CAO XUÂN HUY THÁNG BA GÃY SÚNG

 THÁNG BA GÃY SÚNG

 


TỰA


Cao Xuân Huy


Tôi không phải một nhà văn, tôi chỉ một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, nhng điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ.

Tôi viết những điều những thằng lính chúng tôi đã trực tiếp tham dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự.

Trong lứa tuổi của tôi, lứa tuổi dưới mười khi theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam, ngoại trừ những người có thân nhân ruột thịt bị giết bởi việt cộng, còn hầu hết, có bao nhiêu người thực sự căm thù việt cộng đâu, rệt mt điều từ lứa tuổi tôi trxuống, có đứa nào biết việt cộng là cái gì đâu.

Cũng y như lứa tuổi dưới mười khi theo cha m qua M từ năm 1975 ở đây bây giờ. Cũng thù ghét việt cộng vậy, nhưng chỉ cái thù gia truyền, cha m thù


ghét thì mình cũng thù ghét theo thế thôi, ch chẳng sâu đậm cả. Cho đến khi lớn lên, đầu óc đã tạm đủ để suy xét thì khổ một nỗi, hệ thng tuyên truyền ca Việt Nam Cộng Hòa lại giá trị phản tuyên truyền nhiều hơn tuyên truyền. Cho nên khi vào quân đội, tôi tình nguyện vào đơn vị tác chiến thứ thiệt căm thù kẻ địch thì ít cái máu ngông nghênh ca tuổi trẻ, bị kích thích bởi những cảm giác mạnh của chiến trường thì nhiều.

Tuy nhiên, một đơn vị thường xuyên tác chiến, cùng gian nguy, cùng sống chết với nhau nên tôi đã gắn bó với bạn bè, đồng đi trong đơn vị như với anh em ruột thịt. Tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trng thượng cấp tôi. Tôi bình thản chấp nhận mọi thói tật xấu ca thượng cấp thuộc cấp, và chính tôi cũng có quá nhiều thói hư tật xấu.

Nhưng, khi hai ông xếp lớn của tôi là Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng và Trung Tá Lữ Đoàn Phó b Lữ Đoàn gồm bn Tiểu Đoàn tác chiến các đơn vị phụ thuộc tổng cộng vào khoảng trên dưới bốn ngàn ngưi trong cơn quẫn ch để chạy lấy thân thì lòng căm hận của tôi đột nhiên bùng dậy. Tôi giết việt cộng không gớm tay nhưng không bi lòng căm thù giữa chúng tôi và việt cộng đã lằn ranh rõ rệt, hai bên chiến tuyến hẳn hòi, h cứ thấy mặt nhau là giết, dùng mọi mưu mọi cách để giết nhau. Còn đằng này, vừa mất niềm tin vừa tủi nhục vì những người mình vừa kính trọng vừa phải tuân lnh một ch tuyệt đối.

Làm Thuyn Trưởng thì phải sống chết theo tàu, làm Đơn Vị Trưng thì phi sống chết theo đơn v. Tôi muốn nói đến tinh thần trách nhiệm của ngưi chỉ huy. Người quyền hành không trách nhiệm nào khác kẻ phản bội. Chúng ta thua không phải kẻ địch mnh mà vì trong hàng ngũ chúng ta có quá nhiều kẻ phản bi và hèn nhát. Chính vì lòng thù hn sự hèn nhát và vô trách nhiệm của cấp chỉ huy nên hình ảnh din tiến những ngày cui cùng trước khi cả Lữ Đoàn tan rã và bị bắt bởi khong hơn một Đại Đi du kích việt cộng vào na cuối tháng Ba năm

1975 đã như một cuốn phim nằm in trong trí nhớ của tôi, chỉ cần một cái ấn nút là được chiếu lại một cách nét với đầy đủ những suy nghĩ và phản ứng của tôi, với từng diễn tiến nhỏ mà tôi đã trải qua.

Tôi ôm cái kỷ niệm đau đớn và ti nhục này cả chụcm nay, qua những năm tù đày, qua những ngày tháng lang thang trại t nạn, qua đến Mỹ, tôi đọc được lời tuyên bố của một ông tướng cũ nào đó trên báo đi khái ‘’Để mt nước là tội chung của mọi người, làm lớn thì tội lớn, làm bé thì tội bé’’.

Tôi nghĩ ngay đến một điều những thng đâm sau lưng chiến sĩ có ti, và những thng chiến sĩ đưa lưng cho xếp ca mình đâm cũng tội luôn. Điều này đã là cái ấn nút để tôi kể lại câu chuyện này.

Điềui muốn nói trong quyển sách này là không ai là không quay lại nhìn chỗ mình vừa ngã, cũng không ai không quay li nhìn đống phân mình vừa thải. Ngã lỗi của chính mình, và phân có thối cũng phân của mình, vậy tại sao cả chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay nhìn li cái li đã làm cho mình ngã lên ngay trên đống phân của mình, chỉ toàn những li chửi bới đổ li cho người khác, can đảm lắm cũng chỉ dám nhn một cái lỗi chung chung ‘’lớn lỗi ln, lỗi bé’’ đúng theo cái kiểu ‘’quốc gia hưng vong thất phu hữu trách’’. Thằng thất phu còn có lỗi thì còn ai mà không có lỗi, tôi cũng đành có lỗi vậy.

Tôi không nhớ câu này của ai: ‘’Cái đám quân thần của triều đinh cũ chẳng phải ngi cả, khi quân quyền trong tay họ còn chẳng làm được trò trống gì, thì bây giờ, chỉ còn trơ lại có mỗi cái thân giá áo túi cơm, hỏi rằng họ sẽ làm được gì hơn ngoài cái giá và cái túi’’.


Đâu phi đất nước ta một bàn cờ để hễ đánh thua ván này, xóa đi xếp quân làm lại bàn khác tướng vẫn tướng, quân vẫn quân. Đâu phải những con xe, con mã, con chốt đã chết đi đều thể dựng đầu dậy để làm lại một trận mới.

Trí đã không mà dũng cũng không, chỉ mỗi cái tài dở dở ương ương sử dụng một cách bừa bãi cái dũng của người khác đến nỗi phi bỏ cả đất nước mà chạy, đánh lừa để bỏ hàng triệu thằng dám chiến đấu tới cùng vào trong những trại tù đỏ, vậy vẫn còn dám chường mặt ra đoi tiếp tục làm cha mẹ dân thì quả là quá lắm lắm. Cái dĩ vãng thối tha hèn nhát thì cho người đương thời thể bỏ qua, nhưng lịch sử đâu có tha thứ. Vẫn cái chính danh là chống cộng nhưng cái ngôn của các ông trước kia làm xếp lớn đã không thuận rồi, bây giờ phi để cho lp ngưi mới. Với tư thế mới, hmới là những ngưi thuận ngôn. Danh chính ngôn thuận mới có th thắng được vit cộng, khôi phục li được đất nước. Những con chốt thấp cổ bé miệng, những thằng bị đè đầu sai khiến ngày xưa những người mới lớn bây gimới có quyền nói và mới là người có tư cách làm.

Quyển sách này không hề là một tiểu thuyết mà là một hồi ký. Bi vì tôi chưa từng là một người cầm bút và tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyn như thế nào. Tháng Ba thì mọi người đã rõ, còn Gãy Súng, tôi muốn nói lên một điều đau lòng cho những thằng lính cầm súng, khu súng không đạn thì giá trị không bằng một khúc ci mc, chính tôi đã dẫn Đi Đội xung phong lên chiếm mục tiêu chỉ bắn bng mồm. Súng của chúng tôi có phải đã bị bẻ gãy không khi mà vẫn có thể tiếp tế đạn cho chúng tôi để chúng tôi chiến đấu? Ai đã b gãy súng ca chúng tôi ? Tôi đặt chữ Gãy Súng cho quyển sách này là như vậy.

Và tôi gọi Tháng Ba Gãy Súng hồi tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những điều tôi viết, tất cả những địa danh, những tên người, tên đơn vị, tất cả nhng diễn tiến đều là thật, thật một trăm phần trăm. Tôi không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào, chắc chắn là tôi đã quên khá nhiều chi tiết, với cấp bậc chức vụ thấp kém của tôi, chắc chắn là có rất nhiều dữ kiện mà tôi đã không được biết. Tôi viết lại hoàn toàn s thật những điều mắt thấy, tai nghe, những điều tôi đã nhận lnh và đã thi hành.

Nếu Tháng Ba Gãy Súng tiểu thuyết thì tôi li phi thêm một câu màu mè đại khái ‘’những nhân vật và nhng sự việc đều do sự tưởng tượng của tác giả, mọi sự trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên ngoài ý muốn...’’, trong khi tôi ch có một điều ngoài ý muốn là tôi đã không đủ khả năng để viết tt cả những điều tôi phải viết.

Cao Xuân Huy

***

Tôi thằng bạn lang thang khắp các quán nhậu, quán bia ôm trong thời gian Thành Ph đang xôn xao về chuyện mất Ban Mê Thut. Vừa mới xong vụ Phước Long thương khó, bây gilại đến Ban Mê Thuột ‘’khó thương’’.

Không biết lần y những nơi ăn chơi ca trai thanh gái lịch Sài Gòn bị đóng cửa ba ngày như lần trước không ? Nhưng cả chuyện mt Ban Thuột lẫn chuyện đóng cửa những nơi du chẳng ăn nhậu gì đến bọn tôi cả.

Cho dù tất cả những quán bia ôm bị đóng cửa, bọn tôi vẫn có thể lê la nhng quán cóc l đường. Hơn nữa, lúc này đã vào nửa cuối tháng lương ngày vui chắc chắn sẽ còn rất dài nên chuyện ngi quán cóc lại là điều hợp hợp tiền. Thành ra với bọn tôi, nhậu cái cũng nhậu. Chúng tôi cần nhu sau đó xung xóm tìm chị em ta, thật giản dị dễ tính. Quán cóc các xóm ch em ta bảo đảm là không bnh hưởng một về chuyện Thành Phố phải để tang cho một địa danh nào đó vừa mất. Tôi cũng vậy. Phước Long mất, Ban Thuột mất, Pleiku, Kontum đang chun bị mất tôi xem như ‘’nơ-pa’’, bi vì tôi sống và lớn lên ở Sài Gòn nên tôi đã thừa hưởng trọn vẹn cái thói thản nhiên, cái tính phớt tỉnh Ăng-lê hơn người Ăng-


lê của dân Sài Gòn. Thành th một địa danh nào đó ln nhỏ, vừa mất đi hay vừa chiếm lại được nếu không ăn nhậu gì đến chuyn làm ăn ca mình, chuyện mất mát người thân của mình hay ảnh hưởng đến chuyện ăn chơi ca mình thì dĩ nhiên không phi là chuyện của mình. Tiếng súng ở ngoài tầm tai của mọi người mà. ‘’Tôi vẫn sống, tôi vẫn ăn và tôi vẫn thở...’’.

Tôi đã trú đóng một thời gian Ban Thuột, cũng một ít kỷ niệm lăng nhăng về tình cảm ở Ban Mê Thuột. Nhưng tôi không có tài sản, tôi không có thân nhân đang hay đang đánh đm Ban Thuột, những nơi ăn chơi của tôi ở Sài Gòn không bị ảnh hưởng bi chuyện mt Ban Thuột, nên một năm mười hai tháng, chỉ có mấy ngày là được ăn nhậu thoải mái, không phải lo bất cứ chuyện gì, vậy thì tại sao tôi phải bận tâm về những chuyện không phi của mình ? Mất hay không mất Ban Mê Thuột thì đã sao?

La cà ở các quán nhu và sau đó xung xóm đã là một chương trình bất di bất dịch trong những lần phép ở Sài Gòn. Đã có ln tôi viết thư cho một người bạn kể về những lần phép và những ngày phép ca tôi: ‘ Sài Gòn, suốt ngày tao chỉ ngồi và nằm, ngồi với rượu và nằm với gái, vì cả năm sau đó tao không còn được ngồi và nằm thoải mái nữa, và chưa chắc tao đã có thêm được một lần phép kế tiếp. Lý do thật giản dị là mỗi buổi sáng mở mắt ra mới biết là mình đã sống thêm được một ngày’’.

Thời gian này tôi ch tiếc một điều là Rex vừa chiếu một xuất đặc biệt phim Exorcist để lấy tiền giúp đng bào chạy loạn; giá thật đắt nhưng đã hết nhẵn từ chiều, kể cả vé chợ đen đắt gấp ba bốn lần giá chính thức. Tôi đến trễ nên không mua được vé. Không hiểu cả năm nữa tôi mới được về, chắc đã đúng vào dịp phim này được chiếu lại. Tôi tiếc không phải tôi đã không được đóng góp chút đỉnh tin theo kiểu trước mua vui sau làm việc nghĩa để cứu giúp đồng bào mình, mà vì phim này được quảng cáo hp dẫn quá, tôi muốn được xem đã t lâu rồi. Thôi thì lại nhu.

Đến ngày hết hạn trên giấy phép tôi ra trình diện hậu cứ ở Vũng Tàu để gia hạn, vì tôi đã lên máy bay rời Huế chậm hơn ngày ghi trong giấy phép.

Đường Sài Gòn-Vũng Tàu lúc này hơi mất an ninh nên những chuyến liên lạc giữa hu c Tiểu Đoàn với B Lệnh Sài Gòn thưa hơn trước. Trong khi chờ đợi quyết định của Tiểu Đoàn Trưởng hành quân, tôi la ở Bãi Trước để tránh phải nghe chuyện ngồi đôi mách, nói xu nhau của những vợ sĩ quan khu gia binh của hậu cứ.

Ăn nhu ở đây quá phí tiền nên không đi Tiểu Đoàn Trưởng gia hn giấy phép, tôi biết chắc chắn là tôi sẽ không được gia hạn cũng không đi để đi theo chuyến liên lạc, tôi t động coi như mình đã hợp lệ chuyện kéo dài ngày phép, tôi lên xe đo về Sài Gòn sau một chầu nhậu say mèm với bọn đệ t hậu cứ. Thủ hai quả lựu đn trong túi quần cho chắc ăn, nhưng vừa bước chân lên xe tôi đã ngủ như chết. Về đến Sài Gòn tên lơ xe còn phải lay một hồi lâu tôi mới tnh.

Tôi lại liên miên sáng xn chiều say tối nằm quay với gái, mặc dầu đã hết cả những ngày phép t gia hạn. Nhưng nhm nhò gì, tôi vẫn còn những ngày phép tự ký nữa vì tôi là một thằng có biệt tài trễ phép. Tùy cơ ứng biến, tôi có trăm phương nghìn kế để trễ phép mà không bị phạt. Tôi đã từng đi hai mươi tám ngày trong khi phép chỉ có bốn ngày, ra đơn vị cũng chỉ cười trừ.

Lần đi phép này, tôi đã không định trễ, nhưng tôi đã bị Tiểu Đoàn Trưởng gi lại đơn vị đến qua Tết ta trong khi giy phép củai đã được gửi về hậu trạm trước Noel, nên không lý do gì mà tôi không trễ phép để bù lại sự thiệt thòi đó.

Suốt bảy năm lính tôi chỉ được ăn Tết lén Sài Gòn một lần vào đầu năm 70 tôi tình nguyện đi học khóa Rừng Núi Sình Lầy Dục Mỹ để câu gi kiếm cái Tết.


Đ trả thù bị mất khơi khơi một cái Tết huy hoàng ở Sài Gòn tôi tính phải trễ phép một tháng tức phải Sài Gòn một tháng rưỡi mới hả dạ. Tôi được phép thưởng đặc biệt mười lăm ngày, cho nên đã hết những ngày phép t gia hạn, tôi còn đến một tháng phép tự nữa. Thiếu một thằng sĩ quan tại một Đại Đội lúc nào cũng có sẵn hai, ba thằng sĩ quan dự bị t đâu nhằm nhò gì, mợ đi lấy chồng thì ch vẫn vui mà.

Nhưng chợ đã không vui.

Chiu 15 tháng Ba, tôi gp Thiếu Úy Bé Quân Cảnh vừa tB Tư Lệnh hành quân về, cho biết Tiu Đoàn tôi đang đụng lớn. Tiểu Đoàn tôi nằm y s 23 về phía Bắc trên Quốc Lộ 1 tính tHuế. Khu vực trách nhiệm của Tiểu Đoàn t bờ Bắc sông An Lỗ ra đến căn cứ Hòa Mỹ. Sát sông An Lỗ là hai làng Cổ Bi và Hiền Sĩ, nơi đã xảy ra những trận đánh lớn sát Quốc L, hiện nay vẫn đang bị đặc công du kích quấy phá, nhưng chỉ quấy phá ch không có đáng ngại. Sát căn cứ Hòa Mỹ là làng Đồng Lâm, một cái làng hầu như từ trưởng ấp trở xuống đều là việt cộng. Phía đông bãi cát mênh mông, một ít dân Quảng Trị chạy loạn về tạm lập thành một vài xóm nhỏ, tương đi an toàn. Còn v phía Tây của vùng trách nhiệm, nơi đối diện thực sự với Việt cộng, nơi mặt đối mặt, chạm tuyến, có điểm đóng quân, nơi phía tây này có một trọng đim là Đồi 51. Từ Đồi 51, chúng tôi có thể quan sát được những cuộc chuyển quân, kiểm soát được những hoạt động tại các vị trí của việt cộng, cũng t Đi 51, việt cng thể kiểm soát được các vị trí đóng quân của chúng tôi, kể cả một đoạn Quốc Lộ 1. Việt cộng có thể dễ dàng liên lạc vi bọn du kích nằm trong làng Đồng Lâm, nằm ngay sát Quốc Lộ và ngay bên cạnh căn cứ Hòa M.

Nếu Tiu Đoàn tôi đụng lớn, chắc chắn là đng tại Đồi 51. Tính theo vòng thay

đổi điểm đóng quân trong Tiểu Đoàn thì Đại Đội tôi đang nằm Đồi 51.

Ban Thuột mất không ăn nhậu đến tôi. Người ta đang bỏ Pleiku, Kontum cũng chẳng nhằm nhò gì đến tôi. Nhưng Đồi 51, một ngn đồi nhỏ không có tên, chúng tôi phải lấy cao độ ca nó để đt cho nó một cái tên cho dễ gọi, nơi mà không một người Sài Gòn nào nghe nói đến, nơi mà dù có mất nó cũng không đáng để cho người ta xê dịch cái kim hay đổi màu bút chì mỡ trên bn đồ chiến sự trong những báo cáo hằng ngày, nơi bản tin chiến sự hằng ngày của Đài Phát Thanh Quân Đội cũng không buồn đọc, nơi báo chí hằng ngày cũng coi như không đáng đăng bng tin xe cán chó, thì chính nó, cái đồi trọc lóc, nhỏ xíu và lùn tịt nm ở cc Bắc Việt Nam Cộng Hòa, li điều rất quan trọng đối với tôi, đã làm tôi bỏ ăn bỏ nhậu, đã làm tôi đang phè phn phải tìm mọi cách ra đến nơi càng sớm càng tốt. Nó mạnh hơn những ngày phép trả thù của tôi, nó hạ đo ván tất cả những lý do, những cái mánh tôi đang sp xếp để qua mặt Tiu Đoàn Trưởng, đó ngọn đồi Đi Đội tôi đang trấn đóng, nơi anh em bn, thầy trò của tôi không biết thng sống thằng chết ra sao.

Sáng 16 tháng Ba, tôi lên trình diện Bộ Tư Lệnh, phòng Tư cho biết ít ra phi cả tuần nữa mới có được tên trong danh sách của chuyến bay ra Đà Nẵng, Phi Trường Phú Bài đã không sử dụng được nằm trong tầm pháo của việt cộng.

Lúc ăn đim tâm tại Thị Nghè sáng ngày 17 tôi đã năn nỉ Thượng Sĩ Tuấn, người phụ trách lập danh sách cho các chuyến bay của Sư Đoàn để được tên trong chuyến bay ngày 18.

Chiu 17 tháng Ba, tôi chào gia đinh để đi. Bà ngoi ôm tôi khóc. Mẹ tôi không muốn tôi đi. Và cậu tôi tuy là em của mẹ tôi nhưng ông mới chính là bố tôi vì ông đã nuôi tôi t ngày còn đ hỏn cho đến khi tôi bước chân vào đời khuyên tôi nên đào ngũ vì tình hình theo ông biết Mỹ sẽ bỏ rơi Việt Nam. Ông nói:


- Tình hình lúc này không còn được như trước nữa đâu con ạ! Những người Mỹ cậu quen đã lục tục về nước gần hết, chỉ còn ít người ở lại đ thu xếp công việc, cậu chắc rồi họ cũng sẽ đi nay mai gì đó thôi. Tốt nhất con nên nhà đ còn lo liệu cho gia đinh. Nhà mình chỉ có cậu với con là đàn ông thôi.

Tôi tin ông nói tht. Dĩ nhiên ông không nói hết những điều ông biết nhưng ông cho tôi một lời khuyên gói trọn tất cả những điều ông cần nói. Sự quen biết của ông đủ để bảo đảm những điều ông nói nên tôi tin ông thực sự muốn tôi đào ngũ nhà để tránh phi húc đầu vào những trận đánh ích. Nhưng tôi không nghe lời ông. Chắc chắn là Mkhông bỏ Việt Nam, bao nhiêu xương máu và của cải của Mỹ đã đổ xuống đây rồi. hiện giM chỉ không tăng vin trợ chứ M đâu có cắt hết vin trợ. Chúng tôi đã chẳng phải chiến đấu theo kiu nhà nghèo từ sau ngày ngưng bn rồi ư. Còn một điều nữa là bạn tôi, anh Phát làm ở H Viện, cho biết sẽ cắt đất hoặc ở An L hoặc ở Lăng Cô.

Hơn nữa, còn đồng đội tôi, còn đàn em tôi, còn danh dự tôi. Tôi sẽ ăn nói thế nào với họ khi tôi, thằng Huy Râu của Tiểu Đoàn 4 đào ngũ khi đơn vị đụng trận. Riêng chuyện trễ phép trong khi Đại Đội bị tấn công ở Đồi 51 đã không đủ nhục hay sao, không lẽ bây gi tôi lại bỏ mặc tụi nó, đào ngũ đ lo cho thân mình chuyện khó tin chưa xảy ra. Không, cậu tôi nói thật nhưng chỉ điều ông căn cứ vào những tin tức từ bạn bè, người quen của ông, còn tôi, tôi không thể nghe li ông tôi không mun là một thằng hèn. Tôi nói với ông:

- Sống chết sướng khổ gì cũng số hết cậu ạ. Cháu không muốn phi ngượng mỗi lần gặp lại bạn bè, đồng đội.

Tôi không phải một người hùng, nhưng tôi cũng không phải một người hèn. Tôi chỉ là một người lính. Lính của một binh chủng chuyên môn đánh trận và chỉ nhận những ngưi tình nguyện, tôi phải xứng đáng vi màu mũ tôi đang đi, màu áo tôi đang mặc, hơi nhân một chút, tôi phải xng đáng với cặp lon i đang đeo...Nhưng tôi cũng không phải là một người lính gương mẫu, đúc khuôn theo những điu được huấn luyện trong quân trường, thi hành đúng 8 điều, 10 điều tâm niệm của mấy ông Chiến Tranh Chính Trị đẻ ra chính mấy ông ấy li không bao gi thi hành. Tôi một thằng lính ba gai, c bạc, rượu chè, trai gái đ cả nhưng đánh giặc cũng rất tn tình. Chưa một ai, thượng cấp cũng như thuộc cp, phải than phiền về tôi trong nhng trận đánh.

Trưa 18 tháng Ba, ra đến Đà Nng, tôi phi ngủ lại mt đêm không có xe ra Huế. BTư Lệnh Hành Quân đang chuyn t Hương Đin Huế vào Căn C Non Nước Đà Nẵng. Xe cộ đang dành ưu tiên để chuyển các Tiu Đoàn ca Lữ Đoàn

258 và 369 vào Đà Nẵng thay cho các Tiểu Đoàn rút về Sài Gòn.

Ngoi trừ Phi Trường Đà Nẵng rất đang chộn rộn về những đống quan tài phủ cờ được đưa về Sài Gòn và những người dân Pleiku, Kontum được di tản bằng máy bay đến, nhịp sống của những người dân trong Thành Ph hình như không gì thay đổi. Tôi mấy người lính cùng Tiểu Đoàn li lang thang trong Thành Ph để tìm các quán nhậu xóm chị em ta. Cà p, xi , vũ trường vẫn đông đo tấp nập. Buổi tối chúng tôi còn kéo nhau đến xem hội chợ tại một Trường Nữ Trung Học nhân dịp lễ kỷ niệm một nữ anh hùng nào đó trong lịch sử mà tôi không nhớ. Người ta vn ăn din, người ta vẫn chơi bi, người ta vn vui vẻ thoải mái, đường xá vẫn rất nhộn nhịp. Sinh hoạt bình thường này đã làm yên lòng nhng người dân vừa tQuảng Trị và Huế chy vào.

Căn cứ chuyển vận vẫn tối tăm, hôi hám và bẩn thỉu như thuở nào, vẫn nhn nhịp ồn ào chưa bao gi được yên tĩnh. Những ông già mệt mỏi những người đàn xốc xếch đang vật khóc quanh nhng quan tài phủ cờ đưc mang để đây không biết từ lúc nào, cũng không biết đến bao giờ mới được mang đi.


Máy bay đã không còn chỗ cho những chiếc quan tài này, và đường thủy cũng chỉ nhận mi ngày một số rất hạn chế. c xác của những ngưi lính của Tiểu Đoàn tôi đã nằm đợi ở đây bốn, năm ngày. Và thân nhân của họ ở đâu miệt Lục Tỉnh cũng đã ra đến, xác ca họ phải được mang đi gấp họ chết ít ra cũng đã hơn một tuần, không hiểu thứ tự ưu tiên của căn cứ được sắp xếp thế nào xác họ vẫn còn để đây. Và điu này cũng làm tôi thắc mắc là từ ngày Sư Đoàn tôi ra Quảng Trị, chúng tôi vẫn những chuyến bay riêng đ tiếp tế, tải thương, tải xác...tại sao bây giờ chúng tôi lại phải tải xác qua hệ thống chuyển vận của căn cứ này ? Tôi được yêu cầu đứng ra can thiệp nhưng chng đi đến đâu cả, chỉ nhận được những lời hứa, lời hứa thì giá trị khỉ gì trong lúc này!

Chúng tôi lại kéo nhau ra cái quán nằm xế cổng căn cứ nhậu tiếp. Lại nhu, mặc dầu mấy thằng chỉ còn một cây thuốc Capstan đem theo để đổi rượu. Tại quán nhậu, tôi gặp mấy người lính Lôi Hổ đóng tại Đà Nng, họ cho biết nửa khuya này họ phải nhảy vào Ban Mê Thuột. Tôi nghĩ bụng, quả là chó khi cố tình giết thêm một ít người nếu đúng như họ phải nhảy vào Ban Thuột. Hy vọng điều này không đúng vi s thật. Quyết định thí quân hay quyết định sai lầm của một cấp chỉ huy có thể giết chết hàng đơn vị lớn cũng không đáng trách, nhưng quyết định thảy một toán lính vào một nơi hàng Sư Đoàn không chng giữ ni, kéo theo c một Quân Đoàn phải rút chạy thì cái chết của họ phí quá. Ai ngưi chịu trách nhiệm về những cái chết kỳ cc vô ích này ? Lính cũng là người chứ đâu phi đồ chơi cho những ông xếp lớn!

Trưa 19 tháng Ba, tôi ra đến Huế. Sinh hoạt ở đây rất vội vã, vi vã chứ không ồn ào. Hình như người dân đây đã quá quen với những lần phải bnhà bcửa chạy lấy người, hình như những ngưi chuyên gây ra chuyn ồn ào đã bỏ chạy t trước ri. Những người nhà giàu đã vào Đà Nẵng hoặc Sài Gòn, những ngưi trung lưu cũng đã vào Đà Nẵng trú thân, cái vội chỉ xảy ra những người buôn bán nhỏ, hoặc những ngưi còn cố nán li Thành Phố để kiếm thêm chút

‘’cháo’’.

Tôi cũng vội không kém. Tôi phải mua ít đồ lặt vặt để đi gấp ra Tiểu Đoàn trong buổi chiều để còn kịp về đến Đại Đội trước khi trời tối. Tôi không thể đợi đến ngày hôm sau đi theo chuyến tiếp tế vì Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh tôi phải ra hành quân ngay trong ngày bằng mọi giá. V lại, tôi cũng không thích nhìn Thành Phố Huế đang trên đà giãy chết này nên ra hành quân cho êm chuyện.

Xuống xe tại sân Tiểu Đoàn, tôi gặp một Thiếu Tá rất lạ mặt đang đứng với Tiểu Đoàn Trưởng ở cửa lều Ban Ba. Tôi trình diện. Ông Thiếu Tá lạ hoắc đó tên là Thành cũng mang bng tên màu đỏ của Tiu Đoàn. Ông bắt tay tôi và hỏi Tiểu Đoàn Trưởng:

- Ông quan này đây hả ?

Nghe câu này, tôi biết chắc hai người đã nói chuyện về tôi, dĩ nhiên không phi nói tốt. Nhằm nhò gì! Tiểu Đoàn Trưởng không trả lời, quay sang nói với tôi:

- Đmẹ, ông về Đại Đội liền bây giờ.

- Đại Đội tôi nằm đâu, Thiếu ?

- Đmẹ, không biết, ông đi cho khuất mắt tôi đi!

Tiếng chi thề của ông rất nhỏ nhưng tôi biết ông chửi thề thấy môi ông mấp máy trước khi nói. Tôi chào quay đi vi một chút thích thú, đâu phải thằng nào cũng làm cho ‘’Hitler’’ chửi thề được, chỉ chi lẩm bẩm trong miệng. Ông đuổi tôi đi ngay lập tức, tc tôi không phải trả lời ông về do trễ phép, dĩ nhiên như vậy tôi đâu có b phạt. Ra đến Huế, hậu trạm đã cho tôi biết Đi Đội bị ‘’banh ta lông’’


Đi 51 không phải Đi Đội tôi, như vậy, cái gánh nặng trong người tôi đã đưc trút bỏ, chỉ còn mỗi cái gánh nhè nhẹ là bphạt này bây giờ cũng được tháo bỏ nốt.

Trung Úy Xuân Đại Đi Trưởng Đại Đội chỉ huy cho tôi biết Thiếu Thành sẽ thay thế Thiếu Toàn làm Tiểu Đoàn Trưởng, hẳn hai ông đã bàn giao cả cái ba gai của tôi. Đại Úy Phó đang tập sự làm Trưởng Ban Ba đđi với Thiếu Tá Toàn qua Tiểu Đoàn 18, Đại Đi 3 ca Đại Úy Hiếu đã qua Tiểu Đoàn 14 trước, còn Đi Đội mới thành lập ca Đi Úy Chiêu nay trở thành Đại Đi 3 đã ‘’banh’’ mất nửa Đi Đội tại Đồi 51, Thiếu Úy Sáng Đại Đi Phó chết cùng với lính, trong số chết thằng Hiếu, tên cao bồi ruột của tôi.

Khi thành lập Đại Đi mới, tôi chắc mẫm là qua làm Đại Đi Trưởng nên đã đưa Hiếu qua trước để khi tôi qua khi bị rắc rối giy tờ, nhưng cuối cùng Đi Úy Chiêu làm Đại Đội Trưởng và Thiếu Úy Sáng làm Đại Đội Phó, tôi gửi Sáng thằng Hiếu, đâu ngờ tôi đã gửi thằng Hiếu cho cái chết.

Tôi cũng được biết đáng lẽ Đại Đội 4 tôi lên nằm Đồi 51 theo đúng vòng luân phiên nhưng thiếu Đại Đội Phó tôi nên Đại Đi 3 đã lên thay. Như vậy, chuyến đi phép ca tôi đã cu tôi và cu nửa Đi Đội của tôi, nhưng chuyến đi phép của tôi đã làm chết oan Sáng và nửa Đại Đội của Sáng. Đồi 51 đã được Đại Đội 2 lấy lại sau đó một ngày, giải thoát được một Tiểu Đội còn bám lại lấy li toàn bộ khí bị mất, chỉ thiếu bộ phận máy nhắm của một khẩu súng cộng đồng, đồng thời tịch thu được k nhiều vũ khí. Xác lính thiếu mấy cái đưc kể như mất tích. Xác Thiếu Úy ng cởi trần không thẻ bài, được nhận diện bằng cái ống qun chật cố hữu và cái khóa thắt lưng đặc biệt, loại chỉ có khung mà không có mặt. Sáng và tôi ở hai đơn vị khác nhau, học cùng một Khóa ở Rừng Cm, Trung Tâm Huấn Luyện của Sư Đoàn, cùng về Đại Đội một ngày, tuy mỗi thằng chỉ huy một Trung Đội nhưng thường đi cặp với nhau trong những trận ủi bãi.

Hai thằng tôi còn một cặp tri k về nhu. Sáng, tôi Thiện đã đi đơn vị khác được mệnh danh là ba cái nắp nhạo. Sáng đeo lon Chuẩn Úy hơi lâu trên cổ bốn năm không một do nào hết, một Trung Đội Trưởng kỳ cựu nhất Tiu Đoàn, hơn ba năm nên vừa lên Thiếu Úy vài tháng đã được làm Đại Đi Phó. Cuộc đời binh nghiệp của Sáng khá lận đận mặc dầu một người rất tôn trọng kỷ luật chứ không thuc loại mất dạy như tôi. Bây giờ lên lon, lên chức liên tục rằng đã trễ, tưởng rằng sự nghiệp kaki sẽ khá hơn chút đỉnh, nào ngờ lương Thiếu Úy chưa được lãnh, hồ sơ chức vụ Đại Đội Phó chưa điều chnh xong thì đời Sáng đã xong.

Khi địch tràn ngập v trí phòng thủ đỉnh đồi, Sáng đã xin Pháo Binh bn thẳng vào đầu mình, không khóa, không mã, không ngụy, không ám danh đàm thoại gì hết trên hệ thống truyền tin, tiếng Sáng ngắn gn sau một tiếng chửi thề: ‘Đụ mẹ, nó đông quá, chụp lên đầu tao!’’ Pháo đã chụp lên đỉnh đồi hai chiếc máy bay cũng nhắm thẳng đỉnh đồi mà dội.

Cái chết thật anh hùng nhưng cái chết thật danh, đã đành. Cái sống anh hùng của cả một Tiểu Đội vẫn bám chặt, vn chiến đấu trên ngọn đồi đã bị địch tràn ngập cho đến khi được giải cu, đã chỉ được nhắc nhở đến như một tin tức bình thường. tình quá không, mặc ai cũng hiểu một vài điu khích lệ lúc này, một chút cử chỉ quan tâm lúc này còn giá trị hơn một triệu hành động tuyên truyền chiến tranh chính trị. Tôi thắc mắc không hiểu Tiu Đội anh hùng này là người hùng riêng ca Tiểu Đoàn 4 hay họ cũng là anh hùng của cả binh chng, của cả quân đi. Chắc chỉ có những ông xếp lớn chết hoặc sống hơi ‘’ngon’’ một chút mới đáng anh hùng, còn những thằng cỡ Thiếu Úy Sáng, cỡ Tiểu Đội cố thủ trên Đồi 51 này thì

‘’cái mẹ gì’’. Quân Đi không thiếu những anh hùng c ‘’cái mẹ gì’’ mà thành ra thiếu anh hùng một cách trầm trng. Tôi sực nhớ lại một trong những ngưi chiến sĩ xuất sắc thuộc Tiểu Đoàn tôi v dự Đại Hội Chiến Sĩ Xuất Sắc Sài Gòn năm 73


ngưi quanh năm suốt tháng hậu cứ, hầu như suốt cuộc đời nhà binh chưa h

nghe một tiếng súng bắn ngược.

Hoan hô những ngưi hùng. Tôi hỏi Trung Úy Xuân:

- Đại Đội tôi nằm ở đâu ông ?

- Chỗ cũ, đến đường rầy quẹo trái.

Tôi ra khi chỗ đóng quân của Ban Ch Huy Tiểu Đoàn, băng ngang Quốc Lộ đi dọc lên phía Bắc, qua ChĐông Hòa cũ, mặc dù hôm đi phép tôi còn ngồi ở góc chợ uống bia chờ xe đò, nhưng bây giờ chưa đầy một tháng vắng mặt, tôi đã phải gọi cũ vì nó chn trơ ra nhng cái sạp cháy d những tấm vách nm ngổn ngang đầy những dấu đạn đại c. Tôi quẹo trái vào con đường đất đỏ dẫn vào phía núi.

Con đường nhỏ dẫn vào chân núi này rất quen thuộc với tôi nhưng bây gi lạ hẳn. Ngay t căn nhà đầu tiên, quán nhậu của mẹ con Giáo Hương đã không còn nguyên vẹn, mái tôn đổ ụp xung làm văng tung tóe những tấm ván thùng đn pháo binh được đóng làm vách, căn nhà bên cạnh, tiệm hớt tóc miền quê cũng không còn cái cọc nào đứng nguyên. Suốt một dọc, nhng căn nhà ven chợ này đu có chung hình dạng tan nát của cái chợ.

Càng vào sâu, nhà cửa càng tan hoang, dấu vết của những đt pháo kích khủng khiếp.

Qua hết khu ‘’thị tứ’’ ven chợ, băng qua một vũng sình lớn, tôi đến khu trong. Gọi là khu trong vì có đám sình ngăn cách với khu buôn bán bên ngoài chthực ra chỉ có lèo tèo vài căn nhà lụp sp để ở. Khu trong còn nguyên vẹn.

Tôi đến gn, một Bà Sư từ trong nhà đi ra, gọi tôi hỏi:

- Răng eng đi giờ ni mà đi có một miềng ?

Câu hi làm tôi sững người. Mặt trời đã lặn, tuy còn thấy mặt người nhưng chỉ là ánh sáng phản chiếu mà đường vào đến Đi Đội tôi còn xa. Bây gi tôi mới chợt để ý khu này không còn người dân nào, nhà cửa cháy hết đã đành, mà tình hình lúc này không còn phải là tình hình của những ngày tôi chưa đi phép. Nhìn xung khu súng, tôi nổi gai ốc khắp người, súng tôi không có đạn.

Bằng động tác rất tự nhiên, tôi kê khẩu súng lên túi đn bên hông, dĩ nhiên túi đạn cũng rỗng đứng nghiêng người để không th nhìn thấy chỗ lắp băng đạn của khẩu M-16 tôi cm trên tay đang rỗng tuếch. Tôi trấn tĩnh rất nhanh.

- Có lính ra đón tôi. Tại sao bà lại ở đây một mình ?

- Tui tu hành mà eng. Eng đi cho cẩn thận chứ mấy hắn thường ra giờ ni nớ. Tôi bước đi, trong đầu không còn nghĩ đến Sáng, không còn nghĩ đến Hiếu,

không còn nghĩ đến Hùng đến hèn nữa mà chỉ còn nghĩ đến mình. Tôi đã quá cẩu thả để không hi tình hình, đ không ly vài băng đạn đem theo, để không gi máy về Đi Đội gọi lính đi đón. S cẩu thả này không th chấp nhận được. Cái li này chỉ cn một chút ‘’xui’’ không bao giờ còn vấp phải lần th hai, chắc chn không còn lần thứ hai nào nữa để mà vấp phải. Tôi bước đi, hấp tấp nhưng phải cố làm ra vẻ như mình không hấp tấp, mắt đảo thật nhanh, láo liên như một thằng ăn cắp, nhưng lại phải rất kín đáo nhìn lại phía sau, súng không có đạn mà lúc nào cũng phải nắm lấy tay cầm của khẩu súng trong tư thế sẵn sàng bắn, nhưng dĩ nhiên phải giấu phía gắn băng đạn quay vào người. C trong tư thế mâu thuẫn như vậy tôi đi. Trời không lạnh tôi run, trời không nóng mà tôi toát m hôi. Bàn tay phải đã ướt nhẹp mà tôi không dám rời tay cầm của khẩu súng đ lau. Tôi phải giữ đúng tư thế sẵn sàng tác chiến với hy vọng may ra đánh lừa được tên du kích nào lấp đâu đó chăng. Tôi cố gạt phắt ý nghĩ nếu thằng du kích nào đó súng thì cho tôi có thế ‘’hiên ngang’’ như thế nào đi nữa thì vẫn thể ‘’tỉa’’ tôi một cách dễ


dàng. Nhưng với tư thế này của tôi, biết đâu nó có thể nghi rằng đàng sau tôi đang còn một tp lính nữa tôi chỉ thằng ch hầu, nếu chỉ một mình chắc chắn nó sẽ không dám bắn. Một cú tháu cáy cạn láng mà tôi chỉ có đôi bạt mặt.

Sự bình tĩnh gần như chỉ còn phản ứng không phải của tôi, được tăng lên theo sự rút ngắn của đoạn đường, nhưng lại giảm xuống theo s mất dần của ánh sáng. Lời nói dối Bà Sư khi nãy trở thành niềm hy vọng to lớn tôi mong chờ, tôi chờ được gặp tốp lính đang trên đưng đi đón.

Đến đường rầy là ngã ba đường thì cũng lại là ngã ba đường của tôi, ‘’chỗ cũ’’ của Đại Đi tôi ‘’tới đường rầy quẹo trái’’ hai địa điểm ngược đường với nhau, quẹo trái thì không th nào đến chỗ cũ, đi băng qua đường rầy thì lại sai với lời chỉ đường. Tôi chửi thầm Trung Úy Xuân đã chỉ đưng cho tôi một cách láp, tôi chửi thầm tôi đã không kịp nhận định cho rõ trước khi rời Tiểu Đoàn, tôi cũng chi thầm luôn Đại Đi Trưởng đã biết tôi về đến mà không cho lính đi đón.

Tôi phân vân nhưng không được phép chần chừ, quyết định chậm phút nào là kéo dài s nguy hiểm thêm phút nấy. Tôi không dám lên chỗ cao để nhìn cho xa, vì ánh sáng lúc này không đủ cho tôi nhìn xa và bóng tối lại quá đủ cho thân hình tôi in rõ nét trên nền trời. Ch còn chng ba mươi thước đến đúng chỗ rẽ, suy tính của tôi không được phép lâu hơn ba mươi bước đôi của một người bước vội. Tôi không còn lựa chọn giữa hai nơi ‘’chỗ cũ’’ và đến đường rầy quẹo trái’’ nữa, mà tôi chỉ còn được phép chọn lựa lối đi theo địa thế. Nếu đi băng qua đường rầy tôi sẽ phải đi băng qua mấy cái đồi trọc nằm thoai thoải, dễ chết quá, tôi sẽ một mục tiêu rấtcho những tay súng nhắm bắn t sát mặt đất. Còn nếu quẹo trái, tôi sẽ phải đi vào con đường mòn thật nhỏ, quanh co nhiu bụi rậm, cũng d chết lắm khu này đã không đưc ‘ổn’’ t những ngày tôi chưa đi phép, huống hồ bây giờ.

Tôi quyết định quẹo trái vì chưa chắc hin gili nào ‘’ổnhơn lối nào. Nếu đi trên đồi, hai bên gặp nhau thì thằng chết chỉ là tôi, nghĩa là kể ctrường hợp tôi thấy địch trước, vì tôi không có lấy một viên đạn...làm thuốc. Còn nếu quẹo trái, ngộ nhỡ có đụng đu nhau, kể cả trường hợp tôi thy địch sau, tôi vẫn còn có thể lủi vào bụi rậm hai bên đường để mà ‘’chu’’.

Tôi đi rất cẩn thận, nghe ngóng và d dẫm những khúc quanh chạy thật nhanh ở những khúc thẳng. Đến bụi rậm cuối cùng, tôi dừng li quan sát ngọn đồi trước mt. Con đường lượn lên dốc thoai thoải vòng quanh chân đồi, bên phải trống trơn, một vài bụi rậm nhỏ không đủ che giu cho tôi đi qua được chân đồi bên trái con đường, lên cao một chút trên sườn đồi đang lố nhố my người đứng ngi nhấp nha nhấp nhô. Bằng mắt với ánh ng và khong cách lúc này tôi không thể phân biệt được họ là ai, mình hay địch. Không phân biệt được bằng mắt thì phân biệt bằng tai vy, tôi cố gắng lắng nghe họ nói chuyện. Dĩ nhiên vi khoảng cách này thì chỉ tiếng được tiếng mất, nhưng tôi đâu cần nghe câu chuyện của họ, tôi chcần phân biệt cái giọng ca họ, nếu giọng Nam thì thật ‘đã đíu’’, mọi chuyện sẽ êm xuôi tại đây, còn nếu giọng Bắc nhà quê hoặc ging trọ trẹ miền Trung thì...đằng sau quay, và chắc chắn là tôi s một đêm ngủ vật vờ trong bụi để làm mồi cho lũ muỗi rừng và...đợi sáng tính sau.

Tôi vn dng tất cả mọi khả năng, dồn hết sức sống của tôi vào đôi tai để chờ đợi, nhưng ngoài tiếng côn trùng và tiếng gió, tôi không nghe được một tiếng nói nào của mấy người trên sườn đi kia. Tuy nhiên, tôi bình tĩnh thật l lùng, cái bình tĩnh của thằng lính khi ra trận đã biết rõ mục tiêu, biết từng vị trí của địch, đã nghe tiếng súng nổ, không còn sự hồi hộp lo sợ của sự chờ đợi những viên đn đầu tiên của địch thay cho lnh khai ha ghim vào thân thể mình trưc khi kp nghe tiếng súng, không còn chuyện may rủi trời kêu ai nấy dạ của những viên đn bắn sẻ


nữa, cái bình tĩnh của một sự việc đã được tính toán, đúng thì sống sai thì...húp cháo rùa.

- Đù má, lâu dzậy mảy ?

Tiếng nói đột ngột, không đủ lớn nhưng đủ lọt vào tai tôi. Xong rồi! Tiếng chi thề nghe sao dễ tơng lạ. Tiếng chửi thề đã chấm dứt sự nguy hiểm bao quanh tôi. Bọn này hn phải là lính Đại Đi tôi, đang gài mìn tại Tiền Đồn cấp Tiểu Đi.

Tôi ung dung trở ra đường mòn, bằng điệu bộ rất thoải mái, súng vác vai vừa đi vừa huýt gió ‘’cờ bay cờ bay oai hùng...’’ để tránh sự bất ngờ có thể gây ra ngộ nhận. Mấy người lính dừng tay nhìn tôi, khi đi vòng theo chân đồi không thấy ai lên tiếng hỏi thăm, chắc là tối quá tụi nó không nhận ra mình, tôi lên tiếng:

- Đứa nào đó bay ?

Không nghe tiếng trả lời, tôi hỏi tiếp:

- Đại Đội 4 phải không ?

- Đmẹ, đi đâu về trễ vậy cha nội ?

Tôi bực mình, lính tráng thế này thì hỏng rồi, tôi xẵng giọng:

- Đại Đội nằm đâu ?

- Ủa, phép ra mảy, đi tới là gp lin. đi l lnghe cha ni, coi chừng tụi nó gài ‘’đồ chơi’’ rồi đó.

- Có máy không, báo là tao vti, khoan gài.

- Không.

Tiếng không cụt ngn v hơi xng. Tôi vừa bực mình vừa buồn cười liên tưởng đến một chuyện cũ. Năm 72, tôi bị thương, trong khi nằm Tiểu Đoàn đi trực thăng tải thương, một tay cũng bị thương đợi trực thăng như tôi xin tôi điếu thuốc hỏi một câu làm quà:

- Đmẹ, mày cũng bị thương hả ?

Tay lính này chắc chắn chưa tới hai mươi, mặt mũi còn non chot và điệu bộ đầy vẻ dê cỏn buồn sừng. Tôi trả lời ậm ừ. Nó hỏi tiếp:

- Mày Trung Đội mấy ?

- Trung Đội 2.

- Tao cũng Trung Đội 2, mày Tiểu Đội mấy ?

- Tao ở PC Trung Đội.

- Đmẹ, mày lọt mà cũng bị thương hả ?

- Ờ, tao Trung Đội Trưởng. Thằng bé bẽn lẽn:

- Ủa, ông thầy, em đâu có biết.

Dĩ nhiên không biết tôi, cả tôi cũng không biết nó. một thằng lính mới te, rất te vừa được đưa t Trung Tâm Huấn Luyện Rừng Cấm ra Tiểu Đoàn, Ban Một Tiểu Đoàn phân phối cho Đi Đội, Thường Vụ Đi Đội chia cho Trung Đội, Trung Đội Phó nhận rồi đưa ra Tiểu Đội. Trung Đội đang ‘’i bãi’’, v đến Trung Đi buổi chiều, buổi tối tôi bị thương, nó đâu thể biết Trung Đội Trưởng ai được.

Còn một chuyện nữa, cũng năm 72. Tiểu Đoàn Trưởng lúc đó Trung Tá Quang. Trên hệ thống truyền tin ông là Quang Trung, nhưng trên cửa miệng của những thng lính chúng tôi thì ông là Quang Bóp Cổ. Nghe tên Quang Bóp C phi hiểu ngay ông nhân vật như thế nào trong đơn vị. Tiểu Đoàn nằm Thôn Bích La bên cạnh bờ sông Vĩnh Đnh, Đại Đi tôi nằm ôm Tiểu Đoàn. Một hôm việt cộng chen vào giữa Đi Đi 2 Tiểu Đoàn. Sáng hôm sau chúng tôi đánh bật việt cộng ra ngoài đng trống, thôi thì lính tráng tha hồ bắn nhng cái bia di động. Quang Bóp C cũng ly M-79 ra bắn loạn ngầu. Tụi tôi thấy Quang Bóp Cổ thằng nào cũng né, dạt ra một nơi. Chuẩn Úy Chiếm lúc đó đang đi OJT trong Đại Đội, thấy một


thằng mặc áo thun ba lỗ bắn M-79 dở ẹc, anh chàng đi tới vừa giựt khẩu súng vừa chửi thề:

- Đmẹ, bắn như cái con cặc cũng đòi bắn, đưa đây tao!

Đó là những mẩu chuyện ngộ nhận, nhưng trường hợp tôi bây gilại khác. Trong toán lính này ít nhất cũng phải một thằng biết tôi, không kể thời gian

làm Trung Đội Trưởng, tôi đã làm Đại Đội Phó Đại Đội 4 này ít ra cũng đã hơn hai năm rồi. Tại sao ngay cả tên chỉ huy cũng không nhận ra tôi ? Hay là...

Tôi chạy thật nhanh, lần này thì chạy thật chứ không còn giả vờ gì nữa, để kp về đến Đi Đội trước khi mìn lựu đạn gài chặn li đi. Tôi chạy một mạch gần hai trăm thước tới chân đồi Đi Đi, thấy mấy người lính đang t trên đồi đi xung, tôi đi ngược lên. Khi tới ngang họ, tất cả dừng lại tránh li cho tôi đi lên, họ nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên, tôi nhìn họ cũng rất ngạc nhiên, tt cả những khuôn mặt đều lạ. Tôi hỏi:

- Đại 4 phải không ?

- Ừa, Đại 4.

Một người lính từ trong lều trên đồi bước ra hỏi vọng xuống:

- Gì đó bay?

Tôi bỏ toán lính, đi tiếp lên đồi. Toán lính nhìn nhau rồi nhìn tôi, rồi li nhìn nhau. Khi tôi đi qua người lính gác, đi tới người lính đứng trên đồi, họ mới tiếp tục đi xung. Người lính đng trên đi hỏi vọng xuống ông Thượng Sĩ già. Tôi nhìn kỹ bảng tên, bảng tên màu hồng. ra đây là Đại Đội 4 ca Tiểu Đoàn 7. chán!

- Thượng Sĩ cho tôi gặp Đại Đi Trưởng.

Người lính già tr mt nhìn tôi, chắc chắn không hiểu cả, bảo tôi đứng đợi rồi chui vào cái lều lớn gia sân. Ông ta không hiểu nhưng tôi hiu mình đã đến lầm đơn vị, việc của tôi ngay lúc này phải gặp Đại Đội Trưởng đây để nhờ liên lạc với Đi Đội tôi cho người đến đón. Nguy hiểm th đã hết, nhưng mệt thì còn nhiều. Ông Thượng Sĩ trở ra, tay cm đèn được thắp bằng pin của máy PRC-

25, một người nữa ra theo, tôi nhận ra người đi sau là Minh, bạn tôi.

- Ê Minh, cho tao gặp Đại Đi Trưởng mày.

Ông Thượng Sĩ li trố mắt nhìn tôi thêm mt lần nữa, ông ta không thể hiểu tôi là cái giống gì, tôi không đeo lon. Tuy nhiên ông ta không nói tiếng nào, lặng lẽ bỏ đi khi nghe Minh nói với tôi:

- Đụ mẹ, mày làm cái con cặc gì mà tới đây giờ này, vô đây phê pháo cái đã, mọi chuyện tính sau.

Tôi theo Minh vào lều nhưng sốt ruột, lại hỏi:

- Tao gặp Đại Đi Trưởng mày đã, phê pháo mẹ gì.

- Phê pháo đã mà, ng đang bận.

- Ủa, bmọi chuyện Đại Đi Trưởng mày làm hết hả ?

- Đâu có, Đại Đội Phó làm chứ.

- Vậy ổng bận cái gì ?

- Bận tiếp khách.

- Mẹ kiếp, té ra mày là Đại Đội Trưởng à ?

- Chứ còn thằng con cặc nào vô đây!

Vừa ung phê tôi vừa kể cho Minh nghe chuyện vừa qua, Minh nhìn tôi


cười:


- Đmẹ, mật mày lớn mà mạng mày cũng lớn, lóng rày tụi nó ra hà rầm.

- Lớn cái con củ cải, tao biết chó đâu đó, đến lúc biết đã ngồi cha trên lưng


cọp rồi.

Tôi nhờ Minh liên lạc với Đại Đội tôi, nhưng vì khác Tiểu Đoàn nên không có tần số để liên lạc, tôi đành phải xin ít đạn và mấy quả lựu đạn đtiếp tục...du lch. Minh cho mấy người lính đi theo tôi. Về đến chỗ của Đi Đội, Đại Đội tôi không


còn đóng ở đấy, thay vào đó một Toán Tiền Đồn thuộc Đi Đội Trinh Sát của Sư Đoàn-Viễn Thám cũ. Tôi cho nh của Minh về nhờ một người lính Trinh Sát đưa tôi về gặp Trung Đội Trưởng của họ.

Người Trung Đội Trưởng này một quan còn rất trẻ mà tôi không quen nên anh ta nói chuyện vi tôi một cách dè dặt. Tôi phải moi tất cả giấy tờ có trong ngưi như thẻ căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ và cả tờ giấy phép có chữ ký của Trung Tưng Ngô Quang Trưởng cho anh ta xem. Tôi chỉ nhờ anh ta mỗi một điều là báo cáo và cho người dẫn tôi về gặp Đại Đội Trưởng của anh ta.

Lại muốn gặp Đại Đi Trưởng!

Tôi nghe rất tiếng ông Đi Đội Trưởng, tôi biết Đi Úy Lực, phát ra từ ống liên hợp ca máy truyền tin.

- Đụ mẹ, không tin thằng nào hết, giấy tờ giả thiếu chó gì. Ông cho tôi biếtngười Bắc hay người Nam.

Tức cười, lúc nãy tôi đã dùng cách phân biệt Bắc Nam để phán đoán ta hay

địch, bây giờ tôi lại bị người khác dùng cùng một cách để đánh giá tôi là ai.

Hỏng bét rồi, tôi một thằng Bắc K trăm phần trăm, không sai một ly ông cụ

nào, từ giọng nói đến những tiếng tôi đang dùng đều Bắc K đặc.

- Ông này Bắc K nhưng trông cũng có vẻ lính mình.

- Ông cho người mang thằng đó về đây cho tôi.

Mang tôi đi tức là tôi bị tước súng áp giải như một thằng binh. Mẹ kiếp, thằng này chứ phải thằng nào khác đâu, đâu chuyện tước súng tôi một cách dễ dàng như vậy đưc. Bỗng nhiên tôi nổi giận:

- Này, đừng có làm cái trò sỉ nhục nhau như vậy chứ Thiếu Úy! Anh ta cho một người lính dẫn tôi về Đại Đi Trinh Sát.

Đại Úy Lực không tiếp tôi. Ông ta để tôi đứng ngoài sân với ngưi Thượng Sĩ

Thường V, tiếng ông ta hỏi vọng ra t trong lều:

- Anh ở đơn vị nào ?

- Đại Đội 4 Tiểu Đoàn 4.

- Chức vụ gì ?

- Đại Đội Phó.

Tiếng ông ta dịu li:

- Đại Đội Trưởng anh là ai ?

- Tôi không phải binh đ phải đứng ngoài trời này khai lịch vọng vào lều cho Đi Úy. Tôi chỉ nhĐại Úy liên lạc với Đại Đi tôi cho lính đến đón tôi về.

- Đmẹ, liên lạc đâu có khó, nhưng tôi phải biết anh là ai chớ!

- Đại Đội Trưởng tôi là 369. Đại Úy chỉ cần nói là 520 đang ở chỗ Đại Úy. Chừng hai phút sau, ông ta nói vọng ra không phải với tôi với ông Thượng


Sĩ. nhớ).


- Ông cho dẫn người này ra chỗ toán của thằng... (tên người này tôi không

 

Thượng Sĩ Thường V đi gi người. Lúc này Đại Úy Lực mới t trong lều chui


ra, ông ta tới bắt tay tôi:

- Thằng Gt, Đại Đội Trưởng tôi cho ngưi đi đón ông lâu rồi, tôi cho người dẫn ông tới đó.

Tôi cám ơn rồi đi theo người nh dẫn đưng. Toán lính đi đón đang ngi đợi tôi ở ngay chỗ Đi Đội tôi đóng cũ, vị trí của Toán Tiền Đồn Trinh Sát, nơi mà tôi và mấy người lính của Minh đã đến. Phải chi tụi nó đến sm hơn một chút hoặc phải chi tôi ngồi chơi với Minh lâu n một chút thì đâu đến ni phi đi ng vòng phải khai lịch với bọn ‘’vịt tiềm’’ này.


Trung Sĩ Khang cho tôi biết họ phải băng ngang làng Đồng Lâm ra đón tôi ngoài Quốc Lộ, sợ tôi đi qua làng một mình chắc chắn sẽ bị ’’xé phay’’ liền.

Đợi hoài không thấy, họ phải đi dọc Quốc Lộ về Tiểu Đoàn tìm tôi, gặp Trung Úy Xuân nói tôi đi về chỗ Đại Đội đóng cũ, sau đó Đi Đội Trưởng cũng gọi máy bảo họ về chỗ này đợi tôi.

- Đại Đội nằm đâu, mày ?

- Sau làng Đồng Lâm. Mấy hôm nay mình ăn pháo lia chia!

- thằng nào bị gì không ?

- mỗi một trái lọt vô vị trí, banh một cái lều còn thì rớt cách mình cả trăm thước. điều ban ngày mình không dám căng lều, sợ tụi nó thấy.

Bọn tôi đi tắt đường ruộng về đến Đi Đi, lính đổi gác cũng đã đến ca áp


chót.


Đến sáng, tức ngày 20 tháng Ba, Tiểu Đoàn gi tôi về để gắn lon. Tôi ợn


bộ qun áo ‘’nga’’ ca Trung Sĩ Nhất Đăng, Thường V Đại Đi, may đè tên tôi lên bảng tên, rồi đi theo toán lính đi lãnh tiếp tế băng qua làng Đồng Lâm ra đến Quốc Lộ. Tôi lội bộ về Tiểu Đoàn.

Tôi Thiếu Úy Điểu, Phụ Ban Ba Tiểu Đoàn được gắn lon cùng một lúc. Thật khôi hài khi Đại Bàng 816, tức Hitler, tức Tiểu Đoàn Trưởng, gắn lon Trung Úy lên vai Điu, ông khích lệ khuyên nhủ đủ điều, lại còn bắt tay vỗ vai thân mật nữa. Còn tôi, hình như đc nhất nh trong lịch sử gắn lon của quân đội, ông vừa gắn lon lên vai tôi vừa chửi. Tôi đứng nghiêm, tay phải đưa lên trán trong tư thế chào, Hitler vừa gắn lon vào vai tôi vừa nói:

- Đụ mẹ ông, đồng ý là ông cũng có công nhưng đâu phải công của mình ông. Ông làm cái gì giờ này mới ra tới ?

Tiểu Đoàn Trưởng đã cấm tất cả các sĩ quan trong Tiểu Đoàn khi hết phép không đưc ra trình diện hu cứ Vũng u, vì như vậy là câu thêm gi Sài Gòn. Ông chỉ chấp nhận cho Hạ Sĩ Quan Binh Sĩ đưc câu thêm vài ngày theo kiểu này, còn sĩ quan bắt buộc phi trình din thng Bộ Lệnh Sài Gòn, để ngày hôm trước hết phép, ngày hôm sau đã có mặt hành quân.

Không ngờ bị hài tội trong lúc này, bí quá tôi nói đại:

- Tôi ra hỏi vợ ở Bà Rịa, Thiếu Tá.

- Vợ con cái con cặc! Đmẹ ông!

Bịa chuyn lấy vợ, tôi nhớ đến lần tôi cũng bịa chuyn lấy vợ để kiếm thêm một tuần Sài Gòn. Năm 72, tôi bị thương được đưa về điều trị tại Bnh Viện Hữu Sanh Thủ Đc. Vì thương binh quá nhiều nên tôi ch được nằm ít ngày ri cho về nhà tự chữa ly, mỗi tuần lên tái khám một lần, gọi là xuất viện tái khám. Lần tái khám th ba, tuy tôi đã thể đi li được nhưng vẫn còn phải chống nạng. Bác Hạnh, Nguyễn Đ Hnh y điu trị, đã bắt i xuất viện ra hành quân, hình như ở đâu đó người ta mun giảm t l sĩ quan bị thương trên giấy tờ s sách. Muốn kiếm thêm một tuần phè ở Sài Gòn và cũng để đi đứng đưc vững chãi hơn trước khi ra hành quân, tôi bèn xuống nước:

- Bác sĩ cho tôi thêm một tuần nữa, Th này tôi lấy vợ. Mọi chuyn đã chuẩn bị xong xuôi, chỉ còn đợi đến ngày làm đám cưới.

Bác Sĩ Hnh một người rất đẹp trai giọng nói rất êm, rất nhẹ đã phán một câu nghe rất đã lỗ nhĩ.

- Vác ba ra Quảng Trị mà cưới!

Lần này thì tôi lại bịa chuyện lấy vợ, nhưng tôi ở thế thượng phong tức là theo đúng kỷ luật nhà binh, thi hành trước khiếu nại sau. Tôi đã thi hành, bây giờ đến lượt Tiểu Đoàn Trưởng đang...khiếu nại. Ở cái binh chủng ‘’sng khùng sống di chẳng sống dai’’ này, khi c quan lớn đã ‘’khiếu nại’’ thì cỡ các Ch Trần Quốc Ton


hay Chợ Cầu Ông Lãnh còn phi đưa đi ‘’hấp’’ thêm nhiều khóa may ra mới theo kịp. Tôi đã từng được ăn hàng trăm nghìn ‘’của ngon vật lạrồi nên tôi đứng nghiêm để thưởng thức mấy ‘’món xoàng’’ của Hitler thì có nhằm nhò gì. Ăn không nhậu thì còn giá trị ca món ăn nên khi đứng nghiêm đ ăn’’, đầu óc tôi lại đang phân vân không biết chuyến tiếp tế này hậu trạm có mang rượu thuốc Thiên Tường cho tôi theo lời dn hay lại cứ mang rượu Vạn Ích, thằng Sáng chết rồi thằng Huy mập lại nằm xa Đại Đi, ly ai nhậu đây. K lương này không biết có được thảnh ti để làm một bữa rửa lon túy lúy không.

Xong vụ gắn lon lạ đời nhất Quân Đi, tôi đi theo xe tiếp tế về Đại Đi. Rượu thịt ê hề nhưng chưa kịp lai rai ba sợi, tôi đã nhận lnh mang hai Trung Đội tăng phái cho Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ.

Chúng tôi ngồi dọc Quốc Lộ 1 đợi xe của Thiết Giáp đến đón. Gặp Ó Lương đi xe Jeep tới, Đại Lương Lữ Đoàn Trưng 147, Ó Lương cho biết các đơn vị nằm phía Bắc đang bỏ chạy, chúng tôi s không được một sự yểm trợ o hết của đơn vị gốc, rán mà t lo liu lấy. Tôi hiu là trong hoàn cảnh này khó có hy vọng là chúng tôi strở về. Cuộc đời nhà binh của những thng ‘’lính rằn’’ chúng tôi thường xuyên ‘’một đi không trlại’’ nên chuyến đi này cũng chẳng có gì đáng phải bận tâm. Nhưng sao tôi vẫn không thể nói những điều này cho lính biết.

Tôi không nói cho lính biết nhưng không phải là họ không biết. Chuyến đi này thế nào ng sẽ rất thê thảm một chuyến đi bình thường của một nửa Đại Đội đâu cần đến Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng xung dn dò, cộng thêm là chúng tôi thy lác đác đã có những người lính Bộ Binh chạy về. Mt đứa nói với vẻ bất mãn:

- Đ mẹ, chỗ nào người ta chịu không nổi thì bắt mình tới hng. Còn nếu mình chịu không nổi thì người ta thây km mình.

Một đứa khác với giọng giễu cợt:

- Làm trai đâu sợ gì ơng gió, chỉ sợ đời không có gió sương thôi em! Trung Sĩ Khang quay sang tôi:

- Ông thầy, thằng này chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Tôi chuyển hướng câu chuyện, chmột người lính:

- Thằng này ngon này, không sợ ai hết, anh hùng mà.

- Ủa, sao vậy ông thầy ?

- Tụi mày biết nó xâm cái gì trên ngực không ?

Đám lính nhao nhao lên:

- Cái gì ông thầy ?

- Cái đầu lâu...

- Cái hòm...

- Không phải, tầm bậy hết! Tôi cười cười đọc:

Trên trời có một vì sao.

Dưới đất một mình tao anh hùng.

Thằng bé có xâm hàng chữ trên ngực cười bẽn lẽn:

- Tại mấy thằng bạn đè em ra xâm hồi học trong Quân Trường.

Hai chiếc GMC của Thiết Giáp chở chúng tôi ghé vào căn cứ Hòa Mỹ một lúc rồi trở ra đi lên phía Bắc, dọc đường tôi thấy các đơn vị B Binh đang lếch thếch chạy về phía Nam. Mẹ kiếp! hơn nhau tiếng gáy, mình đã l gáy to ri! Người ta đông thế kia còn phải bỏ chạy, chúng tôi ít người như thế này mà phải húc đầu vào.

Trời chập choạng tối, chúng tôi đến Bộ Ch Huy Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ, tôi quên mất tên căn cứ này lính nguyên trên xe đậu gần cng, tôi vào Phòng Hành Quân để nhn lệnh. Phòng Hành Quân một cái hầm khá rộng, bày biện rất ngon lành.


Người sĩ quan trực hành quân một ông Thiếu Tá. Ông ta không biết tí gì v

chuyện chúng tôi tăng phái đến nên bảo tôi ngồi đợi trưởng phòng. Tôi đề nghị:

- Thiếu giúp cho tôi gặp trưởng phòng ngay bây giờ, trời tối rồi mà còn phải

đợi, tôi sợ trễ.

Ông ta quay điện thoại, chừng năm phút sau Trưởng Phòng đến. Trưởng Phòng cũng là Thiếu Tá. Câu đu tiên của ông Trưởng Phòng mà tôi nghe được khi ông ta bước vào.

- Đ mẹ, anh để cho tôi ăn một miếng chứ, cái con cc cũng kêu tôi, cái th

anh đeo Thiếu làm uổng lon nhà binh.

Người sĩ quan trực cúi đầu nhìn xung đất, không nói một tiếng. Tôi đứng đấy ngỡ ngàng. Thiếu Tá Trưởng Phòng quay sang hỏi tôi:

- Bộ anh không đợi tôi được sao ?

- Không, Thiếu Tá. Thiếu Tá cho tôi biết nhim vụ.

Ông ta bảo tôi cùng đi đến chỗ treo bản đồ hành quân, không hiu nghĩ sao, ông ta quay lại hỏi tôi:

- Anh có biết bãi đất trống ở đây lên gần Mỹ Chánh nm phía bên trái không ?

- Tôi biết, cái chợ, phía bên kia là làng Chánh Môn.

- Rồi, anh ra đó nằm.

- Thiếu Tá cho tôi biết tình hình, nhiệm vụ và bản ám danh đàm thoại.

- Anh cứ ra đó đi, tôi cho người mang ra sau.

- Tôi không thể ra đó khi tôi chưa nắm được tình hình chưa biết được nhiệm vụ.

- Không có mẹ gì đâu, anh c ra nằm đêm nay đi.

Tôi quay ra, bực mình không thèm chào, m kiếp, quan liêu, hống hách và cẩu thả. Không lẽ ông ta giận tôi vì đã phá ngang bữa ăn của ông hay ông vội vàng với tôi để tiếp tục ba ăn. Chắc chúng tôi còn phải rất chật vật cái kiểu cách chỉ huy của bọn ‘’con cua’’ này.

Trời tối hẳn khi chúng tôi đến nơi. Dân làng đã bỏ đi hết. Một vài con chó đang xục xạo quanh những cái sạp chợ bỏ chạy khi chúng tôi đến. Thế là chúng tôi snhững bữa nhậu đã đời’’ với mấy con mồi này. Tôi cho lính lục soát thật k trước khi đóng quân quanh chợ và hai bên Quốc Lộ.

Tôi không biết ti về tình hình ta và địch ở đây nên suy nghĩ rất lâu về vị trí phải đặt các Toán Tin Đồn. Cuối cùng, tôi đặt một toán ở Tây Bắc một toán ở phía Đông.

Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ báo cho tôi biết là tôi được đặt i sự điu động của Chi Đoàn 1. Tôi lại xin bn ngụy nhưng vẫn được trả lời sẽ cho người mang ra sau. Không lẽ bọn ‘’con cua’’ này không có bản ám danh đàm thoại!

Chi Đoàn 1 gọi tôi:

- Anh cho tôi biết vị trí chính xác của anh và mấy đứa con.

- Tôi không th báo cáo cho đến khi tôi bản ngụy. Anh đã biết đại khái ch

tôi nằm chứ ?

- Biết.

- Anh cho tôi biết tình hình quanh tôi.

- Phía Bắc anh không ai, phía Đông cũng vậy, phía Tây hoc Nam đó của anh là tôi.

Tôi đã đặt tiền đồn theo đúng tình hình.

Tôi báo cáo tình hình và vtrí đóng quân về Tiểu Đoàn. Tôi cũng than phiền vlli làm việc của my ông ‘’bố ghẻ’’ này. Tiểu Đoàn cho tôi biết nếu có đng độ, hãy để một máy liên lạc thường xuyên với Tiểu Đoàn.

Chi Đoàn 1 gọi li:


- Anh cho tôi biết vị trí chính xác của anh để tôi còn báo cáo.

- Không thể được tôi không bản ngụy. Thôi đưc, anh biết số nhà riêng của tôi không ?

- Biết.

- Rồi, lấy cái đó làm alpha. Tôi ở alpha phải 27 lên 16.

- Tôi không tìm ra.

- Anh không tìm ra cái gì ?

- Alpha.

- Hiện gi tôi đang gặp anh tại số nhà ca anh. Anh biết rõ số nhà của tôi không ?

- Biết.

- Lấy số đó làm alpha. Hay thế này vậy, lấy số nhà anh làm alpha. Anh tìm ra alpha chứ ?

- Tôi chịu, không thể tìm alpha được.

- Đành vậy, tôi không thể cho anh biết vị trí của tôi được. Tôi bỏ máy. Một lúc sau Chi Đoàn 1 gọi lại:

- Thôi thế này, anh lật bản đồ ra.

- Rồi.

- Anh thấy chữ I của chữ HẢI không ?

- Rồi.

- Lấy đó làm chuẩn, anh cho tôi biết vị trí của anh.

- Đâu đưc anh bạn, anh bạn không sợ việt cộng cười cho à ? Hình như

anh không phải là thm quyền. Anh cho tôi gặp thẩm quyền của anh đi.

- Tôi thẩm quyền đây.

- Ồ, vậy thì xin li thm quyền. Thẩm quyền cứ báo cáo đại một điểm nào đó trong cái biết đại khái v tôi, chứ tôi không thể cho thm quyền biết chính xác theo kiểu đề nghị của thẩm quyền được.

Tôi không hiểu ông Chi Đoàn Trưởng này không có kinh nghiệm hay tại bên Thiết Giáp ngay tự bản thân họ đã ồn ào khi đóng quân, máy nổ ầm ầm nên họ không cần gi mật vị trí đóng quân, hay t họ cảm thấy an toàn trong my cái khối sắt nên không sợ bị pháo kích. Nhưng không sợ bị pháo kích thì vẫn phải đề phòng đặc công chớ.

Sáng hôm sau, 21 tháng Ba, khi tôi mấy tên lính đang làm vơi dần chai nước bin đựng đầy rượu thuốc Thiên ng cùng đĩa thịt chó luộc, có một đơn vị Địa Phương Quân kéo t phía Bắc về đến chỗ tôi một cách hỗn độn.

Đơn v kéo v này một đơn vị lớn nên tôi phải báo cáo cho Bộ Chỉ Huy L

Đoàn 1 Thiết Kỵ, tôi nghe chính giọng của Đại Tá L Đoàn Trưởng ra lệnh cho tôi:

- Anh chận hết tụi lại, đuổi ngược trở lên. Thằng nào vượt qua chỗ anh, bắn bỏ hết.

Tôi nghĩ bng, chỉ cn họ đái chúng tôi cũng đủ chết đuối rồi, đó bắn vi bỏ. Nghĩ vậy nhưng tôi vẫn cho cả hai Trung Đội dàn ngang Quc Lộ không cho họ đi sâu hơn nữa về phía nam. Có một Đại Úy trong toán này đến gp tôi, tự giới thiệu:

- Tôi Trưởng Ban Ba Liên Đoàn 913 Địa Phương Quân. Một chút nữa, Trung Liên Đoàn Trưởng tôi sẽ tới gặp Trung Úy. Hiện gi nhờ Trung Úy giữ đám quân này đây hộ.

- Ngồi làm một ly chơi đợi Trung Tá, Đại Úy. Lúc này rượu thuốc với thịt cầy

đâu phải dễ kiếm, Đại Úy.

Ông ta ngần ngừ rồi t chối quay ra.

Tôi ngồi húp bát cháo chó, ‘’ngon như cháo chó’’, tôi chẳng thấy bát cháo chó này ngon tí nào hết, mặc dầu được nấu bởi một tay làm thịt chó được coi điêu


luyện gốc H Nai, không hiểu tại không đủ gia vị hay tại những điều xảy ra t chiều hôm qua đến giờ.

Tôi đang gặm miếng xương chó thì có xe Jeep gắn hai cần câu chạy tới dừng ngay cạnh đường. Ngồi ghế trưởng xa một ông to béo, b quân phục ủi hồ còn thẳng nếp, mắt đeo kính đen, tay cầm can, chân phi gác lên ca xe để lộ chiếc giày bóng loáng, không hiu ông ta giữ như thế nào mà chiếc giày không dính tí bụi, ít ra cũng phải cả chục con ‘’mồi’’ đã bị ngã trên chiếc giày này. Biết ngay Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 913 Địa Phương Quân nhưng tôi không buồn đứng dậy. Viên Đại Úy lúc này ngồi ở băng sau nhảy xung đi lại phía tôi.

Định bng tiếp tục ngồi gặm xương chó chứ tôi không đứng dậy, nhưng tôi chợt một ý nghĩ hơi hèn lính tụi tôi đụng trận như cơm bữa, chết không nói làm gì, ngộ nhỡ bị thương, ra khỏi binh chủng chẳng may lại về đơn vị của ông Trung Tá này làm xếp thì hơi phiền, nên tôi vứt miếng xương chó, vừa chùi tay vào quần va đứng dậy đi ra phía xe Jeep. Ông Trung Tá to béo gỡ kính, bỏ can bước xuống xe.

Tôi chào ly lệ.

- Trung Úy chỉ huy ở đây ?

- Vâng, tôi.

- Trung Úy không cho tụi y xuống sâu hơn nữa, thằng nào cứng đầu Trung

Úy bắn hộ tôi.

- Tôi đã nhận lệnh này của Đại Tá Hường.

- Vậy bây giờ Trung Úy tập trung chúng li tại bãi đất này cho tôi.

Nghe thật ứa gan! Sự lo xa hồ một ngày nào đó thuc cấp của ông Trung to béo này không còn nữa, chỉ còn trong tôi s thương hi một chút khinh mit.

- Không, Trung Tá, họ là lính của Trung mà. Tôi nhận lnh của Đại Tá Hường là chận họ lại. Tôi chỉ là Trung Úy và là Đi Đi Phó, tôi không có khả năng tập trung cmột Liên Đoàn của Trung Tá.

- Thôi đưc, tôi về gp Đại Tá. Đứa nào không nghe lệnh anh c bắn cho tôi. Tôi sẽ nằm ở cái lô cốt dưới kia. Vừa nói ông vừa chỉ về cái lô cốt nằm xa xa phía Nam.

Tôi chán nản quay vào, báo cáo chuyện vừa xảy ra cho Tiểu Đoàn.

Liên Đoàn 913 Địa Phương Quân này nằm bờ Bắc sông Mỹ Chánh, thuc Tiểu Khu Quảng Trị, không hiểu có đánh đấm không họ li chạy như thế này. Đơn vị vẫn còn nguyên vẹn mà Đơn Vị Trưởng đã không còn chỉ huy được, phải đi nhờ đến tôi thì còn trời đất chó nữa. Địa Phương Quân Quảng Trị suốt năm 72 đã sát cánh với chúng tôi, vì rất nhiều do họ không thể có khả năng tác chiến bằng chúng tôi, nhưng họ cũng đâu phải những tay ‘’vừa’’ để mà chưa đánh đã chạy, để mà đã mất chỉ huy khi đơn vị vẫn còn nguyên vẹn.

Lữ Đoàn 1 Thiết K ra lệnh tôi tập trung Liên Đoàn Địa Phương Quân bắt họ di chuyển về hưng Tây. Tôi làm xong việc này không khó nhưng chán nản vô cùng. Một ông Thiếu Úy trẻ hông đeo Colt, tay cầm bản đồ, bên cạnh hai thằng máy trông oai phong lẫm lẫm tâm sự với tôi.

- Nếu không gặp mấy anh chúng tôi còn chạy nữa. Bọn tôi dừng lại không phải lính của anh dàn hàng ngang dưới kia đâu. Anh thấy không, bọn i dừng lại trước khi anh cho lính ra chận nút mà. Tôi biết chắc chắn Trung Úy không ra lệnh bắn nếu bn tôi cứ tiếp tục chạy, phải không ?

Tôi nghĩ bụng, tay này cũng là một tay ‘’xn đây. Anh ta nói tiếp:

- Từ khi Thủy Quân Lục Chiến rút khỏi Quảng Trị, tụi tôi có cảm tưởng mình bị bỏ rơi. Dân bỏ đi theo các anh, các Cơ Quan Hành Chánh, Tiểu Khu, Chi Khu cũng bỏ đi hết, bọn tôi lại để t sát à ? Tôi dân Sài Gòn thấy dân chúng b đi còn sốt


ruột huống lính tráng, tụi dân đa phương, gia đình vợ con bỏ chy, không

đào ngũ may rồi, còn nói gì đến đánh đm.

- Tại sao gặp tụi tôi, mấy anh không chạy nữa ?

- Tụi tôi nghĩ Thủy Quân Lục Chiến đã về hết Đà Nẵng rồi, như vậy tức bQuảng Trị, bỏ Huế, nên chúng tôi chạy. Bây giờ thấy mấy anh còn đây, tức là vùng này không bị bỏ, đã không bị bỏ rơi thì chúng tôi đâu sợ.

Sau khi Liên Đoàn 913 di chuyển hết vào phía núi, tôi nhn lệnh Tiểu Đoàn lên quan sát Công Binh giựt Cu Mỹ Chánh. Cầu xe lửa đã không sử dụng được từ lâu, cầu đường bộ này cũng đã hỏng ttrận năm 72, nhưng sau đó đã được sửa chữa để sử dụng. Tôi báo cáo chính xác những điều tôi quan sát được.

Cầu b bung một vài giữa, xe cộ không lưu thông được nhưng người đi b

vẫn thể qua lại tuy hơi khó.

Lữ Đoàn 1 Thiết K ra lệnh cho tôi đưa một Trung Đi lên nằm chận phía Nam cầu cùng với hai chiếc M-48, Trung Đội còn li vào sâu trong núi đến nằm chung vi Chi Đoàn 1.

Gặp Đại Úy Chi Đoàn Trưởng, người thm quyền đã yêu cầu tôi cho vị trí chính xác tối hôm qua. Bây giờ tôi mới hiểu lý do sự bết bát của ông ta. Ông tt nghip Khóa 2 Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Đang t một chc vụ chuyên môn là Chiến Tranh Chính Trị của Thiết Giáp, ông đã này nọ để được ra chỉ huy một Chi Đoàn. Hết ý kiến!

Buổi tối, chúng tôi theo Chi Đoàn 1 đến vị trí khác đóng quân đêm. Tôi vừa đặt xong hai chốt tiền đồn thì nhận được lệnh di chuyển. do di chuyển Liên Đoàn

913 Đa Phương Quân cảm thấy ‘’lạnh gáy’’ khi chúng tôi dời đi chỗ khác nên đã báo cáo ẩu lên Lữ Đoàn 1 Thiết K họ nghe thấy tiếng di chuyển của xe xích sắt ở phía trong núi, yêu cầu được chúng tôi nằm chận đầu.

Trời đã tối, hai cái chốt của tôi đã gài xong mìn lựu đạn, bây giờ phải gỡ hết đâu phải chuyn dễ, sau đó đến vị trí mới lại phải gài li. Gài hay gỡ mìn tự động, lựu đạn là một chuyện rất nguy hiểm, ban ngày còn có người chết, huống hồ là ban đêm. Tôi quyết định không gỡ khi đến đóng chốt vị trí mới cũng không gài, bù li, lính phải gác theo kiu đang đụng trận, nghĩa cứ hai người một vọng gác, người thức người ngủ thay phiên nhau.

Ngày 22 tháng Ba, lãnh lương. Trung Đội 2 của Huy mập lãnh lương xong, tôi hướng dẫn Ban Quân Lương lên Cầu Mỹ Chánh phát cho Trung Đội 1. Nhà cửa khu đầu Nam cầu Mỹ Chánh đã tanh banh hết, không còn dấu vết đang phục hồi sau ngày ngưng bắn, rất ít căn nhà còn nguyên vẹn. Lại mất rồi cái Chợ Mỹ Chánh, li mất rồi nhng tiệm ăn quán nhậu.

Pháo binh vẫn bắn đều t phía sau qua b Bắc. Tại đây cũng vẫn ăn pháo một cách rất ‘’vu vơ từ bờ Bắc bắn qua không trúng đâu vào đâu cả nhưng vẫn phi đề phòng, biết đâu đn ‘’lc’’ trúng mình. Với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề ăn

130 ly, hễ việt cộng pháo mình thường thì trúng chỗ khác, nhưng nếu nó nhắm bắn vào chỗ khác thì nên coi chừng, rất dễ ‘’lạc’’ vào chỗ mình vài quả như chơi. Y hệt như mấy ông Cnh Sát và Nhân Dân TVệ ở Thành Phố, nếu nhắm thẳng mình mà bắn thì bo đảm trăm phần trăm an toàn, vì luôn luôn trúng người khác, còn nếu mấy ông ấy nhắm người khác hoặc bắn chỉ thiên thì coi chừng, trúng mình cái chắc!

Trong khi Trung Đội 1 lãnh lương, tôi ra đầu cầu quan sát qua phía Bắc, thấy việt cộng xuất hiện l tẻ trên đường lộ, tôi cho bắn, vì chúng thp thò nên khó biết được bắn có trúng không. Có tiếng loa vọng sang từ bờ Bắc:

- Đừng bắn nữa, vài hôm nữa Huế cũng còn không giữ nổi nói đến Mỹ

Chánh mà bắn cho mệt.


Mẹ kiếp, bọn này lúc nào cũng một tấc đến trời, nhưng lần này tôi nghĩ có lẽ chúng nói thật, nhớ lại lời anh Phát làm ở H Viện là hoặc cắt đất An Lỗ, hoặc ở Lăng Cô, nếu cắt đất Lăng thì Huế mất ‘’cẳng’’ rồi. Hơn nữa, tôi nghe Trung Sĩ Nhất Đăng, Thường Vụ Đại Đội nói: ‘’Em nghe BBC nói 12 gitrưa ngày 25 này là bàn giao Huế’’. BBC không từng là đài phát thanh đáng tin cậy nhất từ xưa đến giờ hay sao ?

Nhưng mà, mẹ kiếp, như vậy thì nhục nhã quá, chúng tôi đánh nhau với việt cộng như người lớn đánh với con nít, nhiên là cũng chết chóc, nhưng vừa đánh vừa đùa chúng tôi vẫn chiếm gọn được bất c một mục tiêu nào được chỉ định. Khốn nỗi đã quá nhiều lần chưa đánh chỉ toàn nhận lệnh rút, cứ rút loạn ngầu đâm ra hỗn lon, đâm ra mất chỉ huy. Lính đã mất chỉ huy sẵn súng trong tay càng gây thêm hỗn loạn. Việt cộng đã hết thập thò tôi cũng hết hứng chơi trò tập bắn. Tôi về chỗ PC Trung Đội 1 viết vắn tắt mấy chữ nhờ Ban Quân Lương mang về Sài Gòn đưa cho m tôi: ‘’Người ta đánh nhau nhưng tận mãi đâu, chỗ con đang mang tiếng là khng khiếp nhưng thực sự vẫn còn yên. Ở nhà yên tâm về con’’.

Một ngày trôi qua rất thoải mái với thêm một chai u thuốc hậu trạm

Huế gửi Ban Quân Lương mang ra cho tôi.

Ngày 23 tháng Ba, Tiểu Đoàn cho biết là tôi hết nhim vụ tăng phái. Chúng tôi tr về Đại Đội nhưng không xe đến đón, nghĩa chúng tôi phải cuốc bộ. Dĩ nhiên khi người ta cn mình thì bao nhiêu phương tiện di chuyn mà chng có, đến khi không còn cần đến mình nữa thì đừng có hòng.

Tôi hiểu thân phận mình như vậy nên tuy hơi ngán đon đường quá xa, nhưng lại, trong suốt thời gian tăng phái, chúng tôi thực sự đã không phải làm một việc gì đáng gi là việc. Tôi chỉ tức một điều Thiết Giáp không có xe đưa trả chúng tôi v đơn vị gốc trong khi Chi Đoàn 1 lại xe đi Huế mua mía v nhai với nhau.

Đang tập trung con i ra Quốc Lộ 1, chỗ làng Chánh Môn, thì Điểu, Phụ Tá Ban Ba Tiu Đoàn gọi máy cho biết là đợi tại chỗ, chính Điểu s hướng dn xe lên đón. Gặp Điểu và hai chiếc GMC không phải là xe và tài xế ca Tiểu Đoàn, khi xe chạy tôi hỏi Điểu:

- Mấy cái xe này ở đâu ra vậy ?

- Tôi cũng không biết của đơn vị nào, thấy xe không chạy ngang qua Tiểu

Đoàn, tôi chận lại bắt đi đón mấy ông.

Cám ơn sự ngơ của mấy cái xe này.

Đi ngang qua Bộ Chỉ Huy của L Đoàn 1 Thiết Kỵ, nơi này không còn một căn cứ quân sự nữa vì đã vắng tanh vắng ngắt, tôi chỉ còn thấy mấy đám khói bốc lên, khói của những đám lửa phá hủy hồ sơ và nhng thứ không mang theo được. Thảo nào bọn tôi được trả về đơn vị gốc, còn ai nữa đâu để sử dụng bọn tôi. Tôi sực nh Liên Đoàn 913 Địa Phương Quân cũng biến đâu mất tự bao giờ ri, chỉ còn li chúng tôi và Chi Đoàn 1 Thiết K. Chúng tôi đi, không hiểu Chi Đoàn của ông Đi Úy Chiến Tranh Chính Trị làm Chi Đoàn Trưng bao gi thì rút, hay là các ông xếp lờ đi để họ nm chận hậu thời hạn.

Điểu cho hay Thiếu Tá Thành đã làm Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Toàn tức

Hitler và Đại Úy Phó đã đi Đà Nẵng để qua Tiểu Đoàn 18.

Tôi nhận lnh vào căn cứ Hòa Mỹ. Căn cứ này rộng mênh mông, ngày trước là doanh trại của Thiết Giáp, bây gi trở thành Bộ Chỉ Huy của tôi, một thằng Trung Úy và hai Trung Đội. Tôi không biết đường xá và ngõ ngách của căn cứ mặc dầu trước đây Đi Đi tôi đã lần tăng phái cho Thiết Giáp nằm trong căn cứ này cả tháng. Tôi chọn đại một chỗ đóng quân và t chức phòng th đêm, không phải


phòng thủ căn cứ phòng thủ trong căn cứ, không còn ai trong căn cứ Hòa

Mỹ này ngoài chúng tôi.

Đêm trăng, tuy không sáng nhưng cũng đủ hữu tình để chúng tôi nhâm nhi cho hết ít rượu còn lại. Rải tuyến xong, bữa nhậu nhà binh vừa được bày bin, chưa kịp lai rai, tôi đã nhn lệnh của Tiểu Đoàn đưa một Trung Đội tăng phái cho Tiu Đoàn 5 đang đụng sông Bồ, phía Tây Nam Cầu An Lỗ. Trung Đội 1 đã nằm giCầu Mỹ Chánh một mình, bây gi đến lượt Trung Đội 2 của Huy mập đi. Thằng nào đi cứ việc đi, thằng nào còn lại cứ việc nhậu.

Đang ăn nhậu nửa chừng, tôi lại nhận lệnh. Lần này chúng tôi đi nốt.

Vượt qua hàng rào phòng thủ của căn cứ, nơi còn sót lại rất nhiều mìn bẫy, nhưng may mắn chúng tôi qua an toàn bằng đường mòn lúc trước những tên lính ‘’dù’’ đi chơi khi căn cứ còn đóng quân. Băng qua thửa ruộng nhỏ, đi vòng theo bìa làng Đồng Lâm, vào sâu trong núi, chúng tôi nhiệm vụ làm gạch nối cho Đồi

51 Quc Lộ 1. Quá nửa khuya chúng tôi đến đưc vị trí ấn định, b trí để

nghỉ ngơi, tôi đoán chắc chúng tôi còn phải di chuyn trong đêm.

Các Tiểu Đoàn Biệt Động Quân của Liên Đoàn 14 đáng lý phải nằm bắt tay hàng ngang với chúng tôi để tri dài tuyến phòng thủ bỗng dưng biến mất, chỉ còn trơ ra mấy Đại Đi ca Tiểu Đoàn tôi nằm lẻ loi trên vài cái đỉnh đồi.

Khoảng 4 giờ sáng ngày 24 tháng Ba, Đại Đội tôi nhận nhiệm vụ làm gạch nối

ở làng Đồng Lâm để yểm trợ cho Đại Đi 1 và Đại Đi 2 rút ra t phía núi.

Trời sáng rõ khi các Đại Đi 1 và 2 ra đến Quốc Lộ. Đại Đội 1 nằm lại đ Đại Đội tôi rút. Dân làng Đồng Lâm đứng nhìn chúng tôi rút quân, thật khó để tôi có thể phân biệt được ánh mắt của họ căm thù hay thích thú. Đại Đội tôi về đến đồi Chẻ, cây số 23 nằm lại khi Đại Đội 1 rút qua mặt chúng tôi. vài tên du kích t trong làng ra bám chúng tôi t xa xa. Việt cng pháo 130 ly ra Quốc Lộ như mưa để chn đường rút của chúng tôi nhưng không chính xác nên không có thiệt hại nào.

Đang di chuyển chúng tôi phải ngừng lại nhường một cánh quân Địa Phương Quân đang kéo t hướng Đông về Quốc Lộ. hai do, th nhất, chúng tôi đơn vị chận hu nên phi đi sau cùng, thứ hai chúng tôi không mun bị lộn xộn mất chỉ huy như kinh nghiệm 72, rất dễ bị trà trộn.

Buổi trưa Đại Đi tôi phối hợp với một Đại Đội Biệt Đng Quân, không hiu từ đâu hin ra rải quân nằm ở bờ Bắc sông An Lỗ, trong khi tất cả Tiểu Đoàn tôi nằm ở bờ Nam. Nhưng rồi khoảng 2 gitrưa, Đại Đội Biệt Động Quân li biến mất. Họ không báo cho chúng tôi biết h cũng không đi qua Cầu An Lỗ. Tôi không đoán nổi là họ đi lối nào và lúc nào. Tôi báo cáo về Tiểu Đoàn.

Chỉ còn Đi Đội tôi nằm ở bờ Bc Cầu An Lỗ. Lúc 4 giờ chiu tôi nhận lệnh rút về phía Nam cầu. Chúng tôi về nằm dọc bờ sông ngay chân cầu.

Dân chúng đây không chạy hết như tôi nghĩ. Ngay trong khu vực đóng quân của tôi có một ngôi chùa đang tấp nập dân chúng đi lễ. Tôi không biết ngày lễ gì nhưng quang cảnh quanh ngôi chùa rất thanh bình. Tôi t cảm thấy thừa thãi khi xuất hin tại đây với đầy đủ vũ khí, trang bị của một thằng lính ngoài mặt trận. Hình như ngưi dân ở bờ Nam cầu An Lỗ không biết hay không cần biết đến những chuyện đang xảy ra sát cạnh họ, ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn đến cuộc sống của họ. Tôi thực không thể hiểu lẽ gì và tại sao người dân ở đây lại có thể bình thản đến như vậy.

Súng vẫn nổ liên hi ở sông Bồ nhưng tôi đã mất liên lạc với Trung Đội 2 của Huy mập t đêm hôm qua, khi chúng tôi rời bỏ Căn C Hòa Mỹ, không hiểu bọn nó giờ này ra sao.

Tôi lại nhn lệnh ra quan sát báo cáo v chuyện Công Binh phá Cầu An Lỗ. Một người lính gác nói với tôi.


- Vừa có một chiếc Jeep chạy qua cầu, cũng có một bà già đi qua bên kia, không hiu họ có về kịp không.

Tôi chỉ nhiệm vụ quan sát báo cáo ch tôi đâu chỉ huy toán phá cu, nên tôi đâu quyền hoãn li để đợi họ trở lại. Tôi nói:

- H không về kp tại cái số của họ phải lại với việt cộng. Tao đâu có quyền hoãn chuyện phá cầu.

Kết quả phá cầu không được như ý, chỉ có xe không lưu thông được, còn người đi b vẫn qua lại thoải mái. Không hiểu toán Công Binh này thực sự không muốn phá cầu hay tại họ không đủ khả năng. Tôi báo cáo kết qu này lên Tiểu Đoàn và xin phá thêm một lần nữa. Tiểu Đoàn trả lời:

- Toán Công Binh không thuộc Thủy Quân Lục Chiến nên không thể ra lnh trực tiếp cho họ được. Phải xin lên trên, nhưng hiện gi số thuốc nổ của họ cũng đã hết, nếu xin được chắc cũng không kịp. Muộn rồi.

Tôi không hiểu ý nghĩa của tiếng muộn rồi n kỳ kèo thêm:

- Ngày hôm nay không kp thì ngày mai, chứ cái cầu như vậy thì coi như đâu

đã phá.

- Thôi được, để tôi xin, nhưng chắc chắn với anh là không kịp đâu. ích! Không hiểu Tiểu Đoàn xin thật hay chỉ hứa với tôi để tôi khỏi kỳ kèo. Khoảng 6 giờ chiều Huy mập gọi:

- 520-272.

- Nói. Tại sao giờ này ông mới chịu lên ‘’mai’’ ?

- Cái ‘’mai’’ của tôi banh rồi 520. Tôi phải mượn của bọn ‘’con cua’’.

- Cho tôi biết tình trạng của ông ra sao. Khỏi ngụy.

- Tụi tôi banh hết rồi, còn có mấy mống thôi, lại sắp phải ủi thêm cú nữa. Tôi cũng bị thương rồi.

- Mấy thằng bị thương ra sao ?

- Tôi xin tải thương nhưng bọn ‘’Lươn Đen’’ Tiểu Đoàn 5 Hắc Long bắt tự túc.

- Sao ông không xin thẳng 324 ?

324 là Thiếu Tá Tiền, Tiểu Đoàn Trưởng Tiu Đoàn 5 Hắc Long, tháng trước ông còn Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 4 tôi, người nổi tiếng ‘’ngon lành’’ khi trực tiếp chỉ huy chúng tôi đánh trận Cửa Việt ngày ngưng bắn.

- 324 biết rồi, ổng còn nói: ‘’Thầy trò mày rán làm cho tao nữa, đây trận

đầu của tao ở bên này’’.

- Thôi đưc rồi, tôi xin bên mình lo cho ông. Còn ông gom con cái lại. Đây lịnh của tôi không ủi nữa bất c lý do gì. Ông nghe rõ không ?

- Rõ, 520.

Tôi gi Đi Đội Trưng, Đại Đội Trưởng tay. Tôi liên lạc với Tiểu Đoàn, Tiểu Đoàn hứa sẽ can thiệp.

Khoảng 7 giờ tối, tôi liên lạc thêm một lần nữa với Tiểu Đoàn yêu cầu lo gấp cho Trung Đội 2. Tiểu Đoàn trả lời bất lực. Tôi liên lạc với Trung Đội 2 nhưng không được.

8 giờ tối, khi tôi đang cố gắng liên lạc với Trung Đi 2, Đại Đội Trưởng gọi tôi lên họp.

- Ông cho con cái trang b nhẹ tối đa, bằng mọi giá phải về đến Thuận An trước 6 gi sáng mai. Ai tới trễ s bị bỏ lại chỉ có một chuyến tàu đón mình về Đà Nẵng thôi.

Bây giờ tôi mới hiểu tiếng ‘’muộn rồi’’ của Tiểu Đoàn. Tôi hi:

- Còn Trung Đội thằng Huy mập sao ?

- Bỏ! Đại Đội một bản đồ thôi, tôi không chia cho ông được, ông về chuẩn bị khi nào có lệnh của tôi thì đi.


- Sao tiếng bỏ của ông nghe gọn quá vậy 369 ?

- Chứ ông thấy còn cách nào khác không ? Bây giờ chỉ còn mỗi một việc lo

được cho thằng nào thì lo. Ông về chuẩn bị đi.

Tôi bước ra, muốn khóc. Mẹ kiếp, bạn nhà binh tình nhà thổ, không ai lo cho bọn cả, còn tôi li không th nào lo được cho tụi nó. Tiếng súng vẫn n dữ di phía sông Bồ. Không hiểu nó có nghe lệnh tôi rút ra ngoài hay lại nổi máu điên mà ủi tiếp. Ai ch thằng Huy mập này thì mê ủi lm.

Đại Đi tôi trang b nhẹ. Súng cối mang theo mười quả đạn, đại liên một dây

100 viên, M-79 một dây sáu quả, M-16 một băng; mỗi ngưi lính hai quả lựu đạn, một bao gạo sấy, một lon thịt hộp, tt cả những thứ bỏ lại vứt hết xung sông An Lỗ, quần áo mùng mền cũng vứt.

Tôi cố gắng liên lạc với Huy mp nhưng vn không được. Âu cũng là phần số. Hy vọng bám được theo Tiểu Đoàn 5. 9 gitối tôi nhận lệnh di chuyển, Đại Đi tôi đi sau cùng của Tiu Đoàn. Khi đi ngang chỗ Đại Đội Trưởng, ông ta đã bỏ đi ttrước.

Tôi liên lạc một cách nhẫn nại vi Trung Đội 2. Trời đã không phụ tôi. Trung

Khang Trung Đội Phó trả lời tôi đầu máy bên kia:

- Tao gặp 272.

- 520 chờ.

- Thôi khỏi, mày nói 272 ngay bây giờ kéo hết con cái ra Quốc Lộ, ngay bây giờ, nghe rõ không ?

- Rõ, 520.

- Cố gắng kéo hết con cái ra Quốc Lộ, theo dòng người về Huế.

Tôi yên tâm. Với Trung Đội 2 tôi đã cố gắng hết khả năng ca tôi. Những thằng bị thương tùy thuộc vào Trung Đi Trưởng những thng còn khỏe mạnh của Trung Đội. Nếu tôi không cố gắng liên lạc, chưa chắc bn nó chịu nằm yên, nhưng cũng chẳng còn ông xếp nào nghĩ đến cái Trung Đội què quặt đang bị bỏ rơi.

Bập bùng trước mặt là đám lửa của chiếc M-48 cháy nằm ngay trên Quốc L. Đó đây trên đường l, xác của những người lính bất hạnh nằm chết đủ kiu. Đoàn người vẫn đi qua, chỉ có những cái nhìn ném về phía những xác chết.

Dòng người càng lúc càng đông, Đại Đội tôi blẫn trong dòng người đang di chuyển về phía Nam. Thỉnh thong trên đường chúng tôi di chuyển, bọn du ch xuất hiện bn chận chúng tôi, y hệt cái kiểu m 72 đã tạo ra Đại Lộ Kinh Hoàng, nhưng lần này không phi là cuộc rút chạy hỗn loạn của năm 72. Tuy không dchỉ huy như bình thường nhưng chúng tôi không bị lẫn lộn với các đơn vị Bộ Binh hoặc Địa Phương Quân, cũng không blẫn lộn với những ngưi dân, tuy rằng cũng có những đơn vị khác, cũng một ít dân chúng cùng chạy vi chúng tôi, nhưng vn một sự khác biệt của một đơn vị còn chỉ huy nên những cái nút chận của bn du kích không có khả năng chận được chúng tôi lại. cũng nhờ sự trật tự này nên nếu có bọn vit cộng trà trộn vào, cũng không dám dở trò ném trái khói chỉ điểm hay dùng máy truyền tin để điều chnh pháo binh của chúng như hồi năm 72.

Tuy nhiên tôi thằng ích kỷ, chỉ biết đến Đại Đi mình nên tôi đã ngm khuyến khích lính ca i đi càng nhanh càng tốt, tôi đã rất lỏng lẻo trong việc kim soát lính, thậm chí tôi còn l đi khi thấy lính tách khỏi hàng đi vượt qua mặt tôi. Đại Đội tôi tan dần vào dòng ngưi, cuối cùng chỉ còn tôi vài người lính thân tín. Trung Sĩ Khang gọi cho tôi biết là đã gặp Đại Đội chỉ huy của Tiểu Đoàn, những người lính bị thương không thể đi được đã được gửi theo xe hữu của Tiểu Đoàn. Tôi yên tâm hoàn toàn về Trung Đi.

Tôi đi vượt lên trên, gặp Đi Đi 1, thật tuyệt hảo! Đại Đội 1 vn đi một hàng dọc bên lề đường, các sĩ quan đi ngoài hàng ngang với Trung Đi của mình


người Đại Đội Trưởng, Đại Úy Tài, tay cầm một khúc cây làm roi đi lên đi xuống theo Đại Đi, miệng la hét chửi bới và cả quất roi vào đít những tên lính nào bỏ đứt đoạn hay đi chệch ra khỏi hàng. Đi Đội 1 di chuyển như đang thực tập bài di hành trong quân trường, chứ không phải đang rút lui gấp cho kịp tàu. Gặp tôi đi tới, Đi Úy Tài hỏi.

- Đmẹ, Đại Đội mày đâu ?

- Loạn ngầu hết rồi anh Hai. Chúng tôi vẫn gọi Đại Úy Tài anh Hai, anh

Hai Tài.

Anh Hai Tài cầm roi nhắp nhắp về phía tôi:

- Đmẹ, năm roi nghe mày!

Tôi cười cười ngượng ngượng:

- Lên tàu ri đánh, anh Hai. Em đi trước nghe.

- Ờ, tới Huế rán gom Đại Đi lại nghe mày, thằng láu cá!

Qua ngã ba An Hòa, đã gần 12 giờ khuya, tôi đi thêm một đoạn nữa, đến chỗ đèn sáng ngồi nghỉ, đồng thời đ dễ gom lính lại. Khong hơn na tiếng sau, tôi gom được gần hai chục mạng chậm chân hơn tôi, tiếp tục kéo nhau đi.

Đến Cu Bạch Hổ, tại chòi gác gần cầu, tôi thấy một người lính Nghĩa Quân quần áo súng đạn rất chỉnh tề đang đứng gác. Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Giờ này còn đứng gác cái mẹ gì ở đó, cha nội ?

- Em không nhận được lệnh hết.

- Lệnh cái con cặc, Tiểu Đội Trưởng mày đâu ? Một người lính già tay xách khu súng chạy lại.

- Dạ tôi.

- Huế bị bỏ rồi, ông n gác cái gì nữa. Tôi là Trung Úy ra lệnh tan hàng, về lo mang vợ con đi gấp nghe không!

- Dạ.

Thật tôi không th hiu nổi tại sao mấy ông xếp lại thể nhẫn tâm bỏ lại lính tráng chạy lấy thân như vậy, trong khi tình hình đâu đến nỗi. Trung Đội 2 của Huy mập đã bị mấy ông xếp bỏ rơi. Không, Tiểu Đội Nghĩa Quân này bị la ở lại thì đúng hơn. Những loại ông xếp vô liêm sỉ này trong Quân Đi chắc chắn không phi là ít. Không hiểu hiện giờ ở khắp Quảng Trị Thừa Thiên này có bao nhiêu đơn vị nhỏ còn đang phải thi hành nhiệm vụ nào đó trong khi các ông xếp ca họ đã ung dung ở Đà Nng hoặc Sài Gòn. Xin hãy gắn anh dũng bi tinh với nhành dương liễu cho những ông xếp này. hình như cũng chẳng phải xin, thường ra thì huy chương được gắn nhanh nhiu vào ngực áo của những thằng chẳng bao giờ biết đánh đấm gì.

Xin cám ơn những cái huy chương.

Một già đứng cửa một túp lều bên vách tường thành Phú Văn Lâu, một tay cầm đèn dầu, tay còn lại quẹt nước mắt liên hồi, nhìn chúng tôi. Tôi hỏi bà cụ:

- Răng không đi mệ ?

- Mệ không có tiền để đi con ơi!

- Tụi con cho mtiền, hay mệ đi chung với tụi con.

- Chừ hết kịp rồi con ơi!

Huế đang một Thành Phố chết và đang là một Thành Phb bỏ ngỏ. Cả Thành Phố chỉ còn lại vài ba ngọn đèn đường, cái ng cái tối, đạn pháo việt cộng nã đều vào Cầu Trường Tiền khách sạn Hương Giang, đó đây người ta đang đạp xe ba nh, xe xích lô đi hôi của.

Đi lối cầu mới thì được an toàn, nhưng tôi sẽ đi li Cầu Trường Tiền mặc dù cầu này đang bị pháo. Một chút lãng mạn trong ngưi tôi nổi dậy, chẳng cũng ch


còn ln chót. Ngay đầu cu, một chiếc M-48 nằm chình ình, máy vẫn còn nổ không có người. Lên đến giữa cầu, tôi nói với mấy thằng lính đệ tử.

- Quay lại nhìn Huế lần chót bay, chắc chắn mình sẽ không đánh ra tới đây

để lấy lại đâu.

Một nỗi buồn dâng lên trong tôi, không khóc nhưng mắt tôi đoanh tròng.

Bao nhiêu gian truân, bao nhiêu xương máu, bao nhiêu xác nời, bao nhiêu mồ hôi nước mắt của bạn bè, ca anh em đồng đi tôi đã đổ xuống cho cái vùng địa đầu nghiệt ngã này. Bản thân tôi cũng đã hai lần đổ máu nơi này, bây gi bỗng chốc bỏ đi, hỏi ai người không tức i. Đù má những thằng chu trách nhiệm trong vụ bHuế này, lịch sử s bôi tro trát trấu vào mặt chúng! Những ai đã từng tuyên bố, từng hô hào tử thủ Huế giờ này ở đâu ?

Khốn ni, những thằng đánh trận mà luôn luôn đi đàng sau và luôn luôn bỏ chạy trước lại những thằng quyền, quyền hèn nhát, đốn mạt nên bây giờ bao nhiêu người khn đốn, rút chạy như một lũ thua trận. Nhưng thực sự chúng tôi đã đánh nhau đâu đ bị gi thua! Đ tiếp liệu trong Thành Mang dư sức cung cấp cho Lữ Đoàn tôi ít nhất là ba tháng, tại sao không cho chúng tôi vào Thành Nội ? Ờ tử th làm chó gì, bao nhiêu thằng xếp cút mẹ nó hết rồi, vợ đẹp con khôn tiền bạc bao năm ăn bẩn không lẽ lại vứt bỏ. Vậy thì tội chó mình lại nghĩ đến chuyện lại đánh nhau để chết oan mạng, cùng lắm được vài git nước mắt sấu, một cái huy chương không giá tr, những lời ca tụng giả dối, ngoài cửa mồm thôi chứ có mẹ gì nữa đâu. Đồ chó má!

Qua hết cầu, tôi gặp Đại Úy Chiêu, Đại Đi Trưởng Đại Đi 3, tay cầm chai rượu chát khổng lồ, túi đút chai rượu mạnh. Thấy tôi ông kêu lớn:

- Ê Huy, nhậu mày.

Bao nhiêu tủi hờn, căm hận, buồn bực biến mất nhanh như viên đạn ra khi nòng súng. Bọn tôi ngồi quây tròn giữa ngã tư đầu Nam cầu Trường Tiền nhậu không có mồi, không có nước đá ‘’chữa la’’ thì chúng tôi nhậu chay.

Câu chuyện li vui như pháo Tết. Mấy tên lính không biết lấy xe xích lô của ai chở đầy xe thuốc lá Ruby và bia Quân Tiếp Vụ đến tiếp tế và nhập cuộc.

Tôi đập vỡ cổ chai bia rót từ đầu xung, người ướt đẫm bia thích thú, t đến ln chưa bao gi được tắm bằng bia mà. Nhưng chẳng cái dại nào giống cái dại nào: B ướt bia, người tôi dính nhem nhép khó chịu.

Đang ngồi nhậu, Đại Đội Trưởng tôi không biết từ đâu tới cho biết điểm hn đã thay đổi vì những kho đạn, kho xăng ở Thuận An đã bị cháy, không biết vì pháo kích hay đặc công. Điểm tập trung mới là bến phà Tân Mỹ.

Mấy ông lính của tôi không biết vác đâu ra một lô súng mới tinh, nào M-

16, nào M-79, nào đại liên M-60, còn c máy truyền tin ANPRC-25 nhưng không có pin. Tôi bảo lính đi lấy thêm, Đại Đội Trưởng tôi không chu:

- Vác nặng thêm chứ được cái gì!

- Nặng khỉ gì, mình đi tàu đâu có vác.

- Tôi nói không, giờ này không lo mà đi đi, còn ở đó lo súng với lo nhậu.

Đi!

Tôi uể oi đứng dậy. Lệnh đi thì đi chứ thc sự tôi còn muốn ngồi nhậu, mấy khi còn dịp ngồi xếp chân bằng tròn giữa ngã nhậu thế này. Ung dung ngi nhậu nhìn thiên hạ hớt ha hớt hãi thú lắm chứ. Tôi đi qua khách sạn Hương Giang lúc này đã hết bị pháo kích, qua Đập Đá, đến ngã ba con đường đất đỏ. Ngã ba này là điểm t hội của dòng ngưi đi t Huế ra dòng người quá nhanh chân nên phải đi ngược từ Thuận An vào. Tất cả đổ vào con đường đất đỏ để đến bến phà Tân Mỹ.

Đại Đi Trưởng ra lnh tôi đợi ở ngã ba để chỉ đường cho lính ở cả hai phía tới, còn ông ta nhập vào dòng người đi trưc.


Tôi gặp So, Trung Úy Đại Đội Trưởng Đi Đội 2. So, Hồ, Sáng và tôi là bn thằng cùng về Tiểu Đoàn một ngày. So cũng đứng lại đợi những con nhn đà, đứng với nhau cùng ngậm ngùi về chuyện thằng Sáng. Chừng nửa tiếng So cũng lại đi trước.

Khoảng gn 3 giờ sáng, khi dòng người thưa dần tôi mới đi. Đi chừng chưa đầy 20 phút, chúng tôi mất bóng những người đi trước bị đứt đoạn. Đến một ngã ba tẽ ra như hình chữ Y, hai ngã đường đu lớn như nhau, tôi rất phân vân trong slựa chọn. Trong số người có mặt, tôi là thằng có cp bậc cao nhất, tôi lại có máy truyền tin nên mọi người đều trông vào tôi. Tôi gọi máy cho Đại Đi Trưởng:

- Tôi gặp ngã ba hình chữ Y, 369 cho biết đi đường nào ?

- Đi thẳng.

Mẹ kiếp, vậy thì hỏi làm chó gì cho mất công, đường nào cũng là đường thẳng và đường nào cũng là đường rẽ.

- Ông cho tôi biết phải đi về hướng nào ?

- Hướng Nam, bộ ông không đang đi về hướng Nam sao ?

Tôi không muốn hỏi nữa. Đường bên trái về hướng Đông Nam, đường bên phải về hướng Tây Nam. Tôi chọn đường bên trái vì chắc chắn đường này sẽ ra đến Phá Tam Giang. Đi được chừng hai cây số, có một xe Jeep từ sau chạy tới. Tôi hi:

- Phải đi đường này không mấy anh ?

- Ừ, gần ti phá rồi.

Chắc ăn mình đã đúng đường, cứ thế chúng tôi đi. Nhưng khoảng chừng

15 phút sau, chiếc xe Jeep lúc nãy đi ngưc trở lại, không đợi hỏi, mấy người trên xe

đã nói:

- Tụi tôi ra tới phá rồi, không gặp ai hết, quay lại đi.

Chúng tôi nhìn nhau thở dài. Tôi liên lạc với Đại Đi Trưởng:

- 369-520.

- Nói.

- Tôi đi lạc rồi, bây giờ vòng lại thì xa quá, ông bắn cho tôi ba phát súng để tôi

định hướng.

Im lặng. Tôi gọi li:

- 369-520.

- Nói.

- Sao ông chưa bắn ?

- Bắn rồi.

- Tôi không nghe gì hết, ông bắn lại đi. Lại im lặng.

Tôi lại gi:

- 369-520.

- Nói đi.

- Ông bắn chưa ?

- Rồi, cha nội.

- Vậy thì tôi đi lạc xa quá rồi!

- Ông rán đi làm sao cho kịp thì đi. Giận quá tôi mỉa:

- Cám ơn 369.

Chúng tôi kéo nhau đi ngược trở lại, đi theo tôi có đến bốn, năm chục người nhưng thy trò tôi chỉ có ba. Thế là mất toi cả hơn tiếng đồng hồ, lại được cái tăng thêm mệt nhọc và s bực mình.


Về đến ngã ba chữ Y lúc nãy, đương nhiên lần này tôi không còn phân vân hay phải hỏi đường.

Càng đi đoàn người phía sau càng đông dn và dần dần qua mặt chúng tôi.

rất nhiu xe đi qua, tôi chận được một xe Jeep không đến nỗi chật lm, cả ba thầy trò tôi cùng lên được trên xe. Tôi nghĩ bụng, mệt quá rồi, thôi thì phó mặc cho tài xế. Ngủ.

Tôi ngủ ngon lành cho đến khi xe đến bến phà Tân M khoảng 6 giờ sáng. Người đã tập trung đây rất đông nhưng phương tin qua sông lại không có

một cái. Bao nhiêu ghe, gọ nm hết bờ phá bên kia. Tôi chẳng rỗi hơi lo chuyện làm sao để qua phía bên kia phá, không phải việc của tôi.

Trong thời gian nghỉ ngơi để chờ đợi, Thiếu Thành cho tập họp các sĩ quan của Tiểu Đoàn lại để t giới thiệu.

- Tôi Thiếu Thành, Đinh Long Thành, Tiểu Đoàn Trưởng mới của các


anh.


Tàu đã đợi sẵn chúng ta bờ biển, các anh kiểm điểm lại quân số. Nhng


mất mát v khí, trang b không thành vấn đề. Chúng ta sẽ được tái trang bị khi vào đến Đà Nẵng.

Kể cũng tức cười, sau khi chạy vắt giò lên cổ, chạy ướt nhẹp cả quần, Tiu Đoàn Trưng mới được giới thiu với các sĩ quan trong Tiểu Đoàn. Quân số Đại Đi tôi thiếu gn chục mạng, tuy nhiên người vẫn tiếp tục đến. Trung Đội 2 của Huy mập cũng đã mặt, kể cả những người bị thương nh, còn những người bị thương nặng tôi không biết họ ở đâu nhưng chắc là đã được yên ổn, an toàn.

Khoảng 11 giờ Đại Đội tôi vượt xong Phá Tam Giang.

Nơi mới đến tôi chỉ biết duy nhất một điều là bốn bề là nưc, phía Bắc là cửa Thuận An, phía Nam cửa Hiền, phía Tây Phá Tam Giang phía Đông là bin Đông. Một cái túi được bc kín chung quanh bằng nước, bề ngang Đông Tây rất hẹp.

Chúng tôi được chia vào nằm những căn nhà dọc hai bên con đường đất chính của làng ở ven phá để ăn uống, ngh ngơi.

Rải rác có thêm nhng người lính của Đại Đội tiếp tục đến, cho biết đã có những đụng độ giữa việt cộng với những người đi phía sau.

Hơn 12 gi trưa, chúng tôi được lệnh di chuyển ra bờ biển. Vừa lên hết đụn cát cạnh làng tôi đã thấy ngay một chiếc tàu thật lớn mang s HQ-801 thừa sức chứa cả Lữ Đoàn đã đợi sẵn gần bờ không biết từ bao giờ. Tôi nghĩ bng chỉ còn lên tàu na là chấm dứt sự rút chạy, bọn việt cộng có tới nơi cũng sẽ chỉ được một phen chưng hửng. Nhưng lên tàu cũng còn có nghĩa là chấm dứt một cách nhục nhã và cuộc chiến đấu khủng khiếp mấy năm trời nay để giữ vùng Quảng Tr Huế, sẽ chẳng bao giờ còn tr lại cái nơi đã in đm vào tôi những kỷ niệm vui buồn xấu tốt.

Sóng vẻ cao ở sát b nên tàu phải đậu cách bờ đến khoảng năm mươi mét. Những người dân chạy loạn lính tráng của các đơn vị khác tan hàng đã đứng đầy bờ biển. Họ đã chy theo chúng tôi t Quảng Trị, Huế các vùng phụ cận về đến đây.

Theo lệnh Lữ Đoàn, mỗi Tiu Đoàn tập hp thành một khối đứng quay lưng ra biển. Đại Đội tôi mỗi Trung Đi đứng một hàng dọc cng với một hàng dọc ngắn ca Ban Chỉ Huy Đại Đi.

Trong khi kiểm điểm quân số, Tiểu Đoàn bắt được một tên việt cộng trà trộn. Tên này ng mặc quần áo Thy Quân Lc Chiến, cũng đeo bảng tên màu đỏ của Tiểu Đoàn, bị phát giác một sự ngờ nghch nhỏ. Mi bảng tên đều con số của từng Đại Đội, tên việt cộng này mang bảng tên không s tức thuộc Đi Đi Ch


Huy lại đng vào khu vực của Đại Đội 2. Bắt được tên việt cộng trong hoàn cảnh này dù nhân đạo đến đâu cũng không thể gi làm binh, ch một cách duy nhất tặng chàng cái vé đi tàu suốt.

Buổi sáng kiểm điểm quân số ở bên kia phá, tôi chỉ nghe báo cáo của các Trung Đội, bây giờ đâm hoảng, tôi phải đích thân đi nhìn mặt tng người lính trong Đại Đi. Oái ăm thay ngay trong Trung Đi tôi, tôi làm Trung Đi Trưởng Trung Đội 4 thay cho Thiếu Úy Sáng từ ngày Sáng qua Đại Đi mi, tôi Đại Đội Phó nên mọi sinh hoạt của Trung Đội đu do Trung Sĩ Nhất Ba Trung Đội Phó điều động. Tôi hoảng hồn vì trong Trung Đi tôi có mấy tên mang đúng bảng tên của Đi Đi nhưng mặt mũi l hoắc, một tên còn dắt theo một gái đang lúng ta lúng túng, mặt mũi tái xanh tái mét. Tôi hi:

- Mày Đại Đội nào ?

- Em Đại Đội 4.

- Mày Trung Đội nào ?

- Em Trung Đội 4.

- Trung Đội Trưởng mày là ai ?

- Là Trung Úy, vừa nói người lính vừa chỉ tôi. Trung Sĩ Nhất Ba đỡ lời:

- Nó là lính mình đó Trung Úy, anh ta chỉ thêm mấy người lính na, mấy đa này cũng lính mình luôn Trung Úy. Tụi nó về Đại Đi hồi ông đang đi phép, ra tới Đại Đội ông đi Mỹ Chánh liền nên không biết tụi nó.

Tôi hỏi tiếp:

- gái này của mày ? Cô gái hốt hoảng nói:

- Em v anh ấy.

- Phải không mày ?

Tay lính ngập ngừng, tiếng dạ lí nhí trong miệng.

- Mày mới Sài Gòn ra mấy ngày, tại sao đã có vợ Huế ? Cô gái òa lên khóc, thú nhận:

- Em không phi là vợ anh này, em là người Huế, em học năm thứ hai Văn Khoa, vừa nói gái vừa móc căn cước thẻ sinh viên đưa cho tôi em không phi là việt cộng.

Bất thần cô gái sụp xuống lạy tôi như tế sao:

- Trung Úy cho em đi theo với, em không còn cách nào để đi được.

- Mấy hoạt động chống chính phủ dữ lm mà, sao không lại đón việt cộng, chạy theo tụi tôi làm gì. Hay cô được gài đi theo mấy thằng lính ‘’mồ côi’’ này.

gái khóc rống lên một cách thảm thiết, tay vái tôi lia lịa:

- Gia đinh em đi trước hết rồi, còn mình em lại để thu xếp nhà cửa rồi đi sau, đâu ngờ đã không kịp thu xếp hết lại còn bị kẹt như vầy.

Tôi bảo Trung Sĩ Nhất Ba:

- Anh coi kỹ giấy tờ ri khám người ta xem khả nghi không ?

Tôi không phải người dễ xúc động nhng giọt nước mắt đàn bà, tôi cũng không phi một người cả tin nhưng xét cho cùng, người con gái trong hoàn cảnh loạn lạc này, một thân một mình nếu không bám vào chúng tôi thì còn biết bám vào ai, k cả trường hợp nếu ta người ca việt cng gài cũng chẳng đáng ngại tôi đâu để cho ta đi li thoải mái, còn nếu ta đích thực chỉ là một người dân cần chạy theo chúng tôi mà mình không giúp chẳng hóa ra mình tiếp tay cho vit cộng hay sao.

Năm 72, tôi đã chứng kiến cảnh những người dân Quảng Trị b kẹt lại trong vùng của việt cộng, khi chúng tôi đánh chiếm lại vùng thôn Bích La, Triệu Phong,


những đoàn người đã vượt bao nhiêu nguy hiểm đm về với ‘’bộ đi ming’’, có đoàn lúc khởi đầu khoảng ba trăm người, sau ba bốn ngày đêm đi ngày trốn, đến khi gặp được chúng tôi chỉ còn chng một trăm. Có đoàn khi đi khoảng một trăm, sau nhiều ngày trốn tránh đã không bị chết dọc đường, nửa đêm cuối cùng của đon đường vướng phải mìn t động của một Trung Đội tiền đồn chết một số, tiếng rên của những người bị thương, tiếng la của những người hốt hong với âm điệu miền Trung đã lọt vào tai chúng tôi thành những tiếng ‘’xung phong’’, thế là đn chúng tôi bắn ra, lựu đạn chúng tôi ném ra lại giết thêm một số dân không tí kinh nghiệm gì về chiến trường, sáng ra nhận din được nhau rồi, gom góp lại còn khoảng chưa tới năm mươi người, kể cả những người bthương. Có toán về gặp chúng tôi giữa ban ngày, có một người đàn ông mừng quá ôm chầm lấy một người lính vừa nhắc bổng lên vừa kêu ‘’gặp lính miềng rồi, gặp lính miềng rồi, chết cũng sướng, chết ng sướng’’, kêu xong ông ta nhảy ùm luôn xuống dòng sông Vĩnh Định, khi chúng tôi vớt lên được chỉ còn một cách là đắp cho ông ta một nấm mồ. Hương hn ông chắc chắn là đã ở nơi miền cực lạc.

Những hình ảnh đó của quá kh đã bắt buộc tôi phi cho cô gái Huế học Văn Khoa đi theo trong Đại Đội, nhưng dưới sự kiểm soát của hai người lính trong Ban Chỉ Huy của Đi Đội. Khả năng và quyền hn của tôi không thể giúp được cho tất cả những người dân đang chờ đợi, mong ngóng được lên tàu đng đông nghẹt ngoài kia, nhưng giúp chỉ một cô gái thôi thì tôi có thể làm được.

Cả Lữ Đoàn tập họp đứng khơi khơi quay lưng ra bin t hơn 12 gitrưa cho đến 4 giờ chiều trong khi chiếc HQ-801 vẫn dập dềnh chờ đợi. Không hiu để làm gì và không hiểu tại sao. Điều này chỉ có Ó Lương tức Đại bàng Lâm Thao biết, hoặc thêm một ít sĩ quan trong Ban Tham Mưu của Lữ Đoàn biết, còn ngoài ra, chúng tôi, những thng lính đang đứng tập họp trong hàng không th nào biết. một số lính vô kỷ luật đã trốn khỏi hàng, ly mấy chiếc ghe nằm trên bãi biển chèo ra tàu cùng với những người lính Bộ Binh một ít dân chúng. Trong số này tôi thấy c Trung Sĩ Châu, HSĩ Nam lùn mấy người lính của Đại Đi. Tôi nhìn những thuộc cấp đó hoàn toàn dửng dưng, chẳng còn buồn nghĩ là họ đúng hay họ sai nữa.

Người lính cuối cùng của Đi Đi vắng mặt khi tập họp đã tìm đến, Binh Nhất Tuấn. Tun bị bắn nát cánh tay trái, máu nhuộm đỏ cả tay áo, qun áo người ngợm ướt nhẹp, bết bùn, nhưng vẫn vác khẩu đại liên M-60 với còn chừng nửa dây đn trên vai phải. Tuấn nói:

- Tụi đã kéo tới đy hết bên kia phá rồi. Em bị tụi bắn theo khi mới ra khỏi bờ được một khúc. Lính mình bị kẹt bên kia vẫn còn nhiều, đang đụng.

Chúng tôi được lệnh di chuyển khi y đang băng cánh tay cho Tuấn đại liên.

Đừng tưởng bở, không phi chúng tôi di chuyển ra bờ biển để xuống tàu, và cũng không phải chúng tôi di chuyển ra bờ phá để lập tuyến phòng thủ, di chuyển mt hàng dọc dọc theo b biển đi v hướng Nam. Nhưng cũng không phải tiếp tục cuộc rút lui đến một điểm hẹn khác, mà lần lượt các Tiểu Đoàn, các Đại Đi nối đuôi nhau đi. Tôi xin nhn mạnh chúng tôi đi rất dọc theo bờ biển.

Trong khi đang tà tà dạo mát như vậy, một chiếc trực thăng từ phía bin bay vào, quần trên đầu chúng tôi ri ném chừng một chục bao cát đựng gạo sấy và tht hộp. Một sự hỗn loạn đã xảy ra để tranh giành mấy bao cát đựng lương thực ném xung đưc gọi tiếp tế đó. Có một bao rơi trúng đu làm bất tnh một người lính. Khốn khổ cho những thằng lính chúng tôi, đói thì thực sự chưa đói, bao nhiêu thứ bỏ lại hết và sắp sửa đây còn bỏ li ngay cả mạng sống của mình, vậy mà đi tranh nhau một ít lương thực ‘’tiếp tế’ kỳ cục đó.


tin đồn chính Tướng Lân ngồi trên chiếc trực thăng tiếp tế này với mc đích là để thị sát, nhân tiện ném xung cho một ít lương thực. Tôi không tin điều này vì hai do, th nhất theo tôi nghĩ Tướng Lân không thể ra đây trong tình trạng này, và th nhì là nếu Tướng Lân trên trực thăng, chắc chắn người anh cả đã ra lệnh cho chúng tôi xuống tàu bằng mọi giá chứ không phải để chúng tôi cứ rước đèn như thế này.

Chỉ cần mt tay Binh Nhất nghĩa là chỉ cần có chừng một năm kinh nghim chiến trưng, thằng dốt đặc về quân sự, thằng chưa được học một khóa Tiểu Đội Trưởng nào, chứ đừng nói đến Hạ Sĩ Nam lùn, Trung Sĩ Châu, cũng đã hiểu là chúng tôi phải xuống tàu càng nhanh càng sớm càng tt, vì càng dây dưa bao nhiêu là càng rút ngắn khong cách giữa chúng tôi với việt cộng bấy nhiêu. Đại bàng Lâm Thao tức Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng chắc chắn biết điều này, vậy thì do gì chúng tôi đã không được xuống tàu.

Với đội nh một hàng dọc ngoằn ngoèo như con rắn ở dọc bờ biển, chúng tôi nhận lnh ngồi xung. Chiếc tàu đã ra xa bờ và ‘’đi’’ chúng tôi tận ngoài khơi. Dĩ nhiên nó không th đậu mãi gần bờ để xem chúng tôi đi do mát, để xem chúng tôi nấn ná không có một hành động nào chứng tỏ chúng tôi muốn xung tàu cả. Hai ông xếp lớn ca chúng tôi, Đại Tá Lương Lữ Đoàn Trưởng Trung Tống L Đoàn Phó đứng thản nhiên nói chuyện, cười đùa thân mật với một ông xếp lớn nữa là Trung Tá Tòng (trong những bn in trước, vì trông gà hóa cuốc, tôi đã viết Đại Tá Thiệt, biệt danh ‘’Tử Thần’’, xin thành thật tạ lỗi vi ‘’Tử Thần’’) Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 14 Biệt Đng Quân. Không hiu cả ba ông xếp lớn đang nghĩ gì trong những cái đầu của h, đang thú vị trong những câu pha trò của họ, đang bàn bạc gì bằng những cái mồm của họ. Chỉ biết cả ba đứng nói chuyện rất thoải mái và thỉnh thoảng cười ồ lên hình như vì một câu pha trò đầy ý nhị.

Trung Tá Tòng là người của đơn vị khác hơn nữa, ông ta Đơn Vị Trưởng Trung Tá của một đơn vị không còn quân, nhiên ông ta không quyn hành gì cũng như trách nhiệm đối với chúng tôi. Đối với tôi ông ta không khác gái Huế học Văn Khoa đang bám víu vào chúng tôi. Trung Tng là Lữ Đoàn Phó trong khi đang mặt Lữ Đoàn Trưởng, ông cũng không thể có quyền hành hay trách nhim đối với chúng tôi. Nhưng còn Đi Tá Lương, người có cp bậc cao nhất quyền hạn ln nhất ở đây, người có trách nhiệm về cuộc lui quân của chúng tôi, người chúng tôi phải gọi đại bàng, ông đã sẵn một diệu kế trong đầu chăng, ông đang mun noi theo danh tướng thời xưa đang lập một trận Bối Thủy tân thời chăng.

Tôi rất hoang mang với cái trò dị hợm này, tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách. Chúng tôi đã bỏ Quảng Trị, bỏ Huế, chúng tôi đã bỏ bớt lương thực, đạn dưc cùng tất c mọi thứ trang bị nhân, đơn vị lủng củng khác để tẩu về đến đây, nhưng chúng tôi đã không được lệnh lên tàu khi hoàn cảnh còn thể, để tẩu cho xong đoạn đường tẩu. Bây gi chúng tôi tẩu đi đâu trong cái túi ‘’la’’ bốn bề nước này. Phương tiện độc nhất là chiếc tàu thì nó đã ‘’ra khơi thấy lòng phơi phi’’ rồi, vì trong lòng nó đã trống rỗng, không có chúng tôi.

Ngập ngng là chết, đã không thoái được thì phải tiến, nhưng lấy cái gì để tiến, và tiến đến đâu ? Đạn dưc chúng tôi đã hết, ơng thực chúng tôi cũng không còn, chúng tôi lại chỉ ở một bên mép của lao này, còn ngồi khơi khơi hóng mát chứ không chu phòng thủ. Thoái đã không thoái mà tiến li không chịu tiến, công đã không công thlại cũng không thủ.

Có phải đây một chiến thuật mới nhất đang được ghi vào quân s ?

Lính của những đơn vị B Binh đã tan hàng người dân Huế chậm chân

đang chạy theo chúng tôi chắc chắc chắn hoang mang hơn chúng tôi nhiều. H t


tập ở nhiu chỗ nhìn chúng tôi, nơi bámu sau cùng của họ đang ngồi nhìn trời ngắm biển, chúng tôi đang làm gì chúng tôi còn không biết thì người ngoài làm sao biết được.

Cứ ngồi như vậy cho đến gần 6 giờ chiu chúng tôi mới nhận lệnh tổ chức phòng thủ đêm. Đại Đội Trưởng tôi ra lệnh:

- Ông dắt con cái trong kia kiếm chỗ đóng quân tạm. Đợi tôi đi họp vrồi tính sau.

Sẵn Đại Đội đang ngồi một hàng dọc dọc theo b biển, tôi cho quay phải thành một hàng ngang, cứ vậy mà đi vào phía trong.

Đang di chuyển, mấy viên đạn xé gió bay ngang đu chúng tôi, bắt nhịp cho dàn đi hòa tấu nhiu loại súng bắn xối xả vào chúng tôi từ phía những lùm dương trên đồi cát.

Cả Lữ Đoàn nhốn nháo, người ta dồn cục ùn ùn chạy lên phía Bắc, rồi lại dn cục ùn ùn chạy xuống phía Nam, mấy chiếc M-113 chạy lẫn trong đám quân này bắn t tung loạn xà ngầu, không nhm vào đâu hết.

Đại Đội tôi đã ở cách đám đông hỗn loạn đó cả trăm thước nên không bcuốn theo phản ứng loạn xạ của họ.

Sẵn đội hình hàng ngang, tôi dẫn Đại Đi xung phong ngay tức khắc vào my lùm dương phát ra tiếng súng trên các đụn cát, vừa xung phong vừa reo hò tở mở. Kết quả rất hài lòng, khoảng chừng một trung đội việt cộng bị đẩy bật ra khỏi vị trí trước sức tấn công bão ‘’bằng mồm’’ của chúng tôi. Tấn công ‘’bằng mồm’’ đừng nghĩ chúng tôi np kín một chỗ bắn loạn lên trời rồi mồm la xung phong, cũng đừng hiểu tấn công ‘’bằng mồm’’ nghĩa tấn công bằng đạn t vừa tiến vừa la i sự kiểm soát của hun luyện viên chiến thuật trong quân trường. Tấn ng

‘’bng mồm’’ đây nghĩa chúng tôi xung phong tiến chiếm mục tiêu hẳn hoi, việt cộng bị đẩy bật ra khỏi vị trí nhưng không một tên nào chết hoặc bị thương, vì khi xung phong chúng tôi đã không bắn một viên đạn, chỉ cái mồm ngoác ra mà la, mà reo hò.

Bố trí quân xong, tôi đi một vòng Đại Đội kim soát được biết chính xác số đạn của từng người lính chỉ còn trên dưới mười viên. Chắc chn không th nào gi ni một phòng tuyến tuy khá nhỏ so vi quân số một Đại Đội nhưng lại quá ln so với sđạn dược chúng tôi đang còn, tôi cho thu nhỏ phòng tuyến li. Mt người lính đã chết khi Đại Đội thu tuyến. Lần đầu tiên trong đơn vị, c một đồng đội nằm rất gần mà chúng tôi chịu bó tay, không dám mạo hiểm lấy xác, lý do rất giản dị là chúng tôi không có đn để bắn yểm trợ. Trí thư ký sống khôn chết thiêng thông cảm cho anh em.

Vì là đồi cát nên chúng tôi đào hầm hố, giao thông hào không mấy khó, mọi chuyện được hoàn tất thật nhanh chóng. Việt cộng li bám sát chúng tôi. Đại Đội Trưởng từ Tiểu Đoàn về cho biết phát súng đầu tiên việt cộng đã bắn chết Đại Úy Chiêu, Tô Thanh Chiêu Đại Đi Trưởng Đi Đội 3 phát súng tiếp ngay sau đó đã bắn trúng giữa trán Thiếu Tá Nam, Nguyễn Tri Nam Tiểu Đoàn Phó, trong lúc Thiếu Tá Nam đang chia tuyến phòng thủ cho các Đại Đi Trưởng.

Chiếc tàu đã ra xa, thật xa ngoài khơi, bờ biển đã vắng tanh vắng ngắt, Lữ Đoàn đã bố trí thành một đường vòng cung bảo vệ mt đoạn bờ biển, những người dân và những người lính mất hàng ngũ đã trốn nấp đâu đó. Mặt trời đã khuất, tất cả đều đã biến mất trong ánh sáng cuối ngày, chỉ còn lại những tiếng súng, những lằn lửa đan ngang đan dọc trên đầu chúng tôi. Chúng tôi di chuyn thật hạn chế dưi giao thông hào được đào vội vã để chuyền cho nhau những viên đạn đi nht, đi mót được. Bóng tối xuống rất từ từ.


Một chàng Trung Úy Biệt Động Quân còn đeo cả khu Colt 45 bên hông và cái xng sau lưng không biết từ đâu xuất hin, bò đến chỗ tôi, giọng trầm:

- Trung Úy cho tôi đi theo trong Đại Đội vừa nói anh chàng vừa vỗ vỗ o túi quần tôi có hơn trăm ngàn, khi về đến Đà Nẵng mình sẽ đi nhậu.

- Một trò hối l bỉ ổi, tôi sẽ đồng ý cho anh đi theo trong Đi Đội nếu anh có súng đạn chứ tôi không cần anh phi tiền. Tôi nhấn mnh súng để đánh nhau chứ không phi là súng để làm cảnh như khẩu Colt này.

- Trung Úy để tôi đi kiếm.

Anh ta ngược trở lại phía bin, khuất dn sau những cát phía sau lưng


tôi.


Đạn ci 61 ly của việt cộng nổ rất gần chúng tôi nhưng rơi trên cát nên


chẳng hiệu quả gì bao nhiêu, và sự điều chỉnh không được chính xác vì việt cộng không nm được vị trí chính xác của chúng tôi. Tuy nhiên những nháng lửa và những tiếng n cũng đủ m cho thần kinh chúng tôi căng thẳng. Một vài qulựu đạn được ném ra từ giao thông hào chỉ có giá trị níu kéo mt chút tinh thần còn sót lại.

Tiếng khóc ư của gái Huế học Văn Khoa vang lên, thỉnh thoảng còn được cầm chịch bng những li kêu than, van vái. Đàn bà quả tht là vô duyên trong lúc này, vy còn phải nghe lời than khóc của cái món duyên ấy na. Trong trường hợp này và trong hoàn cảnh này, cô nàng quả chỉ đáng đem ra x bắn. Tôi bảo tên cao bồi:

- Bưởi, mày tới hỏi con nhỏ bộ muốn chỉ điểm mục tiêu cho việt cộng hay sao mà khóc rùm trời vậy ?

Bưởi bò đi một lúc rồi bò về vừa cười vừa nói:

- Con nh vừa khóc vừa kêu cha mạ ơi, trời phật ơi, tay vái lia la mà đâu thấy nó vái trời, chthy cái mông nó chổng lên trời thôi, còn tay nó vái đất.

Còn nữa ông thầy, có thêm một cặp nằm ôm nhau trong tuyến mình.

- Ngon há, sao mày không tống cổ tụi nó ra ?

- Đâu được ông, lính mình mà.

- Lính mình hả, thằng nào vậy ?

- Không phải Đại Đội mình, Đại Đội chỉ huy. Tụi nó đi theo Trung Úy Xuân.

- Ủa, ông Xuân cũng nằm đây à ? Để tao đi coi.

Trung Úy Xuân Đi Đội Trưởng Đại Đi chỉ huy, nhưng chắc chắn một điều là Đại Đội chỉ huy không có mặt ở vị trí của Đại Đội tôi. Tại sao ông Xuân li nằm đây

?

Tôi bò dọc theo giao thông hào, nhiều đon chạy quanh phía sau ụ cát nên không phi bò. Đi một vòng để kiểm soát khích l tinh thần lính tráng, tôi đến gặp Trung Úy Xuân:

- Tại sao ông lên nằm đây ?

- Nằm với tụi mày chắc ăn hơn nằm dưới kia. Tôi không hiểu được ý của câu trlời.

- Còn cặp nào nằm đây ?

- Cao bồi tao, con vợ nó ở Sài Gòn ra bị kẹt lại.

Tôi bò đi. gái Huế học Văn Khoa đã cố nén tiếng khóc không cho bật ra ngoài, thỉnh thoảng chỉ còn nấc lên một tiếng. Tình cảnh này thật thương tâm, nhưng không ai giúp được cho ta trong lúc này, cũng chẳng ai rảnh để an ủi cô ta. mỗi một gái nằm gần bên thì cô này cũng quá sợ, ôm cứng lấy chồng.

Việt cộng vẫn bắn đều, chúng tôi vẫn đáp lễ cầm chừng.

Đại Đi Trưởng chuyển xung cho một sắt đạn M-79 lựu đạn. Chính tôi

đi kiểm soát để bổ sung cho lính.


Việt cộng mở đợt tấn công đầu tiên. Với lối đánh quen thuộc, chúng tôi đã đẩy lui đợt tấn công mở màn, thăm dò ca địch nhanh chóng và nhẹ nhàng, chúng tôi không một tổn thất nào. Tuy nhiên, vn đề được đặt ra là chúng tôi sphải chống đỡ bao nhiêu đợt tấn công trong đêm, và đến đợt tấn công thứ mấy thì chúng tôi hết nhẵn đạn.

Có lệnh mở đường máu đi về phía cửa Tư Hiền. Vô ích phải không Đại Lữ Đoàn Trưng ? Phi mở bao nhiêu lâu con đường máu phải kéo dài bao xa, và phải cần đến bao nhiêu máu mới mở được con đường đến ca Hiền, còn nữa, phải tốn bao nhiêu xác người mới đủ để tạo thành cái cầu bc qua cửa biển. Và chắc chắn một điều là chúng tôi sẽ không đủ đạn để mở nổi con đường máu đó. Tại sao không m rộng khu vực phòng th để bảo đảm an toàn cho tàu vào tiếp tế đn dược, lương thực tạo điu kiện thuận tin và an toàn hơn cho một bãi bốc để di chuyển từng đơn vị nhỏ ra biển. Nếu chơi trò này tối thiểu chúng tôi cũng phải rút được hai Tiểu Đoàn. Lệnh m đường máu về cửa Hiền một cái lệnh lý, thậm vô lý, vô ích, thậm vô ích, chỉ là sự dẫy dụa ca một con cá đang nằm trong lưới.

Trời ơi chúng tôi còn phải Thủy Quân Lục Chiến nữa hay không, chúng tôi còn phải những thằng lính thin chiến ‘’quân thù phải khiếp oai danh’’ na không, hay chúng tôi đã trở thành những cái xác tri giác được chỉ huy một cách lý. Chúng tôi những thằng lính không bao gi sợ chết, chúng tôi những thằng luôn luôn tuân lệnh một cách tuyệt đối, nhưng bây giờ nên tuân theo cái lệnh này hay không. Đã không cho chúng tôi xuống tàu trong khi còn có thể yên ổn mà xuống chỉ vài ba ngọn sóng nhỏ v bờ, đã không cho chúng tôi lập tuyến phòng th khi còn quyền chn lựa đa thế. Chúng tôi bđặt vào một thế chiến đấu cực kỳ bất lợi, vi một địa thế tht tênh hênh li nm gọn trong một cái túi bít kín, chúng tôi không còn lương thực, chúng tôi không còn đạn dược, cũng không còn sức lực, tinh thần chúng tôi đã xuống đến mức thấp nhất, bây gibắt chúng tôi mở đường máu chỉ nghĩa bắt chúng tôi chọn lấy cái chết nhọc nhằn vt vả hơn là để chúng tôi nằm yên ở đây đánh nhau để mà chết.

Còn nỗi bi thảm nào hơn tình thế chúng tôi trong lúc này. Có những người tìm cái sống trong cái chết, ít ra họ, họ còn cái hy vọng tìm thấy cái sống mặc rất nhỏ nhoi, hy vng nhỏ đến đâu cũng vẫn làhy vng, một mnh ván mục giữa biển cũng là hy vọng. Còn chúng tôi, miếng ván mục cũng không trông thấy, chúng tôi không thất vọng, chúng tôi không tuyệt vọng mà chúng tôi vọng. Chúng tôi, những thằng thanh niên khỏe mạnh, yêu đời, rất ham sống đang ngi được dậm chân tại chỗ này, đánh nhau để rồi chết tại đây cho đỡ mệt, chứ không muốn mở đường máu để chết dần chết mòn dọc đường, cuối cùng đến được một chỗ cũng để chết. Cái chết kiểu này quả tình không hứng thú tí nào hết.

Nghĩ đến chuyện phi mở đường máu, phải di chuyển cho mệt rồi cuối cùng cũng chết, nhưng đã lệnh chuẩn bị tức sẽ đến lúc thi hành, qu ngao ngán. Tôi không muốn thi hành cái lệnh này, nhưng tôi li không thể không thi hành lệnh. Vậy thì cách gii quyết tốt nhất để không phải thi hành lệnh chết trước, chết ngay tại đây trong lúc này. Tôi không muốn mệt nhọc hơn nữa để kéo dài cái sống thêm được vài tiếng đồng hồ. Tôi đi một vòng dọc theo tuyến của Đại Đội để kiểm soát lính tráng, lần này tôi đi theo đúng nghĩa ca tiếng đi, thẳng lưng mà đi. Cthẳng lưng như vậy tôi đi trong ánh sáng chập chờn của những trái hỏa châu chiếu đến, kéo dài những bóng đen rung rinh của những lùm dương, mờ dần ri đen thui, trời lại sáng lên, bóng đen của những lùm dương lại nét, ngắn hơn, li kéo dài ra m dần. Đột nhiên tôi bị hất ngã và không biết nữa.


Phản ứng đầu tiên ca tôi khi tỉnh dậy đưa tay sờ lên đầu, ch để đội mũ còn nguyên nhưng cái mũ sắt đã văng đâu mất. Biết chắc là mình còn sống, tôi cố gắng trấn nh nhưng trong người vẫn thảng thốt làm sao ấy. Kết quả của viên đạn làm bay sắt trên đầu tôi đã làm tôi không còn suy nghĩ gì nữa, ý nghĩ muốn chết ngay lập tức đã không còn, mở đường máu hay không mở đường máu không còn là vấn đề. Đầu óc tôi hoàn toàn đờ đẫn, trống rỗng. Gi này l cũng một, hai giờ khuya gì rồi. Vấn đề của tôi lúc này là ngủ. Ngồi dựa lưng vào vách giao thông hào, tôi ngủ một giấc. Giấc ngủ dĩ nhiên rất mệt mỏi và chập chờn trong tiếng súng.

Không rõ tôi ngủ như vậy trong thời gian bao lâu. Bưởi đánh thức tôi dậy:

- Ông thầy, Tiểu Đoàn 7 lên trám bớt tuyến cho mình. 369 nói ông thầy rút ngắn tuyến lại.

Tiểu Đoàn 7 đơn vị được vận chuyển bằng xe từ Quảng Trị vào nên đn dược còn đầy đủ sức khỏe chưa bết bát như chúng tôi. Sau khi bắt tay nhau và sắp xếp xong khu vc phòng thủ, tôi bèn làm một bài ca con cá kiếm chút đạn, và đồng thời tôi vững tin hơn rất nhiều phòng tuyến không còn quá rộng so với khả năng phòng thủ của chúng tôi trong lúc này. Tuy nhiên tôi lại bị ám ảnh trở lại bởi cái lệnh mở đường máu.

Gần sáng 26. Bin yên gió lặng, trời ng nhờ nhờ sương mù. Tôi nhận lệnh cho tải thương binh ra sát bờ biển để đợi tàu o bốc. Trung Úy Xuân đã biến mất cùng tên lính mang máy. Tôi nói với gái Huế học Văn Khoa v chồng người lính cao bồi của Trung Úy Xuân còn nằm lại:

- tàu vào tải thương, mấy người ra bờ biển đi theo đám thương binh lên tàu, trời còn tối, đi t đây xung nước không nguy hiểm bao nhiêu đâu.

Họ dắt nhau chạy băng t mô cát này đến mô cát khác và biến mt trong màn sương.

Đã thấy bóng dáng đen của chiếc tàu vào sát bờ, tôi đinh ninh thế nào cũng được tiếp tế thêm đạn, nhưng chờ đợi ích, đợi cho đến khi tàu ra tận ngoài khơi đã khá lâu mà vẫn chẳng thấy ai gi tôi đi nhn đn. Hóa ra chúng tôi không đưc tiếp tế.

Tiếng súng thưa đã lâu, bây giờ lại bắt đầu dồn dập. Bóng đêm bao che cho những người rút chạy, nhưng chúng tôi đã không lợi dụng bóng đêm nên bây giờ lại phải đương đầu với những khó khăn, nguy hiểm càng lúc càng tăng.

Sương đã tan, mặt trời chưa lên nhưng đường chân trời phương Đông đã sáng, đủ để chúng tôi thấy những chiếc tàu nhỏ đang từ từ di chuyển qua lại ở mãi ngoài xa.

Đại Đi Trưởng cho người gọi tôi:

- Ông bàn giao nốt tuyến của mình cho Tiu Đoàn 7.

- Vậy là không mở đường máu nữa à ?

- Mở cái con mẹ gì, bộ ông ham lắm hả ?

- Nản thấy mẹ chứ ham ông.

- Hủy bỏ ri.

- Tại sao tàu không vào bốc mình hồi đêm, tại sao tàu vào tải thương mà không tiếp tế gì cho mình ?

- Bộ ông tưởng tôi biết nhiều hơn ông sao ?

- Bàn giao tuyến cho Tiểu Đoàn 7 rồi mình đi đâu ?

- Về đàng sau. Thằng Xuân bđơn vị xung tàu rồi, thằng So dn nguyên Đại Đội xuống tàu luôn rồi. Tiểu Đoàn kêu ông qua coi Đại Đội 3 thay Đại Úy Chiêu, sau đó ông mang Đại Đi 3 trám vào tuyến của thằng So.

- Bao giờ tôi qua Đi Đội 3 ?

- Tiểu Đoàn kêu ông t hồi khuya, nhưng tôi chưa muốn để ông đi.


- Sao vậy ?

- Đại Đội 3 banh hết rồi, ông qua đó lúc này đâu làm được cái mẹ gì. L b

phải kẹt không!

thật lỡ bị gì ‘’có phải kẹt không’’ hả Trung Úy Gắt, chắc là không rồi. Đại Đội 3 mới thành lập, Đại Đội Phó chết, Đại Đội Trưởng chết, mấy Trung Đi Trưởng còn li chỉ là Chuẩn Úy, các tay kia là Thiếu Úy lại tinh là những tay ba bứa, cứng đầu, đâu có ai nói ai nghe. Gần như là một thông lệ, một đơn vị mới được thành lp hầu như được tập hợp bằng những tay trt búa, những tay bị ‘’đi’từ các đơn vị khác được đơn vị trưởng ‘’ưu ái’’ tống ra khỏi đơn vị. Đại Đội 3 là Đi Đội tập trung tất cả những thng ‘’hết xài’’ ca các Đại Đội khác trong Tiểu Đoàn, hiện gi li đang là một con rn mất đầu. Tôi qua làm Đại Đội Trưởng chỉ là để ổn định li Đại Đội chứ đâu phi đ đánh đm. rệt là tôi đã lệnh mang Đại Đi 3 trám vào tuyến Đi Đội 2 của Trung Úy So, tức là nằm ôm mặt sau của Tiểu Đoàn. Trung Úy Gắt không cho tôi đi chắc chỉ vì Đại Đội 4 tôi chưa ai được chuẩn bị đ làm Đại Đi Phó. thằng Đại Đội Phó Thủy Quân Lục Chiến mới là thằng chỉ huy Đại Đội đánh đấm,i bãi.

Ông sợ cho tôi hay ông s cho ông. Ông đã làm mt một dịp làm Đại Đi

Trưởng của tôi. Xin thành thật cám ơn ông, ông Trung Úy Gắt.

Bàn giao tuyến xong, Đại Đội Trưởng li gọi tôi đến. Bằng một giọng giận dữ, Trung Úy Gắt nói:

- Đmẹ, mình bị bỏ rơi rồi!

- Ông nhận lịnh vậy ?

- Lịnh cái con cặc! Ó Lương lên tàu tải thương rồi, đụ mẹ, dắt theo L Đoàn

Phó thằng cha Trung Tá Tòng.

- Ủa, vậy rồi ai ra lịnh cho Tiểu Đoàn 7 thế chỗ mình ?

- Thiếu Tá Cang, Thiếu Tá Cang là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7.

Tôi buồn chứ không tức giận như Trung Úy Gt. Đã đến tình trạng này thì ai mà chẳng muốn chạy thoát lấy thân. Trung Úy So ngon lành nhất, So không chạy một mình dẫn theo cả Đại Đội xuống tàu. Trung Úy Xuân khá hèn, b cả Đại Đi chạy một mình, nhưng Xuân chỉ là một Đại Đi Trưởng, cùng lắm thì tai tiếng chỉ loanh quanh trong phạm vi nội bộ của Đoàn. Đằng này, cả Lữ Đoàn Trưởng ln Lữ Đoàn Phó bỏ Lữ Đoàn li chạy, trời đất ơi, Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng, Trung Tá Lữ Đoàn Phó Thủy Quân Lục Chiến đào ngũ khi đối diện vi đch quân. Tôi không phải chánh án tòa án quân s mặt trận, tôi cũng không phải là một quan thượng cấp để ra lệnh thi hành bản án t hình theo quân luật hai ông xếp lớn này, nhưng tôi là một thằng Thủy Quân Lục Chiến, tôi sẽ nhục nhã như thế nào khi những người của các binh chủng khác nói đến chuyện này. Sĩ quan cao cấp của Thủy Quân Lục Chiến lại hèn đến thế sao ? Buồn thật!

Tôi không muốn nghĩ thêm nữa về vết nhơ này của Binh Chủng. Tôi hỏi Trung

Úy Gắt:

- Mình bàn giao, rồi làm cái giống ở đàng sau ?

- Một chút nữa sẽ lại tàu đón. Tiểu Đoàn mình được lên tàu trước tiên, kế đến là Tiểu Đoàn 3 rồi đến Tiu Đoàn 5. Tiểu Đoàn 7 nằm lại lên sau cùng.

- Ai sắp xếp thứ t này vậy 369 ?

- Thiếu Tá Cang.

- Khi nào mình dzọt ?

- Khi nào có tàu vô Tiểu Đoàn 7 sẽ yểm trợ cho mình chạy xung biển.

Tôi trở về vị trí. Từ đây xung đến nước, đoạn đưng độ khoảng trên dưới một trăm thước, cát khô. Tuy gn nhưng đâu phải dễ chạy. Tôi ra lệnh cho cả Đại Đội cởi giày để chạy trên cát cho dễ.


Tiếng súng thưa dần rồi im bặt. Trời sáng hẳn. Chúng tôi ngồi quay mặt ra biển chờ đợi. Không còn tí vướng bận về chuyện phòng thủ phía sau lưng.

Những người lính ở tuyến sát biển đang thập thò quanh những ụ cát thấp. Những con tàu vẫn t từ qua lại ngoài xa. S yên lặng này làm nặng nề

thêm không khí chiến trường ? Có nặng nề, ngột ngạt chăng là với những người lính của Tiu Đoàn 7. Họ biết không những tính toán của việt cộng và họ đã biết chưa cái thứ tự ưu tiên sau cùng của họ ? Nhng ngưi lính của mt người Tiu Đoàn Trưởng anh hùng.

Với chúng tôi đon đường trăm thước này được kể n là môn của nhng con chép. Sống chết dĩ nhiên cũng tùy thuộc vào sức mạnh của đôi chân, càng chạy nhanh thì càng rút ngắn được thời gian điểm danh của thần chết, nhưng sức mạnh của đôi chân vẫn chlà th yếu, mà sống chết phần lớn tùy thuc vào số mạng của từng người. Hãy tập trung tất c khả ng của mình để chạy chết trên đoạn đưng này, nhưng cũng hãy bình thản để chp nhận số mệnh. Tôi c gắng làm cho trọn điều tâm niệm đọc được của Nguyễn Mạnh Côn, ‘’làm cho hết sức mình rồi bình tâm’’.

Nhưng, rất cố gắng mà tôi vẫn không thể bình tâm được. Mới có được tí ti hy vọng sẽ được tàu bốc, tôi đã đâm ra sợ chết. Nếu tôi cầm súng chiến đu, cầm súng xung phong chết thì cái chết s nhẹ nhàng hơn tôi không đang nghĩ đến nó, vì tôi còn đang hăng, vì máu tôi còn đang nóng.

Còn bây giờ, chúng tôi buông súng, quay lưng, ùa chạy như một đàn vịt và chờ đợi một viên đạn ghim vào lưng, cái chết này quả là nặng nề, quả là lạnh căm.

Sống chết không còn tùy thuộc vào khả năng của mình, sống chết tùy thuộc vào may rủi, vào số mạng. Trời u ai nấy dạ. Trong lúc ch đợi để th thách với trời này, tôi chỉ còn thể bám víu vào một đng nào đó không thuc về con người, khn nỗi tôi lại một thằng thần, không Chúa không Pht, đi nhà thờ chỉ để tán con chiên, đi chùa chỉ để theo tín n, vậy thì Chúa nào Phật nào chu giơ tay cho tôi bám. Tôi bỗng nghĩ đến ông ngoại tôi, lần đu tiên nghĩ đến ông sau khi ông chết đã hơn mười năm. Tôi lẩm nhẩm trong miệng ‘’ông ơi cu con! ông ơi cứu con!’’ ngoại đã chẳng từng dặn rằng ‘’có gì con cứ gọi đến ông, tối nào bà cũng thắp hương cầu ông phù hộ cho con’’ đó sao.

Mắt tôi bỗng sáng lên khi thấy một chiếc tàu quay mũi vào bờ. Trống ngực tôi đập thật mạnh, người tôi như lên cơn sốt trong khi miệng tôi cht đắng nghét, bụng tôi thắt qun li, cố gng một cách liên tục, hai hàm răng vẫn đập vào nhau, tôi vẫn lẩm bẩm ‘’ông ơi cứu con! ông ơi cứu con!’’

Tiếng súng việt cộng bắt đầu n, Tiểu Đoàn 7 cũng bắt đầu bn. Tôi nhìn ngược nhìn xuôi kiểm soát nhắc nhở con cái lần chót. Miệng tôi bật ra tiếng hô:

- Dzọt!

Tất cả Đại Đội ùa chy.

Súng nổ nhiều hơn, nhiều loại súng nhơn, rền hơn, gắt hơn, nhắm vào những mục tiêu di đng chúng tôi bắn tới tấp hơn. Tôi cố gng chạy thật nhanh, miệng không ngớt ‘’ông ơi, ông ơi’’, nhưng hình như người tôi nặng hơn, cát dưới chân hình như lún sâu hơn, thân hình tôi hình như to lớn, dềnh dàng hơn. Mồ hôi tôi vã ra, tai tôi ù đi, mắt tôi hoa lên.

Hình như đâu đó quanh tôi có những tiếng thét thất thanh, hình như đâu đó quanh tôi có những bóng ngưi ngã xung. Không gian thì ngắn sao thi gian lại quá dài. Hình như thằng Bưởi vẫn chạy sau lưng đ đỡ tôi, hình như thằng Khải mang máy đang kè kè bên cạnh tôi, và hình như tôi nghe loáng thoáng đâu đó tiếng của những người lính la lớn ‘’tới rồi, tới rồi, nhào xuống giao thông hào’’.


Không biết những bàn tay nào đã hất tôi xung giao thông hào, không biết những bàn tay nào đã đỡ tôi khỏi ngã. Tôi ngồi phệt xung, dựa lưng vào bờ cát, miệng ra thnhưng vẫn không mất âm thanh ca hai tiếng ‘’ông ơi!’’.

Tiếng súng thưa dần rồi im hẳn.

Sau khi hoàn hồn, tôi đứng dậy nhìn lại đoạn đường vừa chạy, xác những người lính của Đi Đội nằm ri rác đây đó trên bãi cát. Tôi không dám nhìn k để nhận ra những ai, tôi không dám đếm để biết là bao nhiêu người. Nước mắt tôi trào ra, không hiểu mừng mình còn sống hay thương những thng em vắn số. Một cái giá quá đắt trên một đoạn đường quá ngắn, một món nợ quá nặng chúng tôi phải trả vì mấy ông xếp ln của chúng tôi vay.

Tại sao chúng tôi chỉ được chạy như thế này vào ban ngày h trời. Tôi đứng

đấy, mắt nhòa lệ, thẫn thờ.

Bưởi vỗ lưng làm tôi giật mình:

- Ông thầy, 369 kêu.

- Ông ấy đâu ?

- Đằng kia, vừa nói Bưởi vừa lôi tôi đi. Đại Đội mình tập họp đng sau cát


kia.


Gọi là Đi Đội nhưng quân số chỉ còn chừng một Trung Đi. Nhng ngưi lính


của tôi còn lại đâu rồi ? Họ đã nm hết ngoài kia hay còn đang lẩn qun đâu đó mà tinh thần thể xác chưa được phục hồi.

Đại Đi Trưởng tôi, Trung Úy Gắt tuyên bố:

- Tôi không biết tàu vào nổi để bốc chúng ta hay không, tôi tuyên bố k từ

giờ phút này, Đại Đội hết chỉ huy, mạnh ai nấy lo.

Tôi sững sờ. Trời đất ơi, đụ mẹ, con cặc, tại sao li tuyên bố một điều vô lý như vậy được. Lúc này là lúc cn sự chỉ huy nhất, lính tráng cần sự hướng dẫn nhất thì ông lại tuyên bố Đại Đội mất chỉ huy. Đi Đội đã tan hàng, Đi Đội đã tanh banh nhưng Đại Đội vẫn còn tập họp lại được. ít nhiều vẫn còn một Đại Đội. Ti sao thế này hả Trung Úy Gắt ? Tại sao ông lại đào ngũ một cách hèn nhát và công khai như vậy ? Ti sao ông tuyên b Đi Đội mất chỉ huy ông còn gom những thằng lính thân tín ca ông li ? Âm mưu xé lẻ lúc này đáng mặt chỉ huy hay không ? Đã vậy mà còn tuyên bố. Tuyên bố cái con cặc! Tại sao ông không dẫn mấy thằng đệ t ruột của ông trốn cha đi t trước khi tp họp phải hay hơn không, có phải đỡ nhục hơn không ?

Tuy nhiên không sao, kể từ gi phút này, theo đúng lời ông, ông không còn là cái thằng con cặc gì ở trong Đi Đội này na. Đụ mẹ, nghe rõ không, Trung Úy Gắt. Cút cha ông đi!

Tôi nói ln:

- Đại Đội Trưởng tuyên bố Đại Đội mất chỉ huy. Đứa nào muốn đi đâu thì đi.

Đứa nào muốn theo tao thì theo.

Tất cả kéo dồn về tôi, không hiu vì ngượng hay vì thỏa mãn, Trung Úy Gắt dẫn mấy tên đệ tử ruột đi ra một nơi khác.

Huy mập tức quá khóc rống lên:

- Đụ mẹ, tôi bthương, tôi không thèm theo tàu tải thương, tôi lại với lính, sống chết với tụi nó. Tại sao ông đốn mạt đến vậy hả ông xếp ơi!

Tàu đã vào gần nhưng chưa tìm ra được một chỗ an toàn để cặp bờ nên vn cứ đi lên đi xuống. Những ngưi dân, những ngưi lính của các đơn vị khác đã xuất hiện đông kín một khúc bờ cũng chạy lên chạy xung theo hướng chiếc tàu di chuyển.

Thiếu Tá Thành Tiu Đoàn Trưng xuất hin. Tôi cảm tình và kính trọng rất nhiều với người chỉ huy này. Ông mới về Tiểu Đoàn, mặt mũi các sĩ quan thuộc cấp


trong Tiểu Đoàn ông còn chưa biết mặt hết, gặp hết nói gì đến chuyện ông biết tánh tình và khả năng của họ. Làm Tiểu Đoàn Trưởng đưc mấy ngày thì chạy, chết mất Tiểu Đoàn Phó, chết mất một Đại Đội Trưởng, banh luôn một Đại Đội, đào ngũ một Đại Đội Trưởng, một Đại Đi cũng đang lênh đênh trên biển, nằm ngoài sự kiểm soát của ông. Không hiểu Đại Đội của Đi Úy Tài ra sao, Đại Đi tôi kể như rã đám. Vậy ông vẫn chạy ngược chạy xuôi cgắng tập trung, gom góp những thằng đeo bảng tên màu đỏ Tiểu Đoàn 4 để hướng dẫn, để cho biết tin tức, để khích lệ tinh thần. Ông đã không lợi dng tình trạng tan rã của Tiu Đoàn để bỏ trốn một mình. Phải chi Quân Đi chỉ tinh những cấp chỉ huy như Thiếu Cang, Thiếu Tá Thành.

Ông gọi tôi:

- Anh dẫn đám con cái của anh lên trên kia đợi sẵn, đừng chy theo đám người này cho mệt.

Hóa ra chúng tôi đã được chuẩn bị sẵn một bãi bốc. Tôi chào ông rồi chúng tôi kéo nhau đi.

Tin tức về chỗ tàu s vào bốc tưởng rằng rất kín đáo, rất mật, chỉ riêng Thủy Quân Lục Chiến biết, hóa ra đã quá nhiều người biết. Chuyến tàu dành riêng cho Tiểu Đoàn 4, nhưng khi chúng tôi đến nơi, số người đã đứng đợi sẵn cũng có đến cả vài ngàn, xp xỉ với số người đang chạy ngược chạy xuôi theo chiếc tàu.

Con tàu khá nhỏ, sức chứa tối đã theo tôi ước lượng chỉ th chứa được hơn ngàn người, đó là đã kể đến trường hợp nêm người như nêm cối. Vậy mà số người mun được lên tàu, cũng theo ước lượng của tôi, đến trên chục ngàn. Chắc chắn sẽ xảy ra một cuộc thi tuyển bng bp thịt và giá phải trả bằng máu, bằng sinh mạng của từng thí sinh để kiếm được một chỗ trên tàu. Một cuộc thi không có trọng tài, không giám thị, không hội đồng giám khảo, cuộc thi chỉ có những thí sinh là những người đang chạy cho xa việt cộng, đang liu mạng sống để khỏi rơi vào tay việt cộng.

Tôi rùng mình, tưởng rằng bàn giao tuyến cho Tiểu Đoàn 7, buông tay súng tr về phía sau đã an toàn, yên ổn để lên tàu. Bây giờ mới thấy rằng còn quá nhiều cam go, còn quá nhiều nguy hiểm. Chỉ khác lúc trước thay cầm súng chiến đấu với địch, bây giờ chúng tôi không cầm súng và chiến đấu với dân, chiến đấu với lính, với đồng đội, bạn bè mình, và cái giá phải trả cũng không rẻ gì hơn. Chấp nhận húc đầu vào tranh giành với người nhà để lọt được vào con số một phn mười nếu được thì có một trên tàu, nếu thua thì thân xác sẽ trôi nổi bp bềnh theo sóng nước. Không một lựa chọn nào khác nếu không muốn bị sa vào tay vit cộng.

Sẵn súngng trong tay, chúng tôi chiếm được vị trí hàng đầu trong đám đông đứng đi tàu rất dễ dàng, chẳng ai phản đối, chẳng ai la ó, họ sợ chúng tôi có súng hay họ khinh vì không ai muốn dây với hủi. Chuyn cùi hủi gì đó nào còn nghĩa lý gì trong lúc này. Vấn đề chính của lúc này lên tàu, phải lên tàu bằng mọi giá. Những chuyện khác tính sau.

Chiếc tàu t từ vào điểm hẹn.

Chúng tôi bị đám đông phía sau đẩy ln tới đàng trước. C khi người xô đy, chen lấn ùn ùn dồn nhau ra biển. Tôi bị đẩy ra xa bờ dần. Nước lên đến đầu gối tôi, nước lên đến bụng tôi, nước lên đến ngực tôi. Nước lên nữa, lên cao nữa.

Sóng nâng đám người lên cao, sóng đánh bật đám người rã ra, nhận chìm đám người xuống đáy, sóng đánh văng nhiều ngưi lên bờ, sóng o nhiu ngưi ra ngoài xa, sóng li nâng đám người lên cao, sóng li đánh bật đám người ra, sóng lại nhận chìm đám người xuống đáy, sóng lại kéo nhiu người ra ngoài xa. Cthế sóng nhồi, cứ thế liên tục sóng nhồi.


Tôi đã ra xa bờ nhưng cũng phi còn xa tôi mới tới được chiếc tàu. Nước và sóng đã không để yên cho tôi bơi ra tàu theo một đường thẳng. Bụng tôi đã chứa khá nhiu nước biển, vậy mà miệng tôi vẫn cứ tiếp tục dồn nước biển vào bụng sau mỗi lần bị sóng nhồi, cứ sau mỗi lần bị sóng nhồi, tôi lại ra xa bờ và xa chiếc tàu hơn một chút. Tha hồ mà ngụp lặn, tha hồ vẫy vùng. Tiểu Đoàn 4 Kình Ngư nào sợ biển cả. Tôi một con kình đang ‘’nhởn nhơ’’ với biển to, đang ‘’tung tăng vui đùa’’ cùng sóng d trong khi chân tay tôi mỏi nhừ dần, rời dần, trong khi bụng tôi phình to dần nước biển. Cái chết đến mỗi lúc một gần tôi hơn. Con ‘’cá dữ’ đang chờ lúc chết đuối.

Buồn ngủ gặp chiếu manh, tôi vớ được chiếc ba lô căng phng không biết của ai. Tuy cái ba đã thấm khá nhiều nước nhưng vẫn có giá trị ca một cái phao cu mạng tôi lúc này. Tôi ôm chắc mà không đeo vào lưng vì cái dây đeo đã tụt ra khi móc sắt. Tay ôm cứng ba lô, tôi thả nổi cái mạng sống bấp bênh của mình. Tuy đang chờ chết nhưng lần chờ chết này tôi lại rất bình tĩnh, không hốt hoảng, không run sợ như lần ch viên đạn ghim sau lưng lúc nãy. Một chút thèm thuồng nhìn những người đã leo được lên tàu, một chút hối tiếc nhìn những người còn đang đứng trên bờ mi khi sóng đưa tôi lên cao. Tăng thêm một vài ngụm nước biển vào bụng, mất dần thêm một chút sức lực mỗi khi ng nhn chìm tôi xuống. Tôi không còn ý niệm về thời gian, nên không thể nhớ nổi tình trạng bập bềnh này kéo dài trong bao nhiêu lâu.

một người không biết từ đâu đến, xuất hiện cạnh i, ối giào, cũng chỉ bình thường như những người bình thường đang ngụp lặn giống tôi và quanh tôi. Nhưng không, anh chàng này không ging ai hết, nét mặt của anh chàng có một cái vẻ gì đó có thể gây nguy hiểm đến cho tôi. Linh cảm được điu này, nhưng tôi không làm sao có thể tránh xa anh ta. Anh chàng nhìn tôi một cách van lơn, nhìn cái ba lô tôi đang ôm một cách thèm thuồng, anh chàng cố gắng nói thật lớn với tôi, nhưng giọng bị đứt quãng vì hụt hơi, vì mệt, vì gió và vì tiếng sóng:

- Anh đưa em ra tàu với. Em bơi hết nổi rồi.

Hình như có một dòng điện cao thế vừa chạm vào người tôi, tôi hốt hoảng, tôi run lên sợ. Anh chàng này đúng thần chết đến bắt tôi đi. Trời ơi, phải thn chết cũng khuôn mặt của người, hay thần chết đang vờn tôi như mèo vờn chuột. Tôi hấp tấp nói, chỉ sợ anh ta không kịp nghe tôi nói:

- Tôi không ra tàu đâu, tôi đang quay vào bờ.

Mặc cho tôi không ra tàu, mặc cho tôi đang quay vào bờ, mặc cho tôi hấp tấp nói, anh ta ôm cứng lấy tôi, biến tôi thành cái phao ging như tôi đang ôm cứng cái ba lô. Mặc cho tôi giy giụa, mc cho tôi đạp, mặc cho tôi lên gối, sức nng nghìn cân ôm cng lấy tôi. Người tôi t từ chìm xung, cái ba không chịu nổi hai ngưi cũng từ từ chìm xuống. Anh chàng vẫn ôm cứng lấy tôi và càng lúc càng cứng hơn mặc dầu cả ba anh chàng, tôi và cái ba lô đã chìm sâu xuống dưới mặt nước, mc dầu sóng vẫn nhồi cả ba lên xung, ‘’tung tăng’’ trong nước.

Một con sóng mạnh nâng bổng chúng tôi lên cao, thật cao ri ném mạnh chúng tôi xuống. Anh chàng biến mất, cái ba cũng biến mất, chỉ còn lại mình tôi ngơ ngẩn, nước chỉ còn ngang ngực, tôi chỉ còn cách bờ hơn chục thước. Con sóng lớn đã ném tôi vào bờ, con sóng lớn đã cứu tôi. Không hiểu anh chàng thần chết được ném vào bờ như tôi không.

Tôi nương theo những con sóng nhỏ đi lần vào b. Cũng đã rất nhiều người quay trở lại bờ như tôi, chán nản, tuyệt vọng. Cũng vn còn rất nhiều người hăm hở lội ra tàu.

Tôi đi thất thểu trên bờ cát, không còn biết mình phải làm gì, và cũng không quyết đnh được gì.


Tôi gp Thiếu Úy Sĩ, Lâm Chí Sĩ, Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh, quần áo còn khô, mái tóc mềm dài ph ót bay bay theo gió, n cười bẽn lẽn như con gái cố hữu vn nở trên i, mặt Sĩ đang phừng phừng rượu. Thấy tôi, Sĩ đưa tay vẫy:

- Ê Râu, làm vài nắp cho ấm, mày.

Tôi sà ngay vào, uống liền tù tì năm, sáu nắp bi đông rượu. ợu khá nng nhưng chỉ đủ làm nóng bụng chứ không đủ làm ấm người.

- Rượu đâu ra mà có giờ này vy ?

Sĩ chỉ một người cũng mặc quần áo của Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh ngồi bên


cạnh.


- Của thằng này, thng Lộc. làm Phân Chi Khu Trưởng Gia Hi mang


theo cả bốn năm lít.

- Sao tụi mày không xuống tàu ? Sĩ cười lớn tiếng kiểu hát bội:

- Ha...ha...ha...còn mày sao không xung tàu ? Tôi cũng cười, lắc đầu:

- Tao suýt chết đuối.

- Tội nghiệp thằng con trai, mày suýt chết đuối rồi cũng lại lên b, bố mày ngồi

đây nhậu để coi những thằng suýt chết đuối như mày, bố mày cũng ở trên bờ.

Tôi gật gù:

- Mẹ kiếp, cũng lý.

Tôi ngồi nhậu trở thành kẻ bàng quan, ngồi ngắm nhìn thiên hạ. Rất nhiu người t biển trở lại bờ, người ngợm qun áo ướt sũng, kẻ khóc đã không ra được đến tàu, người cười vì va thoát chết, người đi lang thang thất thểu, kẻ ngồi hoặc nằm vật ra bất cần mọi chuyện sẽ ra sao.

Những người qun áo còn khô vẫn nhp nha nhp nhm, nửa như muốn thử thời vận, nửa như rụt rè sợ hãi. Chỉ có những người lính Quân Y Thủy Quân Lục Chiến những người đặc biệt trong số những người quần áo khô. H không nhấp nha nhấp nhổm h hoạt đng thực s. H tập họp thành những toán cấp cứu đặc biệt, lăng xăng hết tiêm thuốc cho người này, lại hấp nhân tạo cho ngưi khác mới t biển vào, hết băng bó cho người này, lại đem băng ca khiêng người khác. Xin cám ơn và xin nghiêng mình kính phục những người lính Quân Y này.

Ngoài xa, chiếc tàu đã đông người nhưng vẫn còn đậu nguyên một chỗ, hình như cố tình kéo dài thời gian để bốc thêm được càng nhiều ngưi càng tốt.

Sức tải không thành vấn đề chỉ sức chứa của chiếc tàu tinh thần ca thủy thủ đoàn mới là điu quan trọng. Những ngưi đã lên được trên tàu đang cố gắng kéo những người vừa bám vào được thành tàu. Nhiều người không ai kéo đang cố gắng leo lên tàu từ mọi chỗ thể bám mà leo. Có người leo lên đưc nhưng cũng người rơi trở lại xuống bin.

Lại còn cả người trên tàu ngã xuống biển theo người mình đang cố kéo


lên.


Từ bờ ra đến tàu khoảng cách hơn trăm thước, tôi không còn trông thấy mầu


xanh của nước biển ch thuần một mầu đen ca đầu người. Đầu ca những người đang cố gắng bơi ra chiếc tàu.

Trên tàu đã chật người, tỷ lệ mt phần mười hình như đã đủ số, trên bờ đãkhá nhiều người trở lại, dưới nước đã nhiều người trôi dạt ra xa, nhưng cuộc thi đã chấm dứt hay chưa khi s người bơi ra vẫn còn nhiều s người bám quanh tàu mỗi lúc một đông thêm.

Chiếc tàu bắt đầu kéo bửng, những người bám vào bửng tàu được nâng lên cao khi mặt nước, một số ngưi may mắn rơi ngay vào trong lòng tàu, s còn li


lần lượt rơi xuống bin. Bửng tàu đã được kéo lên hoàn toàn nhưng không khép kín nổi vì giữa bửng và thành tàu đã kẹp cứng một thân người.

Người bị kẹp nửa thân trên nằm trong lòng tàu, nửa thân i thò ra ngoài, hai chân giãy giụa, đạp đạp trong không khí được chng nửa phút rồi ngay đơ. Hai cái chân của ngưi xấu số trở thành có ích cho nhiu người còn ở dưới nước, họ bám vào đó để tiếp tục leo lên tàu. Lúc đầu hai cái chân còn đủ hai ống quần, dần dần chng còn cả và cuối cùng, cả hai chân đu bị gãy. Nhưng gãy thì gãy, ngưi ta vẫn bám vào đó để leo lên tàu. Ít ra cũng có đến cả chục ngưi leo được lên tàu nhờ cặp chân đó. chắc chắn sẽ còn được thêm nhiều người nữa nếu...

Chiếc tàu phụt khói từ từ quay mũi ra biển. Chân vịt đạp nước đẩy không biết bao nhiêu người ra xa tàu, và không biết đã chém đứt bao nhiêu người.

Thân tàu quay ngang đập vỡ không biết bao nhiêu đầu người, không biết

đã nhận chìm bao nhiêu người xuống sâu dưới đáy tàu.

Biết bao nhiêu người đã chết chiếc tàu quay mũi. Nhưng...

Chiếc tàu đã không ngừng quay khi cái mũi đã hướng ra biển. Mà, chiếc tàu vẫn tiếp tục quay, mũi tàu li t từ hướng vào bờ. Chân vịt lại chém thêm không biết là bao nhiêu người.

Thân tàu lại đập vỡ thêm không biết là bao nhiêu cái đầu, và li nhận chìm thêm không biết là bao nhiêu người xung sâu dưới đáy tàu.

Tại sao chiếc tàu bỗng dưng quay đúng một vòng tròn để làm chết biết bao nhiêu là người như vậy ?

Đã nhng xác chết trôi nổi dp dềnh xen lẫn với những xác sng đang cố bơi ra tàu hoặc đang cố gi cho mình không tr thành xác chết. Chiếc tàu lại nằm im như đang mời gọi.

Chúng tôi ở cách xa vùng mặt trận có đến nửa cây số, tiếng súng chỉ nghe văng vẳng, nhưng chết chóc lại nhiều hơn có đến cả trăm lần.

Ủa, tại sao lại có người từ trên tàu nhảy xuống biển, không lẽ mắt tôi đã hoa lên rượu. Không phải một người, hai người rất nhiều. ràng mắt tôi trông thấy người ta leo qua lan can tàu, người còn ngần ngừ, người không ngần ngừ nhảy xuống biển. Li có người lao mình qua lan can tàu để nhảy xuống biển.

Không tin nổi ở mắt mình mặc dầu tôi đã dụi mắt thật nhiều ln. Tôi hỏi Sĩ:

- Mày thấy người ta nhảy từ trên tàu xuống biển không ? Sĩ cũng ngạc nhiên không kém tôi.

- Đmẹ, kỳ quá mày!

Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, nhưng chúng tôi không có thời giờ để ngạc nhiên. Hai chiếc M-113 chở đầy người chạy từ hướng mặt trận đã cán bừa lên những người vừa từ biển lên còn đang nm vật ra thở, cán luôn c những người không kịp chạy tránh đường.

Vừa thấy bóng Thiếu Úy Ngô Du, một Trung Đội Trưởng của Đại Đội tôi, từ dưới bin trở lên, đang lảo đảo như muốn ngã gần mé nước, tôi Sĩ chy vọt tới đỡ và kéo Du chạy thật nhanh vừa kịp chiếc M-113 chạy lướt qua sát người chúng tôi.

Hai chiếc M-113 lội xuống nước để ra chiếc tàu.

Những cái bánh xích đua nhau cán lên đầu của không biết bao nhiêu người

đang nhấp nhô t bờ ra đến tàu.

Ra đến nơi, chuyển hết người lên tàu xong, hai chiếc xe lội nước quay đầu lội vào bờ. Li không biết bao nhiêu đầu người b nghiền nát bởi những cái bánh xích.


Vào đến bờ, hai chiếc M-113 ngừng lại. T vị trí tài xế, một cái đầu thò ra, nhìn quanh rồi la lớn.

- Ai muốn lên tàu thì leo lên tôi chở ra.

Lúc đu nhiều người ngần ngại, nghi ngờ, nhưng rồi lác đác cũng người leo lên. Có đến cả 15 phút hai chiếc M-113 vẫn chưa đầy người.

Cái đầu lại thò ra, nhìn quanh rồi la lớn.

- Leo lên gấp đi mấy cha, tôi ra chuyến này không trở vô nữa đâu. Lại có thêm vài người leo lên.

Tôi phân vân trong sự chọn lựa. Nên hay không nên leo lên. Tôi hỏi Sĩ:

- Lên không mày ? Sĩ lắc đầu:

- Tao không muốn chạy thoát bằng cái chết của những người đang lóp ngóp dưới kia.

Câu nói ca Sĩ đã cho tôi một quyết đnh:

- Mẹ kiếp, mày tao hay không mày không có tao thì những người đang lóp ngóp dưới kia cũng sẽ bị những cái xích sắt này cán. Đừng có triết ba xu thằng con trai.

Sĩ cười bướng:

- Tao nói khác mày đâu, nhưng tao không.

- Được rồi, phụ tao đưa thằng Du lên.

Sĩ tôi đưa Thiếu Úy Du lên thiết vận xa. Trước khi leo lên, tôi nắm chặt vai


Sĩ:


- Hy vọng sẽ gặp mày ở Đà Nẵng. Sĩ nhìn tôi cười:

- Đmẹ, đồ cải lương, cút m mày đi thằng con trai. Hai chiếc M-113 lại lội nước ra tàu.

Lần này tôi mục kích tận mắt những cái ch sắt nghiến nát những đầu ngưi.


Tiếng máy nổ tiếng nước vỗ đã át đi những tiếng thét tiếng la thể, cả tiếng vỡ của những cái đu, nhưng không có gì có thể che lấp được những mảnh quần áo và mầu đỏ của máu cuộn theo chiều quay của xích sắt. Màu đỏ của máu những mảnh vải cuộn theo chúng tôi suốt cả lộ trình khoảng một trăm thước. Màu đỏ của máu những mảnh quần áo chắc chắn còn dính c thịt còn trồi lên, trồi lên xen ln với bọt nước phía sau chúng tôi. Không hiểu tôi có dã man không, không hiểu tôi có chai đá không, không hiểu i đã trở thành súc vật chưa, hay tôi đã nhìn thấy quá nhiều i chết từ sáng đến giờ, hay tôi đã yên tâm trên đường ra tàu an toàn mà tôi rất thản nhiên, lòng tôi rất bình thản khi nhìn những cái chết, quá nhiều cái chết ngay dưi chỗ mình ngồi, bị chết bằng ngay cái phương tiện mình đang sử dụng.i nhìn những cái chết như một kẻ bàng quan, vô thưởng vô phạt. Không hiểu thằng Sĩ hèn nhát không dám nhìn cảnh này hay thằng Sĩ quá can đảm chọn lựa lại, chấp nhận bất cứ một điều gì sẽ xảy ra cho khi sa vào tay việt cng. sao thì tao cũng mong lần chia tay vừa rồi chỉ là tạm biệt thôi .

Chiếc M-113 cặp sát vào thành tàu.

Người trên tàu phần lớn là Thủy Quân Lục Chiến. Lính của Tiểu Đoàn 4 tôi cũng khá đông. Tuy khoảng cách t mui xe thiết giáp đến boong tàu khá xa nhưng được khá nhiều đàn em giúp nên tôi và Du lên tàu không khó khăn gì mấy. Có điều làm tôi xúc động trong s người giúp tôi lên tàu có Binh Nhất Vạn, Nguyễn Văn Vạn. Vạn là dân Vũng Tàu, khi nhỏ phải đi bán báo chứ không được đi học, lớn một chút làm nghề đánh xe ngựa cho du khách, và nguồn lợi tức chính là hành nghề mặt rô các quán bia ôm, các xóm chị em ta. Vạn một tay du đang nổi tiếng Vũng Tàu. Cách đây ít lâu, vi phạm kỷ luật, tôi đã cho đóng bốn cái cọc trói căng hai


chân hai tay Vạn ra, đánh theo hthống quân giai, bắt đầu t Tiểu Đi Phó là mười roi, đến Tiu Đội Trưởng số roi được nhân gấp đôi, cứ theo cp số nhân như vậy mà đánh.

Mỗi lần Vn xỉu y chích thuốc tạt nước vào người cho tỉnh dậy để đánh tiếp. Chưa đến lượt tôi đánh, Vạn đã xu ba lần. Sau trận đòn, chúng tôi phi đưa Vạn lên bệnh của Lữ Đoàn, nằm lại mười ngày vì bị đái ra máu.

Tôi không sợ chuyện thù oán của lính tráng, nhưng không thể ngờ được

Vạn lại người hăng hái, sốt sắng nhất khi kéo tôi lên tàu.

Lên đến trên tàu, không khí quá nặng nề ngột ngạt. Không phải nặng nề ngt ngạt số người trên tàu quá đông, cả tàu đang bị bao trùm bằng mùi giết chóc, căng thẳng.

Huy mập nhét vào tay tôi khẩu súng ngắn, dặn dò:

- Súng tôi lên đạn sẵn, ông giữ cẩn thận.

- Còn nữa để mà phải thủ súng lên đạn sẵn ?

- Thì ông c gi đề phòng. Biết đâu có lúc phải i tới. Chưa kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.

Hai người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa bị bắn chết ném xuống biển. Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang dí súng vào đầu một Trung Úy Bộ Binh ra lệnh:

- Đmẹ, có xuống không ?

- Tôi lạy anh, anh cho tôi đi theo với.

- Đmẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xung biển tao bn.

- Tôi lạy anh mà, tôi đâu có gia đinh ngoài này.

- Đmẹ, một.

- Tôi lạy anh mà, anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn ly bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết. Tôi lạy anh, tôi lạy anh.

- Đmẹ, hai.

- Trời đất, mình đồng đội vi nhau mà, anh không thương tôi hết. Tôi ly anh mà.

- Đmẹ, ba.

Tiếng ba vừa dứt, tiếng súng n.

Người Trung Úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn gi nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn M-16 chui vào t đỉnh đầu. Xác ca anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục Chiến khác khiêng ném xung biển.

Tên lính vừa bắn người thản nhiên tiếp tục chĩa súng vào đầu một Thiếu

Bộ Binh đang sợ hãi nằm mọp người ở cạnh đó, mặt lạnh băng đy sát khí:

- Đmẹ, ti thằng này, mày có xuống không ?

Ông Thiếu Bộ Binh này hơi lớn tuổi, mặt cắt không còn hột máu, run lên cầm cập, năn nỉ:

- Anh tha cho em, anh tha cho em.

- Đmẹ, một.

- Thôi, thôi, thôi anh để em xuống.

Lết ra tới lan can tàu, ông ta quay lại năn nỉ lần chót:

- Anh tha cho em, anh thương em với.

- Đmẹ, hai.

Biết không thể năn nỉ, xin x được, ông ta vừa khóc vừa nhảy xuống


biển.


Cùng trong thời gian đó, tôi nghe thấy nhiều tiếng súng khác nhiều nơi khác


nhau trên tàu.

Huy mập cho biết:


- Tàu chở nặng quá nên bị mắc cạn. Hồi nãy cố ra thử nhưng không ni nên quay đúng một vòng tròn rồi hết nhúc nhích. Ông Thuyền Trưởng cho biết tàu dành riêng cho Thủy Quân Lục Chiến, nên yêu cầu những ai không phi Thủy Quân Lục Chiến rời tàu. Ông Râu thấy không, sc mấy người ta chịu xuống. Thành ra ông Thuyn Trưởng yêu cầu Thủy Quân Lục Chiến giải quyết. Lính mình tụi nó giải quyết bằng súng.

- Vậy thì nhằm nhò đến tôi ông bắt tôi phải thủ khu súng trong


người.


- B ông tưởng thằng mặc đồ rằn nào cũng là Thủy Quân Lục Chiến sao.


bộ ông tưởng thằng Thủy Quân Lục Chiến nào cũng phải biết ông sao.

Trong lúc hỗn quân hỗn quan y, ông không lo thủ lấy thân còn ai lo cho ông


đây.


Tiếng súng vẫn đi đoành đây đó trên tàu. Xác người vẫn tiếp tục b ném xuống


biển. Nhiu người vừa khóc vừa nhảy ra khỏi tàu. Những khẩu súng vn được kê vào đầu những người lính Bộ Binh, vẫn đi đoành.

Tình người! Tình chiến hữu!

Tôi đứng nhìn bất lực. Tôi hoàn toàn bất lực trước cảnh đau xót này.

Thiếu Thành Tiểu Đoàn Trưng cũng có mặt trên tàu nhưng tôi tìm không gặp. Chắc Thiếu Tá Thành cũng chỉ bất lực như tôi.

Gặp Trung Úy Nghĩa, Hoàng Trung Nghĩa Đại Đội 1, hai đứa rủ nhau ra góc tàu phía sau đài chỉ huy. Nghĩa nói như một lời nhận tội về sự bất lực của mình.

- Tụi giết người man quá. Kiếm chỗ khuất này ngồi may ra còn đánh lừa

được con mắt của mình.

Một người lính còn mặc mỗi cái quần rằn, mặt ngơ ngác, mắt thất thần hai tay giơ ra phía trước như phân bua như làm chứng cho li nói chỉ sợ người nghe không tin.

- Vợ tôi chết rồi, chết dưới biển rồi, thật mà, tôi nói thật mà, vợ tôi chết thật rồi, chết đuối dưới biển rồi mà!

Một gái trần truồng, không còn một gọi vi trên ngưi, hai tay không che hết những chỗ cần che trên thân thể nên cũng chẳng buồn che, mặt còn in đủ những cảnh khủng khiếp vừa trải qua, hai con mắt mở to ráo hoảnh. Còn nữa đâu để mà phải mắc cở, còn gì nữa đâu để mà phải khóc lóc. Cô ta đón nhận một cách hững hờ cái quần ca một người lính và cái áo của một người lính khác.

Tôi nói với Nghĩa:

- Thôi thì phó mặc, đã leo n được trên tàu này rồi, sng hay chết, chạy thoát hay bị bắt nằm ngoài khả năng của mình. Giao hết mọi thứ cho số mạng.

- Mày cũng đổ cho s mạng cái chết của những người lính B Binh đang bị

bắn kia à ?

Tôi cãi bưng:

- Mỗi ngưi một số mạng tận cùng nên mới thành ng ‘’tn cùng bằng


số’’.


Số ngưi trên tàu đã vơi đi thật nhiều, chiếc tàu đã nhẹ hơn trước, nhưng


nước thủy triều xuống còn nhanh hơn nên chiếc tàu vẫn bị mắc cạn. Thêm nữa, mt máy tàu bị hỏng không biết từ lúc nào, th máy cũng tay, nên chỉ còn một cách duy nhất cầu cứu chiếc tàu khác vào kéo.

Mọi ngưi đều bn chồn nóng nảy, thủy thủ đoàn lăng xăng gọi nhau ơi i, tiếng súng vẫn tiếp tục nổ đi đoành đó đây trên tàu, tiếng khóc, tiếng la, tiếng cười, tiếng chi thề cộng chung với nhau tạo thành một thứ âm thanh hỗn độn không thể gọi tên một cách chính xác.


Thuyền Trưởng một ông Chuẩn Úy già, Chuẩn Úy Tấn cố gắng một cách liên tục va đốc thúc sửa máy vừa liên lạc với những chiếc tàu khác còn đang qua lại ngoài khơi.

Thời gian chờ đợi o cũng dài hơn githc sự của kim đồng h. Một chiếc tàu t ngoài khơi quay mũi vào bờ để tiếp cứu.

Thủy thủ đoàn, gọi thủy thủ đoàn nhưng thực ra ngoài ông Thuyền Trưởng già đang liên lạc máy người thợ máy đang cố gng sửa máy dưới hầm, họ chỉ còn khoảng chừng ba, bốn người, được stiếp tay của mấy người Thủy Quân Lc Chiến còn khỏe mạnh lo chuẩn bị dây cáp để chuyn sang chiếc tàu đãng t ngoài vào.

Nhưng chiếc tàu vào cứu đã không vào được đến nơi, vì khi còn cách chúng tôi chừng trăm thước, chiếc tàu đã ăn nguyên một quả tàn tàn, tàn tàn tên chúng tôi đặt cho loại ha tiễn tầm nhiệt AT-3 của việt cộng. l chỉ bị hư một máy nên chiếc tàu đã t từ quay mũi và trở ra ngoài khơi. V cứu tinh của chúng tôi đã bỏ đi, niềm hy vọng của chúng tôi đã chạy mất.

Đến bây giờ mọi người mới sực nghĩ là mình vẫn còn đang nm trong tầm súng của việt cộng.

Cảm giác hãi hùng truyền đến cho tất cả mi người trên tàu. Chúng tôi đang là những con cá đã nm trên thớt, vậy mà không một ai để ý. Mọi ngưi chỉ để ý đến một điều tranh giành nhau, bắn giết nhau để được một chỗ ‘’ngon lành’’ trên

‘’cái thớt’’. Nhưng đã trót thì phải trét, không lẽ chúng tôi lại chịu bó tay, còn nước thì còn tát. Ông Thuyn Trưởng già lại liên lạc liên tục đ xin tàu khác vào cu, nhưng hình như hệ thống truyền tin của Hải Quân lúc này đang ‘’hng’’, hay hiệu thính viên của các tàu khác đang ‘’ngủ gục’’ nên có đến cả gần một tiếng đồng hồ, ông Thuyền Trưởng vẫn không liên lạc được với bất cứ một chiếc tàu khác nào nữa. Giở khóc giở cười, ông ta nói với Thiếu Thành, Tiểu Đoàn Trưởng tôi.

- Tôi không thể nào liên lạc được với nhng chiếc tàu ngoài kia nữa. Chc chắn tụi nghe nhưng thng nào cũng lạnh gáy nên không dám trả li. y giờ nhờ Thiếu Tá liên lạc qua hệ thống của Thủy Quân Lục Chiến xem có giúp gii quyết được không ?

Thiếu Tá Thành vào Đài Chỉ Huy. Chừng nửa giờ sau, ông ra cho biết:

- Sẽ có một chiếc tàu nữa vào kéo, nhưng không vào sát trong này. Mình phi cho người đem dây cáp ra miết ngoài xa giao cho nó.

Một chiếc ca nô cấp cứu được hạ xuống biển. Kêu gọi tuyển lựa được một tay lính Thủy Quân Lục Chiến bơi giỏi khỏe mạnh xuống theo chiếc ca nô, bơi bằng dầm để mang dây cáp ra ngoài xa đón chiếc tàu sắp vào.

Nước thủy triều vẫn đang rút, gió đã ngưng thổi từ lâu, nhưng không hiểu tại sao lại có sóng. Mọi người đổ dn cặp mắt vào chiếc ca nô bị sóng nhồi, dập dềnh tt ra biển. Đã một chiếc tàu khác quay mũi vào, nhưng vi vận tốc của chiếc ca nô thì còn khướt đầu dây cáp mới đưa được lên chiếc tàu vào cu.

Ù uỳnh.

Tiếng nổ long trời làm tai tôi ù đi, mắt tôi hoa lên, hai hàm tôi dại đi. Sức ép của tiếng nổ làm tôi khó thở, phải há miệng ra để hớp không khí.

Một quả đạn đã bắn trúng Đài Chỉ Huy.

Dưới sàn tàu, người ta dồn nhau về bên này, rồi dn nhau về bên kia, rồi lại dồn nhau về bên này tàu. Mọi người đều cố tìm một lối để chạy, nhưng, làm gì lối nào để mà chạy.

Chắc chắn rất nhiều người bị chèn, bị ép, bị dẫm, bị đạp bởi mỗi một ln người ta dồn nhau. Nhiều tiếng la, nhiều tiếng hét, nhiều tiếng gào vang lên. Nhiu tiếng chửi rủa cũng vang lên.


Trên boong tàu, cảnh chết chóc mới thật khủng khiếp. Tht, óc, quần áo, máu văng t tung trên thành tàu, lên thành đài ch huy, máu chảy lênh láng không còn chỗ nào là không có máu. Những tiếng rên, những tiếng khóc, những tiếng van vái của những người bị thương hòa lẫn với những tiếng kêu gọi nhau ơi ới của những người còn nguyên vẹn. Tôi không thể nhận ra được trong đám người chết, trong đám người bị thương đang nằm trên vũng máu khổng l ai người mình quen, ai người trong Đại Đi mình. Chỉ trừ một người tôi nhận ra, Binh Nhất Dũng mang băng ca kiêm thợ hớt tóc của Đại Đi. Dũng ngồi dựa lưng vào thành tàu, hai chân dui dài, đầu b chẻ dọc gn như làm đôi, nửa đu nhỏ hơn gẫy gập xuống gn chấm đến vai. Óc và máu văng dính vào thành tàu. Tôi nhận ra Dũng nhờ bảng tên không bđẫm máu và hai bàn tay có những móng tay để dài hơn móng tay con gái của Dũng.

Thiếu Thành bị thương vào chân đang được y băng bó. Ông Chuẩn Úy Tấn Thuyền Trưởng già btơng vào đầu, đang quấn băng cá nhân quanh trán, trông như người đang quấn khăn tang.

Tôi hét to cố át những tiếng ồn ào để hỏi ông Thuyền Trưởng già:

- Súng trên tàu còn sử dụng được không ?

Ông Thuyn Trưởng già vừa mấp máy đôi môi vừa gật đầu. Tôi li gần ông ta, nói cũng vn khá to vì tai tôi vẫn chưa hết bị ù:

- Ông cho súng bắn tập trung vào cái miếu trên bờ kia kìa.

Trên bờ đã vắng tanh vắng ngắt, không một bóng người, xa xa phía trong chừng một vài trăm thước nằm trơ ra độc nhất một cái miếu thấp thoáng bóng người. Những bi rm, những lùm dương còn nằm sâu hơn na mút phía trong. Khẩu súng đã bắn chúng tôi chắc chắn là phải được đặt trong miếu.

Bây giờ chúng tôi lại mới nhận ra được một điều nữa, sau khi quan sát cái miếu và bờ biển. Mũi cái tàu mắc cạn ca chúng tôi chỉ còn cách nưc khoảng chưa đầy ba thước. Cả cái tàu đã nằm phơi gần hết thân trên cát.

Thiếu Tá Thành ra lệnh cho ông Thuyền Trưởng và tôi:

- Huy ở trên này cho lính bắn tập trung vào cái miếu để yểm trợ. Ông Thuyn Trưởng cho hạ bửng tàu xung để mọi người lên bờ. Khi lên bờ xong, Huy cho nhặt súng đạn chuyển lên bờ cho mọi người. Ông Thuyền Trưởng cho gom tất cả những dụng cụ đựng nước ngọt thực phẩm mang lên bờ.

Tiếng súng nhỏ từ trên bờ bắt đầu bắn ra tàu khi cái bửng được từ từ hạ

xung.

Dưới sàn tàu đã nhn nháo từ khi bị quả đn, bây gi lại càng nhốn nháo hơn vì cái bửng tàu không còn là vật che đạn cho mọi người nữa.

Bằng cái loa trên tàu, Thiếu Tá Thành ra lệnh:

- Tất cả mọi người rời khỏi tàu lên bờ. Càng nấn ná trên tàu bao nhiêu càng dễ chết bấy nhiêu.

Súng trên tàu nổ ròn nhưng vẫn không đ khả năng làm câm họng nhng khẩu súng bắn t trên bờ.

Nhiu người ngã chết ngay trên bửng tàu, nhiều người ngã chết ngay trong lòng tàu.

Nhiu người vẫn tiếp tục nhảy vào bờ.

Bây gi không còn gi được lên bờ vì bửng tàu đã lên cao hơn mặt cát có đến hơn một thước. Vượt qua được cái ‘ải’’ bửng tàu đã được an toàn vào sâu trong bờ chừng chục thước một bờ cát cao lên che khuất được đầu người.

Nhiu người không dám vượt qua cái i bửng tàu, nằm co rúm, nép người vào thành tàu.


Nhưng không dám vượt qua bửng tàu để vào bờ vẫn không thể được coi là an toàn. Nhiều quả đạn M-79 đã được bn vòng cầu rơi vào nổ ngay trong lòng tàu, nổ ngay trên sàn tàu.

Tôi vn cố gắng quan sát vị trí của địch để chỉ điểm mc tiêu cho những khẩu súng trên tàu, nhưng ngoài cái miếu ra, tôi ch có th biết thêm được là việt cộng còn nằm rải rác đằng sau những cát thấp. Bắn thì chúng tôi cứ bắn chứ kết quả thì không đáng kể, chỉ đủ làm giảm bớt tiếng súng của địch một phần nào gọi là thôi.

Mũi tàu đã được hạ bửng là một mục tiêu cố định và ngon lành cho những tay súng của việt cộng tập bắn. Nhưng dù thế nào, số ngưi vào được trong bờ vẫn mi lúc một đông thêm.

Thiếu Thành đã vào bờ trước, ông đang bố trí mọi người đ lập thành một tuyến phòng thủ mi.

Khi trên tàu đã vắng người, khi tiếng súng đã thưa khi tại tuyến phòng thủ mới đã thể bắn cm chừng, tôi mấy xạ th trên tàu mới nhy xung sàn tàu, li một cảnh chết chóc nữa đập o mắt tôi. Những người bị dẫm nát không còn hình thù của mt con người, thịt da nhầy nhụa.

Những người bị dồn ép ngộp thở mà chết trông khá nhất, họ nằm chết trông như ngủ.

Những người bị đạn bắn chết nằm gục ngang gục ngửa, người bị trúng

đạn ở đầu, kẻ trúng mặt, người trúng ngực, kẻ trúng bụng.

Họ trúng đạn đủ chỗ và nằm chết đủ kiểu. Những người bị thương đang quằn quại, rên la.

Có người ngồi gục đu xuống, máu từ ngực phụt ra có vòi như vòi nước. Chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện mang nhng người b thương vào bờ. Nm

trên tàu hay khiêng vào bờ nào có khác gì nhau. Có biết đến bao nhiêu người bị thương, làm sao mà lo cho xuể trong khi chính những người còn khỏe mạnh lo cho nhau, lo cho mạng sống ca mình còn chưa xong. Tôi thấy Trung Úy Chức Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh b thương không biết nng nhẹ, máu ướt đẫm áo qun, nằm thoi thóp.

Tôi ngạc nhiên khi thấy gái Huế học Văn Khoa đang ngồi vái trời vái Phật, miệng ngoác ra khóc. Không hiểu tại sao cô nàng lại ở trên tàu.

Đúng ra ta đã phải trên chiếc tàu cùng với Lữ Đoàn Trưởng và Lữ Đoàn

Phó của tôi, đang lênh đênh ở ngoài khơi kia.

Nhưng tôi cũng chẳng thời giờ đâu mà thắc mắc. Tôi nói lớn với cô ta:

- Thôi ch nàng, không lo bờ đi, còn bày đặt mà ngồi đó vái cái thành tàu.

Bưởi nói với tôi:

- Con nh này việt cộng đó ông thầy, nó ngồi trên tàu làm bộ khóc, làm bộ vái trời, chứ thật ra là ch điểm cho việt cộng. Ông nhớ không, hồi tối tuyến nó cũng khóc rùm trời.

Tôi phì cười:

- B mày tưởng ngồi đó làm hiệu rồi việt cộng tránh không bắn nó, hay mày tưởng đạn của việt cộng biết nó cùng một phe nên né nó.

- Chứ sao nó ngồi trên đó mà không trúng đạn ?

Tôi không thể trả lời và cũng không thể giải thích như thế nào. Mọi câu trlời nếu được thỏa đáng đều phải vịn vào một đng vô hình.

Tôi vào bờ cát. Tiếng súng đã im.

Trời đã về chiều, hình như là ba hay bốn giờ gì đó. Chúng tôi đứng một hàng dọc dọc theo bờ cát.

Mặt trời chiều chiếu thẳng vào mặt.


Sóng vỗ nhè nhẹ sau lưng.

Tôi nhìn quanh c tìm những khuôn mặt quen thuộc trong Đi Đội, chng có bao nhiêu, chừng năm, bảy mạng gì đó. Đâu rồi Đại Đội Trưởng, đâu rồi Huy mập, đâu rồi Ngô Dzu, đâu rồi Khải máy, Phước râu, đâu rồi Đăng....đâu rồi tụi bay ?

Lòng tôi chùng xuống, nước mắt trào ra. Bao nhiêu gian lao, bao nhiêu khi t bao nhiêu năm nay không sao, không lẽ li rủ nhau cùng chết một cách đau thương tức tưởi và lãng nhách ở đây hay sao ?

Thiếu Tá Thành từ phía đầu kia của tuyến đi lại:

- Ông Huy, súng đạn của mình hiện giờ ra sao rồi ?

- Không bao nhiêu hết, Thiếu Tá. Tôi đang cho ngưi đi nhặt súng đem xuống rửa dưới biển.

Vừa lúc, một chiếc GMC từ phía Nam đi trờ tới, Thiếu Thành chận xe li và nói với tôi:

- Huy ở đây chỉ huy tuyến này. Tôi đi kiếm thêm súng đạn.

Chiếc GMC tiếp tục chạy lên hướng Bắc, trên xe chỉ có Thiếu Thành và người tài xế.

Tôi đi một vòng dọc tuyến, thấy mấy người lính Tiu Đoàn 2 Pháo Binh, tôi nói với họ:

- Tụi bay lên tàu khiêng Trung Úy Chức xung.

Điều này gợi tôi quyết định lập một toán khỏe mạnh lên tàu khiêng nhng người bị thương xuống. Nhưng dĩ nhiên cũng chỉ khiêng những ai Thủy Quân Lục Chiến, còn những người thuộc các Binh Chng khác thôi thì kệ h.

Tôi cũng cho người lên tàu kiếm đạn và đồng thời tìm cách chuyển nước ngọt xung tiếp tế cho mọi người.

Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy nhng người lính này, không phi là tất cả nhưng cũng không phải là ít, lúc nãy khi còn ở trên tàu, họ hung hăng dữ tợ bao nhiêu thì bây giờ họ lại hiền lành ngoan ngoãn bấy nhiêu. Tuyến phòng thủ cấp thời này được tập hợp bng những người lính của khá nhiều đơn vị khác nhau của Thủy Quân Lục Chiến, Tiểu Đoàn 3, Tiểu Đoàn 4, Tiểu Đoàn 5, Tiểu Đoàn 7, Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh, lính Vận Ti, Truyền Tin, lính Quân Y, Viễn Thám...Tôi không phi là cấp chỉ huy trực tiếp của họ, lúc nãy h th hứng chí tặng tôi một viên vào đầu sau những tiếng đếm đụ mmt, đụ mẹ hai, đụ m ba. Nhưng bây giờ họ tuân lệnh tôi một cách tuyệt đối.

Kỷ luật quả thật mt yếu tố căn bản để tạo thành sức mạnh của Quân Đội. Khi đã mất chỉ huy, khi mọi thng đã bằng nhau thì thằng nào mạnh, thằng

nào súng thằng y nắm quyền sinh sát. Khi tình trạng bằng nhau đã hết, tình trạng hỗn quân hn quan đã hết, khi sự chỉ huy được tái lập, mọi ngưi li răm rắp đâu vào đy.

Bây gi đến lượt chính tôi súng vào đu một người lính, tay này to cao như một thằng Mỹ, cởi trn trùng trc, m đầy hình và chữ trên tay, trên lưng, trên ngực, tay khư khư ôm mt khẩu M-79, đã không dám đứng dậy để chiến đấu, lại cũng không chịu giao súng cho ai. Tôi nói:

- Đ mẹ, tao đếm tới ba, mày không đứng dậy hoặc không đưa súng cho tao,

đụ mẹ, tao bắn.

- Súng của em Trung Úy.

- Đmẹ, một.

- Em mệt quá rồi Trung Úy, Trung Úy cho em ngồi nghỉ mệt chút rồi em đứng dậy, Trung Úy.

- Đmẹ, hai.

- Trời ơi, ông giết em thật sao Trung Úy ?


- Đmẹ, ba.

Tiếng ba chưa dứt, tên lính vội vàng đưa khẩu súng M-79 bằng cả hai tay cho tôi, miệng lắp bắp:

- Súng đây Trung Úy, súng đây Trung Úy.

Tôi lấy khu súng giao cho một người lính đứng cạnh đó.

Tôi không cố tâm bắn chết ngưi lính này, nhưng nếu anh chàng không giao súng cho tôi hoặc không đứng dậy để chiến đấu, thôi thì cũng đành vậy. May cho anh chàng cũng may cả cho tôi!

Không có bóng dáng một người lính Bộ Binh nào trong tuyến này. Khi xung tàu thì tranh giành cũng ra lắm, nhưng khi cần phải cầm súng đánh nhau với vit cộng thì ch còn chúng tôi. Phải chăng họ hận chúng tôi chuyện vừa xy ra trên tàu hay chúng tôi những thằng được khoán trắng cho việc đánh trận. Trừ một số người tuy không bị thương nhưng vẫn nhất định nằm lại trên tàu, không hiểu họ còn hy vọng nơi cái tàu đã nm hơn nửa thân trên cát những người còn lại không biết đã chạy biến đi đâu mất.

Sự vắng mặt của những người lính Bộ Binh đã làm nhiều người lính Thủy Quân Lục Chiến càng thêm tin quả đạn bắn vào Đài Ch Huy chiếc tàu lúc nãy là do những người lính của Sư Đoàn 1. Những lời bàn tán và đồn đai:

- Bọn Sư Đoàn 1 b bắn và bị đuổi xuống tàu đã lấy đại bác 57 ly không giựt bắn vào tàu. Không được ăn thì đạp đổ!

Tôi không tin điu này, những ngưi nh Bộ Binh làm còn súng 57 ly trong lúc này. Nhưng những li đồn và bàn tán mỗi lúc một nhiều cũng khiến tôi bt đầu nghi ngờ sự suy đoán của mình.

Người tài xế chiếc xe GMC chở Thiếu Thành đi kiếm đạn lúc nãy hớt

hớt hãi chạy bộ về. Anh ta báo cáo với tôi:

- Thiếu Tá bị bắt rồi Trung Úy.

- Tại sao mày lại về được đây ?

- Em chThiếu Tá đi lên cách đây chừng hai cây số, bị việt cộng chận li.

Em khai Binh Nhì, Thiếu ng khai là HSĩ. Tụi nó tịch thu xe rồi nói em thay đồ n sự về Huế sống, hình như tụi biết Thiếu sĩ quan nên bắt đi theo. Em lừa lừa rồi trốn về đây.

Niềm hy vng kiếm thêm được súng đn đã tiêu tan, cấp chỉ huy của tôi đã bị bắt. Súng đạn đi mót nhặt tại chỗ đã rỉ sét vẫn không đủ cung cấp cho chúng tôi trong khi chúng tôi vẫn bắt buộc phải bn cầm chừng để giữ chân việt cộng. Sau một hồi bàn bc với các sĩ quan khác, tôi quyết định bỏ cái tuyến này, rời xa chiếc tàu mắc cạn, kéo nhau o tuyến ca Lữ Đoàn còn đang chiến đấu ở phía Nam, nơi mà chúng tôi đã tách ra hồi sáng để kéo nhau xuống tàu.

Khi v gn đến tuyến của Lữ Đoàn, chúng tôi b một loạt đạn đi liên t chiếc

M-113 đậu ngang tuyến của Tiểu Đoàn 5 bn xẹt trên đầu chúng tôi.

Mấy người lính Tiểu Đoàn 5 đng trên chiếc thiết vn xa khoát khoát tay ra hiệu không cho chúng tôi vào tuyến.

Chúng tôi giơ hai tay lên đầu giống như những kẻ đầu hàng để chứng tỏ chúng tôi không còn khả năng chiến đu. Vừa giơ tay chúng tôi vừa tiếp tục đi ti. Lần này khẩu đại liên trên chiếc M-113 nhắm thẳng chân của những người đi đầu của chúng tôi mà bắn, đồng thời chúng tôi còn lãnh thêm mấy quả đạn M-79. Bốn, năm người bị thương ngã lăn ra cát.

Từ sáng đến giờ, thời gian chưa đầy mười tiếng đồng hồ, chúng tôi đã trải qua không biết bao nhiêu ni kinh hoàng. Bao nhiêu người đã chết, bao nhiêu hy vọng đã tiêu tan. Bây giờ trở về để nương nhờ những người bạn, những đng đội


trong cùng Binh Chủng. Nhưng cánh cửa đã khép chặt, chúng tôi b xua đuổi bằng những tràng đại liên, bằng những viên đạn M-79.

Thiếu Tá Tiền Tiu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 mới hôm qua hôm kia đây còn nói với Huy mập ‘’Thầy trò mày rán làm cho tao nữa, đây trận đầu của tao ở bên này’’, trong khi thầy trò Huy mập đã tanh banh hết. Vậy mà bây giờ, chính lính của ông, dĩ nhiên họ làm theo lệnh, vác đại liên, vác M-79 ra bắn xua đuổi chúng tôi.

Chúng tôi tấp vào bờ cát, cách tuyến của Tiểu Đoàn 5 chừng bn, năm chc


thước.


Ngồi đây, ngoài tuyến hay vào trong kia, trong tuyến thực sự đối với tôi chẳng


khác gì nhau. Đạn việt cộng không chừa một chỗ nào và cũng không chừa một ai. Trong tuyến mới đúng là nơi thu hút hỏa lực của địch, còn chúng tôi nằm ngoài, cảm thấy không an tâm chỉ tâm lý, không an tâm mình đã mất kh năng t vệ bt chối sự bảo vệ của những người mình trông đợi.

Mấy người bị bắn ngã đã được đưa vào tuyến.

Lính tráng thắc mắc tại sao họ không được cho vào tuyến. Trung Sĩ Nhất

Đăng Thường Vụ Đại Đội hỏi tôi:

- Ông thầy, mình cũng là Thủy Quân Lục Chiến chứ đâu phi là Bộ Binh, tại sao họ không cho mình vào tuyến?

- Tiểu Đoàn mình tan hàng rồi, mình vào tuyến bây giờ sẽ ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của những thằng đang đánh nhau trong đó.

- Ảnh hưởng m gì, ông thầy, mình tuyến rồi kiếm chỗ nằm tránh đạn ở mút đàng sau này chứ mình đâu có lên đàng trước đâu mà làm mất tinh thần của tụi nó.

- Mày nên nhớ h chỉ cần nghe tin tàu không bốc được tụi mình, tinh thần của họ đã bị nhụt hẳn đi rồi, cn phải đợi mình klại. mày không thấy nằm đây mình không bị đạn bn tới, đâu cần phải tìm chỗ tránh đạn ở trong tuyến nữa.

Tôi chưa nói dứt câu, nhiều loạt đạn nhắm thẳng chúng tôi bay tới. Việt cộng đã về đến chỗ tàu mắc cạn. Thầy trò cha con chúng tôi ùa chạy vào tuyến, đạn việt cộng bắn vãi sau lưng.

Những người lính Tiểu Đoàn 5 trên M-113 thản nhiên ngồi chờ cho đến khi chúng tôi vào hết trong tuyến mi bắt đầu bắn trả về phía tàu mc cạn.

Tuyến phòng thủ của Lữ Đoàn từ chiều hôm qua chỉ bị tấn công một mt từ hướng Tây, nơi Tiểu Đoàn 7 bàn giao tuyến li ca Tiểu Đoàn 4 tôi. Bây giờ bị thêm một mt tấn công mới t hướng Bắc.

Xạ trường bằng phng, những loại súng bắn thẳng không bị cn trở bởi bất cứ một chướng ngại nào. Những ngưi lính trên M-113 đã rời xe, xuống những hố cá nhân đào quanh đy.

Chúng tôi, những thng hết khả năng tác chiến, moi vội những cái hố ở phía sau những cái gọ của dân nằm úp đáy trên mặt cát.

Tiếng súng nhỏ nổ đi đoành trên tàu mắc cạn. Hình như việt cng đang bắn những người còn nằm lại trên tàu.

Đây là ln thứ hai tôi được xem, một cách rất bàng quan, những người lính Thủy Quân Lục Chiến đánh trận. Lần đầu vào ngày 27 tháng Giêng năm 73, bui chiều cuối cùng trước gi ngưng bắn có hiu lực tại Cửa Việt. Tiểu Đoàn 4 tôi được tăng cường hai Đi Đội của Tiểu Đoàn 2 một đơn vị Thiết Giáp, tôi không cấp đơn vị, lập thành lực lượng đặc nhiệm Tango do chính Đại Tá Tư Lệnh Phó làm Tư Lệnh lực lượng. Lực lượng chúng tôi có nhiệm vụ bng mọi giá cắm cờ ở Cửa Việt trước 8 gi sáng ngày 28 tháng Giêng. Trung đoàn việt cộng 48 phòng thủ.

Từ chạm tuyến lên đến mục tiêu khá xa, đến mấy cây số n từng nấc dọc

đường được chia thành nhiều mục tiêu phụ, chúng tôi từng Đại Đi một chia nhau


chiếm từng mục tiêu. Điểm xuất phát của Đại Đi tôi mục tiêu một Đại Đi ca Tiểu Đoàn 2 đánh chiếm. Đại Đi tôi di chuyển một cách thoải mái t phía dưới lên. Đại Đi Trưởng tôi lúc đó là Trung Úy Tước, Dương Tấn Tước gọi tôi lại gn chỉ:

- Ông có thấy chiếc M-48 đang cháy kia không ?

- Thấy, Sao Mai.

- Rồi, ông dắt con cái vô đó.

Một cái lệnh hành quân rất nhẹ nhàng dễ dàng. Nhưng thực sự, nói vậy mà đâu phải vậy, M-48 mà cháy thì mục tiêu đâu phải là nhẹ ký. Tôi vào đến nơi được xem những người lính của Tiểu Đoàn 2 đang chiếm mục tiêu. Những người lính ca Tiểu Đoàn 2 này không hổ danh với chính cái tên mà việt cộng đã đặt cho họ, Tiểu Đoàn Trâu Điên. Họ xung phong, họ xông xáo vào tuyến phòng thủ của việt cộng như vào chỗ không người. chết chóc đấy, b thương đy nhưng việt cộng không thể nào cản được bước chân của họ. một Trung Đi quá hăng máu, tiến quá nhanh, vượt qua khỏi mục tiêu tiến quá sâu vào phần đất dầy đặc việt cộng, nên đã bị bao vây, không hầm hố, không cát để ẩn nấp, họ trở thành điểm tập trung tác xạ của không biết bao nhiêu tay súng vit cộng.

Trung Đi Trâu Điên này vẫn t xung hữu đột, vẫn bình tĩnh chiến đấu như đang thực tập một bài chiến thuật trong quân trường.

Khi Đi Đội tôi lên và giải vây cho họ xong, một người lính nhìn tôi cười nói:

- Đmẹ, đánh giặc đã quá, ông thầy!

Lần này lần thứ hai, tôi nằm sau một cái gọ lật úp làm nơi ẩn nấp, quan sát những người lính của Tiểu Đoàn 5 chiến đấu. Lần này, cái hăng say, cái nhuệ khí của thế tấn công không có, chúng tôi đang ở cái thế bị bao vây, lương thực chúng tôi hết cạn, đạn dược chúng tôi hết gần sạch banh, đường về chúng tôi không có. Chúng tôi đang trong cái thế bi thảm nhất cả về tinh thần ln phương tiện chiến đấu. Vậy những người nh của Tiểu Đoàn 5, mấy con đỉa đói’ y vẫn vừa đánh giặc vừa cười đùa. Có hai người lính đầu không mũ sắt, mình không áo giáp, chân không giày, một người ôm nòng khẩu súng cối 60 ly được bọc bằng mấy cái áo giáp cho khỏi nóng, một người cầm st làm bàn tiếp hậu, tay cầm quả đạn, cứ thế họ đặt súng chỗ này bắn một hai quả, đặt súng chỗ khác bắn một hai quả. Vừa bắn vừa cười nói bô. Một viên đạn bất ngờ ghim sâu vào ngực người lính cầm mũ sắt, qu đạn bên tay phi rơi phịch xuống cát, mũ sắt bên tay trái văng ra xa. Một người lính khác tay cầm mũ sắt, chạy tới nhặt quả đạn tiếp tục bắn. Người lính ôm nòng súng nhìn người bạn vừa ngã chết, miệng cười tươi như không có xảy ra:

- Đụ má, chết sớm dzậy mảy ?

Người x thủ thứ hai rướn người lên rồi ngã xuống viên đn trúng vào


bụng.


Người thứ ba cầm sắt chạy ra. Vừa ra đến nơi chưa kịp bn viên nào thì


cả xthủ ln người ôm nòng súng ngã vật ra chết.

Nòng khẩu súng ci 60 ly nằm chúi họng xuống cát. Tôi ngồi xem hào hứng đến độ quên luôn rằng cái g đang làm vật che đn cho tôi cũng trúng khá nhiều đạn, trong khi cái đầu tôi mỗi lúc một rướn cao lên để xem cho rõ.

Nắng tắt dần, gió bin mỗi lúc một lạnh hơn.

Tôi thấy gai gai người, mới sực để ý mình đã cởi áo t lúc nào và cũng không thể nghĩ được là tại sao mình đã cởi áo.

Bưởi xuất hiện đột ngt, từ bên hông một cái gọ nào đó chạy tới. Trên người mặc mỗi cái quần lót và cái áo giáp.

Gặp Bưởi lúc này còn hơn bắt được vàng. Bưởi ôm chầm lấy tôi:

- Ông thầy, em kiếm ông thầy quá trời.

- Mày đâu chạy tới đây ?


- Em đi kiếm ông thầy quá trời. Ai moi cho ông thầy cái lỗ này ?

- Tao moi mình ên. Bưởi cười cười:

- Hèn chi.

Tôi cũng cười cười:

- Hèn chi gì mày ?

- Ông thầy qua chỗ em đi. Em đào sẵn cái hố cho hai thầy trò mình nằm thoải mái. Nếu l chết chỉ việc lấp cát êm. Ông thầy nằm kiểu này nếu chết đúng là cái lỗ không đủ chôn.

- Đmẹ, trù ẻo mày.

- Thiệt mà. Mà bây giờ về em phải đào cho rộng thêm.

- Sao vậy ?

- Hồi nãy đi kiếm ông thầy, em gặp một cái ‘’lỗ’’. Em mang ‘’con lỗ’’ về nm chung. Ấm lắm ông thầy ơi.

Tôi cười cười, gian ý:

- Coi được không mày ?

- Trời ơi, smột mà ông thầy. Mà thời buổi này ông còn bày đặt kén nữa hả ?

- Đâu kén, mà điều cũng phải đỡ đỡ một chút ch hôi rùm ai chịu nổi.

- Đâu có hôi, ông thầy, con nhỏ cũng mới tắm biển lên mà. Hai thầy trò tôi nháy mắt nhìn nhau cười.

Bưởi cởi áo giáp đưa cho tôi:

- Ông thầy mặc đi rồi mình dzọt. Tôi ngần ngừ:

- Thôi mày mặc đi.

Bưởi nhất đnh không chịu:

- Ông không thấy đạn bắn quá trời sao ? Ông chạy đâu có lẹ bằng tôi.

- Mày tưởng chạy lẹ là không ăn đạn à ?

- bộ ông không thấy lạnh hả ? Người ông nổi gai ốc cùng mình kìa.

Quả thật, gió bin mỗi lúc một mạnh hơn, tôi đã rùng mình nổi da gà sau mỗi lần gió thổi, hai hàm răng tôi đã bắt đầu đập vào nhau. Người tôi đã run lên lạnh. Hết phương t chối, tôi mặc áo giáp vào rồi băng mình chạy theo Bưởi.

Chúng tôi chạy từng quãng ngắn t cái gọ này sang cái gọ khác.

Đến cái g cuối cùng trước khi đến chỗ Bưởi nằm, tôi gặp Khi máy và Phưc


râu.


Tôi la lên vì mừng:

- Đmẹ, cả hai thằng mày còn sống hả ?

Khải máy có cái tên rt lịch sử, Trần Quang Khải ôm chầm lấy tôi:

- Ba thằng tụi em chia nhau đi kiếm ông thầy. Em với thằng Phưc râu mới về


tới đây.

Phước râu bây gimới lên tiếng:

- Tui thấy Trung Úy Gắt ngồi đằng kia kìa. Đ mẹ, ổng thủ nguyên một bao cát gạo sấy thịt hộp. Thấy tui ổng ngó lơ. Km ổng chớ, ai thèm xin.

Nói đến go sấy và thịt hộp, tôi mới thấy đói. Suốt từ trưa hôm qua tới giờ tôi có ăn uống gì đâu. Mà cũng có gì đâu để mà ăn uống. Ngoi trừ sáng nay ngồi uống rượu với bọn Thiếu Úy Sĩ, tôi li tật hễ uống rượu vào không ăn nên tuy có đồ ăn nhưng tôi có nhét được miếng nào vào bụng đâu. Tuy nhiên, cái đói chỉ thoáng qua rất nhanh.

Tôi an ủi:

- Đói lúc này đâu có chết tụi bay. Tao cũng đói. Nhằm nhò gì! Bưởi giục:


- Mình về bên kia đi ông thầy. Khải máy dặn dò:

- Tụi em nm đây, khi nào chạy kêu tụi em nghe ông thầy.

Tôi và Bưi băng qua một quãng trống ngắn, về đến hố của Bưởi. Người con gái nằm trong hố, chùm poncho chỉ thò mỗi cái đầu ra ngoài. Khuôn mặt kể cũng dễ coi.

Vừa xuống hố, Bưởi ra lệnh:

- Ngồi dậy đi bà nội, ly chỗ để tôi moi rộng thêm cho ông thầy nằm. Người con gái ngi dy, vẫn quấn chặt cái poncho.

Bưởi khoét cái hố rộng ra thật nhanh bằng mũ sắt. Tôi cởi áo giáp:

- Trả mày cái áo giáp, lấy trả tao cái jacket.

- Em vt dưới biển rồi ông thầy. Tôi tiếc ngẩn ngơ:

- Đmẹ, sao mày vứt của tao đi ?

- Lúc lội ra tàu mọi th em bỏ hết, em đâu dám vứt áo của ông thầy. Em mặc trong người, có điều ở dưới biển lâu nó ngấm nước, nặng quá trời luôn. Em mà không cởi ra bỏ, dám em bị chết chìm luôn rồi.

Cả cuộc đời nhà binh bảy năm, gia tài của tôi chỉ có mỗi cái áo jacket này.

cái field jacket của Mỹ, áo thật dầy, có cả mũ. Tôi lựa đúng cỡ người, hy sinh một bộ đồ bệt mới tinh để đắp ra ngoài. Cái áo tôi mơ ước. Tôi mới có được cách đây chừng hơn một tháng. Sài Gòn nóng như thế khi về phép tôi còn mang theo để tối tối, trời vừa đủ hơi man mát tôi lấy ra mặc.

Mất Quảng Trị, mất Huế tôi không tiếc bng mất cái jacket này. Nhưng làm sao bây giờ, mất thì đã mất rồi, lỗi thì không th đli cho Bưởi. Tôi trong trường hợp nó cũng phải làm như vậy thôi.

Việt cộng phía tàu mắc cạn hình như đã đến gần tuyến tôi nghe tiếng súng mỗi lúc một chát chúa hơn. Tiếng súng phòng thủ của Tiểu Đoàn 5 chỉ còn là cầm chừng vì mỗi lúc tôi thấy một thưa hơn.

Bưởi vừa mặc áo giáp vừa nói:

- Ông thầy nằm đắp chung poncho với con nhỏ này, em đi tìm cho ông thầy cái áo giáp.

- Thôi Bưởi, nguy hiểm mày.

- Gần ngay đây ông thầy.

Nói chưa dt, Bưởi đã chạy vụt đi.

Tôi nằm đp chung poncho với cô gái. Hơi ấm từ người nàng làm tôi khó chịu, không phi tôi khó chu cô gái mà tôi khó chịu tôi. Đời thuở nhà ai, trong hoàn cảnh này, người ta ai cũng phải lo gi sức khỏe, còn tôi, tôi lại muốn phung phí sức khỏe. Bộ chưa đủ mệt hay sao ?

Bàn tay tầm bậy của i mầy t tung trong poncho. gái không thái độ hoan hay đả đảo ra mặt, nhưng người ta đang t âm ấm chuyển dn sang nóng, hơi thở dn dập tiếng hơn. Đến một lúc thuận tin, tôi tìm một vị thế thích hợp. Nhưng vị thế thích hợp đã không có với chúng tôi.

Cát dính lung tung lên người chúng tôi, dưới hố thì h được đào cong vòng như cái võng, kéo nhau lên trên miệng hố, đạn việt cộng bay lon xạ ở tầm rất thấp.

Rất thèm, nhưng thôi thì đành chu, lắc đầu, chép ming, ‘’ngậm ngùi’’.

Suốt từ lúc tôi về đến cái hố này, cô gái vẫn không nói một tiếng, và tôi cũng không nói một tiếng nào với ta.

Khải máy nói vng sang t cái gọ bên cạnh trong khi tay tôi vẫn đang mầy mò tầm bậy trong poncho:


- Người ta chạy hết ri ông thầy ơi.

- Thằng Bưởi chạy đi kiếm áo giáp cho tao chưa về.

- Chắc nó chạy luôn theo mọi người rồi.

- Chắc không đâu, đợi một chút nữa thử coi.

Trời đã tối, tiếng súng bắn đi đã êm, chỉ còn những tiếng súng việt cộng bn chúng tôi. Tiếng chân người chạy mỗi lúc một nhiều về hướng Nam.

Khải máy và Phước râu chạy đến chỗ tôi. Khải máy la lên:

- Trời ơi ông thầy, người ta chạy hết rồi, ông còn nằm đó mà ‘’moi l’’!

- Còn phải đợi thằng Bưởi nữa chứ.

- Đợi na mà đợi. Có thể nó đã chết rồi, cũng thể nó đã chạy rồi. Tôi quay sang cô gái:

- Thôi, chạy đi cô em. Cô gái nhìn tôi, lắc đầu.

Tôi đứng dậy, chạy theo Khải máy Phước râu.

Chúng tôi chạy lom khom qua hết những cái gọ nằm ri rác trên b, nhập vào dòng ngưi đang chạyt mé ớc.

Chạy thì c chạy, không lmọi người đã chạy mình li không chạy, nhưng thực sự tôi không hiểu là chạy để làm gì, và chạy đi đâu, chạy về hướng Nam tức là chạy về phía cửa Tư Hiền. Tôi chẳng buồn nghĩ là chy về đó rồi sẽ làm gì, mình có chạy nổi về đó hay không.

Phước râu đề nghị:

- Hồi nãy tụi nó t t nhiều quá, hay là mình tự t luôn đi ông thầy. Khải máy góp ý:

- lý đó ông thầy. Mình chạy như vầy để làm cái gì ?

- Không, tụi mày ngu thấy mẹ. Người ta cắt đất để giao cho việt cộng. Tụi mình dở nên mình b kẹt. Nếu bị bắt cũng chừng vài tháng ch mấy, khi nào được trao trả về, đụ mẹ, đánh lại.

- Làm tù binh của việt cộng chu nổi ông thầy.

- Cái gì mà không ni, tụi mày không thấy tù binh được trao trả hồi ngưng bn à, người ta ở tù bao nhiêu năm người ta còn chịu được. Btụi mày không thy Thiếu Úy Bông, Chuẩn Úy Nhường à!

Tiếng súng phía sau lưng đã hết, nhưng dòng người chúng tôi lại bị ăn đạn t

phía trong bờ mỗi lần chúng tôi chạy ngang một cái chốt của việt cộng.

Cũng những tràng súng, ng có những quả lựu đạn được bắn trả, được ném trả vào những cái chốt đó. Không biết giết được mạng nào không ?

Việt cộng được dịp bn thả cửa vào chúng tôi. Số người trúng đn không phải


ít.


Tôi nói với hai thằng đtử:

- Chạy trên cát thì lẹ nhưng nguy hiểm quá, trong khi mình đâu cần chy


nhanh hay chạy chậm. Chạy dưới nước chậm hơn nhưng an toàn hơn. Đạn bắn ra chỉ trúng thằng chạy trong thôi.

Phước râu Khải máy mỗi đứa chạy một bên để đỡ tôi, khi nào mệt tôi choàng cổ hai đứa để được dìu chạy, khi nào tôi chạy được một mình, Pớc râu li tấp vào phía trong bờ, chạy trên cát.

Tôi ngạc nhiên:

- Mỗi lần buông tao ra mày chạy trên cát cho đỡ mệt hả ?

- Tui đâu có mệt ông thầy, chạy phía này l bị bắn tui còn che được cho ông chớ.

Tôi xúc động ứa c mắt. Khải máy đã từng về dự Đại Hội Chiến Sĩ Xuất

Sắc Sài Gòn, nhưng gốc quân phạm nên leo mãi leo hoài vẫn không lên nổi


cái lon Hạ Sĩ trong khi đã đeo Binh Nhất từ trước khi về Đại Đi cũng có đến ba năm. Khải mang máy Đại Đội nên tay thân tín của Đi Đội Trưởng, thay chạy theo Đại Đội Trưởng vừa đỡ mệt vừa có cả gạo sấy thịt hộp, Khải máy lại chạy vi tôi, lãnh đủ cả đói ln mệt.

Phước râu là HSĩ, đã có một thời gian năm 72 làm quyền Tiu Đội Trưng khi còn Binh Bhất, trong khi với Thủy Quân Lục Chiến, H Sĩ mới hy vọng mon men được đến cái chức Tiểu Đi Phó. Hạ Sĩ Phước tay đánh giặc hng nhưng cũng là tay cứng đầu, nên vừa rồi đã được Đại Đội Trưởng ‘’trân trọng kính mời’’ ra khỏi Đi Đội để qua Đại Đi mới là Đi Đội 3. Là một con cáo già trong những trận đánh, đồng thời Pc râu cũng một tay kinh nghiệm đầy nh trong những đợt

‘’di tản chiến thuật’’. Bây gi Phước râu t ý lấy thân che đạn cho tôi trong khi tôi không còn là cấp chỉ huy của anh chàng.

Ba thầy trò tôi chạy dĩ nhiên chậm so vi những người ng chạy nên ctụt dần về phía sau. Nhưng dòng người hình như tận nên chúng tôi b tụt dần vẫn không phải những thằng sau chót.

Lại rất nhiu người bị bắn ngã từng chặng từng chặng khi chạy qua những cái chốt của việt cộng. Chưa bao giờ bọn chó này được bắn sướng tay đến như vậy. Mỗi tràng đạn ít ra cũng phi trúng vài ba người. Nhưng ai ngã mặc ai, nhng người chạy vẫn cứ chạy.

Lại rất nhiều người t tử. Bây gihọ không tự t từng ngưi, từng nhân mà họ tự t tập thể. Không rủ, không hẹn hầu như họ đều không quen biết nhau trước hoặc quen biết đi nữa, bạn đi nữa họ cũng không th nhận ra nhau trước khi cùng chết với nhau một lúc. Dòng ngưi chúng tôi đang chạy, mt người tách ra ngi li trên cát, một người khácng tách dòng người ra ngồi chung, người thứ ba, người thứ tư, người thứ năm nhập bọn, họ ngồi tụm với nhau thành một vòng tròn nhỏ, một qulựu đạn nổ bung ở giữa.

Dòng người chúng tôi tiếp tục chạy, lại một người tách ra ngồi trên cát, lại người thứ hai, người thứ ba, người thứ tư... nhập bọn, lại tụm với nhau thành một vòng tròn nhỏ, lại một quả lựu đn nổ bung ở giữa.

Dòng ngưi chúng tôi vẫn cứ tiếp tục chạy, lại một người tách ra ngồi trên cát, lại ngưi thứ hai, người thứ ba, người thứ tư...

Tôi không thể nhớ để đếm nổi đã bao nhiêu quả lựu đạn đã nổ

giữa những vòng tròn người như vậy. Nhiều, thật nhiều quả lựu đạn đã nổ.

Chúng tôi vẫn cứ chạy, những người t t tập thể vẫn cứ tụm thành những vòng tròn, quân đội Nhật năm 45 khi đầu hàng cũng không thể nào hào hùng hơn thế này được. Lịch sử Việt Nam chưa thấy viết một dòng nào về những cái chết hiên ngang ca những thng tốt đen như vậy, nhưng họ có đó, vẫn oai hùng k phách chấp nhận những cái chết vô danh như vậy.

Chúng tôi vẫn cứ chạy, khi ngang qua những cái chốt của việt cộng, những người bị bắn trúng vẫn cứ ngã, những người t tử vẫn cứ nổ lựu đạn. Ngoài bin vẫn có ánh đèn của những chiếc tàu qua lại.

Những người phía trước chạy chậm dần, chậm dần rồi ngừng lại.

Trong suốt thời gian chạy tôi nghe đủ thứ tiếng, tiếng chân, tiếng thở, tiếng sóng, tiếng súng, tiếng lựu đạn nhưng không nghe tiếng nói. Bây giờ mới bắt đầu n ào tiếng người.

- Đmẹ, sao không chạy tiếp ?

- Chắc đến cửa Tư Hiền rồi.

- Cửa Tư Hiền còn xa, chắc gặp Tiểu Đoàn 8 lên đón.

- Ông thầy cho em miếng nước.

- Đmẹ, tao là lính ch đâu phải sĩ quan mà kêu tao ông thầy.


- Thì đàn anh cho đệ t một hớp.

- Hớp cái con cặc, bộ mày không có bình toong à!

Nghe đến nước, tôi mới thấy mình cũng đang khát. Tôi liếm môi chịu đựng. Nhìn bình nước trên tay ngưi vừa chửi thề, thèm thuồng. Cố tưởng tượng rừng me của Tào Tháo, vô ích, cổ tôi vẫn khô ran, không có nước bọt nào để mà nut.

Phước râu biết ý, ngoại giao.

- Anh cho Trung Úy tôi một hớp. Người có bi đông nưc nhìn tôi.

- Trung Úy thiệt không đó cha ?

- Thiệt mà, ổng là Đi Đội Phó tui. Anh ta đưa bình nước cho tôi.

- Một hớp thôi nghe ông.

Sau khi làm một ngụm nước, tôi mới th nói được.

- Cám ơn bạn.

Việt cộng xuất hiện, chĩa súng về phía chúng tôi ra lệnh.

- Đi một hàng dọc lên đàng trước. Một giọng khác có vẻ là cấp chỉ huy.

- Tất cả giơ tay lên! Có tiếng trả lời.

- Bắt thì bắt, không giơ tay.

- Bọn này ngoan cố, không hàng, chúng ông bắn bỏ mẹ. Nhiu tiếng nói trong chúng tôi vang lên.

- Bị bắt là tù binh, giơ tay hàng tụi coi mình hàng binh. Không giơ tay! Nhất loạt chúng tôi không ai giơ tay, chỉ nối đuôi nhau thành một hàng dọc đi

tới. Đang đi một hàng dọc như vậy, một người tách ra khỏi hàng, chạy ào ra ôm cứng lấy một tên việt cộng. Tiếng lựu đạn nổ, cả hai ngã vật ra chết.

Một người khác li chạy ào ra ôm cứng một tên việt cộng khác, lại một tiếng lựu đạn nổ, lại cả hai ngã bật ra chết.

Chúng tôi và việt cộng vẫn còn đang ở trong thế gờm nhau, chúng tôi đông nhưng đã mất chỉ huy không có vũ khí, việt cộng tuy xuất hiện ít nhưng có súng.

Tôi nghe việt cộng nói với nhau.

- Bọn lính thủy đánh bộ này thng nào cũng ngoan cố. Chắc chn tụi nó còn lựu đạn trong người.

Một tên việt cộng, tên này chắc chắn du kích nằm vùng vì đang xúng xính trong áo sa, đầu trọc lóc, đúng là một ông nhưng thay tay cầm cầm nhang, li lăm lăm một khẩu AK, mồm thay vì nói kinh nói Pht, li ra lệnh cho chúng tôi.

- Chúng mày còn giấu lựu đạn trong người. Tất cả cởi hết quần áo ra! Chúng tôi nhìn nhau, chưa có phản ứng gì, tên sư du kích quát lên.

- Đứng lại! Cởi hết quần áo ra! Một người lính buột miệng hỏi.

- Cởi quần áo ra bị coi là hàng binh không ?

C chúng tôi lẫn Việt cộng đều phì cười. lẽ tiếng cười đã làm không khí căng thẳng dịu lại. Chúng tôi cởi quần áo ra rồi tiếp tục đi tới.

Đã có rất nhiều ngưi bị bắt tập họp thành tng khối, ngồi quay lưng ra biển. Những người này không b cởi quần áo như chúng tôi, những thằng b bt


sau.


Ba thầy trò tôi ngồi nối đuôi nhau thành một hàng dọc trong khối mới bị bắt. Phước râu nói với tôi.

- Ông khai là lính thôi nghe ông thầy.


- Sao vậy ?

- Mình đi chung có gì tui còn lo cho ông được.

- Đâu được mậy, mình bị bắt cả đơn vị, tụi nó điều tra thế nào cũng lòi ra.

- Nhưng ông đâu đủ sức sống một mình trong tù.

- Nhằm nhò gì, ở tù ít tháng thôi chứ mấy, mà để coi ra sao đa. Có tiếng nói t trong đám binh.

- Yêu cầu cho nước uống.

Nhiu tiếng khác vang lên, lúc đầu còn ri rạc, càng lúc càng ăn nhịp dần, cuối cùng có cả tiếng vỗ tay bắt nhịp.

- Nước! ớc! Nước!

C như vy cho đến khi nước uống được hai ả du kích cái mang ra. Nhiu người bu lại uống nước, lúc đu còn uống t tế, đến thùng th ba được mang ra, cũng vẫn nhiều người bu li, nhưng ch một số người uống nước, số khác giả vờ chen lấn giành nước để bóp vú hai ả du kích.

Nhiu tiếng chí chóe vang lên. Tên việt cộng đứng ngoài hắng giọng hỏi.

- Cái gì ồn ào thế ?

Thùng nuc được hất đổ kèm theo nhiều tiếng nói.

- Hết nước rồi, yêu cầu cho thêm. Tên việt cộng đứng ngoài ra lệnh.

- Đề nghị hai đồng chí mang thêm nước.

Khi thùng nước kế tiếp được mang ra, màn bóp lại tái diễn, khi hai nữ đồng chí được đề nghị mang thêm nước lần nữa thì trốn luôn.

Không còn nước, không còn đàn bà, mọi người ngồi trở lại trong hàng. Một người lính vừa ngồi xuống bên cạnh quay sang nhìn tôi cười.

- Đmẹ, bị bắt còn được bóp vú việt cộng, đã quá!

Sau khi đếm người xong, việt cộng đưa chúng tôi vào sân của một Trụ Sở Ấp. Tôi hỏi gi một người đeo đng hồ. Đúng 12 giờ khuya ngày 26 rạng 27 tháng

Ba. Nghe đâu làng này có cái tên rất độc đáo: Làng C Lại.

Ngày 26 tháng Ba là ngày Người Cày Ruộng.

Ngày 26 tháng Ba ngày c một Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến bị khong một đại đội du kích việt cộng bắt sống.

Chuyện không bao giờ tin được đã xảy ra.

Hỏi trời, hi đất, hỏi lính, hỏi quan. Hỏi ai đây, trách nhiệm ai đây về chuyn ô nhục này của quân sử ?

Tôi sực nhớ đến câu có vẻ cải lương nhưng ngẫm thấy cũng có lý: ‘’Làm trai không sợ gì sương gió, chỉ sợ đời không có gió sương’’. Chúng tôi những thằng lính tình nguyện về một Binh Chủng thừa mứa gió sương, và bây gi bị Việt cộng bắt, chúng tôi sắp sửa được hưởng một cuộc sống chắc chắn không thiếu sương gió, không hiểu một tên lính nào đó khi xâm hàng chữ này vào người nghĩ đến hoặc có tiên đoán đến ngày hôm nay, ngày 26 tháng Ba này không ?

Phước râu lại dặn dò tôi.

- Ông thầy nhớ khai là lính nghe.

Lúc trời gần sáng, việt cộng yêu cầu ai sĩ quan tập họp riêng gần cổng trụ


sở ấp.


Lúc đầu còn lác đác nhưng rồi chỗ tập họp riêng cho sĩ quan đông dần, hình


như chẳng còn thiếu ai, ngoại trừ mấy ông cấp Tá.

Tôi gặp Trung Úy Gắt, Thiếu Úy Dzu, Huy mập, Du Hồ. Tôi lại gặp Sĩ Tiu Đoàn 2 Pháo Binh. Tôi còn gặp cả một thằng bạn cùng học vi nhau suốt bậc trung học Trường Nguyễn Trãi, Vũ Đức Giang, khi chúng tôi đang bị trói chung bằng một sợi dây điện dài. Tôi ngạc nhiên kêu lên.


- Giang, mày làm gì mà cũng bị bắt ở đây ?

- Ơ Huy, cả chục năm mới gặp lại mày.

- Tao hỏi mày làm cái giống cũng bị bắt ở đây ?

- Tao Thủy Quân Lục Chiến.

- Mẹ kiếp, cậu đếch tin, mày cũng dám giết người à ? sao Thủy

Quân Lục Chiến, tao không gặp mày ?

- Tao mới ra trường về Thủy Quân Lục Chiến khoảng nửa tháng nay.

- Mày Bác Sĩ à ?

- Ừ, tao về Tiểu Đoàn 7.

- Tội nghip thằng bé, mày cũng sợ đời không có gió sương à ? Giang ngơ ngác.

- Gió sương gì? Cởi trần ngồi suốt đêm ngoài trời thế này mày bảo không b

sương à ?

Trời sáng rõ.

Mấy tên việt cộng gác chúng tôi cầm súng đi qua đi lại trước cổng. Một tên đứng gác trên chòi canh. Dân chúng bu sát vào hàng rào nhìn chúng tôi. Nhiu người đã cầm sẵn trên tay r khoai lang khoai mì để bán cho chúng tôi.

Những người bị bắt trước tôi không bị ci quần áo nên họ có tin, và vì là lính nên không bị trói, ra sát hàng rào mua bán với dân chúng.

Bọn việt cộng cố gng ngăn cản vụ mua bán nhưng không nổi, cuối cùng

đành phi ngó lơ. Nhiều người lính đem khoai sắn đến đút cho chúng tôi ăn.

Số sĩ quan chúng tôi cũng đến cả trăm mạng, bị trói quặt cánh tay ra sau, nối tiếp nhau bằng sợi dây điện dài. Một số đã bị trói bằng dây kẽm vì không đủ dây điện. Lợi dụng lúc lộn xộn không có hàng ngũ gì, chúng tôi đã bàn với nhau.

‘’Nếu được đi chung với lính thì thôi, còn nếu bị dắt đi riêng ra phía biển, tức là bị đem đi bắn, chúng tôi sẽ cướp súng bắn lại’’

Đằng nào cũng chết, cướp súng bắn lại ít ra cũng giết gỡ được vài mạng. Phước râu, Khải máy, Trung Sĩ Khang cũng bu đến chỗ tôi ngồi. Tôi nói đủ

cho mấy đứa nghe.

- Khang đứng lùi ra che mắt mấy thằng gác, thằng Khải xin miếng khoai đút tao ăn, còn thằng Phước ngồi xuống nới lỏng dây trói cho tao.

Tôi dặn thêm Phước râu.

- Nới lỏng vừa đủ để nếu cần, rút tay ra được. Lỏng quá dễ bị b.

Bằng cùng một cách này, tất cả dây trói chúng tôi lần lượt đều được nới lỏng. Những tin đồn về mấy ông Tiểu Đoàn Trưởng của chúng tôi được loan truyền.

- Chính mt thằng A thấy ông Cang bắn súng vào đầu ttử.

- Chính mắt thằng B thấy ông Tiền t tử chung với mấy người nữa bằng lu


đạn.


- Thằng C đã vuốt mt cho ông S ở bờ biển sau khi ông ta tự bắn vào đầu.

- Chính mt thằng này...

- Chính tay thằng nọ...

Những li đồn đã làm chúng tôi hãnh din, những lời đồn đã giúp chúng tôi


thản nhiên ngồi chờ việt cộng dắt ra bờ biển. Nhưng rồi, quá nhiều li đn không giống nhau, có khi trái ngược hẳn nhau dần dần khiến chúng tôi nghi ngờ. Không lẽ một người mà vừa tự tử bằng súng, vừa tự tử bằng lu đạn lại vừa trốn vào nhà dân mướn ghe, mướn tài công để chy ra biển.

Tôi hỏi một người vừa nói với tôi là ông Tiền t tử.

- Mày có trông thấy ông Tiền cm súng bắn vào đầu không ?

- Em không thấy nhưng thằng A nói chính thằng B trông thấy. Tôi hỏi một người khác nói về ông Cang.


- Mày thấy ông Cang tự tử không ?

- Chính thằng lọt ca ông Cang nói với em.

Tôi nghĩ bụng, lính đồn nhiều khi rất đúng, nhưng lúc này thực ra chỉ để thỏa mãn một nhu cầu. Những lời đồn hiện đang được loan truyền chỉ có thưởng chứ không có phạt trong lúc này.

Khoảng 9 giờ sáng, việt cộng kiểm điểm s sĩ quan chúng tôi rồi bắt đi một hàng dọc ra khỏi cổng trụ sở ấp.

Trước khi đi, chúng tôi đã nhìn nhau ngầm ra hiệu.

Ra khi cng trụ sở p, qua khi cổng chùa nằm ngay cạnh p, chúng tôi tập họp li thành nhiều hàng ngang. Việt cộng ra lệnh ngồi đi. Đợi cái chúng tôi không biết.

Dân chúng vẫn bu quanh hàng rào để buôn bán. Lính tráng b gi trong Trụ Sở Ấp vẫn ồn ào, tôi còn nghe c tiếng ca hát nữa. H quả những người thật vô tư.

Một người trong hàng chúng tôi lên tiếng.

- Yêu cầu các anh cho lấy trả chúng tôi quần áo. Tên việt cộng đứng canh chúng tôi hống hách.

- Cái ca chúng mày, quần áo của chúng mày. Tất cả mọi thứ của nhân dân, chúng mày không có quyền đòi cái gì hết.

Chúng tôi cười ồ lên, nhiều ngưi tranh nhau nói.

- ra nời dân nào cũng là Thủy Quân Lục Chiến hết à ?

Không hiểu tên việt cộng vì không hiểu câu nói hay vì không nghe rõ nên tiếp tục hùng hổ.

- Đến c này chúng mày còn lôi Thủy Quân Lục Chiến ra dọa nữa hả ? Ông cho chúng mày một tràng đn xong đi chúng mày bây giờ.

Trong hàng lại ào ào lên tiếng.

- Bắn đi.

- giỏi bn ngay bây giờ đi.

Trong lúc nói ào ào lên như vậy, mọi người chúng tôi tuy tay vẫn để quặt ra sau lưng nhưng đã rút ra khỏi dây trói. Tt cả đều ở tư thế sẵn sàng.

Tên việt cng mặt mũi còn non choẹt, không biết phi có thái độ như thế nào trong hoàn cảnh này nên lính qua lính quýnh, tay nắm thật chặt khẩu súng chĩa thẳng vào chúng tôi, chân bước giật lùi mấy bước, mắt ngó dáo dác cầu cứu, mồm lắp ba lắp bắp.

- À, chúng mày làm loạn, chúng mày làm loạn.

Một tên việt cộng khác có lẽ cấp bậc lớn hơn t trong chùa đi ra hỏi.

- Cái gì đấy đồng chí ?

- Bọn này làm loạn.

Tên mới ra này nhìn anh em chúng tôi.

- Yêu cầu anh em gi trật tự. Anh em cn cứ cho chúng tôi biết nhưng không đưc làm ồn ào.

- Chúng tôi yêu cầu trả quần áo lại cho chúng tôi.

- Được rồi, anh em ngồi đợi tôi cho người đi lấy.

Tên này quay vào chùa, cho thêm mấy tên nữa tăng cường để gác chúng tôi. Những bàn tay đã rút ra khỏi dây trói, được ý tứ đút trở lại. Mấy người dân ôm

từng ôm, từng ôm quần áo của chúng tôi bị vứt bỏ dưới bờ biển tối hôm tớc lên để

thành từng đống trước mặt chúng tôi.

- Yêu cầu cởi trói để chúng tôi mặc quần áo.

Tên việt cộng hùng hổ lúc nãy lại tiếp tục sng sộ.

- Cởi trói để chúng mày làm loạn à ?


- Không cởi trói sao mặc quần áo được ?

- Mặc sao được kệ chúng mày.

Chúng tôi lại ào ào lên. Tên việt cộng có vẻ là cấp chỉ huy li từ trong chùa đi ra, trông thấy đống quần áo.

- Sao chưa phát quần áo cho người ta, quay sang phía chúng tôi, tên này nói tiếp, các anh lại ồn ào cái gì nữa ?

- Yêu cầu phát quần áo và cởi trói cho chúng tôi để chúng tôi mặc. Tên này đứng suy nghĩ vẻ lung lắm.

Tôi chờ đợi suy nghĩ cũng không m. Số phận của chúng tôi đã được quyết định sẵn, và quyết định như thế nào chúng tôi có thể đoán được tùy theo việc của chúng tôi được cởi trói hay không. Nếu không được cởi trói, chắc chn chúng tôi sẽ bị bắn rất sớm. Còn nếu đưc cởi trói, không hẳn chúng tôi sẽ không bị thanh toán nhưng thời gian còn hơi lâu, có th cuối ngày, thể nửa đêm, th phi đợi cho đến khi nào bọn chúng có đủ phương tiện mang chúng tôi đi xa, thật xa những người lính để họ không hay biết gì.

Quần áo cũng đã được mang vào trong vòng rào tr sở ấp để phát cho lính. Quần áo chất đống trước mặt chúng tôi được ném đến từng người tuy chưa đủ. Như vậy chắc chắn chúng tôi sẽ được cởi trói, nhưng cũng chẳng ai cấm bọn chúng chỉ cởi trói để chúng tôi mặc quần áo rồi sau đó lại trói li.

Tôi cười một cách đau khổ. Nếu cởi trói luôn, mọi chuyện sẽ tiến triển tốt đẹp, nhưng nếu bị trói lại hóa ra chúng tôi lỗ vốn quá nặng hiện gi trên nguyên tắc là chúng tôi bị trói nhưng trên thực tế, chúng tôi mun rút tay ra lúc nào cũng được. Sau khi mặc quần áo xong, bị trói trở lại, chắc chắn tay chúng tôi sẽ bị trói thật chặt. Bị trói chặt cả trên nguyên tắc lẫn thực tế. Nếu b đem đi bắn, khả ng chống cự của chúng tôi sẽ yếu hẳn đi, chưa chắc đã giết gỡ được tên việt cng nào.

Tên chỉ huy khuôn mặt cáo già, sau một hồi suy nghĩ đã ra lệnh cởi trói cho chúng tôi.

Cũng may, việt cộng cởi trói cho người ngồi ở đầu mỗi hàng, rồi sau đó chúng tôi lần lượt cởi trói cho nhau, nên bọn chúng không biết được là dây trói chúng tôi thực sự đã lỏng le lỏng lét.

Quần áo được phát sao mặc vy nên trông chúng tôi rất tức cười. Tôi, Tiu Đoàn 4 mặc áo bảng tên của Tiểu Đoàn 3, thng Tiểu Đoàn 3 mặc áo của Tiểu Đoàn 5, thằng to như trâu nước mặc áo quá nh không thể cài cúc, thằng nhỏ con mặc áo rộng thùng thình, nếu đứng dậy ai cũng phải nghĩ là cởi truồng cái áo dài che luôn cả quần lót.

Chúng tôi chẳng thằng nào buồn đổi áo cho thằng nào, cứ vậy ngi nhìn nhau khúc khích cười như một lũ con nít.

Chúng tôi bị trói trở lại. Qutht là đau, đòi mặc quần áo ch một cái cớ để được cởi trói, bây gi mặc quần áo rồi, bị trói trở lại, chúng tôi chẳng còn nh được ai ni dây trói cả. Nhưng đã dự trù việc này nên lợi dụng lúc mặc áo, chúng tôi đã bứt đứt sợi dây điện ở nhiều khúc nên khi bị trói lần thứ nhì này, chúng tôi chỉ còn bị trói chung từng tốp vài ba mạng, xoay trở chắc chắn dễ dàng hơn là bị trói chung nhiều người vào một sợi dây dài.

Thua keo này bày keo khác! Bt đầu có người đòi uống nước, đồng thời có người đòi đi đái, người đòi đi a.

Chúng tôi có cả một lực lượng lính hùng hu không bị trói ở gần đó đang theo dõi chúng tôi, nên việt cộng dù có muốn cũng chưa dám hành hạ chúng tôi. c được đem ra chúng phi bưng cho từng người chúng tôi uống. Những người đòi đi đái đi ỉa được cởi trói dn ra phía bờ biển. Chúng tôi tiếp tục đòi uống nưc, đòi đi đái, đòi đi a loạn xà ngầu lên. Bọn việt cộng phần cho người đi lấy nước, phần phi


bưng nước cho chúng tôi uống, phần phải cởi trói dẫn chúng tôi đi đái đi a, phn phải trói lại những người đi ỉa đái về, phần lại còn phải canh gác chúng tôi nhưng vì không đủ người nên nhiều ngưi trong chúng tôi đã không kịp bị trói lại.

Cuối cùng quyết định của tên chỉ huy cởi hết dây trói chúng tôi, với điều kiện chúng tôi phải giữ trật t, ngồi trong hàng. Muốn giơ tay xin từng người một.

Chúng tôi được cởi trói.

Ông bt chúng tôi tối hôm qua t trong chùa đi ra, đi dép vỏ xe, mặc áo lam già, vai khoác AK, đầu trọc lóc không mũ được che bằng cái khăn xoa buộc túm bốn góc, vừa cười vừa nói với chúng tôi.

- Chào anh em, anh em khỏe không ?

- Bị bắt mà khỏe mẹ gì!

- Anh em đừng nghĩ là mình bị bắt. Anh em phi lấy làm sung sướng mình được nhân dân và cách mạng giải phóng ra khỏi gung máy chiến tranh xâm lược phản dân hại nước của bọn Mỹ Ngụy.

- Ông lầm rồi, chúng tôi chiến đu để bảo v tự do, chúng tôi đâu xâm lược


ai.


- Anh em không xâm lược, anh em làm bia đỡ đn cho xâm lược. Tổ


quốc đứng về phía chúng tôi. Bây giờ anh em về với nhân dân, cách mạng nhiệm vụ phi bảo vệ anh em, lo lng giúp đ anh em. Anh em sẽ được giáo dục để trở về đứng cùng một chiến tuyến với cách mạng, với nhân dân. Anh em hãy theo gương Trung Đoàn 56 của Trung Phạm Văn Đính, cách mạng đã đối x một cách rất khoan hồng, lại còn cho gi nguyên quân hàm cũ.

Người ngi cạnh tôi, giơ tay lên vừa cười vừa nói.

- Vậy đồng chí cho xin điếu thuốc.

Nhà tu hành đang tươi cười ‘’thuyết pháp’’, chợt sa sầm mặt xung, chụp ngay cổ áo người vừa nói, giựt giựt mấy cái, vừa giựt vừa gằn từng tiếng.

- Ai đồng chí với mày, mày kẻ thù của tao. Không chính sách khoan hồng của cách mạng thì mày đã toi đời rồi con ạ.

Chúng tôi ngồi nháy mắt nhìn nhau cười.

Dân làng gánh những thúng cơm đến phát cho chúng tôi. Mỗi phần ăn được chừng một bát cơm một miếng khô gói trong chuối. Phần ăn ít cũng không đ để phát đu cho tất c chúng tôi. do khá giản d không ai tưởng tượng nổi con số chúng tôi bị bắt đông đến như vậy.

Khoảng 2 giờ trưa, bọn việt cộng được tăng cường thêm bộ đội chủ lực đến, di chuyn tất cả tù binh chúng tôi ra Phá Tam Giang đợi gọ để đi sâu vào trong đất liền.

Tại bờ Phá, khi không còn bóng dáng ngưi dân nào, chúng tôi bắt đầu được nếm mùi thổ phỉ, kẻ b tước bút, người bị lt đồng hồ, kẻ bị tháo nhẫn, người bgỡ dây chuyn. Nhiu tên du kích mặt mũi non choẹt, chừng mười lăm, mười bảy tuổi vác M-16, vác AK la hét, chửi mng chúng tôi.

- Thằng này đeo nhiu bút chắc chắn phải thằng chỉ huy cấp lớn, lột hết bút


nó đi. ra.


- Thằng này để nhiều râu chắc chắn phải thằng sĩ quan, lột đồng hồ của

 

Thôi thì quá nhiu do ‘’chính đáng’’ đ chúng tôi b lột sạch. Thậm chí


đến sợi dây kim loại để đeo thẻ bài chúng tôi cũng b lột với do phương tiện chiến tranh của Quân Đội Ngụy.

Ưu tiên sĩ quan chúng tôi qua phá trước hết.

Trong khi tập họp đợi tất cả mọi người qua phá, một tên hình như cán b

chính trị đng thao thao bất tuyệt với chúng tôi.


- Nào quân đội nhân dân quân đội bách chiến bách thắng dưới sự lãnh

đạo sáng suốt của đảng.

- Nào là các anh là những người may mắn đã được nhân dân và cách mng giải phóng khỏi gông xiềng của Mỹ Ngụy.

- Nào là chính sách khoan hồng nhân đo của chính phủ lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đối với tù tàn binh biết ăn năn hối cải.

- Nào là Thành PhĐà Nẵng đang bị bao vây mọi mặt, mọi phía từ đường núi,

đường bộ, đường bin đến vùng trời.

Một người đứng lên hỏi.

- Xin anh giải thích cho chúng tôi một số điu, thứ nhất hành động chôn người tập thể tại Huế trong trận Tết Mậu Thân và bắn giết bừa bãi nhng người dân vô tội tại Đại Lộ Kinh Hoàng năm 72, thứ nhì, tại sao mang tiếng xâm lược mà khi chúng tôi rút khỏi Quảng Trị và Huế, dân chúng lại bỏ chạy hết vào Đà Nẵng Sài Gòn để tránh nạn cộng sản, thứ ba, anh giải thích thế nào về hành động quân đội nhân dân của các anh đã đang cướp bóc bên kia Phá, thứ tư, chúng tôi sử dụng súng đạn của đế quốc Mỹ hay mấy anh sử dụng súng đn của cộng sản Nga, Tàu để tàn sát đồng bào, th năm...

Tên cán bộ chính trị việt cộng tức giận ngắt lời ra lệnh cho bọn thủ hạ.

- Lôi cổ thằng ngoan cố này ra ngoài, quay sang chúng tôi, hắn gằn giọng. Các anh phải biết đng nhân dân chỉ khoan hồng cho người nào thực sự biết ăn năn hối cải, còn tên nào ngoan cố chỉ có hại vào thân thôi.

Nói xong, tên này hầm hầm đi ra ngoài.

Chúng tôi nghe một tiếng súng nổ ở phía Phá Tam Giang.

Khi mọi người đã qua phá xong, chúng tôi bị dẫn đi dọc theo con đường đất quanh co hướng về phía Quốc Lộ 1.

Lúc nãy, bờ phía bên kia Phá, chúng tôi được nếm mùi cướp bóc, th phỉ, và bây giờ trên con đường đất hai bên là ruộng, là lùm, là bụi này, chúng tôi được thưởng thức món giết người.

Đoàn chúng tôi đi thất thểu trên đường, đoành một tiếng, một xác ngưi ngã xuống bờ ruộng, đoành một tiếng, một xác ngưi nữa ngã xuống bờ ruộng. Một người đi ngay bên cạnh tôi bị bắn vào đầu, máu và óc văng dính cả vào người tôi.

Trò bắn giết rt kỳ cục và khó hiểu. Những người bị bn chết những ngưi không bbắn, hay chưa bị bắn, đều không hiểu tại sao bọn việt cộng lại bn ngưi này không bn người kia. Ti sao thằng việt cộng này không bắn ngưi này mà bắn ngưi nọ ? Chúng tôi rất hoang mang nhưng lúc này không ai phản ứng gì, mọi người vẫn cứ lầm lũi, thất thểu đi. Đói, khát, mệt mỏi luộm thuộm lếch thếch, chúng tôi đi, hoang mang không hiểu bao giờ đến lượt mình bị bn. S ngưi bị bắn mỗi lúc dĩ nhiên mỗi nhiều hơn. Tất cả lon đã đưc gỡ ra từ sáng, khi chúng tôi mới nhận được quần áo mang t bờ biển vào. Râu ria trên mặt biểu hiệu cho chc cấp hiểu theo nghĩa việt cộng cũng không phải, nhiu người để râu, trong đó cả tôi, không hay chưa bị bắn, nhiu người râu ria nhẵn nhụi đã bị bắn.

Mãi về sau, khi nghe được bọn việt cộng cầm súng đi tìm người để bn nói chuyện vi nhau chúng tôi mới vỡ lẽ ra. Những tên việt cộng nào đã từng bị Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến nào đánh cho xất bất xang bang lúc trước, lúc này cứ đi tìm huy hiệu và bảng tên của Tiu Đoàn đó bắn.

Người mặc áo có gắn phù hiệu của Tiu Đoàn 5 không bị thằng việt cộng này bắn nhưng bị thằng việt cộng khác bắn. Người mặc áo gắn phù hiệu Tiu Đoàn 3 bị bắn bởi thằng việt cộng không bắn người mặc áo của Tiểu Đoàn 4.



Chúng tôi lột hết bảng tên và phù hiệu Tiu Đoàn. Cuc bắn giết thưa dần ri chấm dứt.

Chúng tôi bị đưa về Căn C La Sơn nhốt tạm để sau đó, H Sĩ Quan Binh Sĩ b đưa nhốt Khe Tre, Nam Đông. Đám Quan chúng tôi bị đưa về cây số 23, gần ngay chỗ Ban Chỉ Huy Tiểu Đoàn 4 ít ngày trước, đối din với làng Đng Lâm.

Khoảng giữa tháng Tư, chúng tôi bị đưa v trại binh chính thức nằm phía

Bắc Khe Sanh, sát biên giới Lào, ở ngay đầu nguồn sông Bến Hải.

Cali 85

 

Tags: CẢI TẠO
Tags: HỒI KÝ
Tags: TÁC GIẢ

Đăng nhận xét

Tin liên quan