PHAN LẠC PHÚC THI VĂN TAO ĐÀN NGÀY XƯA
Gia đình hắn vào nam năm 1953, lúc đó chỉ có 5 anh chị
em, đúng ra là 6 mà một người anh chết lúc còn ở Hà Nội, người miền bắc gọi người
con đầu là cả và như thế hắn được gọi là "cậu Sáu"...căn nhà bố mẹ hắn
mua vẫn còn được chú em hắn giữ làm nơi thờ tự... Một thời gian sau đó mỗi buổi
tối bố mẹ hắn hay nghe ngâm thơ của hội thơ Tao Đàn, hắn cũng nằm gần đấy và
cũng nghe, những vần thơ cũng ngấm vào trí óc thơ ngây lúc đó, cũng nghe giới
thiệu nào là Đinh Hùng Quách Đàm, Hoàng Thư, lại còn giọng ngâm nữ là Hồ Điệp,
có cả tiếng sáo của Tô kiều Ngân.
Lớn lên một chút hiểu thêm gốc tích hai chữ Tao Đàn, vốn
là một hội thơ đình đám của vua Lê thánh Tông sáng lập mà ngài là chủ soái cùng
28 thành viên được gọi là
" Tao Đàn nhị thập bát tú" hay vắn tắt là Hội Tao
Đàn. Đây là tập hợp các nhà thơ nổi tiếng ở Thăng Long cuối thế kỷ 15.
Lúc hắn học đệ tam, vào ngày "xá tội vong nhân"
được nghe nữ sĩ Hồ Điệp ngâm bài "văn tế thập loại chúng sinh" của
Nguyễn Du, bà ngâm nghe rợn người, nhưng nghe nói từ đó về sau không được phép
ngâm lại bài này vì làm xao động những người đang bảo vệ quê hương khi
nghe "nhất tướng công thành vạn cốt khô"
.....
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ nên công một người
....
Ông Phan lạc Tiếp với văn phong thật đẹp, chữ nghĩa chải
chuốt đã giúp chúng ta hiểu thêm về những sinh hoạt một thời của những văn nghệ
sĩ di cư vào nam tránh những kiểu văn nghệ chỉ huy của chính quyền vô sản .
Ara
Phan Lạc Phúc
THI VĂN TAO ĐÀN NGÀY XƯA
Đầu năm 1956 tôi từ biệt nghề “chiến binh lội ruộng” về Phòng 5 bộ Tổng
tham mưu làm sĩ quan thông tin báo chí. Lúc bấy giờ tôi chưa có vợ con gì,
khoác cái ba lô lên lưng là có thể đi cùng trời cuối đất...
Về Sài Gòn chưa biết ở đâu, tôi sáp vô ở với bạn cũ Thanh Nam ở ngõ
Nancy (đường Phan Văn Trị). Tôi và Thanh Nam chơi với nhau từ khi tôi từ
ngoài khu về Hà Nội ăn dầm nằm dề trên căn gác phố hàng Bông nhà Nguyễn Thiệu
Giang, tập tọng làm văn nghệ văn gừng dưới sự hướng dẫn của đàn anh Đinh Hùng.
Trong nhóm chúng tôi ngày ấy ngoài Thanh Nam, Nguyễn Thiệu Giang còn có Nguyễn
Minh Lang, Phan Nghị, Huy Quang Vũ Đức Vinh, những người Thanh Nam nhắc đến
trong Bài hành tuổi 40 vài chục năm sau :
... Bạn cũ hãy nương theo rét lạnh
Về đây cùng nhập một cơn say
Chí lớn chia nhau đầy gác nhỏ
Bụi hồng chưa khiến tóc xanh phai
Dăm bảy lòng sông ôm biển cả
Coi đời dưới mắt nhẹ không ai
Cơn mê nhập cuộc sầu chưa bén
Thân thế chưa đau cát bụi này…
Hồ Điệp (*)
Sau hiệp định Genève 1954, nhóm chúng tôi tan tác kẻ đi người ở. Theo anh Đinh
Hùng vào Nam có Vũ Đức Vinh, Phan Nghị và tôi; Thanh Nam đã vào Saì Gòn trước,
1953. Ở lại có Nguyễn Minh Lang, Nguyễn Thiệu Giang. Bấy giờ (1956) tôi
ở với Thanh Nam, gặp lại anh Đinh Hùng và có thêm những người bạn mới.
Ở cùng nhà ngõ Nancy lúc bấy giờ có nhà thơ Thái Thủy (tác giả Lá thư
gửi mẹ), kịch sĩ, kiêm “ngâm” sĩ và vũ sư (múa Trấn thủ lưu
đồn) Hoàng Thư, nhà báo Vũ Quang Ninh, quản đốc đài phát thanh Quân Đội. Một
lũ “xê li bạt” ở với nhau, không có đàn bà, không có trẻ con, ăn uống
tùy tiện, tối đến sải chiếu ra, chăng màn ngủ, mỗi anh một góc, không phiền ai.
Nhà này trước đây còn có văn sĩ Tạ quang Khôi (xước danh Tạ ống
khói) nhưng ít lâu nay ông “Ống khói” tạm biệt nơi này vô Đại học
sư phạm rồi.
Nhà này phải để sàn rộng rãi là nó có lý do của nó. Ông Hoàng Thư thỉnh thoảng
tập múa Trấn thủ lưu đồn nên phải có chỗ cho “vũ sư” tập dượt.
Vũ sư mặc quần đùi, thân thể hom hem nhưng múa rất hăng, vừa múa vừa
hát “Trấn thủ ấy mấy lưu đồn. Ngày thì canh điếm ấy tối dồn là việc quan,
chém tre mà đẵn gỗ trên ngàn…”
Nhà một lũ độc thân nên anh em dễ dàng hội họp, gặp nhau “phùng trường tác
hí”. Sải chiếu ra, ăn nhậu dài dài. Hay đến đây là đàn anh Đinh Hùng có khả
năng đặc biệt vừa nằm vừa viết văn chương Tao Đàn mà chữ nghĩa vẫn rồng bay phượng
múa. Có ông Vũ Khắc Khoan gõ muỗng vào ly mà “Hồ trường, hồ trường, ta biết
rót về đâu”. Có ông Mai Thảo với ông Phạm Đình Chương rượu uống tì tì,
càng uống mặt càng tái đi. Có ông Anh Ngọc say ngất ngư mà vẫn hát “Anh đến
thăm em một chiều mưa”. Có ông Tạ Tỵ ngày Tết chạy sang, sải chiếu ra, rút bất.
Thái Thanh
Văn nghệ sĩ đến đây nhiều như thế nên người ta bảo ngõ này là ngõ “văn nghệ”,
khu này cũng có khá đông anh em ta cư ngụ. Từ chợ Nancy quẹo vô ngõ Phan Văn Trị
là nhà của nhà văn, nhà thơ kiêm “sáo sĩ” Tô Kiều Ngân. Đi thêm dăm
chục bước chân là nhà Thanh Nam. Trước cửa nhà Thanh Nam là nhà Tạ Tỵ họa sĩ,
văn, thi sĩ. Ngay cạnh nhà Thanh Nam là nhà ban Hợp ca Hạc Thành của anh em nhạc
sĩ Nhật Bằng, Nhật Phượng, Thể Tần, Hồng Hảo. Xế bên kia một chút là nhà của ký
gỉa lão thành Thượng Sĩ, nhà phê bình, điểm sách trên tờ Tin Mới của Hà Nội năm
xưa, (nhà văn nữ Sài Gòn cô nương xuất hiện trên làng báo hải ngoại mấy
năm gần đây là con gái anh Thượng Sĩ).
Năm ấy (1956) là thời kỳ cực thịnh của ban Tao Đàn phù hợp với giai
đoạn khởi đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa khi miền Nam Việt Nam vừa có một thể chế
mới, một tương lai mới. Pháp đã rút hết về nước. Trên phương diện truyền thanh,
các đài của Pháp như Pháp Á, Con Nhạn (Hirondelle) nhất loạt đóng cửa ; đài quốc
gia (lúc bấy giờ chưa có TV) cũng như các chương trình phát thanh có
bổn phận phải “lớn lên” cho kịp với tình hình.
Ban Tao Đàn ngoài trách nhiệm đã được minh thị “tiếng nói của thơ, văn miền
Tự Do” còn tiềm ẩn một nghĩa vụ “đem theo văn hóa của một triệu người
miền Bắc vừa định cư ở miền Nam”. Thơ, văn Tao Đàn phần đông là văn hóa Bắc
Hà, là những làn điệu của văn minh sông Hồng, sông Mã giao duyên cùng văn minh
Hương Giang và Cửu Long Giang. Bao nhiêu năm đã trôi qua, bây giờ từ vĩ tuyến
17 trở vào trong, chúng ta có một lối ngâm thơ đã trở thành phổ biến: ngâm thơ
Tao Đàn. Nó xuất hiện thường xuyên trong cải lương miền Nam hay bài chòi miền
Trung. Nó là cái còn lại, là dấu ấn của văn nghệ sĩ đã đưa Tao Đàn vào đời sống
văn hóa.
Người khai sinh và điều khiển chương trình Tao Đàn, như cả nước đều biết là thi
sĩ Đinh Hùng. Năm 1956 tôi ở nhà Thanh Nam, nơi anh Đinh Hùng thường tới viết
bài, các cộng sự thân thiết nhất của anh đều ở quanh đây nên có thể nói nơi đây
là “đại bản doanh” của chương trình Tao Đàn.
Chương trình Tao Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan trọng nhất là
ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm sau có
Huy Quang Vũ Đức Vinh từ Nha Trang vào cộng tác. Bộ phận thứ hai là ban ca ngâm
gồm những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy hứng. Người “đa
năng” nhất trong ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân. Anh vừa là tài tử diễn ngâm,
vừa biên tập, vừa trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô kiều Ngân réo rắt thường được
coi là “indicatif” của Tao Đàn, hợp cùng tiếng đàn thập lục trầm bổng
của Bửu Lộc, tiếng piano trầm ấm trước của Ngọc Bích, sau của Phạm đình Chương.
Về giọng ngâm nam ngoài họ Tô, còn có Hoàng Thư ; một thời giọng ngâm Thanh
Hùng cũng có góp tiếng trên đài. Tô Kiều Ngân tuy giọng không khoẻ nhưng anh là
người ngâm “khéo” nhất, ngâm giọng Bắc, giọng Trung đều nhuyễn. Hoàng
Thư có chất giọng say sưa, mạnh mẽ, được đời nhớ mãi trong Bài ca ngư phủ của
Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng thổ pha kim, xuất sắc trong những tác phẩm
bi hùng. Có những giọng ngâm không có mặt lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời
ghi nhớ như Quách Đàm (*) trong những bài lục bát hay Thiếu Lang
trong Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác.
Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương,
nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột đặc sắc của bà
Đàm Mộng Hoàn, một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ Bà
Hành.
Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong những
bài thơ nức nở TTKH. Về sau, có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những
vần ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử. Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh.
Sang đến thập niên ’60 (thế kỷ trước), sức truyền lan của Tao Đàn có sút
giảm đi. Thi ca miền Nam Tự Do với một thẩm mỹ mới, một thẩm mỹ chênh
vênh (esthétique de choc) đã ngự trị thi đàn. Thơ có vần đang chuyển
sang không vần của thơ Tự Do. Người ta ưa đọc thơ hơn là ngâm thơ. Nhưng đó lại
là một vấn đề khác. Mỗi thời điểm có vấn đề riêng của nó.
Ngày xưa đàn anh Đinh Hùng có nói : “Mỗi một người bạn là một phần đời sống
của mình”. Thoạt đầu, tôi nghĩ là đàn anh “bốc” đàn anh phán vậy
thôi. Nhưng càng già càng thấy đàn anh nói đúng.
Bây giờ nói về thời gian sống ở ngõ Nancy còn lại những ai ? Đinh Hùng, Thanh
Nam, Thượng Sĩ, Hoàng Thư, Phạm Đình Chương, Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Nhật Bằng,
Tạ Tỵ, Phan Nghị… đều bỏ chúng ta mà đi rồi. Người gần nhất “lên đường” là
Huy Quang Vũ Đức Vinh. Khi nghe tin Vũ Đức Vinh ngắc ngoải, hai ông còn lại
ngày xưa hồi ở nhà Thanh Nam là Vũ Quang Ninh và Thái Thủy vội bay sang Seattle
thăm bạn, tới nơi thấy bạn mình đã hôn mê nhưng khi nghe : “Vũ Quang Ninh,
Thái Thủy sang thăm ông đây”, người hấp hối bỗng chảy hai hàng nước mắt. Vũ Đức
Vinh người bạn thường gọi tôi “bạn cũ trên 50 năm” đã từ biệt chúng
ta như thế.
Hồng Vân
Bây giờ còn có người mà kể lại (chuyện Tao Đàn) ; mai đây không biết
còn kể lại với ai ?
Phan Lạc Phúc
(*). Hồ Điệp, Kim Bảng và Quách Đàm là những giọng ngâm kỳ cựu trong
chương trình Cổ nhạc Bắc phần trên đài Phát Thanh Hà Nội trươc 1954...
Đăng nhận xét