ĐỖ VĂN PHÚC Cách đặt dấu khi viết về các chữ số
TAP CHI DAN VAN
DANVAN MAGAZINE
Email: danvanmagazin@gmail.com
----------------------------------------
BẢN TIN CỦA TẠP CHÍ DÂN VĂN
(XIN TIẾP TAY PHỔ BIẾN THẬT RỘNG
RÃI - CHÂN THÀNH CẢM TẠ.)
LTS: Toà soạn Tạp Chí Dân Văn giới thiệu một bài viết nâng cao sự hiểu biết của Đỗ Văn Phúc – chân thành cảm tạ chiến hữu Đỗ Văn Phúc.
Germany,
13.08.2022
-
Điều Hợp Viên
DĐ Ngôn.Ngữ-Việt,
-
Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN
--------------------------
Cách đặt dấu khi viết về các chữ số
Đỗ Văn Phúc
Cách viết các con số! Đơn giản
quá mà; ai cũng biết viết cả trăm năm nay mà!
Không đơn giản thế đâu, thưa
quý vị. Chúng tôi vẫn thấy nhan nhản các lỗi về cách viết và đặt các dấu chấm,
dấu phẩy trong các chữ số trên báo chí, văn bản chính thức của nhiều tổ chức.
Đặt các dấu chấm, dấu phẩy sai chỗ sẽ làm cho trị giá con số bị hiểu sai rất xa
với trị giá thật. Sự đánh dấu sở dĩ sai vì các bài báo lấy từ trong nước Việt
Nam dùng cách đánh dấu trái ngược với cách chúng ta ở Mỹ. Cách đánh dấu bên
Việt Nam là do ảnh hưởng của Pháp mà chính chúng ta cũng thường áp dụng khi còn
ở quê nhà.
Thử đọc báo Việt Nam viết giá một ly cà phê là 65.000 đồng!? Lương một kỹ sư ở Mỹ là 7.000 đô la mỗi tháng!? Tính theo trị giá tiền Hồ, thì với 65 đồng chẳng có giá trị gì cả! Còn tưởng rằng đồng là đô la thì cà phê gì mà giá cắt cổ đến 65 đô la? Kỹ sư ở Mỹ lương phải bạc ngàn chứ tệ cỡ nào mà lãnh 7 đô la mỗi tháng?...
Người Việt Nam, theo cách của
Pháp và đa số các nước Âu Châu, thường đánh dấu phẩy (comma) ở sau hàng đơn vị,
và đánh dấu chấm (point) để ngăn cách ở số hàng ngàn, hàng triệu. Dấu chấm
trong các con số tiếng Anh gọi là Decimal Point. Deci là tiếp đầu ngữ chỉ con
số phần mười của đơn vị. Trái ngược hẳn cách của Pháp, cách đánh dấu ở Hoa
Kỳ và các quốc gia nói tiếng Anh là: Dấu chấm đặt sau hàng đơn
vị và dấu phẩy là để ngăn chia hàng ngàn, hàng
triệu. Do đó, mỗi khi dịch tài liệu từ sách báo Việt Nam thì nên cẩn thận,
chuyển đổi các dấu trong các hàng số cho phù hợp cách của Mỹ để tránh bị hiểu
sai.
Như thế, với thí dụ trên thì
phải viết: ly cà phê theo giá Việt Nam là 65,000 đồng;
lương kỹ sư ở Mỹ là 7,000 đô la mỗi tháng.
Ví dụ cách đặt dấu:
|
Việt
Nam (theo cách Pháp) |
Theo
cách Mỹ |
Một ngàn lít |
1.000
lít |
1,000
liters |
Hai mươi bảy kí lô và 350
gram |
27,350
kilo |
27.350
kilograms |
Hai trăm mười ngàn bảy trăm
đô la năm mươi xu |
210.700,50
đô la |
210,700.50
dollars hay US$
210,700.50 |
Ba triệu tám trăm ngàn một
trăm lẻ bảy đồng hai mươi xu |
3.800.107,20
đồng |
3,800,107.20
đồng |
Hệ thống số đếm
Từ cấp đơn vị trở lên, các con
số nằm trước dấu chấm. Chúng ta có: Deca (10 lần), Hecta (100 lần), Kilo (1000
lần), Mega (1 triệu lần), Giga (1 tỷ lần), Tera (ngàn tỷ lần) vân vân.
Từ cấp đơn vị trở xuống, các
số nằm sau cái dấu chấm. Chúng ta có: Deci (phần mười hay 1/10), Centi (phần
trăm hay 1/100), Mili (phần ngàn hay 1/1,000), Micro (phần triệu hay
1/1,000,000), Nano (phần tỳ) vân vân.
Trong đời sống hàng ngày, có
lẽ chúng ta chỉ quen con số hàng trăm, hàng ngàn. Có làm ăn buôn bán gì thì
nghe hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn, hàng triệu; và chỉ khi tham khảo tới lãnh
vực kinh tế quốc gia thì mới nghe đến hàng tỷ và ngàn tỷ.
Về các số dưới mức số đơn vị
(từ 1 đến 9), chúng ta quen thuộc đến phần mười (thập phân, x/10 hay 0.0x),
phần trăm (bách phân, x/100 hay 0.00x). Chỉ trong ngành kế toán thì mới dùng
đến phần nghìn (thiên phân x/1000, hay 0.00x). Ghi chú: Chữ x trong các
thí dụ chỉ là biến số tượng trưng cho các con số thật có thể là 2, 3, 4 … 9)
Ngày nay, với đà tiến bộ siêu
việt của khoa học kỹ thuật, nhất là lãnh vực điện từ, chúng ta nghe nhiều đến
chữ micro là phần triệu, nano tức là phần ngàn triệu của đơn vị. Thử tưởng
tượng sợi tóc thường của chúng ta có đường kính hơn một phần tư millimeter hay
0.25 millimeters hay 25 micro; trong khi hiện nay, trên một con chíp điện tử,
người ta gắn lên đó đến 20 tỷ mạch điện cho các transistors và làm các
transistors chỉ lớn khoảng 7 nanometers.
Sai lầm trong cách viết bách
phân
Sai lầm này thấy rất nhiều
trên các báo hay các bài viết trên mạng. Trong một bản tin trên báo XYZ có tựa
đề “Tin đáng mừng; thăm dò cho thấy có .63 phần trăm cử tri
ủng hộ ông X.” (Xin để ý dấu chấm nằm trước số 63)
Nếu giải thích theo cách viết
trên thì có .63 phần trăm là 0.63% tức 6.3 phần ngàn hay 63 phần
vạn. Trong một vạn cử tri mà chỉ có 63 người ủng hộ. Thế là rất bi quan chứ có
gì mà mừng vui. Lẽ ra phải viết đúng là 63 phần trăm hay 63% (xem bên dưới).
|
Cách
viết 1 |
Cách
viết 2 |
Cách
viết 3 (Bách
phân) |
Một phần 10 |
0.1 |
1/10 |
10% |
Ba phần trăm |
0.03 |
3/100 |
3% |
Sáu phần nghìn |
0.006 |
6/1000 |
0.6% |
Sáu ba phần trăm |
0.63 |
6.3/10 |
63% |
Nhân tiện, xin giải thích một câu
hỏi của một quý bà từ San Jose về các chữ kỷ, thập niên, thế kỷ, thiên
niên kỷ.
Dương lịch chúng ta đang dùng
tính từ năm sinh của Chúa Jesus. Những năm trở về trước thì số năm được tính
lùi và có kèm chữ tắt BC (Before Christ, trước Thiên Chúa).
Ví dụ; Vua Tần Thủy
Hoàng bên Trung Hoa trị vì từ năm 221 BC đến năm 207
BC.
Những năm sau Chúa Giáng Sinh
thì có kèm hai chữ tắt AD (Anno Domini. tức là năm của Chúa). Bây giờ người ta
không cần ghi thêm hai chữ AD nữa.
Ví dụ: Nhà Hán bên
Trung Hoa tri vì từ năm 202 BC đến năm 220 AD.
Trong thực tế, ngày và năm
sinh của Chúa Jesus cũng có nhiều sách sử ghi khác nhau. Chúng ta không lạm bàn
nơi đây.
Theo Hán tự, Niên Kỷ 年紀 (có
khi viết là Kỉ) là năm tuổi, Nhất Kỷ 一紀 một đơn vị mười hai năm (một giáp). Chữ kỷ 紀 này khác chữ “kỷ” 幾 là bao
nhiêu (kỷ hà 幾何?)
Thập niên là mười năm (decade); Bách niên là một trăm năm
nhưng thường nói là thế kỷ” (century). Thiên niên kỷ là
một ngàn năm (millennium).
Ví dụ: Thế kỷ 21 chúng
ta đang sống bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2001 và kết thúc vào ngày 31 tháng
12 năm 2100. Những năm từ đầu năm 1701 đến cuối năm 1800 thuộc thế
kỷ thứ 18. Những năm từ đầu năm 1901 đến cuối năm 2000 thuộc thế kỷ
thứ 20.
Thiên niên kỷ thứ nhất tính theo dương lịch là từ ngày đầu năm 0001 đến cuối năm
1000; Thiên niên kỷ thứ hai là từ ngày đầu tháng 1 năm 1001
đến ngày cuối của năm 2000. Như thế chúng ta đang ở thế kỷ 21 của
thiên niên kỷ thứ 3.
Cách viết một thập niên: theo cách thông dụng, thập niên tính từ năm có số sau cùng là 0 đến năm
có số sau cùng là 9.
Ví dụ: Thập niên
1960 là từ năm 1960 đến năm 1969.
Nhưng cũng có khuynh hướng lấy
từ năm có số cuối là 1 cho đến năm có số cuối là 0.
Ví dụ: Thập niên thứ
ba của thế kỷ 21 là từ năm 2011 đến hết năm 2020.
Cách viết theo Anh ngữ của
thập niên 60 thế kỷ 20 là 1960s. Chúng ta đang ở đầu thập
niên 2022 hay 2022s.
Đỗ Văn Phúc
Ở trang sau, xin trích ghi
thêm phụ đính về các cấp số, ký hiệu để quý vị tham khảo
Các chữ
đầu (Tiếp đầu ngữ) |
||||
Tiếp đầu ngữ |
Ký hiệu |
Lũy Thừa |
Đơn vị |
|
|
yotta |
Y |
1024 |
Tỷ tỷ tỷ Septillion |
zetta |
Z |
1021 |
Ngàn tỷ tỷ Sextillion |
|
exa |
E |
1018 |
Tỷ tỷ Quintillion |
|
peta |
P |
1015 |
Triệu tỷ Quadrillion |
|
tera |
T |
1012 |
Ngàn tỷ Trillion |
|
giga |
G |
109 |
Tỷ Billion |
|
mega |
M |
106 |
Triệu Million |
|
kilo |
k |
103 |
Ngàn Thousand |
|
hecto |
h |
102 |
Trăm Hundred |
|
deka |
da |
101 |
Mười Ten |
|
Đơn vị |
|
|
100 |
Một One |
Nếu nhỏ hơn đơn vị |
deci |
d |
10-1 |
Phần mười Tenth |
centi |
c |
10-2 |
Phần trăm Hundredth |
|
milli |
m |
10-3 |
Phần ngàn Thousandth |
|
micro |
μ |
10-6 |
Phần triệu Millionth |
|
nano |
n |
10-9 |
Phần tỷ Billionth |
|
pico |
p |
10-12 |
Phần ngàn tỷ Trillionth |
|
femto |
f |
10-15 |
Phần triệu tỷ Quadrillionth |
|
atto |
a |
10-18 |
Phần tỷ tỷ Quintillionth |
|
zepto |
z |
10-21 |
Phần triêu tỷ tỷ Sextillionth |
|
yocto |
y |
10-24 |
Phần tỷ tỷ tỷ Septillionth |
Đăng nhận xét