

Bắc thuộc lần 1, 2922-3420 tH, 43-541 dl, gồm 498 năm.

Bắc thuộc lần 2, 3481-3785 tH, 602-906 dl, gồm 304 năm.

Tổng cộng 2 lần Bắc thuộc là 802 năm.

8. THỜI PHỤC HƯNG : TỪ 3785 tH, 906 dl

8.1. Từ năm 3785 tH, 906 dl, dân Việt vùng Giao Châu, Bắc Việt Nam ngày nay, giành quyền tự trị, mở đầu thời Phục Hưng nền tự chủ và nếp sống Việt, ranh giới phía bắc của Giao Châu thành ranh giới nước Đại Việt.

Năm 3785 tH, 906 dl, Khúc Thừa Dụ được dân bầu (chúng cử) thành thủ lãnh cai trị Giao Châu. Năm sau, quân Tàu kéo qua, nhưng đại bại. Năm 3810 tH, 931 dl, tướng Dương Diên Nghệ nối tiếp cuộc khởi nghĩa. *[189]

Năm 3817 tH, 938 dl, tướng Ngô Quyền đại thắng giặc Nam Hán ở sông Bạch Đằng, thành lập Nhà Ngô. *[190]

Từ đây, tuy cần được nhuận chính theo đúng tinh thần tự chủ, nhưng đã có nhiều tài liệu Việt Nam.

8.2. Tộc Việt năm 4879 tH, 2018 dl

Việt Nam, Trung Hoa & Đông Nam Á  2018 hôm nay

 

Dân số

km2

sqm

Việt Nam

95.000.000

331.000

127.760

Nam Trung Hoa

906.000.000

2.829.000

1.091.990

Myanmar

54.000.000

677000

261.300

Thái Lan

69.000.000

513.000

198.000

Lào

7000.000

238.000

91.860

Đài Loan

23.000.000

36.000

13.890

Quốc Tế

30.000.000

 

 

TỔNG SỐ

1.184.000.000

4.624.000

1.784.864

PHẦN 2    MỘT SỐ VẤN ĐỀ LỊCH SỬ, VĂN HÓA

XI. BỐN CHỮ VIỆT LINH THIÊNG  -  Kính dâng Tổ Tiên Linh Hiển

1. TÊN VÀ CHỮ “VIỆT”

Trong kho tàng vô giá của Tổ Tiên, tên ‘Việt’ và chữ viết tên ‘Việt’ là di sản linh thiêng và quý báu nhất. Trong Tên và Chữ ‘Việt’, Tổ Tiên đã lưu truyền trọn vẹn tinh hoa và niềm hãnh diện của Dòng Tộc.

Cho đến hiện nay, có 4 chữ ‘Việt’ ghi nhận những dấu ấn quan trọng nhất trong Lịch Sử và Văn Hóa Việt Lạc, Việt Nam ngày nay :

- Chữ Việt Vượt Biển, ghi nhận 6.000 năm Lịch sử Việt Lạc,

- Chữ Việt 4.200 năm Văn hiến, văn minh, văn hóa, văn học và chính trị của Việt Lạc,

- Chữ Việt 3.000 năm Tuyệt kỹ đồ đồng và 4 Học thuyết tuyệt vời của Việt Lạc, và

- Chữ Việt , của Việt Nam kỷ nguyên Bảo Bình mấy ngàn năm.

2. BA CHỮ VIỆT XƯA

Thời trước, chúng ta có 3 chữ để viết tên Việt : , , .

2.1. Chữ Việt Vượt Biển 越 

Biệt tài trên sông nước là hãnh diện của Tộc Việt từ thời ở vùng Hồ Đồng Đình đến nay. Khi nam tiến và đi về giữa Tây Giang và Sông Hồng, tài vẫy vùng sông hồ ở Đồng Đình đã phát triển thành tuyệt nghệ vượt biển. *[191]

Vì vậy, hình ảnh vị Thủ Lãnh chỉ huy trên Thuyền vượt biển đã trở thành hình ảnh biểu hiệu đặc biệt và linh thiêng cho tài năng và niềm tin của dân Việt. Từ đó, hình ảnh nầy trở thành chữ Việt . *[192]

Chữ Việt nầy là do Dân Việt miền Nam, khi xuống tới Sông Hồng Sông Mạ, khoảng năm 4.000 ttl, cách đây 6.000 năm, đã được dùng để chỉ toàn thể Tộc Việt, kể từ thời Khởi nguyên, 5.000 ttl.

2.2. Chữ Việt Sách Lạc    

Theo truyền thuyết, năm Đế Nghiêu thứ 5, 688 tH, 2191 ttl, Sứ giả Việt Thượng dâng Rùa Thần ngàn năm, trên mu có khắc chữ về chuyện trời đất vận chuyển và lịch trình cày cấy. *[193]

Đại Vũ được Rùa Thần tặng Sách Lạc năm 809 tH, 2070 ttl, biểu trưng bằng 9 nhóm chấm trên lưng Rùa Thần. *[194]

Thời thành lập nhà Chu năm 1833 tH, 1046 ttl, Chu Văn Vương cũng học Sách Lạc, và viết Kinh Dịch.

Trong mấy ngàn năm qua, Sách Lạc được tôn xưng là Sách Thần. Hãnh diện với văn minh và văn hóa tiên tiến, Dân Việt Lạc Sông Hồng, Việt Nam ngày nay, đã dùng hình ‘Rùa Thần mang Sách Lạc’ làm biểu hiệu.

Từ đó, hình ‘Sách Lạc trên lưng Rùa Thần’ trở thành chữ ‘Việt’ của Việt Thượng, chữ ‘Việt Sách Lạc’. *[195]

2.3. Chữ Việt Đồ Đồng 鉞

Thời Đồ Đồng của Việt Lạc đã bước vào thời tuyệt kỹ của kỹ thuật đúc trống đồng năm 1879 tH, 1000 ttl.

Qua trang trí, hoa văn, và hình dạng độc đáo của Thạp và Trống Đông Sơn, đặc biệt của Thạp Đào Thịnh và Trống Ngọc Lũ, Tổ Tiên Lạc Hồng đã mã hóa và lưu truyền toàn bộ ý niệm và học thuyết Việt. *[196]

Hãnh diện với kỹ thuật tuyệt hảo trong nghệ thuật đúc đồng, và nhất là để ghi nhớ việc lưu truyền các Học thuyết trên thạp và trống đồng, Tổ tiên Việt Nam đã tạo thêm một chữ ‘Việt’ mới.

Thay vì dùng hình ảnh vị Thủ Lãnh  và phần Lái Thuyền vượt biển  thành chữ Việt , Tổ Tiên dùng hình vị Thủ Lãnh với chữ Kim , đồ đồng, thành chữ Việt . (hình).

2.4. Ba Chữ Việt, Ba Chữ Lạc

Đặc biệt cùng lúc sáng tác 3 Chữ Việt, Tổ Tiên tạo 3 Chữ Lạc đi kèm. Với chữ Việt Vượt Biển , khi tới vùng Sông Hồng Sông Mạ, gặp được Rùa Thần, Tổ Tiên ghi lại Tên Lạc và Chữ Lạc Rùa Thần . Chữ Việt Sách Lạc 粵, Sách Lạc , cũng là Chữ Lạc, trên lưng Rùa Thần. Chữ Việt Đồ Đồng, trên Trống đồng Ngọc Lũ,

và nhiều trống đồng cùng thời, và Chữ Lạc Biệt Tài , ghi nhớ 3 tuyệt kỹ đương thời. *[197]

3. Ý NGHĨA 3 CHỮ VIỆT

3.1. Ba chữ Việt 3 Giai Đoạn

Chữ Việt Vượt Biển là chữ Việt, cùng với chữ Lạc Rùa Thần , đánh dấu thời lớn mạnh của Việt Thượng, và vượt biển tới vùng Sông Hồng Sông Mạ, cách đây 6.000 năm.

Chữ Việt Sách Lạc , trên lưng Rùa Thần mang Sách Lạc , là chữ Việt phổ biến chữ viết, kỹ thuật, học thuyết, và văn hóa Việt Lạc Sông Hồng, - chữ Việt ơn ích giúp Đế Nghiêu năm 2191 ttl và các thời sau, - chữ Việt 4.200 năm Văn Hiến Việt Lạc rạng ngời. (2191 + 2013 = 4204).

Chữ Việt Đồ Đồng là chữ Việt Thạp Trống Đông Sơn tuyệt kỹ, cùng với chữ Lạc Biệt Tài , là - chữ Việt của Dân Lạc xác chứng tinh hoa kỹ thuật Lạc Hồng từ năm 1000 ttl, - chữ Việt lưu chứng 3000 Năm Kỹ thuật Việt Lạc xuất chúng và Học thuyết Việt Lạc cao siêu. (1000 + 2013 = 3013).

3.2. Ba chữ Việt 3 Đặc Trưng

Chữ Việt Vượt Biển là chữ Việt của Dân Việt lướt sóng dưới sự hướng dẫn và phù hộ của Tổ Tiên, (các đàn chim) - chữ Việt từ Đất Tổ Đồng Đình vượt rừng vượt biển, tung cánh khắp bốn phương, - chữ Việt quyết tâm, tinh lanh, dũng cảm, - chữ Việt tự hào của toàn thể Tộc Việt.

Chữ Việt Sách Lạc của Việt Lạc thấu suốt việc đất trời cao siêu, (với Đế Nghiêu) chữ Việt dạy các Thánh Vương an dân thịnh nước, (với Đại Vũ) chữ Việt giải quyết mọi biến dịch trong cuộc sống, (với sách Dịch, Chu văn Vương) chữ Việt đem thanh bình, thịnh vượng, hạnh phúc cho con người.

Chữ Việt Đồ Đồng là chữ Việt của Việt Lạc hãnh diện nền văn minh đồ đồng tinh xảo hơn ngàn năm, - chữ Việt thêm lẫy lừng với những tuyệt tác Đông Sơn, - chữ Việt bảo chứng kỹ thuật và nghệ thuật Tộc Việt, - chữ Việt tàng trữ văn minh và tinh hoa các Học Thuyết vô giá của Lạc Hồng.

3.3. Ba chữ Việt 3 Sắc Thái

Chữ Việt Vượt Biển là Chữ Việt Thần Võ, chữ Việt khai phá, thắng vượt, trị an diệt tà, chữ Việt cường thịnh.

Chữ Việt Sách Lạc là Chữ Việt Thánh Văn, chữ Việt an dân thịnh nước, văn học nghệ thuật, chữ Việt hạnh phúc.

Chữ Việt Đồ Đồng là Chữ Việt tuyệt kỹ, phát triển, văn minh, chữ Việt thăng tiến kỹ nghệ, khoa học, ấm no.

3.4. Ba chữ Việt một Việt Nam

Cả 3 chữ , gồm trọn 3 chữ, là dân Việt, Việt Lạc, Tộc Việt.

Cả 3 chữ đều là Việt Thần Võ, Việt Thánh Văn, Việt Tuyệt Kỹ, đều là Việt cường thịnh, Việt hạnh phúc, Việt ấm no.

Cả 3 chữ đều là Khởi nguyên Tộc Việt trỗi vượt, là Văn Hiến Việt Lạc rạng ngời, là Học Thuyết Việt Lạc cao siêu, là Kỹ thuật Việt xuất chúng. Trọn 3 chữ, đều là Việt, Việt Lạc, Đại Việt, Đại Nam, Việt Nam.

4. CHỮ  QUỐC NGỮ

Đây là chữ Việt thứ 4, chữ Việt theo mẫu tự la tinh . Chữ Việt của Hiện Tại và Tương Lai, chữ Việt theo cách viết thông dụng nhất của nhân loại hiện nay, chữ Việt thời VIỆT NAM bừng sáng và tỏa chiếu khắp địa cầu.

Chữ  với nghĩa là Vượt, Vượt mọi chướng ngại, Vượt mọi biên giới, Vượt mọi rào cản văn hóa, chính trị, kinh tế, kỹ thuật, khoa học, quân sự, tôn giáo, chủng tộc... chữ Việt đến với mọi người, ở mọi nơi. *[198]

Đây là Chữ Việt Xuyên Vượt,

- chữ Việt của năm 4879 tH, năm 2000 dl,  - chữ Việt 7000 năm tích tụ tâm huyết và thần trí của Tổ Tiên,

- chữ Việt của Dân Việt trở thành tác nhân thăng tiến Thế giới,

- chữ Việt phổ biến nền Văn hóa Tình Người để vực dậy Loài Người,

- chữ Việt thể hiện những kỳ diệu của Kỷ nguyên Bảo Bình. *[199]

Đây là chữ Việt gồm trọn 4 chữ , , , , chữ Việt gồm trọn Thần Võ, Thánh Văn, Tuyệt kỹ, và Xuyên Vượt, chữ Việt của Thế Hệ Hôm Nay trao truyền cho Con Cháu.

XII. NGUỒN GỐC TIÊN RỒNG

LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ : MƯU ĐỒ ĐỒNG HÓA TỘC VIỆT VÀO TỘC HOA

1. TỔNG QUAN

1.1. Con Cháu Tiên Rồng

a. Niềm Tự Hào

Từ ngàn xưa, dân Việt vẫn tự hào mình là Con Cháu Tiên Rồng. Đây là niềm tự hào nền tảng của Nòi Giống. Đại chúng Việt luôn dựa vào nguồn gốc Tiên Rồng để thấy mình khác biệt, trỗi vượt với những giống dân khác.

Trong suốt lịch sử, niềm tự hào Tiên Rồng đã trở thành nền tảng thâm sâu nhất của tâm hồn Dân Việt. Vì vậy, bài nói về Khởi Tổ là một bản ca tụng ơn đức thần thánh của Các Ngài, những ân đức mà mấy trăm triệu con cháu được hưởng nhờ trong suốt 7000 năm qua.

b. Tân học lúng túng.  Thời gần đây, trong khi đại chúng Việt hãnh diện phát huy các biểu tượng của Tổ Tiên, thì lớp người tân học lại tỏ ra lúng túng trong việc giải thích Truyền kỳ. Vì vậy, trước khi có thể đúc kết về 2 Ngài Khởi Tổ linh thiêng, chúng ta phải nhận định kỹ rõ về hiện trạng.

1.2. Truyện Hồng Bàng

a. Bản văn. Hiện nay nguồn gốc Con Cháu Tiên Rồng có thêm nhiều chi tiết căn cứ vào Truyện Hồng Bàng.

Phần nhận định nầy căn cứ trên bản văn ‘Truyện Hồng Bàng’ trích từ quyển Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp, được học giả Lê Hữu Mục dịch và xuất bản bằng chữ quốc ngữ năm 1960.

Lĩnh Nam Chích Quái Bản chữ nho gốc đã được Cụ Vũ Quỳnh hiệu chính năm 1492, cách đây hơn 500 năm. *[200]

b. Tác giả Truyện Hồng Bàng

Theo dịch giả Lê Hữu Mục, "Maspéro chứng minh Truyện Hùng Vương (tên khác của Truyện Hồng Bàng) là truyện trích ở các tác phẩm Trung Hoa", ở cuốn Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên, viết năm 535 dl, và ở cuốn Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc Sử, 930-1007 dl.

1.3. Lý do lúng túng. Nhiều lý do tạo ra các lúng túng trong giải thích Truyện Hồng Bàng : *[201]

1. Truyện Hồng Bàng mặc nhiên được coi là bản văn về Nguồn Gốc của Trăm Việt, mà không hoặc thiếu quan tâm tới Truyền thuyết được truyền tụng rộng rãi trong đại chúng Việt.

2. Ngây thơ chấp nhận bản văn một chuyện kể năm 535 dl như là những biến cố lịch sử của 4.000 năm trước đó.

3. Thản nhiên nông cạn chấp nhận tất cả mọi chi tiết của một chuyện kể về một Biểu tượng Văn hóa, như là những sự kiện lịch sử của thời tiền sử.

4. Truyện Hồng Bàng chứa đựng nhiều thâm ý hàm hồ về liên hệ chủng tộc và văn hóa giữa dân tộc Việt Nam và dân nước Trung Hoa.

5. Ngoài ra, những suy luận khiếm khuyết và thiên kiến càng làm cho các giải thích và gán ghép thêm lố bịch.

1.4. Tường Tận và Đích xác.

Cần đặt vấn đề tường tận và đích xác về niềm tự hào Nguồn Gốc Con Cháu Tiên Rồng, và về những liên hệ của dân tộc Việt Nam với những dân tộc chung quanh, đặc biệt với người Tộc Hoa.

Vấn đề có thể được khảo sát dưới nhiều khía cạnh. Bài nầy chỉ đối chiếu Truyền thuyết về Nguồn gốc Tiên Rồng được truyền miệng phổ quát trong đại chúng Việt với nội dung bản văn Truyện Hồng Bàng.

2. BẢN VĂN TRUYỆN HỒNG BÀNG

Truyện Hồng Bàng, trích từ Lĩnh Nam Chích Quái, do Trần Thế Pháp, Lê Hữu Mục dịch, xb Huế 1960, tr 43-45.

Đây là nguyên văn bản dịch Truyện Hồng Bàng đánh số thành 108 câu :

"1 Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, 2 đi nam tuần đến Ngũ Lĩnh,

3 gặp con gái Vụ Tiên thì yêu mến, cưới đem về, 4 sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh túc thành;

5 Đế Minh cho nối ngôi vua; Lộc Tục cố nhường cho anh, Đế Minh lập Đế Nghi làm tự quân cai trị phương Bắc,

6 phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quỉ Quốc.

7 Kinh Dương Vương xuống Thủy phủ, 8 cưới con gái vua Đồng Đình là Long Nữ, 9 sinh ra Sùng Lãm,

10 tức là Lạc Long Quân; 11 Lạc Long Quân thay cha trị nước, Kinh Dương Vương không biết đi đâu.

12 Lạc Long Quân dạy dân ăn mặc, 13 có trật tự về quân thần tôn ty, 14 có luân thường về phụ tử phu phụ;

15 có lúc đi về Thủy phủ nhưng 16 trăm họ vẫn được yên.

17 Dân lúc có việc cần thì kêu Lạc Long Quân : Bố đi đàng nào, không đến cứu chúng ta,

18 thì Lạc Long Quân lập tức đến ngay, uy linh cảm ứng không ai có thể trắc lượng được.

19 người Nam gọi cha là Bố, gọi quân là vua, 20 Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc, thiên hạ vô sự,

21 sực nhớ chuyện ông nội là Đế Minh nam tuần 22 gặp được tiên nữ,

23 Đế Lai khiến Xi Vưu tác chủ quốc sự mà nam tuần qua nước Xích Quỉ,

24 thấy Long Quân đã về Thủy phủ, 25 trong nước không vua, 26 mới lưu ái thê là Âu Cơ

27 cùng với bộ chúng thị thiếp ở lại hành tại. 28 Đế Lai chu lưu thiên hạ, trải xem tất cả hình thế,

29 thấy kỳ hoa dị thảo, trân cầm dị thú, tê tượng, đồi mồi, 30 kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn,

31 các loại sơn hào hải vị không thứ nào là không có; 32 khí hậu bốn mùa không nóng không lạnh,

33 Đế Lai ái mộ quá, quên cả ngày về.34 Nhân dân nước Nam 35 khổ về sự phiền nhiểu, không yên ổn như xưa,

36 đêm ngày mong đợi Long Quân về, nên cùng kêu rằng : Bố ở phương nào, nên mau về cứu nhân dân.

37 Lạc Long Quân bỗng nhiên lại về, 38 thấy nàng Âu Cơ ở một mình, dung mạo đẹp lạ lùng, yêu quá,

39 mới hóa ra một chàng nhi lang phong tư mỹ lệ, tả hữu thị tùng đông đảo, tiếng đàn ca vang đến hành tại.

40 Âu Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo; 41 Long Quân bèn rước nàng về núi Long Trang.

42 Đế Lai về không thấy Âu Cơ, sai quần thần tìm khắp thiên hạ. 43 Long Quân có thần thuật, biến hiện trăm cách,

44 nào là yêu tinh quỉ mị, nào là long xà hổ tượng, 45 kẻ đi tìm úy cụ, không dám lục đảo tận cùng.

46 Đế Lai trở về Bắc, lại truyền ngôi cho Đế Du, cùng với Hoàng Đế đánh nhau ở Bản Tuyền không hơn nên tử trận; họ Thần Nông bèn mất. 47 Âu Cơ ở với Lạc Long Quân giáp một năm, 48 sinh ra một bọc trứng,

49 cho là điềm không hay, 50 nên đem bỏ ra ngoài đồng nội; hơn bảy ngày,

51 trong bọc nở ra trăm trứng, 52 mỗi trứng là một con trai, 53 nàng đem về nuôi nấng, 54 không phải cho ăn, cho bú 55 mà tự nhiên trường đại, trí dũng song toàn, ai cũng úy phục, bảo nhau đó là những anh em phi thường.

56 Long Quân ở lâu dưới Thủy phủ; 57 mẹ con ở một mình, 58 nhớ về Bắc quốc liền đi lên biên cảnh;

59 Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan tái; 60 mẹ con không về Bắc được,

61 ngày đêm gọi Long Quân : Bố ở phương nào làm mẹ con ta thương nhớ.

62 Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp hai mẹ con ở Tương Dạ; 63 Âu Cơ nói : Thiếp vốn người Bắc,

64 cùng ở một nơi với quân, 65 sinh được trăm trai 66 mà không có gì cúc dưỡng,

67 xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng không vợ, một mình vò võ.

68 Long Quân bảo : Ta là loài rồng, sống ở thủy tộc; 69 nàng là giống tiên, người ở trên đất, 70 vốn chẳng như nhau, 71 tuy khí âm dương hợp mà có con 72 nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó ở cùng nhau mãi.

73 Bây giờ phải ly biệt, 74 ta đem năm mươi trai về Thủy phủ 75 phân trị các xứ,

76 năm mươi trai theo nàng ở trên đất, 77 chia nước cai trị, 78 Dầu lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe,

79 không được bỏ nhau. 80 Trăm trai đều nghe mệnh, rồi mới từ giả mà đi.

81 Âu Cơ với năm mươi con trai ở Phong Châu, 82 nay là huyện Bạch Hạc, 83 suy tôn người hùng trưởng làm vua,

84 hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang; 85 về bờ cõi của nước thì Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Hồ Động Đình, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh 86 nay là nước Chiêm Thành,

87 chia nước ra mười lăm bộ là : Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận,

88 sai các em phân trị, 89 đặt em thứ làm tướng võ, tướng văn; tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng,

90 con trai vua gọi là Quang [Quan] Lang, con gái gọi là Mỵ Nương, 91 quan Hữu ty là Bồ Chính,

92 thần bộc nô lệ là nô tỳ, xưng thần là khôi,

93 đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền cho nhau đều hiệu là Hùng Vương không đổi.

94 Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá, thường bị giao long làm hại nên bạch với vua. 95 Vua bảo rằng : - Núi và loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại.

96 Bèn khiến lấy mực chạm hình thủy quái ở thân thể, tránh được nạn giao long cắn hại;

97 tục văn thân [vẽ mình] của Bách Việt khởi thủy từ đó. 98 Ban đầu quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; 99 lấy gạo ngâm làm rượu, lấy cây quang lang, cây soa đồng làm bánh;

100 lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối; 101 lấy dao cày, lấy nước cấy; đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm; 102 gác cây làm nhà để tránh nạn hổ lang; 103 cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng núi, 104 con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; 105 nhà có người chết thì giã gạo để hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp;

106 trai gái cưới nhau lấy muối làm lễ hỏi, giết trâu dê làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới thương thông; 107 lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.

108 Bách Nam là thủy tổ của Bách Việt vậy."

3. NHẬN ĐỊNH PHẦN GIA PHẢ

3.1. Tóm Lược Gia Phả

a. Gia phả

Sau đây là tóm lược phần gia phả trong Truyện Hồng Bàng : vua Đế Minh, cháu ba đời của Viêm Đế, đi thăm dân vùng Ngũ Lĩnh, lấy Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục được Đế Minh cho làm vua vùng đất đông giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến Hồ Đồng Đình, nam đến nước Hồ Tôn Tinh.

Lộc Tục lấy con vua Đồng Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm thay cha làm vua, lấy hiệu là Lạc Long Quân. Sùng Lãm cướp vợ yêu của Đế Lai tên là Âu Cơ.

Âu Cơ sinh bọc 100 trứng, nở ra 100 con trai. Sùng Lãm đi vắng, Âu Cơ dẫn 100 con về Bắc Quốc, nhưng không được, đành trở lại. Sùng Lãm chia con làm hai, 50 con theo Sùng Lãm xuống thủy phủ, 50 con theo Âu Cơ ở lại cai trị dân. 100 con trai đó là 100 Tổ đầu tiên của Trăm Việt. *[202]

b. Những Điểm Chính phần gia phả của Truyện Hồng Bàng sau đây :

1. Sùng Lãm và Âu Cơ sinh 100 con trai, và chúng là thủy tổ của Bách Việt, được hiểu là của toàn thể Tộc Việt.

2. Bà Nội của Sùng Lãm là Vụ Tiên, ở vùng núi Ngũ Lĩnh.

3. Mẹ của Sùng Lãm là Long Nữ, con của vua Đồng Đình, ở thủy phủ.

4. Ông nội, ông cố, ông sơ của Sùng Lãm đều là dòng vua người Hoa, ở phương Bắc.

5. Sùng Lãm nối ngôi cha, lấy hiệu là Lạc Long Quân.

6. Âu Cơ là người Hoa, vợ của Đế Lai, dẫn con về Bắc quốc, mà về không được.

7. Trong 100 con trai, 50 theo Sùng Lãm về ở thủy phủ, 50 theo Âu Cơ ở lại Nước Nam và chia nước mà cai trị.

8. Dưới sự cai trị của dòng họ đó là đám dân đen đang phục vụ họ và bị họ phiền nhiễu.

9. Địa phận vùng đất của Tộc Việt là vùng phía nam sông Dương Tử và vùng Ngũ Lĩnh.

10. Vùng đất nầy thuộc về vua Trung Hoa, nhưng chia cho Lộc Tục cai trị, nên được coi là phần đất Tộc Việt.

 

3.2. Truyện Hồng Bàng Đánh lận Xảo quyệt

a. Bề ngoài Trùng hợp

Truyện Hồng Bàng ghi lại nhiều chi tiết bề ngoài đúng với Truyền thuyết lưu truyền trong toàn dân Việt. Nhưng bên trong luôn có điều lệch lạc.

1. Từ ngàn xưa, dân Việt coi mình là Con Cháu Tiên Rồng. Truyện Hồng Bàng lại ghi đó chỉ là do Bà Nội và Mẹ của Sùng Lãm. Bà nội của Sùng Lãm có tên Vụ Tiên, mẹ của Sùng Lãm có họ Long Nữ [câu số 3,8]. *[203]

2. Từ ngàn xưa, dân Việt lưu truyền vùng đất khởi nguyên là Hồ Đồng Đình. Truyện Hồng Bàng cho đó chỉ là quê hương của Long Nữ [c.8].

3. Từ ngàn xưa, dân ta tự xưng là Việt Lạc. Truyện Hồng Bàng dùng đặt tên hiệu cho Sùng Lãm là Lạc Long Quân.

4. Dầu hoàn toàn ra ngoài văn mạch, Truyện Hồng Bàng cũng gán cho Lạc Long Quân nói với Âu Cơ : ‘Ta là loài Rồng... nàng là giống Tiên’ [c.68, 69]. - Theo đúng văn mạch Truyện Hồng Bàng, Sùng Lãm phải nói : ‘Ta hiệu là Lạc Long Quân [c.10], ta có bà nội tên là Tiên [c.3], và có mẹ tên họ là Long [c.8], còn nàng là người phàm’ [c.26].

5. Biểu tượng Rồng của dân Việt ở vùng sông biển, và biểu tượng Tiên ở vùng đất, núi. Truyện Hồng Bàng gán thêm đó là nơi cai trị của Lạc Long Quân và Âu Cơ [c.74-77].

6. Với biểu tượng ‘50 con theo Mẹ, 50 con theo Cha’ của Truyền thuyết Việt, Truyện Hồng Bàng ấn định rằng 50 đứa theo cha về ở luôn thủy phủ, giao quyền cai trị dân Việt cho 50 đứa theo bà mẹ người Hoa [c.81, 83].

7. Theo Truyền thuyết Việt, Cha Rồng đã dặn ‘Khi cần thì gọi, ta về ngay’. Truyện Hồng Bàng cũng cho Lạc Long Quân trở về, nhưng để cướp vợ của người anh chú bác ruột [c.37-41].

8. Vùng đất Tộc Việt rộng lớn toàn vùng, lên tới đường ranh Sông Hoài Tần Lĩnh. Truyện Hồng Bàng hạn hẹp lãnh thổ dân Việt vào phía nam Hồ Đồng Đình [c.85, 86], kể tên các bộ của mảnh đất nhỏ bé ở cực nam [c.87].

 9. Theo Truyền thuyết Việt, mọi người dân Việt đều có cùng nguồn gốc Tiên Rồng, đều từ Một Bọc Trăm Con. Truyện Hồng Bàng cho 100 trai là con của dòng họ triều vua người Hoa [c.1, 4-11, 47-48].

b. Thay đổi Nội dung

Như vậy, Truyện Hồng Bàng đã dựa trên một số điểm nồng cốt của Truyền Thuyết Việt để thay đổi nội dung đích thực của truyền thuyết. Đây chính là ứng dụng xảo quyệt của sách lược ‘Ngoại nho nội pháp’ trong chủ nghĩa Nô hóa Thiên hạ của giới thống trị Trung Hoa.

3.3. Truyện Hồng Bàng Mưu Đồ Đồng Hóa

Truyện Hồng Bàng không dừng lại ở chỗ đánh lận. Sau khi sửa đổi nội dung của Truyền thuyết Việt, Truyện Hồng Bàng mưu đồ dùng chính Truyền thuyết Việt để đồng hóa toàn thể tộc dân Việt và toàn thể vùng đất mấy ngàn năm của Tộc Việt thành của Trung Hoa.

a. Đồng hóa Tiên Rồng thành người tộc Hoa

Theo Truyền thuyết phổ quát trong toàn Việt Lạc, thì Tộc Việt do Bọc Trăm Con, có Mẹ là Tiên, có Cha là Rồng.

Ở Truyện Hồng Bàng, 100 đứa trai có bà nội mang họ Long (Long Nữ), và bà cố nội có tên Tiên (Vụ Tiên). (Theo phụ hệ cực đoan, người Hoa cho rằng mẹ và bà không ảnh hưởng tới huyết thống của con cháu). *[204]

Dòng họ nội của Sùng Lãm là dòng vua Trung Hoa, tất cả đều là người phàm [c.1, 3, 5, 6, 8]. Lạc Long Quân là hiệu của Sùng Lãm [c.10].  Âu Cơ là vợ của vua phương Bắc Đế Lai [c.20]. Đế Lai ‘nhớ chuyện ông nội là Đế Minh nam tuần gặp được tiên nữ.’ [c.21-22], nên Đế Lai đi tìm [c.23], đưa Âu Cơ đi theo [c.26-27]. Âu Cơ không thể là Tiên.

Âu Cơ luôn xác quyết nàng là người Hoa phương Bắc [c.63], về lại phương Bắc [c.58], mà về không được [c.60].

- Như vậy, bề ngoài có vẻ là Rồng, Tiên, nhưng thực sự Lạc Long Quân và Âu Cơ là người Hoa 100%. Ngoài ra, theo sách vở Trung Hoa, họ Âu mới xuất hiện năm 306 ttl, sau Bà Tổ Tộc Việt gần 5.000 năm.

b. Đồng hóa Trăm Họ Việt thành người tộc Hoa

Truyện Hồng Bàng kết thúc : ‘Bách nam là thủy tổ của Bách Việt’ [c.108]. Theo đó, 100 trai con của 2 người Hoa Lạc Long Quân và Âu Cơ đã là những vị tổ đầu tiên của Trăm Việt.

Truyện Hồng Bàng xác nhận trước khi có Trăm Trai đã có Trăm Họ [c.12, 16, 17], là 1 nước có vua quan [c.6, 11, 34], có quốc hiệu [c.6], có cuộc sống yên vui [c.16], ăn ngon mặc đẹp [c.30, 31], trù phú hơn phương Bắc [c.29-33].

Như vậy, làm sao 100 đứa con của Sùng Lãm và Âu Cơ lại có thể là những vị tổ đầu tiên của muôn triệu người đã sống trước chúng từ mấy ngàn năm ?

c. Đồng hóa Lãnh thổ Việt thành Lãnh thổ Hoa

Tộc Việt sinh sống trên vùng Đồng Đình từ những năm 5000 ttl, và tới Thời Hùng, từ năm 2879 ttl, đã tỏa lan ra khắp vùng Nam Bắc lưu vực Sông Dương Tử. Như vậy, Dân Việt đã có mặt trong khắp vùng từ hơn 1800 năm trước khi tộc Hoa thành hình ở phương Bắc.

Vậy mà Truyện Hồng Bàng lại cho rằng đó là lãnh thổ của người Hoa, thuộc quyền cai trị của dòng họ vua chúa người Hoa, và được chia cho đứa con lai Lộc Tục [c.2, 5, 6].. *[205]

* Truyện Hồng Bàng đã cướp toàn thể vùng đất rộng lớn của Tộc Việt và đặt dưới quyền cai trị của dòng tộc Hoa.

* Với việc đặt tên hiệu cho Tổ của Tộc Việt là Lạc Long Quân [c.10], Truyện Hồng Bàng hạn hẹp Cha Rồng sinh Trăm Con thành Tổ của 1 nhánh Lạc. Tất cả các nhánh Việt khác đều đã bị đồng hóa vào Trung Hoa.

** Tuy nhiên, như vậy Truyện Hồng Bàng cũng thêm chứng cứ cho Truyền thuyết Trăm Con là của Việt Lạc.

** Với ranh giới của Vua Hùng, Truyện Hồng Bàng xác nhận ranh giới của Việt Lạc ‘Bắc đến Hồ Đồng Đình’ [c.83].

d. Đồng hóa Văn hóa Việt vào văn hóa Hoa

Từ khởi nguyên đến cách đây dưới 2.000 năm, xã hội Tộc Việt thiên về mẫu hệ, con gái là chính, dòng họ đều theo bên mẹ, theo tên họ của mẹ. Nhưng Truyện Hồng Bàng kể dòng cha là chính. Tất cả dòng nội đều được ghi tỉ mỉ, với tên riêng và tên hiệu của từng người, [c.1,3,5,6,8], từ Đế Minh tới Lộc Tục, Sùng Lãm, rồi 100 trai. Nhưng Truyện Hồng Bàng thiếu tên ông bà ngoại, và không có tên ‘mẹ’ Âu Cơ. Theo mẫu hệ, Lạc là tên của Bà Tổ của dân Việt Lạc. Truyện Hồng Bàng đổi họ Lạc thành 1 phần của biệt hiệu của ‘cha’ Sùng Lãm, Lạc Long Quân.  *[206]

* Truyện Hồng Bàng đã chuyển đổi truyền thống mẫu hệ của dân Việt Lạc thành văn hóa phụ hệ của người Hoa.

e. Hủy hoại Truyền thống Việt

Quan trọng nhất của Truyền thuyết Việt là biểu tượng Tiên Rồng tôn thành 2 Biểu Tượng Linh Thiêng, biểu trưng 2 Ông Bà Tổ của Tộc Việt, vào thời đầu lịch sử. Bọc Trăm Con là biểu tượng của Dòng Tộc Việt. Truyện Hồng Bàng lại đặt Tiên, Rồng và Bọc Trăm Con vào lịch sử, và gán cho một loạt ‘tổ tiên ông bà cha mẹ’ của Tiên và Rồng.

* Như vậy, Truyện Hồng Bàng hủy hoại tính cách Biểu Tượng và Linh Thiêng quan trọng nhất của Truyền thống Văn hóa Việt, và biến Truyền kỳ của Dân Việt thành phản tự nhiên, phản khoa học.

3.4. Truyện Hồng Bàng nặng lời Miệt thị Tộc Việt

Truyện Hồng Bàng mưu đồ đồng hóa nguồn gốc Việt. *[207]

t, đoạt lãnh thổ Việt, đổi văn hóa Việt, hủy hoại truyền thống.

1. Sùng Lãm tuy là gốc Hoa, nhưng gian manh háo sắc và vô tâm, dùng thủ đoạn chiếm đoạt vợ của người anh chú bác ruột [c.39, 43-45], và bỏ lờ trách nhiệm làm vua [c.36-39, 56], làm chồng [c.57, 67], làm cha [c.65-66].

2. Tuy là người Hoa, nhưng Âu Cơ lăng loàn mất nết, trốn vua, trốn chồng theo trai tơ [c.40-41]. Cả 2 đều vô luân.

3. Theo Truyện Hồng Bàng, toàn thể trăm đứa con đều nhận mình là dòng dõi người Hoa [c.63], đều đã theo mẹ Âu Cơ đi về Bắc quốc [c.58]. Nhưng về không được [c.60], nên phải ở lại Nước Nam ! Vì vua nước Nam nhẫn tâm bỏ về thủy phủ, chúng phải chia nhau cai trị dân Nam ! [c.74,76,77].

4. Truyện Hồng Bàng mưu đồ muốn người Tộc Việt tin rằng mình gốc Hoa, nhưng chính người Hoa luôn coi dân Việt là ‘Nam man’, là dân mọi rợ ở phương Nam, và không xứng đáng là người Hoa.

4. MẸ TIÊN CHA RỒNG

4.1. Khởi Tổ. Khởi Tổ là 2 Vị đầu tiên đã sinh ra đàn con cháu phát triển thành Tộc Việt. Để thành một tộc dân đông đúc và phát triển như Tộc Việt hôm nay, 2 Vị Khởi Tổ đã sống khoảng 7000 năm trước. Tuy ngày nay không còn dấu vết gì của Các Ngài. Nhưng sự hiện hữu của mấy trăm triệu con cháu Tộc Việt đã là bằng chứng hiển nhiên.

4.2. Nhận thức về Con Người

a. Tôn kính yêu quý Mẹ Cha

Từ đầu Thời Hùng, cách đây 5.000 năm, người Tộc Việt đã nhận ra mình là thành phần của một tộc dân lớn, bao trùm khắp các vùng phía nam Sông Hoài Tần Lĩnh, và phát triển đặc biệt ở vùng Việt Thượng Sông Hồng.Với thời gian, văn hóa Việt thành hình và trỗi vượt với những nhận định xác đáng về Con Người. Qua cuộc sống thường ngày, Dân Việt nhận biết mỗi người là 1 phối hiệp toàn vẹn của Mẹ và Cha. Mẹ Cha có những đặc tính riêng, nhưng bổ túc và hòa hiệp đồng đều trong mỗi Con Người.

Cha nổi bật sức sống dũng mãnh và tài trí biến hóa, Mẹ hiền dịu yêu thương và cảm thông linh mẫn.

Trong tình kính quý và hãnh diện, dân Việt coi Mẹ là Bà Tiên và gọi Cha là Ông Rồng. Tiên Rồng thành Biểu Tượng của Mẹ Cha, Mẹ Tiên Cha Rồng, và cũng biểu trưng những đặc tính nền tảng của mỗi Con Người. *[208]

b. Anh Em Một Bọc

Kinh nghiệm sống với Mẹ Cha đưa tới xác định : cuộc sống con người luôn tùy thuộc vào người khác. Con người không thể sống trọn vẹn nếu không chung sống với người khác, là đặc tính Xã Hội bẩm sinh của Con Người.

Sống với Gia đình, Mẹ Cha, anh chị em, đưa tới 2 xác định nền tảng cho cuộc sống xã hội. Là con người hoàn toàn bình đẳng và thương nhau tận tình, như giữa những người cùng 1 Mẹ 1 Cha, và được sinh ra cùng 1 lần.  *[209]

Những xác định tuyệt vời đó đưa tới hình ảnh biểu tượng Mọi Người đều đã được Mẹ Tiên Cha Rồng sinh ra cùng 1 lần, trong 1 Bọc chứa 100 Anh Em.

c. Biểu Tượng cao quý. Vì kính quý và biết ơn sâu xa 2 Vị Tổ Đầu Tiên của Tộc Việt, Tổ Tiên ta đã tôn 2 Ngài thành Biểu Tượng Tiên Rồng Linh Thiêng cao quý nhất của Dân Việt, gọi 2 Ngài Khởi Tổ là Mẹ Tiên Cha Rồng, tự nhận là Con Cháu Tiên Rồng, vui sướng gọi nhau là Anh Chị Em cùng 1 Bọc, Đồng Bào. Đặc biệt duy nhất chỉ có người Việt gọi Dân mình là Đồng Bào. *[210]

4.3. Hai Ngài Khởi Tổ linh thiêng

Hai Ngài Khởi Tổ Tiên Rồng chính là Biểu Tượng Linh Thiêng nhất và là niềm tự hào cao cả nhất trong tâm hồn mọi người dân Việt. Giờ đây, Hồn Thiêng của Hai Ngài vẫn linh hiển, và với sứ mạng Trời ban sinh ra cả một giống dân đông đúc trỗi vượt, là Tổ trên hết các Tổ của Tộc Việt, là Nguồn Sinh mọi Thánh Thần Anh Linh Việt, Hai Ngài cao trọng và uy thế khôn tả, đáng để mọi người tôn vinh và cầu khẩn.

4.4. Nguồn gốc Tộc Việt : Truyền kỳ Tiên Rồng.  Để ghi nhớ ơn đức của Hai Ngài Khởi Tổ, lưu lại nền tảng tuyệt vời của Văn hóa Việt, Nguồn gốc Tộc Việt được truyền thống Văn hóa Việt thăng hoa, kết tinh thành Truyền kỳ Tiên Rồng, truyền khẩu trong toàn đại chúng Việt, suốt mấy ngàn năm : Giống dân Việt khởi nguồn từ khi Bà Tiên và Ông Rồng phối hiệp nhau, Bà Tiên sinh ra bọc chứa 100 người con.

‘Sau đó Ông Rồng nói với Bà Tiên : ‘Ta là giống Rồng, nàng thuộc dòng Tiên, nên nàng đem 50 con lên núi, ta đem 50 con xuống biển. Khi cần thì gọi, ta về ngay.’ ‘Từ đó dòng giống Việt ngày một phát triển."

*********

XIII. 18 VUA HÙNG : 9 VUA HÙNG BÀ + 9 VUA HÙNG ÔNG

1. TỘC VIỆT và TỘC HOA

1.1. Tộc Việt Thời Khởi nguyên

Tộc Việt khởi nguyên nhờ 2 Ông Bà Khởi Tổ ở Hồ Đồng Đình, nam trung lưu sông Dương Tử, khoảng năm 5.000 ttl, cách đây 7000 năm. 2.000 năm đầu, dân Việt tỏa lan khắp vùng. Phía Nam đến vùng Sông Hồng.

Theo địa lý, khí hậu và di tích khảo cổ về thời cách đây 5.000 năm, vùng Á Đông Xưa có 2 trung tâm phát triển nông nghiệp Lúa Nước là vùng Hồ Đồng Đình và vùng Sông Hồng. Vùng nông nghiệp Lúa Nước phát triển ở những đồng bằng nhiều nước, nhiều mưa, nhiều nắng ấm, có nhiều thổ sản, thủy sản, phương tiện, khác xa vùng khô cằn giá lạnh.

Như trên thế giới, vùng nông nghiệp lúa nước là nguồn phát xuất những truyền thuyết súc tích, thâm thúy, xa xưa nhất của nhân loại hiện nay. *[211]

1.2. Tộc Hoa khởi nguyên

Ngày nay, lịch sử đã xác định Tộc Hoa thành hình do bộ lạc Chu tập họp 1 số bộ lạc du mục vùng Thiểm Tây, tây bắc đường ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, thành lập Nhà Chu năm 1046 ttl, cách đây 3.000 năm.

Thiểm Tây là vùng đồng cỏ khô cằn giá lạnh, chỉ thích hợp với nghề chăn nuôi du mục, trồng lúa khô, lúa mạch, bo bo, bắp... và phát sinh ra nền văn hóa gốc du mục.

Tụ họp và thành Nhà Chu, tộc Hoa chỉ là các bộ lạc du mục lạc hậu sơ khai, chưa tập họp đông và tổ chức xã hội, chưa thể chiếm các vùng đất riêng.

Về văn hóa, họ chưa tới thời kỳ ghi nhận và sáng tạo những truyền thuyết súc tích, mạch lạc, và có hệ thống.

2. THỜI HÙNG

2.1. Hai nguồn Truyền thuyết Việt, Hoa

a. Truyền thuyết Việt Lạc : Thời Hùng 2879-180 ttl

Theo truyền thuyết Việt Lạc, Thời Hùng khởi đầu từ năm 2879 ttl. Năm 2879 ttl đánh dấu sự kiện Tộc Việt đã tỏa lan trên khắp vùng đất rộng lớn từ

 Hồ Đồng Đình, ra tới biển, Bắc giáp ranh thiên nhiên Sông Hoài Tần Lĩnh, Tây tới Sông Cửu Long, phía Nam tới ranh Hải Vân. *[212]

Thời Hùng chấm dứt năm 180 ttl, khi đoàn quân của Triệu Đà chiếm đóng Cổ Loa, trị sở của Việt Lạc. *[213]

b. Sách vở Trung Hoa

Theo sách vở Trung Hoa, thời Tam Hoàng khởi đầu năm 2852 ttl. Như vậy, Thời Hùng của Việt Lạc gồm trọn các thời Tam Hoàng, Ngũ Đế, Hạ, Thương, Chu, Tần và 26 năm đầu Nhà Hán của sách vở Trung Hoa.

Tộc Hoa, thành hình năm 1046 ttl, sau Tam Hoàng Ngũ Đế hơn 1800 năm. Như vậy, tất cả truyền thuyết thời trước 1046 ttl, và những truyền thuyết thuộc nền văn hóa lúa nước, không phải là của Tộc Hoa du mục.

Ngoài ra, vì lạm nhận một phần truyền thuyết của Tộc Việt làm Tổ tiên của tộc Hoa, nên truyền thuyết về các triều đại trong sách vở Trung Hoa, từ khởi nguyên tới 1046 ttl, chỉ là một phần nhỏ của tiền sử Tộc Việt. Tộc Việt còn nhiều phần đất rộng lớn khác mà sách vở Trung Hoa không đề cập tới.

Ngày nay, với niên đại gần giống nhau giữa Thời Hùng 2879 ttl và thời Tam Hoàng 2852 ttl, Thời Hùng có thể được chia theo 4 thời kỳ sẵn có. Mỗi Thời kỳ lại có 2 hoặc 3 giai đoạn.*[214]

2.2. Bốn Thời kỳ Thời Hùng

1. Thời Hùng 1 : 1-809 Thời Hùng (tH), 2879-2070 ttl, gồm cả thời Tam Hoàng Ngũ Đế. Thời nầy có 2 giai đoạn :

    Thời Hùng 1A : 1-179 tH, 2879-2700 ttl, gồm cả thời Tam Hoàng.

    Thời Hùng 1B : 179-809 tH, 2700-2070 ttl, gồm cả thời Ngũ Đế.

2. Thời Hùng 2 : 809-1279 tH, 2070-1600 ttl, gồm cả thời Hạ :

    Thời Hùng 2A : 809-1079 tH, 2070-1800 ttl, gồm cả Tiền Hạ.

    Thời Hùng 2B : 1079-1279 tH, 1800-1600 ttl, gồm cả Hậu Hạ.

3. Thời Hùng 3 : 1279-1833 tH, 1600-1046 ttl, gồm cả thời Thương, với :

    Thời Hùng 3A : 1279-1579 tH, 1600-1300 ttl, gồm cả Tiền Thương.

    Thời Hùng 3B : 1579-1833 tH, 1300-1046 ttl, gồm cả Hậu Thương / Ân.

4. Thời Hùng 4 : 1833-2699 tH, 1046-180 ttl, đồng thời với Tây Chu / Sở, và Đông Chu / Tần, gồm :

Thời Hùng 4A : 1833-2108 tH, 1046-771 ttl, đồng thời với Tây Chu / Sở.

Thời Hùng 4B : 2108-2672 tH, 771-207 ttl, đồng thời với Đông Chu / Tần.

Thời Hùng 4C : 2672-2699 tH, 207-180 ttl, Việt Lạc với Triệu Đà.

3. VUA HÙNG

3.1. Lạc và Hùng

Đã có lẫn lộn giữa 2 chữ nho Lạc và Hùng, vì vậy mới có ‘Lạc vương’ và ‘Hùng vương’. Liên tục trong suốt mấy ngàn năm đến nay, đại chúng Việt vẫn tôn xưng và cầu khẩn ‘18 Vua Hùng’. Dân ta vẫn luôn tự xưng là ‘Lạc’ hoặc ‘Việt Lạc’. Vậy, không thể lẫn lộn giữa âm ‘Lạc’ và âm ‘Hùng’.

Lạc vương là ‘vua dân Lạc’. Còn Lạc hầu, Lạc tướng, Lạc điền, Lạc dân. *[215]

Vua Hùng, Hùng Vương, là miếu hiệu Dân Việt Lạc tôn xưng 18 Vị Tiêu Biểu đặc biệt trong tăng triển Dân tộc và Văn hóa Việt Lạc. Có hàng trăm Lạc vương, nhưng Dân Lạc chỉ thờ kính làm Quốc Tổ 18 Vua Hùng, thời Khởi Nguyên hoặc thời Hùng, nhưng không nhất thiết đã làm vua.

3.2. Việc Thờ Kính các Vua Hùng

a. Truyền thống

Từ nhiều ngàn năm trước, Tộc Việt đã có truyền thống thờ kính Tổ Tiên của mỗi người đưa tới việc thờ kính các Vị Tổ của Tộc Dân và của Nước.Truyền thuyết xưa nhất của dân ta, luôn nhắc đến Vua Hùng là biểu tượng cao quý quyền uy nhất của xã hội Việt, có mặt trong mọi Truyền Kỳ về đời sống xã hội, gia đình, làng nước. *[216]

Hơn 3.000 năm trước, tất cả Thạp và Trống Đông Sơn thời tuyệt kỹ đều có đàn Chim cách điệu hóa thành

Chữ Hùng linh thiêng.   *[217]

Đầu Chim mỏ dài thành nét . Thân và đuôi dài thành . Cánh và chân thành . Dưới thêm bộ hỏa  nhấn mạnh tính Linh thiêng. *[218]

b. Thời Bắc thuộc

Hiện nay, không còn nhiều chứng tích về các Vua Hùng. Chỉ vì trong suốt thời Bắc thuộc, Trung Hoa đã hủy hoại mọi di tích, mọi tài liệu, và cấm đoán mọi thờ kính công khai các Vị Tổ của Dân Ta. Việc Thờ Kính Tổ phải tổ chức riêng lẻ, thầm kín, ngụy trang các hình thức và danh xưng khác.

Có dấu vết cốt lõi của niềm tin, của đối tượng thờ kính của đại chúng Việt ở các đạo giáo, như đạo Lão, đạo Thờ Mẫu, thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế.

c. Thời Phục Hưng

Khi dân Lạc Hồng giành lại đất phương Nam của Việt Lạc, khai sáng Thời Phục Hưng, từ năm 906 dl, đã tái lập việc công khai thờ kính Các Vị Tổ. Năm 1010 dl, Đức Lý Thái Tổ long trọng khôi phục nghi lễ và Đền Thờ Tổ trên núi Hy Cương, tái lập Lễ Thờ Kính Tổ trong cả Nước. Đức Lý Thái Tổ đã dâng kính 18 Miếu Hiệu lên 18 Vị ‘Vua Hùng’, như có hiện nay. *[219]

Miếu hiệu để thờ kính, tuyên xưng trong Lễ Tế, không phải tên riêng 18 Vị. *[220]

3.3. Mười Tám Vua Hùng   

a. Con số 18. Chưa có tài liệu ghi nhận cách đây 1.000 năm Đức Lý Thái Tổ chỉ thờ kính ‘18 Vua Hùng’ suốt từ Khởi Nguyên tới hết Thời Hùng, dài hơn 5.000 năm. Nhưng trước Đức Lý Thái Tổ hơn 2.000 năm, tất cả mọi Nắp Thạp và Mặt Trống Đông Sơn đều có hình Chim cách điệu chữ Hùng , và trống Ngọc Lũ, trống Sông Đà, 2 trong 4 trống tinh xảo nhất hiện có, đã có hình 18 Chim Hùng linh thiêng. *[221]

Hơn 2000 năm trước Đức Lý Thái Tổ, đã có truyền thống thờ kính 18 Vị ‘Vua Hùng’.

b. Con số 2699

Gần 500 năm sau khi Đức Lý Thái Tổ dâng Miếu Hiệu cho 18 Vua Hùng, mới có Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, [do Ngô Sĩ Liên, viết xong năm 1479 dl], ghi lại Thời Hùng từ năm Nhâm Tuất 2879 ttl tới 258 ttl, gồm 2621 năm.

Theo cách tính hiện nay, Thời Hùng dài 2.699 năm, từ 2879 tới 180 ttl. *[222].

Thời Hùng 2.699 năm chứng tỏ 18 Vua Hùng được thờ kính không phải là những Vị Vua liên tục nối tiếp nhau. Thời Hùng không phải là 1 triều đại. Khi tính ra số 2.621 năm cho Thời Hùng, sử gia Ngô Sĩ Liên biết không thể ngây ngô đem số 2.621 năm chia cho 18 Vị.

c. Vua An Dương

Theo thần phả của Đền Vua An Dương ở Cổ Loa, Vua An Dương cũng là ‘Hùng Gia Chi Phái’, thuộc dòng dõi Họ Hùng. Dầu làm vua Thời Hùng, nhưng Vua An Dương đã làm mất nước, nên không được kể là ‘Vua Hùng’, không được thờ ở Đền Hùng, chỉ là Lạc Vương ở cuối Thời Hùng. *[223]

Không phải làm Vua ở Thời Hùng là được thờ kính. *[224]

4. VUA HÙNG QUỐC TỔ

4.1. Vua Hùng. Vua Hùng là Biểu Tượng của Những Vị đã Đóng Góp Đặc Biệt vào tiến trình hình thành của Tộc Dân và Văn Hóa Việt từ Thời Khởi Nguyên. Các Ngài là những Vị trỗi vượt thuộc mọi lãnh vực, đặc biệt về Xã hội và Văn hóa, chứ không nhất thiết là người có quyền cai trị.

4.2. Mười Tám Vua Hùng

Biểu tượng hóa các Ngài với con số tôn quý là 18 Vị. Số 18 là 2 lần 9. Số 9 là số cao quý nhất của Tộc Việt. [225]

18 Vua Hùng là những Vị cao quý tột bực, được kính trọng tột bực, được Truyền Thống Việt thờ kính. *[226]

4.3. Vua Hùng Bà

Từ Thời Khởi Nguyên cách đây 7000 năm, đến 1.700 năm, thế kỷ 3 dl, dân Việt thiên về mẫu hệ, phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống xã hội. Nhiều Vị Nữ Giới đã góp đặc biệt thành hình xã hội và văn hóa Việt. *[227]

Trên thạp Đông Sơn, cách đây 3.000 năm, có hình vị Thủ Lãnh là một Bà, ngực cao, mông lớn.

Mãi tới 220 năm sau Thời Hùng, năm 40 dl, trong số các anh hùng tái chiếm toàn thể vùng đất Việt Lạc, vẫn có nhiều đội nữ binh, và số nữ tướng nhiều hơn nam tướng. Lại nữa, người nhận trách nhiệm lãnh đạo toàn dân, cũng lại là một nữ nhân, Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam Trưng Trắc.Sau Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam hơn 200 năm, năm 248 dl, khi sử Trung Hoa phải ghi nhận thêm một cuộc khởi nghĩa khác của dân Nam, thì cuộc khởi nghĩa nầy cũng lại do một nữ nhân lãnh đạo.

Vị lãnh tụ đó là Cô thanh nữ 23 tuổi, Bà Vua Triệu. *[228]

Năm 541 dl, 300 năm sau Bà Vua Triệu, cách đây dưới 1.500 năm, sử Trung Hoa ghi tên 1 nam nhân làm thủ lãnh dân Việt Lạc, Đức Nam Việt Đế.

4.4.  9 Vua Hùng Bà, 9 Vua Hùng Ông

Như vậy, trong suốt thời gian hơn 2000 năm trước Thời Hùng, 2700 năm trong Thời Hùng, và hơn 400 năm sau Thời Hùng, Dân Việt sống trong chế độ mẫu hệ, nữ giới chủ động và lãnh đạo cuộc sống xã hội. *[229]

Suốt thời kỳ hơn 5.100 năm, số Vị Vua Hùng Bà nhiều hơn Vua Hùng Ông. Vua Hùng trở thành biểu tượng, với số 9 là số tuyệt hảo của Dân Việt. Theo đúng truyền thống Mẹ Tiên Cha Rồng 50/50 siêu việt, ta thờ kính 9 Vua Hùng Bà và 9 Vua Hùng Ông. Số 9 là số cao quý tròn đầy của Tộc Việt, 18 Vị. Các Ngài không nhất thiết là vợ chồng. *[230]

4.5. Đại lễ Kính 18 Quốc Tổ

Đại Lễ kính 18 Đức Vua Hùng Quốc tổ cử hành ngày 10 tháng 3 lịch Việt, ngày 10 là ngày Dậu, tháng 3 là tháng Thìn. Trong 12 giáp, Dậu tượng trưng cho Phụng, Thìn là Long. Phụng và Long là hiện biểu của Tiên và Rồng.

Ngày 10 tháng 3 là Ngày Tiên Tháng Rồng, Tiên Rồng Song Hiệp, sinh ra Con Người. Cử hành Đại Lễ kính 18 Vua Hùng mừng Tiên Rồng Song Hiệp, Tổ Tiên ta xác định 18 Đức Vua Hùng là 18 Vị tiêu biểu Tiên Rồng song hiệp, đã sống Làm Người tuyệt hảo, đã Đóng Góp Đặc Biệt vào tiến trình hình thành Tộc Dân, Văn Hóa, và Đất Nước Việt.

*********

XIV. ĐẠI ĐẾ ĐỒNG ĐÌNH LĨNH NAM

LÃNH THỔ và SỨC SỐNG của VIỆT LẠC, 2909-2922 tH, 30-43 dl

1. DẪN NHẬP

Trong 1000 năm vừa qua, nhiều Sứ thần Đại Việt ta đã tới cúng tế tại Đền Đức Trưng Vương ớ Hồ Đồng Đình.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, viết năm 1479 dl, ở Phiên Ngung, gần thủ phủ Quảng Châu của tỉnh Quảng Đông ngày nay, có đền thờ Đức Trưng Vương. Năm 1793 dl, vào thời Tây Sơn, khi đặc sứ Ngô Thời Nhiệm cùng phái đoàn đi ngang phía nam Hồ Đồng Đình, ông đã đến viếng đền thờ Đức Trưng Vương tại đó. Ông cũng ghi : quân Đức Trưng Vương đã đánh với quân Mã Viện ở Hồ Nam.

Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca, 1870 dl, cũng ghi : ‘Đô kỳ đóng cõi Mê Linh, Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta’. (câu 339-340). Lĩnh Nam nay là vùng Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, và Bắc phần Nước ta.

Sau đây là những tài liệu và nhận định mới về thực trạng Việt Lạc, về Đức Trưng Vương, về động cơ và nhân sự quật khởi, về địa bàn hoạt động, về sức mạnh của Dân ta năm 2919 tH, 40 dl, và về Mã Viện, về binh lực của Trung Hoa.

2. TỔNG QUAN

2.1. Tài Liệu

Tới gần đây, rất ít tài liệu về cuộc khởi nghĩa của Dân Việt Lạc đầu thế kỷ I dương lịch, do Bà Trưng lãnh đạo. Hầu hết những gì được ghi chép đều được trích dẫn từ sách vở Trung Hoa, tức là từ phía đối nghịch. Tài liệu của kẻ thù thường chủ quan, thiếu xác thực. Về dân Việt, Trung Hoa luôn thêm xuyên tạc, vu khống do mưu đồ đồng hóa suốt mấy ngàn năm.

Gần đây, nhờ những phát hiện ở Việt Nam và trên vùng đất của Việt Lạc xưa, đặc biệt qua các Đền thờ và Thần tích, chúng ta có thêm nhiều chi tiết đã không được sách vở Trung Hoa ghi chép chính xác.

2.2 Danh Xưng

a. Hai Bà Trưng

Đã từ lâu, danh xưng ‘Hai Bà Trưng’ thường được dùng để chỉ 2 chị em Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị. Việc gọi chung 2 Bà gây ấn tượng là cả 2 Chị Em cùng nhau nổi lên chống giặc và cùng hoàn thành công cuộc cứu nước.

Quả thực Hai Chị Em cùng đứng lên cứu dân cứu nước và đã tạo những kỳ công đáng khâm phục. Nhưng sách vở ghi rõ chỉ có Bà Chị nhận quyền lãnh đạo toàn cuộc khởi nghĩa. Phần Bà Em, dầu cũng là bậc kỳ tài nổi tiếng đương thời và đóng góp nhiều công lao xuất chúng, nhưng Bà chỉ nhận tước Công chúa Bình Khôi. Cùng với Bà, nhiều vị nữ tướng khác cũng có tước Công chúa, như An Bình, Thánh Thiên, Gia Hưng, Vĩnh Huy, Trinh Thục, Nga Sơn, Nghi Hòa... Vì vậy, tuy là 2 chị em, nhưng khi Bà Chị được các anh hùng nghĩa sĩ đương thời đặt lên lãnh đạo công cuộc cứu nước, thì chỉ có Bà Chị chính thức đại diện cho toàn dân.

Năm 2919 tH, 40 dl, chỉ có Bà Chị lên ngôi, thống lãnh toàn thể Việt Lạc.

b. Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam

Vì chủ trương đồng hóa và xóa bỏ mọi dấu vết của Tộc Việt, giới thống trị Trung Hoa đã quyết tâm giấu kín mọi cuộc khởi nghĩa. Nhưng vì không thể che đậy những biến động to lớn, sách vở Trung Hoa lại xuyên tạc và hạ giảm sức mạnh, tầm ảnh hưởng và địa bàn hoạt động của dân bị trị.

Hiện nay chúng ta không có danh xưng chính thức của Bà khi Bà lên ngôi. Nhưng phát hiện về địa bàn hoạt động, vùng đất cai trị và ảnh hưởng của xác định là Đại Đế của Việt Lạc Đồng Đình và Việt Lạc Lĩnh Nam.

3. THỰC TRẠNG VIỆT LẠC 2665-2922 tH, 214 ttl - 43 dl

3.1. Thời Tần Thủy Hoàng

Năm 2665 tH, 214 ttl, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư dẫn 50 vạn quân lính xâm lăng vùng đất Việt Lạc. Đây là áp lực đầu tiên của Trung Hoa trên một phần đất Việt Lạc. Nhưng sau 3 năm, Đồ Thư bại trận và bị giết. *[231]

3.2. Thời Phụ Dung Triệu Đà

a. Nước Nam Việt

Năm 2672 tH, 207 ttl, tướng Nhà Tần Triệu Đà đã chiếm vùng nay Quảng Tây, Quảng Đông. Khi Tần bị Hán diệt. Triệu Đà giết tất cả quan tướng của Tần, tự xưng Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Nam Việt, đóng đô tại Phiên Ngung, nay là Quảng Châu. Triều Hán đưa quân đánh chiếm, nhưng đại bại.

Triệu Đà đã cố gắng thu phục lòng dân Việt Lạc trong vùng. Chính Ông đã thay đổi nếp sống, thay đổi trang phục, thay đổi cách xưng hô, theo phong tục Việt Lạc, lấy vợ Việt. Triệu Đà đặc biệt phát triển về chính trị, quân sự, và văn hóa bản địa, để trở thành một đế quốc biệt lập với triều Hán.

Đang khi đó, Việt Lạc Đồng Đình có Trường Sa Vương, và Việt Lạc Sông Hồng có Vua An Dương.

b. Triệu Đà chiếm Cổ Loa

Năm 2699 tH, 180 ttl, theo truyền kỳ Mỵ Châu, với kế Trọng Thủy ở rể, Triệu Đà đã đánh bại Vua An Dương, chiếm đóng Cổ Loa, trị sở của Việt Lạc Sông Hồng. Triệu Đà vẫn để người bản xứ cai trị dân, cuộc sống người dân không thay đổi. Nhưng Việt Lạc Sông Hồng chỉ là một nước phụ dung.

Năm 2768 tH, 111 ttl, Nam Việt bị Hán xâm lấn. *[232]

c. Sống theo truyền thống

Trong 96 năm, Dầu Nhà Triệu cai trị, dân Việt Lạc Nam Việt vẫn tiếp tục sống Văn hóa của Tổ Tiên, các Trưởng Lão Việt Lạc tiếp tục cai quản dân theo truyền thống, kinh tế và lực lượng an ninh cũng tiếp tục được củng cố...

Như vậy, thời kỳ nầy chưa thể được coi là thời Bắc thuộc.

Nhưng lúc Nhà Triệu suy, nhiều địa phương vùng Sông Hồng đã quật khởi.

3.3. Thời Phụ Dung Tây Hán

Suốt 141 năm, từ 2768 tới 2909 tH, 111 ttl - 30 dl, tuy Nam Việt bị Nhà Hán xâm lăng, sách vở Trung Hoa không nói tới đất Việt Lạc, dấu chỉ thời kỳ nầy, Việt Lạc chưa liên hệ nhiều với Hán.

Nhà Tây Hán 2679-2887 tH, 206 ttl-8 dl, quan thứ sử các vùng đất phụ dung mỗi năm 3 tháng đi thu thuế cho triều đình. Không có nền cai trị mới của ngoại xâm trên Việt Lạc. Thời 2887-2904 tH, 8-25 dl, là thời loạn lạc của Trung Hoa, lơ là thu thuế. Trong suốt thời nầy, Việt Lạc chỉ là một nước phụ dung đóng thuế cho triều Hán. *[233]

3.4. Quang Vũ Xâm Lăng

Tình hình thay đổi từ năm 2909 tH, 30 dl, khi Hán Quang Vũ áp đặt chính sách hà khắc, đưa quân và quan lại tàn ác, chiếm đoạt, tham ô tới trú đóng các vùng Việt Lạc. 4 năm sau, 2913 tH, 34 dl, xuất hiện thái thú Tô Định.

3.5. Tình Hình Việt Lạc năm 2909 tH, 30 dl

a. Nếp sống Truyền thống

Từ 2768 tới 2909 tH, 111 ttl - 30 dl, ngoài việc mỗi năm một lần đóng thuế cho thứ sử, cuộc sống dân Việt Lạc vẫn không thay đổi. Trung Hoa chưa ảnh hưởng nếp sống xã hội, văn hóa, chính trị, quân sự, an ninh của Việt Lạc.

Trong suốt 141 năm đó, dân Việt Lạc vẫn tiếp tục sống nếp sống truyền đời của Tổ Tiên. Việc cai trị vẫn ở trong tay các Trưởng Lão Việt Lạc. Thành phần bảo vệ an ninh cho Làng, Nước, vẫn sinh hoạt bình thường.

Nếp sống văn minh Lúa Nước, kỹ thuật trồng cấy, kỹ nghệ đồ đồng đồ gốm, văn học, thơ văn, chữ viết... của Việt Lạc, vẫn tiếp tục phát triển. Nếp sống Làng thôn với thể chế Làng-Nước Việt Lạc, vẫn sống động và tăng trưởng.

Văn hóa Việt Lạc vẫn ngày một thêm tốt đẹp, sâu sắc. *[234]

b. Việt Lạc bị xâm lăng

Từ năm 2909 tH, 30 dl, do việc xua quân áp đặt quan lại của Hán Quang Vũ, cuộc sống của Dân Nước khắp toàn vùng Việt Lạc, từ Đồng Đình, qua Lưỡng Quảng, tới Sông Hồng, bỗng bị xáo trộn.

Thái thú Tô Định làm cho tình hình thêm tồi tệ, thêm giặc tham tàn ác, thêm luật lệ mới, thêm sắc thuế mới. *[235]

c. Việt Lạc kháng chiến

Toàn thể Việt Lạc khắp nơi đều sẵn sàng đứng lên. Toàn hệ thống sức mạnh xã hội, chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa đều vận dụng để chống giặc. Mọi nơi, mọi đơn vị đều sẵn sàng, với lực lượng, tổ chức, và thủ lãnh sẵn có.

Trong tình trạng sôi động, do ưu thế của vùng Sông Hồng, liên kết và chủ động của 2 vùng Mê Linh và Châu Diên, quê của vợ chồng Trưng Trắc và Thi Sách, qua biến cố Tô Định giết hại Lạc Tướng Thi Sách, và do truyền thống mẫu hệ mấy ngàn năm của Việt Lạc, Đức Trưng Trắc đã trở thành Thủ Lãnh kháng chiến của toàn Dân Việt Lạc.

4. ĐỘNG CƠ QUẬT KHỞI

4.1. Theo Sách vở Trung Hoa

a. Vì thù chồng. Theo sách vở Trung Hoa, Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam người đất Mê Linh. Bên ngoại Bà thuộc dòng Vua Hùng, bên nội là dòng Lạc Tướng. Bà kết hôn với Thi Sách, dòng Lạc Tướng, người vùng Châu Diên. Vì thái thú Tô Định giết chồng Bà, nên Bà nổi dậy đánh đuổi Tô Định năm 2919 tH, 40 dl, đóng đô tại Mê Linh. Sách Trung Hoa nhấn mạnh Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam thù chồng, giảm nhẹ tinh thần Vì Dân Vì Nước của Ngài và của toàn dân Việt Lạc thời đó. Việc hạ giá trị lý do chiến đấu của phái nữ bị sử Trung Hoa gán ghép cho nhiều Nữ Tướng anh hùng khác. Cuộc khởi nghĩa của Công chúa Thánh Thiên ghi là để trả thù cho cậu. Bà Cao Thị Liên rửa thù cho cha. Nhiều Bà khác cùng vì thù chồng.

b. Vì Tô Định bạo ngược

Sách vở Trung Hoa đã nhấn mạnh Tô Định tham tàn bạo ngược. Tuy đây là sự thực, nhưng cũng là cớ đánh lạc hướng động cơ quật khởi của Việt Lạc.

Lý do ‘tham tàn quá đáng’ luôn được sách vở Trung Hoa nhấn mạnh cho tất cả các quan cai trị thất bại. Họ luôn trút tội lên đầu những kẻ thất bại, để chạy tội cho toàn thể truyền thống dã tâm xâm lược của họ, như thể dân bị trị luôn vui lụy phục ách bạo tàn của họ, chỉ chống đối bọn tham quan tồi tệ.

c. Vì luật lệ hà khắc

Dầu quen xuyên tạc, sách vở Trung Hoa, như Hậu Hán Thư, Việt Kiều Thư, An Nam Chí Nguyên... cũng ghi : "Vì thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc, nên Trưng Trắc oán giận mà làm phản" ! Hậu Hán Thư ghi : "Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở Mê Linh, vợ người huyện Châu Diên tên là Thi Sách, rất hùng dũng".

4.2. Chống Giặc Xâm Lăng

Sách vở của giặc cũng phải công nhận là Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam khởi nghĩa để chống bạo quyền. Sự kiện người Nữ Kiệt đất Mê Linh kết duyên với vị Tướng Tài vùng Châu Diên, và rồi Thi Sách bị Tô Định sát hại, cũng cho thấy sự liên kết và tình hình sôi động thời bấy giờ.

Dầu dòng dõi nhà tướng, Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam không thể chỉ vì thù chồng mà điều động được toàn dân đánh đuổi bọn quan quân Tô Định.

Dưới sự kềm chế của giặc và với phương tiện thời bấy giờ, nếu chỉ vì thù chồng, làm sao Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam có thể điều động đủ sức mạnh binh mã để, chỉ trong mấy tháng, đánh chiếm lại 65 thành từ tay giặc ?

Từ năm 2909 tH, 30 dl, Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam lãnh đạo toàn dân Việt Lạc chống giặc Hán xâm lăng.

5. NHÂN SỰ QUẬT KHỞI

5.1. Từ Khắp Vùng Việt Lạc

Dù cố tình giấu, sử sách Hán Hoa vẫn ghi nhận thời đó dân ta đã có nhiều anh hùng hào kiệt chống giặc phương Bắc.

Tiểu sử của các vị Anh Hùng cộng sự của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam càng chứng tỏ tinh thần Toàn Dân Việt Lạc thời đó. Các Ngài nổi dậy khắp nơi, ở vùng Sông Hồng, và ở vùng Lưỡng Quảng, Đồng Đình.

Căn cứ trên các thần phả và di tích, hiện nay chúng ta có tên tuổi và tiểu sử của 162 Vị Danh tướng thời Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. Nhiều Vị đã có quân sĩ trước khi hợp tác ra quân với Đức Đại Đế, như : *[236]

- Bà Lê Chân đến từ Hải Dương, đem theo cả một đội chiến thuyền. 

- Công chúa Nguyễn Thánh Thiên, trước khi về với Đức Đại Đế, đã có binh tướng riêng, đã đánh bại quân Tô Định.

- Bà Lê Thị Hoa có chiến khu tại vùng Nga Sơn ở Thanh Hóa.

- Bà Trần Vĩnh Huy khởi binh từ Cổ Châu, gần Hà Nội ngày nay.

- Công chúa Lĩnh Nam Sa Giang, người Trường Sa, vùng Đồng Đình.

- Đại tướng Đồng Đình Công Đô Thiên, vùng Quảng Tây.

- Liệt nữ Trần Thiếu Lan, Nam Thành Vương Trần Công Minh, Long Biên Công Đặng Dương Hoán và nhiều Anh Hùng khác đã nhiều năm chống giặc phương Bắc, trước khi liên kết với Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. *[237]

5.2. Việt Lạc Thống Nhất

Các đoàn quân quật khởi bất khuất thống nhất của toàn dân Việt Lạc từ vùng Sông Hồng tới Đồng Đình. Đặc biệt nổi bật nhất là Thành phần quật khởi hiện rõ đặc tính thiên Mẫu hệ của Việt Lạc đương thời.

Ngoài Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam, hơn 2/3 Danh tướng đều là Nữ giới, với nhiều đội Nữ binh. *[238]

6. ĐỊA BÀN HOẠT ĐỘNG

6.1. 65 Thành

a. Theo sách vở Trung Hoa

Sách vở Trung Hoa, sau nầy các sử gia Việt Nam chép lại, chỉ ghi nhận vùng ảnh hưởng của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam trong khu vực các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố, là vùng từ Thừa Thiên ra Bắc Phần Việt Nam, và 1 phần tỉnh Quảng Tây Trung Quốc hiện nay.

Tuy nhiên, nhiều sách ngoại sử Trung Hoa đã ghi là Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam tái lập toàn thể vùng Lĩnh Nam của Việt Lạc. *[239]

Sách vở Trung Hoa ghi Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đã chiếm giữ ‘65 thành’. *[240]

Nhiều học giả đã giải thích tại sao chỉ trong 4 quận, lại có tới 65 nơi đóng quân kiên cố của giặc, với thành cao, với hào lũy. Số ‘65 thành’ là 1 sơ suất, trái với sách vở Trung Hoa ém nhẹm. Nhưng đó lại là dấu chỉ sự thực.

b. Theo thực trạng đương thời

Theo thực trạng đương thời, vùng đất Việt Lạc không chỉ ở Lĩnh Nam, mà bao gồm cả vùng Đồng Đình. *[241]

Theo cách xử sự của triều Tây Hán đối với các nước phụ dung, cho tới năm 2909 tH, 30 dl, mỗi năm thứ sử chỉ đi một vòng để thâu thuế, mọi việc khác đều do người bản xứ điều động, dân Việt Lạc vẫn tiếp tục phát triển nếp sống truyền đời. Như vậy, ngay từ khi bị Hán Quang Vũ đưa quan quân bách hại và trấn đóng, toàn thể dân Việt Lạc đồng loạt quật khởi là chuyện phải có.

Với niềm hãnh diện và tinh thần bất khuất của Việt Lạc, địa bàn quật khởi toàn vùng đất Việt Lạc, vùng Sông Hồng, Quảng Tây Quảng Đông, Đồng Đình... là chuyện đương nhiên.

Với lực lượng túc trực trong nếp sống làng thôn của toàn thể Việt Lạc, việc tái chiếm 65 thành trong mấy tháng, tập họp hàng vạn dân quân... cũng là thực tế.

6.2. Di tích ở Hoa Nam hiện nay

a. Chiến tích.

Chiến tích của nghĩa quân Việt Lạc tại vùng nay là Hoa Nam, được các thần phả ghi, còn nhiều di tích hiện trường.

Đặc biệt, hiện nay, sau gần 2.000 năm, tại bờ Hồ Đồng Đình và tại nhiều nơi ở các tỉnh Hồ Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam... còn nhiều di tích chiến trận, nhiều đền thờ kính Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam và các danh tướng đương thời. *[242]

b. Lịch sử và Đền Thờ.

Các vị Anh Hùng sau đây, và nhiều Vị khác ở thời Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đã được dân Tộc Việt thờ kính trong suốt 2.000 năm qua. Đền thờ của các Ngài còn khắp vùng nay là Nam Trung Quốc, Bắc Phần và Bắc Trung Phần Việt Nam. Đây chỉ sơ lược một số di tích tại những vùng ngày nay đã bị sáp nhập vào Trung Quốc.

1. Sử ta ghi : năm 4167 tH, 1288 dl, vua Trần Nhân Tôn sai quan đại thần qua Khúc Giang, Quảng Đông, tu sửa đền thờ Nữ tướng Công chúa Nam Hải Trần Thị Phương Châu tuẩn quốc ở đây năm 2919 tH, 40 dl.

2. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, viết năm 4358 tH, 1479 dl, ở Phiên Ngung, gần thủ phủ Quảng Châu của tỉnh Quảng Đông ngày nay, có đền thờ Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.

3. Năm 4672 tH, 1793 dl, vào thời Tây Sơn, khi đặc sứ Ngô Thời Nhiệm cùng phái đoàn đi ngang phía nam Hồ Đồng Đình, ông đã đến viếng đền thờ Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. Ông cũng ghi : quân Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đã đánh với quân Mã Viện ở Hồ Nam.

4. Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca, tu sửa năm 4749 tH, 1870 dl, ghi : "Đô kỳ đóng cõi Mê Linh, Lĩnh Nam riêng 1 triều đình nước ta". (câu 339-340).

5. Cũng tại Khúc Giang, Quảng Đông, còn đền thờ Nữ tướng Công chúa Nguyệt Điện Đàm Ngọc Nga, với nhiều di tích trận đánh của Bà với quân Mã Viện.

6. Tại Quảng Tây và Quảng Đông còn nhiều đền thờ Nữ tướng Công chúa Nguyễn Thánh Thiên. Bà hy sinh tại vùng nầy năm 2921 tH, 42 dl.

7. Suốt dọc bờ biển Quảng Đông, Phúc Kiến, và đảo Hải Nam, hiện còn rất nhiều đền thờ Bà Công chúa Gia Hưng Trần Quốc. Ở Uất Lâm còn di tích của trận thủy chiến lừng lẫy. Dân tin Bà là Giao Long Tiên Nữ giáng trần.

8. Tại cửa Thẩm Giang chảy vào Hồ Đồng Đình, còn miếu thờ Liệt nữ Trần Thiếu Lan. Suốt hơn ngàn năm qua, mỗi lần các sứ thần nước ta đi ngang qua đây, đều đến cúng tế Bà. - Đền thờ Bà vừa bị Vệ Binh Đỏ của Mao Trạch Đông thiêu hủy năm 1966 dl, nay chỉ còn nền và mộ của Bà.

9. Tại vùng Hồ Đồng Đình và Trường Sa của Hồ Nam, đến ngày nay, sau gần 2.000 năm, dân địa phương còn khiếp sợ trận đánh của Công chúa Phật Nguyệt chiến thắng Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí. - Bà đại thắng trận thủy chiến trên Hồ Đồng Đình, dầu Mã Viện có bảy vạn quân, và Bà chỉ có năm vạn. Đại tướng Đoàn Chí của giặc bị quân ta giết trong trận nầy.

Công chúa Phật Nguyệt là Tổng trấn khu Đồng Đình-Trường Sa, được thờ ở chùa Kiến Quốc Trường Sa, và chùa núi Thiên Đài, có tên trong sử Trung Hoa.

10. Tại huyện Phong Đô, Tứ Xuyên, hiện còn đền thờ Công chúa Lĩnh Nam Sa Giang. Bà là người Trường Sa, tướng tài của Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.

11. Vùng Quảng Tây Quảng Đông hiện còn rất nhiều đền miếu thờ Đại tướng Đồng Đình Công Đô Thiên Ông cũng là người địa phương, và giữ chức Tổng trấn Trường Sa.

6.3. Toàn Thể Vùng Đất Việt Lạc

Trong suốt dòng lịch sử 2000 năm qua, toàn dân Việt Lạc, đặc biệt những người ở vùng đất ngày nay đang bị Trung Hoa chiếm giữ, luôn ghi nhớ công đức, chiến tích, và vùng Việt Lạc rộng lớn, nghĩa quân của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đã thâu hồi đầu thế kỷ I dương lịch.

Nghĩa quân Việt Lạc, dưới sự lãnh đạo của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam, đã tái chiếm toàn thể vùng đất Việt Lạc nay là Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến. Thủ đô của toàn vùng là Mê Linh. Theo Đức Nguyễn Trãi, Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đặt tên nước là Hùng Lạc. *[243]

7. SỬ TRUNG HOA VỚI MÃ VIỆN

7.1. Luận Điệu Xuyên Tạc.  

Sách vở Trung Hoa luôn giảm thiểu tình hình chống đối và sức mạnh của các dân tộc bị trị. Khi không thể che giấu nổi, sách vở Trung Hoa lại luôn toa rập theo một luận điệu mấy ngàn năm không đổi.

Theo luận điệu Trung Hoa, sở dĩ có ‘làm phản’ chỉ vì  tên quan lại tham ô và khiếp nhược. Dân địa phương sơ khai lạc hậu, quân khởi nghĩa chỉ là bọn ô hợp, thủ lãnh khởi nghĩa là những tội phạm sợ luật pháp trừng trị.

Các cuộc hành quân đàn áp khởi nghĩa cũng bị sách vở Trung Hoa hạ thấp tầm quan trọng, số quân lính tham dự cuộc đàn áp được giảm thiểu, địa bàn hoạt động được ghi chép co rút lại, và, đặc biệt, những lần thua bại được bỏ qua, hoặc chỉ ghi là do khí hậu địa phương quá khắc nghiệt.

Tình hình và phản ứng của triều đình Trung Hoa, thanh thế và binh lực của tướng giặc Mã Viện, lại đã bộc lộ rõ ràng tầm quan trọng, sức mạnh và địa bàn hoạt động của nghĩa quân thời Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.

7.2. Địa Bàn của Mã Viện theo sách vở Trung Hoa

Sách vở Trung Hoa chỉ ghi các chiến thắng của Mã Viện ở bốn quận vùng Giao Châu, tức Giao Chỉ, Hợp Phố, Cửu Chân và Nhật Nam.

Họ cố tình bỏ qua những trận đại bại ở nhiều nơi khác, đặc biệt ở các vùng sau đó đã bị sáp nhập thành phần đất Trung Hoa, như ở Hồ Nam, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam.

7.3. Lý Do Yếu Kém của Mã Viện

a. Lam sơn chướng khí

Sách vở Trung Hoa ghi rằng : quân tướng của Mã Viện bị lam sơn chướng khí nên bịnh tật rất nhiều, vị chỉ huy thủy quân của ông, đại tướng Đoàn Chí, cũng bị bịnh chết.

‘Khí hậu ác độc’ của phương Nam đã làm cho binh sĩ Đông Hán tật bệnh nhiều, nào nước lụt, nào mưa nhiều, "nắng hạ bốc lên như lửa đốt, trên trời diều hâu đang bay bỗng rớt xuống mà chết" (!).

b. Theo sử Trung Hoa   *[244]

Lam sơn chướng khí luôn là nguyên nhân được mọi sử gia Trung Hoa ghi nhận cho mọi cuộc xâm lăng thất bại tại nước Nam. Sử Việt chép lại :

1. Năm 2665 tH, 214 ttl, tướng của Tần Thủy Hoàng là Hiệu úy Đồ Thư và đại tướng Sử Lộc kéo quân xâm lăng Việt Lạc. Nhưng "Đồ Thư bị hại, quân Tần mất vài chục vạn, phần bị giết, phần vì lam sơn chướng khí". *[245]

2. Năm 2690 tH, 181 ttl, tướng nhà Hán là Long lân hầu Chu Táo kéo quân sang Nước Nam. Nhưng do "Thủy thổ Phương Nam không thích hợp với Hán quân, nên họ ốm đau, chết hại rất nhiều… và phải bãi binh". *[246]

3. Thời Đức Trưng Vương, tức là Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam, năm 2921 tH, 42 dl, khi tướng Nhà Hán là Mã Viện sang xâm lấn Nước ta, có đại tướng Đoàn Chí, tướng nhà Hán, "bị bệnh và chết". Ngoài ra, "Khí hậu ác độc" của phương Nam đã làm cho binh sĩ Đông Hán tật bệnh nhiều, "nào nước lụt, nào mưa nhiều, nắng hạ bốc lên như lửa đốt, trên trời diều hâu đang bay bỗng rớt xuống mà chết" (!). *[247]

4. Thời Đức Lý Nam Đế, 3423 tH, 544 dl, Tả vệ tướng quân Lan Khâm, tướng nhà Lương, kéo quân đánh Nước ta, nhưng "bị bệnh và chết". *[248]

5. Thời Đức Lý Nhân Tôn, năm 3955 tH, 1076 dl, Chiêu thảo sứ Triệu Tiết, và đại tướng Quách Quì, tướng nhà Tống, "bị hại quá nửa vừa do chiến tranh và cũng do bất phục thủy thổ". *[249]

Chi tiết hơn : vì "không tính đến nhiệt khí, lam chướng... và nước độc’ để ‘quân tải lương chết mất 8 vạn, quân chiến đấu ngã nước chết mất 11 vạn"... 30 vạn quân kéo đi, chỉ còn 2 vạn tám thoát chết chạy về. *[250]

6. Thời Đức Trần Thái Tôn, năm 4136 tH, 1257 dl, có đại tướng Ngột Lương Hợp Thai, tướng Mông Cổ, xâm lăng Nước ta. Nhưng "Quân Mông Cổ mỏi mệt vì không chịu được thủy thổ"... rút về Tàu’. *[251]

7. Thời Đức Trần Nhân Tôn, Đức Hưng Đạo Vương, năm 4164 tH, 1285 dl, có hoàng thái tử Thoát Hoan, thượng tướng Toa Đô, nguyên soái Ô Mã Nhi, Lưu Khuê, Lý Hằng, Lý Quán, A Bát Xích, Phàn Tiếp, bị "nắng sém da bỏng thịt, nóng cháy mây hun đá, lam sơn chướng khí, quân ốm đau tật bệnh chết nhiều." 50 vạn quân với hàng ngàn dũng tướng...phải rút về. *[252]

8. Năm 4166 tH, 1287 dl, Thoát Hoan lại kéo quân tướng sang, và rồi vì "khí trời nóng nực, đất thì ẩm thấp"... nên thua Trận Bạch Đằng (!). *[253]

9. Thời Hồ Hán Thương 4286 tH, 1407 dl, Phó tướng Mộc Thạnh nhà Minh bị thất bại, và vì "quân Minh bị đau bệnh nhiều nên phải lui…". *[254]

10. Thời Đức Lê Thái Tổ, năm 4305 tH, 1426 dl, Chinh di tướng quân Vương Thông của nhà Minh, ở trận Tuy Động, "trời đang mưa, đường lầy lội", nên bị bại, Thượng thư Trần Hiệp bị chém. *[255]

11. Ở trận Chi Lăng, năm 4306 tH, 1427 dl, An viễn hầu Liễu Thăng,tướng nhà Minh, đến "chỗ bùn lầy", nên bị chém. Đô đốc Thôi Tụ, Thượng thư Hoàng Phúc, gặp "trời mưa bão, không tiến được"... nên bị bắt. *[256]

12. Thời Đức Quang Trung, năm 4668 tH, 1789 dl, Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Triều Long, Tả dực Thượng Duy Thăng nhà Thanh, bị "trời quay gió nồm" nên ‘bỏ mạng’. Sau đó Sầm Nghi Đống tự tử, Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy. *[257]

- Chỉ có lần Ân Cao Tôn đại bại, năm 1661 tH, 1218 ttl, là không nói do 'lam sơn chướng khí', mà nói là "không thắng"... vì phải 172 năm sau mới thành hình tộc Hoa. *[258]

c. Tổng kết sơ khởi 

Chỉ kể 12 lần Trung Hoa xua đại quân xâm lấn Nước Nam, Dầu sách vở Trung Hoa đã giấu bớt quân số vì bị thất trận, đoàn quân xâm lăng Trung Hoa hơn 30 danh tướng, hàng ngàn đại tướng, hơn 400 vạn quân sĩ. *[259]

Tất cả bọn họ đều được sách vở Trung Hoa ghi là vì bị lam sơn chướng khí, bnh tật mà chết, mà chạy về Tàu, chứ dân Nam mọi rợ ô hợp hèn nhát, làm sao thắng được hơn 400 vạn tinh binh, hàng ngàn kiện tướng, hơn 30 danh tướng, gồm các thượng thư, các tổng đốc, các hoàng thái tử... của Thiên Triều !

Trong suốt hơn 2000 năm, mà Trung Hoa chỉ có một luận điệu xuyên tạc gian trá: Trung Hoa chỉ bại trận vì Lam sơn chướng khí. - Lịch sử nhân loại có trường hợp gian manh cố chấp nào khủng khiếp hơn ?

d. Thực tế lịch sử

Sách sử Trung Hoa quên ghi thêm : bọn quan quân tranh nhau sang vơ vét nước Nam cả ngàn năm thì không sao cả, không hề bị lam sơn chướng khí.

Sự thực, theo tài liệu đương thời, đất Giao Chỉ ít chướng khí nhất, thích hợp với sự cư trú của con người nhất, dân cư đông đúc và trù phú nhất, đã đóng thuế nhiều hơn tất cả mọi vùng chung quanh gom góp lại.

Theo Từ Tùng Thạch trong Việt Giang Lưu Vực Nhân Dân Sử, so sánh dân số thời đó, Giao Chỉ đông người nhất, con cháu trong gia đình cũng đông nhất, chứng tỏ Giao Chỉ là nơi thích hợp với cuộc sống con người nhất. *[260]

Theo Quảng Đông Tân Ngữ của Khuất đại Quân : Giao Chỉ mỗi năm nộp thóc hơn 1360 vạn hộc. Tính ra tất cả thuế các châu Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu cũng không bằng. *[261]

7.4. Thực trạng của Mã Viện

a. Mã Viện Truyện. Mã Viện Truyện tôn vinh Đại tướng thời danh của Đại Hoàng đế Đại Đông Hán Quang Vũ, ta có thêm một số chi tiết. Mã Viện Truyện ghi : Quân sĩ bị chướng khí làm ông ngao ngán. Nhưng sau ông nghĩ lại sứ mạng vua đã long trọng giao phó, nên ông đã cố gắng.  *[262]

Hàng trăm đại tướng của thiên triều Đại Hán ở 65 thành đều đã thua chạy trước những đoàn nghĩa quân của Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. Tất cả các đại tướng Đại Hán đều khiếp sợ, không dám đương đầu, nên Đại Hoàng đế Đại Đông Hán Quang Vũ phải cầu tới danh tướng lão thành Mã Viện. Để ép buộc Mã Viện và quân sĩ liều chết xuất quân, Đại Hoàng đế Quang Vũ đã ủy thác sứ mạng, và phong thêm chức tột bực cho Mã Viện. Toàn thể tướng tá tùy tùng cũng được gia phong. Theo Mã Viện Truyện, trước khi đi, Mã Viện đã lo sợ để lại lời tuyệt mạng cho gia đình. *[263]

b. Triều Hán khiếp đảm

Quả thực, thanh thế đoàn quân Việt Lạc của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam không chỉ đã kinh động thiên triều, gây khiếp đảm cho toàn thể đại quân của Đại Đông Hán, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới thanh thế của Quang Vũ, và nhất là tới sự sống còn của đại đế quốc Đại Đông Hán.

Việc lo sợ đúng là có căn cứ. Trong trận ra quân đầu tiên ở Hồ Đồng Đình, dưới sự chỉ huy tối cao của Đại Lão Tướng quyền chức tột bực, 7 vạn thủy quân thiên triều đã tan tác trước 5 vạn quân của cô tướng trẻ Phật Nguyệt.

Đại tướng chỉ huy trưởng thủy quân Đoàn Chí cũng chết trong trận nầy !

c. May mắn thắng trận. Dầu sao, sách vở Trung Hoa cũng đúng khi khen Mã Viện cố gắng. Dầu sao ông cũng đã may mắn hơn nhiều vua chúa, thái tử, đại tướng, danh tướng... của Thiên triều.

Dầu sao, dầu có nhiều thất bại ở buổi đầu, rốt cuộc, sau nhiều cố gắng, Đại Lão Tướng Phục Ba của Đại Hoàng Đế Quang Vũ lừng danh lịch sử Trung Hoa, cũng đã thắng được Cô Gái Thủ Lãnh 31 tuổi của dân Nam.

d. Thất phu ngông cuồng

Sau chiến thắng, Mã Viện còn nhiều cố gắng khác. Nhưng một cố gắng đã làm ông nổi tiếng sách vở. Đó là việc Mã Viện dựng cột đồng với lời nguyền : Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt.

Trong 2000 năm qua, câu chuyện trụ đồng và lời nguyền đó đã có giá trị ghi lại hành động và phát ngôn ngông cuồng của một tên thất phu cùng quẫn. Hắn bỗng kiêu hãnh đến phát điên, vì chiến thắng không ngờ ! - Sách vở Trung Hoa lại cố tình làm như thể sự ngông cuồng của tên giặc điên Mã Viện sẽ ảnh hưởng tới vận mệnh nước Nam (!). *[264]

Đại Lão Tướng thời danh của Quang Vũ Đại Hoàng đế Đại Đông Hán như Phục Ba Đại Tướng Quân Mã Viện mà khiếp sợ gái Việt đến thế sao ?

7.5. Binh Lực của Mã Viện

a. 2.000 chiến thuyền có lầu cao

Sách vở Trung Hoa nói thoáng qua Mã Viện có 2.000 chiến thuyền có lầu cao, không ghi số quân trên chiến thuyền.

Mỗi chiến thuyền có lầu cao phải có bao nhiêu thủy thủ ? bao nhiêu tay chèo chống ? chở bao nhiêu chiến binh ? ở cả các tầng trên dưới ?

Tổng số không thể dưới 50 người cho mỗi chiếc. 2000 chiếc nhân cho 50 người là 100.000 người.Tuy thời điểm khác nhau, nhưng đời nhà Nguyên có 600 chiến thuyền chở 6 vạn quân. Vậy, 2000 chiến thuyền có lầu cao của Mã Viện đã chở theo ít nhất từ 10 tới 20 vạn quân. *[265]

b. Toàn thể binh lực thiên triều 

Sách vở Trung Hoa cũng ghi là Mã Viện đã dẫn theo 2 vạn quân. Làm sao 2 vạn lính có thể đánh chiếm 65 thành vừa mất vào tay nghĩa quân Việt Lạc ? Số quân 2 vạn cũng quá ít ỏi, nhất là khi so với 50 vạn quân của Đồ Thư trước đó 250 năm. Dầu với số quân gấp 25 lần, Đồ Thư cũng đã thảm bại. *[266]

So với những cuộc chiến khác trong lịch sử Trung Hoa, Dầu Mã Viện có gấp 10 lần số 2 vạn quân, cũng không đủ đánh phá 65 thành. Dầu gấp 20 lần số 2 vạn, cũng không xứng với tầm nghiêm trọng và nổi khiếp sợ của thiên triều Trung Hoa, như Mã Viện Truyện đã ghi nhận.

Dầu gấp 25 lần số 2 vạn, như quân của Đồ Thư trước đó 250 năm, cũng chưa xứng với thanh thế chủ soái của vị Đệ nhất Đại Tướng thời danh vừa được Đại Hoàng Đế tấn phong tước vị tột bực.

Theo thói thường binh tướng, để xứng đáng với việc tấn phong chức tước tột bực cho một danh tướng, để xứng đáng với lễ ra quân long trọng, để đương đầu với đoàn nghĩa quân Việt Lạc vừa đuổi chạy hàng trăm vị đại tướng, để giải cứu Đại Đông Hán khỏi nguy cơ diệt vong, và để tương xứng với hàng chục vạn quân trên 2.000 chiến thuyền lầu cao, Đại Hoàng Đế Đại Đông Hán Quang Vũ đã trao cho Mã Viện toàn binh lực của thiên triều.

dầu với toàn thể binh lực thiên triều, Mã Viện cũng đã có lúc phải ngao ngán vì thất bại dưới sức mạnh và quyết tâm của nghĩa quân Việt Lạc, với sự điều động của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.

8. ĐỨC ĐẠI ĐẾ

Từ năm 2909 tới 2922 tH, 30-43 dl, Việt Lạc kháng chiến chống xâm lăng. Năm 2919 tH, 40 dl, Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đã lãnh đạo tái chiếm toàn thể vùng đất Việt Lạc. Ngày nay, phần đất phía Bắc gồm Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến.

Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam về thần ngày 6.2.2922 tH, 43 dl, khi mới 31 tuổi.

Trong suốt lịch sử Nhân loại đến nay, chưa hề có Nữ Nhân nào tạo chiến công hiển hách, thần tốc, tái chiếm vùng đất mênh mông, như Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. Nam nhân có được mấy người ?

XV. ĐÃ 13 LẦN VIỆT NAM ĐẠI THẮNG GIẶC PHƯƠNG BẮC

A. 13 LẦN ĐẠI THẮNG !

Trong mưu đồ xâm chiếm của Giặc Phương Bắc, không kể nhiều cuộc hành quân nhỏ, đã có 13 lần Giặc Phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam.

Trong 13 lần đó, trừ lần đầu tiên Giặc Ân xâm lấn Việt Lạc ở vùng Hồ Đồng Đình cách đây hơn 3.200 năm, những lần khác đều bắt đầu từ Tần Thủy Hoàng, cách đây 2.200 năm. Những cuộc xâm lấn nầy, phần nhiều là do giới thống trị Hoa khởi hấn, nhưng cũng có những lần do các nước tộc Việt ở phương Bắc xâm lăng.

Về lãnh thổ, lần đầu tiên và 3 lần tiếp theo về toàn dân Việt Lạc từ Hồ Đồng Đình tới Đèo Hải Vân. Trong tất cảc cuộc chiến đấu chống ngoại xâm đó, dân Việt Lạc Sông Hồng, Việt Nam ngày nay, đều là phần chủ chốt.

Từ lần thứ 5, các cuộc xâm lấn vùng nay là Việt Nam. Tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng quân Phương Bắc.

Lần thứ 1 : Đức PHÙ ĐỔNG đại thắng Giặc ÂN

Theo sách vở Trung Hoa, năm 1661 tH, 1218 ttl, Ân Cao Tôn đã đánh Quỉ Phương ở Đồng Đình. Ân Cao Tôn đóng quân tại đất Kinh, tả ngạn sông Dương Tử. Thời đó, đất Việt Lạc trải rộng từ Hồ Đồng Đình tới Hải Vân.

Theo Truyền kỳ Phù Đổng của Việt Lạc, Ân Cao Tôn đã xâm lấn nước Việt Lạc 3 năm và đã bị đánh bại. Sau 3 năm, Ân Cao Tôn ‘không thắng’.

Theo Truyền kỳ Phù Đổng, cách đây 3.200 năm, dân Việt Lạc đã là một quốc gia vững mạnh, đã có tổ chức chặt chẽ, có vua quan, làng xã, cúng tế, lúa gạo, vải áo, lũy tre... đã đúc được ngựa sắt, roi sắt, đã có tinh thần dân tộc cao độ... và, theo sách vở Trung Hoa, đã chiến thắng giặc Ân vào thời kỳ hùng mạnh nhất của chúng. *[267]

Lần thứ 2 : VIỆT LẠC đại thắng Giặc TẦN

Năm 2665 tH, 214 ttl, Tần Thủy Hoàng, vua Trung Hoa đầu tiên, sai tướng Đồ Thư kéo 50 vạn quân xâm lăng đất Việt Lạc, nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Đây là đoàn quân giúp Tần Thủy Hoàng đánh chiếm 6 nước, lập nước Trung Hoa. Nhưng Đồ Thư đã bị quân Việt đánh bại, Đồ Thư bị giết, quân giặc chết quá nửa. *[268]

Theo Trung Hoa, mỗi người lính đem theo một phu phục dịch. Số người vận chuyển lương thực không được kể là lính. Vì vậy, số người Trung Hoa xâm nhập có thể nhiều gấp 3 lần số quân lính được kể, Dầu là số trung thực.

Lần thứ 3 : NAM VIỆT đại thắng Giặc TÂY HÁN 

Năm 2698 tH, 181 ttl, triều Hán sai Long Lân hầu Chu Táo kéo quân sang Lĩnh Nam, đánh Nam Việt. Theo sử Trung Hoa, quân Hán không chịu được thủy thổ phương Nam, nhiều người phải bệnh tật, phải thua chạy về bắc. Triều Hán xét thấy Nam chinh không lợi, nên không đánh nữa ! *[269]

Lần thứ 4 : Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đại thắng Giặc Đông Hán giành lại toàn vùng đất Việt Lạc.

Năm 2909 tH, 30 dl, Hán Quang Vũ áp đặt chế độ trực trị trên đất Việt Lạc. Toàn dân Việt vùng lên chiến đấu, bầu Đức Trưng Trắc làm Thủ Lãnh.

Sau 10 năm, 2919 tH, 40 dl, Dân ta đã đánh đuổi toàn bộ quân Tàu ra khỏi vùng đất Việt Lạc, chiếm lại 65 thành.

Sách vở Trung Hoa đã giảm thiểu vùng đất và sức mạnh của dân Việt thời đó. Nay đã có đủ chứng cứ xác định vị trí vùng đất bao la khi quân dân Việt đánh thắng đại quân của hoàng đế Quang Vũ nhà Hán, chiếm lại 65 thành.

Thời đó, vùng đất Việt Lạc nay là Hồ Nam, Quí Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, và 1 phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến của Trung Hoa, xuống tới Hải Vân. Hán Quang Vũ đã phải vận dụng toàn thể binh lực của ‘thiên triều’.  *[270]

Đức Trưng Nữ Vương được tôn hiệu Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam.

Lần thứ 5 : Đức NAM VIỆT ĐẾ đại thắng Giặc LƯƠNG

Năm 3420 tH, 541 dl, Đức Nam Việt Đế Lý Bôn, đánh đuổi quân trú đóng Trung Hoa, giành độc lập. Năm 3423 tH, 544 dl, Ngài xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Lập ra Nhà Tiền Lý.

Lần đầu tiên sách sử Trung Hoa ghi lại quốc hiệu và niên hiệu của dân ta.

Nhà Tiền Lý kéo dài 61 năm, từ 3420 tới 3481 tH, 541 tới 602 dl. *[271] 

Lần thứ 6 : Đức NGÔ NAM ĐẾ đại thắng Giặc NAM HÁN

Từ năm 3785 tH, 906 dl, Đức Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự trị khỏi tay người Trung Hoa. Truyền được 3 đời.

Năm 3817 tH, 938 dl, vua Trung Hoa Nam Hán sai thái tử Hoằng Tháo kéo quân xâm lấn. Với trận cọc gỗ bọc sắt trên sông Bạch Đằng, Đức Ngô Nam Đế Ngô Quyền, đã đại thắng quân Hán, giết chết thái tử Hoằng Tháo.  Hoàng đế Nam Hán Lưu Cung kéo quân tiếp ứng. Nghe tin, ông rút về. *[272]

Lần thứ 7 : Đức LÊ ĐẠI HÀNH đại thắng Giặc TỐNG

Năm 3860 tH, 981 dl, vua Tống sai tướng Hầu Nhân Bảo kéo quân xâm lấn, theo đường bộ và thủy. Vì vua nước ta là Đinh Tuệ mới 8 tuổi, nên quân sĩ tôn tướng Lê Hoàn lên ngôi, là Đức Lê Đại Hành. Với trận Chi Lăng, quân ta phá tan quân Tàu, giết Hầu Nhân Bảo. Quân giặc vội rút lui. *[273]

Lần thứ 8 : Đức LÝ NHÂN TÔN và Tướng LÝ THƯỜNG KIỆT đại thắng Giặc TỐNG

Năm 3951 tH, 1072 dl, vua Lý Nhân Tôn 7 tuổi lên ngôi, nên việc quân đều trong tay danh tướng Lý Thường Kiệt. Năm 3954 tH, 1075 dl, Lý Thường Kiệt và Tôn Đản kéo 10 vạn quân tái chiếm vùng châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, nay thuộc Quảng Đông, Quảng Tây. *[274]

Năm 3955 tH, 1076 dl, vua Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết kéo hơn 30 vạn quân sang xâm lấn Nước ta. Nhưng chúng bị đánh tan ở sông Như Nguyệt. Giặc Tàu kéo tới hơn 30 vạn, chỉ còn 2 vạn 8 trở về ! *[275]

Lần thứ 9 : Đức TRẦN THÁI TÔN đại thắng Giặc MÔNG CỔ

Năm 4133 tH, 1254 dl, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý, vùng Vân Nam. Mông Cổ thời đó là đế quốc mạnh nhất thế giới, chìếm đóng từ Á sang Âu. Năm 4136 tH, 1257 dl, từ Vân Nam, tướng Ngột Lương Hợp Thai  đem 3 vạn quân Mông Cổ và 1 vạn quân Đại Lý tấn công Đại Việt, chiếm Thăng Long, giết mọi người trong thành. *[276]

Vua Trần Thái Tôn hỏi ý kiến Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ thưa: Đầu tôi chưa rơi, xin Bệ Hạ đừng lo !

Chỉ mấy ngày sau, vua Trần Thái Tôn dẫn quân phản công, đánh thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ còn bị quân ta chận đánh tan tành ở vùng Qui Hóa. *[277]

Lần thứ 10 : Đức TRẦN NHÂN TÔN đại thắng giặc NGUYÊN (Lần 1)

Danh Tướng HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG      

Năm 4150 tH, 1271 dl, Hốt Tất Liệt thành Đại Hãn của đế quốc Mông Cổ, đổi quốc hiệu thành Nguyên. Năm 4158 tH, 1279 dl, quân Nguyên chiếm trọn đất Trung Hoa. Đế quốc Mông Cổ bao trùm 40 nước từ Á sang Âu.

Năm 4162 tH, 1283 dl, Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan (Toghan), cùng với các danh tướng Toa Đô (Suodu), Ô Mã Nhi, kéo 50 vạn quân xâm lăng Đại Việt. Quân Nguyên còn có thủy binh từ Chiêm Thành đánh lên. Khi đó, toàn thể quân Đại Việt chỉ có 20 vạn. Trước nguy biến, nhiều lính muốn hàng hoặc tìm kế hoãn binh. Nhưng các tướng Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư cương quyết đem quân trấn giữ.

Vua Trần Nhân Tôn triệu tập các bô lão trong dân tại điện Diên Hồng để hỏi ý kiến. Toàn thể đồng thanh xin Đánh !

Trước thế giặc quá mạnh, quân ta rút về Vạn Kiếp. Ở phía Nam, quân Nguyên từ Chiêm Thành đã chiếm Nghệ An.

Vua Nhân Tôn lại lo sợ, "muốn hàng để cứu muôn dân". Nhưng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đáp : “Bệ Hạ nói câu ấy thật là lời nhân đức. Nhưng Quê hương Dân tộc thì sao ? Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin chém đầu tôi trước đã !” Thoát Hoan dùng đại bác bắn phá, và vào được Thăng Long. Triều đình ta chạy về Thanh Hóa.

Tướng Trần Bình Trọng bị bắt. Thoát Hoan dụ hàng và hỏi : “Có muốn làm Vương không ?” Trần Bình Trọng quát to : “Ta thà làm quỷ Nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc !” Tháng 5 năm 4164 tH, 1285 dl, tướng Trần Nhật Duật phá được quân Toa Đô ở cửa Hàm Tử. Tướng Trần Quang Khải đưa quân đi thuyền từ Thanh Hóa ra đánh tan quân Nguyên ở bến Chương Dương, dùng phục binh chiếm lại Thăng Long. Đức Hưng Đạo Vương đem quân đánh ở Tây Kết, giết được Toa Đô. Quân ta bắt được 3 vạn quân Nguyên và vô số chiến thuyền, khí giới.

Hưng Đạo Vương lại sai phục kích chận mọi đường quân Nguyên có thể rút lui, và tự mình dẫn đại quân lên Bắc Giang đánh Thoát Hoan. Quân Nguyên thua chạy, tới bến Vạn Kiếp bị phục kích, chết quá nửa.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, in năm 1697 dl, quân Nguyên kéo 50 vạn và 6 tháng sau, chỉ còn 5 vạn rút về. *[278]

Lần thứ 11 : Đức TRẦN NHÂN TÔN đại thắng Giặc NGUYÊN (Lần 2)

Danh Tướng HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG

Cuối tháng 12 năm 4166 tH, 1287 dl, Thoát Hoan theo 2 đường thủy bộ, kéo thêm 50 vạn quân xâm lấn, hơn 800 chiến thuyền, cùng đoàn tàu 100 chiếc chở lương thực. Phía Đại Việt có khoảng từ 20 tới 30 vạn quân. *[279]

Quân Nguyên chiếm được Thăng Long, nhưng sợ bị cắt đường liên lạc, nên tập trung ở Vạn Kiếp. Bộ chỉ huy Đại Việt rút về vùng Đồ Sơn, Hải Phòng.

Tướng Trần Khánh Dư đưa quân đến Vân Đồn phá tan đoàn thuyền lương.

Tháng 3 năm 4167 tH, 1288 dl, cạn lương, Thoát Hoan sai Ô mã Nhi mở đường theo sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương lại dùng kế đóng cọc bịt sắt xuống sông Bạch Đằng. *[280]

Với trận Bạch Đằng, quân ta tiêu diệt hoàn toàn thủy quân của giặc Nguyên. Nghe tin thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan kéo chạy về qua vùng Bắc Giang và Lạng Sơn, và cũng bị quân Đại Việt chận đánh tan tành. *[281]

Lần thứ 12 : Đức LÊ THÁI TỔ đại thắng Giặc MINH  

Năm 4285 tH, 1406 dl, giặc Minh kéo quân xâm lấn nước ta. Nhà Hồ thua. Giặc Minh, với Trương Phụ, bắt đầu đồng hóa dân ta với dân Tàu. Năm 4297 tH, 1418 dl, nông dân Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hóa, tự xưng là Bình Định Vương, gởi hịch kể tội giặc Minh và nêu rõ mục đích đánh đuổi quân giặc cướp nước.

Năm 4305 tH, 1426 dl, sau 8 năm gian khổ, nhiều lần nguy cấp, Bình Định Vương thắng trận Tụy Động, và bao vây thành Đông Quan, Thăng Long. Cuối năm 4306 tH, 1427 dl, giặc Minh đưa thêm 2 đạo quân sang đánh Đại Việt. Đạo quân của Liễu Thăng hơn 10 vạn lính, 2 vạn ngựa. Đạo quân do Mộc Thạnh dẫn 5 vạn lính và 1 vạn ngựa. Nhưng tại Chi Lăng, quân ta giết Liễu Thăng, phá tan toàn bộ quân tiếp viện của giặc, bắt sống hơn 3 vạn quân Tàu. Mộc Thạnh nghe tin, bỏ chạy. Quân Nam theo đánh, giết hơn 1 vạn giặc Minh.

Nghe tin, Vương Thông đang chiếm đóng Đông Quan [Thăng Long], viết thư cầu hòa, và xin cho chúng rút quân về Tàu. Số tù binh, hàng binh và vợ con được thả về Tàu hơn 10 vạn người. *[282]

Lần thứ 13 : Đức QUANG TRUNG đại thắng Giặc THANH 

Năm 4667 tH, 1788 dl, Tôn Sĩ Nghị kéo 20 vạn quân Nhà Thanh, chia làm 3 đạo, tiến đánh Đại Việt, chiếm đóng Thăng Long. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang ở Huế, được tin, tính chuyện tiến đánh. Quan quân xin Ngài lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung.

Đức Quang Trung kéo quân ra tới Nghệ An, nghỉ 10 ngày để mộ thêm lính. Tất cả được 10 vạn quân và 100 con voi.

Đức Quang Trung cho ăn Tết sớm, đêm 30 kéo quân đi, và hẹn ngày mùng 7 Tết sẽ ăn Tết lại tại Thăng Long.

Trận đánh thần tốc đã phá hết các đồn giặc, đến nỗi chúng không kịp báo tin cho nhau. Chỉ trong mấy ngày, quân ta đánh chiếm từ Giản Thủy, tới Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi... Sáng mùng 5 Tết, quân ta vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc giáp, lên ngựa tháo chạy. Giặc Tàu chạy theo, chết đuối chật sông Hồng. Các đạo quân giặc ở phía Bắc cũng tất tả rút chạy. Tất cả đều chỉ trong 5 ngày. *[283]

B. TRUNG HOA : TÊN KHỔNG LỒ CHIẾN BẠI

1. Tổng kết Sơ khởi

Như vậy, chỉ kể những lần Trung Hoa xua đại quân xâm lấn Nước Nam, dầu sách vở Trung Hoa đã giấu bớt quân số vì bị thất trận, tổng số các đoàn quân xâm lăng Trung Hoa đã có hơn 40 danh tướng, hàng ngàn đại tướng, và hơn 400 vạn quân sĩ. *[284] 

Đang khi đó, kể cả dân số, tài nguyên, quân sĩ, phương tiện chiến đấu... dân ta không bao giờ tương xứng với quân Trung Hoa xâm lược. Nhưng bất cứ lần nào, Đại Việt cũng đại thắng !

2. Trung Hoa bị Chiếm đóng

Điểm đáng chú ý là trong 900 năm vừa qua, trong khi Việt Nam đánh bại mọi cuộc xâm lăng của Trung Hoa, thì chính Trung Hoa lại bị Kim, Mông, Mãn, Âu, chiếm đóng và thống trị.

Đáng chú ý hơn nữa, trong tất cả những lần Kim, Mông, Mãn... xâm chiếm Trung Hoa, lần nào thực lực xâm lấn, kể cả dân số, lãnh thổ, sản lượng, kỹ thuật, chiến cụ, quân đội... cũng đều không bằng một phần mười của Trung Hoa đương thời. Nhưng Trung Hoa đã luôn là kẻ chiến bại.

Những nhóm người man di ít oi đó, lại thống trị Trung Hoa 'vĩ đại' tổng cộng hơn 500 năm. Kim 108 năm (1126-1234 dl), Mông 134 năm (1234-1368 dl), Mãn 267 năm (1644-1911 dl), có 72 năm chung với Âu (1839-1911 dl). Đó là chưa kể từ năm 1949 dl tới nay, Trung Hoa lại nằm dưới gọng kềm chủ nghĩa Cộng sản phát xuất từ Âu.

Trong suốt hơn 5 thế kỷ đó, kể cả hiện nay, người dân Trung Hoa buông xuôi, khuất phục, còn giới nho sĩ Trung Hoa lại chỉ biết phủ phục tuân lịnh ‘vị Thiên tử’ ngoại xâm để thẳng tay hành hạ và đàn áp người dân.

Thực vậy, Trung Hoa luôn là tên khổng lồ chiến bại. Nguyên nhân chính là ách thống trị của bọn ‘thiên tử, thiên triều’ tham tàn bạo ngược, đã biến người dân Trung Hoa thành những tên nô lệ đói ăn truyền kiếp. Trong suốt 3000 năm qua, hơn 99% người dân Trung Hoa chỉ là những tên nô lệ đói khát, tự ti, khiếp nhược, không lý tưởng, không nhân phẩm, chỉ biết tham lợi bất chấp thủ đoạn.

Khi mọi người dân chỉ là những tên nô lệ đói ăn truyền kiếp, khiếp nhược, không ý chí, không tinh thần dân tộc, không đoàn kết... thì sức mạnh trình diển của bọn quan quyền ‘thiên triều’ Trung Hoa chỉ là cái vỏ mỏng che đậy hàng tỉ mảnh vụn vị kỷ, rời rạc, hèn nhát. Bong bóng căng cứng nầy sẽ sớm vỡ tan với chỉ một thoáng cọ xát.

Đây là thực tế lịch sử ngàn năm, và cũng là hiện tại.

C. ƯU THẾ CỦA CHÚNG TA

Hơn nữa, trong tất cả mọi cuộc chiến chống Phương Bắc, Tổ Tiên chúng ta đã chỉ tự sức chiến đấu đơn độc một mình. Các Ngài đã không có bất cứ một yểm trợ nào do bất cứ từ đâu tới. Nhưng bất cứ lần nào, Việt Nam cũng đại thắng Trung Hoa ! Tất cả 13 lần, đều đại thắng.

Hiện nay chúng ta đang được khắp nơi yểm trợ. Trước hiểm họa Trung Hoa bành trướng, xâm lăng, trộm cướp, gian manh, phá hoại các nền kinh tế, lũng đoạn các thể chế, mọi người, mọi dân nước trên toàn thế giới, đều sẵn sàng tiếp tay chúng ta triệt hạ mối họa chung là Giặc Trung Hoa. Bạn hữu chúng ta lại nhiều ưu thế hơn Giặc Tàu.

Với bất cứ giá nào, bất cứ phương diện nào, các cường quốc hiện đại không thể nhường Trung Hoa cưỡng đoạt vị thế hùng mạnh nhất thế giới, nhất là khi toàn thể binh lực Trung Hoa không bằng một phần nhỏ các hạm đội đối nghịch.

Hơn nữa, toàn thể dân Việt hiện nay, ở khắp làng xóm hang cùng ngõ hẻm, đều nao nức vùng lên chiến đấu Đánh Giặc Tàu. Tinh thần dân tộc đoàn kết chưa từng bộc lộ rõ và mạnh như hiện nay. Mọi người đều sẵn sàng.

Mấy triệu người Việt trên thế giới đang sẵn sàng đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực, và nhất là trí lực, chuyên môn, kiến thức, kỹ thuật, kinh nghiệm, và ảnh hưởng... ở mọi lãnh vực ngoại giao, chính trị, kinh tế, tài chính, quân sự, xã hội... Tất cả đều được huy động tối đa để Đánh Giặc Tàu !

Chúng ta có nhiều ưu thế hơn Tổ Tiên chúng ta gấp bội. CHÚNG TA sẽ ĐẠI THẮNG giặc TÀU, lần thứ 14.

*********

 

XVI. CHỦ THUYẾT THIÊN TỬ THẾ THIÊN HÀNH ĐẠO,

TỬ HUYỆT CỦA TRUNG HOA

1. DẪN NHẬP

1.1. Xuyên suốt Lịch sử

Trong hơn 3000 năm qua, từ ngày Tộc Hoa thành hình với Nhà Chu ở thung lũng Sông Vị năm 1046 ttl, lịch sử Tộc Việt, và nhiều tộc dân vùng Á Đông, đã dính liền với cuồng vọng thôn tính của dân Hoa. *[285]

Qua suốt lịch sử, giới thống trị Trung Hoa đã áp đặt một quan niệm thống trị cực đoan, với nhiều hệ quả tai hại. Họ đã thành hình chủ thuyết ‘Thiên Tử Thế Thiên Hành Đạo’, và chủ trương vua Trung Hoa là con Trời thay Trời thi hành Đạo Trời, để thống trị vạn vật.

Quan niệm ‘Thiên tử thế thiên hành đạo, thiên tử, thiên triều’, đã là chủ lực của toàn bộ nền chính trị Trung Hoa, đã tạo ra não trạng Trung Hoa, với nhiều hệ lụy khốc hại cho nhiều dân tộc, đặc biệt cho chính dân Trung Hoa.

‘Thiên tử thế thiên hành đạo’ đã biến giới thống trị Trung Hoa thành bọn gian hùng, điêu ngoa, tự phụ, cuồng si với tham vọng thống trị thiên hạ... biến Trung Hoa thành nguy cơ đại họa cho toàn thể Nhân loại.

1.2. Nguồn gốc Chủ thuyết Thiên Tử Thế Thiên Hành Đạo

a. Tộc Hoa

Chủ thuyết nầy thành hình từ thời Chu, Tần, thời Hán khai thác triệt để.

Từ khi bị ảnh hưởng của tộc Hoa, từ năm 1046 ttl với nhà Chu, và đặc biệt từ năm 771 ttl với nhà Tần, xã hội vùng lưu vực Hoàng Hà, đã chia thành 2 giai cấp rõ rệt.

- Dân Hoa gốc du mục, lạc hậu về văn hóa, nhưng tàn bạo, nên chiến thắng, và trở thành giới thống trị.

- Cư dân địa phương thuộc văn hóa nông dân lúa nước, giàu có, văn hóa cao, hiền hòa, bị trở thành giai cấp bị trị.

Tự phụ chiến thắng toàn năng, tự ti vì lạc hậu về văn hóa, đã khiến giới thống trị Hoa tiếm nhận tất cả những gì hay tốt của cư dân địa phương làm của Hoa, đồng thời, quyết tâm tiêu diệt mọi niềm tự hào khỏi người dân bị trị.

Với nền văn hóa du mục, tâm lý tự cao độc tôn, dân Hoa đã tôn vinh vua Hoa thành ‘con Trời', thay Trời thống trị vạn vật. Quan chức Hoa thành ‘Thiên triều’, thành thần thánh, thay ‘Thiên tử’ trực tiếp thống trị người dân. *[286]

Hễ có quyền chức, quan lại Trung Hoa liền tự nhận được Trời tiền định nhập Thiên triều, thành thần thánh vượt trên mọi người dân, và thành cuồng si trong tham vọng thống trị, khinh khi, bức hiếp, coi rẻ mạng sống người dân.

b. Mọi Thời.

Chủ thuyết ‘Thiên tử thế thiên hành đạo’ đã được giới thống trị Trung Hoa tận dụng xuyên suốt mọi triều đại, và đã chi phối mọi quan niệm của Trung Hoa đối với thế giới. Khổng Tử, 551-479 ttl, đã cố công đưa ra tiêu chuẩn thích đáng cho giới có quyền. Nhưng mọi triều đại Trung Hoa, Hán, Đường, Tống, đã cắt xén sửa đổi, biến Khổng học thành phương tiện phục vụ cho Thiên tử, Thiên triều. Do đó, thiên triều ngày càng trở thành quái ác với người dân lương thiện, và ngày càng trở thành tụ điểm thu hút bọn gian hùng cuồng vọng. *[287]

2. CHỦ THUYẾT QUÁI ĐẢN

2.1. Thiên tử thế thiên hành đạo

Theo chủ thuyết ‘Thiên tử thế thiên hành đạo’, bất cứ ai, do bất cứ nguồn gốc hoặc thủ đoạn gì, hễ chiếm được ngai vàng Trung Hoa là đã được Trời tiền định trở thành Con Trời để thay Trời thi hành Đạo Trời. Do đó, ý muốn của vua Trung Hoa là ý Trời. Vua Trung Hoa là vua của toàn thể Nhân loại. Vạn vật dưới bầu trời, thiên hạ, đều thuộc về vua Trung Hoa. Vua Trung Hoa có toàn quyền sinh sát mọi người, là chủ nhân mọi tài sản trên trái đất.

Toàn thể Nhân loại, và toàn vạn vật, có bổn phận tuân phục vua Trung Hoa.

2.2. Thiên triều Thống trị

Hễ làm vua là có thiên mệnh, là đã được thiên định thành Con Trời, để thay Trời thống trị muôn dân. Nhưng thiên tử cần quan lại để thể hiện quyền sinh sát trên vạn vật. Triều đình, quan lại Trung Hoa, là thần thánh lớn nhỏ của thiên tử, là thiên triều thần thánh. Thiên triều lãnh mệnh của thiên tử trực tiếp thống trị muôn dân. Dân phải tuân phục quan chức như tuân phục thần thánh. Vì vậy, trong suốt dòng lịch sử Trung Hoa, giới sĩ phu Trung Hoa luôn luôn phủ phục thờ lạy bất cứ ai đã trở thành ‘thiên tử’, dầu là bạo chúa, dầu là ngoại xâm, để được công nhận là thành phần của ‘thiên triều’, để được toàn quyền thống trị và sinh sát mọi người dân. *[288]

2.3. Nhân loại hạ tiện

Đối với người Hoa, dân Hoa là thiên triều, mọi giống dân khác trên đất Trung Hoa và toàn thể Nhân loại đều hạ tiện.

Người dân Trung Hoa bị truất bỏ mọi quyền sống tự lập. Người dân Trung Hoa hoàn toàn lệ thuộc vào thiên triều, chỉ là nô lệ truyền kiếp của thiên triều. Trong suốt dòng lịch sử Trung Hoa, thiên triều luôn tùy tiện hành hạ, bóc lột, và tàn sát người dân. *[289] Mọi dân 4 phía quanh Trung Hoa đều là man di, tứ di. Tứ di nhờ ở gần Thiên triều Trung Hoa mà có tốt đẹp, văn minh. *[290] Các dân xa hơn tứ di, là khỉ và đười ươi. Chiêm Thành bị gọi là Nước của Khỉ, Hồ Tôn Quốc. *[291] Các dân xa xôi hơn đều là quỉ. Người châu Phi da đen là quỉ, người Âu, Mỹ là bạch quỉ.

2.4. Sứ mạng Nô lệ hóa Thiên hạ

Do đó, theo 'mệnh trời', Trung Hoa có sứ mạng cao cả là Nô lệ hóa Thiên hạ, biến mọi con người, biến vạn vật dưới bầu trời, thành thần dân, thành nô lệ của Thiên triều Trung Hoa thần thánh. 

3. THỰC HÀNH QUÁI ÁC

3.1. Sách lược Ngoại Nho Nội Pháp

Trong mấy ngàn năm qua, để thể hiện ‘sứ mạng thi hành đạo trời’, để thực thi chủ trương Nô lệ hóa thiên hạ, Thiên triều Trung Hoa đã xử dụng sách lược ‘Ngoại nho Nội pháp’.

Bên ngoài, ngoại giao, hoặc nơi phần đất chưa thể xâm lăng, thì núp dưới bóng Khổng học, tuyên truyền chính sách nhân trị, khoan dung, viện trợ, từ thiện... Nhưng bên trong, với những người đã nằm dưới ách thống trị, thì áp đặt luật pháp hà khắc của 'thiên triều'.

3.2. Chính sách Soán đoạt và Hủy diệt

Cũng trong suốt dòng lịch sử, giới thống trị Trung Hoa, thiên triều, đã thực thi chính sách Soán đoạt và Hủy diệt.

Bằng mọi phương cách, thủ đoạn, Trung Hoa soán đoạt mọi hay tốt, mọi văn minh, kỹ thuật của mọi dân mọi nước.

Đồng thời, Trung Hoa tận diệt mọi dấu vết cao trội hoặc khác biệt với Trung Hoa, và áp đặt định kiến mọi giống dân địa phương đều lạc hậu sơ khai, mọi sự hay tốt đều do và nhờ Trung Hoa mà có. *[292]

4. HỆ QUẢ KHỐC HẠI CHO NGƯỜI DÂN TRUNG HOA

4.1. Thân phận Người Dân Trung Hoa  

Trong suốt lịch sử, dân Trung Hoa đã luôn là mồi ngon để giới quyền chức Trung Hoa thỏa mãn mọi cuồng vọng man rợ nhất của văn hóa du mục.

Càng cho mình cao sang thần thánh, được Trời tiền định, giới quyền chức Trung Hoa càng dùng mọi cách hiếp bức và hạ nhục người dân. Trong tầm mắt của thiên triều, người dân phải thấp hèn, ngu si, hủ lậu, không tông tích, không cội nguồn, không lịch sử, không văn hóa, không nhân phẩm. *[293]

Dân Trung Hoa bị tước bỏ mọi tư hữu, mọi quyền sống. Cuộc sống người dân hoàn toàn lệ thuộc vào đại ân đức của thiên triều gian tham bạo ngược.

Thực tế và lịch sử Trung Hoa là một bảng liệt kê những khốn cùng vô tận của người dân Trung Hoa.

4.2. Gần 600 năm Nô lệ Ngoại Tộc

Trong 900 năm gần đây, Trung Hoa lại bị gần 600 năm dưới ách thống trị của Kim, Mông, Mãn, Âu.

Điểm đáng chú ý là trong tất cả những lần xâm chiếm Trung Hoa, từ Kim, đến Mông, Mãn, Âu... lần nào thực lực xâm lấn, kể cả dân số, lãnh thổ, sản lượng, kỹ thuật, quân đội... cũng đều không bằng 1 phần 10 của Trung Hoa đương thời. Nhưng Trung Hoa đã luôn là kẻ chiến bại.

Đáng chú ý hơn, là những nhóm người ít oi đó, lại thống trị Trung Hoa tổng cộng gần 600 năm. Kim 108 năm (1126-1234 dl), Mông 134 năm (1234-1368 dl), Mãn 267 năm (1644-1911 dl), trong đó có 72 năm chung với Âu (1839-1911 dl), và hiện nay, từ năm 1949, gần 70 năm dưới ách tham tàn của bọn nô lệ chủ nghĩa cộng sản châu Âu.

Trong những thời kỳ nầy, kể cả hiện nay, chủ nghĩa ‘Thiên triều và Nô lệ’ càng được giới thống trị ngoại tộc củng cố và tận dụng. Càng ngày giới quyền chức Trung Hoa càng hống hách và tàn bạo hơn đối với người dân.

Trong suốt gần 6 thế kỷ nầy, và cả hiện nay, người dân Trung Hoa buông xuôi, giới nho sĩ Trung Hoa lại chỉ biết phủ phục tuân lịnh ‘vị Thiên tử’ ngoại xâm để thẳng tay đày đọa người dân.

5. HỆ QUẢ HIỆN NAY : NGUY CƠ ĐẠI HỌA và TỬ HUYỆT CỦA TRUNG HOA

5.1. Não trạng Trung Hoa

Sau gần 3000 năm bị mọi triều đại áp đặt, người dân Trung Hoa sống với niềm tin vua là con Trời, quan lại là thần thánh, người dân là nô lệ. Trung Hoa có sứ mạng Nô lệ hóa toàn thể thiên hạ, theo sách lược Ngoại nho nội pháp, và chính sách Soán đoạt và Hủy diệt.

Đối với giới thống trị Trung Hoa, đây là những đương nhiên, không cần bàn cải, không thể thay đổi.

5.2. Mặt nạ Khổng học

Thực thi sách lược Ngoại nho Nội pháp, Khổng học mà Trung Hoa trình bày với thế giới, chỉ là chiếc mặt nạ che giấu cuồng vọng tham tàn bạo ngược của những kẻ tự cho mình có ‘thiên mệnh’. Bên ngoài chúng truyền bá Khổng học, nhưng bên trong chúng dùng mọi thủ đoạn để Soán đoạt và Hủy hoại mọi hay tốt của nơi chúng sinh sống.

Khổng học là tấm màn thống nhất giả tạo che giấu sự rời rạc hàng tỷ mảnh vụn của 99% dân Trung Hoa nô lệ. *[294]

5.3. Tử huyệt Trung Hoa

Hệ quả hiển nhiên nhất của chủ thuyết Thiên tử thế Thiên hành Đạo là : suốt 3000 năm, từ 1046 ttl, những tiếm đoạt, áp đặt, hống hách, lăng mạ, cưỡng bức, hung bạo, đầu độc, tàn sát... của giới quyền chức Trung Hoa, đã là gánh nặng ngàn cân nghiền nát tinh thần và nhân phẩm người dân Trung Hoa. Người dân Trung Hoa là những tên nô lệ khiếp nhược truyền kiếp 3000 năm, đói khát, tự ti, không lý tưởng, không nhân phẩm, chỉ tham tư lợi bất chấp thủ đoạn.

Cũng vì vậy, Trung Hoa không bao giờ có được sức mạnh dân tộc và đoàn kết đúng nghĩa. Tinh thần dân tộc và đoàn kết không thể nảy mầm nơi 99% dân số truyền kiếp nô lệ, đói ăn, và khiếp nhược. *[295]

- Đây chính là nguyên nhân của gần 600 năm Trung Hoa lụy phục dưới ách thống trị của những nhóm dân chỉ có 1/10 sức mạnh của Trung Hoa. Chính 600 năm bị nghiền nát cùng cực nầy càng làm cho tình trạng tệ hại hơn, thành nhược điểm chí tử, thành tử huyệt của Trung Hoa hiện nay. *[296]

5.4. Giới quyền chức Trung Hoa Cuồng vọng Ảo tưởng

Đang khi đó, giới quyền chức Trung Hoa lại là những tên tự coi mình là có dự phần thiên mệnh, siêu phàm, luôn sống trong Cuồng vọng thống trị và Ảo tưởng khoa trương. Đã không có thực lực tiềm tàng, lại hống hách tham tàn, cùng với những tăng trưởng kinh tế bấp bênh, những kỹ thuật trộm cắp, vá víu, những khoa trương tăng trưởng tạm bợ như Đập Tam Hiệp chông chênh, hàng ngàn khu đô thị không người, những đảo nhân tạo túi cát... đang làm cho trái bong bóng Trung Hoa phình lớn và bay cao, nhưng đầy nguy cơ nổ tung tức thời.

Những mua chuộc giới quyền chức tham nhũng ở Châu Phi, Nam Mỹ, không có giá trị hậu thuẫn thực tế, chính sách đàn áp hung bạo ở Tây Tạng, Mông Cổ, Tân Cương, Tứ Xuyên, và chính sách ‘đẻ 1 con’ thiêu rụi tương lai... càng làm cho bong bóng thêm căng, thêm mỏng manh, thêm dễ nổ.

Vì gian tham, hung hãn và cường bạo, Trung Hoa ngày càng khiêu khích, càng trở thành đại họa phá rối toàn thế giới.

Bất cứ giá nào, ở bất cứ phương diện nào, các cường quốc hiện đại không thể khoanh tay để Trung Hoa cưỡng đoạt vị thế thống trị thế giới, khi toàn thể binh lực Trung Hoa không bằng một phần nhỏ các hạm đội đối nghịch...

6. THIÊN HẠ THÁI BÌNH

Chỉ cần một thoáng cọ xát, Trung Hoa sẽ nổ tan thành vài mươi ‘thiên tử’ hoang tàn. Bọn gian hùng Trung Hoa lại hung hãn tàn sát nhau, tranh phần giữa mấy mươi ‘thiên triều’. Khi đó, rất gần thôi, Thiên hạ sẽ Thái Bình.

XVII. NAM HẢI : BIỂN CỦA NƯỚC NAM

1. Hai Phương Nam, Bắc

Theo Địa lý, Nam Bắc chỉ 2 phương vị : Phương Nam, Phương Bắc.

Ở Á Đông, Phương Nam vùng có Mặt Trời nắng ấm, phương của sông nước, của phì nhiêu sung túc. Phương Bắc âm u lạnh lẽo khô cằn. Thời xa xưa, Sông Hoài Tần Lĩnh là đường ranh thiên nhiên chia 2 vùng, 2 giống dân, Phương Nam canh nông lúa nước, và Phương Bắc du mục. *[297]

Sông Hoài Tần Lĩnh luôn là ranh giới thiên nhiên giữa Phương Nam Tộc Việt, Phương Bắc người Tộc Hoa. Tuy nhiên, từ thời Hán, 206 ttl - 220 dl, sông Dương Tử bị cưỡng định là ranh giới giữa Trung Hoa và Trăm Việt.

Sách vở Trung Hoa hiện vẫn còn dùng chữ Nam Nhân để chỉ dân Việt trên phần đất nay là nam Trung Hoa, và Bắc Nhân để chỉ Người Hoa.

Chữ Bắc Thuộc nêu rõ ý thức thời phụ thuộc Phương Bắc. Phương Bắc nầy lại là những nhóm người hoặc quốc gia thuộc Tộc Việt, chứ không nhất thiết là người tộc Hoa. Số quân xâm lấn và chiếm đóng nước ta hầu hết là dân Việt vùng Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. *[298]

2. Nam, Bắc : Việt, Hoa

Cách đây khoảng 6.000 năm, dân Việt đã từ vùng Hồ Đồng Đình tiến về Nam. Dân Việt vùng Sông Hồng Sông Mạ đã tự xưng là Dân Nam. Thói quen nầy vẫn lưu truyền cho đến hiện nay. *[299]

Chữ Nam Việt Lạc, Lạc Hồng, Đại Việt, khác với Bắc, chỉ Trung Hoa.

Về quốc gia, Nam quốc, Bắc quốc; về triều đình Nam Triều, Bắc Triều;

Về lịch sử : Nam sử, Bắc sử; thuốc có thuốc Nam, thuốc Bắc...

Năm 1076, Đức Lý Thường Kiệt có bài ca chiến thắng, với câu đầu là : ‘Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư’.

Năm 1428, Đức Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô đại cáo : ‘Sơn hà cương vực đã chia, phong tục Bắc Nam có khác.’

3. Nước Đại Nam

Năm 1839 vua Minh Mạng đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam.

Hiện nay ta vẫn còn nhiều ấn ngọc, và nhiều tài liệu ngoại giao có đóng ấn vua, với quốc hiệu Đại Nam :

Ấn ngọc ‘Đại Nam Thiên Tử Chi Tỷ’, khắc năm 1839, thời vua Minh Mạng.

Ấn ngọc ‘Đại Nam Hoàng Đế Chi Tỷ’, khắc năm 1844, thời vua Thiệu Trị.

Hai ấn ngọc nầy dùng trên các văn kiện ban sắc thư cho người nước ngoài, và khi vua đi tuần tra các địa phương.

 

Ấn ngọc ‘Đại Nam Thụ Thiên Vĩnh Mệnh Truyền Quốc Tỷ’, khắc năm 1847. Ấn ngọc nầy dùng để tế cáo Đại Lễ Tế Trời ở Đàn Nam Giao, hoặc đóng trên những bản sắc mệnh ban bố cho thiên hạ, hoặc cho các nước chư hầu của Đại Nam, là Thái Lan, Ai Lao, Chân Lạp / Campuchia. *[300]

4. NAM HẢI : Biển của Nước Nam, NAM QUAN : Cửa của Nước Nam

Từ khi dân Việt từ Hồ Đồng Đình tiến vào vịnh Bắc Phần, tên Biển Nam, Biển phương Nam, đã trở thành thông dụng, từ 6000 năm trước. Tộc Hoa mới thành hình năm 1046 ttl, cách đây 3000 năm, và họ đọc thành Nam Hải. *[301]

Khi dân Việt Lạc vùng Sông Hồng, Lạc Hồng, tự xưng là Dân Nam, Nước Nam, Đại Nam, Việt Nam, thì Biển Nam, Nam Hải, trở thành tên riêng : Biển của Nước Nam, chứ không như người Hoa đã đánh lận là Biển Hoa Nam.

Cũng vậy, Nam Quan, ở Lạng Sơn, nghĩa là Cửa của Nước Nam, không có nghĩa là cửa ở phía nam của Trung Quốc.

Ngày nay, dĩ nhiên, Biển Nam, Nam Hải, còn được gọi là Biển Đông.

5. BIỂN ĐÔNG VỚI ĐƯỜNG 9 ĐOẠN

5.1. Tóm lược

Tháng 2.1948, Trung Hoa Dân Quốc phổ biến bản đồ Biển Đông với 11 Đoạn, coi là phần lãnh thổ Trung Hoa, bao gồm hơn 90% Biển Đông, kể cả hơn một nửa Vịnh Hạ Long của Việt Nam.

Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Cộng sản Trung Quốc thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trung Hoa Dân Quốc chỉ còn đảo Đài Loan.

Năm 1953 Trung Cộng bỏ hai đoạn trong Vịnh Hạ Long, trở thành ‘Đường 9 Đoạn’.

Năm 1993, chính phủ Đài Loan lại công bố rằng Đường 9 Đoạn phân định ra vùng nước lịch sử của Trung Hoa.

Ngày 6.5.2009 Trung Cộng trình lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tấm bản đồ Đường 9 Đoạn trên Biển Đông, và tuyên bố quyền tối cao đối với "các đảo ở Biển Đông và các vùng biển lân cận".

Ngày 12.7.2016, toà Permanent Court of Arbitration ở The Hague, Netherlands, căn cứ vào Phụ Lục 7 của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982, đã tuyên bố yêu sách Đường 9 Đoạn của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý, Trung Quốc cũng không có “quyền lịch sử” với các vùng biển ở Biển Đông. *[302]

5.2. Vài Nhận định

a. Giặc trơ tráo

Tháng 2.1948, khi Trung Hoa Dân Quốc phổ biến "Đường 11 Đoạn", lúc Trung Hoa đang được coi là 1 cường quốc thắng trận, và là 1 trong 5 thành viên có quyền phủ quyết của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Nhưng đây cũng là thời kỳ nguy ngập nhất của chế độ. Do đó, Trung Hoa Dân Quốc không có giờ xác định bản đồ trên với thế giới.

Dầu vậy, năm 1993, 45 năm sau, dầu chỉ còn là một hòn Đài Loan nhỏ nhoi tiểu nhược, Trung Hoa Dân Quốc vẫn trơ tráo nhắc lại Đường 9 Đoạn, vẫn ngang ngược bám víu ảo vọng.

Phần Trung Cộng, năm 1953 cũng đã nhắc tới “Đường 9 Đoạn”. Nhưng lại cũng vướng bận quá nhiều rắc rối nội bộ và không có hậu thuẫn quốc tế, nên đành lơ là cho tới năm 2009.

b. Giặc 3.000 ngàn năm

Cuồng vọng xâm lược 3.000 năm của Dân Hoa vẫn không thay đổi, Dầu là Hoa Dân Quốc hay Hoa Cộng Sản. Hoa nào cũng là Giặc Tàu.

Nếu xét bản đồ 11 Đoạn và bản đồ 9 Đoạn, thì Giặc Tàu Dân Quốc gian tham hơn Giặc Tàu Cộng Sản.

c. Giặc hết thời

Nếu Giặc Tàu Dân Quốc không bị Giặc Tàu Cộng Sản bức tử năm 1949, thì với uy thế cường quốc thắng trận Thế chiến 2, việc Giặc Tàu Dân Quốc cướp chiếm Biển Đông đã không một chút trở ngại. Thời đó, Giặc Tàu là đại cường quốc, Việt Nam không có tiếng nói nào trên thế giới, cũng chưa có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982.

Thời 1948, vì thấy con cháu không đủ sức giải cứu Biển Đông, Tổ Tiên Việt Nam đã góp phần để 2 Giặc Tàu giết nhau, và Giặc Tàu Dân Quốc, chủ mưu cướp Biển Đông, phải đại bại. Nhờ đó, Biển Đông đã không bị cướp.

Năm 2009, sau 61 năm, khi Giặc Tàu Cộng Sản ra mặt tranh cướp Biển Đông, thì Thế Giới đã có Luật Biển, và cũng là lúc Thế Giới, vì lợi ích chung, phải toàn lực giải cứu Biển Đông và triệt hạ Giặc Tàu.

d. Giặc giết nhau

Như năm 1949, Giặc Tàu Dân Quốc, chủ mưu chiếm Biển Đông, đã bị đại bại, lần nầy, từ 2009, Giặc Tàu Cộng sản càng hung hăng ở Biển Đông sẽ càng bị tàn bại như chưa từng có, và tự xé tan thành vài mươi mảnh nhỏ hoang tàn.

Đây cũng là lúc Giặc Tàu, cả Cộng Sản và Dân Quốc, tan mộng xâm lăng, những mảnh Tàu nhỏ sẽ tàn sát lẫn nhau và lại sẽ bị xâm chiếm.

*********

SÁCH THAM KHẢO

An Nam Chí Nguyên, do Cao Hùng Trưng, thế kỷ 17 dl. Bản dịch Hoa Bằng, nxb Đại Học Sư Phạm, Hà Nội 2017.

Anh Hùng Lĩnh Nam, phần Di Tích Lịch Sử, do Trần Đại Sỹ, nxb Nam Á, Paris 1986, 4 quyển.

Bronze Drums in Vietnam, do Nguyễn Duy Hinh, The Vietnam Forum 9, 1987.

Chinese Regional Stereotypes, do Wolfram Eberhard, trong Asian Survey, Univ. of California Press, 5 (12), 1965.

Cương Mục Tiền Biên, do Kim Lý Tường.

Đại Việt Sử Ký, do Lê Văn Hưu, hoàn thành năm 1272 dl.

Nếp Sống Tâm Linh Việt Nam, do Nguyễn Thanh Đức, Tủ sách Kinh Việt, Brisbane, Australia.

Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, do Nguyễn Thanh Đức, Ts Kinh Việt, Brisbane, Australia 2021.

The Việt Nam Origins of Four East Asian Theories, do Nguyễn Thanh Đức, Ts Kinh Việt, Brisbane, Australia 2022.

Sứ Mạng Việt Nam thời Bảo Bình, do Nguyễn Thanh Đức, Tủ sách Kinh Việt, Brisbane, Australia.

Enjoying Together the Happiness of Being Humans, do Nguyễn Thanh Đức, Ts Kinh Việt, Brisbane, Australia 2024.

Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, Học thuyết Tiên Rồng Song Hiệp, do Nguyễn Thanh Đức, Ts Kinh Việt, Brisbane, Australia 2024. Hậu Hán Thư, do Phạm Diệp, thế kỷ 5 dl. Bản in Trung Hoa Thư Cục, Thượng Hải 1960.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, do Ngô Sĩ Liên, 1479 dl. Phạm Công Trứ và Lê Hy dịch, nxb KHXH, Hà Nội 1993.

Đại Việt Sử Lược. Bản dịch Nguyễn Gia Tường, nxb TP HCM 1993.

Đại Hoang Tây Kinh, trong Sơn Hải Kinh

Di sản Hán Nôm Việt Nam, Thư mục đề yếu, do Viện Hán Nôm Việt Nam, nxb KHXH, Hà Nội 1993, 3 quyển.

Dư Địa Chí, do Đức Nguyễn Trãi, viết năm 4317 tH, 1438 dl. Bản dịch Viện Sử Học, nxb KHXH, Hà Nội 1976.

Dong Son Drums in Vietnam, do Phạm Huy Thông, nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội 1990.

Chinese Writing (Wenzi-xue-gaiyao), do Qiu Xigui, Society for the Study of Early China, Univ. of California, Berkeley 2000.

Echoes from Old China : Life, Legends and Lore of the Middle Kingdom, do K.S.Tom, University of Hawaii Press, 1989.

Erlitou and the Formation of Chinese Civilization : Toward a New Paradigm, do Sarah Allan.

The Journal of Asian Studies, Cambridge Univ. Press 66 (2), 2007,  tt 461–496.

Etudes d’Histoire d’Annam, IV, BEFEO XVIII.

Giao Châu Ký, thế kỷ 4 dl, dẫn ở Thủy Kinh Chú, q.14.

Hán Việt Tự Điển, do Thiều Chửu, nxb tp HCM 2002.

Hạ Thương Chu niên biểu, do Hạ Thương Chu đoạn Đại Công Trình, 2000.

Hán Việt Từ Đìển, do Đào Duy Anh, nxb Trường Thi, Sàigòn 1957. 

Hậu Hán Thư, do Phạm Diệp, thế kỷ 5 dl. Bản in Trung Hoa Thư Cục, Thượng Hải 1960.

Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn, do Đặng Thế Kiệt, www, Paris 2006-2011.

Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, do Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, viết trong những năm 1856-1884. Bản dịch Viện Sử học Việt Nam, nxb Giáo Dục, Hà Nội 1960.  

Kiến Văn Tiểu Lục, do Lê Quý Đôn, 1726-1784. Nguyễn Trọng Điềm dịch, Viện Sử học, nxb Trẻ, tp HCM 2013.

Kim Ngọc Bảo Tỷ, do Nguyễn Đình Chiến, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội 2009.

Đạo Đức Kinh. Bản dịch Nguyễn Hiến Lê, nxb Văn Hóa Văn Nghệ, tp HCM 2017.

Kinh Dịch. Ngô Tất Tố dịch, nxb Văn Học, tp HCM 2014.

Kinh Lễ. Nguyễn Tôn Nhan dịch, nxb Văn học, tp HCM 1996.

Kinh Thi. Tạ Quang Phát dịch, nxb Văn học, tp HCM 2004.

Kinh Thư. Thẩm Quỳnh dịch, nxb Trung tâm Học liệu, Sàigòn 1968, 1973.

La Justice de l'Ancien Annam, Traduction et Commentaires du Code des Lê, do R. Deloustal, IDEO, Hà Nội 1911.

Lã Thị Xuân Thu, do Lã Bất Vi, hoàn thành năm 239 ttl.

Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, do Phan Huy Chú, 1819. Viện Sử học VN dịch, nxb KHXH, Hà Nội 1992.

Lĩnh Nam Chích Quái, do Trần Thế Pháp. Lê Hữu Mục dịch, xb Huế 1960.

Mỹ Thuật Cổ Truyền Việt Nam, do Nguyễn Khắc Ngữ, Nghiên Cứu Sử Địa, Montreal 1981.

Đại truyện, trong Kinh Thư.

Mã Viện Truyện, trong Hậu Hán Thư.

Nam Việt Chí, thế kỷ 5 dl.

Nam Man truyện, trong Hậu Hán Thư.

Nghiên Cứu Chữ Hán, do Vũ Thế Ngọc, nxb East-west Institute, San Jose, CA 1989.

Nguyễn Trãi Toàn Tập. Bản dịch Viện Sử Học, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1976.

Người Trung Quốc Xấu Xí, do Bá Dương, xb Đài Loan. Bản dịch Nguyễn Hồi Thủ, L.A. 1999.

Nhị Trình Di Thư, do Trình Di (1033–1107) và Trình Hạo.

Quảng Châu ký, do Bùi Uyên, viết năm 420-426 dl.  Sử Ký, do Tư Mã Thiên, viết năm 109-91 ttl.

Quảng Đông Tân Ngữ, do Khuất đại Quân, 1630-1696 dl, trích ở Vân Đài Loại Ngữ.

Tam Quốc Chí, do Trần Thọ, thế kỷ 3 dl. (Khác với Tam Quốc Diễn Nghĩa, thế kỷ 14 dl).

Thái Bình Hoàn Vũ Ký, do Nhạc Sử, 930 - 1007 dl.

Sơn Hải Kinh, do Bá Ích, thế kỷ 3 ttl.

Trúc Thư Kỷ Niên, thế kỷ 4 ttl.

The Origins of Chinese Civilization, do David N. Keightly, Univ. of California Press, Berkeley, Los Angeles 1983.

The Present Echoes of the Ancient Bronze Drum: Nationalism and Archeology in Modern Vietnam and China, do Han Xiaorong, Explorations in Southeast Asian Studies, Vol. 2, No. 2, Fall 1998, Hawaii University.

The South China Sea Arbitration Award of 12 July 2016, Permanent Court of Arbitration, PCA Case Nº 2013-19.

Thục An Dương Vương Tiên Đế Ngọc Phả Cổ Lục. Thời Đại Hùng Vương, nhiều TG, nxb KHXH, Hà Nội 1976.

Thủy Kinh Chú, do Lịch Đạo Nguyên, viết năm 535 dl.

Thông Chí, do Trịnh Tiều, 1104-1162 dl.

Trung Quốc Cổ Đại Đồng Cổ, do Trung Quốc Cổ đại Đồng cổ Nghiên cứu hội, Wenwu Press, Bắc Kinh 1988.

Trung Quốc Triết Học Sử, do Phùng Hữu Lan, xb Hồng Kông 1950.

Truyền kỳ mạn lục, do Nguyễn Dữ, đề tựa 1547 dl. Bản dịch chữ Nôm do Nguyễn Thế Nghi, phiên âm do Nguyễn Quang Hồng, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 2001.

Tứ Khố Toàn Thư, hoàn thành năm 1782 dl.

Vân Đài Loại Ngữ, do Lê Quí Đôn, 1772 dl. Bản dịch Phạm Vũ, Lê Hiền, nxb Tự Lực, Sàigòn 1974.

Việt Sử Toàn Thư, do Phạm văn Sơn, nxb Thư Lâm, Sàigòn 1960.

Uyên Giám, do Hoàng đình Kiên, thế kỷ 12 dl.

Việt Giang Lưu Vực Nhân Dân Sử, do Từ Tùng Thạch, nxb Thượng Hải, Thượng Hải 1947.

Việt Kiều Thư. Bản chép tay của Thư viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, ký hiệu 1731/I.

Việt Nam Sử Lược, do Trần Trọng Kim, nxb Trung Tâm Học Liệu, Sàigòn 1971, 2 quyển.

Việt Sử Thông Lãm, do Vũ Huy Chân, Kim Lai ấn quán, Sàigòn 1973.

*********

BẢN ĐỒ

Năm Đường Ranh vùng Á Đông Xưa                                                                                                             12

Hai Vùng Nam Bắc Trung Hoa                                                                                                                        13

Vùng Tộc Việt Khởi Nguyên                                                                                                                           14

Ba Vùng Phát Triển chính                                                                                                                                18

Đất Tộc Việt đầu Thời Hùng                                                                                                                            24

Ba vùng Việt đầu Thời Hùng 2A                                                                                                                     27

Các Di Chỉ Khảo cổ                                                                                                                                          27

Chu, Sở, Việt năm 2406 tH, 473 ttl                                                                                                                 29

Thời Hùng 2B : Việt Lạc và Hậu Hạ                                                                                                                30

Đất Tộc Việt đầu Thời Hùng 3A                                                                                                                      31

Đất Tộc Việt đầu Thời Hùng 3B                                                                                                                      33

Ân Cao Tôn xâm lăng Việt Lạc                                                                                                                        33

Văn Minh Trống Đồng Việt Lạc                                                                                                                      36

Việt và Hoa đầu Thời Hùng 4A                                                                                                                       40

Việt Lạc thời Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam                                                                                            50

Di tích Thành Ốc - Cổ Loa                                                                                                                               55

Tộc Việt năm 4897 tH, 2018 dl                                                                                                                        56

*********

CHỮ TẮT

           c : câu

           dl : dương lịch, tây lịch

           đb : đặc biệt

           đọc : đọc thêm ở

           gc : ghi chú

           k : khoảng năm

           lv : lịch Việt, âm lịch

           nt : nơi trích dẫn trên

           nxb : nhà xuất bản

           q : quyển

           qđ : năm qua đời

           sđd : sách đã dẫn

           tH : năm Thời Hùng

           tr : trang

           tt : các trang

           ttH : trước Thời Hùng

           ttl : trước tây lịch

           v. : vua, thời gian trị vì

           Xem : đọc ở quyển nầy; tr xx : 2.5.4b : bài 2, phần 5, đoạn 4, mục b.

           www : trên mạng

­­­­­­­­­­­­­­­­­*********



[1]. Năm 1793 dl Càn Long hoàn thành bộ Tứ Khố Toàn Thư gồm 36.275 quyển, sau khi thiêu hủy hơn 6 vạn quyển bị coi là bất lợi cho ‘thiên triều’. Đốt 6 vạn quyển đã nói lên tính cách chủ quan cực đoan trong việc ‘san định’, sửa chữa  36.275 quyển còn lại. -  www. Tứ Khố Toàn Thư.

[2]. Như việc tạo thành trời đất, tạo dựng núi sông, tạo dựng con người...

[3]. Tưởng tượng thời thanh bình thịnh vượng cổ đại, những vị ‘Vua vĩ đại và thánh đức’ của nho học... đều trái ngược với tiến trình tăng triển tự nhiên của xã hội loài người.

[4]. Sông Mạ ở Thanh Hóa. Mạ là âm Việt : Mẹ. Khi giặc Tàu cấm dùng chữ Việt, chữ Mạ Việt bị viết thành chữ Mã.

Những ví dụ về chữ, nét, nghĩa, âm, và thanh, theo Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn, Paris 2006-2011. Đọc www.

[5]. Hơn 200 năm qua, các nhóm văn hóa lớn đã biến cải các văn hóa gốc du mục, với ý thức tự do, dân chủ, nam nữ bình quyền, nhân quyền...

[6]. Với sự phát triển cuộc sống thành thị, đông đúc, các xã hội mẫu hệ dần dần đổi thành phụ hệ.

[7]. Đọc Chinese Regional Stereotypes, do Wolfram Eberhard, trong Asian Survey, Univ. of California Press, 5 (12), 1965, tr 596–608. - Bản đồ 800635 (544061) 5-86 do US CIA 1986.

[8]. Sứ giả Việt Thượng dâng Đế Nghiêu Rùa ngàn năm, trên mu có khắc chữ. - Xem tr 24 : 4.4.3e, và tr 25 : 4.5.4.

[9]. Năm 433 dl người Lâm Ấp quấy phá, chiếm giữ phía Bắc Hải Vân. Năm 1069 dl vua Chế Củ trả lại 3 châu cho Đại Việt, nay là vùng Quảng Bình, Quảng Trị. Năm 1306 dl vua Chế Mân trả lại vùng đất nay thuộc Quảng Trị và Thừa Thiên, làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân 5000-2879 ttl.

[10]. Sách vở Trung Hoa có nhiều truyện tích về thời khai thiên lập địa, nhiều trận đánh giữa các vị ‘thần’ thời đó. Nhưng tất cả đều do tưởng tượng suy đoán, không có giá trị thực tế. Bàn Cổ để ra 18.000 năm để tạo ra trời đất. Sao con người có thể biết những chuyện xảy ra trước khi có con người ? ở thế giới của các vị Thần ? Xem tr 30, 2.2.8.

[11]. Hiện nay quen lẫn lộn cách nói Việt : Tộc Việt, hoặc cách nói Hán Việt : Việt Tộc. Nhưng thời trước năm 1046 ttl, thời chỉ có Tộc Việt, chưa có tộc Hoa, thì chỉ có cách nói Việt : Tộc Việt, Hồ Đồng Đình, Việt Thượng, Việt Lạc.

Dầu khi cách nói Hoa đã phổ biến, Tổ Tiên ta vẫn luôn dùng tên ‘Việt Thượng’ (cách nói Việt) chứ không là ‘Thượng Việt’ (theo cách Hoa). Vì vậy, ‘Việt Thượng’ biến âm thành ‘Việt Thường’.

[12]. Đối với các di chứng khảo cổ về văn hóa, cần cứu xét tầm ảnh hưởng thực tại và hợp lý của chúng, qua thời gian.

[13]. Thời trước khi có tổ chức chia ranh giới rõ, nơi nào 1 tộc dân tập trung sống thì nơi đó là vùng đất của tộc dân đó.

[14]. Trái lại, cuộc sống du mục lại cần sức mạnh thường trực. Phụ nữ bị yếu thế trong thời thai nghén.

[15]. Đang khi đó, cuộc sống khó khăn ở vùng đất khô cằn đã tạo ra nếp sống du mục thiên về bạo lực.

[16]. Dân du mục Thiểm Tây tụ tập, rồi trở thành tộc Hoa, nhờ thành lập nhà Chu, từ năm 1046 ttl.

[17]. Về 3 chữ ‘Việt’, xem tr 58 : 11.2. - Thứ chữ nay gọi là chữ nho, cũng là chữ của Tộc Việt. - Xem tr 34 : 6.4.1.

[18]. Ví dụ : Việt : áo đỏ, Việt Lạc. Hoa : hồng y, Lạc Việt. Đọc Nghiên Cứu Chữ Hán, do Vũ Thế Ngọc, nxb East-west Institute, San Jose, CA 1989, tr 134.

[19]. Ví dụ : Cụ Nguyễn Du (nguyên tên, tên dài), hoặc Cụ Du (tên gọi, tên ngắn). - Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, do Nguyễn Thanh Đức, bài 3, đoạn 6.2.

[20]. Tiếng Việt với số 3 : ba trợn, ba đá, ba kẹo, ba xạo, ba lơn, ba nhe, ba hoa, ba tàu... Trong khi đó người Hoa thích số 3, số 8 (bát, bạc), và sợ số 4 (vì họ phát âm chữ tứ như chữ tử, chết).

[21]. Từ thời Hán, 206 ttl, số 9 và hình ảnh Phụng Long, đã bị giới thống trị Trung Hoa độc chiếm để dùng cho vua chúa, hoàng tộc.

[22]. Hầu hết các gia đình Trung Hoa thờ kính Tổ Tiên đều là người gốc Việt.

[23]. Giới thống trị Hoa đã xuyên tạc bằng đủ cách, đặc biệt bằng cách tạo ra những truyền thuyết quái đản về nguồn gốc các Tết, Lễ. - Đọc Nếp Sống Tâm Linh Việt Nam, do Nguyễn Thanh Đức, bài 9 và bài 10.

[24]. Hình thủ lãnh, đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 39 : 3.2.3b. Trong mấy ngàn năm, trống đồng luôn là hiệu lịnh, là biểu hiệu của uy quyền. Cho tới ngày nay, dân ta vẫn còn tập tục để một Bà đánh tiếng trống khai trương trống đồng mới đúc.

[25]. Xem tr 72 : 14.4.2.

[26]. Về Bà Vua Triệu, đọc Việt Nam Sử Lược, do Trần Trọng Kim, nxb Trung Tâm Học Liệu, Sàigòn 1971, q.1, tr 44.

- Ở phương Bắc, Tần Thủy Hoàng 221 ttl, buộc đổi từ họ mẹ qua họ cha.

[27]. Theo Tam Quốc Chí, thế kỷ 3 dl, q 9 : 'Người Giao Chỉ còn nhiều phong tục theo mẫu hệ'. - Theo Hậu Hán Thư, thế kỷ 5 dl, q 116 : ‘Người Giao Chỉ không phân biệt trưởng ấu… không biết tình cha con… không tổ chức gia tộc theo chế độ phụ hệ…’ - Đọc Việt Sử Toàn Thư, do Phạm văn Sơn, nxb Thư Lâm, Sàigòn 1960, tr 34.

Gần đây, với nếp sống thành thị, nền kinh tế phát triển đa dạng, xã hội lần lần chuyển qua phụ hệ. Năm 203 dl Giao Chỉ đổi tên thành Giao Châu.

[28]. Truyền thuyết Sứ thần Việt Thượng tặng Đế Nghiêu Rùa ngàn năm có ghi lịch, xem tr 25 : 4.5.4b. - Về Kỹ thuật Trâu kéo cày, xem tr 31 : 5.6.2c.

[29]. Nên so sánh với mọi nền văn hóa toàn thế giới, đương thời và hiện nay.

[30]. Cho tới gần đây, Dân Việt, cả bà lẫn ông, đều để tóc dài và cuộn thành một búi lớn sau đầu.

[31]. Vào thời nầy, hạ lưu Sông Hồng còn sũng nước, biển còn ăn sâu vô đất liền.

[32]. Về La bàn, đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 56 : 3.3.2.

[33]. Thời đó, Dân Việt theo mẫu hệ.

[34]. Cũng đọc là Nhạc, âm nhạc.

[35]. Về Rùa Thần, xem tr 25 : 4.5.4b. Đây là chữ Lạc thứ nhất. Ta còn có Sách Lạc . Gần 3000 năm sau, có thêm chữ Lạc Biệt Tài 貉 trên Mặt trống Ngọc Lũ. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 40 : 3.2.4.

[36]. Đọc Sứ Mạng Việt Nam thời Bảo Bình, do Nguyễn Thanh Đức, bài 11, các đoạn 4.1, 5.1, 6.1, và 8.1.

[37]. Đọc nt, bài 11, đoạn 3.1. - Truyền thuyết Do Thái cũng có Hai Ông Bà Tổ, Adam và Eva.

[38]. Xem bản đồ tr 12 : 2.5.2b.

[39]. Như vùng Lưỡng Hà nay thuộc Iraq, và vùng hạ lưu sông Nile ở Ai Cập.

[40]. Xem tr 81 : bài 16.

[41]. Xem tr 11 : 2.4.4, và tr 12 : 2.4.6.

[42]. Hiện nay ta có câu : 'Dân Việt có 5.000 năm lịch sử'. (2879 +2013 = 4892 tH).

[43]. 3.000 năm trước khi Chiêm Thành thành hình ở nam Hải Vân. 4.200 năm trước khi Lào thành hình ở Trấn Nam. - Xem bản đồ tr 25 : 4.5.2.

[44]. Sử Ký do Tư Mã Thiên, viết năm 109-91 ttl. - Làm sao con người có thể biết được sự kiện, số năm ?

[45]. Đọc Tiểu Sử của tất cả các Vị trên Mạng. Phần tiếng Anh có nhiều chi tiết hơn. www.

[46]. Sách Kinh Lễ ghi Ngũ Đế là 5 họ : họ Hữu Sào, họ Toại Nhân, họ Phục Hy, họ Nữ Oa, và họ Thần Nông.

[47]. Khổng tử, 557-479 ttl, nhận Đế Nghiêu, Đế Thuấn (và Đại Vũ) là thánh vương, là những vị vua gương mẫu.

[48]. Hiện nay, nghề nuôi tằm dệt lụa vẫn phát triển mạnh ở phương Nam.

[49]. Phải hơn 1.000 năm sau, vận chuyển đường thủy mới phát triển ở vùng Hoàng Hà.

[50]. Theo Sơn Hải KinhĐại Hoang Tây Kinh.

[51]. Cuộc sống du mục không thích hợp với chế độ mẫu hệ.

[52]. Đây có thể chỉ sao chép truyền thuyết phổ thông về Đế Nghiêu.

[53]. Theo Thông Chí do Trịnh Tiều, 1104-1162 dl, và Cương Mục Tiền Biên do Kim Lý Tường.

[54]. Về Chữ Việt 越, xem tr 19 : 3.5.3d.

[55]. Đọc thêm Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 68 : 3.4.8-9.

[56]. Trị sở nay gọi là thủ phủ, thủ đô. Cũng như Việt Thượng thành Việt Thường, Việt Trị biến âm thành Việt Trì.

[57]. Về Đường giao thông giữa vùng Sông Hồng và Đồng Đình, xem tr 18 : 3.5.2, và bản đồ.

[58]. Đọc www/Rafetus Swinhoei. 2013.

[59]. 2191 ttl + 2013 dl = 4204 năm.

[60]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 37 : 3.2.2.

[61]. Xem bản đồ tr 18.

[62]. Về Đường Ranh, xem tr 12 : 2.5.2, và bản đồ. - Về Đặc tính Văn hóa gốc trồng Lúa nước và văn hóa gốc Du mục, xem tr 11 : 2.4.4-6.

[63]. Thời Đại Vũ chưa có chữ viết hoàn chỉnh để có thể ghi chép chi tiết những kỳ công của Đại Vũ, như sách vở Trung Hoa đã bịa đặt sau nầy.

[64]. Đọc thêm Erlitou and the Formation of Chinese Civilization : Toward a New Paradigm, do Allan, Sarah, The Journal of Asian Studies, Cambridge Univ. Press 66 (2), 2007,  tt 461–496.

[65]. Đến hiện nay, ngoài vùng châu thổ Sông Hồng Sông Mạ, không nơi nào khác có Rùa khổng lồ ngàn năm. Xem tr 25 : 4.5.4b-c.

[66]. Đây là chữ Việt thứ 2. Thời trước, có 3 chữ để viết tên Việt : 越, 粤, 鉞.

[67]. Những vùng đất của Việt Lạc vừa bị sáp nhập vào đất Trung Hoa, như Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, và Hải Nam, vẫn còn dùng chữ Việt Sách Lạc nầy 粤 làm tên của mình. Hiện nay, sách vở Trung Hoa vẫn gọi các tỉnh nầy là vùng Việt 粤 : Việt Tây, Việt Đông, Lưỡng Việt thay vì Quảng Tây, Quảng Đông, Lưỡng Quảng. Vùng nầy vừa bị chia ranh khỏi Đại Việt từ năm 906 dl, cách đây 1100 năm. Cùng với lịch sử, đây cũng là dấu chứng dân vùng Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, và Hải Nam, cũng là dân Việt Lạc.

- Riêng Việt Nam, từ sau 3785 tH, 906 dl, Đại Việt chỉ học chữ nho trong sách vở, nên dùng chữ Việt cổ điển 越.

[68]. Đại Vũ, như Đế Thuấn, đã bị giới thống trị Trung Hoa chuyển lên vùng Hoàng Hà. Việc Đế Thuấn và Đại Vũ được chôn tại phía Nam Dương Tử đều bị Trung Hoa ghi là do Đế Thuấn tuần du, do Đại Vũ đi họp chư hầu.

[69]. Đọc thêm phần tiếng Anh : www/Chu State (Sở).

[70]. Ở vùng bắc Sông Hoài, không có dân nước nào được ghi nhận là con cháu Nhà Hạ.

[71]. Xem tr 18 : 3.5.2c.

[72]. Cách viết ‘ghép chữ’ nầy cũng được dùng cho chữ Đức , chữ Việt 鉞. - Đọc Nguồn Gốc Việt của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 47 : 3.2.9, và tr 65 : 3.4.5.

[73]. Xem tr 24 : 4.4.3e.

[74]. Xem tr 24 : 4.4.3d.

[75]. Tứ di gồm bắc Địch, đông Di, tây Nhung, nam Man.

[76]. Xem tr 30 : 5.5 và bản đồ.

[77]. Sở Trang Vương và Việt Câu Tiển là 2 trong Ngũ Bá thời Xuân Thu, 2108-2476 tH, 771-403 ttl.

[78]. Xem bản đồ các di chỉ tr 28 : 5.3.2.

[79]. Theo Trúc Thư Kỷ Niên, Ân Cao Tôn ‘Tam thập nhị niên, phạt Quỷ Phương, thứ vu Kinh’ : năm thứ 32, đánh Quỷ Phương, đóng quân tại đất Kinh. - Theo Hạ Thương Chu niên biểu, năm Ân Cao Tôn 32 là 1218 ttl.

[80]. Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, bài 10, phần 2, và đoạn 4.1.

[81]. Các địa danh ở Bắc Phần Việt Nam không nhất thiết phải là những chứng tích địa điểm của lịch sử. Bất cứ đi đâu, dân Việt cũng luôn có bên mình ấn tích của Tổ Tiên. Với cuộc di cư 1954 từ Bắc vào Nam, và từ năm 1975 tỏa khắp thế giới, dân Việt không những đã đem theo địa danh, ấn tích lịch sử, văn hóa, mà cả cỏ cây rau trái.

[82] Đọc www/tên các Di chỉ. - Xem bản đồ tr 28 : 5.3.2.

[83]. Chinese writing (Wenzi-xue-gaiyao), do Qiu Xigui, Society for the Study of Early China, Univ. of California, Berkeley, 2000, tt 49-50.

[84]. Thời đồ đồng của tộc Việt khởi đầu khoảng năm 879 tH, 2000 ttl.

[85]. Có thể tìm thấy dấu vết của các tác phẩm có trước Khổng Tử, trong những sách Ông đã san định, như Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ... - Xem tr 46 : 8.2.4.

[86]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học thuyết Á Đông.

[87]. Thời Tam Quốc, hàng ngàn thợ khéo Việt Lạc bị đưa đi xây dựng thủ đô Kiến Nghiệp, Nam Kinh ngày nay.

[88]. Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người.

[89]. Về Thạp và Trống, đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 13-15

[90]. Bronze Drums in Vietnam, do Nguyễn Duy Hinh, The Vietnam Forum 9, 1987, tr 4-5. - Đọc thêm Dong Son Drums in Vietnam, do Phạm Huy Thông, nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1990, tr 275, 282.

[91]. Theo Trung Quốc Cổ Đại Đồng Cổ, do Trung Quốc Cổ đại Đồng cổ Nghiên cứu hội, Bắc Kinh, Wenwu Press, 1988. Trích dẫn ở The present Echoes of the Ancient Bronze Drum: Nationalism and Archeology in Modern Vietnam and China, do Han Xiaorong, Explorations in Southeast Asian Studies, Vol. 2, No. 2, Fall 1998, Hawaii University. - Bắc Kinh và Thượng Hải có nhiều trống, vì là trung tâm chính trị và kinh tế thời gần đây.

- Sách Trung Hoa ghi : Mã Viện thu gom và phá hủy nhiều trống đồng của Lĩnh Nam, để đúc ngựa đồng và cột đồng. Sau Mã Viện là Khổng Minh, Lan Khâm, Âu Dương Ngỗi, Lưu Hiểu... đều nổi tiếng đã cướp nhiều trống đồng của Việt Lạc. Có tài liệu ghi Mã Viện là ông tổ nghề đúc đồ đồng (!).

[92]. Về chi tiết hình vẽ và các nét của chữ Việt 越, xem tr 19 : 3.5.3d.

[93]. Về Rùa Thần, xem tr 25 : 4.5.4b.

[94]. Nên gọi là Hà Đồ. Một số sách giải thích Hà Đồ là do long mã từ Hoàng Hà. Hà Đồ chỉ là Sách Lạc biến dạng. Thực ra, cũng chỉ là Truyền thuyết Rùa Thần Việt Thượng. Sông Lạc chỉ để tránh né nguồn phát xuất từ Dân Lạc. Long Mã là để né tránh Rùa Thần.

[95]. Xem tr 24 : 4.4.3e.

[96]. Xem tr 28 : 5.3.3.

[97]. Xem tr 43 : 7.5.

[98]. Xem tr 29 : 5.3.3c.

[99]. Tên của Dân Việt vùng Việt Thượng là Lạc. Khi nhấn mạnh đặc tính Việt, khác với Hoa, thì dùng tên Việt Lạc.

[100]. Các bản văn về Phục Hy sáng tác sau Phục Hy hơn 2.000 năm.

[101]. 2191 ttl + 2013 dl = 4204 năm.

[102]. Qua Thạp và Trống đồng Đông Sơn, học thuyết Âm Dương Hoán Dịch, Đất Trời 5 Hành, Tiên Rồng Song Hiệp, Đạo Đức Tuệ Linh, có nguồn gốc Việt Lạc. - Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông.

[103]. Theo Trúc Thư Kỷ Niên.

[104]. Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, bài 10, đoạn 4.1.

[105]. Vùng Đồng Đình là đất Việt Lạc từ năm 1300 ttl. Xem tr 34 : 6.3.2c.

[106]. Xem tr 36 : 8.4.3.

[107]. Xem tr 74 : 14.6.3, và bản đồ.

[108]. Xem tr 62 : 12.2, câu 85.

[109]. Xem tr 21 : 4.2.1e.

[110]. Về Thuyết Thiên Tử Thế Thiên Hành Đạo, xem tr 81 : 16.

[111]. Xem tr 24 : 4.4.3e, và tr 28 : 5.3.3.

[112]. Xem tr 42 : 7.4.1a. - Về Mặt La bàn, đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 57 : 3.3.2b.

[113]. Nhà (Đông) Chu coi chúng là rợ Tây Nhung.

[114]. Xem tr 49 : 9.1.2a. - Dầu Triệu Đà là người Hoa, việc Triệu Đà cai trị không có nghĩa là toàn dân trong vùng đột nhiên bị đồng hóa thành Hoa.

[115]. Về Văn hóa Du mục và Lúa nước, xem tr 11 : 2.4.4.

[116]. Theo cưỡng định Trung Hoa, các nước chung quanh đều do các quí tộc Trung Hoa thành lập, cũng như trước đó các nhóm du mục đã được bộ tộc Chu tụ tập để thành hình Nhà Chu và tộc Hoa.

[117]. Xem bản đồ tr 30 : 5.4.1b.

[118]. Đọc thêm www/Chu State (Sở)/Culture. - Từ thời Hán, Trung Hoa gán cho Sở là sơ khai man rợ, văn hóa Sở, Việt, không thích hợp với Hán khổng.

[119]. Nước Sở cường thịnh nhất vào thời Sở Trang Vương, v. 2266-2288 tH, 613-591 ttl. Ông là một trong Ngũ Bá.

[120]. Kinh thư, phần Đại truyện; Hậu Hán Thư, Nam Man truyện. Về Xe chỉ nam, đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 57 : 3.3.2c.

[121]. Sứ giả Việt Thượng dâng Rùa thần Sông Hồng cho Đế Nghiêu năm 688 tH, 2191 ttl. - Xem tr 24 : 4.4.3e.

[122]. Sau những thay đổi danh xưng thời Tiền Hán, sách vở Trung Hoa lẫn lộn vùng Việt Thượng (đổi tên thành Lĩnh Nam, và chia ra thành 14 hoặc 15 bộ) với ‘bộ Việt Thượng’ vùng Quảng Trị, Thừa Thiên ngày nay. - Đây cũng là dấu chỉ dân Hoa không biết gì nhiều về Việt Thượng.

[123]. Xem tr 34 : 6.3.2.

[124]. Việt Giang Lưu Vực Nhân Dân Sử, do Từ Tùng Thạch, Nxb Thượng Hải, 1947.

[125]. Đọc Vân Đài Loại Ngữ, do Lê Quí Đôn, 1772, bản dịch Phạm Vũ, nxb Tự Lực, Sàigòn 1974, tr 149.

[126]. Sách Lạc, Lạc Thư, là đồ biểu trên lưng Rùa Thần, từ đó tính ra Dịch. Kinh Dịch là sách bàn luận về Âm Dương. - Kinh Dịch được cho là do Chu Văn Vương viết, nên gọi là Chu Dịch.

[127]. Trung Quốc Triết Học Sử, do Phùng Hữu Lan, xb Hồng Kông 1950, tr 457. - Phùng Hữu Lan là triết gia thời danh của Trung Hoa hiện nay.

[128]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 75 : 4.2.

[129]. Gọi là Chu Lễ vì Chu Công Đán được cho là tác giả.

[130]. Xem bản đồ tr 30 : 5.4.1b.

[131]. Tần giết tất cả thanh niên của nước đối thủ. Sau trận Trường Bình, năm 2619 tH, 260 ttl, Tần giết 40 vạn tù binh.

[132]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 46 : 3.2.8-9, và tr : 152 : 7.2 và 7.3.

[133]. Dân Việt vượt Sông Hoài thời Hậu Hạ, từ 1079 tH,1800 ttl. Xem tr 30 : 5.5.

[134]. Các Kinh đã ‘được’ Khổng Tử sửa đổi, và sau Khổng Tử, đặc biệt thời các triều Hán, Đường, Tống, Thanh, tất cả đều đã được diễn dịch, sửa đổi, thêm, bớt... cho hợp với chủ đích chính trị của triều đại đương thời. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 220 : 9.1.3.

[135]. Phục Hy và Đại Vũ là dân Việt. Xem tr 23 : 4.4.2, và tr 27 : 5.3.

[136]. Đọc Nguồn Gốc VN của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 74 : 4.2, và tr 81 : 4.4.

[137].Thời Tam Hoàng Ngũ Đế, có chữ viết, nhưng chưa thịnh hành, nên không thể ghi lại từng lời nói. Thời sau diễn dịch và gán ghép các chi tiết.

[138]. Về Chu Lễ, xem tr 44 : 7.5.2.

[139]. Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người.

[140]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông. - Về Thạp và Trống, đọc nt, tr 17 : bài 2.

[141]. Quảng Châu kýGiao Châu ngoại vực ký. - Sau khi bị Việt Lạc đánh tan, sách vở Trung Hoa ghi là 50 vạn quân du thủ du thực (!), và thất bại vì ‘không chịu được thủy thổ’.

[142]. Lịch sử chỉ còn trận Ân Cao Tôn xâm lăng Việt Lạc năm 1661 tH, 1218 ttl. Nhưng cuộc xâm lăng nầy đã xảy ra 172 năm trước khi tộc Hoa thành hình. - Xem tr 34 : 6.3.2.

[143]. Theo Sử Ký do Tư Mã Thiên. - Đọc thêm Việt Sử Toàn Thư, tr 60, gc 1. - Xem tr 49 : 9.1.2b. - Bài học chiến bại đã trở thành Truyền kỳ Mỵ Châu, dạy việc Giữ Nước. - Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, bài 9. - Về Triệu Đà, vua An Dương, và Thành Ốc, đọc phần 10.

[144]. Khi khai thác chủ thuyết nầy, triều Hán tránh tôn vinh triều đại Tần vừa bị họ lật đổ, nên đã tôn vinh triều Chu thành các thiên tử thần kỳ, để thiên hạ thần phục thiên tử Hán theo mẫu đó. Mọi tài liệu các thời trước bị sửa đổi theo.

[145]. Xem thêm tr 81 : 16.

[146]. Đọc Việt Nam Sử Lược q.1, tr 18 tt. - Xem tr 48 : 8.4.3.

[147]. Xem tr 34 : 6.3.2.

[148]. Đọc Việt Nam Sử Lược q.1, tr 30.

[149]. Năm 2699 tH, 180 ttl, ghi theo Sử Ký, do Tư Mã Thiên, viết năm 2770-2788 tH, 109-91 ttl. - Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 60, chú thích 1. - Đọc thêm Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, bài 9.

[150]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 58, và tr 86-87.

[151]. Đọc Việt Nam Sử Lược, q.1, tr 38; và Việt Sử Toàn Thư, tr 105.

[152]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 101-102, 105.

[153]. Về Tầm quan trọng của Định chế Làng-Nước Việt Lạc, đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, bài 6, đb phần 7, và bài 10, đoạn 9.1.

[154]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 106.

[155]. Xem tr 69 : 14.

[156]. Xem tr 68 : 14.6.2. Thần phả là tiểu sử các Vị được thờ trong Đền.

[157]. Danh sách và tiểu sử nhiều Vị ghi nhận ở phần Di Tích Lịch Sử trong bộ Anh Hùng Lĩnh Nam, do Trần Đại Sỹ, 4 quyển, nxb Nam Á, Paris 1986.

[158]. Bản in Trung Hoa Thư Cục, Thượng Hải 1960.

[159]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 109-111.

[160]. Theo Dư Địa Chí của Cụ Nguyễn Trãi viết năm 4317 tH, 1438 dl, Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam đặt tên Nước là Hùng Lạc. - Đọc Nguyễn Trãi Toàn Tập, Viện Sử Học dịch, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1976, tr 215.

[161]. Đọc Mỹ Thuật Cổ Truyền Việt Nam, do Nguyễn Khắc Ngữ, Nghiên Cứu Sử Địa, Montreal 1981, tr 63.

[162]. Về chi tiết chữ Việt 越, xem tr 19 : 2.5.2d.

[163]. Về chi tiết chữ Thượng 常, đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 26-27.

[164]. Xem tr 73 : 4.2.3a.

[165]. Tộc Hoa có năm 1833 tH, 1046 ttl, vùng Thiểm Tây.

[166]. Thần Nông không thể là vị thần của dân sa mạc du mục. Xem tr 23 : 4.4.2.

[167]. Khác với tộc Hoa thuộc nền văn hóa gốc du mục. - - Xem tr 24 : 4.4.3.

[168]. Xem tr 26 : 4.5.4e.

[169]. Xem tr 30 : 5.4.2.

[170]. Xem tr 31 : 5.6.2b.

[171]. Xem tr 32 : 6.1.3a và bản đồ.

[172]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 20 : 2.3.1.

[173]. Đây là vùng đất khảo cổ hiện nay coi là đất Nhà Thương. Xem tr 33 : 6.3.1 và bản đồ.

[174]. Vào thời kỳ nầy, vùng Đồng Đình cũng là phần đất Việt Lạc. Xem tr 34 : 6.3.2 và bản đồ -

[175]. Hơn 170 năm trước khi tộc Hoa thành hình.

[176]. Xem tr 49 : 9.1.2a.

[177]. Xem tr 49 : 9.1.2b.

[178]. Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, bài 9.

[179]. Xem tr 50 : 9.2.2b. - Đọc thêm Việt Sử Toàn Thư, tr 58; và tr 86-87.

[180]. Đọc thêm nt, tr 101-102, 105.

[181]. Đọc thêm nt, tr 106.

[182]. Đọc thêm nt, tr 107.

[183]. Xem tr 50 : 9.3.2, và bản đồ tr 51.

[184]. Đọc nt, tr 115.

[185]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược q.1, tr 44.

[186]. Đọc thêm nt, tr 53.

[187]. Đọc thêm nt, tr 59.

[188]. Đọc thêm nt, tr 60.

[189]. Đọc thêm nt, tr 66.

[190]. Đọc thêm nt, tr 67

[191]. Xem tr 18 : 3.5.

[192]. Xem chi tiết tr 19 : 3.5.3c-d.

[193]. Xem tr 24 : 4.4.3e.

[194]. Về Sách Lạc, xem tr 28 : 5.3.3a.

[195]. Xem chi tiết tr 29 : 5.3.3c.

[196]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông.

[197]. Về Chữ Lạc Biệt Tài 貉, đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 40 : 3.2.4. - Ngoài 3 chữ Việt và 3 chữ Lạc ghi lại lịch sử, chữ  Mặt Trời và Trâu  ghi dấu khám phá vùng đất Nắng ấm và Trâu. Trên đường Nam tiến, khoảng năm 4.500 ttl, cách đây 6.500 năm. Xem tr 18 : 3.5.2c. - Chữ Hùng Chim Thiêng 熊 ghi dấu khởi đầu Thời Hùng, năm 2879 ttl, cách đây gần 5.000 năm. Đọc nt, tr 42 : 3.2.5.

[198]. Ngày nay, người Việt Nam đã tỏa lan hầu như khắp nơi toàn thế giới, theo tỷ lệ thuận hợp với dân số và tầm phát triển kỹ thuật của từng địa phương.

[199]. Đọc Sứ Mạng Việt Nam thời Bảo Bình, bài 7 và 8. Kỷ nguyên Bảo Bình thể hiện thời 2000-4000 dl.

[200]. Trước đây, khi chữ quốc ngữ chưa phổ thông, Truyện Hồng Bàng chỉ được một số ít nhà nho biết. Đại chúng chỉ theo Truyền kỳ truyền miệng.

[201]. Lĩnh Nam Chích Quái, do Trần Thế Pháp, Lê Hữu Mục dịch , xb Huế 1960, tr 16,19, và các ghi chú. Maspéro: Etudes d’Histoire d’Annam, IV, BEFEO XVIII, 3, p. 6s. Thủy Kinh Chú, q. 37. Thái Bình Hoàn Vũ Ký, q. 170, tr 9.

- Không có tài liệu nào về Trần Thế Pháp. Chỉ có Lê Quý Đôn, 1726-1784, ghi 1 câu trong Kiến Văn Tiểu Lục : "Lĩnh Nam Chích Quái tương truyền là tác phẩm của Trần Thế Pháp". Đọc nt, tr 9, 12.

[202]. Vì tộc Hoa thành hình nhờ bộ tộc Chu tụ tập các bộ lạc du mục, nên giới thống trị Hoa cưỡng định rằng mọi tộc dân khác cũng đều do quí tộc Hoa phát sinh. - Xem tr 39 : 7.1.1a.

[203]. Chữ Long do chữ Rồng đọc theo giọng Hoa không có âm ‘R’ tiếng Việt. Âm ‘R’ của Hoa, Việt là ‘L’. Tiếng Hoa không có giọng dấu : ‘ồng’ thành ‘ong’. Hán Việt Tự Đìển do Đào Duy Anh, nxb Trường Thi, Sài gòn 1957, không có chữ âm ‘R’. Hán Việt Tự Điển do Thiều Chửu, nxb TP HCM 2002, bảng tra chữ cũng không có chữ ‘R’.

[204]. Long Nữ là nàng họ Long. Tác giả Truyện Hồng Bàng là người Hoa.

[205]. Thời Hùng từ năm 2879 ttl. Tộc Hoa thành hình năm 1046 ttl. - Xem tr 69 : 4.2.1.

[206]. Âu Cơ chỉ có nghĩa ‘người đẹp Đất Âu’, không phải tên riêng của một người. Lịch sử Trung Hoa còn có những Tần cơ, Vệ cơ, Sở cơ, Yến cơ...

[207]. Về Biểu Tượng Tiên Rồng, đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, bài 2, đoạn 4.1, và bài 13. Truyện Hồng Bàng xuyên tạc tính Biểu Tượng vì giải thích tục xâm hình Long là để tránh thủy quái [c.96]. Có thể đánh lừa được thủy quái bằng hình vẽ sao ? Tổ Tiên vẽ hình Long lên người là để tự hào và hưởng nhận sức sống từ Biểu Tượng linh thiêng của Dòng Tộc Việt.

[208]. Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, bài 2, đoạn 4.1 và 4.2.

[209]. Đọc nt, bài 2, mục 5.2.

[210]. Không phải là 2 người Hoa ‘Lạc Long Quân’ và ‘Âu Cơ’. Đó là do tên quan Trung Hoa Lịch Đạo Nguyên bịa đặt cách đây chưa tới 1.600 năm.

Đồng bào : Đồng là cùng, chung. Bào là Bọc Mẹ, cái nhau, bào thai. Mọi người là Anh Em cùng Một Bọc Tiên Rồng. - Đọc nt, bài 10, mục 5.2b gc.

[211]. Như vùng Lưỡng Hà nay thuộc Iraq, vùng hạ lưu sông Nile ở Ai Cập.

[212]. Xem tr 20 : 3.5.4.

[213]. Xem tr 19 : 9.1.2.

[214]. Phân biệt khá dễ dàng, dựa vào các yếu tố phân biệt giữa Tộc Việt với nền văn hóa nông nghiệp, và tộc Hoa với nền văn hóa du mục. Xem tr 40 : 7.1.2. - Về Khác Biệt Nền Tảng giữa Tộc Việt và Tộc Hoa, xem tr 7 : 1.

[215]. Do Giao Châu Ngoại Vực Ký (thế kỷ 4 dl) ghi nhận.

[216]. Truyền Kỳ Chử Đồng, Tiết Liêu, An Tiêm, Mỵ Châu, Phù Đổng. Đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người.

[217]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 42 : 3.2.5.

[218]. Bộ Hỏa  linh thiêng. Hình tứ linh, long lân quy phụng, đều có lửa.

[219]. Về năm 906 dl, xem tr 57 : 10.8.

[220]. 18 Miếu hiệu : 1. Hùng Dương Vương, 2. Hùng Hiền Vương, 3. Hùng Lân Vương, 4. Hùng Hiệp Vương, 5. Hùng Hy Vương, 6. Hùng Huy Vương, 7. Hùng Chiêm Vương, 8. Hùng Vỹ Vương, 9. Hùng Định Vương, 10. Hùng Vi Vương, 11. Hùng Trinh Vương, 12. Hùng Võ Vương, 13. Hùng Việt Vương, 14. Hùng Anh Vương, 15. Hùng Triệu Vương, 16. Hùng Tạo Vương, 17. Hùng Nghị Vương, 18. Hùng Duệ Vương. - Đọc Việt Sử Thông Lãm, do Vũ Huy Chân, xb Sàigòn 1973, tr 3 và 74.

[221]. Trống Sông Đà phát hiện cuối thế kỷ 19. Tang trống 78 cm, cao 61 cm. Mặt trời 14 tia, là Trống Moulié, ở bào tàng Guimet, Paris. Về Trống Ngọc Lũ, đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 27 : 2.4.4.

[222]. Xem tr 49 : 9.1.2b.

[223]. Thục An Dương Vương Tiên Đế Ngọc Phả Cổ Lục, dẫn ở Thời Đại Hùng Vương, nhiều tác giả, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1976, tr 243.

[224]. Theo sách vở Trung Hoa, vùng Bắc Dương Tử có Nước Sở, người Tộc Việt, do Hùng Dịch sáng lập, 1030-223 ttl, có 42 vua cũng mang họ Hùng. - Tuy nhiên, Thời Hùng có trước Nước Sở hơn 1.800 năm, Vua Hùng thắng Ân Cao Tôn trước Hùng Dịch 178 năm, đồng thời với Hùng Dịch đã có nhiều Thạp và Trống Đông Sơn ghi khắc việc thờ kính các Vua Hùng...

[225]. Vua, Vương không chỉ là người cai trị nước, còn là tước vị. Bà Triệu, khởi nghĩa năm 248 dl, được Dân xưng tụng là ‘Bà Vua’, Dầu Bà chỉ tự xưng là Tướng. Ca dao : “Muốn coi lên núi mà coi, Coi Bà Vua Triệu cỡi voi đánh cồng”. Tước Vương cũng không có nghĩa là vị vua cai trị, như Đức Hưng Đạo Đại Vương, Đức Hưng Nhượng Vương... Vì tính biểu tượng, tên riêng và tiểu sử của từng Vị đã không còn cần thiết. Tất cả đều được tôn xưng bằng miếu hiệu ‘Vua Hùng’.

[226]. Như Phụng Long, khi thấy văn hóa và biểu hiệu Tộc Việt cao quý, vua chúa Trung Hoa dành số 9 cho hoàng tộc. [số tốt đẹp của dân Hoa là số 8].

[227]. Theo Hậu Hán Thư, q 116 : "Người Giao Chỉ không phân biệt trưởng ấu… không biết tình cha con… không tổ chức gia tộc theo chế độ phụ hệ…" - Theo Tam Quốc Chí, q 9 : "Người Giao Chỉ còn nhiều phong tục theo mẫu hệ". - Đọc thêm Việt Sử Toàn Thư, tr 34.

[228]. Trong suốt mấy ngàn năm, trống đồng luôn là hiệu lịnh, là biểu hiệu của uy quyền. Cho tới ngày nay, dân ta vẫn còn tập tục để một Bà đánh tiếng trống khai trương trống đồng mới đúc.

[229]. Hiện nay làng Thượng Thanh, huyện Thanh Oai, Hà Tây, còn miếu thờ vị Tướng đã giả gái để được đem quân của mình gia nhập cuộc quật khởi của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. Xem tr 69 : 14.

[230]. Ngài khởi nghĩa năm 3420 tH, 541 dl, thành công từ năm 3423 tH, 544 dl. Ngài tự xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu là Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân. Sử còn ghi Ngài là Lý Nam Đế. - Xem tr 57 : 10.7.4.

[231]. Theo Việt Nam Sử Lược, q.1, tr 18 tt. - Xem tr 49 : 9.1.1.

[232]. Theo Sử Ký Tư Mã Thiên viết năm 109-91 ttl. - Đọc thêm Việt Sử Toàn Thư, tr 60, chú thích 1; và đb tr 86-87.

[233]. Đọc Việt Nam Sử Lược q.1, tr 38; và Việt Sử Toàn Thư, tr 105.

[234]. Về Định chế Làng-Nước Việt Lạc, đọc Chung Hưởng Hạnh Phúc Làm Người, bài 6, phần 7, bài 10, đoạn 9.1.

[235]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 107.

[236]. Đến năm 4824 tH, 1945 dl, khắp nơi hoạt động của các Ngài đều có đền thờ. Chỉ vùng ven sông Đáy, đã có tới 94 vị Anh Hùng thời Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam được thờ kính. Anh là người sáng suốt thấy việc phải làm. Hùng là người đủ sức mạnh tinh thần để làm việc đã thấy. Chữ anh hùng dùng chung cho cả nam nữ, cả văn võ.

[237]. Danh sách và tiểu sử của nhiều Vị được ghi nhận ở phần "Di Tích Lịch Sử" trong bộ Anh Hùng Lĩnh Nam, do Trần Đại Sỹ, 4 quyển, nxb Nam Á, Paris 1986. - Nhiều chi tiết cũng trích dẫn từ Bộ sách nầy.

[238]. Hiện nay làng Thượng Thanh, huyện Thanh Oai, Hà Tây, còn miếu thờ vị Tướng đã giả gái để được đem quân gia nhập cuộc quật khởi của Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. - Sau Đức Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam hơn 200 năm, năm 3127 tH, 248 dl, dân Việt Lạc có thêm một Nữ nhân lãnh đạo khởi nghĩa : Bà Vua Triệu. Phải gần 300 năm nữa, năm 3423 tH, 544 dl, mới có một thủ lãnh nam nhân được ghi nhận : Đức Nam Việt Đế, (Lý Nam Đế)).

[239]. Chỉ có ngoại sử mới dám ghi nhận một phần sự thực. Chính sử Trung Hoa luôn xuyên tạc, theo chủ trương hủy diệt di tích Tộc Việt.

[240]. Đọc Việt Nam Sử Lược q.1, tr 39.

[241]. Xem tr 39 : 6.6.3.

[242]. Đọc thêm Anh Hùng Lĩnh Nam.

[243]. Theo Dư Địa Chí của Đức Nguyễn Trãi, viết năm 4317 tH, 1438 dl. Đọc Nguyễn Trãi Toàn Tập, Viện Sử Học dịch, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1976, tr 215.

[244]. Tại nơi loài người đã sinh sống mấy ngàn năm, làm sao có thể có hiện tượng "diều hâu đang bay mà chỉ vì nóng quá nên rơi xuống chết" ? Có chăng là núi lửa chợt phun !

[245]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 57.

[246]. Đọc nt, tr 89.

[247]. Đọc nt, tr 109.

[248]. Đọc nt, tr 133.

[249]. Đọc nt, tr 210.

[250]. Đọc Vân Đài Loại Ngữ, do Lê Quý Đôn, 1772, bản dịch Phạm Vũ, nxb Tự Lực, Sàigòn 1974, tr 174.

[251]. Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 249.

[252]. Đọc nt, tr 271, 272.

[253]. Đọc nt, tr 282.

[254]. Đọc nt, tr 336.

[255]. Đọc nt, tr 366.

[256]. Đọc nt, tr 371-372.

[257]. Đọc nt, tr 552.

[258]. Xem tr 34 : 6.3.2.

[259]. Theo con số thông thường, tức là hơn 4.000.000 giặc.

[260]. Nxb Thượng Hải, 1947.

[261]. Xem tr 43 : 7.4.2a. - Vân Đài Loại Ngữ, tr 149.

[262]. Mã Viện Truyện trong Hậu Hán Thư, do Phạm Diệp, thế kỷ 5 dl.

[263]. Thực oái oăm và bêu xấu, trong lời tuyệt mạng, một câu đã trở thành danh ngôn của Mã Viện : "Thôi thì ! Làm tướng da ngựa bọc thây, hơn là chết tại xó nhà". - Họ Mã, da ngựa !

[264]. Cũng theo Mã Viện Truyện, vì Mã Viện đã giấu bớt một xe minh châu và sừng tê đã cướp từ nước ta, nên khi chết, Mã Viện bị lột bỏ mọi tước vị, vợ con không dám đem xác đi chôn.

[265]. Chỉ riêng 1 trận ở Hồ Đồng Đình, Mã Viện đã mất 7 vạn quân thủy chiến, dưới tay Công chúa Phật Nguyệt.

[266]. Đại tướng của Tần Thủy Hoàng, năm 2665 tH, 214 ttl.

[267]. Xem tr 34 : 6.3.2. Nhà Ân, Nhà Hậu Thương. Thời nầy tộc Hoa chưa thành hình. Hơn 100 năm sau, bộ lạc Chu góp các bộ lạc du mục khác vùng Thiểm Tây, lập Nhà Chu năm 1046 ttl. Tộc Hoa mới thành hình và phát triển.

[268]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q.1, tr 18. - Xem tr 48 : 8.4.3.

[269]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q.1, tr 30; Việt Sử Toàn Thư, tr 89.

[270]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q.1, tr 39-40.

[271]. Đọc thêm nt, tr 53-56.

[272]. Đọc thêm nt, tr 66-68.

[273]. Đọc thêm nt, tr 89-90.

[274]. Vốn thuộc vùng đất Việt Lạc.

[275]. Đọc Vân Đài Loại Ngữ, tr 174-175, dẫn Nhị Trình Di Thư, do Trình Di, và Uyên Giám, do Hoàng Đình Kiên.

[276]. Ngột Lương Hợp Thai là công thần thứ 3 của Nhà Nguyên, từng tham gia đánh chiếm nước Kim, nước Đức, Ba Lan, Bagdad, và diệt nước Đại Lý.

[277]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược q.1, tr 126-128.

[278]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược q.1, tr 137-150; Việt Sử Toàn Thư, tr 246-248.

[279]. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.

[280]. Như Đức Ngô Nam Đế năm 938 dl.

[281]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược q.1, tr 151-161.

[282]. Đọc thêm nt, tr 217-234.

[283]. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược q.2, tr 130-134.

[284]. Theo số đếm thông thường, tức là hơn 4.000.000 giặc.

[285]. Về tộc Hoa thành hình, xem tr 39 : 7.1.1.

[286]. Về Văn hóa Du mục, xem tr 11 : 2.4.4, và tr 12 : 2.4.6.

[287]. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 220 : 9.1.3.

[288]. Thần thánh của Trung Hoa đều là các vua quan lớn nhỏ. Ông nào cũng mập mạp, phè phỡn, ăn no mặc đẹp. Ba ông Phúc Lộc Thọ là 3 thủ tướng của 3 triều vua. Chỉ trừ Lão Tử. - Xem tr 45 : 8.2.2c.

[289]. Trong mọi cuộc tranh giành quyền lực, người dân Trung Hoa luôn là nạn nhân của những cuộc tàn sát tập thể do mọi phía. Nhiều làng, nhiều thành, nhiều vùng bị tuyệt diệt.

[290]. Về Tứ di, xem tr 33 : 6.1.3b và gc.

[291]. Còn gọi là Hồ Tôn Tinh. - Hồ : mọi, (người hồ). Tôn : khỉ, (Tôn hành giả). Tinh : đười ươi (tinh tinh).

[292]. Sắc lịnh ngày 21.8.1406 dl của Minh Thành Tổ, gởi Trương Phụ, ghi rõ chính sách của Trung Hoa : “Nhất thiết các thứ sách vở chữ viết, cho đến các câu ca lý dân gian, sách dạy trẻ... thì một mảnh một chữ đều đốt hết... Các bia do An Nam lập ra thì phá hủy tất cả, một chữ chớ để còn.”

Chính sách Soán đoạt và Hủy diệt nầy không chỉ xảy ra trong quá khứ, mà mọi thời, ngay cả trong hiện tại.

[293]. Chỉ có Thiên tử mới được thờ Trời. Chỉ có quan chức mới được tôn vinh Ông Bà Tổ Tiên. Ngược với Nếp sống Việt Nam. Mọi nhà Việt đều có Bàn Thiên thờ Trời, trước sân, giữa trời, và có Bàn thờ Tổ Tiên trong nhà. Đọc Nguồn Gốc Việt Nam của Bốn Học Thuyết Á Đông, tr 165 : 7.5.3.

[294]. Đọc thêm Người Trung Quốc Xấu Xí, do Bá Dương, xb Đài Loan, bản dịch Nguyễn Hồi Thủ, L.A., 1999.

[295]. Những xảo trá, lường gạt, gian manh, buôn lậu, đầu cơ, hàng giả, hàng nhái, hàng độc, hàng dơ...của người Hoa đã nổi tiếng từ thời xa xưa đến nay.

[296]. Trong lần Nhật Bản xâm lăng Trung Hoa 1937-1945, 1 người lính Nhật, với 1 cây súng, đã 1 mình tiến chiếm,1 mình cai trị 1 làng Trung Hoa trong suốt thời chiến. Nhật Bản đã phổ biến Phim tài liệu mô tả 5000 tù binh Trung Hoa bị 100 lính Nhật tập trung, suốt mấy giờ đồng hồ sắp đặt dàn súng máy để tàn sát. Nhưng 5000 lính Trung Hoa chỉ đứng chờ bị bắn chết, không người lính Trung Hoa nào tính chuyện kháng cự lại 100 lính Nhật, hoặc bỏ chạy.

[297]. Xem tr 12 : 2.5.2 và bản đồ. - Đọc Việt Sử Toàn Thư, tr 109.

[298]. Giặc Nam Hán là quốc gia ở vùng Quảng Đông, trước năm 917 dl còn có quốc hiệu là Đại Việt. Đức Ngô Nam Đế (Quyền) đã đánh bại quân Nam Hán tại trận Bạch Đằng năm 938 dl. - Đọc Việt Nam Sử Lược q.1, tr 67.

[299]. Xem tr 19 : 3.5.3.

[300]. Đọc thêm Kim Ngọc Bảo Tỷ, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội 2009, tr 36-37 và 160-165.

[301]. Về Tộc Hoa thành hình, xem tr 39 : 7.1.1a.

[302]. Permanent Court of Arbitration, PCA Case Nº 2013-19, The South China Sea Arbitration Award of 12 July 2016. - Tòa xét rằng không có bằng chứng lịch sử hiển nhiên nào chứng tỏ Trung Quốc đã hành xử chủ quyền trên vùng nước và tài nguyên trong vùng Đường 9 Đoạn.


Tags: BIÊN KHẢO
Tags: TÁC GIẢ
Tags: TÁC PHẨM
Tags: THAM KHẢO

Đăng nhận xét

Tin liên quan