SỐ ĐẶC BIỆT THÁNG 1-2025 TẾT ẤT TỴ KÍNH GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TÁC PHẨM GIÁ TRỊ CỦA KQ PHẠM VĂN BẢN
SỐ ĐẶC BIỆT THÁNG 1-2025 TẾT ẤT TỴ KÍNH GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TÁC PHẨM GIÁ TRỊ CỦA KQ PHẠM VĂN BẢN
********
Tiểu Sử
PHẠM VĂN BẢN
Phạm Văn Bản là Trung Úy Hoa Tiêu thuộc Phi Đoàn
Thần Báo 520, Sư Đoàn 4 Không Quân VNCH, đã tốt nghiệp khóa Phi Hành của Trung
Tâm Huấn Luyện Sheppard AFB, Texas từ năm 1971 tới năm 1973. Sau Tháng Tư Đen
1975, tôi bị tù cải tạo 7 năm, tới tháng 3 năm 1982 thì được thả tù về nhà ở
khu dinh điền Cái Sắn, Kiên Giang, và một tháng sau tôi cùng vợ con xuống thuyền
vượt biên.
Sau 3 ngày 4 đêm trên hải trình, gia đình tôi được
ơn Quốc Tổ, Hồn Thiêng Sông Núi và Anh Linh Dân Tộc phù trợ, nên tới Klong Yai
và gặp phái đoàn Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc ở Thái Lan đón nhận, rồi lập thủ
tục cho gia đình tôi định cư ở Everett, Washington State vào tháng 8 năm 1984.
Tới Hoa Kỳ, vì nhu cầu thời sự chính trị quốc tế
chuyển đổi, tôi đã nhận nhiệm vụ Ủy Viên Tổ Chức và Liên Lạc cho Liên Minh Toàn
Dân Việt Nam Quốc Gia mà cựu Chủ Tịch Lưỡng Viện Quốc Hội VNCH Trần Văn Lắm là
Chủ Tịch. Tới khi đảng cộng sản Liên Âu tan rã, nhưng hoạt động của tổ chức
Liên Minh Toàn Dân không thành công, bởi thế mà tôi quyết định trở lại học đường
và đi học.
Sau năm 1994, tôi vào đại học và cao học trong 10
năm để lấy các bằng cấp của chương trình cử nhân và cao học giáo dục Hoa Kỳ; đồng
thời tôi cũng được nhận làm việc toàn thời trong Thư Viện của trường về công tác
tham khảo những tài liệu sách báo cộng đồng. Tôi lại có dịp đọc vài trăm nghìn
tác phẩm của nhiều tác giả, sau đó tôi viết thành những bài luận văn nộp cho
thày cô trong chương trình nghiên cứu của học đường.
Tới ngày tốt nghiệp tôi được hãng thiết kế phi cơ
hàng không dân sự của công ty Boeing ở Everett tuyển chọn tôi vào làm việc toàn
thời và tôi là một Thuyết Trình Viên cho hãng (Keynote Speaker), cho tới 10 năm
phục vụ thì tôi làm đơn xin về hưu. Lúc này Boeing đúc kết những thành quả học
vấn và nghiên cứu của tôi – (Xin gởi đính kèm 6 giấy xác nhận về bằng cấp của
hãng Boeing để làm bằng chứng) –
Boeing đề nghị lưu giữ tôi ở lại tiếp tục làm việc,
và những phút nghỉ giải lao, tôi đã viết hoàn thành 2 tác phẩm đầu tay là CON
NGƯỜI THỜI ĐẠI: Đi Tìm Mùa Xuân Cho Dân Nước Việt Nam, sách gồm 14 Chương và
514 trang, bìa da in màu do nhà in Lulu ấn loát trang nhã, và có gởi E-Book để
giúp bạn đọc dễ dàng tìm hiểu.
Cuốn sách thứ hai là KINH: Cải Hóa Con Người và Xã
Hội, là tập Huấn Ca diễn tả nội dung Chính Thuyết Tiên Rồng của Tổ Tiên (Kinh
là Dân Tộc Kinh, Việt Nam) dày 280 trang, gồm có một nghìn câu thơ lục bát, được
đúc kết từ những câu truyện tích truyền khẩu trong Làng Xã Việt Nam xưa nay,
như nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp, nguyên lý Thân Thương của Trầu Cau, nguyên
lý Bình Đẳng của Chử Đồng, Lập Nước Tiết Liêu, Lập Làng An Tiêm, Lập Gia Vọng
Phu, Lập Thân Trương Chi, Sách Lược Giữ Nước Mỵ Châu và Sách Lược Cứu Nước Phù
Đổng.
2. Kinh: https://online.fliphtml5.com/ysvdf/gpaj/#p=1
3. AAS – Everett
Community Colledge
4. BA Human Service
and Education Grade: 4.0 Western Washington University
5. Med – Western
Washington University
6. Med Skill – Western
Washington University
7. MBA –
Organization Management – University Of Pheonix
8. Luật Khoa – Trường
Luật Khoa Sài Gòn... Con đường Duy Tân cây dài bóng mát!
Tết: Mừng Ngày Đầu
Năm
P
Phạm Văn Bản
Theo truyền thống của Dân Tộc Việt Nam, Tết là ngày mừng thời tiết ấm áp, mừng vận hành đều hòa trong sự luân lưu của đất trời, hay mừng nắng thuận mưa hòa trong năm, và mừng ngày đầu năm. Sở dĩ dân tộc Việt Nam chúng ta mừng mặt trời và mặt trăng, vì hai thiên thể này đang có ảnh hưởng trực tiếp và chi phối đời sống nông nghiệp quanh năm.
I. Lễ Tết
Nhưng niềm tin Việt lại chỉ ngừng ở dấu hiệu hiển linh, chớ Tổ Tiên chúng ta không bàn tán, không đi sâu, không tiến vào cuộc sống tâm linh, vào thế giới vĩnh hằng, hay luận bàn về bản tính của các đối tượng thuộc về thế giới siêu linh như các tôn giáo hiện hành. Do đó, Tổ Tiên Việt Nam luôn nhắc nhở con cháu rằng, “Chỉ thấy con người, và chỉ lấy con người làm tiêu chuẩn căn bản trong đời sống để nhận diện, để định nghĩa, để đo lường hay để so sánh!” Đây chính là nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp sống thực của toàn thể mọi người chúng ta là “Đừng để vật chất làm định nghĩa, làm ảnh hưởng, làm chia rẽ hay làm ngăn cách con người như nhiều văn hóa khác.”
II. Ý Nghĩa Lễ Tết
Ngay từ nghìn xưa dân tộc ta đã đặt Tết vào một địa vị chính yếu trong nếp sống Việt, và mọi sinh hoạt xã hội cũng được tính theo lễ tết. Đại chúng Việt luôn lấy Tết làm mốc thời gian để sắp xếp cho mọi công việc dự liệu trong năm.
III. Đối Tượng Lễ Tết
1. Văn Hóa Việt Nam
Văn hóa là nhận diện
con người qua cuộc sống và Lễ Tết Dân Tộc, tập trung quanh cuộc sống con người.
Và như thế, đối tượng niềm tin dân tộc là tự giới hạn nơi cuộc sống con người.
Trong văn hóa Việt, giá trị cuộc sống của con người không được quy định bằng quyền lực, bằng chức tước, bằng giàu sang uy thế… cũng không bằng tài năng, nghề nghiệp, dòng họ, khoa bảng bằng cấp, hay bất cứ gì ngoài con người, mà trên việc con người thể hiện chính mình một cách trọn vẹn.
Dù cho quyền chức có cao trọng tột bậc tới đâu chăng nữa, thì cũng không được chia đất phong tước truyền đời. Tất cả các vị hoàng đế đương triều của dân Việt cũng không có tài sản riêng. Tất cả là của dân nước, đều được điều hành theo quy chế tài sản quốc gia.
Vua quan ta chỉ được quyền xử dụng để làm phương tiện mà chu toàn nhiệm vụ. Chính sách quyền chức của Việt Nam xưa nay đã thể hiện việc tạo hạnh phúc làm người, vừa cho chính mình, vừa cho những người khác, trong cuộc sống cá nhân cũng như xã hội, quê hương dân nước.
Giá trị cuộc sống của con người, chính là ảnh hưởng hạnh phúc của người đó đối với những người xung quanh. Trong cuộc sống, ai làm cho người cùng hưởng hạnh phúc làm người với mình, qua chính mình, thì người đó càng được quý trọng hơn.
Và xã hội ta lại được biểu trưng bằng nguyên lý Một Bọc Trăm Con, cho nên từ đó cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng là một cái bọc chứa những người anh em khác. Rồi tùy theo sức chứa ấy, tức là tùy theo tầm độ hữu ích mà người ấy thể hiện được chính mình, đáng thương, đáng quý và đáng trọng.
2. Niềm Tin Việt Nam
Niềm tin phổ quát và sâu xa nhất của người dân Việt là niềm tin vào Ông Trời, Đấng Tạo Hóa, Đấng Sáng Tạo vũ trụ, mà cũng là Đấng trực tiếp liên hệ với cuộc sống của con người. Bởi đó nếp sống Việt bộc lộ niềm tin này như một sự hiển nhiên.
IV. Diễn Đạt Lễ Tết
Tuy nhiên ý nghĩa và tầm độ của việc thờ kính này lại thay đổi tùy theo đối tượng. Không ai trong chúng ta lại lẫn lộn các tầm độ cao quý, tâm thành và thiết yếu, giữa thờ trời và thờ tổ tiên, thờ cha mẹ… Và không người Việt nào lại dám coi tổ tiên là đấng tạo hóa toàn năng.
Nền tảng Tết là lòng
thành, tức là lòng tin tưởng, ngưỡng mộ, và sùng bái của con người. Nghi thức lễ
tế cũng là phương tiện diễn đạt và tăng triển lòng thành. Vì vậy các dạng thức
diễn tả bên ngoài của nghi thức cũng là phần thiết yếu để bộc lộ niềm tin.
V. Ngày Mùng 5 Tết: “Đại Lễ Kính Trời!”
1. Đạo Thờ Thiên (Thờ
Trời)
Thờ kính Đấng Sáng Tạo vũ trụ là niềm tin nền tảng của người dân Việt. Qua mọi thời đại, văn hóa Việt đã lấy trời, mệnh trời, ý trời, luật Trời làm nguồn gốc, làm mẫu mực cho mọi sinh hoạt con người. Cuộc sống của mỗi người, của mỗi nhà, của mỗi làng, và của cả nước đều lấy Ơn Trời làm gốc.
2. Tư Tưởng Dân Việt
Trong nếp sống của thời đại nông nghiệp ngày trước, trong những ngày Hội lớn thường có các cuộc thi và trò vui như: thi đồ xôi, nấu cơm, làm bánh, dọn tiệc, dệt vải, may quần áo… đốt pháo, rước đuốc, bơi thuyền, sáo diều, treo đèn, kéo chữ… làm thơ, hát chèo, hát đúm, hát quan họ, hát trống quân… ca múa, múa xòe, múa rối… đánh vật, đánh phất, đánh côn, leo giây, lao cầu, leo phao, đu tiên… chọi gà, chọi trâu, chém gà, chém lợn, đánh cá, bắt trạch, thả chim… đánh cờ, đánh bạc, xóc đĩa, tổ tôm, bài chòi…
Một lần nữa: Chúc Mừng Năm Mới!
Phạm Văn Bản
Xin kính chúc Quý Anh Chị và toàn gia một Năm Mới an khang - thịnh vượng
(206) 724-9947
*******
Tết: Mừng Ngày Đầu Năm
Phạm Văn Bản
Theo truyền thống của Dân Tộc Việt Nam, Tết là ngày mừng thời tiết ấm áp, mừng vận hành đều hòa trong sự luân lưu của đất trời, hay mừng nắng thuận mưa hòa trong năm, và mừng ngày đầu năm. Sở dĩ dân tộc Việt Nam chúng ta mừng mặt trời và mặt trăng, vì hai thiên thể này đang có ảnh hưởng trực tiếp và chi phối đời sống nông nghiệp quanh năm.
Và trước thềm Năm Mới, người viết xin kính chúc quý vị và quý bạn luôn luôn an khang và thịnh vượng. Chúc Mừng Năm Mới!
Chúc Mừng Năm Mới – khởi đầu của bài viết mới, khởi đầu của hành trang mới, khởi đầu của hy vọng mới, khởi đầu của tuần hoàn mới và khởi đầu của thời tiết mới... Tất cả đều mới, mới từ vạn vật cho chí mới tới con người, như lời tổ tiên thường nói: Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân (Đổi mới, mỗi ngày một mới, và phải luôn luôn đổi mới), đổi mới chính mình, trong đó con người của chúng ta được nhận diện là chính, là gốc của vũ trụ vạn vật.
Chúc Mừng Năm Mới – còn là ngày mừng sinh nhật chung của mọi người trong chúng ta. Mọi người mừng cho nhau thêm một tuổi, thêm sống lâu, thêm phúc đức, thêm kinh nghiệm, thêm Ơn Trời!
Tết còn là ngày đoàn tụ của con cháu với tổ tiên ông bà, với bạn hữu và thân bằng quyến thuộc để mỗi người chúng ta được sống trọn vẹn chính mình, và đã thể hiện hay bộc lộ qua những điều kiêng cữ nhằm tránh những bận rộn rắc rối hay phiền toái có thể làm cho mình buồn lòng.
I. Lễ Tết
Ở mọi thời mọi nơi, dân tộc nào thì họ cũng có lễ tết, và lễ tết là sự bộc lộ thuần nhiên tâm hồn của con người. Nhưng sự bộc lộ này, lại được văn hóa Việt đặt vào đúng vị trí quan trọng và thích đáng, trong đời sống của dân tộc Việt Nam.
Theo niềm tin Dân Tộc Việt Nam chúng ta có bốn ngày đại lễ, và Tết là một trong bốn ngày đại lễ của dân tộc.
Sở dĩ được gọi là đại lễ, vì đó là những ngày đặc biệt để chúng ta thờ kính tổ tiên của mỗi người, của gia đình, của dòng tộc và của dân tộc. Thờ kính các vị Thần Linh trực tiếp làm ơn ích cho chúng ta, trong đó phải kể tới Ông Trời (Chủ Trời – Thiên Chúa) là đấng nguồn sống, nguồn mạch tạo dựng ta toàn thể vũ trụ con người.
Nhưng niềm tin Việt lại chỉ ngừng ở dấu hiệu hiển linh, chớ Tổ Tiên chúng ta không bàn tán, không đi sâu, không tiến vào cuộc sống tâm linh, vào thế giới vĩnh hằng, hay luận bàn về bản tính của các đối tượng thuộc về thế giới siêu linh như các tôn giáo hiện hành. Do đó, Tổ Tiên Việt Nam luôn nhắc nhở con cháu rằng, “Chỉ thấy con người, và chỉ lấy con người làm tiêu chuẩn căn bản trong đời sống để nhận diện, để định nghĩa, để đo lường hay để so sánh!” Đây chính là nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp sống thực của toàn thể mọi người chúng ta là “Đừng để vật chất làm định nghĩa, làm ảnh hưởng, làm chia rẽ hay làm ngăn cách con người như nhiều văn hóa khác.”
Thờ kính Tổ Tiên trở thành niềm tin nền tảng sâu xa, và là tâm linh vững chắc nhất của mọi người dân Việt Nam chúng ta. Dầu còn sống hay đã khuất, Tổ Tiên của chúng ta luôn là những vị chẳng những trực tiếp cho chúng ta diễm phúc làm người, mà còn luôn yêu thương bảo bọc, luôn che chở phù trợ, luôn chia sẻ cuộc sống và luôn bảo vệ hạnh phúc cho từng người trong chúng ta.
Thờ kính Tổ Tiên còn nhắc nhở cho những người đang sống cần phải luôn ý thức về những ơn ích mà mình được thừa hưởng; đồng thời thúc đẩy người ấy phát huy sự nghiệp ân đức của dòng họ, của gia tộc, của dân tộc, của nhân loại. Do đó, Tết là ngày đoàn tụ gia đình, chẳng những, giữa những người đang sống mà còn đoàn tụ với Tổ Tiên, với sự hiện diện trong cách sống linh thiêng và hướng về con cháu dân tộc tương lai mai sau.
Đại lễ kính Tổ Tiên lại tăng thêm ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc lễ, khi được kết chung với Tết, với ngày đầu Xuân. Bởi thế, phong tục dân Việt dành suốt hai tuần lễ, từ 23 tháng chạp tới mùng 7 tháng giêng, để vừa kính nhớ Tổ Tiên, vừa đoàn tụ gia đình, mà cũng vừa mừng năm mới, mừng tuổi mới của từng người, và để mở đầu cho đời sống mới của dân tộc Việt.
II. Ý Nghĩa Lễ Tết
Ngay từ nghìn xưa dân tộc ta đã đặt Tết vào một địa vị chính yếu trong nếp sống Việt, và mọi sinh hoạt xã hội cũng được tính theo lễ tết. Đại chúng Việt luôn lấy Tết làm mốc thời gian để sắp xếp cho mọi công việc dự liệu trong năm.
Tết chẳng những là sinh hoạt đoàn tụ cho gia đình, cho làng xã, cho đất nước, mà còn là dịp tổ chức long trọng, và mang ý nghĩa nhất trong đời sống con người. Ngày lễ tết là những dịp họp mặt, ăn uống, vui chơi… mà còn để thực hiện một số công tác nhằm nâng cao đời sống xã hội Việt.
Tết thắt chặt thêm tình đồng bào, gắn bó với nhau, giúp nhau cảm thông, hoặc cùng nhau giải quyết những khó khăn trong cuộc sống chung việc làng, việc nước, nhằm tạo cho đời sống cộng đồng thêm hạnh phúc, an vui.
Tết giúp mọi người cùng nhau ôn lại công đức, gương sáng của Tổ Tiên. Tết là dịp nhắc nhở, sống thực những nguyên tắc nền tảng của cuộc sống, và những điểm chính yếu của Nếp Sống Việt. Tết giúp mỗi người chúng ta nhận định và điều chỉnh cuộc sống, để sống trọn vẹn cuộc sống làm người.
Tết cũng là dịp chúng ta giúp nhau tỏa rộng cuộc sống. Trong Tết, chúng ta lãnh nhận từ quá khứ, sống cho hiện tại, và lưu lại hậu thế mai sau. Chúng ta cũng thừa hưởng công đức của Tổ Tiên, và đóng góp thêm phần tài trí của mình, nhằm trao lại cho con cháu, chẳng những sản nghiệp, gương sáng, lời dạy dỗ, mà còn phúc đức, sự phù trợ, và nếp sống hạnh phúc toàn vẹn.
Tết là phương thức trực tiếp nung đúc tinh thần, củng cố niềm tin, sống thực Hồn Việt. Tết còn là dịp giúp chúng ta tạo thêm công phúc cho chính mình, cho dòng tộc, cho mọi người. Tết Dân Tộc là một phần trọng yếu trong cuộc sống của Con Người và Xã Hội Loài Người.
Bởi thế bất cứ loại giặc nào… nội xâm/ ngoại xâm… đều tìm và làm đủ cách để dân tộc Việt phải lãnh đạm mà từ bỏ Tết. Việc ngăn cấm Tết, chẳng những giặc đã thực hiện bằng luật pháp, bằng phương tiện truyền thông, mà còn bằng giáo dục qua những sinh hoạt xã hội đặt nền tảng trên thú vật/ máy móc, hay trên quyền lực/ tôn thờ lãnh tụ mà thay thế di ảnh Tổ Tiên nhằm tiến tới vô thức vô thần.
III. Đối Tượng Lễ Tết
1. Văn Hóa Việt Nam
Văn
hóa là nhận diện con người qua cuộc sống và Lễ Tết
Dân Tộc, tập trung quanh cuộc sống con người. Và như thế, đối tượng niềm tin
dân tộc là tự giới hạn nơi cuộc sống con người.
Trong cuộc sống thường ngày, niền tin dân Việt bộc lộ qua đạo sống Làm Việc Phúc Đức, với tiêu chuẩn thẩm định giá trị cuộc sống con người là dung độ đức hưởng, tức là tầm độ đem hạnh phúc đến cho người khác.
Trong văn hóa Việt, giá trị cuộc sống của con người không được quy định bằng quyền lực, bằng chức tước, bằng giàu sang uy thế… cũng không bằng tài năng, nghề nghiệp, dòng họ, khoa bảng bằng cấp, hay bất cứ gì ngoài con người, mà trên việc con người thể hiện chính mình một cách trọn vẹn.
Điểm quan trọng nhất là chính sách quyền chức của Việt Nam đã không có nhóm đặc quyền. Từ thời Vua Hùng, và qua suốt dòng lịch sử, vua quan ta không dựa vào quyền chức mà chiếm hữu tài sản. Đối với vua quan Việt, chức tước không mang lại đặc quyền vật chất.
Dù cho quyền chức có cao trọng tột bậc tới đâu chăng nữa, thì cũng không được chia đất phong tước truyền đời. Tất cả các vị hoàng đế đương triều của dân Việt cũng không có tài sản riêng. Tất cả là của dân nước, đều được điều hành theo quy chế tài sản quốc gia.
Vua quan ta chỉ được quyền xử dụng để làm phương tiện mà chu toàn nhiệm vụ. Chính sách quyền chức của Việt Nam xưa nay đã thể hiện việc tạo hạnh phúc làm người, vừa cho chính mình, vừa cho những người khác, trong cuộc sống cá nhân cũng như xã hội, quê hương dân nước.
Giá trị cuộc sống của con người, chính là ảnh hưởng hạnh phúc của người đó đối với những người xung quanh. Trong cuộc sống, ai làm cho người cùng hưởng hạnh phúc làm người với mình, qua chính mình, thì người đó càng được quý trọng hơn.
Và xã hội ta lại được biểu trưng bằng nguyên lý Một Bọc Trăm Con, cho nên từ đó cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng là một cái bọc chứa những người anh em khác. Rồi tùy theo sức chứa ấy, tức là tùy theo tầm độ hữu ích mà người ấy thể hiện được chính mình, đáng thương, đáng quý và đáng trọng.
Bất cứ ai, cũng có thể được tôn quý tùy theo sức chứa những người khác trong ảnh hưởng phúc đức của mình, tức tùy thuộc dung độ đức hưởng.
2. Niềm Tin Việt Nam
Niềm tin phổ quát và sâu xa nhất của người dân Việt là niềm tin vào Ông Trời, Đấng Tạo Hóa, Đấng Sáng Tạo vũ trụ, mà cũng là Đấng trực tiếp liên hệ với cuộc sống của con người. Bởi đó nếp sống Việt bộc lộ niềm tin này như một sự hiển nhiên.
Cũng trong niềm tin nền tảng của văn hóa Việt, là niềm tin vào sự trường cửu của Hồn Thiêng con người, đặc biệt vào sự vĩnh tồn linh thiêng, và độ trì gần gũi của Tổ Tiên. Linh thiêng và cao cả hơn hết, là Hai Vị Khởi Tổ (Tộc Tổ: Mẹ Tiên Cha Rồng) qua các 18 đời Thánh Vương Quốc Tổ vì luôn luôn độ trì cho Tộc Việt, cho con cháu.
Niềm tin này, đặc biệt tôn quý những Vị đã có cuộc sống cống hiến và giúp ích cho nhiều người. Tuy với tầm độ khác nhau, nhiều Vị đã được thờ làm Thành Hoàng, được nhiều người thờ kính, và tỏ hiển linh qua việc phù trợ cho dân chúng.
Cùng với Thành Hoàng, và cũng được quan niệm như Thành Hoàng, là một số Thiên Thần hiển linh tại Núi Thiêng Sông Linh. Tổ Tiên cũng phân biệt rõ ràng Vị Thần đang hiển linh trên cái núi, cái sông, cái biển… Cũng như những dân tộc khác, Tộc Việt lấy mặt trời làm tâm điểm cho mọi diễn biến của cuộc sống. Nhưng văn hóa Việt không hề có dấu vết phụng tự trái đất, hay mặt trời như những vị thần trong các văn hóa khác. Bởi vì quý, trọng, mừng thì khác nghĩa với phụng tự.
Có khuynh hướng cho rằng, niềm tin nêu trên là tin vơ thờ quấy? Xin thưa, trong bộ Tân Ước hay sách Khải Huyền (Apoc) của Thiên Chúa Giáo đã xác quyết là những thành phố có những Thiên Thần đặc trách… Và rồi Sách Phúc Âm cũng nhấn mạnh là mỗi người có một Thiên Thần Giữ Mình/ Thiên Thần Bản Mệnh và có lễ kính hàng năm vào ngày 2 tháng 10. Nhiều thánh đường và giáo xứ khắp nơi trên thế giới đều có Thiên Thần hoặc Nhân Thần, tức là Thánh làm Quan Thày, làm Thành Hoàng... Niềm tin Việt cũng đã có thời làm cho các nhà truyền giáo Tây phương phải kinh ngạc, sửng sốt, vì căn bản của Thiên Chúa giáo, tức là tôn giáo thờ Trời (Ông Trời, Chúa Trời, Chủ Trời).
Và rồi Hồn Thiêng Dân Tộc, Hồn Thiêng của Tổ Tiên, Các Ngài đã qua đi, nhưng Hồn Thiêng của Các Ngài vẫn vĩnh tồn ở thế giới bên kia và phù trợ cho con cháu. Bởi đó, Hồn Nước là tinh thần dân tộc, là truyền thống dân tộc, hướng dẫn mọi người trong nước hành động hữu hiệu cho lợi ích chung của toàn dân.
IV. Diễn Đạt Lễ Tết
1. Văn Hóa Dân Việt
Văn hóa này là kết tinh của nhận diện cuộc sống con người qua bộc lộ hiện thực trong cuộc sống.
Do đó cách diễn tả sự liên lạc giữa con người với mọi hiện hữu, kể cả với thế giới siêu linh, thế giới bên kia, cũng đều căn cứ và khuôn rập theo cách bộc lộ của cuộc sống hiện tại. Người đang sống cứ theo cách tốt đẹp nhất của dương gian này mà kính nhớ vị khuất mặt, vị khuất núi… Dương sao âm vậy!
Niềm tin được bộc lộ qua sinh hoạt thường ngày của người dân Việt, qua việc mừng Lễ Tết, và đặc biệt qua Nghi Thức Lễ Tế.
Trong ngôn ngữ Việt, chữ thờ và chữ kính được dùng lẫn lộn nhau, và có cùng một nghĩa. Ca dao Việt Nam: “Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ cũng là đi tu,” hay “Một lòng thờ mẹ kính cha…”
Tuy nhiên ý nghĩa và tầm độ của việc thờ kính này lại thay đổi tùy theo đối tượng. Không ai trong chúng ta lại lẫn lộn các tầm độ cao quý, tâm thành và thiết yếu, giữa thờ trời và thờ tổ tiên, thờ cha mẹ… Và không người Việt nào lại dám coi tổ tiên là đấng tạo hóa toàn năng.
2. Nền Tảng Tết Việt
Nền
tảng Tết là lòng thành, tức là lòng tin tưởng, ngưỡng
mộ, và sùng bái của con người. Nghi thức lễ tế cũng là phương tiện diễn đạt và
tăng triển lòng thành. Vì vậy các dạng thức diễn tả bên ngoài của nghi thức
cũng là phần thiết yếu để bộc lộ niềm tin.
Nghi thức đã đi vào cuộc sống hằng ngày. Dân Việt chúng ta thường bày tỏ lòng kính quý, yêu mến, úy phục bằng cách cúi đầu, cất nón… và dùng những từ ngữ thanh tao, hay những kiêng cữ đặc biệt.
V. Ngày Mùng 5 Tết: “Đại Lễ Kính Trời!”
1. Đạo Thờ Thiên (Thờ Trời)
Thờ kính Đấng Sáng Tạo vũ trụ là niềm tin nền tảng của người dân Việt. Qua mọi thời đại, văn hóa Việt đã lấy trời, mệnh trời, ý trời, luật Trời làm nguồn gốc, làm mẫu mực cho mọi sinh hoạt con người. Cuộc sống của mỗi người, của mỗi nhà, của mỗi làng, và của cả nước đều lấy Ơn Trời làm gốc.
Sân trước mỗi nhà đều có bàn thờ Ông Thiên, để thờ Trời. Trong nước, hàng năm đều có cử hành Lễ Tế Trời rất trọng thể, do vua tế tại thủ đô và quan tế tại các tỉnh.
Lễ Tế Trời được tổ chức đặc biệt quan trọng vào ngày mùng 5 Tết, để mọi người cùng nhau cử hành một đại lễ của dân tộc, đúng truyền thống tổ tiên, đúng phẩm giá và trọn vẹn con người.
2. Tư Tưởng Dân Việt
Hiện nay người dân Việt Nam chúng ta, chẳng những là cần loại bỏ những gán ghép thừa thãi của giặc nhằm tiêu diệt tinh hoa tư tưởng dân tộc, mà còn cần phải diễn giải ý nghĩa và giá trị đích thực của Tết theo ngôn ngữ và cách diễn đạt phù hợp thời đại mới – Thời Đại Tín Nghiệp (Information Age).
Cần nhiều sáng kiến thích đáng, và xử dụng những tuyệt kỹ của các bộ môn nghệ thuật, kỹ thuật, và phương tiện truyền thông, để luôn biến đổi dạng thức trình bày sao cho thích hợp, chẳng những với từng lứa tuổi, với từng hạng người, mà còn với cảm nhận, và hoàn cảnh sinh hoạt phù hợp thời đại mới, chớ không như thời đại nông nghiệp và công nghiệp đã qua!
Trong nếp sống của thời đại nông nghiệp ngày trước, trong những ngày Hội lớn thường có các cuộc thi và trò vui như: thi đồ xôi, nấu cơm, làm bánh, dọn tiệc, dệt vải, may quần áo… đốt pháo, rước đuốc, bơi thuyền, sáo diều, treo đèn, kéo chữ… làm thơ, hát chèo, hát đúm, hát quan họ, hát trống quân… ca múa, múa xòe, múa rối… đánh vật, đánh phất, đánh côn, leo giây, lao cầu, leo phao, đu tiên… chọi gà, chọi trâu, chém gà, chém lợn, đánh cá, bắt trạch, thả chim… đánh cờ, đánh bạc, xóc đĩa, tổ tôm, bài chòi…
Ngày nay, chúng ta lại cần nhiều sáng tạo đặc biệt hấp dẫn, ứng hợp với cuộc sống tràn ngập kỹ thuật tốc độ, điện tử, truyền thông trong thời đại tín nghiệp sắp tới. Chúng ta cần luôn sống động hiện thực, vì khi nào trở thành chiếu lệ, lập lại khuôn thức cũ… là thiếu sức sống, lỗi thời và lạc hậu.
VI. Kết Luận
Hành trang mới, có như thế Tết mới trở thành một hệ thống giáo dục hữu hiệu, giúp cho toàn thể mọi người học hỏi và sống thực với tâm hồn, phát triển tâm tuệ, đem tinh hoa văn hóa dân tộc hay còn gọi là Chính Thuyết Tiên Rồng vào cuộc sống thường ngày của từng cá nhân, cũng như của toàn dân và của toàn thể nhân loại.
Một lần nữa: Chúc Mừng Năm Mới!
Phạm Văn Bản
******
Tết 2
Phạm Văn Bản
Theo truyền thống dân Việt, Tết là ngày mừng thời tiết ấm áp, mừng vận hành đều hòa trong sự luân lưu của đất trời, hay mừng nắng thuận mưa hòa trong năm. Sở dĩ dân Việt chúng ta mừng mặt trời mặt trăng, vì hai thiên thể đó có ảnh hưởng trực tiếp và chi phối đời sống nông nghiệp quanh năm. Và trước thềm Năm Mới, người viết xin kính chúc quý vị và các bạn luôn an khang và thịnh vượng, trong câu Chúc Mừng Năm Mới!
Chúc Mừng Năm Mới – khởi đầu của bài viết mới, khởi đầu của hành trang mới, khởi đầu của hy vọng mới, tuần hoàn mới, thời tiết mới... Tất cả đều mới, mới từ vạn vật cho chí mới tới con người, như lời người xưa thường nói: Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân (Đổi mới, mỗi ngày một mới, phải luôn đổi mới) mà trong đó con người của chúng ta được nhận là chính, là gốc của vũ trụ vạn vật.
Chúc Mừng Năm Mới – còn là ngày mừng sinh nhật chung của mọi người trong chúng ta. Mọi người mừng cho nhau thêm một tuổi, thêm sống lâu, thêm nhân đức, thêm kinh nghiệm, thêm Ơn Trời!
Tết còn là ngày đoàn tụ của con cháu với tổ tiên ông bà, với bạn hữu và thân bằng quyến thuộc để mỗi người chúng ta được sống trọn vẹn chính mình, và đã thể hiện hay bộc lộ qua những điều kiêng cữ nhằm tránh những bận rộn rắc rối hay phiền toái có thể làm cho mình buồn lòng.
1. Lễ Tết
P
Ở mọi thời mọi
nơi, dân tộc nào thì họ cũng có lễ tết, và lễ tết là sự bộc lộ thuần nhiên tâm
hồn của con người. Nhưng sự bộc lộ này, lại được văn hóa Việt đặt vào đúng vị
trí quan trọng và thích đáng, trong đời sống của dân tộc Việt Nam.
Theo niềm tin dân Việt, chúng ta có bốn ngày đại lễ, và Tết là một trong bốn ngày đại lễ dân tộc. Sở dĩ được gọi là đại lễ, vì đó là những ngày đặc biệt để chúng ta thờ kính tổ tiên của mỗi người, của dòng tộc, của dân tộc. Thờ kính các vị Thần Linh trực tiếp làm ơn ích cho chúng ta, trong đó phải kể tới Ông Trời (Thiên Chúa) là đấng nguồn sống của toàn thể vũ trụ.
Nhưng niềm tin Việt lại chỉ ngừng ở dấu hiệu hiển linh, chớ tổ tiên ta không bàn tán, không đi sâu vào cuộc sống tâm linh, thế giới vĩnh hằng, hay bản tính của các đối tượng thuộc về thế giới siêu linh như các tôn giáo. Do đó, Tổ Tiên Việt luôn nhắc nhở con cháu rằng “Chỉ thấy con người, và chỉ lấy con người làm tiêu chuẩn căn bản trong đời sống!”
Thờ kính Tổ Tiên trở thành niềm tin nền tảng sâu xa, và là tâm linh vững chắc nhất của người dân Việt. Dầu còn sống hay đã khuất, Tổ Tiên của chúng ta luôn là những vị chẳng những đã trực tiếp cho chúng ta diễm phúc làm người, mà còn luôn yêu thương bảo bọc, che chở phù trợ, chia sẻ cuộc sống với từng người trong chúng ta.
Thờ kính Tổ Tiên còn nhắc nhở cho những người đang sống cần phải luôn ý thức về những ơn ích mà mình được thừa hưởng; đồng thời, thúc đẩy người ấy phát huy sự nghiệp ân đức của dòng họ, của gia tộc, của dân tộc. Do đó, Tết là ngày đoàn tụ gia đình, chẳng những, giữa những người đang sống mà còn đoàn tụ với Tổ Tiên, với sự hiện diện trong cách sống linh thiêng và hướng về con cháu dân tộc tương lai mai sau.
Đại lễ kính Tổ Tiên lại tăng thêm ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc lễ, khi được kết chung với Tết, với ngày đầu Xuân. Bởi thế, phong tục dân Việt dành suốt hai tuần lễ, từ 23 tháng chạp tới mùng 7 tháng giêng, để vừa kính nhớ Tổ Tiên, vừa đoàn tụ gia đình, mà cũng vừa mừng năm mới, mừng tuổi mới của từng người, và để mở đầu cho đời sống mới của dân tộc Việt.
2. Ý Nghĩa Lễ Tết
P
Ngay từ nghìn
xưa dân tộc ta đã đặt Tết vào một địa vị chính yếu trong nếp sống Việt, và mọi
sinh hoạt xã hội cũng được tính theo lễ tết. Đại chúng Việt luôn lấy Tết làm mốc
thời gian để sắp xếp cho mọi công việc dự liệu trong năm.
Tết chẳng những là sinh hoạt đoàn tụ cho gia đình, cho làng xã, cho đất nước, mà còn là dịp tổ chức long trọng, và mang ý nghĩa nhất trong đời sống con người. Ngày lễ tết là những dịp họp mặt, ăn uống, vui chơi… mà còn để thực hiện một số công tác nhằm nâng cao đời sống xã hội Việt.
Tết thắt chặt thêm tình đồng bào, gắn bó với nhau, giúp nhau cảm thông, hoặc cùng nhau giải quyết những khó khăn trong cuộc sống chung việc làng, việc nước, nhằm tạo cho đời sống cộng đồng thêm hạnh phúc, an vui.
Tết giúp mọi người cùng nhau ôn lại công đức, gương sáng của Tổ Tiên. Tết là dịp nhắc nhở, sống thực những nguyên tắc nền tảng của cuộc sống, và những điểm chính yếu của Nếp Sống Việt. Tết giúp mỗi người chúng ta nhận định và điều chỉnh cuộc sống, để sống trọn vẹn cuộc sống làm người.
Tết cũng là dịp chúng ta giúp nhau tỏa rộng cuộc sống. Trong Tết, chúng ta lãnh nhận từ quá khứ, sống cho hiện tại, và lưu lại hậu thế mai sau. Chúng ta cũng thừa hưởng công đức của Tổ Tiên, và đóng góp thêm phần tài trí của mình, nhằm trao lại cho con cháu, chẳng những sản nghiệp, gương sáng, lời dạy dỗ, mà còn phúc đức, sự phù trợ, và nếp sống hạnh phúc toàn vẹn.
Tết là phương thức trực tiếp nung đúc tinh thần, củng cố niềm tin, sống thực Hồn Việt. Tết còn là dịp giúp chúng ta tạo thêm công phúc cho chính mình, cho dòng tộc, cho mọi người. Tết Dân Tộc là một phần trọng yếu trong cuộc sống của Con Người và Xã Hội Loài Người.
Bởi thế bất cứ loại giặc nào… nội xâm/ ngoại xâm… đều tìm và làm đủ cách để dân tộc Việt phải lãnh đạm mà từ bỏ Tết. Việc ngăn cấm Tết, chẳng những giặc đã thực hiện bằng luật pháp, bằng phương tiện truyền thông, mà còn bằng giáo dục qua những sinh hoạt xã hội đặt nền tảng trên thú vật/ máy móc, hay trên quyền lực/ tôn thờ lãnh tụ mà thay thế di ảnh Tổ Tiên nhằm tiến tới vô thức vô thần.
3. Đối Tượng Lễ Tết
a. Văn hóa Việt nhận diện con người qua cuộc sống và Lễ Tết Dân Tộc, tập trung quanh cuộc sống con người. Và như thế, đối tượng niềm tin dân tộc là tự giới hạn nơi cuộc sống con người.
Trong cuộc sống thường ngày, niền tin dân Việt bộc lộ qua đạo sống Làm Việc Phúc Đức, với tiêu chuẩn thẩm định giá trị cuộc sống con người là dung độ đức hưởng, tức là tầm độ đem hạnh phúc đến cho người khác.
Trong văn hóa Việt, giá trị cuộc sống của con người không được quy định bằng quyền lực, bằng chức tước, bằng giàu sang uy thế… cũng không bằng tài năng, nghề nghiệp, dòng họ, khoa bảng bằng cấp, hay bất cứ gì ngoài con người, mà trên việc con người thể hiện chính mình một cách trọn vẹn.
Điểm quan trọng nhất là chính sách quyền chức của Việt Nam đã không có nhóm đặc quyền. Từ thời Vua Hùng, và qua suốt dòng lịch sử, vua quan ta không dựa vào quyền chức mà chiếm hữu tài sản. Đối với vua quan Việt, chức tước không mang lại đặc quyền vật chất.
Dù cho quyền chức có cao trọng tột bậc tới đâu chăng nữa, thì cũng không được chia đất phong tước truyền đời. Tất cả các vị hoàng đế đương triều của dân Việt cũng không có tài sản riêng. Tất cả là của dân nước, đều được điều hành theo quy chế tài sản quốc gia.
Vua quan ta chỉ được quyền xử dụng để làm phương tiện mà chu toàn nhiệm vụ. Chính sách quyền chức của Việt Nam xưa nay đã thể hiện việc tạo hạnh phúc làm người, vừa cho chính mình, vừa cho những người khác, trong cuộc sống cá nhân cũng như xã hội, quê hương dân nước.
Giá trị cuộc sống của con người, chính là ảnh hưởng hạnh phúc của người đó đối với những người xung quanh. Trong cuộc sống, ai làm cho người cùng hưởng hạnh phúc làm người với mình, qua chính mình, thì người đó càng được quý trọng hơn. Và xã hội ta lại được biểu trưng bằng Một Bọc Trăm Con, nên cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng là một cái bọc chứa những người anh em khác. Rồi tùy theo sức chứa ấy, tức là tùy theo tầm độ hữu ích mà người ấy thể hiện được chính mình, đáng quý đáng trọng.
Bất cứ ai, cũng có thể được tôn quý tùy theo sức chứa những người khác trong ảnh hưởng phúc đức của mình, tức tùy thuộc dung độ đức hưởng.
b. Niềm tin phổ quát và sâu xa nhất của người dân Việt là niềm tin vào Ông Trời, Đấng Tạo Hóa, Đấng Sáng Tạo vũ trụ, mà cũng là Đấng trực tiếp liên hệ với cuộc sống của con người. Bởi đó nếp sống Việt bộc lộ niềm tin này như một sự hiển nhiên.
Cũng trong niềm tin nền tảng của văn hóa Việt, là niềm tin vào sự trường cửu của Hồn Thiêng con người, đặc biệt vào sự vĩnh tồn linh thiêng, và độ trì gần gũi của Tổ Tiên. Linh thiêng và cao cả hơn hết, là Hai Vị Khởi Tổ (Tộc Tổ: Mẹ Tiên Cha Rồng) vì luôn luôn độ trì cho Tộc Việt, cho con cháu.
Niềm tin này, đặc biệt tôn quý những Vị đã có cuộc sống cống hiến và giúp ích cho nhiều người. Tuy với tầm độ khác nhau, nhiều Vị đã được thờ làm Thành Hoàng, được nhiều người thờ kính, và tỏ hiển linh qua việc phù trợ cho dân chúng.
Cùng với Thành Hoàng, và cũng được quan niệm như Thành Hoàng, là một số Thiên Thần hiển linh tại Núi Thiêng Sông Linh. Tổ Tiên cũng phân biệt rõ ràng Vị Thần đang hiển linh trên cái núi, cái sông, cái biển… Cũng như những dân tộc khác, Tộc Việt lấy mặt trời làm tâm điểm cho mọi diễn biến của cuộc sống. Nhưng văn hóa Việt không hề có dấu vết phụng tự trái đất, hay mặt trời như những vị thần trong các văn hóa khác. Bởi vì quý, trọng, mừng thì khác nghĩa với phụng tự.
Có khuynh hướng cho rằng, niềm tin nêu trên là tin vơ thờ quấy? Xin thưa, trong bộ Tân Ước hay sách Khải Huyền (Apoc) của Thiên Chúa Giáo đã xác quyết là những thành phố có những Thiên Thần đặc trách…
Và rồi Sách Phúc Âm cũng nhấn mạnh là mỗi người có một Thiên Thần Giữ Mình/ Thiên Thần Bản Mệnh và có lễ kính hàng năm vào ngày 2 tháng 10. Nhiều thánh đường và giáo xứ khắp nơi trên thế giới đều có Thiên Thần hoặc Nhân Thần, tức là Thánh làm Quan Thày, làm Thành Hoàng... Niềm tin Việt cũng đã có thời làm cho các nhà truyền giáo Tây phương phải kinh ngạc, sửng sốt, vì căn bản của Thiên Chúa giáo, tức là tôn giáo thờ Trời (Ông Trời, Chúa Trời, Chủ Trời).
Và rồi Hồn Thiêng Dân Tộc, Hồn Thiêng của Tổ Tiên, Các Ngài đã qua đi, nhưng Hồn Thiêng của Các Ngài vẫn vĩnh tồn ở thế giới bên kia và phù trợ cho con cháu. Bởi đó, Hồn Nước là tinh thần dân tộc, là truyền thống dân tộc, hướng dẫn mọi người trong nước hành động hữu hiệu cho lợi ích chung của toàn dân.
4. Diễn Đạt Lễ Tết
a. Văn hóa Việt là kết tinh của nhận diện cuộc sống con người qua bộc lộ hiện thực trong cuộc sống.
Do đó cách diễn tả sự liên lạc giữa con người với mọi hiện hữu, kể cả với thế giới siêu linh, thế giới bên kia, cũng đều căn cứ và khuôn rập theo cách bộc lộ của cuộc sống hiện tại. Người đang sống cứ theo cách tốt đẹp nhất của dương gian này mà kính nhớ vị khuất mặt, vị khuất núi… Dương sao âm vậy!
Niềm tin được bộc lộ qua sinh hoạt thường ngày của người dân Việt, qua việc mừng Lễ Tết, và đặc biệt qua Nghi Thức Lễ Tế.
Trong ngôn ngữ Việt, chữ thờ và chữ kính được dùng lẫn lộn nhau, và có cùng một nghĩa. Ca dao Việt Nam: “Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ cũng là đi tu.” Hay “Một lòng thờ mẹ kính cha”…
Tuy nhiên, ý nghĩa và tầm độ của việc thờ kính này lại thay đổi tùy theo đối tượng. Không ai trong chúng ta lại lẫn lộn các tầm độ cao quý, tâm thành và thiết yếu, giữa thờ trời và thờ tổ tiên, thờ cha mẹ… Và không người Việt nào lại dám coi tổ tiên là đấng tạo hóa toàn năng.
b. Nền tảng của Tết là lòng thành, tức là lòng tin tưởng, ngưỡng mộ, và sùng bái của con người. Nghi thức lễ tế cũng là phương tiện diễn đạt và tăng triển lòng thành. Vì vậy các dạng thức diễn tả bên ngoài của nghi thức cũng là phần thiết yếu để bộc lộ niềm tin.
Nghi thức đã đi vào cuộc sống hằng ngày. Dân Việt chúng ta thường bày tỏ lòng kính quý, yêu mến, úy phục bằng cách cúi đầu, cất nón… và dùng những từ ngữ thanh tao, hay những kiêng cữ đặc biệt.
5. Mùng 5 Tết: Ngày Đại Lễ Kính Trời
a. Thờ Trời, Đấng sáng tạo vũ trụ, là niềm tin nền tảng của người dân Việt. Qua mọi thời đại, văn hóa Việt đã lấy trời, mệnh trời, ý trời… làm nguồn gốc, làm mẫu mực cho mọi sinh hoạt con người. Cuộc sống của mỗi người, của mỗi nhà, của mỗi làng, và của cả nước đều lấy ơn trời làm gốc.
Sân trước mỗi nhà đều có bàn Ông Thiên, để thờ Trời. Trong nước, hàng năm đều có cử hành Lễ Tế Trời rất trọng thể, do vua tế tại thủ đô và quan tế tại các tỉnh.
Lễ Tế Trời được tổ chức đặc biệt quan trọng vào ngày mùng 5 Tết, để mọi người cùng nhau cử hành một đại lễ của dân tộc, đúng truyền thống tổ tiên, đúng phẩm giá và trọn vẹn con người.
b. Sáng Kiến Thích Hợp. Vấn đề hiện nay của người dân Việt chúng ta, chẳng những là loại bỏ những gán ghép thừa thãi của giặc nhằm tiêu diệt tinh hoa tư tưởng dân tộc, mà còn cần phải diễn giải ý nghĩa và giá trị đích thực của Tết theo ngôn ngữ và cách diễn đạt hợp thời.
Cần nhiều sáng kiến thích đáng, và xử dụng những tuyệt kỹ của các bộ môn nghệ thuật, kỹ thuật, và phương tiện truyền thông, để luôn biến đổi dạng thức trình bày sao cho thích hợp, chẳng những với từng lứa tuổi, với từng hạng người, mà còn với cảm nhận, và hoàn cảnh sinh hoạt thời đại.
Trong nếp sống thời trước, ngày Hội thường có các cuộc thi và trò vui như: thi đồ xôi, nấu cơm, làm bánh, dọn tiệc, dệt vải, may quần áo… đốt pháo, rước đuốc, bơi thuyền, sáo diều, treo đèn, kéo chữ… làm thơ, hát chèo, hát đúm, hát quan họ, hát trống quân… ca múa, múa xòe, múa rối… đánh vật, đánh phất, đánh côn, leo giây, lao cầu, leo phao, đu tiên… chọi gà, chọi trâu, chém gà, chém lợn, đánh cá, bắt trạch, thả chim… đánh cờ, đánh bạc, xóc đĩa, tổ tôm, bài chòi…
Ngày nay, chúng ta lại cần nhiều sáng tạo đặc biệt hấp dẫn, ứng hợp với cuộc sống tràn ngập kỹ thuật tốc độ, điện tử, truyền thông… Chúng ta cần luôn sống động hiện thực, vì khi nào trở thành chiếu lệ, lập lại khuôn thức cũ… là thiếu sức sống, lỗi thời và lạc hậu.
6. Kết Luận
Hành trang mới, có như thế Tết mới trở thành một hệ thống giáo dục hữu hiệu, giúp cho toàn thể mọi người học hỏi và sống thực với tâm hồn, phát triển tâm tuệ, đem tinh hoa văn hóa dân tộc vào cuộc sống thường ngày của từng cá nhân, cũng như của toàn dân và của mọi người.
Một lần nữa: Chúc Mừng Năm Mới!
Phạm Văn Bản
Bốn Truyện Sống Thực
4. Truyền Thuyết Tiết Liêu
Nguyên Lý Lập Nước
**
Phạm Văn Bản
Thứ tư: Tình Nước sáng tươi
Tiết Liêu – bài học Con Người An Dân
Làng giàu nước đẹp phải cần
[360] Mẫu người tài đức giúp dân thái hòa
Vua Hùng – thánh chỉ ban ra
Cúng dâng lễ vật thì là truyền ngôi
Và rồi khắp chốn xa xôi
Ðã bao hoàng tử nổi trôi đi tìm
[365] Tiết Liêu vốn tính lặng im
Suốt ngày quanh quẩn chẳng tìm đâu xa
Một hôm chàng gặp Cụ Gìa
Dạy làm kiểu bánh đậm đà hương say
Bánh chưng cùng với bánh dày
[370] Chế từ lúa gạo - thường ngày nuôi dân
Rồi chàng luyện tập chuyên cần
Dâng lên của lễ - xứng phần làm vua
Từ đây lễ tết đầu mùa
Dày Chưng – là bánh tiến đưa bàn thờ
[375] Có ai đã mấy khi ngờ
Việc vua việc nước – cần nhờ sứ nhân
Nước ngoài – văn hóa chỉ cần
Mẫu người cai trị thông phần dụng binh
Giết người cướp của mặc tình
[380] Miễn tranh vương gỉa – điển hình sử xanh
Nhưng nền Ðạo Việt tinh anh
Phải tìm lễ vật – mới dành ngôi vua
Khởi công bài học thi đua
Nhờ ơn Tộc Tổ – làm vua phải cần
[385] Mang ra giáo hóa toàn dân
Tri ân thủ nghĩa – góp phần dựng xây
Non sông trăm họ xum vầy
Cùng nhau ăn qủa – nhớ cây người trồng
Vẫn theo tiêu chuẩn nghĩa công
[390] Ông bà nhắc chuyện Tiên Rồng với câu
Long Quân Thánh Tổ – nhiệm mầu
Khi cần thì gọi – nơi đâu cũng về!
Bao phen linh ứng lời thề
Tổ là Hồn Nước – cận kề với dân
[395] Ðã bao hoàng tử vong thân
Ðua nhau vọng ngoại – tảo tần phương xa
Quên luôn báu vật quê nhà
An Dân Thịnh Nước – mới là xứng ngôi
Cần chi những của xa xôi
[400] Gây ra mâu thuẫn – vua tôi trị vì
Nhưng đây truyền thuyết lại ghi
Tài tìm lễ vật – những gì An Dân
Tiết Liêu vận dụng toàn phần
Tâm Tuệ – tìm vật giúp dân hưởng nhờ
[405] Thức ăn từ gạo đơn sơ
Thêm tài cải tiến – nào ngờ thơm ngon
Làm theo hình thể vuông tròn
Bảo Bình – hàm ý sống còn trong tên
Tuyệt thay chiếc bánh chưng rền
[410] Lá xanh gạo trắng – nói lên thanh bình
Ta nhìn tấm bánh xinh xinh
Bên trong gói ghém bao tình quân dân
Muối tiêu đường đậu thịt nhân
Ngọt bùi cay đắng – chia phần sẻ san
[415] Dựng nên cảnh sống thịnh an
Mọi người cùng hưởng – chứa chan công bằng
Cũng trong buổi hội hoa đăng
Bánh Dày nhuần nhuyễn – xin rằng chớ quên
Thời suy – loạn lạc nổi lên
[420] Cứu nguy xã tắc – đạn tên không sờn
Sứ Nhân nặng nợ công ơn
Trước là Sống Thực – biết nhơn biết mình
Hai là Hồn Nước quang vinh
Cầu xin Tộc Tổ thương tình giúp cho
[425] Ba là Lột Xác nguyên do
Gĩa từ cái cũ – ta lo sửa trì
Dấn Thân – điều chót nhớ ghi
Anh em cộng tác – xá gì gian lao
Là con cháu Việt tự hào
[430] Thực thi truyền thống đề cao Tiên Rồng
Tiết Liêu gương sáng khởi công
Sống theo Hồn Nước – hoà đồng toàn dân
Quyết tâm lột xác dấn thân
Dân an nước thịnh – tỏ phần tài năng
[435] Truyền thuyết Tổ đã dạy rằng
Phải luôn cải tiến – phát tăng nhu cầu
Ðưa ra quốc sách khởi đầu
Cộng theo cơ chế – nghèo giầu thích nghi
Cố công tìm kiếm những gì
[440] Giúp dân sống thực – chớ vì quyền uy
Làm vua – tuân giữ nội quy
Thực hành Lời Tổ – cứu nguy dân lành
Lợi dân ích nước – hoàn thành
Cộng đồng hạnh phúc – sáng danh Tiên Rồng
[445] Trong bài Dựng Nước Chữ Ðồng
Phúc thay! Toàn thể thưởng công Về Trời
Có Làng – Có Nước xây đời
Tiết Liêu hướng dẫn những lời An Dân
Căn cơ Việc Nước tạo phần
[450] Quê hương thịnh vượng toàn dân huy hoàng
Hiệp theo thực thể rõ ràng
Việc Làng – phát triển nơi chàng An Tiêm
Biểu trưng dưa hấu uy nghiêm
Biến vùng sỏi đá thành niềm ước mong
[455] Tổ Tiên muốn nói chữ Song
Tiên Rồng Song Hiệp – như trong từng bài
Tiết Liêu – Rồng lại trổ tài
Làm phần biến hóa – giúp Ngài gặp Tiên
Lời khuyên của Tổ gắn liền
[460] Trường Tồn – nền tảng nơi Tiên đây rồi
Hai phần hoàn chỉnh – truyền ngôi
Tạo ra hiệp nhất một đôi song toàn
Ðạo Làm Vua – Ðạo Làm Quan
Sống Tiên – Việc Nước hòa chan hai đàng
[465] Sống Rồng – nền tảng Việc Làng
Nước Làng Song Hiệp – vẻ vang giống dòng
Tiết Liêu – gói ghém bên trong
Công ơn Thánh Tổ – ghi lòng cháu con
Tình người tình nước – sắt son
[470] Thực thi nguyện vọng sống còn nước dân
Chưng Dày – biểu tượng minh phân
Thanh bình – loạn lạc, điều cần giải nguy
Giúp dân sống thực gẫm suy
Mẫu Người Lãnh Ðạo ẩn quy trong bài
[475] Nơi đây nói đến chữ tài
Cái tài thịnh nước – cùng tài an dân
Truyền Trích Tiết Liêu
Chúng ta vừa mở cửa kho
tàng văn hóa Việt, tìm lại những báu vật là gia tài Tổ Tiên để lại cho con
cháu, là Văn Hóa Việt, là Nguyên Lý Tổ Chức và Điều Hành, là Chính Thuyết Tiên
Rồng. Sau đây chúng ta tiếp tục đào sâu hai truyền tích Tiết Liêu và An Tiêm tới
tận ý nghĩa thâm thúy nhất, có thể có.
Chúng ta cũng rút tỉa kinh nghiệm về việc Dựng Nước – Dựng Làng của hai chàng rồng này, và cũng đừng quên chuyện “Tiên Nào Rồng Nấy” nhé.
Nếu như Chử Ðồng đề ra nguyên tắc phát triển xã hội, thì Tiết Liêu định đặt việc Thịnh Nước An Dân. Vua Cha muốn truyền ngôi, đã hướng dẫn chúng ta đi tìm lễ vật dâng kính Tổ Tiên.
Đang khi nhiều văn hóa khác lại cổ vũ bạo lực, điều binh khiển tướng đi chinh phục lân bang và kiếm nhiều thủ cấp của dân láng giềng, cướp của giết người, hoặc bắt người về làm nô lệ.
Trước hết, Tiết Liêu có tinh thần dân tộc (thờ kính Tổ Tiên), làm con hiếu thảo (đặt gia đình là nền tảng căn bản, là gốc của nước như Trầu Cau), không màng sang giầu nhưng biết lo cho dân (lấy gạo làm căn bản cuộc sống ấm no của dân). Có sáng kiến và phát triển kinh tế (gạo nấu cơm để lâu dễ thiu, nhưng làm bánh dày bánh chưng thì để dành trong thời gian dài hơn), lại mang đầy đủ ý nghĩa của đạo Trời đạo Ðất.
Xin hỏi con người như thế không thịnh nước an dân sao? Không xứng tầm tổ chức và lãnh đạo chính trị?
Khi các hoàng tử lên đường đi tìm của lễ vọng ngoại phương xa, Tiết Liêu vì hiếu chàng ở nhà (stay home) lo cho mẹ lâm bịnh dịch Cô Vi. Vì bình tâm sáng tạo, cho nên Tiết Liêu đã gặp Tổ hiển hiện và chỉ cách làm bánh dày bánh chưng cho chàng, lại mang đủ ý nghĩa đời sống Đạo Đức Tiên Rồng của toàn dân.
Vâng Lời Tổ, Tiết Liêu làm bánh dày bánh chưng là chàng đã đem hết tâm thành, hết tài trí, hết sức lực để thực hiện truyền thống đạo đức siêu việt của dân tộc. Chẳng những Tiết Liêu làm ổn định đời sống người dân, mà còn biết xử dụng quyền lực nhằm bảo đảm và giảm bớt những cách ngăn, những chướng ngại trong cuộc sống chung.
Chàng dùng luật lệ giúp mọi người thực sự san sẻ tài năng của cải cho nhau, nhằm thoát nạn bất công hay cách biệt giầu nghèo như bao xã hội hiện hành.
Dấu chỉ của độc tài thống trị là hận thù chia rẽ, đấu tranh giai cấp, chia dân để trị. Để đạt đến quyền lợi cai trị, nhà cầm quyền làm phân tán đại chúng, làm cho người dân trở thành đơn độc, bơ vơ, lạc lõng không nơi nương tựa.
Và khi dân chúng trở thành con số đơn độc như an sinh xã hội, thì lúc đó quyền lực thống trị dễ bề thao túng áp bức và chiếm đoạt tài sản quốc gia mà đặc quyền đặc lợi.
Tiết Liêu cũng xử dụng quyền lực, tuy có thể gây phiền toái cho số người, nhưng cần thiết để bảo đảm cuộc sống chung, giúp mọi người thừa hưởng lợi ích, tạo cuộc sống chung, cộng đồng đồng tiến trong một Xã Hội Đồng Bào. Và từ đó toàn dân kết thành một khối đồng nhất, đồng thuận với chính quyền để tạo dựng nếp sống hương vị, dinh dưỡng, tồn tại lâu đời.
Cái tài của Tiết Liêu, của người làm việc nước là “Tài biết tin tưởng vào dân nước, Tài giúp dân sống thực truyền thống dân tộc, Tài thấu hiểu nhu cầu thực tế của dân, Tài cải tiến cuộc sống người dân.” Trong hoạt động phục vụ dân mước, với 4 tài năng, thì tài cải tiến cuộc sống người dân là công tác thực tiễn và đa đoan.
Tiết Liêu chẳng những nấu xôi chín, tức là làm cho cuộc sống người dân đầy đủ đúng mức, mà cố gắng quết giã cho tất cả trộn lẫn vào nhau, và xôi quánh lại một khối thơm ngon. Nghĩa là chúng ta dùng quyền lực làm cho mọi người cùng nhau chia sẻ tài năng và của cải, giúp đỡ đùm bọc nhau trong đời sống Tiên Rồng, ở thời bình cũng như thời loạn.
5. Truyền Thuyết An Tiêm
Nguyên Lý Dựng Làng
Thứ năm: chú trọng “Trí Thân”
Việc Làng Phát Triển trong phần An Tiêm
Con dân bày tỏ nỗi niềm
[480] Về nền dân chủ trang nghiêm nước nhà
Lời đồn sự nghiệp dèm pha
Người vua Hùng phạt chính là con nuôi
An Tiêm vừa chớm đôi mươi
Phải đày ra đảo vắng người hoang vu
[485] Dầu chàng gắng sức công phu
Khai hoang khẩn đất đền bù ơn vua
Nhưng rồi cuộc sống vẫn thua
Càng thêm đói rách – ruộng chua nước phèn
Lang thang chốn lạ chưa quen
[490] Mỏi mong hạnh phúc bao năm đi tìm
Sáng nay gặp gỡ cánh chim
Làm rơi hạt giống im lìm mọc lên
Thành giây dưa hấu mang tên
Vỏ xanh ruột đỏ dòn mềm thơm ngon
[495] Chàng Tiêm ghi dấu dưa tròn
Thả trôi xuống biển – mỏi mòn trông tin
Lượm dưa – dân kéo đến xin
Dựng thành làng xã – giữ gìn quê hương
Miền hoang phát triển phi thường
[500] Toàn dân trù phú kỷ cương thuận hòa
An Tiêm thay mặt làng ta
Chọn dăm trái hấu làm qùa dâng vua
Từ đây lễ tết đầu mùa
Trái dưa Cúng Tổ - tiến đưa lên bàn
[505] Truyền tích Sống Thực chứa chan
Việc Làng Dân Chủ - tương quan Tiên Rồng
Sống trong thể chế hiệp đồng
Nước làng minh định việc công rõ ràng
Thân thương bình đẳng trong làng
[510] Thuận trên hòa dưới nhịp nhàng kỷ cương
Nói lên chủ nghĩa tỏ tường
Căn cơ gia tộc là đường dựng xây
Họ hàng lối xóm xum vầy
Sẻ san đùm bọc sống đầy tình thương
[515] Ðồng bào ra sức tự cường
Ðắp nền dân chủ địa phương vững bền
Lễ nghi trống rộn chiêng rền
Tay cày tay súng tạo nên thanh bình
Lúa vàng nặng hạt ân tình
[520] Tre xanh che chở có mình có ta
Ðó đây vang vọng ê, a…
Trầm hương đình miếu chan hòa khí thiêng
Rồng An Tiêm – vốn tính siêng
Trổ tài vùng vẫy láng giềng – đảo hoang
[525] Cố công khai phá dựng làng
Ðào kinh dẫn thủy mở mang gieo trồng
Cũng như hình ảnh Chữ Ðồng
Bờ sông bến nước giúp Rồng gặp Tiên
Thoát cơn hoạn nạn triền miên
[530] Trút bao thống khổ ưu phiền bơ vơ
Cơ trời nào mấy ai ngờ
An Tiêm – Chim Lạc tình cờ gặp nhau
Dầu như gío thoảng qua mau
Tiên Rồng Song Hiệp – đổi màu xanh tươi
[535] Ðể mang hạnh phúc cho người
Lợi dân ích nước tiếng cười hân hoan
Phân minh cấp độ lo toan
Nước – Làng hai việc chu toàn khác nhau
Dấn thân – Việc Nước truyền rao
[540] Nặng phần Tâm - Tuệ quy vào Tiết Liêu
Nêu cao truyền thống là điều
Sức Dân Hồn Nước – theo chiều lòng dân
Quốc gia vững mạnh phải cần
Tài năng sáng tạo góp phần canh tân
[545] Việc Làng – cấp độ dấn thân
Nặng về Thân – Trí như phần An Tiêm
Thể theo đại chúng ngưỡng chiêm
Của – Tài thực tế là niềm ước mong
Thông điệp nêu rõ chữ Song
[550] Tiên nào Rồng nấy – thong dong bao thời
Nói lên Hoàn Chỉnh tuyệt vời
Khác nền xã hội ngược đời hiện nay
Chủ trương cai trị phơi bày
Ðấu thầu dân chủ - hằng ngày rêu rao
[555] Mỵ dân – chính sách đề cao
Phổ thông đầu phiếu – nhưng nào vì dân?
Trọng tâm tham chính chỉ cần
Cậy tài ỷ của bắt dân phục tòng
Vẽ rào pháp chế làm vòng
[560] Quản cai trực chỉ từng lòng nhân dân
Tiên Rồng thể chế tuyệt trần
Nước Làng quyền bính định phân rõ ràng
Tạo thành hệ thống dọc – ngang
Chính quyền căn cứ theo làng mà thôi
[565] Thuế sưu, lính tráng, tài bồi
Phân chia, cắt bổ… trong nôi bảo bình
Quan niệm Phúc Đức chứng minh
Tận tâm vì nước – tỏ tình cháu con
An Tiêm có trái cây ngon
[570] Dâng vua biếu nước làm tròn việc chung
Chàng Rồng đại diện dân vùng
Nói lên liên hệ nước cùng làng đây
Thực hành bài học xum vầy
Quê hương dân tộc tràn đầy tự do
[575] Cái làng là chốn ấm no
Do dân tự lập – tự lo việc làng
Mở ra nếp sống huy hoàng
Toàn dân cùng hưởng thiên đàng Việt Nam
*****
Truyền Tích An Tiêm
Chuyện qủa dưa đỏ đã hình thành bài học dựng làng. Thà bị Vua Cha đày oan còn hơn là trốn theo tầu buôn về đất liền làm giặc. Nhưng khi có được thành qủa lao động với những trái dưa hấu là loại của ngon vật lạ ở nơi hải đảo xa xôi, An Tiêm đã gởi về dâng vua biếu nước.
Từ đó dân ta, đặc biệt vùng miền khô cát nóng có được món ăn tươi mát, bổ dưỡng, thơm ngon. Chàng rồng này chẳng đáng mặt thịnh nước an dân sao?
Dưới khía cạnh kinh tế, chúng ta có thể nói Tiết Liêu phát triển trên đất, nội địa thì An Tiêm phát triển vùng biển, ngoại thương.
Việc phát triển Nước của Chử Đồng thì người chủ động là thành phần Tiên (Tiên Dung). Nhưng trong việc phát triển Làng, tuy cũng là Tiên Rồng nhưng phần chủ động và đặc trách công tác lại khác biệt nhau, đó là thành phần Rồng.
Tiên chủ động trong việc Phát Triển Nước, là yếu tố Trường Cửu, truyền thống dân tộc, lòng dân song hiệp với nước là chính yếu, là động lực nhằm vận động mọi người xây dựng kiến thiết quốc gia.
Cũng vậy, việc Phát Triển Làng và đời sống người dân, tuy cần có sức sống và tinh thần chung của dân tộc, nhưng thành phần Rồng chủ động. Và An Tiêm nhấn mạnh tới cuộc sống thực tế, tài năng của cải trước mắt, là yếu tố Biến Hóa.
Theo truyền tích: “An Tiêm con nuôi của Vua Hùng bị đày ra đảo hoang,” Tổ Tiên giới thiệu quan niệm đặc biệt về vị trí của người dân lập làng, bị đày ra đảo hoang xa cách triều đình. An Tiêm tự lực cánh sinh, tự túc tự cường, tự chủ tự quyết thì lúc đó dân tộc mới có tự do dân chủ và nhân quyền.
Với truyền thuyết An
Tiêm, Tổ Tiên giới thiệu nếp sống đặc biệt của làng thôn Việt Nam. Khác biệt với
tổ chức chính trị của các văn hóa khác, quyền hạn vua quan ta chẳng những không
can thiệp trực tiếp vào đời sống từng người, mà cũng không xâm phạm vào nếp
sinh hoạt của làng thôn.
Đối với triều đình, mỗi làng được xem là một hải đảo ở tận ngoài biển khơi, người dân phải tự quyết tự lập cho chính mình. Đây chính là chế độ tự do dân chủ thực sự của làng xã Việt, bởi “Phép vua thua lệ làng.”
Nếu chỉ để thu tích của cải lợi lộc vật chất, dù dưới bất cứ hình thức nào như chủ trương của xâm lăng đế quốc, tư bản hay cộng sản thì cũng không giúp ích gì cho con người, mà còn tạo ra cho chúng ta thêm khốn khổ, biến chúng ta thành nô lệ, thú tiến bộ hay sinh vật kinh tế.
Làng Nước Việt Nam là một hệ thống cấu trúc sinh hoạt độc lập tư do. Nếp sống thân thương bình đẳng, làng thôn tự thành nơi bảo toàn lực lượng dân quân, bảo vệ, nung đúc tinh thần yêu nước của toàn dân, và cũng là nơi bảo tồn đời sống dân chủ thuần túy trong thời bình cũng như thời loạn.
Đặc tính của định chế Làng Nước, là người dân tự ý tới ở và quy tụ thành làng. Tuy cách khởi lập có khác nhau, nhưng điều kiện tiên quyết trong việc dựng làng là lợi ích tự quyết của những người quy tụ, chớ không dùng quyền hành mà bắt buộc ai.
Làng được thành lập không chỉ vì lợi ích vật chất, biến nơi khô cằn hoang vu thành miền phì nhiêu trù phú, mà còn vì lợi ích tinh thần. Làng giúp cho người dân thoát nạn sống cảnh bơ vơ, thiếu nơi nương tựa, giúp cho mọi người có cuộc sống ấm no xum hợp trong một xã hội anh em Đồng Bào.
Tụ họp thành làng, mọi người chia sẻ cảnh sống vui buồn sướng khổ có nhau, giúp nhau vượt thắng những khó khăn, cùng nhau gánh vác trách nhiệm, cùng nhau xây đắp cho đời, cho làng cho nước ngày thêm giầu đẹp. Và cũng không một thường dân nào bị bó buộc phải cư trú tại một nơi nhất định; dân chúng có thể tùy thích tới ở hay tự ý bỏ đi, miễn là tự quyết và chấp nhận Lệ Làng là nơi mình muốn gia nhập cư ngụ.
Khác với tổ chức chính trị của nhiều quốc gia, quyền hạn vua quan Việt chẳng những không can thiệp vào đời sống từng người dân, mà cũng không xâm phạm vào nếp sống sinh hoạt của các làng thôn. Đối với triều đình, mỗi làng Việt là một quốc gia thu hẹp có chủ quyền và độc lập; việc làng thì dân chúng tự lập và tự quyết.
Làng tự lập, có một ban quản trị riêng do chính dân bầu ra, điều lệ riêng cho hệ thống hành chính của làng. Làng có một ngôi đình để thờ Thành Hoàng riêng, với nghi thức tế lễ do truyền thống riêng.
Làng có tổ chức trị an riêng với tiêu chuẩn thưởng phạt do làng quy định. Làng cũng có tài sản riêng và toàn quyền xử dụng ngân sách theo nhu cầu.
Khi góp phần vào việc nước, làng là đơn vị đại diện người dân. Theo truyền thống chính trị Tiên Rồng, người dân không trực tiếp với vua quan mà qua làng trong tất cả mọi việc, từ tiếp xúc, lệnh truyền, tới sưu thuế, lính tráng.
Nước chỉ căn cứ vào làng, liên lạc với làng, và theo khả năng của làng mà định phần đóng góp. Làng thôn Việt Nam không phải là nếp sống ngẫu nhiên, mà được Tổ Tiên tạo thành một thể chế chính trị độc đáo, nhân bản tuyệt vời và được gọi là Định Chế Làng Nước.
Tổ Tiên phân biệt rõ ràng hai loại công tác chính trị, việc làng việc nước là hai việc khác nhau, khác biệt từ phần chủ động tới cấp độ dấn thân, khả năng tài trí, và các vấn đề nhu yếu khác. Bởi thế chúng ta có hai loại công tác làng và công tác nước.
Người dân ai cũng có thể làm việc làng, và ai cũng có quyền can dự vào việc tổ chức, điều hành, bầu cử, hay quyết định của làng. Nhưng để đủ tầm vóc để làm việc nước thì người đó phải học hành ở trường sở, phải thông thạo những khoa chính trị thịnh nước an dân, và thi cử như thi hương, thi hội, thi đình để xác định khả năng tài trí của người làm quan.
Với chủ trương chính đáng về bổn phận của người lãnh đạo, vua quan trong thể chế làng nước, việc chung được quan niệm và thực sự là việc giúp ích cho mọi người. Khi vua quan đem hết tâm hồn và tài trí chăm lo cho tòan dân hạnh phúc, và khi người dân được thực sự sống trong tự do dân chủ đúng nghĩa, thì đóng góp vào việc chung là một đồng tâm hiệp lực, một tương trợ cần thiết để bảo đảm cho hạnh phúc chung của nhau.
Đi làm việc chung chính là ta đem tài trí giúp ích cho đời.
Tuy nhiên, nhiều khi việc chung cũng vượt quá nếp sống thường ngày và ít mang lại kết quả lợi lộc trước mắt. Vào thời loạn, gánh vác việc chung còn kèm theo cả nguy hiểm tánh mạng, do đó việc chung thường đòi hỏi tầm nhìn xa trông rộng, và cũng thường làm nhiều người ái ngại.
Nhìn vào lịch sử chúng ta thấy rằng vua quan cũng xây thành, nhưng thành thị không phải là nơi tập trung sức nước. Thủ đô hay thủ phủ cũng chỉ là cái làng lớn với số cơ sở thích ứng, cần thiết cho nhu cầu hành chánh, nghi lễ ngoại giao.
Khi nguy cấp, vua quan sẵn sàng bỏ thủ đô mà về chiến đấu trong địa bàn làng xã mà chống giặc cứu nước, và không ảnh hưởng tới dữ kiện mất nước. Do đó làng là trung tâm sinh hoạt tự lập tự chủ của mọi người dân, mà cũng là sức mạnh của toàn thể đất nước.
Dưới khía cạnh quân sự làng là nơi đào tạo huấn luyện toàn dân trở thành nghĩa sĩ, có hệ thống canh gác nghiêm nhặt, có lớp người túc trực, có những lò võ thuật tạo ra nhiều cấp lãnh đạo chỉ huy tài ba. Làng cũng là nơi phát xuất sức mạnh dân tộc về mọi phương diện.
6. Truyền Thuyết Vọng Phu
Nguyên Lý Lập Gia
Ðơn sơ hát khúc tình lòng
[580] Diễn phần Trường Cửu như trong đề tài
Bồng con ru điệu Nam Ai
Trông chồng – thương mãi thương hoài ngàn năm
Quê nhà – em vốn lo chăm
Quản chi bao chốn xa xăm tảo tần
[585] Nuôi con – phụng dưỡng song thân
Ruộng vườn canh tác – mộ phần sửa sang
Việc nhà cho chí việc quan
Chiều chiều đứng ngóng tin chàng phương xa
Eo xèo chì bấc rầy rà
[590] Vững chân bàn thạch – nàng là Vọng Phu
Hóa thành núi đá ngàn thu
Trông ra cửa biển mịt mù lửa binh
Vào thời đất nước chiến chinh
Bao chàng trai Việt đáp tình non sông
[595] Gĩa nhà thực hiện nghĩa công
Tỏ phần “biến hóa” của Rồng là đây
Gia đình – nền tảng dựng xây
Việc chung làm trọng niềm tây phải nhường
Quê hương lâm cảnh tai ương
[600] Giúp chồng – ra tuyến tiền phương diệt thù
Hậu phương – em tiếp quân nhu
Ẵm con mong đón chiến khu khải hoàn
Nước nhà – phận sự song toàn
Chồng nào vợ nấy – lo toan đắp bồi
[605] Và nền văn hóa thăng ngôi
Chức năng nam nữ – hiệp đôi Tiên Rồng
Gia đình thể hiện việc công
Tình nhà tình nước – vợ chồng cùng xây
Khác nền văn hóa phương Tây
[610] Phong trào giải phóng đã gây sai lầm
Con người – tan nát lương tâm
Cộng đồng cực hóa – dương âm một chiều
Ngụy danh – chính sách thủ tiêu
Chức năng làm mẹ – tạo điều nguy cơ
[615] Khiến người con gái bơ vơ
Hóa thân đực rựa – hững hờ quyên sinh
Phá tan hạnh phúc gia đình
Biến thành loài thú dục tình mà thôi
Trầu Cau – nền tảng lứa đôi
[620] Thương nhau trọn kiếp – chết rồi vẫn thương
Như em – gia đạo kính nhường
Hóa thành Người Ðá – thăng hương chan hòa
Vọng Phu – trọn đạo nước nhà
Biến lên Núi Ðá – thăng hoa trọn đời
[625] Tổ Tiên nhắn nhủ những lời
Chức năng cha mẹ – góp đời Ðứa Con
Chẳng như cảnh vợ chồng son
Ðứa Con – biểu tượng Sống Còn Nước Dân
Nói lên diễm phúc tuyệt trần
[630] Góp cho xã hội – sứ nhân Con Người
Kìa trông thiếu phụ đôi mươi
Thương chồng – thương với tiếng cười trẻ thơ
Ðảm đang kết chỉ se tơ
Tháng năm sừng sững nàng chờ chinh phu
[635] Ðăm chiêu đứng ngóng chiến khu
Mong chàng hăng hái diệt thù cứu nguy
Việc chung – chồng xướng vợ tùy
Tiên Rồng Song Hiệp – hội quy Ðồng Bào
Anh thời việc nước đề cao
[640] Giúp em – thể hiện phần nào làm dân
Em ơi – đang gánh góp phần
Giúp anh – làm trọn nghĩa ân với nhà
Nước non – phận sự đôi ta
Cùng nhau gánh vác sơn hà Việt Nam
[645] Nghĩa công – chồng vợ cùng làm
Rồng sống nhờ nước – như Vàm Cửu Long
Trổ tài vùng vẫy khắp giòng
Tỏ phần biến hóa – mà hòng gặp Tiên
Non cao Hòn Vọng Phú Yên
[650] Bồng con – nàng đợi đoàn viên cùng chàng
Nước non – cơ nghiệp của nàng
Chàng đi vì nước – vì nàng mà đi
Cho nên lý tưởng thực thi
Tiên Rồng Nền Tảng chẳng vì lợi danh
[655] Chẳng như xã hội hiện hành
Tham gia chiến đấu chỉ tanh mùi tiền
Tạo ra cảnh sống đảo điên
Nhìn nhau gía trị đồng tiền mà thôi
Tích truyền – hướng dẫn khúc nhôi
[660] Chồng nào vợ nấy – xứng đôi Tiên Rồng
Truyền Tích Vọng Phu
Trên quê hương ta, nhiều núi đá được gọi là Hòn Vọng Phu. Từ Đồng Đăng ở Lạng Sơn, xuống tới Thanh Hóa, Bình Định, Khánh Hòa, vào mãi tới Hà Tiên, và ra tận Côn Sơn, nơi nào cũng có Hòn Vọng Phu.
Trên khắp đất nước và trong suốt dòng lịch sử, không có một sự tích nào lại được đem đặt tên cho nhiều danh sơn thắng cảnh là Hòn Vọng Phu. Sự phổ biến sâu rộng của chuyện tích, và nhất là việc trở thành địa danh cho nhiều đồi núi trên tòan đất nước, chứng tỏ truyện tích Vọng Phu đã chiếm một địa vị quan trọng trong tâm hồn và nếp sống dân Việt.
Ngòai ra, cũng như Người Em trong truyện tích Trầu Cau, nàng Vọng Phu cũng hóa thành đá. Chuyện người hóa đá, nhất là hóa thành ngọn núi cao, là dấu chỉ của biểu tượng những bài học quý báu của Tổ Tiên.
1. Tình Yêu Thể Hiện
Đứa con vừa là hình ảnh hạnh phúc gia đình, vừa là biểu hiệu của vinh dự và trách nhiệm, vật chất lẫn tinh thần, của những người được diễm phúc sinh dựng thêm một Con Người.
Với đứa con, tình yêu phối hợp của hai vợ chồng được sống thực và kết quả. Nơi đứa con, hai cuộc sống, hai tâm hồn, hai con người, đã hòa hiệp thành một cuộc sống tự tại mới.
Đứa con là tình yêu thể hiện của hai vợ chồng, là thực tại của Tiên Rồng song hiệp. Vì vậy, chẳng những đứa con đã không ngăn trở, mà còn tăng thêm sự kết hiệp của hai vợ chồng, trong tình yêu cũng như trong cuộc sống.
2. Chức Năng Nam Nữ
Hai vợ chồng vui sướng bên đứa con thơ, cuộc sống thật tuyệt vời. Nhưng hạnh phúc của gia đình đầm ấm đã không làm hai người quên những bổn phận khác.
Đã quen với nếp sống nâng đỡ đùm bọc nhau của đại gia đình và của làng xóm, họ nhận biết rằng sở dĩ họ được yên vui là nhờ nhiều người khác đang tham gia vào việc chung, đang đánh giặc ngòai tiền tuyến để giữ làng giữ nước, để giúp cho họ có được một cuộc sống tự do thanh bình ở hậu phương.
Cũng vì vậy họ luôn luôn sẵn sàng đóng góp phần họ. Và rồi, khi tới dịp, người chồng đã ra đi làm bổn phận công dân.
Ở các văn hóa khác, việc làng nước, việc chung thường được coi là công tác phục vụ cho giai cấp thống trị. Trái lại, trong văn hóa Việt, với chủ trương chính đáng về bổn phận vua quan và thể chế làng nước.
Việc chung được quan niệm và thực sự là việc giúp ích cho mọi người. Khi vua quan cư xử như cha mẹ, đem hết tâm hồn và tài trí chăm lo cho người dân được hạnh phúc (Chữ Đồng, Tiết Liêu), và khi người dân được thực sự sống trong tự do và dân chủ đúng nghĩa (An Tiêm), thì đóng góp vào việc chung chính là một đồng tâm hiệp lực, một tương trợ cần thiết, để bảo đảm nếp sống hạnh phúc chung của nhau.
Đi làm việc chung chính là đem tài trí giúp ích cho đời. Tuy nhiên, việc chung nhiều khi lại vượt quá nếp sống thường ngày và ít có kết quả lợi lộc ngay trước mắt.
Vào thời lọan, gánh vác việc chung còn kèm theo cả nguy hiểm tánh mạng. Do đó, việc chung thường đòi hỏi tầm nhìn xa rộng, và cũng thường làm nhiều người ái ngại.
Vì vậy, việc cưỡng bách, dưới một số hình thức, cũng là chuyện thường tình. Và cũng vì vậy, dấn thân làm việc chung luôn được mọi người coi là một hành động đáng khâm phục.
3. Đảm Trách Việc Nhà
Truyện tích Vọng Phu chú trọng đến người vợ hiền đang ở lại nhà. Tâm trạng và công việc của người ở nhà cũng không phải nhẹ nhàng. Chồng đã ra đi, người vợ phải tự lo liệu cho cuộc sống của chính nàng.
Trước kia, khi chồng ở
nhà, có nhiều việc nàng không cần động tay, không cần nghĩ tới. Giờ đây, một
mình nàng phải cáng đáng tất cả.
Trước kia thì chồng cày vợ cấy, bây giờ để em cày em cấy mặc lòng em đây. Công việc chẳng những nặng nhọc hơn, mà còn cô quạnh buồn tẻ hơn nhiều.
Nỗi cô đơn đó còn tăng thêm gấp bội, khi nàng còn phải một mình chăm sóc con thơ. Chẳng những phải lo ăn mặc, thuốc men mà còn phải dạy dỗ cho con nên người.
Trước kia nàng chỉ là bà mẹ hiền, giờ đây nàng phải gánh luôn vai trò của người cha nghiêm… Công việc, trách nhiệm và nỗi cô đơn vây bọc người ở nhà.
Ngoài ra, nàng còn có trách nhiệm đối với đại gia đình. Dĩ nhiên, nàng cũng được họ hàng thân thích giúp tay đỡ đần.
Nhưng không phải vì vậy mà nàng có thể quên phần vụ của mình trong đại gia đình. Lấy chồng gánh vác giang sơn nhà chồng.
4. Chia Nhau Công Tác
Ở thời suy thoái, quan niệm gái việc nhà trai việc nước đã bị cực hóa đến độ phụ nữ bị nhốt trong bốn vách tường. Trong khi đó, đàn ông lộng hành, coi mình vượt xa trên nữ giới.
Tuy nhiên, ca dao tục ngữ, cũng như quan niệm về nếp sống bình dân, tức là những phản ảnh trung thực của văn hóa Việt, luôn luôn thể hiện tinh thần Vọng Phu.
Ca dao Việt Nam:
- Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ gìa
con thơ
Lầm than bao quản nắng
mưa
Anh đi anh cố chen đua
với đời
- Anh ơi phải lính thì
đi
Cửa nhà đơn chiếc đã
thì có em
Tháng chạp là tiết trồng
khoai
Tháng giêng trồng đậu
tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vỡ ruộng
ra
Tháng tư gieo mạ thuận
hòa mọi nơi
Đến khi gặt hái xong rồi
Trời đổ mưa xuống nước
trôi đầy đồng
Anh ơi giữ lấy việc
công
Để em cày cấy mặc lòng
em đây
Người vợ Việt luôn ý thức rõ ràng bổn phận của mỗi người, của chồng cũng như của chính nàng, đối với việc chung. Nhưng nàng cũng ý thức rằng trong thực tế, chàng có nhiều điều kiện hơn nàng để lo việc chung, cũng như nàng có nhiều thuận lợi để lo việc nhà hơn chàng.
Vì vậy, thay vì mỗi người phải tự mình làm tròn nhiệm vụ vừa đối với nhà vừa đối với nước, người phụ nữ Việt đã mạnh dạn thúc dục chồng ra đi lo việc nước, gánh thêm phần vụ việc chung của nàng, trong khi nàng khẳng khái đứng ra lãnh phần chu tòan việc nhà thay cho chàng.
Mỗi người tùy theo cấu trúc và điều kiện thuận hợp riêng, mà chu tòan công tác ứng hợp với khả năng mình. Chính nhờ chia nhau công tác, nhờ phân công theo chức năng, mà cuộc sống bớt khó khăn, bớt nặng nhọc, và thêm vui tươi, thêm trọn vẹn, thêm hạnh phúc.
5. Bổ Túc Hỗ Tương
Như vậy Vọng Phu xóa bỏ sự phân cách giả tạo giữ những đặc tính nam nữ. Vì không thấy Con Người trong việc phối hiệp vợ chồng, mà chỉ thấy từng cá nhân đơn độc, nên những dị biệt nam nữ đã trở thành dấu hiệu chia cách, hơn là sự mời gọi hiệp nhất.
Sự phân cách đó đã đưa tới hậu qủa tai hại như trọng nam khinh nữ, coi việc chung là đặc quyền của nam nhi, coi phụ nữ chỉ xứng đáng quay mặt vào bếp, nuôi con thờ chồng.
Trái lại Vọng Phu nhấn mạnh tới sự hiệp nhất bổ túc hỗ tương giữa nam và nữ. Chàng đi lo việc nước, không phải chỉ vì đó là bổn phận của người trai, mà còn vì chàng được nàng ủy thác.
Cũng vậy, chàng ra đi không phải để trốn tránh việc nhà, mà vì đã có nàng gánh vác thay chàng.
Trong chàng có nàng và trong nàng có chàng.
Mỗi người đều ủy thác và nhận ủy thác. Họ phân công trong tòan bộ, trong liên nhiệm của hai người đã hiệp nhất Thành Một Đơn Vị xã hội.
6. Gia Đình - Con Người
Chàng đã lên đường. Với hệ thống giao thông và liên lạc thô sơ thời xưa, ra đi là biệt tăm.
Vì vậy, nàng chờ chàng từng ngày. Chiều chiều, khi công việc nhà đã tạm yên, nàng bồng con đứng ngóng, mong được thấy bóng chồng thấp thoáng ở cuối chân trời.
Có hình ảnh nào cảm động bằng cảnh người vợ hiền bồng con đứng ngóng chồng trong lúc chiều tà. Hình ảnh đó bộc lộ niềm nhớ thương và chung thủy của nàng. Bồng con, qua đứa con, nàng đang ôm ấp mối tình dạt dào của hai vợ chồng.
Bóng hai mẹ con kéo dài trên mặt đất càng tô đậm nỗi co6 đơn lạnh lẽo của nàng trong lúc đêm về.
Nàng chờ, chờ từng ngày, từng đêm. Sự thiếu vắng của chàng trong cuộc sống hàng ngày, trong những sinh họat cần có chàng, lại càng làm nàng thương nhờ nhiều hơn.
Tuy vắng mặt, nhưng chàng vẫn luôn luôn hiện diện trong tâm tưởng, trong cuộc sống của nàng.
7. Có Nhau Từng Ngày
Sự thương nhớ này chẳng những nói lên tình yêu thương chung thủy, mà còn bộc lộ một đặc tính thiết yếu của Tình Vợ Chồng.
Tình vợ chồng chẳng những kết hiệp hai thể xác và hai tâm hồn, mà còn phải luôn được thể hiện trong cuộc sống từng ngày.
Tình yêu chỉ thực sự bền vững khi con người Có Nhau Từng Ngày, chấp nhận nhau từng ngày và chia sẻ với nhau cuộc sống từng ngày của nhau.
Chỉ khi nào hai người có nhau từng ngày, tin tưởng vào quyết tâm thể hiện thực sự tình yêu cho nhau, bất chấp thời gian, bất chấp hòan cảnh, thì khi đó tình yêu mới trọn vẹn, đời sống vợ chồng mới thực sự hạnh phúc, tràn đầy, và tăng triển.
8. Gia Đình Thiết Yếu
Hơn nữa, việc nàng nhớ chàng từng ngày lại nhấn mạnh tới sự thiếu vắng khi người chồng đã ra đi.
Hai mẹ con không thể yên tâm vui sống khi vắng chồng vắng cha. Sự thiếu vắng này chẳng những không suy giảm mà còn gia tăng với thời gian.
Nàng thiếu chàng, nàng chờ chàng. Nhưng không chỉ chờ vì thương nhớ, mà còn chờ chàng sớm làm xong phận vụ của chàng.
Trong khi thay chồng làm việc nhà, nàng tin chắc chàng cũng đang chu tòan phần việc chung của cả hai người. Hình bóng chàng về, không chỉ là hình bóng của người chồng thân yêu, mà còn đậm nét hiên ngang của một chàng trai Việt trở về, sau khi chu tòan bổn phận của mình và của gia đình đối với làng nước.
Đây là tuyệt đỉnh tôn vinh tính cách thiết yếu và trường cửu của gia đình. Chỉ khi nào là thành phần của một gia đình, với yhai cuộc sống vợ chồng hiệp nhất, thì Con Người mới thực sự sống trọn vẹn cuộc sống của mình.
Gia Đình Là Nền Tảng Cuộc Sống Con Người.
9. Thiên Chức Làm Mẹ
Nàng bồng con chờ chồng đến nỗi cả hai mẹ con đều hóa thành đá.
Nếu là thực tế, thì sau độ mươi năm, đứa con đã khôn lớn, nhưng trong Vọng Phu, mẹ vẫn bồng con dẫu đã ngàn năm. Đây chính là hình ảnh tô đậm trách nhiệm và niềm tự hào của thiên chức làm mẹ.
Cho đến ngàn năm, nàng vẫn hãnh diện và nâng niu cái diễm phúc cảm nhận mình đang bảo bọc, nuôi dưỡng và dạy dỗ con thơ ngay trong chính bản thân mình.
Sự yêu thương đùm bọc đó không chỉ hiện hữu khi đứa con còn bé bỏng, mà lại gia tăng theo thời gian và kéo dài tới ngàn năm.
10. Có Mãi Ngàn Năm
Chuyện hai mẹ con chờ chồng chờ cha đến thành hóa đá còn nói lên sự quý trọng và quan niệm sống nền tảng của văn hóa Việt.
Trong Chính Thuyết Tiên Rồng, người Em ở Trầu Cau đã chết cho gia đình người anh, nên thành tảng đá vôi; nàng Mỵ Châu vì quá thương chồng mà máu hóa ngọc trai; Trương Chi ôm mối tình câm chung thủy, nên tim cũng thành ngọc.
Tất cả những đá ngọc đó, tất cả những kết tinh của tình người đó, lại đều chờ đợi để kết hiệp với người thương. Đá vôi chờ được nhai chung với trầu cau. Tim ngọc của Trương Chi chờ được hòa tan với giọt nước mắt Mỵ Nương.
Giọt ngọc Mỵ Châu lại chờ được ngâm mình trong nước giếng Trọng Thủy. Tất cả đều hóa đá để chờ.
Nàng Vọng Phu cũng chờ. Nàng chờ tới ngàn năm. Cho đến ngàn năm, Tình Vợ Chồng của nàng vẫn bền vững.
Sương gió giãi dầu, thời gian mòn mỏi, nhưng chẳng những không làm tiêu hao niềm thương nhớ, mà trái lại, còn làm cho mẹ con nàng, cho chính tình yêu chung thủy của nàng, vươn cao lên thành núi.
11. Tạo Thành Đất Nước
Việc hai mẹ con nàng vươn thành núi cao lại là hình ảnh tuyệt vời của địa vị Gia Đình trong cuộc sống Xã Hội.
Núi cao nhắc nhớ Mẹ Tiên đem năm mươi con lên núi, Mẹ Tiên ở núi. Nhưng nơi đây, chính Mẹ đã vươn thành Núi Non, chính Mẹ góp phần cho Đất Nước rộng lớn thêm.
Cha ra đi lo tròn việc Nước, thì Mẹ ở nhà hóa thành Non cao. Nhờ có Mẹ Cha nên mới có Non Nước, giang sơn.
Đất Nước thành hình và phát triển, chính là do những cặp vợ chồng cùng nhau Sống Trọn Tình Nhà Tình Nước, sống trọn Vọng Phu.
12. Hòn Vọng Phu
Văn hóa Việt đã luôn sống thực Vọng Phu. Gia Đình luôn chiếm địa vị cao nhất trong xã hội Việt.
Nhờ kết hiệp thành một Gia Đình kiên vững, cả người nam lẫn người nữ mới có thể sống trọn vẹn cuộc sống của chính mình.
Nhờ gia đình, nam nữ chẳng những không xung khắc nhau, mà trái lại, bổ túc nhau để chu toàn mọi chức năng của Con Người. Công tác khác nhau, nhưng tương trợ, hòa hiệp.
Cũng vì tầm quan trọng và thiết yếu bậc nhất của Bài Học Gia Đình, nên bất cứ hình thức nhắc nhớ nào, cũng được Tổ Tiên chúng ta đặt tên là Hòn Vọng Phu.
Để diễn tả và tôn vinh vai trò của cả hai vợ chồng, không có hình ảnh nào ý nghĩa và cao qúy hơn Hòn Vọng Phu. Không còn hình ảnh nào súc tích và cảm động hơn để nhắc nhớ Tình Nghĩa Vợ Chồng bằng Hòn Vọng Phu.
Gia Đình, chớ không phải từng cá nhân, là nền tảng của Cuộc Sống Con Người, và của Tổ Chức Xã Hội Lòai Người.
7. Truyền Thuyết Trương Chi
Nguyên Lý Lập Thân
Vang lên sóng nước Cửu Long
Tiếng tiêu sầu nhớ nỗi lòng Trương Chi
Nhạt khoan theo tuổi xuân thì
Rộn ràng chèo chống cũng vì tình nhân
[665] Lênh đênh trôi nổi xa gần
Thuyền rồng lẻ bóng thoáng phần gặp tiên
Cũng ngay trong phút giao duyên
Mỵ Nương – say đắm triền miên tháng ngày
Mơ chàng trai đẹp làng này
[670] Mộng chàng nghệ sĩ tỏ bày tâm tư
Sánh duyên với bậc tiểu thư
Trai tài gái sắc – đẹp như tình hồng
Sớm mai – chớm buổi lập đông
Thiên hương – gặp mặt chàng rồng Trương Chi
[675] Ngỡ ngàng – duyên phận so bì
Gặp chàng tàn phế – nàng thì dửng dưng!
Chàng Trương, trái lại thầm mừng
Say mê người đẹp – ngỡ chừng tơ duyên
Thế rồi nhung nhớ triền miên
[680] Khiến chàng chết gục trong niềm yêu thương
Trái tim – chén ngọc chàng Trương
Ðưa đò thổi sáo – hiện trường tình ca
Ước mong xum họp một nhà
Nước non xa cách – tình ta chia lìa
[685] Thương chàng nghệ sĩ canh khuya
Mỵ Nương nhỏ lệ - sao kìa chén tan
Âm dương – xa cách muôn ngàn
Khi tình song hiệp – hòa chan Tiên Rồng
Tổ Tiên diễn đạt tình hồng
[690] Tích truyền hướng dẫn cộng đồng yêu thương
Trái tim – lẽ sống chàng Trương
Căn nguyên hạnh phúc – tỏ tường là đây
Con Người – nền tảng xum vầy
Tình yêu – nguyên tắc dựng xây cuộc đời
[695] Sống trong xã hội đương thời
Lắm tên tàn ác – sống rời thương yêu
Nguyên do khoa học lầm điều
Con người phản xạ theo chiều thú y
Tạo ra xã hội suy vi
[700] Yếu thua mạnh thắng – là vì không yêu
Ðấu tranh giai cấp khê nhiêu
Làm cho đời sống thủ tiêu Tình Người
Tiên Rồng chánh thuyết tuyệt vời
Thân Thương Bình Ðẳng là lời sống chung
[705] Trở thành nguyên lý tột cùng
Toàn dân chung hưởng – khắp vùng yêu thương
Trải qua thời buổi nhiễu nhương
Lai căng văn hóa khinh thường tình yêu
Tống Nho – lập luận một chiều
[710] Trọng nam khinh nữ – xóa điều Trầu Cau
Môn đăng hộ đối – mè màu
Phá tan chánh thuyết – còn đâu Chử Ðồng
Gia đình – phân hóa vợ chồng
Tam tòng tứ đức – Tiên Rồng lãng quên
[715] Chử Ðồng – nền tảng nói lên
Gặp nhau trọn vẹn – đôi bên “đi tìm”
Con người sống thực trong tim
Tiên Rồng hoàn chỉnh – đắm chìm tình yêu
Trương Chi – khác hẳn một điều
[720] Hai người đôi ngã – tình nhiều trái ngang
Thương ai trong cảnh phũ phàng
Nhớ ai mà nhớ có nàng Mỵ Nương
Trở về sinh hoạt – ngày thường
Chàng Trương – ray rứt nhớ thương cô nàng
[725] Tương tư lá ngọc cành vàng
Dẫn chàng tiến tới thiên đàng tình yêu
Mộng mơ nhan sắc diễm kiều
Khiến chàng chết đứng trong chiều thu sương
Trái tim hóa ngọc yêu thương
[730] Giúp chàng sống mãi trên đường ái ân
Quản chi năm tháng tảo tần
Ðưa đò thổi sáo đơn thân đợi chờ
Tích truyền – người đẹp mộng mơ
Sống trong nhung lụa – nàng chờ bóng ai
[735] Chiêm bao hiện rõ hình hài
Về chàng nghệ sĩ xấu trai hôm nào
Bởi nàng trả gía thấp cao
Khiến chàng gục chết – để vào tình thương
Làm người sáng tỏ bước đường
[740] Sống thiêng thác gởi – tinh tường nơi đây
Lạ thay! Tình được xum vầy
Khi nàng bật khóc đáp đầy tình yêu
Lạ thay – người đẹp diễm kiều
Vừa rơi giọt lệ mỹ miều khóc thương
[745] Phút giây nhắc nhớ chàng Trương
Chén tan tình trọn – âm dương hợp hòa
Tích truyền – nhắc đến thăng hoa
Cảm thông chấp nhận – nhạt nhòa tình yêu
Cuộc tình gắn bó sớm chiều
[750] Cho nhau trọn vẹn – sống điều Thân Thương
Tình-chân-thiện-mỹ là đường
Con người sống thực – kỷ cương thuận hòa.
***
Truyền Thuyết Trương
Chi
Với Huấn Ca Trương Chi, Tổ Tiên bàn chuyện trái tim, nơi thâm sâu nhất, căn cội hạnh phúc của con người. Chuyện kể chàng chèo đò tàn tật họ Trương có tài thổi sáo, với mối tình người đẹp nhà giầu Mỵ Nương.
Không tình yêu con người không thể sống.
Trong tình yêu con người luôn sống.
Tình yêu quyết định sự sống con người.
Có tình yêu đời sống con người mới thật là sống, biết sống, và quý trọng sự sống.
Mỵ Nương ngày đêm mơ mộng chàng lái đò tài ba với tiếng tiêu tiên vũ rồng bay, tưởng nhớ hình bóng chàng phi công tác chiến tài năng, khôi ngô tuấn tú để ngự trị trong vòng tay ngọc than ngà của nàng. Rồi chàng cũng ước nguyện cùng nàng chung sống trong túp lều tranh hai trái tim vàng và cuộc đời thanh nhàn bên bờ Sông Tương, với sự nghiệp hành nghề đưa khách qua sông.
Trai Tài Gái Sắc!
Ngưu Lang Chức Nữ!
Môn Đăng Hộ Đối!
Định mệnh phũ phàng!
Nhưng khi được gặp mặt Trương Chi thì nàng bỗng dửng dưng, vì nhìn chàng khác với người trong mộng.
Nhưng tiếng sét ái tình lại làm Trương Chi thương nhớ và ngậm ngùi ôm mối tình câm. Tình đầu, lãng mạn, đẹp và buồn làm sao, rồi chàng đã chết trong tẻ lạnh!
Tình tuyệt vời và tuyệt vọng! Đã biến trái tim chàng thành chén ngọc. Chàng vẫn mãi chèo đò trong chén ngọc với tiếng tiêu oán thương sầu nhớ.
Chàng đã chết vì nàng! Chàng trọn tình chung thủy với nàng!
Nhận tin sét đánh Mỵ Nương thẫn thờ, than vắn thở dài và thôi thúc nàng xuất hành tới thăm Trương Chi. Nghe chuyện kể, nàng nhìn chàng lái đò trong chén ngọc và ngậm ngùi nhỏ lệ. Chàng chờ nàng được giọt nước mắt của người yêu, chén mới tan, tình mới trọn!
Ai dám bảo Tổ Tiên khô
cằn sỏi đá? Lìa xa tâm hồn con người?
Dầu bất cứ hoàn cảnh hay lý do gì mà đôi nam nữ gặp nhau, ngay cả cảnh ngộ ngỡ ngàng hay cuộc sống khác biệt. Nếu hai người biết chấp nhận cho nhau, biết thực tâm tìm hiểu lẫn nhau, biết cảm thông cho nhau thì cuộc tình mới mỗi ngày tăng trưởng và thêm hạnh phúc.
Ngược lại cuộc tình cho dù có được khởi sự tốt đẹp mà mỗi người lại tự đóng khung trong ốc đảo, so sánh hơn thua thì ngày càng xây bức tường ngăn cách và đổ vỡ.
Khi yêu nhau vợ chồng phải ứng dụng nguyên tắc nhận thực chính mình trong cuộc sống hằng ngày, chỉ thấy con người, chỉ lấy con người làm tiêu chuẩn căn bản để nhận diện, chớ không vì gái tham tài, trai tham sắc như bao xã hội đương đại.
Ngoài ra vợ chồng còn phải dùng tài năng và của cải để giúp cho nhau thăng tiến trong cuộc sống lứa đôi, chung hưởng cuộc sống, kết hai cuộc sống thành một cho dù bất cứ ở hoàn cảnh nào.
Chấp nhận cho nhau, không vì bất cứ lý do gì mà lìa nhau. Sẵn sàng chết cho nhau.
Mãi mãi có nhau. Khi vợ chồng biết đối xử với nhau như vậy thì Tình Yêu mới thực sự trọn vẹn, cuộc sống mỗi ngày tăng thêm hạnh phúc, bền vững bên nhau.
Tóm lại, chuyện chàng rồng Trương Chi chết vì tình, Tổ Tiên xác tín về đời sống Bản Thân, nền tảng hạnh phúc Con Người, và đề ra những nguyên tắc sống thực nhằm bộc lộ và phát triển Tình Yêu của con người trong Xã Hội Đồng Bào.
Bọc Mẹ Trăm Con: Một là Trăm và 100 mà là 1. Mình sống vì mọi người, và mọi người vì mỗi người. Xin hỏi quý bạn có được không vậy?
Ở cấp Tình Nước, những người an dân thịnh nước như Tiên Dung Chử Ðồng thành Tiên, Phù Ðổng thành Thần. Tiên, Thần là phần thưởng công, phần thăng hoa hay tinh túy của linh thiêng.
Ở cấp Tình Nhà, Trầu Cau qua chuyện người em hóa đá, máu Mỵ Châu trọn tín thác chồng thì hóa ngọc, trái tim Trương Chi ôm mối tình câm, chỉ vì con người phân chia đẹp xấu, giầu nghèo thì cũng hóa ngọc. Ðá, ngọc là kết tinh, tinh túy của vật chất!
Nói đến cả hai phần vật chất và tinh thần của con người, được thăng hoa thành đá, thành ngọc, thành tiên, thành thần thì chúng ta lại trở về với con người Tiên Rồng – con người thật trong bộ ba nền tảng.
Vậy có sự an ủi và niềm
hãnh diện nào hơn là chúng ta được làm con cháu của Tổ Tiên dòng giống Tiên Rồng
siêu việt – được gọi chung là Con Cháu Tiên Rồng.
Phạm Văn Bản
********
Đối KhángThời Đại
Phạm Văn Bản
Nhìn chung, mỗi đợt sóng văn minh nhân loại là nhằm thay đổi nhu cầu của đời sống con người và thời đại mới, từ Thời Đại Tiền Sử (Pre History) bước vào làn sóng văn minh đầu tiên là con người cần có đất đai và hạt giống (Land & Seed) để xây dựng và phát triển thành ra Thời Đại Nông Nghiệp (Agricultural Age).
Nhưng Thời Đại Nông Nghiệp với tốc độ cỡi ngựa, chèo thuyền trải dài cả chục ngàn năm, cho tới khi con người phát minh ra Máy Hơi Nước (Steam Engine) với tốc độ và lực đẩy nhanh mạnh hơn nhằm thay thế cho sức kéo của con người và động vật lao động trong công xưởng, khi tiến sang làn sóng văn minh thứ hai có xe hơi, tàu thủy thì được gọi là Thời Đại Công Nghiệp (Industrial Age), và nhu cầu lại đòi hỏi phải có Tư Bản và Lao Động (Capital & Labor).
I. Thời Đại Công Nghiệp (Industrial Age)
Hơn ba trăm năm nay Thời Đại Công Nghiệp được khởi đầu từ khi nhà toán học người Anh là Sir Isaac Newton (1642 – 1726) khám phá ra lý thuyết khoa học vật lý và đóng góp những công trình nền tảng cho khoa học hiện đại, cũng như ông đã phát minh ngành toán học Calculus. Ông được công nhận là một nhà toán học, vật lý học, thiên văn học và triết học tự nhiên, như trong cuốn sách Các Nguyên Lý Toán Học của Triết Học Tự Nhiên (The Mathematical Principles of Natural Philosophy) xuất bản ở Châu Âu vào năm 1687.
Nhờ đó nước Anh đã biến cải về mọi phương diện và trở thành quốc gia công nghiệp đầu tiên, với máy hơi nước được dùng trong công xưởng sản xuất để phát triển kinh tế. Sau đó các nước Pháp, Ý, Đức… cũng tiếp tục xử dụng hệ thống khoa học kỹ thuật của thời đại mới này.
Khi công nghiệp phát triển thì xã hội tạo ra nhiều công việc mới, nhiều ngành nghề mới, nhiều hãng xưởng mới, nhiều dịch vụ... Mỗi ngành nghề lại có những hệ thống tổ chức sinh hoạt riêng biệt. Các hệ thống độc lập khuyếch trương mang đến đời sống văn minh, tinh thần dân chủ, tương thân tương ái vì những người cấp trưởng trong các ngành nghề đã biết tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau cộng tác, phục vụ cho nhân quần xã hội.
Sự ràng buộc này tạo ra Đức Tính Liên Thuộc (Interpersonal) của những người tổ chức, lãnh đạo, quản trị, điều hành... Và từ đó Thể Chế Dân Chủ ra đời.
Biểu tượng của thời đại công nghiệp là cột khói nhà máy. Công nghiệp là dùng máy móc thay cho sức lao động của con người, và sản xuất hàng loạt theo hệ thống giây chuyền.
Muốn công nghiệp hóa phải có máy móc, bởi thế, các nhà máy luyện thép, nhà máy biến chế thực phẩm, xưởng máy, xưởng xe, xưởng dệt, xưởng gỗ… xây dựng khắp nơi. Nhờ kỹ thuật cao, con người đã biến các thị trấn thành những đại đô thị, có phương tiện di chuyển thuận lợi với tộc độ nhanh chóng.
Sản phẩm hàng hóa công nghiệp càng ngày càng tăng tiến, chất lượng càng tốt, số lượng càng nhiều, và giá thành càng hạ cho nên đã làm cho con người càng thích tiêu thụ. Tiêu thụ giờ đây không còn là nhu cầu của con người, mà đã biến thành cái thú tiêu khiển, cái thích mua sắm, thích chưng diện, thích ăn mặc với đồ hiệu, hàng hiệu và đắt giá.
Rồi từ đó nguyên liệu, đất đai, sức lao động, vốn liếng tài chính đã trở thành những yếu tố quan trọng của thời đại công nghiệp, với mục đích để phát triển kinh tế quốc gia. Tài sản công ty giờ đây được đo bằng công trình kiến trúc, trang bị máy móc nặng, vốn liếng và hàng hóa.
Thời đại công nghiệp cũng chia những hoạt động ra thành ba cấp:
(1) Công nghiệp sơ cấp, gồm các lãnh vực sản xuất của thời nông nghiệp như nông – lâm – ngư được cơ giới hóa.
(2) Công nghiệp thứ cấp là ngành kỹ nghệ nặng như luyện thép, đúc nhôm, chế tạo xi măng, khai thác than đá, khai thác hóa chất từ dầu hỏa, sản xuất xe hơi, sản xuất máy móc gia dụng.
(3) Công nghiệp đệ tam cấp, gồm các dịch vụ tài chánh, bảo hiểm, cung cấp nước, hơi đốt, điện, chuyên chở, hàng hải, hàng không, nguyên tử năng và không gian.
II. Thời Đại Tín Nghiệp (Information Age)
Tới nay làn sóng văn minh thứ ba đang xây dựng phát triển và nở ra Thời Đại Tín Nghiệp (Information Age), nhu cầu của thời đại mới lại đòi hỏi con người phải có kiến thức và thông toàn (Knowledge & Wisdom). Thời đại mới này được xuất hiện tại Hoa Kỳ, khi phát minh ra Máy Vi Tính (Computer IBM) và Hệ Thống Liên Thị Tín Liệu (Internet) vào năm 1953.
Trước đây nhiều học giả ở thế kỷ 21 tiên đoán rằng, đợt sóng thứ ba, văn minh Thời Đại Tín Nghiệp sẽ chiến thắng nền công nghiệp và chủ nghĩa tư bản của Thời Đại Công Nghiệp (Industrial Age) một cách vẻ vang, với sức mạnh Siêu Tốc, Siêu Âm, Siêu Sóng, Siêu Sáng (Super Speed, Super Sound, Super Wave, Super Light) .
Con người tín nghiệp (Informator)
sẽ cải hóa con người công nghiệp (employees) và thay đổi toàn diện
(Change) theo phương châm của người xưa đã
từng nhận diện: “Ngày đổi mới, mỗi ngày đổi mới, tiếp tục đổi mới:
Cẩu nhật tân, nhật tân
tân, hựu nhật tân – Day of innovation, every day of
innovation, continue to innovate.” Đổi mới các lãnh vực tổ chức đời sống con
người, từ cá nhân cho tới gia đình,
cộng đồng cộng đoàn và xã hội.
Ngày nay trong lúc đợt sóng thứ hai vẫn còn “công nghiệp hóa” trên nhiều quốc gia nghèo đói chậm tiến... như ở Châu Á, Châu Phi… và con người nơi đó chưa được hưởng bình minh kỹ nghệ, thì đợt sóng thứ ba cũng đã bắt đầu khởi nguồn ở Hoa Kỳ từ khi phát minh Máy Điện Toán (IBM Computer) và Liên Thị Tín Liệu (Information).
Nếu như Máy Hơi Nước đã mở ra Thời Đại Công Nghiệp, thì Máy Điện Toán IBM cũng khai trương một kỷ nguyên mới, một nền văn minh mới là Liên Thị Tín Liệu là Thời Đại Tín Nghiệp (Information Age) của loài người.
Và như đợt sóng thứ hai là công nghiệp bắt đầu thực hành tại Hoa Kỳ vào khoảng năm 1865 và chủ nghĩa tư bản của Đảng Cộng Hòa, thì đợt sóng thứ ba lại khởi sự chuyển đổi thời đại công nghiệp tiến sang thời đại tín nghiệp từ năm 1953 khi Đảng Dân Chủ của Hoa Kỳ hỗ trợ và phát minh ra máy điện toán. Vào thập niên này, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại ghi nhận là giới công nhân lao động trí óc nhiều hơn công nhân lao động chân tay.
Biểu tượng thời đại là máy điện toán, máy này đã làm cho tiền bạc chuyển ngân nhanh như tốc độ ánh sáng, đó cũng là điều mà ít nhà kinh tế học thuở trước có thể đo lường về vận tốc thời đại nhanh như chớp sẽ được xảy ra. Thứ đến là các cấu trúc tổ chức chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, giáo dục, xã hội… cải hóa và mang chiều hướng lưỡng hệ hay đa nguyên, tức có tính bình đẳng, bình quyền, bình nhiệm để thiết lập thể chế chính trị mới – Tân Dân Chủ (New Democracy) trong Hiến Pháp mới sẽ ra đời nhằm giúp cho con người thực hiện tư cách làm người hơn, toàn vẹn hơn, hạnh phúc hơn.
Cũng bởi mỗi khi làn sóng văn minh mới làm thay đổi thời đại và đời sống con người, ví dụ từ săn hái qua nông nghiệp, nông nghiệp tiến sang công nghiệp, hay công nghiệp tiến sang tín nghiệp. Từ đó mỗi lần thay đổi thời đại đã thường xảy ra những cuộc nội chiến, đấu tranh, tàn sát, khủng bố đẫm máu giữa hai thành phần trong xã hội được gọi là cấp tiến (Progressive) và bảo thủ (Conservative) nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi của lớp người giầu có đang nắm giữ ưu thế.
Đó là chiến tranh thời đại hay nội chiến thường xảy ra ở khắp nơi, khắp các lãnh vực, khắp mọi phương tiện nhưng điều quan trọng chủ yếu là được điều động từ các đảng phái chính trị, hay lãnh đạo chính quyền.
III. Đối Kháng Thời Đại
Hoa Kỳ và các quốc gia công nghiệp Âu Châu cũng đã từng chịu nhiều đau khổ và chua xót khi chứng kiến những cuộc va chạm đẫm máu giữa hai thành phần đối kháng thời đại như công nghiệp tư bản do đảng cấp tiến Cộng Hòa (Republican Party) chủ trương nhằm xây dựng Thời Đại Công Nghiệp. Nhưng đảng phái Cộng Hòa đã bị chống đối bởi những nhà lãnh đạo của phe bảo thủ là Đảng Dân Chủ (Democratic Party) gồm các lãnh chúa, địa chủ, tài phiệt da trắng cầm quyền định đoạt.
Ở thời Tiền Công Nghiệp những nông dân được bắt đầu giới thiệu đi làm Công Nhân (Employee) trong những hãng xưởng, nhà máy, hay công ty xí nghiệp để có lương bổng nuôi sống bản thân và gia đình của họ. Đang khi giới bảo thủ, lãnh chúa địa chủ tài phiệt đã kết án họ và cho đó là “Cơ Sở Ma Quỷ: Devil's Facility,” rồi từ đó mà xảy ra Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ (American Civil War).
Nội chiến Hoa Kỳ là một trong những cuộc chiến tranh nông nghiệp và công nghiệp thực sự đầu tiên xảy ra. Ví dụ đường sắt, điện báo, tàu hơi nước và vũ khí sản xuất hàng loạt đã được xử dụng một cách rộng rãi trên khắp đất nước. Hãng xưởng xí nghiệp, nhà máy, thành thị, cơ sở thương mại... được xây dựng bao phủ trên khắp cánh đồng phì nhiêu của lãnh chúa chủ đất da trắng với Chế Độ Nô Lệ (Slavery).
Các học thuyết chiến tranh toàn diện được Sherman phát triển ở Georgia, và chiến tranh chiến hào quanh Petersburg là điềm báo trước cho Cuộc Chiến Tranh Thế Giới lần thứ nhất xảy ra ở Châu Âu. Cho đến nay, đây vẫn là cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ dẫn đến cái chết của khoảng 750.000 binh sĩ và một số lượng thương vong dân sự không thể xác định được.
Theo Sử Gia John Huddleston ước tính số người chết chiếm 10% toàn bộ số nam giới miền Bắc Hoa Kỳ là từ 20 đến 45 tuổi, và 30% đàn ông da trắng miền Nam Hoa Kỳ trong độ tuổi từ 18 đến 40.
IV. Nội Chiến Giữa Công Nghiệp & Nông Nghiệp
Nhìn lại thế kỷ 19, lãnh thổ Hoa Kỳ gồm có 36 tiểu bang và được chia thành 2 vùng rõ ràng:
1. Miền Bắc phát triển công nghiệp tư bản chủ nghĩa, kinh tế trại chủ nhỏ dựa trên chăn nuôi và sản xuất lúa mì.
2. Miền Nam phát triển kinh tế nông nghiệp qua các đồn điền (chủ yếu là trồng bông) dựa trên sự bóc lột lao động nô lệ (chủ yếu là người da đen).
Chế Độ Nô Lệ và Thời
Đại Nông Nghiệp của Đảng Dân Chủ đã bị các nhà tư bản công nghiệp miền Bắc trong
Đảng Cộng Hòa coi là vật cản trở kinh tế phát triển, bởi vì lao động nô lệ
không được tự do khiến cho người ta không thể tham gia sản xuất công nghiệp
trong các xí nghiệp hãng xưởng. Thứ đến là việc nhân công nô lệ giá rẻ, khiến
các bang miền Nam không cần mua bán các sản phẩm máy móc từ các nhà tư bản công
nghiệp ở miền Bắc.
Ngược lại, các chủ trang trại miền Nam kiên quyết đòi hỏi và duy trì chế độ nô lệ, bởi nếu không có lao động nô lệ thì các trang trại của họ sẽ không còn nhân công lao động, lương bổng rẻ mạt để thu hoạch lợi nhuận cao.
Vào thập niên 1850, Hoa Kỳ phát triển lãnh thổ sang miền Tây là vùng rộng mênh mông để xây dựng nền kinh tế kỹ nghệ của mình. Cả hai miền đều coi miền Tây như vùng dự trữ của mình, nhưng họ muốn phát triển vùng này theo hai hướng khác nhau: công nghiệp tư bản chủ nghĩa/ hoặc nông nghiệp với chế độ nô lệ đồn điền. Điều này càng ngày càng thúc đẩy mâu thuẫn giữa 2 miền lên cao thành đối kháng thời đại.
Khi đối kháng thời đại giữa hai bên còn chưa gay gắt thì hai miền còn thỏa hiệp với nhau qua thỏa ước Missouri và thỏa ước 1850, là cho phép miền Nam một số bang nô lệ, miền Bắc không có nô lệ, nhưng sự thỏa hiệp này không kéo dài được lâu. Cho tới khi cuộc nội chiến phản ảnh cuộc sự mâu thuẫn về chế độ tập quyền, tức là quyền hành được tập trung ở chính quyền liên bang của Đảng Cộng Hòa chiếm đa số ở miền Bắc ủng hộ. Trái lại chế độ phân quyền là quyền hành được chia cho các tiểu bang, được ủng hộ bởi Đảng Dân Chủ và chiếm đa số ở miền Nam. Sự đối kháng thời đại này đã kéo dài từ khi Hoa Kỳ mới lập quốc, nhưng tới nay trở thành gay gắt.
Nguyên nhân trực tiếp đã làm bùng nổ đối kháng thời đại, là cuộc Bầu Cử Tổng Thống Hoa Kỳ năm 1860. Trong cuộc bầu cử này Đảng Cộng Hòa được giới Tư Bản Công Nghiệp hậu thuẫn, và ứng cử viên Abraham Lincoln đắc cử Tổng Thống theo chủ trương “mạnh vì gạo, bạo vì tiền.”
Sự thắng lợi của Đảng Cộng Hòa với chủ trương bãi bỏ chế độ nô lệ làm cho lãnh chúa chủ nô của các Tiểu Bang Nông Nghiệp miền Nam điều hành bởi Đảng Dân Chủ bất bình và tuyên bố tách khỏi Liên Bang. Còn nguyên nhân sâu xa dẫn đến nội chiến là nhu cầu thủ tiêu nền kinh tế đồn điền ở miền Nam, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
V. Đối Kháng Thời Đại Công Nghiệp & Tín Nghiệp
Ngày nay sự chống đối thời đại tín liệu của phe bảo thủ Hoa Kỳ trong Đảng Cộng Hòa cũng đang gay gắt, nhằm mục đích bảo tồn và bảo toàn Thời Đại Công Nghiệp trong hơn 160 năm qua, với số tài sản kếch xù và đặc ân, đặc quyền đặc lợi của Cộng Hòa còn mang nhiều hình thức bạo lực, khủng bố ghê gớm hơn nhiều. Cũng như những chống đối, tranh chấp biên giới, phong trào quốc gia nổi lên giữa hai thời đại văn minh nông nghiệp và kỹ nghệ đã tạo ra những bế quan tỏa cảng của các nước nông nghiệp trên hành tinh này.
Hiện tượng này đang còn lập lại cho bất cứ nước nào muốn công nghiệp hóa. Vì quốc gia công nghiệp là tự làm mòn biên cương lãnh thổ, cũng như xâm nhập lãnh thổ. Các xâm nhập khoa học kỹ thuật, văn hóa tôn giáo cũng làm lu mờ biên cương chính trị của các nước này.
Công nghiệp bành trướng thị trường quốc gia, kéo theo chủ nghĩa quốc gia, và chiến tranh thống nhất quốc gia xảy ra tại Đức, Ý và nhiều nơi trên thế giới. Sức mạnh công nghiệp của dân Châu Âu cần thị trường nguyên liệu rẻ ở những nơi xa xôi, do đó sức mạnh công nghiệp cũng tạo ra chiến tranh, và đem quân đi xâm chiếm các nước ở trong thời đại bộ lạc hay làng nước nông nghiệp như ở Châu Á, Châu Phi.
Nhìn chung những nhân tài của thời đại công nghiệp đã chiến thắng trong việc tranh đoạt quyền hành ở trong nước cũng như đã chiến thắng trong những cuộc tranh đấu ở các nơi khác trên thế giới. Quốc gia công nghiệp có nền kinh tế và xã hội phức tạp hơn nên cần liên lạc với các nước bên ngoài nhiều hơn qua các hiệp ước quốc tế.
VI. Hãy Làm Cho Hoa Kỳ Vĩ Đại Trở Lại
(Make American Great Again)
Như phần trên chúng tôi trình bày, thì thời đại công nghiệp do Đảng Cộng Hòa chủ trương và xây dựng. Từ đó khối hiệp ước quốc tế gia tăng đáng kể trong thời gian qua. Quốc gia công nghiệp tiến đến nền khoa học kỹ thuật cao nhờ sự liên lạc tối tân. Một lần nữa, khoa học kỹ thuật cao lại làm mềm, làm mỏng biên giới quốc gia quốc tế.
Trong nước phải chịu những cải cách kinh tế, bằng cách phải đập phá những cơ xưởng công nghiệp cũ để tân tạo lại những xí nghiệp mới. Và rồi các cơ sở và máy móc cũ này lại được trở thành mới mẻ và đem bán cho các quốc gia chậm tiến như Á Châu, Phi Châu...
Ngày nay các công ty xí nghiệp công nghệ cũ trở thành to lớn như con khủng long chậm chạp và đang tê liệt nền kinh tế quốc gia của Hoa Kỳ, cũng như nhiều nước Châu Âu, Châu Úc. Những xí nghiệp không thông minh sẽ bị đào thải, và từ đó phe cấp tiến của Đảng Dân Chủ phải đặt lại vấn đề cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ nền tảng, cũng như thị trường của công ty.
Trong thời đại khởi thủy công nghiệp thì quốc gia có nhiều hệ thống tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo, kinh doanh, thương mại, tài chánh, nghề nghiệp, công xưởng, đoàn thể đạt tầm vóc quốc gia. Và vào thời đại Hậu Công Nghiệp như Hoa Kỳ hiện nay, thì con người lại tạo ra nhiều hệ thống cấp quốc tế.
Rõ ràng là qua các hiệp ước quân sự hay kinh tế, nhiều hệ thống phát sinh như đợt sóng thủy triều chuyển đổi xã hội nhân loại tiến sang Thời Đại Tín Nghiệp.
Nếu như công nhân, đất đai, nguyên liệu, vật liệu, tài liệu là yếu tố sản xuất của thời đại kỹ nghệ, thì Kiến Thức (Knowledge) bao gồm dữ kiện (Data), tin tức (Information), thông toàn (Wisdom) về hình ảnh, biểu tượng, văn hóa, lý thuyết, khả năng trải qua giáo dục học đường và kinh nhiệm sống là yếu tố sản xuất của thời đại tín nghiệp. Thế kỷ của kiến thức, của tri thức, của trí tuệ thời đại, cho nên nhu cầu chính trị xã hội cũng cần có con người thông toàn (Wisdom).
Nhìn vào thời đại tín nghiệp hiện nay ở Hoa Kỳ, những hệ thống toàn cầu đang mọc lên như nấm, ví dụ: những hội thể dục thể thao, hôn nhân chuyển giới, khoa học kỹ thuật, tín ngưỡng tôn giáo mới. Một số khám phá mới cũng tạo ra những tổ chức mới như: Bảo vệ môi sinh là vấn đề của toàn cầu, và giới truyền thông đã tạo thành ngôi làng thế giới.
Theo đường toán học Parabol được định nghĩa là một đường conic, đường cong được sinh ra bởi điểm giao của hình nón với mặt phẳng song song theo đường sinh của chính hình đó. Nói một cách khác thì Đảng Cộng Hòa của Hoa Kỳ đã xây dựng và phát triển Thời Đại Công Nghiệp và Tư Bản Chủ Nghĩa trong hơn 160 năm, từ thời tiền công nghiệp đã tiến tới điểm cực thịnh của thời trung công nghiệp và Hoa Kỳ đã trở thành một quốc gia hiệp chủng giầu sang thịnh vượng vào bậc nhất thế giới sau Đệ Nhị Thế Chiến, tới cực đại thì phải về cực tiểu và về vị trí Hậu Công Nghiệp thời nay.
Bởi thế mà Đảng Cộng Hòa đã đề cử cựu tổng thống Donald Trump lãnh đạo thời đại công nghiệp nhằm thực hiện cuộc đối kháng thời đại, ngõ hầu ngăn chận hay kéo dài thêm thời gian mà chống lại làn sóng văn minh thứ ba của thời đại tín nghiệp đang ập tới, do cựu tổng thống Barrack Obama và Đảng Dân Chủ đã khai trương nhưng chưa công bố rõ ý niệm.
Bởi thế mà cựu Tổng Thống Trump đề cập phong trào Make American Great Again. Thực ra “Hãy làm cho Hoa Kỳ vĩ đại trở lại” đã được xử dụng một cách nổi tiếng trong chiến dịch tranh cử tổng thống Cộng Hòa của Ronald Reagan vào năm 1980. Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ cũng phải chịu đựng một nền kinh tế tồi tàn, đánh dấu bằng lạm phát và thất nghiệp.
VII. Giải Quyết Xung Đột
Nhiều học giả điều tra nguyên nhân xảy ra cuộc nội chiến xưa nay đã thường tập trung vào 2 lý thuyết đối nghịch “tham lam – bất bình: Greed Vs Grievance.” Từ đó nguyên nhân xung đột thời đại của những người theo khái niệm về sắc tộc, tôn giáo, hay các mối quan hệ xã hội khác, hoặc xung đột bắt đầu do sức hấp dẫn kinh tế thời đại của những cá nhân trong hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ để tiến hành xung đột nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi... Phân tích học thuật kết luận rằng các yếu tố cấu trúc và kinh tế đóng vai trò quan trọng hơn những yếu tố nhận diện trong việc dự đoán sự kiện xảy ra nội chiến.
Những nghiên cứu toàn diện về nội chiến này do nhóm Ngân Hàng Thế Giới thực hiện vào đầu thế kỷ 21, và đưa khuôn mẫu nghiên cứu này thành mô hình được gọi là Collier Hoeffler Model. Nghiên cứu chi 78 khoản thời gian 5 năm liên tiếp khi cuộc nội chiến bắt đầu, và 1167 khoản thời gian 5 năm sau nội chiến để so sánh và đưa ra kết luận và nguyên tắc giải quyết chiến tranh cho những chính quyền tương lai kế tiếp, nhằm đạt mục tiêu kiến thức và thông toàn.
Do đó Lưỡng đảng Hoa Kỳ ngày nay rút kinh nghiệm cuộc nội chiến và mô hình giải quyết Collier Hoeffler nên đã tránh bớt được nhiều bất bình và căng thẳng trong thời gian qua. Hy vọng Tổng Thống Joe Biden và Đảng Dân Chủ sẽ dẫn đưa Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ bước sang kỷ nguyên mới nhằm xây dựng và phát triển thời đại tín nghiệp cho cả loài người.
VIII. Kết Luận
Hy vọng qua cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ của thời đại nông nghiệp và công nghiệp trong làn sóng thứ hai sẽ giúp cho Lưỡng Đảng thoát khỏi chiến tranh tàn phá trong làn sóng thứ ba của thời đại công nghiệp và tín nghiệp.
Tóm lại qua các thời đại, cơ cấu tổ chức càng ngày càng phức tạp, hệ thống tổ chức để điều hành, để quản trị một xã hội, một quốc gia, một vùng hay toàn thế giới càng ngày càng nhiều. Vận tốc của thời đại càng nhanh bao nhiêu thì nguy cơ chiến tranh của nhân loại càng bùng nổ bấy nhiêu. Tàn phá của chiến trận trong thời đại sau bộc phát nhanh với vận tốc cực kỳ nguy hiểm hơn thời đại trước, và ảnh hưởng giây chuyền trên toàn thế giới, nếu phe tuyên chiến hay lâm chiến có đồng minh hay người ủng hộ khắp toàn cầu./.
*****
*CON NHIỀU BÀI GIÁ TRỊ KHÁC NỮA...HẸN GẶP LẠI SAU
*****
Đăng nhận xét