TẠP CHÍ DÂN VĂN TẶNG QUÝ ĐỘC GIẢ CUỐN HỒI KÝ NGÀY THÁNG BUỒN THIU CỦA NỮ SĨ NGỌC ÁNH
TẠP CHÍ DÂN VĂN TẶNG QUÝ ĐỘC GIẢ CUỐN HỒI KÝ NGÀY THÁNG BUỒN THIU CỦA NỮ SĨ NGỌC ÁNH
*HỒI KÝ: Ngày Tháng Buồn Hiu
- Ngày Tháng
Buồn Hiu - Phần 1 - Ngọc Ánh –
- Ngày Tháng
Buồn Hiu - Phần 2 - Ngọc Ánh –
- Ngày Tháng
Buồn Hiu - Phần 3 - Ngọc Ánh –
- Ngày Tháng
Buồn Hiu - Phần 4 - Ngọc Ánh –
&
Ngày Tháng Buồn Hiu - Phần 1 - Ngọc Ánh
LTS: Tạp Chí Dân Văn - Xin giới thiệu
đến quý bạn đọc thiên hồi ký bi hùng, thương tâm, đầy nước mắt của một đôi vợ
chồng mang bản án phản động, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng sau ngày
30/4/75.
Tác gỉa là người Sóc Trăng, cùng quê với
người bạn thân nhất trong đời quân ngũ của Chủ Nhiệm TCDV, nguyên Đại Úy BĐQ Huỳnh
Lập Quốc, hiện sống với gia đình tại TP Denver, TB Colorado, USA.
Muốn nhận cuốn Hồi Ký này, liên lạc với
Tạp Chí Dân Văn qua Email: lytrungtin.de@gmail.com
Tác giả người miền Nam nên viết có nhiều
lỗi „hỏi ngã“ đã được TCDV hiệu đính, tô màu đỏ để dễ thấy.
Lời Giới Thiệu
Ngay từ đầu
trang tác giả đã xác định mình, là con gái trong một ‘gia đình cách mạng’ qua
hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ như nhiều gia đình khác tại Miền Nam. Sau
biến cố 75, tác giả lúc ấy là cô gái còn rất trẻ chưa qua tuổi hai mươi, nhưng
thảm trạng xã hội thời bấy giờ đã khiến cô không thể khoanh tay ngồi yên nhìn
đồng bào Miền Nam mình phải chịu bao điều bất công áp bức khốn khổ trong chế độ
Cộng sản, đồng thời cô phải sống trong một gia đình cách mạng. Đáng lẽ ra cô
chấp nhận cái lý lịch trong sạch có nhiều ưu thế để tiến thân như bao người trẻ
khác mưu cầu cho lợi ích cá nhân, thì cô lại thấy mình bị đè nặng bởi sự xung
đột về ý thức hệ, mặt trái của Xã hội chủ nghĩa qua lối hành sử và quan điểm
chính trị khác với những sự thật mà cô đã thấy trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó
tính phản kháng bộc phát khiến cô và gia đình có những khoảng cách không thể
hàn gắn được khi cô tự nhận mình bơi “ngược dòng” trong dòng thác cách mạng
đang tuôn trào và sẽ nhuộm đỏ tuổi trẻ của Cô và bạn bè cô.
Với tinh thần
quốc gia vững chắc, lòng bất khuất trước bạo lực, và nhất là sự can đảm dấn
thân cho lý tưởng tự do, đánh đổi tuổi thanh xuân trong lao tù Cộng sản với mức
án khắc nghiệt nhất trong thời điểm đó, chỉ để đấu tranh dành Tự Do cho đất
nước sớm thoát khỏi ách độc tài áp bức mà Cộng sản đã và đang gieo rắc bao tang
thương cho dân tộc chúng ta.
Tác giả đã
ghi lại một cách trung thực những diễn biến trong bối cảnh xã hội sau ngày Miền
Nam bị cưỡng chiếm trong cuốn “Nhật ký mực tím” và nỗi đoạn trường của người phụ nữ trẻ
trải qua trong những năm tháng lao tù đầy gian nan khốn khổ đã cho thấy lòng
kiên cường và ý chí mạnh mẽ của cô học trò năm xưa dám xả thân vì đại cuộc, khiến chúng ta càng thêm
cảm phục và tự hào khi tin tưởng rằng chế độ Cộng sản chắc chắn sẽ bị tiêu diệt
và Đất nước Việt Nam sẽ có ngày vươn lên hùng mạnh.
Cuốn nhật ký
“Ngày tháng buồn hiu” của tác giả sẽ không còn buồn hiu khi được mọi người đọc
và chia sẻ đến trang cuối cùng như một thông điệp nhắc chúng ta nhớ rằng “Chính
nghĩa luôn thắng bạo tàn”.
Mỹ Quốc,
30/4/2022
Trần Cảnh Xuân
(Cựu Hiệu
Trưởng trường Trung Học Ba Xuyên)
******
NGƯỢC DÒNG
Ba tôi là một
người Cộng Sản, ông đã tham gia cách mạng suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ
chống Pháp chống Mỹ, các chị em tôi lớn lên ở Sàigòn, nằm trong lòng “địch”
nhưng cả nhà đều là những chiến sĩ xung kích trên khắp các mặt trận ở miền Nam
cho đến ngày “giải phóng”. Má thì nuôi dấu cán bộ Việt Cộng, các chị em thì làm
giao liên... Sau 30/4/75, ba và chị tôi được đón về từ nhà tù Côn Đảo như những
người vinh quang nhất trong ngày vui đại thắng, gia đình tôi là một địa chỉ đỏ
của thành phố với nhiều huân chương kháng chiến chống Mỹ được treo đầy tường ...
Còn tôi, tôi đã vào tù với cái tội chống kháng chiến chống Mỹ, sự đời có những
điều trớ trêu và đau lòng trong cảnh nồi da xáo thịt! Câu chuyện kể ra thì dài,
nhưng đại để như lời khai trong tờ lý lịch của ba tôi “...do thời buổi chiến
tranh gia đình ly tán, ba tôi gởi tôi cho cô em nuôi ăn học, nay đất nước hoà
bình, ba tôi mang tôi về xum họp …”
Nếu chiếc lá
chỉ rụng về cội thì có lẽ không có gì để nói, nhưng đằng này tôi lại không
giống như những đứa con trung hiếu của ông, mà lại giống nguỵ (bởi lẽ gia đình
cô tôi trước kia là sĩ quan trong chế độ cũ) như lời phê bình của chị tôi - một
cán bộ tuyên truyền:
“Con Ánh nó
quen thói tiểu tư sản, tại Cô Sáu cưng chiều nó quá nên tính nết nó ngoan cố bướng bỉnh
như vậy.”
Và Ba tôi
cũng nhận xét trong một buổi họp gia đình:
“Tư tưởng còn
lệch lạc, nặng về chủ nghĩa cá nhân, bản thân cần phải tích cực rèn luyện để
phấn đấu tiến bộ v.v và v.v …”
Có lẽ chính
vì vậy mà ba tôi đã cố gắng để cải tạo đứa con ngược dòng của mình bằng hình
thức kiểm điểm, bất cứ một hành động gì sai trái ở gia đình hay trong cơ quan,
nghe phản ảnh lại là ba tôi bắt làm tờ kiểm điểm, kể cả những lúc vô tình hát
vu vơ một khúc “nhạc vàng”…Nên suốt thời gian đầu về đoàn tụ gia đình tôi không
thấy có một ngày vui, chắc cũng không khác gì những binh lính chế độ cũ bị
cưởng bức trong lao tù Cộng sản, ăn cơm bo bo và bị viết miệt mài để nộp cho ba
tôi những bản kiểm điểm dài ngoằng, như luận văn để được tốt nghiệp vào trường
“Cách Mạng”, dĩ nhiên mỗi lần như thế là tôi đã khổ sở đến độ nào!
Chỉ vài tháng
công tác xã hội, sinh hoạt tập thể vớ vẩn, tôi đã được chọn để kết nạp vào Đoàn
Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, điều này lại khiến tôi phản ứng dữ dội, chi
đoàn méc về ba tôi và ông đã nổi giận thực sự, ông hét lên: “Con có biết tại sao
con được vào Đoàn không? nhờ ba - nhờ lý lịch cách mạng của gia đình mình, con
có biết mọi người vẫn mơ uớc được đứng vào hàng ngũ vẻ vang này không, có những
anh bộ đội đi suốt từ Bắc vào Nam để chiến đấu, đã đổ biết bao xương máu mà vẫn
chưa được kết nạp, còn con, tại sao con không thấy được cái vinh quang đó?”
Lúc ấy tôi đã
cố bình tĩnh để nói với ba một câu khẳng khái –“Thưa ba, chính vì con chưa đổ
một giọt mồ hôi nào cho chế độ này, nên con không muốn trở thành người Cộng
Sản!”
Không khí gia
đình như nặng nề hơn kể từ khi có tôi hiện diện. Cái khoảng cách mơ hồ nào đó
giữa tôi và những người thân ngày thêm rộng dần ra, tôi càng chán nản hơn khi
nhìn vào thực trạng xã hội của những năm đầu mới giải phóng, thành phố đầy
những người thất nghiệp, hàng hoá khan hiếm, vật giá đắt đỏ, cuộc sống của từng
gia đình bị đảo lộn bi thảm, tâm lý người dân luôn hoang mang giao động, có
những sự mất mát không thể nào bù đắp được.
Tôi nhớ đoạn
nhật ký của cô em mới 13 tuổi lúc ấy:
“Bây giờ đến
lớp buồn quá, bạn bè đứa nào cũng đòi bỏ học vì nhà nó nghèo, ba nó đi cải tạo,
mẹ nó tần tảo không đủ ăn, mỗi lần vào lớp cô giáo hỏi ai là gia đình cách
mạng, chỉ có mình rụt rè đưa tay lên giữa bao ánh mắt nhìn, tự dưng mình thấy
kỳ kỳ, đâu phải tại mình mà ba nó đi cải tạo đâu, tại giải phóng chớ bộ…”
Không riêng
con bé thấy kỳ kỳ mà cả tôi, cả bạn bè tôi nữa, chúng nó vài đứa cũng có hoàn
cảnh giống như tôi: Ba đi tập kết trở về, gia đình đoàn tụ, tờ khai lý lịch
được mở ra trang mới đầy sáng sủa, đi thi - được cộng thêm điểm, đi làm - chỉ
cần gởi gấm các đồng chí là yên tâm ngay, mọi việc trong nhà ngoài phố đều êm
xuôi thuận lợi. Và cũng không ít những đứa khác lận đận đủ điều bởi cái tội có
người thân là nguỵ. Tờ lý lịch trích ngang như bản cáo trạng giáng xuống hàng
triệu con người những mức án khác nhau tùy theo mức độ tội lỗi của cha, của
chồng, của con em đã từng tham gia trong bộ máy ngụy quân ngụy quyền cũ.
Bạn bè họ
hàng đang thân thiết với nhau, tự dưng cái rào cản lý lịch làm cho mặc cảm mâu
thuẫn, thành kiến thế này thế khác, anh em bà con khác chiến tuyến, bất đồng
quan điểm chính trị cũng lạnh lùng lướt qua nhau vì sợ dính líu phiền phức,
chưa kể những người ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản, lén lút cơm áo gạo tiền để
gởi vô bưng tiếp tế cho cách mạng, khi xong chuyện, cách mạng đánh tư sản te
tua sập tiệm, đang giàu có bỗng chốc thành kẻ khốn cùng, không một bàn tay nào
dám đưa ra giúp đỡ sợ bị vạ lây.
Chủ nghĩa lý
lịch nó khốn nạn thế đó!
Tôi lại nghĩ
đến câu chuyện An Tiêm và những quả dưa đỏ (sự tích của thời còn nhỏ nghe Bà kể
chuyện đời xưa) và bâng khuâng tự hỏi tại sao mình không thể có những vụ mùa
bội thu mà không cần phép lạ, để chủ nghĩa lý lịch không còn cơ hội tồn tại,
không là điều kiện tất yếu để quyết định công hầu khanh tướng cho bọn đương
thời? Thực tế của cái thiên đường Xã hội chủ nghĩa đã làm tôi điên tiết chán
chường, trong nỗi thất vọng phẫn nộ tôi không biết đặt niềm tin vào ai bây giờ
ngoài cách viết nó ra cho đỡ ấm ức, thế là những trang “Nhật Ký Mực Tím” hình thành trong lao tù cách
mạng, cái nhà tù lớn nhất của cả miền Nam từ sau tháng Tư đáng nguyền rủa ấy.
Trong đôi mắt của một cô học trò tỉnh nhỏ như tôi lúc bấy giờ hoàn toàn không
có một thế lực thù địch nào đứng sau lưng để xúi giục manh động, tôi viết ra
tất cả những gì mà tôi biết, tôi thấy khi sống trong chế độ giả trá có quá
nhiều bất công và nghèo khổ này, sự cảm nhận có thể chủ quan nhưng không có
nghĩa là không trung thực khi vẽ nên bức tranh xám xịt phô bày thực trạng tệ
hại của xã hội mà tôi đang từng ngày đối đầu với nó. Tôi đã viết trong nỗi xót
xa bất lực của chính mình.
Cuốn nhật ký
được chuyển ra nước ngoài năm 1979 và được in làm nhiều kỳ trong tạp chí “Việt
Nam Hải Ngoại” tại San Diego, California cùng năm.
Cuối cùng thì
tôi thoát ly cái gia đình cách mạng của mình để trở thành vợ tên phản động. Mọi
việc xảy ra đều có nguyên nhân của nó. Thật ra tôi cũng chẳng có tham vọng gì về chính
trị, chỉ muốn sự công bằng và bình đẳng, đòi hỏi niềm hạnh phúc ấm no thực sự
đến với mọi người. Ngay từ đầu, cái lý tưởng Cộng Sản của Ba tôi đã làm tôi
thất vọng, thực chất nó chỉ là những giáo điều rỗng tuếch gian dối, Cộng sản đã
lạm dụng cái từ lý tưởng để bơm căng bầu nhiệt huyết của chúng tôi khi họ nói
“vận mệnh đất nước đang nằm trong tay các bạn trẻ hôm nay…” nhưng đằng sau đó
là Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý và nhân dân làm chủ.
Ôi! Những ông
chủ tội nghiệp! Họ đang bị phá sản vì một xã hội tồi tệ với những khó khăn
nghèo đói hàng ngày.
Sự lừa bịp
trắng trợn đã làm tôi chán ngấy, và tôi nghĩ đó là mục đích để tôi quyết định
dấn thân khi cùng chồng “Âm mưu lật đổ chính quyền Cộng Sản”. Tổ chức của chúng
tôi bị tan vỡ khi mọi việc chỉ mới bắt đầu và hai vợ chồng đều bị bắt …
Giai đoạn còn
khai cung, tôi gặp một ông cán bộ già đã giảng cho tôi nghe bài học về luân lý
khi ông ví tôi như công chúa Mỵ Châu, đã đem nỏ thần trao cho giặc, để nước
phải mất, nhà phải tan, ngồi sau lưng Triệu Đà, bị Thần Kim Quy chỉ vào mặt
“giặc ngồi sau lưng mi chứ giặc ở đâu...”
Nghịch cảnh
nồi da xáo thịt quả là điều đau xót!
Ngay sau khi
tôi bị bắt, Ba tôi đã nghiêm khắc từ con. Tôi không trách thái độ cứng rắn của
ông bởi vì ông đã hành động đúng với tư cách một người Cộng Sản “Trung với
Đảng, Hiếu với Dân, và chuyên chính với kẻ thù.”
Mặc dù tôi
biết Ba tôi cũng rất thương tôi, ông có cái lý của ông và tôi thì không thể
chọn con đường nào khác …
Tôi muốn có những quả dưa đỏ như An Tiêm!
Những năm tháng ở trong tù, tôi nghĩ nhiều về những câu chuyện đáng buồn đã qua, thấm thía nỗi đau của sự mất mát, chồng tôi bị tử hình và Ba tôi cũng qua đời sau cơn bệnh nặng. Người chết là hết, chẳng còn oán thù hay giận dữ...
Rồi trong một
cõi vô hình nào đó, Ba tôi và anh ấy sẽ gặp nhau, hai người sẽ nói với nhau
điều gì về tôi, liệu ba có nói được câu “Ba rất tiếc!” như một nhân vật trong
“Love Story” khi mọi việc đã muộn màng.
Vâng, thưa Ba
- con cũng rất tiếc, hãy tha lỗi cho con.
Ngày Tháng Buồn Hiu
Định vào nhà
nhưng thoáng thấy bóng tên Công an đứng đầu hẻm, tôi linh tính có gì đó bất
thường, vội rẽ xe hướng khác đạp một mạch ra ngã bảy, quanh quẩn hàng giờ trên
đường mà không biết đi đâu, lòng bồn chồn khó chịu khi nghĩ tới VyDân ở nhà một
mình, chắc thằng bé đang đói sữa, trái tim tôi như nghẹn lại khi nghĩ đến những
bất trắc sắp xảy ra, phải về thôi dù biết sẽ bị bắt với mớ tài liệu và cây AK
dấu trong bếp, (trời dung đất rủi anh mới mang về tối hôm qua, chúng tôi chưa
kịp đem đi). Căn nhà im lặng đến ngột ngạt, giọng Má Sáu khe khẽ “Công an kêu
nó lên phường có chuyện gì đó không biết”, Má không biết nhưng tôi biết, chấp
nhận vào cuộc là đối đầu với rủi ro mà, tôi đưa VyDân cho Má và vội chạy lên
lầu đốt tài liệu, không nhiều lắm nhưng có khói, đang tháo cuộn phim ra thì
nghe tiếng chân chạy rầm rập lên cầu thang, bọn chúng đã tới, tôi đá cuộn phim
vào gầm giường. Thế là hết!
Mọi chuyện có
vẻ như bắt đầu hơn là kết thúc, không hiểu sao tôi lại nghĩ như vậy.
Căn phòng
chật cứng người, Công an phường, quận và cả Công an ngoài Thuận Hải nữa, sao
nhiều vậy ta? Tôi nháy mắt với anh “chỉ hai đứa mình thôi nhé”. Tài ngồi trên
ghế, tay bị trói ra sau, gương mặt anh bình thản lạnh lùng, Vy Dân khóc, tôi
bồng thằng bé dỗ ầu ơ, thấy mình kiên nhẫn hết sức, bọn chúng đọc lệnh bắt và
tiến hành xét nhà, mọi thứ đều bị xới tung lên, tôi bâng quơ ngó về hướng bếp,
tiếng nồi niêu khua leng keng, cái bao nilon bị lôi ra khỏi đống củi, tên Công
an rít lên giận dữ, nó thúc báng súng vào hông anh hầm hừ “mày nói nhà mày
không có súng, thế cái này của ai hả, của ai?”
Sự phẫn nộ
trào dâng khi thấy anh bị hành hung, tôi điên tiết hét lên
“Của tao
đấy”.
Nó quay qua
tát tôi một cái đau điếng “Tao không hỏi mày!” (thằng Nghi, tôi nhớ chính xác
tên nó khi còn làm trong phường), anh đứng bật dậy như một phản ứng bảo vệ, hai
tên khác kéo ghì anh xuống, lúc đó tôi lồng lộn như con thú bị thương “Mày là thằng hèn
khi đánh một phụ nữ như tao, cái tát của mày làm tao trở thành anh hùng đấy
Nghi à!” Có ai đó lên tiếng can ngăn, và kéo nó ra sân, trong cơn giận sôi gan,
tôi nghĩ lúc này mình có thể ăn được thịt người!
12 giờ đêm,
mọi chuyện khám xét tạm xong, tôi quơ vội hộp sữa và mấy gói bột gạo lứt cho Vy
Dân, vài bộ đồ cho anh ... Giã từ căn phòng nhỏ chứa đầy kỷ niệm một
thời của chúng tôi, giã từ Tình Yêu-Hạnh Phúc và cả Lý Tưởng ngập tràn, tôi tự
hào đứng cạnh anh với mớ ngổn ngang “tang vật” để chụp một tấm hình duy nhất
đầu tiên và cũng là cuối cùng, tôi gác tay trên vai anh, mắt nhìn thẳng mặt
bọn Công an thách thức, dù lòng tôi đau nhói khi biết mãi mãi chúng tôi không
còn cơ hội nào khác để sống bên nhau.
Cả nhà lên xe
về phòng tạm giam ở quận 10. Con đường Trần Quốc Toản trong ánh đèn vàng vọt
hiu hắt lúc nửa đêm sao mà hoang vắng quá! Xe quẹo qua một khúc quanh và tôi
nhận ra quán cà phê quen thuộc mà hai đứa đã từng đến đó sau khi nắm tay nhau
đi lang thang khắp phố Sàigòn. Ôi chút kỷ niệm ngọt ngào trong giờ phút bi thảm
này!
Chấp nhận
cuộc chơi mà, chuyện thua thắng cũng bình thường thôi, ít ra trong chuyến xe
cuối cùng này mình cũng còn có nhau, “chúng ta đã đi, đã thấy và đã thắng (dù
chết)” chỉ thương cho thằng bé, nó bị vạ lây vướng vào ngục tù theo ba mẹ vì
không có sự chọn lựa nào khác, nó còn quá bé nhỏ để cảm nhận biến cố đau buồn
này của gia đình, sợi dây dù quái ác xiết chặt tay anh ra sau, tôi đặt đầu
VyDân ngã vào đùi anh, thằng bé ngủ say trong hơi ấm của ba mẹ, chiếc xe lao đi
trong đêm khuya như mũi tên được bắn về phía trước... Cả ba chúng tôi đong đưa
trong số phận kẻ lưu đày.
Ngày ...Tháng…
Cái phòng biệt giam nhỏ như cái nhà xí tanh tưởi bao đời, tôi may mắn (!?) có
con nhỏ nên không bị cùm chân, cái cùm số bốn là nỗi kinh khiếp của tù biệt
giam ở đây, nó chỉ dài 40cm khoảng cách đủ cho cả hai tay hai chân trong tư thế
ngồi bó gối kẹt cứng suốt ngày đêm, hình như anh ở dãy cuối cùng trong khu nhà
này, có lần tôi thoáng thấy bóng anh đi khai cung ngang qua, cái dáng cao gầy liêu
xiêu khiến lòng tôi đau nhói, tôi đu lên ô cửa nhỏ bằng nắm tay và cố hét lên
thật to để anh nghe tiếng, để anh yên tâm rằng tôi luôn ở bên cạnh anh trong
lúc khốn khó này.
Phẫn uất
khiến đôi lúc tôi giống như mụ điên, la hét khóc cười bất thường, lấy cớ ru con
ngủ tôi tha hồ hát um sùm trong khu trại, “Việt nam quê hương ngạo nghễ, Dậy mà
đi, Việt Nam Việt Nam...” những bản nhạc thật thấm thía xúc động trong trái tim
tôi, khiến tôi như phấn khích hơn, lạ lùng là tôi không cảm thấy sợ hãi trong
hoàn cảnh đáng sợ hôm nay. Ờ, mà có gì phải sợ chớ, đằng nào cũng vô tù rồi.
Mắc cười nhất là khi đi chụp hình lăn tay để lưu hồ sơ, tôi bới lại mái tóc dài
của mình và cố giữ vẻ bình thản trước ống kính pháp luật, nhưng khi thấy gương
mặt căng thẳng của tên công an, tự dưng tôi phì cười khiến hắn khó chịu quát
lên “Chị là tội phạm, chị không được quyền cười!”
À thì ra
người ta sợ cả nụ cười của tên “phản động” như tôi, nhưng khổ nỗi nụ cười tắt
ngấm nửa chừng đó khiến tôi trông tươi tỉnh hơn, tôi nghĩ chắc tấm ảnh để đời
này không đến nỗi thảm hại…
Cộng sản kết
tội chúng tôi là Âm mưu lật đổ chính quyền, anh cầm đầu một tổ chức phản động
do hải ngoại yểm trợ tài vật, anh viết cương lĩnh, truyền đơn chống phá Nhà
Nước, thành lập căn cứ trong rừng tụ tập tàn quân có võ trang, mưu đồ kháng
chiến ...
Tất cả việc
làm của anh tôi đều biết rất rõ, nhưng bảo khai báo thành khẩn để được nhà nước
khoan hồng thì tôi không biết gì để khai… Nghe có vẻ ngoan cố nhưng phải chịu
thôi, gần như lần nào cũng bị mấy tên cán bộ đập bàn giận dữ đuổi về trại, tôi
không hiểu là họ kiên nhẫn đối với một nữ tù nhân chính trị bướng bỉnh như tôi để mong có được những
lời khai giá trị, hay là họ đánh giá thấp vị trí tôi trong ban tổ chức, họ gọi
tôi là kẻ chỉ theo đóm ăn tàn, ngu xuẩn dại dột, họ miệt thị gọi tôi như ả
giang hồ để mong khơi gợi tự ái trong tôi mà có lời khai báo trung thực. Có lần
một tên công an còn rất trẻ sau khi lật tới lật lui tờ khai ngắn ngủn của tôi,
hắn trầm ngâm và buột miệng
"Tôi
không hiểu sao một người vừa trẻ, vừa đẹp (!) vừa thông minh như chị lại lấy
thằng cha vừa già vừa cận thị như tên Tài? Hay là chị mơ được làm bà Tổng
Thống?" Quái! Việc này đâu có mắc mớ gì với nhau, tôi thấy hắn ngớ ngẩn
cách gì, tôi nhìn thẳng vào mặt hắn cười khẩy “Bởi vậy bây giờ tôi mới ngồi ở
đây để nghe ông kết tội vợ tên phản động”.
Lần khác có
ông cán bộ già trạc tuổi ba tôi, ông coi qua lý lịch gia đình cách mạng của tôi
mà đay nghiến “Tôi tiếc cho chị quá, mồ cha không khóc mà đi khóc đống gò mối,
chị giống như Công Chúa Mỵ Châu đem nỏ thần cho giặc, để nước mất nhà tan, giết
một người đã bị tội tử hình rồi, còn bọn chị âm mưu giết cả chế độ, nên có bắn
cả trăm lần cũng không đủ”.
Từ dụ dỗ ngọt
ngào đến quát tháo giận dữ, họ vẫn không moi được lời khai quan trọng nào ở
tôi, họ gọi tôi là ả phạm nhân ngoan cố nhất trại. Có một tôi thôi mà sao nhiều
ví von thế. Thật tình tôi không nghĩ là mình có lắm tội đến như vậy, chán ghét
Xã hội chủ nghĩa, chống đối Đảng Cộng sản cai trị độc tài, đàn áp dã man quân
dân miền Nam trong cái gọi là tù cải tạo, đẩy cuộc sống đồng bào vào chỗ đói
khổ cùng cực… Đấu tranh cho Tự do, công bằng, như vậy là có tội ư? Nghĩ cũng
buồn cười những đao to búa lớn mà họ đã và đang gán lên số phận của chúng tôi,
“Những kẻ ngu xuẩn mưu toan bẻ gậy chống trời, theo sự kích động của bọn lưu
vong phản quốc muốn lật đổ chánh quyền cách mạng... v.v”
Ngày...tháng...
Trong thời
điểm năm 1979 chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ thì tình hình giặc ngoài
thù trong như vụ án của chúng tôi được gọi là trọng án. Họ nghĩ chắc còn nhiều
tổ chức phản động khác đã cấu kết với nhau để âm mưu lật đổ cách mạng, khi mà
lòng dân bên ngoài ngày càng oán ghét bất mãn chế độ, cuộc sống khốn khổ với
gạo phát từng cân, vải mua từng mét theo tem phiếu XHCN, đường sữa là nhu yếu
phẩm, thịt cá thì thuộc tiêu chuẩn cấp cao... Dân tình chịu không thấu phải kéo
nhau bỏ nước ra đi bất chấp nguy hiểm, rủi ro trên đường tìm Tự Do, hàng trăm
hàng ngàn người vượt biên, lớp trôi trên sông, lớp chìm dưới biển, lớp sống sót
vật vờ tang thương bị Cộng sản bắt vô tù, hay qua được trại tị nạn thì cũng bầm
dập với hải tặc… Vì ai nên nỗi? Oán hận này biết bao nhiêu mà kể. Là thành phố
vùng biển nên trại lúc nào cũng nghẹt người, cứ nghe tiếng cửa sắt kéo rít lúc
nửa đêm là hoang mang lo lắng, có thể đem người chuyển trại hoặc vừa bắt được
một nhóm nào đó vượt biên, khi thì vài người, có lúc nguyên ghe gần trăm mạng,
dưới ánh đèn vàng vọt của trại giam, bóng họ bước dật dờ như những bóng ma từ
cõi chết hiện ra giữa tiếng trẻ con kêu khóc lao xao trong đêm tối tăm địa ngục.
Thời gian
biệt giam của tôi quả là kinh khủng với thằng bé mới hơn một tuổi như VyDân,
hết bột hết sữa, nó được “tiêu chuẩn cao” là cháo gạo loãng pha nước
muối trong khi cơm tù chúng tôi là mấy lát khoai mì khô mốc với canh rau muống
lỏng bỏng. Tắm rửa giặt giũ đều bị hạn chế tối đa. Khi đi vội vàng nên hai mẹ
con chỉ mang vài bộ đồ, thằng bé quấn mỗi cái khăn lông nên lúc nào cũng ẩm ướt
khai ngấy... Không người thăm nuôi, mọi thứ trở nên thiếu thốn đến cùng cực, có
lẽ VyDân là tù nhân trẻ con duy nhất trong phòng biệt giam lạnh lẽo mùi tử khí
này, hình như mọi người cũng biết có nó nên thỉnh thoảng ai đó đã lén nhét vào
khe cửa mấy tán đường, nhúm thịt chà bông hay vài trái chanh giả bộ làm rớt
ngoài giếng.
Ngày …tháng
Sáng mở cửa
ra kêu đi khai cung, tên cán bộ ngạc nhiên khi thấy tôi quấn khăn trắng trên
đầu “Chị để tang ai thế, chồng chị chưa chết mà”. Tôi nhát gừng “Tang cho
30/4”. Hắn chợt lồng lên giận dữ “Chị đừng có bố láo nhé, đất nước giải phóng
độc lập tự do hạnh phúc thế này mà tang chế gì” “Người ta chết như rạ trong
ngày này mà không để tang à, nếu không có mấy ông vào đây thì làm sao nên nỗi.”
Tôi bỗng nổi điên khi nghĩ đến điều này, tôi nhớ cái nghiến răng của anh chàng
nào đó đứng cạnh tôi trên đường Nguyễn Tri Phương khi nhìn thấy mấy tên đeo
băng đỏ kéo cờ vàng xuống và xé rách ném vào thùng rác trong buổi trưa cuối
tháng 4/75 cay nghiệt đó, tôi nhớ đoàn người lầm lũi dưới mưa để đi khai hoang
vùng đất heo hút đầy muỗi mòng đỉa vắt và những cơn sốt rét chết người. Toàn là phụ nữ trẻ con và
người già yếu bị cưỡng bức lên vùng kinh tế mới, lớp cha anh trai tráng thì vào tù cải tạo hết rồi
còn đâu, bạn bè người thân hàng xóm lén lút vượt biên, ngày nào cũng có ghe đi
và tháng nào cũng nghe tin buồn mất mát. Người ta sợ sống chung với Cộng sản
còn hơn sợ cái chết ngoài biển khơi, một thứ sa tăng quỷ dữ hiện hình trong
thời kỳ mạt vận của đất nước... Càng nghĩ càng căm gan, có lẽ hắn nhìn thấy ánh
mắt trừng trừng đầy phẫn nộ của tôi trong ngày quốc hận, biết chẳng hỏi cung
được gì nên hắn vẫy tay cho tôi về lại phòng giam.
Ngày...
tháng...
Trong tù vẫn
có những tay gọi là “ăng ten” được tụi Công an gài vào phòng giam để lân la làm
quen thân tình với một số tù nhân chính trị và tìm cách hỏi dò thêm tin tức vụ
án, hầu mong có dịp lập công về sớm. Tôi cũng không ngoại lệ trong trường hợp
này, có cô nàng nào đó chắc cũng trạc tuổi tôi bị tống vào biệt giam 2 tuần, cô
ta nhanh chóng gây cảm tình khi khai ra ở cùng quê với tôi, nay bị bắt về tội
vượt biên… Lúc đầu tôi ngờ ngợ về sự trùng hợp ngẫu nhiên này, quê tôi xa lắc
sao mà cô ta biết được, nhưng khi ra giếng giặt đồ, có anh chàng nào đó giả bộ
làm bay cái nón sát hàng rào chỗ tôi ngồi, anh chạy lại nói nhỏ “chị đừng tin
ai nhe, con nhỏ gài vô theo dõi chị đó” xong anh ta lủi mất. Thú thật là tôi
bất ngờ khi biết tin này, có lẽ tôi chưa có “kinh nghiệm” trong tù. Ghê thật!
Bọn chúng không chừa bất cứ thủ đoạn đê hèn nào để mong đạt được mục đích...
Ngày …
tháng...
Cuộc điều tra
kéo dài hơn hai năm, tôi thật sự mệt mỏi khi vài tháng phải di lý chỗ này chỗ
kia để lấy lời khai, nhiều lúc nửa đêm nghe tiếng xích khóa leng keng ngoài
hành lang khiến tôi rùng mình sợ hãi vu vơ, người đàn bà còn quá trẻ trong nơi
tăm tối này thật đáng ngại, mấy “bạn tù”có vẻ tử tế hơn, họ dặn dò tôi những ám
hiệu liên lạc khi cần thiết, dĩ nhiên là không ai thấy mặt ai bao giờ, tôi tả
cho họ nghe hình ảnh của anh Tài, nên mỗi khi anh đi khai cung ngang qua, họ
đều báo cho biết, và lần nào tôi cũng rống to bài “Việt Nam Quê Hương ngạo
nghễ” chắc chắn anh ấy sẽ biết mẹ con tôi đang ở đây, chắc chắn anh hiểu tánh
khí kiên cường của tôi trong cuộc chơi nầy, chúng tôi sẽ không đầu hàng, không
khai ra những người liên quan, họ biết tới đâu thì khai tới đó, mặc dù họ dùng
nhiều cách để ly gián chúng tôi bằng những đòn tâm lý hèn hạ “Anh Tài đã thành
thật khai báo hết rồi, anh ta chỉ lợi dụng chị thôi, anh ta xem chị như một gái
điếm khi cần thiết..” Tôi lạnh lùng trả treo “vậy thì mấy ông thả ngay con điếm
này đi, nó đâu có dính vào tổ chức phản động đâu?”
Trước lúc bị
bắt vài tháng họ cũng đã nghi ngờ theo dõi chúng tôi, cũng giả bộ xét hộ khẩu
và bắt tôi về phường về tội không có giấy tạm trú, sống như vợ chồng với anh mà
không có đăng ký kết hôn v ...v, nhốt hai ngày điều tra không thấy gì mới thả
ra với biên bản ghi tội danh “quan hệ bất chánh” như một gái mãi dâm. Ra về tôi
vừa tức vừa xấu hổ khi bị họ gọi như vậy, may mà lúc đó anh vắng nhà, VyDân thì
đang ở nhà cô Ly em họ của anh ấy. Bị nhốt hai ngày bầu sửa căng cứng đau nhức
mà tôi không dám nhận là mình mới sanh con được ba tháng, sợ bị hỏi cung rắc
rối thêm. Nếu mang tiếng là một con điếm mà làm cho mọi việc của anh thuận tiện
hơn thì tôi cũng chấp nhận. Nhưng không, họ vẫn cho tôi là cánh tay đắc lực của
tổ chức “Lực lượng Việt Nam Tự do”. Có câu hỏi được lập lại hàng trăm lần “Sau
lưng chị là ai?”
Trời ạ, các
người không biết ai sao? Sau lưng tôi là con trai tôi nè, nó cũng bị bắt vô
biệt giam, cũng chịu chung cảnh tù đày. Ôi! tội nghiệp VyDân quá, thằng bé èo
uột với rau cháo qua ngày, suy dinh dưỡng khiến cơ thể nó tong teo. Ngủ trên
nền ciment ẩm thấp lạnh lẽo sợ con bệnh nên tôi luôn ôm nó trên ngực, điều kiện
tắm rửa hạn chế khiến thằng bé mình nổi đầy ghẻ nhọt. “Phi ghẻ bất thành tù”
câu nói mỉa mai này lại đúng với nó, những cơn sốt bất thường đã khiến Vy Dân
héo rũ trên tay tôi, đêm khuya tiếng kêu cấp cứu vang vọng trong trại, tên Công
an cằn nhằn mở cửa ném vài viên hạ sốt.
Ngày … tháng
Hình như họ
bắt được vài người “đồng bọn” của chúng tôi trong Sàigòn, Công an thành phố ra
dẫn độ tôi về Tổng Nha cảnh sát cũ để khai cung, trên đường đi họ không ngớt
nói về chánh sách nhân đạo của Đảng Nhà Nước khi đưa Vy Dân về bịnh viện Nhi
Đồng để chữa bệnh, họ hứa hẹn nếu thành khẩn khai báo tốt thì họ sẽ tha về, tôi
ngồi im mệt mỏi nhìn con đường dài phía trước, “Liệu anh có về Sàigòn cùng em không?”
Chiếc xe hơi
màu đen chạy thẳng vào sân bệnh viện, tôi vội vã ôm thằng bé len lỏi vào trong đám đông
hy vọng có thể trốn thoát được, nhưng tên Công an đã nắm chặt cánh tay tôi đẩy lên
cầu thang, giọng hắn rít khẽ “Chị đừng manh động”. Tôi biết lúc này có gào lên cũng không ai dám giúp
một tù nhân như tôi, mạng sống của thằng bé quan trọng hơn, tôi nghĩ mình phải
thật bình tĩnh, vậy mà khi đặt thằng bé xuống giường, nhìn gương mặt con ngơ
ngáo hoảng sợ, tôi đã nghẹn ngào khi hôn nó “Đừng sợ, mẹ sẽ trở lại với con”.
Quay lưng đi
rồi mà lòng xót xa muốn khóc, có khi nào mẹ con mình mất nhau không? Thương con
quá VyDân ơi! Hai mẹ con mình đều phải can đảm trong giai đoạn này.
Ngày… tháng
Linh cảm cho
em biết là anh cũng đã có mặt ở đây, nhưng không chắc là họ nhốt chung dãy hành
lang này, em nhớ hồi ở trại I, có lần tên cán bộ quên “cảnh giác” mở cửa cho em
ra giếng giặt đồ trong lúc anh đi khai cung ngang qua, trời ơi khỏi nói là em
mừng cỡ nào, em bồng VyDân đưa cao lên cho anh thấy nó, mắt thằng nhỏ sáng lên, em
rưng rưng khi thấy anh gầy nhom xanh mét trong cái áo rộng thùng thình, qua làn
kiếng cận lấp lánh anh nheo mắt như cười với hai mẹ con, dáng anh lúc nào cũng
bình thản ung dung, anh khí phách lắm Tài à, em phải can đảm giống anh mới
được, buồn khổ nhưng nhất định không than van khóc lóc... Em nhớ lúc mới bị bắt
trong chuyến xe từ nhà đến Công an quận, hai đứa mình ngồi cạnh nhau, em bồng
con dựa sát vào vai anh, sự im lặng đã nói biết bao điều... Nên khi thấy anh
sau cả năm trời biệt giam, em không dằn được sự vui mừng, em nhởn nhơ ngoài
giếng để chờ anh khai cung về cho em gặp anh lần nữa, nhưng tên Công an đã đuổi
em vào phòng, em trở chứng ngang ngược nhất định ôm con ngồi lì xuống bậc thềm
“Tôi chờ chồng tôi về, chỉ nhìn thôi mà, sao lại cấm?” hắn quát lên “Ai biết
ánh mắt hai người thông cung nhau điều gì?” Trời đất, họ sợ cả cái nhìn của
những tên phản động sao? Họ có thể trấn áp ngăn cản mọi hành động chống phá
“cách mạng”, nhưng họ không thể ngăn được ý chí trong trái tim chúng ta với
lòng mong muốn mãnh liệt là phải giải tán đảng Cộng sản xảo trá, phải dẹp bỏ
cái CNXH đã làm khổ đồng bào miền Bắc, gây nghèo đói cho dân chúng miền Nam với
chiêu bài giải phóng. Dù chết em vẫn không tin Cộng sản, đó là điều chắc chắn!
Em đang ở
Sàigòn, chỉ cách một bờ tường thôi là con đường quen thuộc cũ mà mình hay đạp
xe ngang, vậy mà bây giờ thấy xa xôi làm sao, lâu rồi không có anh bên cạnh
nhưng em còn có VyDân an ủi vỗ về, bây giờ em thui thủi một mình trong bốn bức
tường mà lòng như lửa đốt, không biết thằng bé ra sao rồi, lạy trời cho nó khỏe
mạnh, nó là hòn máu duy nhất của anh để lại cho em, một kỷ vật vô giá mà em
phải sống để gìn giữ nó.
Vẫn những
buổi khai cung hằn học, những ngọt ngào xảo trá “Chị là gia đình cách mạng, chị
sẽ được khoan hồng nếu chị thành khẩn khai báo tốt, chị còn trẻ quá để làm lại
cuộc đời, tội lỗi tên Tài đã rõ ràng, hắn sẽ đền tội, chị không cần bao che cho
hắn, đây là tờ khai cuối cùng, là cơ hội của chị gặp lại con trai, gia đình
đang chờ chị trở về”.
Không đâu anh
à, em biết đây là đòn ly gián, họ tách VyDân ra khỏi em để làm trái tim em yếu
mềm, để em khai ra những gì em biết về tổ chức, vì chỉ có em mới hiểu hết mọi
việc anh làm, em không tin vào những lời hứa hẹn bâng quơ của họ, mấy năm sống
chung với quỷ em biết quá mà. Còn gia đình ư? Cách đây vài tháng em cũng đã xót
xa khi thấy con đau ốm hoài nên mới bấm bụng viết thư gởi về nhà xin Ba lãnh
thằng bé ra ngoài chữa bệnh, nhưng có ai trả lời em đâu? Em nhớ khi “thoát
ly”quyết chí theo anh “chống kháng chiến chống Mỹ” em đã nhủ lòng như trong Từ
Thứ qui Tào “thà mất lòng Cha đặng bụng chồng”. Thôi thì cũng đành lòng thôi
Tài ạ! em không có sự chọn lựa nào khác trên con đường đi của chúng ta, ai cũng
một lần chết mà, em chẳng ân hận gì khi đánh đổi cuộc đời em để theo đuổi lý
tưởng cùng anh và để nói yêu anh, yêu con cho tới hơi thở mỏi mòn.
Ngày …tháng
Nghe bệnh
viện Nhi Đồng báo cáo thằng bé bệnh nặng có thể không qua khỏi vì quá yếu, tụi
công an Sàigòn hối hả chở tôi vào nhận lại VyDân và chuyển gấp trả về Bình
Thuận. Lần đầu tiên tôi bật khóc khi thấy con, nó nằm ở phòng cô nhi với những
đứa trẻ mồ côi khác. Không thấy ai bên cạnh thằng bé. VyDân thở từng cơn mệt
nhọc, nó không nhận ra tôi trong ánh mắt vô hồn, mặt mũi tèm lem, bọc tã dơ bẩn, tôi
điên tiết chỉ vào mặt tên công an hét lên trong giận dữ “Mấy người giết con tôi
rồi!” Vài người tò mò đứng xem xầm xì “Bả là tù đó, có Công an theo giữ đó”,
tôi ôm thằng bé phóng như bay xuống cầu thang, cứ nghĩ đến con sắp chết là lòng
tôi như lửa cháy, lúc này không còn gì để sợ, tôi cắm đầu chạy mãi ra cổng, hai
tên đứng dưới đường chận tôi lại đẩy vào xe, tôi vùng vẫy gào lên trước đám
đông dân chúng tò mò “Cộng sản mấy người là những tên giết người”…bọn chúng lầm
lì hằn học đóng mạnh cánh cửa lại. Suốt đoạn đường dài tôi chỉ biết khóc và cầu
nguyện, nước mắt rơi mãi trên cánh tay khẳng khiu tím bầm vết kim tiêm của
thằng bé. Trái tim tôi như tan nát khi nhìn VyDân thoi thóp mỏi mòn, lần đầu
tiên tôi biết ân hận về việc mình đã làm, đó là đưa VyDân vào cảnh khốn cùng
này, nhưng tôi không còn lựa chọn nào khác khi phải mang nó vào tù, cô dượng
tôi đã già lại nghèo khổ, gia đình ruột thịt của tôi từ bỏ không nhìn, bà con
xa gần ai cũng ngán ngại khi dính líu tới tên phản động như chúng tôi, có
thương cũng không giúp được gì vì ai cũng thiếu thốn trăm bề trong cuộc sống
chật vật. Hơn hai năm nay nó đã cố gắng hết sức để cùng tôi chịu đựng vòng lao
lý khắc nghiệt này. Mẹ xin lỗi con VyDân à, mẹ thật sự không biết phải làm sao
trong lúc này, mẹ không thể đầu hàng bọn họ, chiến đấu là phải kiên cường, dù
thất bại cũng không được hèn nhát. Hãy cố lên con dế mèn bé nhỏ của Mẹ, từ bây
giờ mẹ hứa sẽ không rời xa con một bước.
Ngày… tháng.
Có lẽ họ cũng
mệt mỏi khi vụ án kéo dài mà không tìm ra manh mối nào khác. Gần ba năm co cụm
trong phòng biệt giam mù mịt, họ kết cung và cho tôi được ra nhà tập thể để chờ
ngày đi tòa. Căn phòng không rộng lắm cho mấy chục tù nhân nữ nằm ngồi chen
chúc như cá mòi, nhưng so ra vẫn đỡ hơn là biệt giam tanh nồng tử khí mà mỗi
lần nghĩ tới đã rùng mình. Vì đây là trại tạm giam nên người ra kẻ vào cũng
nhiều, thôi thì đủ thứ tội, nhưng đông nhất vẫn là vượt biên, vùng biển mà, cứ
đêm nghe cửa sắt kéo rít là biết có thêm tù, tiếng người la khóc lao nhao,
nguyên chiếc ghe chết máy ngay hải phận, lênh đênh đói khát mấy ngày thì gặp
tụi biên phòng kéo vô giao cho trại, may là không có ai bỏ mạng ngoài biển, rủi
là bị tù, người đi theo là đàn bà con nít nhẹ nhất cũng vài tuần, mấy người chủ
ghe tổ chức thì tùy mức độ mà lãnh vài năm cải tạo hay bị ra tòa mút chỉ..
Thê thảm nhất
là có chuyến tàu lớn chở cả trăm người, lớp bị giông bão mất phương
hướng, lớp bị hải tặc cướp bóc mấy đợt tan hoang, gặp tàu Đông Đức chưa kịp
mừng vì tưởng họ cứu, ai dè họ kéo tàu trả về Việt Nam, đoàn người vô trại thê thảm bơ phờ, ngẩn
ngơ như ma ám, mấy em gái bị hải tặc hãm hiếp đêm nào cũng la hét hoảng loạn,
làm xót xa thêm thân phận tù đày.
Nếu không có
Cộng Sản vào cưỡng chiếm miền Nam, không có Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 thì đâu
xảy ra cảnh khổ nạn này. Chế độ khắc nghiệt đã dồn dân chúng đến bước đường
cùng! Các em nhỏ qua cơn biến động kinh hoàng này mãi mãi sẽ không thể quên
được nỗi đớn đau tủi nhục mà các em đã trải qua trong lần vượt biển tìm tự do.
Bắt được người vượt biên là một thành tích tự hào, bọn chúng xỉa xói “Có biết
bao người trên thế giới chỉ mong sáng ngủ dậy được trở thành người Việt Nam,
còn chúng mày thì lại bỏ nước ra đi theo chân bọn đế quốc để sang đó ăn bơ thừa
sữa cặn, làm tay sai cho chúng. Thật nhục nhã!”
Làn sóng vượt
biên ngày càng nhiều, hải tặc lộng hành ngoài biển khơi. Có cả những “dịch vụ”
lừa đảo của nhà nước cho phép đóng tiền đi vượt biên, nhưng khi xuống ghe thì
bị bắt lại vào tù, mất tiền và đôi lúc mất cả mạng khi chúng bắn khơi khơi vào
đám đông trên đường tháo chạy. Thật là một lũ ác độc chưa từng thấy.
Ngày …tháng
Giống như có
phép lạ, VyDân sau những cơn sốt mê man đã dần tỉnh lại trong tay tôi, nhờ
phòng giam đông người, ai cũng xót thằng bé èo uột mà chia xẻ chút thức ăn thăm
nuôi nên con có vẻ đỡ hơn, 3 tuổi rồi mà nó chỉ mới biết lật, chưa biết nói,
cái đầu to mà tay chân tong teo, lưỡi như líu lại, ai đó đã nói với tôi là
thằng bé suy dinh dưởng nên chậm phát triển, thân hình co rút là di chứng của
viêm não, nghe mà đau điếng trong lòng,”Trăm ngàn lần xin lỗi con trai, tại Ba
Mẹ mà con ra nông nỗi này, con sanh không nhằm thời, đất nước đang gặp đại họa
và Ba Mẹ không có sự chọn lựa nào khác, nếu an phận sống đời bình thường thì
không đành lòng, nhưng chấp nhận dấn thân thì phải chịu tù đày gian khổ. Nghiệt
ngã thay!”
Tôi cố gắng
chăm sóc thằng bé tốt hơn trong hoàn cảnh này dù cơn bệnh đã làm nó kiệt sức không
thể lớn nổi, nhưng được cái nó vui với hiện tại, cặp mắt sáng và nụ cười hóm hỉnh,
thêm cặp kiến cận nữa là nó giống y chang anh, mỗi ngày tôi nhìn con mà nguôi
ngoai nỗi buồn hiu quạnh.
“Nhất nhật
tại tù, thiên thu tại ngoại” dù tạm giam một buổi cũng thấy dài lê thê huống hồ
chúng tôi đã sống ở đây ba năm rồi, cơm tù vẫn mấy lát khoai mì cõng vài hột
gạo trắng, tôi vét cho VyDân mỗi bữa được vài muổng cơm chấm với nước mắm Phan
Thiết. Khi có người ra trại hay ai được gia đình thăm nuôi thì thế nào thằng bé
cũng có chút quà. Khi thì chai nước tương nước mắm, lúc hũ thịt chà
bông, lọ mắm ruốc, mấy tán đường... Sự chia sẻ trong cảnh khốn cùng này thật
đáng quý, tôi lại dành dụm một ít, tìm cách lén gởi qua biệt giam cho anh, biết
là không thấm vào đâu nhưng thương anh quá, Tài luôn đáng yêu trong trái tim
tôi, anh là người đàn ông bản lãnh và kiên cường mà tôi tự hào khi được đứng
bên cạnh anh trong cuộc đời này, dù khoảng thời gian hạnh phúc đó thật ngắn
ngủi.
“Mỗi ngày qua
đi trong lao tù sẽ đưa chúng ta đến gần nhau hơn, hãy can đảm lên, rồi con
chúng ta cũng sẽ giống như vậy!” hàng chữ anh viết trong cái ca nhựa được anh
bạn tù kín đáo chuyển qua nhà nữ trong mỗi lần đưa cơm khiến tôi yên tâm biết
rằng anh không bị buồn phiền làm gục ngã ý chí kiên cường.
Ngày… tháng…
Vụ án của
chúng tôi đã kết thúc bằng phiên toà tháng 7/1981 với một số người liên can,
hầu hết đều còn rất trẻ, ngày ra tòa họ không cho tôi mang thằng bé theo, mặc
dù tôi rất muốn VyDân có dịp gặp ba nó một lần sau mấy năm xa vắng, nhưng tên
nữ Công an đã thô bạo dằn thằng bé trên tay tôi mang vào trong trại mặc cho nó
khóc thét lên,“Mấy người sợ gì chứ? Sợ đồng bào thấy thằng nhỏ trơ xương trong
tù rồi biết chế độ đàn áp kẻ phản động ra sao hả?”
Tôi hậm hực
leo lên xe sau cùng, anh em đều nép qua để nhường chỗ cho tôi được ngồi xuống
cạnh Tài, lúc này thì không còn gì phải sợ hãi, tôi trừng trừng nhìn mấy tên
Công an theo gác phiên tòa, số cán bộ còn đông hơn số tù, mọi người đều bị còng
chung với nhau bằng thanh sắt dài dưới chân và còng số 8 trên tay, ai cũng lộ
vẻ mệt mỏi xanh xao. Tháng bảy trời mưa lâm râm, buổi sáng sao mà âm u thế!
Chúng tôi ngồi im lặng bên nhau, lòng rưng rưng xúc động, nhìn mắt anh tôi cảm
nhận được điều đó, nhưng gương mặt anh vẫn bình thản muôn đời, tôi nắm bàn tay
anh mân mê những ngón thuôn gầy như ngày nào, tự dưng một ý nghĩ thoáng qua
khiến tôi hốt hoảng, có khi nào mình mất nhau không? “Anh đã đưa em ra khơi và
nhất định không thể để em trở về một mình, Tài đã hứa với em như vậy mà!”
Chuyến xe
khựng lại và lúc này anh mới nói với tôi bằng giọng trầm ấm dịu dàng như bao
giờ “Hãy can đảm lên, rồi con chúng ta cũng sẽ giống như vậy, cố gắng chăm sóc
cho VyDân, em còn trẻ nên đừng để phí tuổi trẻ của em, nếu không làm một khán
giả vô tư thì cũng nên làm một nhà phê bình sắc bén, anh xin lỗi đã đưa em ra
khơi và bây giờ phải bỏ em trở về một mình.” Anh cúi xuống hôn tôi vội vã, nụ
hôn mong manh như sương khói mơ hồ, tôi dạ ngoan mà nước mắt trào ra tức tưởi
nghẹn ngào.
Mọi người
được tháo còng khi bước vào bên trong tòa án. Đó chỉ là một thị trấn nhỏ xa xôi
hẻo lánh, dân chúng đâu không thấy để nhìn mặt “những kẻ phản động gây tội lỗi
nợ máu với nhân dân”. Chỉ có bọn Công an bảo vệ dầy đặc, căn phòng lành lạnh âm
u của sự ma quái mà mấy tên thẩm phán giống như tụi quỷ dữ dưới âm tì địa ngục
chui lên mặt đằng đằng sát khí trong ánh đèn nhợt nhạt.
Sau khi đọc
bản cáo trạng dài nhằng kết tội chúng tôi, họ gọi tên từng người lên đứng trước
vành móng ngựa để nói lời cuối cùng. Tôi lạ lùng như thể người ta đang nói về
một ai đó, một chuyện gì đó không dính líu gì đến mình, tôi cứ nắm chặt tay anh
như thể buông ra thì anh tan biến đi mất.
Giây phút
nghẹn thở đó rồi cũng đến, khi tên thẩm phán tuyên bố dõng dạc “Trần thắng Tài,
tử hình” chắc anh cũng biết trước mọi việc sẽ như vậy nên gương mặt anh vẫn
thản nhiên đón nhận hung tin, chỉ có bàn tay anh chợt xô nhẹ tay tôi lúc đó như
một thái độ dứt khoát, cố thoát khỏi mọi bịn rịn yếu đuối thường tình, chỉ có
tôi hốt hoảng trong nỗi cảm xúc đau đớn tột cùng là tôi sẽ mất anh mãi mãi từ
đây.
Tôi không bận
tâm là mức án mình bao nhiêu năm, số phận hai mẹ con sẽ như thế nào trong những
ngày tháng tới, tôi chỉ nghĩ đến anh thôi.
“Bị cáo có
một tuần để làm đơn kháng cáo, xin ân giảm!”
Không đời nào
Tài làm đơn, tôi biết chắc như vậy, nhưng tôi không thể ngồi im nhìn anh ấy
chết, Trời ơi! tôi phải làm sao bây giờ để cứu anh ấy. Anh phải sống Tài ơi!
Sống để chúng ta còn có cơ hội làm lại từ đầu. Lúc này tôi ao ước phép lạ xảy
ra cho anh, biết là ảo tưởng mong manh như trẻ con, nhưng tôi thực sự yếu đuối
khi nghĩ đến lúc anh đi về cõi chết và bỏ lại hai mẹ con bơ vơ trên cõi tù đày.
Phiên tòa kết thúc trong lặng lẽ, 7 con người và 7 số phận đã được định đoạt
bởi cái gọi là Tòa án nhân dân mà không có nhân dân nào tham dự, bọn chúng nhân
danh công lý để trả thù một cách hèn hạ những ai chống đối lại chế độ Cộng Sản
độc tài bất lương, đã và đang làm đất nước ngày càng đói nghèo suy sụp, khiến
lòng dân phẫn nộ căm ghét.
Chúng tôi im
lặng đi bên nhau ra xe, tôi lại vói nắm bàn tay anh tha thiết, cái còng sắt
lạnh lẽo nhưng bàn tay anh chợt ấm áp diệu kỳ. Ôi bàn tay anh sẽ rời xa mẹ con
tôi suốt cuộc đời còn lại, chỉ nghĩ thôi là thấy lòng đau đớn vô cùng.
Khi ra khỏi
cửa Tòa án mới thấy dân chúng tụ tập khá đông hai bên đường, chắc có người nhà
của anh em tại địa phương này, họ vẫy tay và ném đầy thức ăn vào khoang xe,
nhưng bọn Công an đã gạt chân đạp hết xuống đất trước khi đóng sập bửng lại.
Trời đổ mưa
trên suốt đoạn đường về trại, chúng tôi lại ngồi bệt xuống sàn xe như lúc đầu.
Trong bóng tối âm thầm buồn thảm, không gian như đọng lại nỗi niềm u uất riêng
tư của từng con người trong giây phút đời nghiệt ngã này. Bây giờ tôi mới bật
khóc tấm tức trên vai anh, cứ nghĩ tới lúc bọn chúng lôi Tài đem đi bắn, trời
ơi kinh khủng biết bao nhiêu, tôi nghĩ mình sẽ không có đủ can đảm để chứng
kiến sự dã man tàn độc đó, dĩ nhiên là bọn chúng không đời nào để cho tôi có cơ
hội tiễn đưa anh lần cuối cùng, lũ vô thần này làm sao biết được thế nào là
nghĩa tử nghĩa tận.
Tự dưng ngay
lúc này tôi mong chiếc xe quay nhiều vòng rồi lật, cho chúng tôi được chết bên
nhau, tôi có ích kỷ không khi để con phải mồ côi? Thương thằng bé quá khi biết
trên đời này nó chỉ còn có tôi thôi. Tội nghiệp Vy Dân phải mất cha khi nó còn
quá nhỏ, chưa biết cảm nhận đau buồn trong nỗi bất hạnh tang tóc của gia đình.
Dù lòng đang
bão tố tơi bời nhưng tôi đã cố ghìm mình không khóc lúc đứng trước toà, khóc là
hèn, van xin là nhục, tôi sẽ giống như anh giữ khí tiết kiêu hãnh của kẻ chiến
bại, tôi nhớ mình đã nói như hét trong lời cuối cùng “Tôi yêu đất nước này như
yêu chồng yêu con tôi, việc tôi làm là sai dưới chế độ của các ông cũng là
chuyện bình thường như bao người yêu nước khác, án phạt như thế nào thì cũng
vậy thôi, tôi chấp nhận nhưng không tâm phục”.
Tôi biết sự
ngoan cố sẽ bị trả giá, nhưng tôi không thể nói khác đi được với bản chất bướng
bỉnh của mình, đằng nào họ cũng đã sắp xếp sẵn bản án rồi, phiên toà chỉ là
cách thể hiện luật pháp của chế độ, trừng trị và đàn áp không nương tay kẻ đối
kháng như chúng tôi thôi, nên có dịp là nói cho hả giận!
Ngày … tháng…
Mỗi ngày qua
đi là nỗi lo sợ không nguôi, đã có bản án thì họ có thể đem bắn không biết lúc
nào, tính mạng của anh được đếm ngược thời gian, trước đây còn biệt giam mong
chờ thấy anh đi khai cung ngang qua để được nhìn anh, bây giờ tôi lại cầu xin
cho anh ở yên trong đó để tin là anh còn sống, dù sống trong khoắc khoải mỏi
mòn.
Trại Nữ ở
cạnh chuồng gà, cứ chiều tối nghe cán bộ quản giáo dặn người giữ kho xuất 2 quả
trứng thì sáng mai thế nào cũng có người bị đưa đi tử hình. Đó là tiêu chuẩn
cao của bữa ăn cuối cùng, gồm một chén cơm trắng, hai quả trứng luộc, chén nước
mắm, ly nước trà và một điếu thuốc Hoa Mai (loại thuốc hàng hiệu của thời Xã
hội chủ nghĩa).
Tôi đã từng
thấy vài người đi ra từ góc trại tử thần đó, người xanh mét, dáng xiêu xiêu
muốn ngã quỵ, có kẻ ốm nhom tay vịn cái quần đứt dây thung, tay cầm cái ca dùng
để đựng cơm, gia tài duy nhất khi có lệnh chuyển trại, chắc họ không biết mình
bị đưa đi đâu, nhưng chúng tôi nhìn riết rồi biết, một tù nhân trong nhà bếp kể
cho chúng tôi nghe khi họ dọn phần cơm đặc biệt này, gần như không ai ăn nổi, có người vừa
ăn vừa khóc, ngoài đời họ giết người cướp của gian ác như thế nào không biết,
nhưng là con người đứng trước cái chết thương tâm của đồng loại, ai mà chẳng
đau lòng, tôi hình dung ra anh và bữa cơm cuối cùng mà rưng rưng nước mắt, “làm
sao cứu sống chồng tôi?”. Tôi tuyệt vọng trong hoàn cảnh này.
Nhưng Tài thì
không, anh vẫn nhởn nhơ làm thơ tặng cho tôi như hồi hai đứa mới yêu nhau, anh
biết tánh cô vợ trẻ hay buồn hay khóc, hay hoang mang lo sợ những chuyện đâu
đâu, (cái án tử mà anh coi như chuyện đâu đâu) ngày Tết anh lén gởi qua tặng
tôi bài thơ con cóc khắc trên cái ca nhựa, do anh chàng tù nào đó thông cảm đưa
tin:
“Ta tập làm
thơ để tặng nàng,
Ý tứ ngô nghê
nghe phát chán
Nhưng cũng
viết càn để em xem
Em xem em
cười em hết buồn
Chỉ cần được
thế là ta vui
Em vui, ta
vui, đời vui khắp
Đời vui như
pháo đón xuân sang!”
Cái đáng yêu
nhất của Tài là anh hay chọc cho tôi cười, quả thật đọc xong bài thơ này tôi đã
cười phá lên như người điên, cười mà nước mắt ràn rụa. Anh làm thơ thể hiện
khẩu khí rất anh hùng, nhưng làm thơ tình thì dở chưa từng thấy, tôi cười để
anh vui mà
thật tình em
không thể hết buồn trong mùa Xuân tang tóc này Tài yêu ơi!
Ngày …tháng
Nửa đêm nghe
tiếng chạy rầm rập, tiếng súng nổ, tiếng la hét náo động phía sau hàng rào kẽm gai khiến cả
trại nhốn nháo, hình như ở khu biệt giam có người trốn trại, tôi thảng thốt lo
âu, vái trời nếu là anh thì cầu xin anh thoát được.... Cả đêm thấp thỏm không
ngủ chỉ mong trời sáng coi vụ việc ra sao. Một chị được ra cổng quét dọn nghe
loáng thoáng tụi nó bàn tán với nhau tối qua có 3 người cưa cùm trốn, chỉ một
người chạy thoát được, còn lại bị bắn trọng thương, lưỡi cưa được nhét trong đồ
thăm nuôi. Tài không có ai thăm nuôi thì chắc không phải là anh ấy, tôi lại thở
phào biết anh bình an. Vậy là từ đấy về sau đồ thăm nuôi xét gắt gao hơn, thức
ăn bị băm dầm nát bấy, chúng nó còn muốn cắt tiếp tế cho biệt giam để tù nhân
đói lả không có sức mà trốn. Thiệt là quân ác nhơn!
Ngày …tháng
...
Sáng sớm họ
gọi tên tôi trong danh sách chuyển trại, cả phòng nữ lao xao giúp tôi thu xếp
hành lý ra đi, nào có gì đâu ngoài mấy bộ đồ cũ, một ít thức ăn khô cho thằng
bé, thêm được cái nồi cái xô móp méo của ai đó nhét vào giỏ lác, tôi nôn nóng
ôm Vy Dân đi thẳng ra cổng nói với tên quản giáo trại giam “Hãy cho chúng tôi
được gặp anh Tài trước khi chuyển trại”- không được đâu - vậy cho người bồng nó
xuống biệt giam để anh ấy thăm con lần cuối cùng - chúng tôi chưa được lịnh của
thủ trưởng về trường hợp này.- nhưng đây là lần cuối cùng mà, sao mấy ông ác
quá vậy!?”
Tôi bỗng trở
chứng ngang tàng “Vậy thì tôi không thể rời khỏi đây được nếu chưa gặp chồng
tôi trước khi anh ấy bị tử hình”.
Một số người
có tên trong danh sách thì khăn gói lên xe chuyển trại, kẻ đi người ở í ới nhắn
gởi nhau, trong khi tôi ôm con cương quyết ngồi lỳ xuống bậc thềm, phải gặp anh
ấy mới được, dầu sao đây cũng là giây phút sinh ly tử biệt mà mẹ con tôi mãi
mãi mất chồng mất cha kể từ lần chia xa này. Đoàn xe nổ máy chờ đợi, có một bác
lớn tuổi ở chung phòng nữ vẫy tay thân tình “thôi lên trại ráng cải tạo rồi sớm
về nuôi con, ở đây tao canh chừng cho, khi nào nó đi tao ghi ngày giờ cho biết
mà giỗ quảy”. Tôi rưng rưng nhìn về góc cuối trại giam. Tài ơi! Em không biết
phải làm sao bây giờ, em tuyệt vọng quá, em chỉ muốn ở lại và chết bên cạnh anh
thôi.
Nước mắt tôi rớt xuống trán Vy Dân, nó thức dậy ngọ nguậy trong lòng tôi, đôi mắt nó to tròn trong sáng của con nai nhỏ ngơ ngác giữa dòng đời ngầu đục, thương con quá, gia đình mình đang trải qua biến cố đau buồn kinh khủng nhất mà con thì quá bé nhỏ để hứng chịu cơn giông bão khắc nghiệt này, thật lòng nếu không có Vy Dân chắc tôi đã ngã gục trong cuộc đời mênh mông, trống vắng này.
Ngọc Ánh
Mời đọc tiếp phần 2
Ngày Tháng Buồn Hiu - Phần 2 - Ngọc Ánh
Xin giới thiệu đến quý bạn đọc thiên hồi
ký bi hùng, thương tâm, đầy nước mắt của một đôi vợ chồng mang bản án phản
động, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng sau ngày 30/4/75.
Hùm thiêng sa cơ
Ta nay thất
thế bị giam cầm
Nghiến răng
ngậm miệng nuốt hờn căm
Một lòng vì
nước vì dân tộc
Sá chi tù
ngục chốn ta nằm
Đêm nghe
tiếng cuốc chiêu hồn nước
Ngày thấy
hoàng hôn phủ núi sông
Miền Nam tan
tác, đau lòng khóc
Án tử chung
thân, gió thoảng lòng…
Bài thơ của
Anh Trần Thắng Tài viết trong tù năm 1980, và anh đã bị Cộng Sản tử hình ngày
14 tháng 6 năm 1982 tại Phan Thiết - Việt Nam
Cảm khái
“Anh hùng tử-
khí hùng nào tử”
Tổ quốc ghi
công anh trong trang sử bi thương
Chúng tôi
tiếc nhớ anh - chưa đi hết đoạn đường
Đã gục ngã
cho Tự do đất nước
Anh Tài ơi,
dũng khí anh khiến chúng tôi vững bước
Chờ ngày mai
ta chiến thắng trở về.
Vì Sao?
Vì sao miếng
cơm ăn bỗng nghẹn
Một nửa còn
đau xót người ơi,
Vì sao bát
canh rau bỗng mặn
Nước mắt nào
thương nhớ không nguôi
Vì sao nụ
cười tươi tắt vội
Nỗi tình nhà,
nỗi hận nước đầy vơi
Vì sao đường
đi không biết mỏi
Khi còn nghe
tiếng khóc của dân tôi!
Ngọc Ánh- biệt giam 1980
Chặng đường đã qua
Mất ngủ, một
triệu chứng suy nhược của cơ thể, một hiện tượng mệt mỏi của tuổi già - Ừ, chắc
có lẽ vậy! khoảng thời gian gần đây người cứ trăn trở thế nào ấy, thức khuya dậy
sớm, công việc vất vả trong cải tạo là chuyện đã đành, nhưng vấn đề vẫn là nỗi
bâng khuâng ray rứt trong cuộc sống nội tâm qua từng ngày, từng tháng
Mười năm
trong tù!
Tôi rùng mình
khi nhìn lại quá khứ, chặng đường đầy nước mắt, mồ hôi, đầy gian nan, khốn khó
mà tôi đã từng bước vượt qua, kiên trì chịu đựng (cũng có lúc mỏi đuối và muốn
buông xuôi).
Cuộc sống loi
nhoi trong một tập thể đầy phức tạp, đủ dạng người, đủ thứ tội lỗi trên đời,
cái tồn tại cặn bã của xã hội đã được người ta ném vào một xó, chất đống như kho phế liệu,
cũng có những cây đinh đã rỉ sét và cũng có những trang giấy chỉ mới ngả màu.
Tôi sống ở
đây hơn 7 năm và những trại giam khác gần 3 năm, đã va chạm hàng loạt người đủ
loại thành phần, có người trở về và vào lại trại đôi ba lần, có kẻ đã chết tiệt
ở đâu đó trong luật ân oán giang hồ, bệnh tật, tai nạn ở xó xỉnh nào không
biết, và cũng có lắm người cố tìm cách ra đi bất chấp mọi hiểm nguy trước bao
la sóng dữ, hoặc là chết giữa biển khơi hay là có cơ may sang tận bên ấy để
thoát khỏi gông cùm của nhà tù Cộng sản, cái nhà tù lớn nhất của cả nước đang
giam hãm người dân trong cuộc sống nhọc nhằn đói kém và đầy dẫy bất công áp
bức.
Đằng nào tôi
cũng là kẻ ở lại, thầm lặng như một chiếc bóng trong bức tường loang lổ của trại
giam, như con chim cô đơn đậu hoài trên cành cây khô sau hàng rào kẽm gai chằng
chịt, để mỗi sáng mỗi chiều kêu lên những tiếng buồn áo não, gợi nhớ trong lòng
kẻ xa nhà nỗi man mác, đìu hiu …
Mười năm
trong tù!
Có hàng trăm
chuyện đã xảy ra, buồn thảm đau thương nhiều hơn nụ cười tươi tỉnh. Tôi đã khóc
suốt trong những năm tháng buồn tênh ở đây, nước mắt cứ chực chờ chảy quanh và
khóc như một thói quen khó cưỡng, có lúc tôi cũng phải ngạc nhiên vì cá tính yếu mềm của mình, nhất là từ
dạo anh ấy mất, bao nhiêu câu chuyện đáng buồn dồn dập xảy ra, VyDân èo uột
bệnh hoạn, đói khổ, túng thiếu, cuộc sống vây quanh với bao điều bực mình, thất
vọng. Và có những giây phút chán chường cùng cực nhất, tôi đã có ý định tự tử
cả hai mẹ con, cái đập chân kêu thét đầy vẻ hoảng sợ của thằng bé đã làm tôi
bật khóc, tội nghiệp! Nó vẫn là thằng bé đáng thương vô tội kia mà, và tôi lại
ôm nó vào lòng dỗ dành, xuýt xoa, cái bàn chân khẳng khiu đã “cầm” khăn lau
nước mắt trên gương mặt bơ phờ của mẹ nó …
Mọi việc xảy
ra như một dấu ấn đậm nét mà tôi không thể nào quên được, tất cả vẫn quay đều
trong trí nhớ tưởng đã cùn mằn theo thời gian xa lắm, nhưng càng hồi tưởng,
càng thấy rõ nét xót xa. Lâu rồi tôi vẫn nhớ câu nói dấm dẳng của mụ cán bộ y tế khi
gọi cấp cứu cho VyDân:
"Mẹ con
bà đó ở lâu quá rồi, tốn biết bao nhiêu là thuốc của nhà nước, cứ bệnh hoài,
khỏi phát luôn.” Cái vẻ ái ngại, chắc lưỡi của gã cán bộ khi nhìn thằng bé đang
thoi thóp “Nó què quặt tật nguyền như vậy, sống chẳng có ích lợi gì chẳng lẽ
chị phải nuôi hoài vậy sao?" những câu nói thật tàn nhẫn mà tôi đã gầm gừ
lên như con thú bị thương lồng lộn điên tiết, ôi thằng khốn, nếu mày cũng có đứa con như vậy thì chắc mày giết
nó ư?
Mười năm
trong tù!
Tôi vẫn còn
nghe được mùi thơm của quả cam bị bể khi được ném vội vàng qua ô cửa sổ biệt
giam, tán đường nhỏ xíu được nhét vào khe cửa, cái áo trẻ con dính đầy mực cũ
mèm của một người tốt bụng nào đó đã gởi cho Vy Dân, những dòng chữ viết bằng
máu (mà tôi đã đâm kim vào ngón tay mình) để thông cung cho anh ấy, những nét
khắc chằng chịt trên cái ca nhựa của anh đưa sang…
Cái giai đoạn
khốn khó cùng cực mà tôi đã thấm thía trải qua, từ mái tóc đen mướt ngang vai
“búi chưa đầy búi” của ngày mới nhập trại, 24 tuổi chưa tròn với gương mặt bình
thản và nụ cười diễu cợt, vô tư trước bản cáo trạng dài ngoằng trong ánh mắt của
một số người thay mặt pháp luật để phán xét hành vi sai phạm “…Trẻ người non
dạ, theo đóm ăn tàn, bị lợi dụng, lôi cuốn vào một trò chơi nguy hiểm, đầy ngu
xuẩn dại dột ..v.v… Nghị án từ 18 đến 20 năm, nhưng xét khoan hồng theo chính
sách, phạt tù 14 năm để có cơ hội ăn năn giác ngộ …”
Không có một
giọt nước mắt nào rơi ra trước vành móng ngựa, tôi lạ lùng như thể người ta
đang gọi một cái tên nào đó xa lắc xa lơ, không dính líu đến mình. Lần gặp mặt
cuối cùng ở toà án, và nụ hôn anh ấy nhẹ như sương khói mong manh.
“…Các bị cáo
phải nộp 20 đồng tiền án phí, riêng bị cáo tử hình thì được miễn …”
Tôi không
hiểu mình nên cười hay nên khóc trong lời tuyên bố như đang đùa ấy, nhưng có
điều đau nhói nhất là sự vĩnh biệt, hai đứa đã xa nhau từ đó …
Lên xe chuyển
trại, đoạn đường nghiêng ngả với đám bụi đỏ cuốn mù đằng sau, hành trang nặng nề là đứa trẻ èo uột trên
tay, kỷ vật duy nhất còn sót lại trong tình yêu tuyệt vời của hai đứa, tôi chỉ
biết thở dài đau đớn, xót xa ...
Dãy núi sừng
sững chắn ngang tầm mắt, rừng rậm còn đầy vẻ hoang vu, bò cạp, rắn rết, đỉa
vắt, tôi ngại ngùng với từng con vật hèn mọn trong mỗi bước chân đi ... Cuộc
sống ở trại cải tạo còn đầy bỡ ngỡ, một tập thể đông đảo phức tạp, đấm đá la hét, chửi rủa thô lỗ tục
tằn. Sự tù túng bó buộc khiến người ta dễ nỗi điên bởi những điều vặt vãnh trong cuộc
sống va chạm hàng ngày, tôi cố thu mình như con ốc nhỏ để được yên thân, trong
trại nữ này, tù chính trị không có ai ngoài mẹ con tôi, còn lại là tội tham ô,
móc ngoặc, ăn cắp buôn lậu, trộm cướp giết người và dĩ nhiên tôi cũng đã va
chạm với lắm điều nhỏ nhen, ganh tỵ, cái thành kiến “ma mới ma cũ” hẹp hòi so
đo, nỗi mặc cảm tội lỗi, nghi kỵ, rình mò chụp mũ, để chực chờ báo cáo lập công. Tôi vẫn
nhớ vẻ hậm hực của ả toán trưởng có bộ mặt hung hăng như quỷ sứ “…làm trực sinh
phải biết gánh nước, đừng quen thói tiểu tư sản, bóc lột công sức người khác
gánh dùm.”
Cái nguýt dài
chua ngoa của con thư ký “vô cải tạo mà cứ ru rú ôm con, ngồi mát ăn bát vàng,
còn lâu mới được giảm án.” Tủi nhục cay đắng, tôi chỉ biết khóc thầm, thấy
thương thân phận hai mẹ con côi cút.
Trong đám
đông hỗn loạn, thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp những ánh mắt thông cảm, những nụ
cười làm quen, những câu nói an ủi, những giúp đỡ nhiệt tình.
Chịu đựng cái
khí hậu khắc nghiệt của vùng rừng núi heo hút ngày nắng cháy da, đêm sương lạnh
buốt, tôi cứ ám ảnh những cơn sốt rét chết người, xa chợ, xa bệnh viện, lỡ
thằng bé có bề gì.
Cũng may, hai
mẹ con đều khoẻ, VyDân ít bệnh vặt hơn trước, thằng bé càng tươi tỉnh bao nhiêu
thì tôi càng héo mòn bấy nhiêu, tôi phải bỏ hàng buổi trưa để tập đặt gánh nước
trên vai, đi vòng quanh nhà cho chai dần đôi vai yếu ớt, cái công việc nhẹ
nhàng nhứt của trại cải tạo là làm trực sinh, dọn dẹp nhà cửa, quán xuyến việc
nhà …Đối với tôi lúc ấy sao mà gian nan thế không biết, dâu trăm họ thì lắm
chuyện lôi thôi, bù vào đó tôi được ở cạnh chăm sóc thằng bé, loay hoay mất cả
ngày, ăn muộn, ngủ muộn, tắm giặt muộn.
Thỉnh thoảng
Ba Má Sáu cũng lần mò đường xa lên thăm, tuổi già lụm cụm, ông bà phải chạy ăn
từng bữa vất vả nhưng cũng ráng dành dụm tiền để mua cho con chút quà vặt, lọ
mắm ruốc, bịch muối ớt, cái mền cũ cho thằng nhỏ…. Lần nào ba má về nước mắt
cũng rưng rưng “Không biết lần sau có còn khỏe để lên thăm, biết ba má có còn
sống để đợi con mãn án trở về...” Và lần nào tôi cũng khóc vì thương Ba Má, nuôi
con lớn khôn, con chưa một ngày đền đáp công ơn dưỡng dục trời biển mà bây giờ
lại làm ba má bận tâm lo lắng, tôi thấy lòng ray rứt không yên, thấy mình thêm
nặng nề tội lỗi.
Buồn phiền
trĩu nặng làm tôi trở nên cằn cỗi, khô khan. Tôi chẳng còn thời gian nào rảnh
rỗi để nghĩ đến điều gì khác hơn nữa, ngoài công việc bận rộn hàng ngày.
"Phấn
đấu”, cái từ như thôi thúc trong đầu, tôi chẳng biết phải làm thế nào để vừa
lòng mọi người. Chăm sóc Vy Dân là cả một điều vất vả, bỏ thằng bé ở nhà, đi
làm theo tập thể, sáng không kịp cho con ăn, trưa về muộn, thằng bé đói rã
ruột, đành cố gắng vậy, để mẹ phấn đấu mau về, mọi khó khăn hai mẹ con đều phải
khắc phục, dỗ dành mãi thằng bé mới chịu ở nhà. Vy Dân rất thông minh và hóm
hỉnh, nó nghe và hiểu tất cả, có điều nó không nói được, nó trở thành kẻ tật
nguyền từ sau cơn bệnh viêm não lạ lùng ở trại tạm giam, chân tay lỏng khỏng,
không ngồi được, không nhai được, không cầm nắm được, chỉ có nằm ngửa suốt ngày
với hai chân ngo ngoe mạnh mẽ để ra dấu thay cho ngôn ngữ bằng cái đập chân, chân đưa lên cao là “có”
chân hạ xuống thấp là “không”, mọi người cứ đặt câu hỏi và nó sẽ trả lời thành
thạo, nhưng tôi biết trái tim nó tràn đầy cảm xúc mà chỉ có Mẹ mới cảm nhận ra.
Trong trại tù
không ai được mang con vào ngoài thằng nhóc bụng ỏng đít teo chừng 4-5 tuổi con
của mụ y tá ngày nào cũng lang thang theo má nó lùng sục phá phách,
có lần nó đã véo VyDân đau điếng vì nghịch, nhưng bị thằng bé đá vào mặt một
cái nên thân, khiến nó khóc ỏm tỏi, lần đó hai bà mẹ bênh con cãi một trận um
sùm. Không ai sợ mụ y tá dốt nát này vì mụ chỉ phát “xuyên tâm liên” cho đủ thứ
bịnh, nhưng nhờ vậy mà từ đó về sau thằng nhóc không còn léng phéng xuống khu
nhà nữ nữa.
Tôi nhớ có
lần VyDân gặp đứa con gái đầu tiên trong cuộc đời khi nó lên 6 tuổi, con bé
được ưu tiên vào tận khu nhà nữ thăm mẹ vì mẹ nó là cán bộ nhà nước mang tội
tham ô gần mãn hạn tù. Con mắt thằng bé tròn xoe kinh ngạc nhìn mãi nhìn mãi,
chưa bao giờ nó thấy một bóng hồng nào xinh xắn đến như vậy, nhưng khi con bé
đưa cho nó cục kẹo, Vy Dân đã không thể cầm được, cánh tay nó co rút bất lực
khiến con bé kêu lên “Mẹ ơi tay anh ấy bị sao vậy?” Tội nghiệp con trai tôi, nó
rươm rướm nước mắt quay đi, lần đầu tiên nó biết mặc cảm vì sự khác thường của
kẻ khuyết tật.
Có lần ngày
Tết trại mổ trâu cho tù nhân được “bồi dưởng” chút thịt tươi, con trâu được
trói vào cột chuẩn bị để giết thịt, nó đã vùng lên bứt dây chạy hoảng loạn
trong trại, mọi người vây bắt con vật khốn khổ, nó lũi vào khu vực nhà nữ,
chúng tôi đóng cửa lại cho an toàn, hai mẹ con ngồi trong cửa sổ nhìn ra, con
vật đi loanh quoanh trong mấy luống rau sau hè, nhưng lạ một điều là nó không
hề làm dập một cọng cỏ... Tên trưởng trại mang súng tới để bắn, tôi vội che mặt
Vy Dân lại để nó không thấy những điều kinh khiếp... Tiếng nổ khô khốc khiến
tôi thảng thốt nhớ tới anh ấy. Bọn chúng bắn vào người anh cũng giống như bắn
con vật này, mọi sự tàn sát đều dã man, ghê rợn.
Tim tôi như
nhói đau khi chứng kiến con vật đổ gục xuống.
Tết năm đó
hai mẹ con từ chối phần thịt “bồi dưỡng”. Thằng bé nhất định không ăn dù ai
cũng nài ép. Thương biết bao con trai tôi có một trái tim nhạy cảm và dễ xúc
động!
Mười năm
trong tù!
Lần đầu, cầm
cây cuốc trên tay sao thấy nặng lạ lùng, lần đầu con đường đi xuống bãi làm
chợt xa tắp, lần đầu bước chân vào đám cỏ rậm thấy rờn rợn ghê ghê, lần đầu cắm
giây khoai chôn ngọn xuống đất, lần đầu nhổ cỏ lúa lẫn lộn lu bù, lần đầu cấy
lối mạ nghiêng ngả rối tung, bổ nhát cuốc không đứt nỗi gốc tranh bụi cỏ.
Ôi! Lần đầu
với hàng đống công việc nhà nông mà người phụ nữ gốc thành phố như tôi chưa bao
giờ trải qua kinh nghiệm, nếu không lọt vô hoàn cảnh tù tội này để bắt buộc phải
“hoàn thành chỉ tiêu năng xuất”. Cái vóc dáng nhỏ nhoi khoảng chừng 36kg yếu ớt
gầy nhom như tôi đã không gánh đủ 25 đôi nước từ bờ sông về trại, trên đoạn
đường dài hàng cây số trong trưa nắng chang chang trên cát nóng bỏng chân, đã
không đội nổi ba thùng lúa đầy leo lên bậc tam cấp để nhập kho, lúc nào cũng văng vẳng bên tai cái
từ “phấn đấu cải tạo”, về tới nhà ê ẩm mỏi đuối, bồng thằng bé nặng chình chịch
như bao lúa trăm cân để hai mẹ con ngã sóng soài trên tấm ván giường thở dốc.
Ôi! Sao mà
vất vả quá, liệu mình có đủ sức chịu đựng khi án tù còn thăm thẳm phía trước.
Mười năm
trong tù!
Tôi nhìn từng
khuôn mặt thân quen, đã sống ở đây và đã ra về - họ là những tên cướp lừng danh
đã từng giết người cướp của, những tên trộm chuyên nghiệp moi móc đồ người,
những kẻ lừa đảo với đầy đủ mánh khoé gian manh. Họ là những thành phần đâm cha
chém chú, quậy phá giang hồ, họ là những cô gái đi hoang từ năm mười mấy tuổi,
sống lang thang ở công viên góc chợ, tụ tập những băng nhóm du đãng, bụi đời.
Họ cũng có những người đàng hoàng - có vị trí đứng đắn ăn trên ngồi trước trong
xã hội, vì tham ô thoái hoá, phản đảng lừa dân để sa cơ lỡ bước vào đây, ân hận
nuối tiếc cho một thuở huy hoàng, họ là những người không chấp nhận gông cùm
đàn áp trong chế độ Cộng sản, không chịu được cuộc sống đói nghèo ở quê hương
mình, nên kéo nhau bỏ nước ra đi, nhưng vượt biển bất thành vì không thuận buồm
xuôi gió, và họ cũng có cả những người như tôi, mưu toan bẻ gậy chống trời,
châu chấu đá voi.
Dưới ánh nắng
chói chan của sân trại trong giờ tập họp điểm danh, mọi tội lỗi đều được phơi bày,
có thể bọn họ xem chúng tôi là tù nhân bị “mất quyền công dân” và mất luôn quyền
con người với lòng tự trọng tối thiểu. Họ đọc ra rả tên và tội danh từng người
như một điều sỉ nhục, Nguyễn văn A cướp 7 năm, Lê thị B ăn cắp 3 năm, Trần văn
C giết người 15 năm. Bị “điểm danh” riết rồi quen nên đám tù nhân đều trơ mặt
xem là chuyện bình thường, dĩ nhiên tội danh của tôi không có gì phải xấu hổ
trước đám đông, nhưng người nào mà bị tội hiếp dâm thì họ ngượng ngùng cúi mặt
khi nghe gọi tên, mặc cảm tội lỗi này khó mà xóa được nếu ai đó còn chút lòng
tự trọng.
Cuộc sống
phức tạp bước đầu có làm tôi khó chịu, nhưng lâu dần rồi cũng quen đi, tôi thấy
hòa đồng và dễ dàng thông cảm hơn, dù sao thì cũng là tình đồng phạm, có những
cái bộc trực đáng tha thứ, sự đánh đồng chung chạ giống như một cái thùng đựng
đủ thứ hầm bà lằng phế thải, bị xóc lên xa cạ để rồi an ủi nhau “chúng ta sống
chung một môi trường tù tội, đều là những kẻ xấu xa tệ hại rác rưởi của xã hội,
cứ chấp nhận vậy đi!”
Những manh áo
rách, những chén cơm lưng, những cơn mưa nắng nhọc nhằn, họ gào thét cấu xé
nhau, nhưng sau đó họ lại ôm nhau cười đùa ầm ĩ, chia sẻ cho nhau bằng tất cả chân tình
đùm bọc. Tôi thương họ nhiều hơn là phiền trách, những câu chuyện tâm tình vụn
vặt. Họ kể về thân phận của mình, về quá khứ tội lỗi, về tất cả những chua xót
bầm dập trong cuộc sống đã qua, tôi cố nghe và hình dung như một bức tranh sinh
động của một tác giả đang say mèm, nét chấm phá tranh tối tranh sáng, nửa xám
nửa nâu, cái màu nhợt nhạt buồn hiu, họ đổ thừa cho hoàn cảnh cho xã hội, hay
chính sự yếu hèn ích kỷ của họ, đã tạo nên những hậu quả bi thương.
Có lúc tôi
cũng chịu khó tò mò tìm hiểu nguyên nhân đã dẫn họ vào tù ra khám, mà không cảm
thấy hối hận ray rứt cho việc làm quá đáng của mình, tiền án tiền sự dẫy đầy,
thành kiến địa phương, cuộc sống túng cùng trong xã hội còn lắm rối ren phức
tạp, gia đình không hẳn là nền tảng vững chắc để họ có thể ẩn nấp dung thân,
những người thương yêu thì buông xuôi bất lực, họ như rong rêu trôi dạt giữa
dòng đời hất hủi, đánh mất niềm tin, không tự chủ để dừng lại giới hạn giữa cái
đúng sai phải quấy và cứ thế lao đầu vào sa ngã, tội lỗi chất chồng - trại giam
như một chỗ dừng chân. Họ ngoan ngoãn khép mình cho qua ngày đoạn tháng, cải
tạo chỉ là danh từ chứ không phải là động từ. Cuộc sống đáng sợ nhất là không
có niềm tin, không có hy vọng. Họ chẳng biết bấu víu vào cái gì nữa, hoài bão,
lý tưởng thì mơ hồ quá. Cuối cùng họ chẳng muốn cứu lấy mình nữa, họ đã-chết-
không- nhắm- mắt, hủy hoại cuộc đời trong bốn bức tường trại giam…. Và từ những
suy nghĩ đó tôi đã có mơ ước thật tốt đẹp, khi nào được trở về, được có cơ hội
làm ra nhiều tiền, lập cơ sở đồn điền nhà máy sản xuất chẳng hạn, kéo họ về làm
công nhân, giúp họ có nghề nghiệp xứng đáng, ổn định đời sống để họ nguôi
ngoai, để họ tìm lại niềm tin đã bị mất mát vùi dập.
Cái ước mơ dễ
thương như ngày xưa còn là cô học trò nhỏ ngây thơ giữa mộng và thực, để mong
xã hội tốt đẹp hơn, có những con người biết sống tử tế hơn, chẳng biết về sau,
có bao giờ tôi sẽ buồn cười về tính bốc đồng này không? Bởi vì cuộc đời vốn
không như là mơ kia mà, còn Cộng sản là còn những thực tế phũ phàng, còn
những gian trá lọc lừa do quái thai Xã hội chủ nghĩa tạo ra và cửa nhà tù lại
mở để nhốt sự bất lực của chính họ.
Mười năm
trong tù!
“… nhìn lại
mình đời đã xanh rêu.” tôi chợt xót xa khi nhận ra điều đó, cả một thời tuổi
trẻ phí phạm, lãng quên. Tôi chẳng tiếc rẻ gì, nếu sự đánh đổi đó là một điều
hợp lý, có thiệt thòi chăng là sự nằm xuống của anh ấy, nỗi mất mát đau thương
mà riêng tôi phải chịu đựng, can đảm và chấp nhận.
"Em chợt
lẻ loi trong sự bất hạnh, mọi người vẫn cho là em dũng cảm, và ngay cả em cũng
ngạo mạn trong sự cứng rắn của chính mình, nhưng thật ra trong tận cùng của tâm
hồn, em vẫn có những nỗi yếu đuối thật đàn bà, em vẫn có một trái tim lãng mạn
và cuộc sống nội tâm sùng sục những bão ngầm.”
Tôi đã thú
thật với anh ấy bằng những trang nhật ký đầy nước mắt. Mấy năm rồi, không phải
không có những xao động trong cuộc sống đầy phức tạp ở đây, thân phận của một
người đàn bà còn trẻ (quá trẻ trong cái nghĩa thiệt thòi của nó) chồng chết,
con tật nguyền, hàng trăm nỗi khổ đau dồn dập, tôi đã cố gắng để khắc phục
những khó khăn, cố gắng để nguôi ngoai quên lãng. Quá khứ thật đáng buồn! Tôi
giả vờ bình thản, dửng dưng trước mọi lời tán tỉnh, thỉnh thoảng nhận được những lá thư làm quen,
an ủi, khuyên nhủ, tỏ tình, đủ thứ đủ dạng, đọc rồi buồn buồn, cười cười lại
đốt đi …
Có lúc nghe
những lời thiết tha mật ngọt của các anh chàng cô đơn, họ động viên thông cảm,
họ hứa hẹn vỗ về, họ chân tình thật sự hay chỉ thương hại vu vơ, đằng nào thì
tôi cũng lo sợ, hoài nghi, qua một lần đổ vỡ tôi thật sự mệt mỏi, như con chim bị
tên, thấy cành cong cũng lo âu, hốt hoảng. Quá khứ là kinh nghiệm, tôi thờ ơ
khi nghĩ đến chuyện tình cảm yêu thương, mọi rung động xúc cảm trong tôi có
lúc tưởng như bị xơ cứng, lạnh lùng, dù lòng lúc nào cũng mơ ước mộng bình
thường như bao người phụ nữ khác được yên ấm trong vòng tay yêu thương của một
gia đình hạnh phúc.
Ngày về – tìm
một căn nhà nhỏ ở ngoại ô, bên mảnh vườn con, có dòng sông, có con đò, có hoa
có nhạc, có sách có thơ … có dăm ba bạn bè rù rì tâm sự, chủ yếu là thoải mái
tâm hồn, nhưng liệu có thật sự tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống bình dị đơn
sơ đó không, hay dòng đời cứ mãi nổi trôi, vùi dập?
“Hạnh phúc
đâu chỉ có cơm ngon và áo đẹp, mùa xuân đâu chỉ có hoa thơm và nắng hồng, cuộc
đời còn có những nụ hôn” bản nhạc tình duy nhất thời nay mà tôi nghe được trong
tù qua cái radio cũ kỹ của tên cán bộ đem ra đồng ngồi canh chúng tôi lao động, bản nhạc nghe qua
đã thấy nao lòng, Ừ! cuộc đời còn có những cái gì hơn thế nữa kia mà, trái tim
tôi đâu hẳn là đã hóa thạch, không còn biết khao khát khi nhắc đến chuyện tình
yêu?
Trong giọt
nước mắt vẫn có thấp thoáng nụ cười, và trong nỗi đau thương vẫn có những phút
giây xôn xao tươi tỉnh, tôi đã có lúc phải cúi mặt đỏ bừng, bối rối trước ánh
mắt tha thiết của gã đàn ông xa lạ, tôi đã có lúc phải dấu đi nỗi rung động êm
ái khi vô tình nghe được câu nói ngọt ngào từ bờ môi của kẻ đang yêu. Tôi đã có
lúc phải ngẩn ngơ như thời mới lớn trước những bông cúc vàng cắm lặng lẽ trên
cửa sổ đêm Noel của ai đó, quà tặng dịu dàng thay cho lời tỏ tình tế nhị hay
sao? Tôi đã có lúc thấy lòng mềm ấm trước những xoa dịu chân thành của bạn bè
cùng cảnh ngộ:
"Hãy cố
gắng và đừng bao giờ bị đồng hóa.
“Ở người đàn
bà có 3 niềm hạnh phúc, được bên chồng, bên con và cuộc sống gia đình êm ấm,
còn chị - cùng một lúc đã mất tất cả 3 điều đó …Chị là tấm gương can đảm mà anh
em phải khâm phục quý mến, mức án dài và tấm lòng bền bỉ, cứ so sánh
đến sự chịu đựng và hoàn cảnh của chị là chúng tôi thấy mình cần phải cố gắng
thêm lên …
“Hãy lấy sự
khôn ngoan ra xử thế, chứ đừng để tính đàn bà chế ngự.”
Và trong mỗi
lúc yếu lòng, chùn bước, tôi lại nghĩ đến những lời khuyên như vành đai cố thủ,
cái thành trì vững chắc của tâm hồn, để ngăn tôi không chao đảo lung lay,
tôi nghĩ người ta chỉ thương hại mình thì đúng hơn (mà tôi thì không cần thiết
những điều đó) đàn ông họ vẫn thích làm Từ Hải, trước nàng Kiều gian nan, thế
thôi!
Kiều có 15
năm lưu lạc, còn tôi - mức án cũng gần bằng như thế, liệu có Từ Hải nào thật
lòng mang lại yêu thương cho tôi, sẵn sàng bao dung che chở mọi sóng gió muộn
phiền trong cuộc đời góa phụ bơ vơ! Suốt những năm tháng trong tù cô đơn hiu
quạnh, thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ về tương lai với bao điều ao ước vu vơ như
thời còn trẻ, có một gia đình nhỏ ấm cúng hạnh phúc
Thật tình cho
mãi đến bây giờ - tôi vẫn còn yêu anh ấy thiết tha - tôi không muốn anh ấy phải
thất vọng vì sự lầm lẫn của tôi, trong việc bước thêm bước nữa, VyDân là thằng
bé tật nguyền, bất hạnh nên lòng ích kỷ của nó cũng vô cùng. Nó mất cha khi mới
5 tuổi và nó cần mẹ hơn bất cứ một điều gì, sự cao quí thiêng liêng nhất trên
đời, nó không cho mẹ lấy chồng, mặc dù nó rất thích có em bé để cùng chơi với
nó.
Ôi! Con dế
mèn bé bỏng tội nghiệp! Tôi đã hứa cho nó yên lòng vì tôi không muốn nó phải
buồn tủi trong sự mất mát thiệt thòi bởi mồ côi cha quá sớm nhưng dù thế nào
thì tôi vẫn biết, muôn đời anh ấy mãi là người chồng rộng lượng và mong muốn
cho tôi được hạnh phúc trong bình yên, cũng như VyDân, nó cũng cần có một người
cha để thương yêu, dìu dắt … Chính vì thế mà tôi cảm thấy khó khăn trong việc
quyết định hạnh phúc tương lai, tôi sợ mình sẽ khổ sở, sẽ thiệt thòi như kẻ mắc
lời nguyền độc ác của nốt ruồi trong khóe mắt “thương phu trích lệ” mà tôi cứ
ám ảnh, lo âu…
Nhớ có lần
buổi chiều tôi phải gánh nước đi ngang các dãy trại giam đông nghẹt người,
những đôi mắt đàn ông hau háu nhìn chằm chằm từ đầu đến chân đã làm bước đi tôi
luống cuống, ngại ngùng … Chợt lúc đó chiếc đòn gánh gãy đôi, cặp
thùng đổ nước tung toé, vừa xấu hổ, vừa hốt hoảng tôi bối rối cuống cuồng, chợt
có tiếng ai đó kêu lên: “Coi kìa! Tội nghiệp chưa? Chị ấy đã nửa chừng gãy gánh.” tự
dưng tôi thấy tủi thân lạ lùng, rơm rớm nước mắt quay đi. Ừ! Tội nghiệp cho tôi
thật!! Câu nói đã bao gồm đầy đủ ý nghĩa của nó.
Rồi VyDân
cũng bỏ tôi ra về, một tổ chức nhân đạo bên kia bờ đại dương xa xôi nghe gia
đình anh ấy đưa tin có thằng bé tật nguyền trong trại giam, họ đã can thiệp với
Cộng sản mang nó ra khỏi nhà tù và đưa đi xa hơn nữa để đến một nơi an toàn cho
tuổi thơ của nó.
Thời gian sau
này khi Ba tôi đã mất thì gia đình chắc cũng nghĩ lại nên chị Hai tôi lên trại
thăm được vài lần, mang theo những bức thư của các em với lời lẽ động viên an
ủi “cố gắng cải tạo tốt để mau về” khiến tôi phì cười mỗi khi đọc, cố gắng thế
nào bây giờ, tội hình sự giết người cướp của, tham ô hối lộ thì mỗi năm được
giảm 2 năm, án tù càng cao thì càng giảm nhiều để rút ngắn thời gian ân xá, còn
tôi thì 8 năm mới được giảm 6 tháng! Nghĩ cũng chẳng có gì lạ khi bọn họ căm
thù những kẻ phản động như tôi.
Chuyện VyDân
được ra khỏi trại là tôi yên tâm rồi, đối với tôi đó là một ước mơ mà tôi chưa
bao giờ nghĩ đến, một thằng bé bệnh tật èo uột như nó mà phải chịu cảnh tù tội
suốt 8 năm. Quả thật kinh khủng, đây là cơ hội tốt nhất để VyDân thoát khỏi nơi
đày ải khắc nghiệt này, tôi nghĩ anh ấy đã phù hộ cho thằng bé, dù muộn vẫn còn
hơn. Nhưng khi chị tôi mang hồ sơ xuất cảnh vào trại để làm thủ tục cho nó thì
nó phản ứng dữ dội, những cái đập chân mạnh mẽ cương quyết, thằng bé chỉ muốn ở
lại với Mẹ thôi, tôi cố thuyết phục dỗ dành “Chỉ vài năm thôi mà. Rồi Mẹ sẽ trở
về với con, ở nhà Ngoại con sẽ được ăn uống đầy đủ, sẽ có nhiều đồ chơi, sẽ mau
hết bệnh...” Cái môi nó mím lại như mếu, hai bàn chân kẹp chặt hông tôi không
buông khiến tôi thêm thắt thẻo ruột gan. Nửa đêm hôm ấy chờ nó ngủ say chị tôi
đã bồng nó ra về, đường mưa trơn trợt ướt dầm mà tôi nghe tim mình đau nhói,
nước mắt như mưa.
Ôi con dế mèn
bé bỏng, rồi con sẽ đi xa hơn nửa vòng trái đất để đến một đất nước tốt đẹp
hơn, nơi đó không có hận thù như dã thú, không có những toan tính lọc lừa dối
trá, không có những tên đồ tể chuyên giết người lương thiện như mụ phù thủy độc
ác trong truyện cổ tích.
VyDân mang
theo con két nhỏ tật nguyền cũng giống như nó. Đầu tiên con két được ai đó bắt
được lúc đi lao động trong rừng, mụ y tá chặn lại đầu cổng để lấy cho thằng con
chơi, con két bị bóp chặt trong bàn tay thô bạo của nhóc ta, nó mổ mấy cái
khiến thằng nhóc nổi quạu bẻ luôn cái cánh rồi ném xuống đất. Chỉ chờ có vậy anh tù nhân lượm
nhanh con két đem về chăm sóc, rồi cho lại VyDân, con két bị gãy cánh nên
không bay được, chỉ quanh quẩn trong sân, nó trở thành người bạn thân thiết của
thằng bé trong cuộc sống tẻ nhạt này. Khi Vy Dân nằm ngửa, nó leo lên
chân để chuyền qua lại như trò xiếc, mỗi lần tôi cho con ăn, nó đều leo lên tay
chờ đợi tôi
đút cho nó
chút cháo... Một hôm tôi đi làm về không thấy nó đâu, tôi bật kêu như con nít:
“Két ơi két đâu rồi? - Két đây nè.
Tiếng nó cười
hăng hắc trong bụi cây khiến tôi sửng người bất ngờ, Ôi lần đầu tiên tôi nghe
con vật biết nói, nó còn nói nhiều nữa, giả giọng ho, giọng cười, bắt chước
tiếng la “cấp cứu”, và reo lên mỗi khi tôi bưng chén ra “két ăn cháo, két ăn
cháo.” Mấy tên cán bộ hỏi mua nhưng không đời nào tôi bán, tôi mang ý nghĩ lạ
lùng trong đầu là anh ấy đã hóa thân vào con két để an ủi VyDân, chắc thế, bởi
vì nó thông minh và dễ thương như người.
Sau này nghe
chị tôi kể lại hôm đưa VyDân ra phi trường, không thể mang con két lên máy bay
đi cùng được nên nó ở lại buồn bã bỏ ăn và chết sau đó mấy hôm. Tôi ngậm ngùi
trong lòng, chắc nó nhớ thằng bé cũng như tôi thôi. Nhưng tôi không thể chết
được, tôi phải “phấn đấu” để trở về, dù con dế mèn của tôi đang ở cùng trời
cuối đất tôi cũng sẽ tìm ra nó để ôm nó vào lòng.
Mười năm
trong tù!
Đã trải qua nhiều
gian nan vất vả trong cải tạo, tôi nhớ tới câu nói nửa đùa nửa thật của người
quen “… Khi nào thấy đỉnh núi thấp xuống trước mắt mình, thấy nắng ở đây không
còn nóng lưng, thấy muối trại giam đã trở thành ngọt trong buổi cơm rau muống,
thì lúc ấy mình sắp về.”
Có lẽ những
điều ấy bây giờ đã đúng với tôi, con đường lầy bùn trơn trợt bên cánh đồng lớn
đã trở nên quen thuộc trong mỗi bước chân đi, những gốc đào thân thiết trong
mùa nhặt hạt, những ô ruộng cấy đã trở nên gần gũi để biết được độ cứng mềm của
lớp đất lúc cắm mạ, lúc sục bùn … Vẫn còn sợ rắn, sợ đỉa nhưng đã có can đảm để
bước tới mà không phải la hét xanh mặt như lúc đầu mới thấy. Tôi đã quen với
khí hậu nắng gió khắc nghiệt ở đây, mưa dầm sương lạnh, mồ hôi luôn ướt đẫm,
tay chân thô kệch cứng ngắc trong mỗi thao tác lao động, sự già nua khắc khổ vẫn hằn trên khóe mắt,
nhưng chẳng thay đổi bao nhiêu nét mảnh khảnh ngày nào. Có vài lần tôi đã gặp
lại tên cán bộ khai cung cũ, họ có vẻ phấn khởi khi thấy tôi cải tạo tiến bộ
hơn (!)
Họ nhìn gương
mặt sạm nắng của một phụ nữ thành phố đã quen với gió mưa lao động ở đây “Trông
bây giờ chị khiêm tốn giản dị, cởi mở hơn nhiều, khác xa cái lần gặp gỡ với chị
cách đây gần 10 năm, hồi ấy chị kiêu căng, bướng bỉnh làm sao, chị vặn vẹo
chúng tôi cũng điên đầu ấy.”
Lời nhận xét
của họ đã làm tôi cúi mặt dấu nụ cười chua xót. Hừ! 14 năm tù dành cho người
đàn bà còn rất trẻ, không hiểu họ thú vị như thế nào trong lúc phán quyết số
phận của người khác để nhân danh công lý đàn áp những kẻ bất đồng chính kiến
bằng gông xiềng bạo lực và nhà tù.
Cuộc gặp gỡ
với những lời động viên sáo rỗng, họ khơi dậy trong tôi tình cảm gia đình, quê
hương, họ nhắc cho tôi nhớ đến sự khoan hồng nhân đạo về chuyến đi xa của thằng
bé tật nguyền …
Và mỗi lần
như thế, tôi chỉ im lặng ngồi nghe, xoa hoài đôi tay chai cứng của mình khi
chào đứng dậy. Cám ơn, tôi cũng hiểu rất rõ điều đó, kêu án thì phải ở tù thôi,
chấp nhận cuộc chơi là có kẻ thua người thắng, nhưng đừng tưởng cải tạo là làm
thay đổi được bản chất của những người như chúng tôi, đấu tranh với cái xấu cái
ác với sự bất công áp bức cho tới cùng.
Trong cái
đáng ghét cũng có những cái đáng thương, tôi thấy mình thanh thản khoan dung
khi nghĩ về người khác, không hận thù hậm hực, không phẫn nộ đay nghiến, tôi
vẫn thầm cám ơn mọi quan tâm giúp đỡ của những cán bộ đã đối xử tốt với mẹ con
tôi trong suốt thời gian sống ở đây, dù sao bàn tay vẫn có ngón vắn ngón dài.
Tôi nhớ ánh
mắt vui mừng của VyDân mỗi lần gặp “bác ba” trưởng trại giam, một người miền
Nam đi tập kết về, chính ông ta đã cho thằng bé con gà mái để nuôi lấy trứng
ăn, cho phép trồng cây đu đủ sau trại để có trái bồi dưỡng. Sự ưu ái
đặc biệt với VyDân thôi, vì nội qui trại không được trồng cây cao sợ tù nhân
leo trốn trại. Đôi khi tôi cũng thấy lòng chùng xuống khi nhìn cảnh cha già con muộn,
sự đầm ấm bình yên của gia đình họ, thật tình có bao giờ mình muốn con bé phải
mất cha, cô vợ trẻ phải mất chồng đâu! Thế mà họ lại làm con mình mồ côi cha,
mình thành góa bụa bơ vơ …
Tôi vẫn nhớ
một đoạn thư rất chân tình viết gởi về cho Ba sau khi anh ấy mất.
“Trong một
cuộc chiến đấu dù chính đáng hay vô nghĩa, sự chết sống là lẽ thường tình, con
sẽ dạy cho VyDân lòng thương yêu và sự công bằng, con không muốn nó phải xem kẻ
đã giết cha nó là kẻ thù và những người thân đã bỏ rơi nó bằng ánh mắt thành
kiến bất mãn… Quá khứ là một bài học đau thương mà con cần phải rút kinh
nghiệm, chắc chắn cảnh nồi da xáo thịt sẽ không bao giờ tái diễn trong gia đình
chúng ta, Ba đã có một đứa con hư với tất cả những đau đớn phẫn nộ, con nhớ tới
câu nói ví von của ông cán bộ rất già “…chị giống như công chúa Mỵ Châu đã đem
nỏ thần cho giặc, để nước phải mất, nhà phải tan, ngồi sau lưng Triệu Đà, bị
thần Kim Qui chỉ vào mặt: giặc ngồi sau lưng mi chứ ở đâu đã làm con vừa buồn
vừa cười. Nếu phải xóa đi một cái tên trong bản khai lý lịch gia đình, chặt đi
một cành khô cho cây nẩy lộc đâm chồi, con nghĩ cũng là điều hợp lý mà gia đình
đừng nên nuối tiếc.”
Câu chuyện
cũng lâu lắm rồi, đau thương rồi cũng nguôi ngoai dần theo năm tháng, máu chảy ruột
mềm, có lẽ Ba tôi cũng nguôi đi cơn giận dữ, gia đình đã đến với tôi bằng tất
cả những tình thương, khoảng cách còn lại được xóa dần đi trong những lần chị
tôi lên thăm, trong những lá thư động viên thân thiết của các em tôi từ các nơi
gởi về. Rồi ba tôi mất, trong cơn đau cuối đời, ông đã gọi tên tôi. Lòng tôi
chợt se lại rưng buồn, người chết thì luôn được thanh thản, tôi không muốn nhắc
lại quá khứ, dù tôi biết ông rất thương tôi, nhưng ông vẫn có cái lý của ông …
Mười năm
trong tù!
Tôi sống khép
mình trong cái vỏ khiêm tốn, giản dị, mọi nhu cầu vật chất được khắc phục tối
đa, tôi đã biết ăn được tất cả những rau rừng lá núi, biết nấu được một số món
ăn tạp nhạp nêm nếm bằng muối mà không phải theo khóa gia chánh nào. Tôi cũng
biết cắt may khâu vá những kiểu quần áo đỡ tốn chỉ, tốn công, chủ yếu là ăn chắc
mặc bền, không lãng phí. Tôi biết được tên nhiều chứng bệnh lạ lùng và cả cách
trị liệu cấp thời mà không phải nhờ đến thầy thuốc mất thì giờ khám nghiệm,
chạy chữ̉a. Tôi cũng nghe được nhiều thành ngữ địa phương, biết được những
tiếng lóng giang hồ, những xảo thuật ma quỷ trong cuộc sống của giới bụi đời, ăn chơi du đãng, những thủ
đoạn lừa bịp mất dạy được mang vào từ xã hội bên ngoài. Nói chung là tôi cũng
tiêm được nhiều cái hay, mà cũng nhiễm phải lắm tật xấu, đôi khi nổi nóng, bực
dọc, bộc lộ hung hăng chẳng giống ai, nhưng điều mà tôi cảm thấy tự bằng lòng
với chính mình đã học được trong cuộc sống hỗn độn ở đây là sự chịu đựng - Chắc
vậy! Tôi đã chịu đựng bằng tất cả lòng kiên nhẫn, đầy vị tha, thông cảm. Môi
trường phức tạp làm sao tránh khỏi sự va chạm bực mình, đôi lúc cái đáng ghét
tưởng có thể đạp đổ hết tất cả, nhưng rồi mọi việc cũng lắng dịu qua đi, sống
biết tha thứ, biết nhường nhịn, chưa bao giờ tôi sử dụng thủ đoạn để khiêu
khích hơn thua bất cứ ai, chưa bao giờ tôi huênh hoang những điều mình trội hơn
người khác hay mặc cảm về sự kém cỏi, thua thiệt của mình. Đằng nào thì cũng
xuề xòa qua loa, điều mà tôi cho là tối kỵ nhất trong cuộc sống tập thể là ích
kỷ, vụ lợi vật chất cá nhân, tính tham lam thói bần tiện. Điều may mắn cho tôi
là đã không “gần mực thì đen” không bị lệ thuộc bận tâm vì cái vặt vãnh ấy, đói
khổ túng thiếu cũng nhiều rồi nhưng vẫn thấy thoải mái hơn vì đã không bon
chen, tranh giành quyền lợi với đồng phạm, có lúc thua thiệt nhiều quá cũng tự
an ủi mình bằng câu triết lý vụn “Ở bầu thì tròn ở ống thì dài, miễn cái nước
chứa trong ấy vẫn là nước hoa chứ không phải là nước cống”.
Tôi đã sống
hòa đồng với tất cả, có điều tôi không giống như họ là được rồi! Tôi chấp nhận
sự thật, cho dù sự thật có đáng buồn! Thời gian trôi qua có biết bao điều để
suy gẫm, kể làm sao cho hết một khoảng đời sóng gió lao đao. Tất cả sẽ được ghi
lại trong một thiên hồi ký, nhắc lại trong một bản trường ca diễn lại trong một
vở bi kịch đầy nước mắt thảm não, mà mãi mãi tôi sẽ không bao giờ quên, không
bao giờ xóa nhoà cái dấu ấn khắc nghiệt của cuộc đời, đau nhói trong mỗ̃i lần
hồi tưởng xót xa . . .
Mười năm
trong tù!
Tôi còn cái
gì và đã mất cái gì? Những sự mất mát thua thiệt của tuổi trẻ, cả một thời phí
phạm trống rỗng, những cái tang lớn cứ chồng chất trên đầu, những người thân
yêu cứ lần lượt bỏ đi, còn lại tôi một thân xác bơ phờ và cả tâm hồn chai lì
cằn cỗi. Rời khỏi trại giam, ba mươi mấy tuổi, hai bàn tay trắng, không tài
sản, không vốn liếng, không một nghề ngỗng gì ra hồn, chồng mất - con đi xa, tôi
vẫn chưa nghĩ ra điều gì cần phải làm ngay.
Lập lại cuộc
đời ư? Có lần tôi đã cười ra nước mắt khi người quen hỏi tôi về điều ấy, mọi
việc sẽ không đơn giản như mình nghĩ, xã hội mỗi ngày mỗi đổi thay, cuộc sống
cứ tiếp diễn Tôi nhớ lời dặn đầy ý nghĩa của người thầy cũ “Đừng để bánh xe
lịch sử ấy nó nghiến lấy đời em, dù chỉ chạm vào một ngón chân thôi, cũng đủ
đau điếng rồi .."
Mười năm
trong tù!
Thấy mình quê
mùa lạc hậu làm sao, tôi nghĩ đến ngày về rất xa lạ như cây đã hết nhựa sống,
như con ngựa già đã mỏi gối chồn chân, tự dưng bi quan vô cùng khi nghĩ về tương lai phía trước! Ba
mươi mấy tuổi vẫn thấy mình ngây ngô khờ khạo trong cuộc sống chung quanh, có
thể mình tưởng như vậy, cái bệnh tưởng đôi khi cũng là điều thất bại.
Hết rồi cái
tuổi tung tăng hồn nhiên, còn nhìn đời qua lăng kính màu xanh màu hồng, còn yêu
đời, yêu người yêu cuộc sống thiết tha, tương lai sao mà mơ hồ quá! Niềm cô đơn
hiện tại tưởng chừng như bất tận, tôi sẽ còn chịu đựng cho đến bao giờ? Nỗi
lòng riêng tư thầm kín vẫn là điều ray rứt không nguôi. Cũng có lúc mơ một mái
ấm gia đình, một hạnh phúc thật bình yên, một vòng tay nâng niu êm ái trong
khoảng đời còn lại, nhưng cảm thấy ngại ngùng thế nào, quá khứ đáng buồn vẫn là
điều ám ảnh hoài nghi, cứ sợ vướng bận chồng con rồi khổ thân lận đận, rồi ngủ
quên trong hạnh phúc khoanh tròn ích kỷ. Mọi việc bắt đầu đã muộn màng rồi hay
sao? Cuộc sống thật tẻ nhạt, tầm thường nếu không có một mục đích gì cao đẹp
hơn, ý nghĩa hơn.Tôi nhớ tới câu an ủi của người bạn tù “Nếu không làm ngôi sao
trên bầu trời rộng, thì hãy làm một ngọn đèn nhỏ trong căn phòng mờ ...” Xã hội
bên ngoài luôn xáo trộn, đầy biến động, đòi hỏi phải biết thích nghi, hòa hợp
để chấp nhận nó, vẫn còn hàng loạt người không thể chịu đựng được và họ đã bỏ
đi, đã bị cuốn hút theo cơn sóng thời cuộc không-thể-làm khác-hơn được.
Tôi thì chẳng
có tham vọng xuất ngoại, cảnh tha phương cầu thực chắc cũng có lắm điều chua
cay, hạnh phúc đâu chỉ có cơm ngon và áo đẹp, dù tôi biết sự ở lại cũng giống
như nhập vào cuộc chiến đấu (nói theo thời đại bây giờ - mặt trận mới - chiến
đấu chống tiêu cực) có thể tôi sẽ im lặng cầu an, hoặc tôi sẽ xông xáo vào
cuộc, đằng nào thì cũng một lần chết, có điều tôi không thích làm kẻ yếu hèn,
ích kỷ trong cuộc sống. Thế thôi! Nhưng có một điều trung thực nhất: Tôi không
hề nuôi mộng làm kẻ phi thường để mưu đồ đại sự đội đá vá trời, tôi chỉ muốn
làm người đàn bà với đầy đủ chức năng cao quý của nó, có trái tim biết yêu
thương, giữ tâm hồn trong sáng, mang ý chí dũng cảm và tạo cuộc sống có mục đích cao đẹp
không phải chỉ cho riêng mình!
Mười năm
trong tù!
Không biết có
phải là thời điểm để tôi tổng kết một chặng đường đã qua? Ừ! Thì cứ tạm coi như
là đã tổng kết. Ngày về, có thể rất gần, tôi vẫn chưa hình dung ra giây phút
bàng hoàng đó, tâm trạng buồn vui bất ngờ như thế nào nữa, có thể tôi sẽ tỉnh
bơ như lúc người ta đọc bảng cáo trạng có tên mình trước vành móng ngựa cách
đây 10 năm, hoặc hơi choáng người một chút vì xúc động đột ngột, dù sao ở đâu
thì quen đó, gần gũi như quê hương của mình, cho dù có lắm nhọc nhằn gian nan,
có nhiều chua cay, tủi nhục, nhưng không thể nói là không bịn rịn ngập ngừng
lúc chia tay.
Vẫn có những
điều mà tôi phải thầm cám ơn cuộc sống, cám ơn con người đã ở quanh đây, chia
xẻ cùng tôi mọi khốn khó trong những năm tháng đau thương cùng tận, mọi buồn
phiền xin bỏ lại đằng sau cánh cổng sắt nặng nề đã nhốt một thời tươi trẻ của
tôi, dù tôi biết vẫn có những điều rất nhỏ nhặt vu vơ như thoáng gió, nhưng tôi
cảm thấy nhớ hoài, và có cả nỗi đau đớn xót xa mà tôi sẽ cố gắng để quên đi...
Mười năm
trong tù!
Tôi không thể
phủ nhận một sự thật “Quá khứ là kinh nghiệm - hiện tại là đấu tranh - tương
lai là những trang sách mới”. Cứ cho là như vậy đi, bắt đầu từ con số không to
tướng chẳng phải là chuyện dễ dàng, nếu không có tính kiên nhẫn và lòng can đảm
sẵn sàng, tôi sẽ cố gắng để làm được điều đó, hy vọng mà nói như vậy
Nhìn lại
chặng đường gian khổ đã qua, tôi thật sự rùng mình như vừa qua cơn mộng dữ. Ngày
về - tương lai đang chờ đợi, hy vọng hạnh phúc nhiều hơn là khổ đau, liệu tôi
sẽ bắt đầu như thế nào đây với ngã ba, ngã tư của cuộc đời trước mặt?! Xúc động
bồi hồi chen lẫn nỗi lo âu bối rối. Lúc đi có anh ấy, có Vy Dân, có nỗi lo âu
nặng trĩu. Ngày về chỉ có túi xách nhẹ tênh với vài cuốn nhật ký, bộ áo tù,
khung ảnh của thằng bé đã đi xa và cả những nếp nhăn đầy phiền muộn trên gương
mặt mỏi mòn …
Còn lại một
mình! Chắc vậy, hôm qua hôm kia có dịp nhìn thấy tập hồ sơ dầy cộm của tôi trên
bàn làm việc, cái bìa đã ngả màu vàng củ kỹ, nhàu nát, bên cạnh là tấm ảnh chụp lúc mới vào trại, nụ
cười tươi tỉnh đến lạ lùng, lúc ấy sao mà ngổ ngáo thế không biết, tôi nhất
định cười trong khi tên Công an nhăn nhó cấm cười, bởi vì anh ta chưa hề thấy
một bị can nào lại có thể hồn nhiên trước ống kính của pháp luật cả, nếu không
muốn nói là những gương mặt lấm lét, hốt hoảng đầy tội lỗi, còn tôi thì khác
hẳn, có lẽ lúc đó tôi chỉ mới hơn 23 tuổi, cái ngạo mạn quái quắt của tuổi trẻ
là vậy.
Mười năm rồi
còn gì, nhìn lại tấm bìa đã ngả màu làm tôi cứ ngẩn ngơ suốt buổi. Ghê thật! Cả một khoảng đời thanh xuân
của tôi đã chết dí trong những trang giấy nhòe nhoẹt đầy khắc nghiệt đó!
Ngày về!
Tôi sẽ cố đi
thật chậm, thật thanh thản trên con đường đất đỏ quen thuộc mà tôi đã qua lại
hàng trăm nghìn lần để xuống bãi làm từ bấy lâu nay, con đường mà cách đây gần
8 năm, lúc xe vừa lăn bánh chuyển từ trại tạm giam lên đây, tên trưởng trại
chạy theo hỏi vói “Này, chị nhớ xem còn bỏ quên lại đây cái gì không?” Lúc ấy
tôi đã mím chặt môi bướng bỉnh “còn bỏ quên cả một trại giam” - Hừ! đằng sau
khói xe mù mịt, tôi thấy ánh mắt khó chịu của hắn ta lúc đó, nhưng tôi vẫn
không hề thấy ân hận. Bây giờ, ngày về - tôi sẽ nói câu gì trước mọi người thân
quen, sự im lặng có lẽ hợp lý hơn là phải nói những lời sáo rỗng, ngoa ngữ …
Mười năm
trong tù!
Tôi đã sống,
và đã thấy đã hiểu tất cả, có chia sẻ thế mấy cũng không bù đắp được sự gian
khổ, thiếu thốn trong hoàn cảnh này, thôi thì cố gắng khắc phục, “lâu rồi đời
mình cũng qua mà.”
Mọi người sẽ
có lúc “nghiêng vai trút nhẹ đời giam cầm...”, tôi không tin dị đoan vào những
điều vớ vẩn, nếu lưu luyến thì sẽ còn quay lại lần nữa. Vô lý! Không cố tình vi
phạm pháp luật thì chẳng bao giờ quay lại trại giam, cũng có lắm người đã
nguyền rủa, ghê sợ, chán ghét cái cảnh tù đày, nhưng họ vẫn cứ quay lại, quay
lại …Còn tôi, sự chịu đựng đã thành thói quen tốt, tôi vẫn thấy lòng thanh thản
để tha thứ, để thông cảm cho tất cả, không hận thù, không oán trách, dù có
những điều thật đáng căm ghét vô cùng!
Ngày về, chắc có buồn có nhớ và có thương thương, thấy tội nghiệp cho những người ở lại, tôi im lặng trong nỗi xót xa ray rứt, hình như mình vẫn còn thiếu sót điều gì đó không thể nói được, kỷ niệm đau buồn đã qua mà không thể nguôi ngoai được, có điều ràng buộc vô hình nhỏ nhoi nào mà tôi không thể dững dưng khi phải bước quay lưng.
Mười năm
trong tù!
Dĩ vãng đau
thương rồi cũng phôi pha, như một khúc quanh nghiệt ngã trong cuộc đời, tôi nhủ thầm mình:
“Hãy đứng dậy và lau khô những giọt nước mắt bi thảm, sau cơn mưa trời lại sáng
kia mà! cứ tin như vậy đi cho đời bớt khổ”. Tôi xoa hoài đôi tay chai cứng nhỏ
nhoi của mình, chẳng biết phải chuẩn bị cho tương lai cái gì đó thật cần thiết,
như vốn liếng tài sản chẳng hạn, lúc hai đứa bị bắt, người ta đã niêm phong nhà
và toà án tuyên bố tịch thu toàn bộ tài sản, những đồ dùng gia đình, nữ trang,
tiền bạc.
Tôi dửng dưng
đến độ không cần biết mình đã bị mất những gì, tất cả đều trở thành vô nghĩa!
Chỉ có sự nằm xuống của anh ấy là cả một gia tài vô giá, mà tôi đã không thể
đánh đổi được bằng chính sinh mạng của mình. Tôi không hề tiếc những của cải đã
bị lấy mất trong lúc vào tù, cũng như mãi đến bây giờ tôi không biết phải chuẩn
bị như thế nào cho cái vỏ bọc vật chất trong tương lai, dù sao thì cũng quen
rồi, khó khăn nghèo túng cũng đã chịu đựng được từ những năm tháng ở đây, hành
trang là lòng can đảm còn lại, tôi mong rằng mình sẽ tự đứng dậy và vươn lên,
cho dù có vấp ngã thật yếu đuối, nhưng không vì thế mà tôi lại bi quan để chấp
nhận sự an bài của định mệnh.
Ngày về!
Có dịp soạn
lại số đồ vật linh tinh trong ngăn kéo, mỗi thứ là một câu chuyện nho nhỏ, đầy
vui buồn. Cả mười năm gom lại kia mà, tập thể thường hay gọi đùa tôi là kẻ giàu
nhất ở đây, cũng có thể như vậy bởi vì tôi có những cái lặt vặt của người ra về
trước cho lại và tôi cất đó để giúp kẻ khác khi họ cần, chia sẻ cho nhau trong
cuộc sống tạm bợ nơi này cũng là biểu hiện tốt của tình người giữa cơn khốn khó
Và bây giờ
đến lượt tôi giao lại cái di sản nho nhỏ ấy cho người còn lại, bạn bè thân quen
lần luợt họ sẽ nhận được tài sản của tôi với lời giã từ - không
mong gặp lại ở nơi này hay bất cứ ở trại giam nào khác, nhất định là như thế!
Mười năm rồi
còn gì! Rời khỏi đây, tôi cũng chưa biết mình sẽ ở địa chỉ nào thuận tiện nhất
cho cuộc sống tương lai, bước đầu phải về SàiGòn, tạm trú với chị em hàng họ,
rồi về quê thăm má, thăm mộ ba, rồi trở ra Phan Thiết thăm mộ anh ấy, rồi có
hàng đống dự kiến cho tương lai mai mốt...
Nhưng trong
số đồ vật linh tinh, điều mà tôi cảm thấy đau lòng và thấm thía nhất khi tìm
kiếm là chiếc chìa khóa cũ kỹ của má tôi, trong lần lên thăm bà đã cẩn thận nhét vào tay tôi với lời dặn
dò giống như thời tôi còn bé “nhớ đừng làm mất nhe con, cất đó rồi chừng nào về
mà mở rương ra, chớ lỡ má có bề gì…”.
Cầm chiếc
chìa khóa mà tôi đã xúc động đến lặng người, cả một đời Má đã chiu chắt vì con.
Chiếc rương chứa đầy những đồ kỷ niệm của thời đi học, từ cuốn tập dính đầy mực tím, quyển sách giải thưởng
cuối năm học, những tấm ảnh ngây ngô, thư từ, quà tặng sinh nhật của bạn bè,
quần áo cũ, sau khi tôi lấy chồng, rồi có con, rồi vào tù.
Thời gian
chồng chất biết bao là hoang phế, vậy mà Má tôi vẫn gìn giữ những kỷ niệm của cô
con gái bé bỏng của bà, suốt đời Má đã khổ vì tôi! Trong mớ giấy tờ ố vàng mà
tôi còn giữ được là “những bức thơ viết sai chánh tả” của Má gởi vào trại giam
cho tôi, lá thơ nào cũng làm tôi khóc mướt vì thương Má một đời lận đận khổ
đau, cho đến bây giờ mỗi lần đọc lại, tôi vẫn thấy lòng rưng rưng như Má đang
quanh quẩn đâu đây “ba má nhớ con lấm, gán cải tạo tốt để nhà nước cú sét chở
dề sống dới gia đình, chời chở dó, ba con bịnh quài, má còn khẻo nhưn bán buôn
ế lấm”. Chiếc chìa khóa đã ám ảnh tôi suốt trong những năm tháng buồn tênh hiu
quạnh, mà mỗi lần cầm nó trên tay, tôi lại rưng nước mắt vì nhớ Má “lỡ má có bề
gì.” Trời ơi! Tôi cố không nghĩ đến những mất mát đáng buồn ấy nữa, vậy mà…
Ba Má tôi đều
lần lượt qua đời trong cô đơn nghèo khó ở quê nhà mà không kịp chờ tôi mãn án
trở về. Tôi như hụt chân đuối sức khi nhận ra mình bỗng chốc bị mồ côi...Tôi
nâng niu kỷ niệm của Má như một gia tài, tấm lòng Bà Mẹ nào cũng đáng được trân
trọng tôn vinh. Những lá thơ của Má luôn là chỗ dựa yên ấm cho tôi trên bước
đường đời mỏi mệt, ngả nghiêng phía trước
Còn lại một
mình!
Tôi xót xa
khi nhận ra sự trống vắng đáng sợ, hơn nửa đời người chợt có lúc thấy bơ vơ làm
sao, cuộc sống bên ngoài thay đổi nhiều quá. Ra khỏi tù tôi có cảm giác như
mình vừa bị hụt chân, chới với. Lạc hậu lỗi thời cũng là chuyện đã đành, tôi
chỉ sợ những mất mát mà mình không thể bù đắp được.
Ngày về - tôi cũng muốn ước mơ như trẻ con trong truyện cổ tích, được bà tiên cho ba điều ước: - Niềm tin - Hạnh phúc - Sự bình yên.
Ngôi mộ của
anh được đắp sơ sài dưới chân núi Đất - Bình Thuận năm1982.
Phía xa là
cây cột mà bọn chúng đã trói anh trước khi bắn.
Trần Ngọc Ánh
thương phu trích lệ
Trần Thắng
Tài vị quốc vong thân
Phút sanh ly
tử biệt chẳng sờn lòng
Anh nằm xuống
cho TỰ DO cả nước
Cát bụi
Chiếc xe
ngừng lại ở cây số 19 của huyện Hàm Thuận trên quốc lộ 1A. Ngôi mộ nằm dưới
chân núi đất cách quốc lộ chưa tới một km, ngày đầu tiên ra thăm anh, tôi hỏi
người dân quanh vùng hầu như ai cũng biết về vụ xử bắn mươi năm trước, họ còn
tả rất chi tiết về cái chết của anh. Sau ngày anh bị bắn thì một người quen đã
vào Sàigòn báo tin, anh chị Sáu vội vã đến chụp mấy tấm hình, ngôi mộ đắp sơ
sài với tấm bia bằng gỗ viết tên anh, cây cột trói anh vẫn để đó và mấy viên
sỏi dưới chân còn vướng máu được anh chị gói cẩn thận cất giữ như lưu lại nỗi
đau của gia đình. Lá thư được anh chị gởi vào trại có mấy chữ “Bảy đã về với Má
ngày 14/6/1982” như một mật khẩu để tránh sự kiểm duyệt của trại mà đọc ra chỉ
có mình tôi hiểu. Vậy là anh đã bỏ chúng tôi ra đi thật rồi! Biết trước thế nào
cũng có ngày này. Nhưng sao tôi vẫn thấy lòng quặn thắt nhói đau khi phải đối
mặt với sự thật đau buồn.
Đêm đó hai mẹ
con vào mùng, tôi ôm thằng bé nghẹn ngào kể cho nó nghe chuyện của Ba bay về
trời như dũng sĩ trong truyện cổ tích bay đi giết con quái vật hung ác. Nó còn
quá nhỏ để đón nhận nỗi buồn quá lớn này. Tôi không thể làm trái tim VyDân tan
nát, đêm đó sau khi dỗ thằng bé ngủ, tôi đã khóc như chưa bao giờ đau đớn đến
như vậy, biết là dù sớm hay muộn thì mình cũng xa nhau, nhưng mà Tài yêu ơi,
anh có thanh thản để về cõi vĩnh hằng khi bỏ lại mẹ con em?
Anh nằm đây
chắc cũng yên vì nghe đâu trước kia ngọn đồi này là nơi đóng quân của một đơn
vị lính VNCH, ít ra anh cũng có đồng đội ở cạnh để cùng chia sẻ nỗi đau đất
nước điêu tàn.
Dù xa nhưng
tôi vẫn tới lui thăm anh, rủ rỉ chuyện này kia cho nỗi buồn nguôi ngoai, khi
đau khổ người ta thường kêu Trời ơi, còn tôi chỉ biết khấn nguyện anh thôi,
“Hãy phù hộ cho mẹ con em Tài ơi! Phù hộ cho con dế mèn VyDân bé bỏng của chúng
ta đang phiêu lưu nơi xa xăm nửa vòng trái đất được bình yên.” mặc dù tôi biết
bệnh tật của thằng bé khó mà phục hồi.
Vùng anh ở
mùa mưa nước lầy lội, mùa nắng đất khô cằn nứt nẻ, ngôi mộ như lún sâu thêm bên
dưới, có lần con ông Thầy cũ theo tôi ra tận đây, hắn cũng ái mộ anh quá nên
hai chị em khiêng những hòn đá dựng lại ngôi mộ cho tươm tất. Những tưởng anh
sẽ yên nghỉ lâu dài nơi đây, nhưng không ngờ họ có kế hoạch mở rộng quốc lộ
trong vài năm nữa, có thể sẽ đào tới chỗ anh nằm, Suy nghĩ mãi rồi mới tính
chuyện hốt cốt, “Phải mang anh về nhà thôi Tài à, em không muốn mộ anh bị vùi
dập nát tan giữa nơi xa lạ này, mặc dù em vẫn chưa biết anh thích ở chùa hay ở
nhà thờ, người như anh thì chỉ lên thiên đàng thôi, anh sẽ làm ngọn gíó trời
bay cao lồng lộng hay làm ánh sáng trên một hành tinh xa xôi, rong chơi quên
lãng...em tin thế cho lòng nguôi ngoai”
Tôi thuê
người ra mộ, một tay dân làng ở đây nhận bốc cốt với giá phải chăng và thêm
rượu thịt để hắn lấy can đảm, vì theo lời hắn kể thì anh chết do hung khí như
vậy nên linh thiêng lắm, đêm đêm từ trong nhà ngó vô núi, hắn thấy bóng người
ngồi trên mộ trong ánh lửa bập bùng, dân trong vùng kháo nhau như huyền thoại
về ngôi mộ duy nhất trong vùng đất này.
Đất đá xới
tung lên cả một buổi chiều mà không thấy anh đâu, tôi cứ khấn thầm “Tài ơi,
giúp em” mà lòng chỉ muốn điều ngược lại, nghĩa là không có anh trong huyệt mộ
này, nghĩa là anh thoát chết như phép lạ rồi bỏ đi đâu mất. Cái hy vọng mong
manh như trẻ con chờ ông Bụt hiện lên cho bao điều ước thần kỳ. Thấy tội nghiệp
cho tôi vô cùng trong ảo tưởng mơ hồ ngay lúc này, cả đời tôi cứ ngồi mơ phép
lạ xảy ra!
Cuối cùng thì
cũng tìm thấy mấy sợi dây nylon cùng khúc xương ống chân, khiến tôi hình dung
mọi việc xảy ra trong ngày tang tóc đó, chắc chúng nó đã trói anh, bịt mắt bịt
miệng anh, kê súng bắn hàng loạt đạn vào người và sau đó ném xuống hố như người
ta vất xác một con chó.
Nỗi đau không
thể diễn tả được, tôi nghĩ mình phải thật can đảm để đối diện sự thật này. Lần
đầu tiên trong đời tôi làm một việc quá sức chịu đựng của mình, cứ tưởng như
trong phim khi mở nắp hòm ra, bộ xương khô nằm ngay ngắn trong đó.
Nhưng đây là
cái chết của một tử tù, bọn Cộng sản đã bắn anh ấy bằng bảy phát súng ghim bất
kỳ chỗ nào trên thân thể anh như một mục tiêu cố định, và phát ân huệ trên màng
tang để kết liểu sự sống cuối cùng!
Những gì tôi
tìm thấy dưới đáy mồ mới là chứng tích của sự tàn ác dã man mà luật pháp quốc
tế chắc cũng không thể chấp nhận được khi thi hành án tử hình. Anh là kẻ thù
của cả chế độ nên bọn chúng phải hành xử như vậy cho đáng tội hay sao?
Không còn cái
gì hết ngoài cát bụi thời gian, bộ xương nằm cong queo còn vướng víu dây nhợ
của người bị trói, đầu gục sang một bên với hộp sọ vỡ nát, chỉ có
chiếc dép nhựa duy nhất nằm trên phần bụng anh, và cục đá xanh quấn giẻ nhét
vào miệng vẫn còn nguyên màu vải, tôi cũng nhận ra tấm thẻ nhựa lủng một lỗ mà lúc chia
tay tôi đã đưa anh ấy giữ, trong đó là hình vợ con, tôi nghĩ nó đã nằm trên túi
áo trước ngực anh, bọn chúng đã bắn trúng tim anh, mấy tấm ảnh đã hòa vào cát
bụi, da thịt, quần áo, mọi thứ đã mục nát không còn dấu tích vật dụng nào sót
lại ngoài vài hột nút nhựa của bộ đồ tù.
Sự đau đớn
uất hận trào dâng khi tôi hình dung ra những gì mà anh ấy đã phải chịu đựng
trước và sau khi chết. Nghĩa tử là nghĩa tận, có thể tôi không hiểu hết ý nghĩa
của điều này nhưng tôi biết anh ấy chết trong câm lặng vì cục đá nhét vào
miệng, anh cũng không đi được vì bị trói, anh không nhìn thấy gì vì cặp kiếng
cận của anh bị chúng lấy đâu mất rồi, anh chỉ có một chiếc dép thôi, khi chúng
kéo lê anh từ cột bắn đến huyệt mộ nó đã rớt đâu mất và chiếc còn lại được đá
xuống sau cùng trên bụng của anh trước khi bọn chúng lấp đất lại.
Cái ác của kẻ
giết người không phải là phát súng mà là hành động thô bạo bất nhân trong giờ
phút cuối cùng, họ đã thi hành bản án bằng trái tim vô cảm của loài dã thú. Mãi
mãi tôi sẽ không bao giờ quên sự thật kinh tởm đáng nguyền rủa này. Tôi mang
tất cả những gì được tìm thấy dưới huyệt mộ đem về như một chứng tích của sự
tàn ác. Tôi nghĩ đến bản cáo trạng dành cho Cộng sản, chế độ bất nhân này sẽ
phải sụp đổ, chỉ còn là thời gian sớm hay muộn thôi.
Buổi chiều
xám xịt màu mây, giữa vùng núi non gió lộng này tôi không biết phải làm sao với
mớ xương cốt xếp lộn xộn trong nón lá, chưa bao giờ tôi làm việc này và cũng
không ai chỉ dạy tôi phải làm thế nào cho đúng nghi lễ, phải coi ngày lành
tháng tốt để mang anh về cho được giờ hoàng đạo kẻo xui rủi cả nhà... Câu
chuyện tù đày của chúng tôi là cái xui tận cùng rồi, không còn gì để sợ, để mất
nữa. Tôi tin ông Trời có mắt và có lẽ công bằng!
Tôi chất củi
trước bia mộ để hỏa táng xương anh thành tro bụi, sau đó trịnh trọng bỏ vào cái
bình gốm nhỏ. Bóng chiều lãng vãng khi mặt trời đang khuất dần sau núi, gió
lạnh khiến tôi rùng mình, tôi nghĩ hồn thiêng anh đang quanh quẩn bên tôi. Buồn
ơi!
Ra đường đón
xe về Sàigòn mà lòng lo lo, xe mà biết mang hài cốt thì không ai dám chở, họ
cũng sợ xui như bao người, tôi cẩn thận gói cái hũ trong chiếc khăn choàng, bỏ vào cái ba
lô đeo ngược ra trước, gương mặt thật bình tĩnh mà run khi bước lên xe, lúc sống tính
anh cũng thích trêu đùa nghịch ngợm, biết đâu được anh phá chuyến xe này, quả
thật, tới ngã ba Dầu Giây xe bị “ban”, gần vô ngõ Saigòn xe chết máy lần nữa.
Tôi ngồi im trên xe mà cứ vái thầm “Xin cho đến nhà bình yên anh ơi!”
Tôi viết thư
hỏi ý những người thân của Tài bên Pháp nên để anh ấy ở đâu, anh Ba hỏi vặn lại
“Vậy em muốn để ở đâu? - “Em muốn để ở nhà”.
Tôi đặt anh
bên cạnh hình Ba má Sáu trên bàn thờ và mỗi ngày đốt nhang cho hương linh anh
ấm cúng, tôi vẫn tin rằng anh luôn ở bên tôi để chở che tôi trong biển đời mênh
mông đầy bất trắc này.
Mỗi ngày tôi
dọn cơm đều có cái chén đôi đũa dành riêng cho anh. Khi con bé lớn lên một
chút, nó vẫn vô tư làm theo lời Má dạy, nó không biết bác ấy là ai mà tôi yêu
quý trân trọng như vậy, thỉnh thoảng trẻ con loay hoay trên bàn ăn làm rơi
chiếc đũa, con bé lại suýt xoa xin lỗi bác và đặt lại cho ngay ngắn.
Hơn chục năm
trôi qua, cả nhà tôi không ai biết điều đó, thật tình tôi cũng không muốn tâm
sự kể lể với người thân về mọi đau buồn trong quá khứ, tình cảm gia đình hàn
gắn được là tốt rồi, tuyệt đối không nhắc lại chuyện cũ để ray rứt thêm. Tôi có
căn nhà nhỏ trên Thủ Đức. Không có bóng dáng người đàn ông trong cuộc sống của
hai mẹ con, chúng tôi bình yên hạnh phúc bên nhau, có chút chữ nghĩa kiến thức
và tấm chân tình để giúp hàng xóm khi họ cần, từ chuyện nhỏ như đưa rước mấy
đứa trẻ đến trường hay viết dùm đơn từ này nọ, chạy qua giúp đỡ khi tối lửa tắt
đèn, lâu dần bà con trong xóm thương mến tin cậy bầu tôi làm tổ trưởng dân phố.
Chức vụ cho
vui vậy mà, dĩ nhiên tôi có lập trường riêng của mình, không ai biết về dĩ vãng
tù tội đen tối của tôi cho đến một hôm đi làm về tôi nhận được thư mời của tên
trưởng Công an phường với nội dung “có việc riêng”. Trực giác cho tôi biết rầng
bọn họ vẫn chưa để tôi yên.
Câu đầu tiên
hắn hỏi “Chồng chị sao chết vậy?” Tôi biết là hắn đã biết mọi chuyện nên tôi
cũng không cần che dấu, tôi kể một hơi dài sự thật về bản án của mình và nhìn
thẳng vào mặt hắn kết luận “chuyện đã hơn hai chục năm rồi, thời đó tôi còn trẻ
như anh bây giờ, nếu anh là tôi sống trong thời điểm khó khăn ấy thì anh cũng
phải khó chịu và phản kháng vậy thôi.”
Tên Công an
cúi đầu suy nghĩ, hắn cũng thú thật là bất ngờ khi biết về lý lịch của tôi do
cấp trên thông báo “Cả thời gian dài chị sống trong khu vực do tôi quản lý mà
tôi không biết chị là ai thì cũng lạ”- “Nếu anh không cho ở thì tôi đi” miệng
nói cứng mà lòng tôi lo lắng không biết đi đâu bây giờ, nhưng hắn làm như thông
cảm vì rõ ràng suốt thời gian qua tôi luôn chứng tỏ mình là một công dân sống
tốt ở địa phương “Không có gì đâu, chị cứ ở lại, miễn đừng dính líu gì với bọn
phản động chống phá nhà nước là được rồi” tôi cười thầm thì ra hắn cũng ngán
“bọn phản động”.
Nói thì có vẻ
như chuyện của tôi không có gì đáng ngại nhưng chỉ tuần sau trên phường lấy cớ
là tôi bận đi làm không có thì giờ họp hành để thay tên đảng viên về hưu lên
làm tổ trưởng, dân ai cũng thắc mắc sự thay đổi kỳ cục này, riêng tôi thì quá
biết nguyên nhân vì sao, Cộng sản nói một đằng làm một nẻo vốn là bản chất gian
xảo của bọn chúng. Thật ra tôi chỉ muốn yên thân!
Rồi Má tôi
cũng biết chuyện tôi để hũ cốt anh Tài trong nhà khi con bé về thủ thỉ với bà ngoại về cái chén đôi đũa bên mâm cơm,
cả nhà cũng ngạc nhiên y như tên Công an phường biết tôi “phản động”. Má không
nói gì chuyện đã qua nhưng bà khuyên tôi nên đem vô chùa “Ai đời nhà có con nít
mà để hũ cốt trong nhà để vong linh ám ảnh không tốt cho đứa nhỏ”. Tôi cười làm
thinh, anh ấy là người tốt chớ đâu phải ma quỷ gì đâu mà sợ, cái đáng sợ là bọn
ma vương lộng hành bên ngoài húng hiếp áp bức người dân kia kìa. Xã hội ngày
càng phát sinh nhiều tệ nạn trộm cướp giết người, xì ke gái điếm, quan chức thì
tham nhũng trắng trợn, làm gì đụng tới công quyền là phải có bao thư đút lót
mới xong việc. Mạnh ai nấy quơ quào đạp dẫm lên nhau để kiếm sống bằng mọi thủ
đoạn lưu manh. Ba tôi nếu còn sống chắc ông cũng hối hận vì cái công cuộc giải
phóng thần thánh của mình chẳng còn tuyệt vời hay ho như lý tưởng mà ông bỏ cả
đời để theo đuổi phục vụ.
Biết sống
cũng không thoải mái trước đôi mắt cú vọ của tụi Công an địa phương lâu lâu kêu
lên phường để hỏi han vớ vẩn, nhất là những dịp lễ 30/4 hay 2/9 bọn chúng gọi
là “làm công tác tư tưởng” như một hình thức răn đe, tôi bán nhà dọn về Củ Chi.
Vùng quê xa xôi này mà dân chúng đa phần là “gia đình cách mạng” nhưng còn rất
nghèo, có thể trước đây là vùng chiến khu, cái nôi của đất thép thành đồng nên
nhà nào cũng có con em tham gia vào biệt động hay du kích để chiến đấu trong
hàng ngũ Việt Cộng, nhưng khi hòa bình rồi vinh quang lại thuộc về mấy tên đảng
viên cao cấp tiếp thu Sàigòn phồn hoa đô hội, hưởng giàu sang phú quý do cướp
chính quyền mà có được. Mấy o du kích nhỏ bây giờ đã già, đất nước hoà bình,
mấy o trở lại với mảnh vườn miếng ruộng, hay ôm lấy nghề tráng bánh truyền
thống để khi trái gió trở trời đau nhức từng cơn vì mảnh bom miếng đạn còn
vướng víu đâu đó trên cơ thể. Sở dĩ tôi chọn Củ Chi vì tánh lương thiện chơn
chất của họ chưa bị “nhiểm mặn” với xã hội trời thần đất lở ở thành phố, dân
chúng đa phần đều hiền lành dễ thương và dĩ nhiên họ cũng không biết tôi là ai
cho đến ngày tôi theo chồng qua Mỹ.
Hũ cốt để lại
thì hương tàn khói lạnh cũng thương cho anh ấy, mà đem đi thì chắc anh cũng
không thích vậy đâu, bởi vì mục đích anh chiến đấu cho Công Bằng Tự Do của đất
nước Việt Nam nên dù chết thì anh cũng phải chọn sự ở lại như một người lính
đầy dũng khí.
Sau khi bàn
bạc với gia đình bên anh, tôi chọn ngày mang anh ra giữa sông Sàigòn để tro cốt
anh hoà với phù sa đất Mẹ. Cát bụi xin trả về cát bụi.
Hãy ra đi
thanh thản Tài ơi, mọi người sẽ luôn nhớ tới anh như một anh hùng đã hy sinh vì
Quê hương Đất nước và trong tận cùng sâu thẳm của trái tim em thì anh vẫn luôn
có một chỗ để nhớ để yêu.
Ngọc Ánh
Mời xem tiếp phần 3
Ngày Tháng Buồn Hiu - Phần 3 - Ngọc Ánh
Ông già Noel là Mẹ!
Tôi có hai
đứa con mà đứa nào cũng mồ côi cha rất sớm.
Khi thằng con
trai đầu lòng được hơn một tuổi thì bất hạnh xảy ra, vợ chồng con cái nhà tôi
kéo nhau vào trại giam không hẹn ngày về... Thật ra câu chuyện đáng buồn này
nếu nhìn theo góc độ nào đó cũng không có gì bi thảm, bụng làm thì dạ ráng chịu
vậy. Bất cứ ai còn có tấm lòng với quê hương đất nước khi nhìn thấy cảnh trái
tai gai mắt, áp bức bất công xảy ra trong cái gọi là Xã hội chủ nghĩa mà Cộng
sản miền Bắc xâm chiếm và thống trị miền Nam sau ngày 30/4/75 thì cũng làm như
chúng tôi thôi, dù sự phản đối được thể hiện bằng cách này hay cách khác. Vợ
chồng chúng tôi bị bắt về tội phản động, nhà cửa bị niêm phong và tôi chỉ kịp
mang theo mấy gói gạo lứt Bích Chi cùng ít khăn tả cho con. Ngoài ra tất cả đều mất hết,
kể cả tính mạng của chồng tôi.
Nhưng điều
tôi ân hận nhất đời là phải đẩy thằng bé vào trong hoàn cảnh khốn khổ này. Đêm
Giáng Sinh đầu tiên trong phòng biệt giam tăm tối ở một tỉnh nhỏ xa lạ ngoài
Trung, tôi nghe tiếng chuông nhà thờ đổ rất gần, tôi ôm thằng bé đang khóc ngất
vì đói sữa mà nát cả lòng “Lạy Chúa con là người ngoại đạo, nhưng tin có Chúa
ngự trên cao...” Tôi thành tâm cầu nguyện theo cái cách riêng của mình để mong
Chúa nghe thấy, nhưng chắc Ngài cũng bận rộn với hàng triệu triệu con chiên
đang khốn khổ trong cái xã hội loi nhoi ngoài kia cần cứu rỗi hơn, nên bóng tối
vẫn phủ trùm quanh đây sự im lặng đáng sợ và tôi lại mơ đến ông già Noel đầy
huyền thoại của tuổi thơ ”Ước gì ông già Noel là có thật để ông mang đến đây
một bình sữa cho thằng bé nhà tôi”
Rồi những năm
tháng lạnh lùng trôi qua trong trại giam, chồng tôi bị tử hình sau đó không
lâu, con trai tôi qua những cơn sốt nặng không thuốc men, thiếu dinh dưỡng,
thoi thóp trong hôn mê kéo dài... Để khi tỉnh dậy thì tay chân co rút và lưỡi
líu lại, một bác sĩ tù nào đó nói với tôi về di chứng của bệnh viêm não. Tôi
tuyệt vọng tưởng mình có thể giết chết đứa bé và tự tử để thoát khỏi kiếp lưu
đày. Nhưng khi nghe tiếng kêu thét đầy hoảng sợ của con, tôi lại chùn tay bật
khóc!. Gương mặt ngây thơ của nó đáng yêu biết bao nhiêu, tôi phải sống để giữ
lời hứa với anh ấy là sẽ nuôi dạy nó nên người, cho dù bây giờ hình hài nó
không còn giống như bao đứa trẻ khỏe mạnh bình thường khác, cho dù chúng tôi
đang sống trong sự trả thù hèn hạ của bên chiến thắng, nhưng tôi không thể dạy
nó lòng căm ghét kẻ đã giết cha nó, không thể dạy nó sự oán hận cái xã hội đã
đẩy người dân vào bước đường cùng. Chưa bao giờ tôi kể cho nó nghe về sự thật
đáng buồn của gia đình mình. Tôi không muốn tinh thần nó bị tổn thương, chịu
đựng một thân thể khiếm khuyết cũng đủ làm đau nó cả đời rồi.
Nó chỉ là
thằng bé tật nguyền lớn lên ngơ ngác giữa núi rừng hiu quạnh, bệnh hoạn èo uột
như rong rêu bám vào cái lu mẻ ở xó hè, như bụi cỏ dại mọc trên bờ tường đá
quấn đầy kẽm gai sau trại. Cả tuổi thơ buồn thảm của nó chỉ biết có Mẹ thôi, Mẹ là Trời
là Đất, là nắng sớm là mưa chiều, là trăng treo ngoài cửa sổ, là tiếng cú kêu
thê thiết đêm sương lạnh... Tôi gom hết những yêu thương dành cho nó, tôi cố
đem những kiến thức mà tôi có được để mong dạy cho thằng bé quen dần với đoạn
đời đầy gian khổ hôm nay, nhưng có lẽ nó quá nhỏ bé để cảm nhận ra cuộc sống
bất thường này, nên dễ dàng chấp nhận hiện tại trong sự hồn nhiên đến xót xa.
Mỗi ngày đối với nó đều là những trang sách mới toanh với nhiều điều thú vị mà
thằng bé ba - bốn tuổi đầu như nó luôn hồ hởi phấn khởi để ..nghe, từ một chiếc
lá rơi bên hàng rào hay hòn sỏi lượm ngoài bờ suối trong lúc đi lao động, hoặc
lông chim vướng ngoài bụi tre đều là những câu chuyện cổ tích đầy sinh động mà
tôi cố gắng tưởng tượng ra để làm quà cho nó. Và dĩ nhiên hình ảnh ông già Noel
tuyệt vời không thể thiếu trong tuổi thơ tội nghiệp của nó.
Bắt đầu từ
cánh thiệp Giáng Sinh của ai đó gởi vào trại cho người thân, nhưng bị tên Công
an gác cổng ném đi không cho nhận (liên lạc thư từ thăm hỏi đã khó khăn, huống
chi loại bưu thiếp xa xỉ của đế quốc) cánh thiệp nhàu nát lem luốc bị gió cuốn
vào đống rơm sau nhà kho và tôi cũng vội cuốn nó trong vạt áo mang về. Đêm đó
hai mẹ con chun vô mùng đốt đèn lên để ngắm hình ông già Noel có hàm râu dài trắng
như tuyết, mặc bộ đồ đỏ chót và sau lưng vác một bao đầy quà. Tôi nói thao thao
với thằng bé như thể tôi đã từng gặp ông, từng được ông ôm vào lòng và cho
những món quà mà tôi đã viết thư xin ông trước ngày Giáng Sinh hàng năm. Nhưng
bây giờ thì khác hơn một chút, ông quá bận rộn nên không thể đến thăm từng đứa
trẻ được, chỉ cho quà những bé ngoan nếu nó treo chiếc vớ ngoài cửa sổ trong
đêm 24 tháng 12. Trong đống đồ nhàu nát của hai mẹ con, tôi tìm thấy chiếc vớ
len cũ kỹ của nó hồi mới nhập trại, nó có vẻ thất vọng khi thấy chiếc vớ quá nhỏ lại
còn bị rách ở dưới gót, món quà có thể bị rớt mất... Tôi đành phải cắt ống tay
áo mình ra may cho nó cái túi ba gang như trong truyện ăn khế trả vàng và rù rì
với bạn bè chung quanh xin ít kẹo bánh để dành làm quà cho nó. Ông già Noel đã
hứa như vậy mà. Đêm đó nó ngủ không yên, lâu lâu lại ngóc đầu nhìn ra cửa sổ
trông chờ.
Với tôi thời
gian này là những khoảng đời đau buồn nhất mà tôi phải chịu đựng trong cảnh tù
đày khốn khổ, nhưng có lẽ là niềm hạnh phúc của cả hai chúng tôi là được sống
bên cạnh nhau trong thời gian khá dài, khi mà những túng thiếu đói kém đã trở
thành chuyện bình thường trong mỗi ngày qua đi cháo rau hiu hẩm, dù bệnh tật đã
đày đoạ thằng bé đến kiệt sức, có lúc tôi tưởng nó bỏ Mẹ theo Ba...
Nhưng ơn
Trời! Nó vẫn sống sót đến ngày rời khỏi trại giam. Một tổ chức nhân đạo của
quốc tế đã vào trại mang nó đi xa hơn, thoát khỏi gông cùm khắc nghiệt của cái
đất nước mà Ba mẹ nó đã chọn ở lại sau những ngày đen tối đó.
Hơn mười năm
mòn mỏi tù đày, cuối cùng tôi cũng được thả về sau khi bỏ lại cả khoảng trời
thanh xuân tươi trẻ của mình trong trại giam. Ngày về thênh thang đến trống
rỗng, tôi không biết mình phải làm gì, sống ra sao trong những ngày tháng tới.
Mọi thứ đều thay đổi, xa lạ khiến tôi như hụt chân chới với, cái cảm giác bơ vơ
lạc lõng trong thành phố thay tên lạ lẫm này làm tôi thấy mình cô đơn đến tội
nghiệp.
Con bé được
sinh ra như một định mệnh trớ trêu, thật lòng tôi không yêu người đàn ông ấy,
nhưng tôi phải cám ơn anh ta đã cho tôi một sinh linh bé bỏng này, nó đáng yêu
biết bao nhiêu khi làm thay đổi cuộc sống buồn tẻ của tôi.
Được làm Mẹ
là một thiên chức cao quý, trong hoàn cảnh này tuy buồn nhưng tôi thấy nguôi
ngoai nhiều khi mỗi ngày nhìn nó lớn lên hồn nhiên mạnh mẽ. Tôi cố gắng để trở
thành người phụ nữ đảm đang trong vai trò “Ba mẹ là bóng mát, che chở suốt đời
con”. Tôi trở lại giảng đường khi con bé vừa vô lớp một, để sau giờ tan ca mệt
mỏi, tôi lật sách ra đọc thì con bé cũng ê a tập đánh vần, thế mà ròng rã mấy
năm trời hai mẹ con “thi đua lập thành tích”, con bé cứ học sinh giỏi, học sinh
xuất sắc đều đều, còn tôi thì rớt dài dài mấy môn lịch sử Đảng... Nhưng không
hề gì, học để có chút kiến thức nhỏ nhoi trong cuộc sống bon chen này, còn hơn
chấp nhận sự thua thiệt vì dốt nát, tôi vẫn thích tự đứng trên đôi chân của
mình, dù mỏi đuối!!
Dĩ nhiên ông
già Noel cũng không thể thiếu trong tuổi thơ êm đềm của con bé, khi thì hộp bút
chì màu, con búp bê hay cái áo đầm trong lứa tuổi mẫu giáo, lớn lên một chút nó
biết viết thư gởi ông già Noel để vòi quà thì tôi “gài độ” thêm mức khen thưởng
chăm ngoan cho nó “phấn đấu tiến bộ”. Có năm nó còn vẽ bản đồ chỉ
đường cho Ông già Noel qua phát quà cho bạn của nó, vì hỏi ra trong cái xóm lao
động nghèo này, không đứa nào biết có Ông già Noel tồn tại trong đời. Để củng
cố niềm tin của nó, tôi lại tốn công gói thêm vài món quà để nửa đêm Noel chờ
tụi nhỏ ngủ mà treo lên cây trứng cá trước nhà. Có thấy được vẻ mặt hí hởn của
chúng nó khi nhận quà thì mới cảm nhận được sự cần thiết của Ông già Noel đầy
huyền thoại trong trí tưởng tuổi thơ, tác động lên việc hình thành nhân cách
của trẻ nhỏ, phải ngoan, phải chăm học, phải biết vâng lời cha mẹ thầy cô thì
mới có quà. Và con bé tôi đã lớn lên trong niềm tin như vậy, cứ mỗi năm nó lại
gởi thư cho Ông già Noel tâm sự vòng vo ở đoạn đầu và xin quà ở đoạn cuối,
thỉnh thoảng nó còn chê ông viết chữ khó đọc hơn năm ngoái hay chỉ viết có mấy
dòng khi bây giờ nó đã biết đọc rào rào. Và tôi lại cố rèn chữ theo ý nó, viết
lưu loát tình cảm hơn ... Cho đến năm nó lên 12 tuổi, một hôm từ trường trở về,
nó thủ thỉ với tôi “Tụi bạn con nói không có ông già Noel đâu, là Má mày làm
đó, nghĩa là sao Má?”.
Tôi chợt
khựng người bối rối, thật lòng lúc đầu bịa ra câu chuyện Ông già Noel tôi chỉ
muốn con mình vui trong cảnh mẹ góa con côi, nhưng nếu sự dối trá là một điều
không thể chấp nhận được đối với trái tim ngây thơ, và niềm tin hồn nhiên của
con trẻ, thì có lẽ tôi cũng nên quỳ sám hối về những gì mà tôi đã làm cho các
con tôi trong tuổi thơ cô đơn bất hạnh của chúng nó. Tôi ôm con bé vào lòng với
niềm xót xa thương cảm “Ông già Noel chỉ có thật khi ai tin vào điều đó, nếu
con tin thì ông ấy sẽ yêu thương con, sẽ ở bên cạnh con, cũng như Má vậy thôi,
con tin là Má luôn yêu thương con thì Má sẽ giữ mãi tình yêu đó cho con.”
Thế đấy,
chuyện ông già Noel là có thật trong tuổi thơ của tất cả trẻ em trên trái đất
này, hàng năm bưu điện khắp nơi vẫn nhận đầy thư gởi cho Ông già Noel, và họ
cũng chuyển những gói quà đến các trẻ nhỏ dưới nhiều hình thức khác nhau, để
tạo nên mùa Giáng Sinh lung linh sống động, biểu tượng Ông già Noel là hạt
giống của niềm tin, của hy vọng, của tình yêu thương không biên giới được chia
xẻ ấm áp, là trái tim nhân hậu, là tấm lòng bao la của cha mẹ dành cho các con,
cho dù khi chúng nó nhận thức rằng Ông già Noel chỉ là sản phẩm tưởng tượng của
người lớn, nhưng cả thế giới không ai cảm thấy thất vọng về niềm tin hoang
đường này, thật lòng mà nói, có phải bạn cũng thích được nhận quà trong đêm
Giáng Sinh? Dù chỉ là một tấm card mỏng manh hay cái ôm choàng thân tình của
bạn bè, người thân. Sự ấm áp có sức lan tỏa kỳ diệu trong cái lạnh giá của cuộc
sống hôm nay. Hãy tin như vậy đi.
Sàigòn 1998
Nỗi xót xa riêng
Tôi và nó bà
con với nhau, nó con nhà cậu, còn tôi nhà cô, hai đứa xuýt xoát vài ba tuổi nên
chơi thân từ nhỏ, mỗi lần nghỉ hè thì nó theo “mợ Năm” về thăm quê, ngang chợ
Sóc Trăng, mợ luôn ngủ lại một đêm với tôi lấy cớ đường xa nghỉ mệt, và lần nào
vô mùng mợ cũng ôm tôi muốn ngộp thở, tôi nghĩ là mợ thương cháu gái vậy thôi.
Sóc Trăng của tôi chẳng có gì để khoe với nó ngoài cảnh đẹp ở “hồ nước ngọt”
nên tôi rủ nó lội bộ ra đó đi thơ thẩn rồi về ngang cầu Bon tôi đãi nó ly sâm
bổ lượng, lần nào nó cũng ăn lẹ để “lấn” qua nửa ly còn lại của tôi…Rồi hôm sau
mợ xin Má tôi dẫn luôn hai đứa vô Xẻo Gừa chơi, vì là “dân chợ” nên bọn tôi
thấy cảnh quê cái gì cũng lạ nên thích lắm khi theo mấy đứa hàng xóm lội ruộng
bắt cá lia thia đá chơi hay bứt cọng năng ăn cái lõi trắng dòn dòn…
Lâu lâu thì
Má tôi dẫn lên Sàigòn thăm bà con, nhà ai cũng nghèo chỉ có cậu Tám làm ăn khấm
khá nhờ có cái xe lam chở hàng bông đi bán dạo. Nghỉ hè cậu chở hết cả bầy con
cháu ra “Cấp” chơi, khỏi nói là đứa nào cũng náo nức để được giỡn sóng biển
xanh, đối với bọn tôi thời đó đi Vũng Tàu là một mơ ước xa xỉ.
Cứ thế mỗi mùa
Hè là dịp để bà con gặp nhau, tôi lên Sài gòn nhiều hơn là nó xuống Sóc Trăng,
hai đứa đi lang thang từ chợ cá Trần Quốc Toản đến cầu Khánh Hội để chơi với
đám con cậu Tám, cậu Mười, nó lớn một chút nên cuối tuần theo cậu Năm phụ hồ, để
dành tiền bao tôi ăn bò bía ở “hồ con rùa”, ngược lại tôi cũng để dành tiền ăn
sáng để mua báo “Tuổi hoa” cho nó coi mệt nghỉ. Hai đứa bàn luận chuyện trời trăng coi
mòi tâm đắc lắm, mà lạ, nó luôn tâm phục khẩu phục tôi trên bất cứ vấn đề nào.
Có lẽ tuổi tôi hơn nó, học giỏi hơn nó hay vì tôi là người con gái duy nhất
biết chia xẻ với nó những tâm tình của thời mới lớn mà nó tin cậy được. Không
chắc là tôi “thông thái” gì ở tuổi ăn chưa no lo chưa tới, nhưng tôi siêng đọc
sách và biết lõm bõm nhiều chuyện hơn nó. Con gái bao giờ cũng lanh hơn con trai ở lứa tuổi này.
Tháng 4/75
tôi lên Sàigòn trước khi bãi trường vì bà Ngoại tôi đau nặng… Cả thành phố lúc
đó như muốn vỡ tung qua những bản tin chiến sự hàng ngày, nhưng tôi và nó thì vô tư trước
thời cuộc, cái thờ ơ của người ngoài lề khi nghĩ đến chiến tranh đang xảy ra ở
đâu đó xa xôi không dính tới phố thị của mình. Thật tình tôi không có khái niệm
gì về chủ nghĩa Cộng sản, về sự chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, về
cái đúng sai của chế độ mà tôi đang sống. Tôi hoàn toàn mù mịt đến ngu ngốc,
thiên đường ngông nghênh của tôi là trường học, bạn bè và những bướm hoa lãng
mạn… Tôi sẽ buồn nếu ngày mai mình không đến lớp được nhưng không biết rằng
từng giây hiện tại có bao người đã ngã xuống trong cuộc chiến kinh hoàng này để
tôi biết xót xa đau đớn…! Ôi, cái tôi vô tâm đáng trách.
Cả nhà “cậu
mợ” tôi bình thản chờ đợi, “Cậu Năm” tôi nói “sẽ có Hòa bình, mọi người sẽ no cơm ấm áo”. Tôi và nó đều ngơ
ngác nai vàng...
Ngày 28/4/75
Tôi và nó đi vòng vo quanh khu chợ xem người ta “di tản”. Thiên hạ ùn ùn kéo
nhau đi đâu không biết, xe cộ ngoài đường hối hả phóng nhanh, tiệm giặt ủi ở
đầu hẻm bỗng nhiên liệng ra đường từng xấp quần áo kaki còn thẳng nếp hồ, ai
cũng lo lắng khi chứa trong nhà những quân trang quân dụng của lính… Tôi và nó
lượm được hai bộ đồ bay, áo dính liền quần với nhiều túi có dây kéo, để dành mặc
ngủ ngoài sân gác, trùm kín mít thay mền. Nó cũng thú vị khi ôm về một thùng
giấy trắng để dành đóng tập học, còn tôi thì nghĩ đến việc để dành quay roneo
mấy cuốn đặc san cho lớp... Vậy đó, tôi quanh quẩn dưới đáy giếng của mình, hồn
nhiên như rong rêu, củi mục lềnh bềnh trên nước đọng, ngu ngốc dại khờ.
Tàn cuộc
chiến, hòa bình đâu không thấy, chỉ thấy Sàigòn bỗng chốc hoang vắng tha ma,
màu cờ đỏ rợp trời như cỗ áo quan chói chan nhức mắt. Ngoại bớt bệnh và tôi trở về
phố nhỏ của mình trong một chuyến xe đêm khắc khoải. Hình như có cái gì đó vừa tan vỡ trong tôi,
sự thất vọng hoài nghi về một tương lai mịt mờ phía trước, Sóc Trăng của tôi xơ
xác như vừa qua cơn bão dữ, Thầy trò đến lớp bằng nỗi ngập ngừng dè dặt trên
mỗi bước chân quen, bạn bè nói đến tên một ông Thầy quay súng vào đồng nghiệp
kêu gọi đầu hàng và kéo cờ đỏ giữa sân trường sáng ngày 1/5/75 khiến mọi người sững sờ, chết
điếng. Cuộc họp đầu tiên của trường Hoàng Diệu ở rạp hát Nguyễn Văn Kiển để
nghe mấy ông Quân quản nói thánh nói tướng về một thế hệ tuổi trẻ Hồ Chí Minh,
nghe mà phát chán. Cả bọn tôi lẻn về khi thầy Tráng đang kêu tên tôi lên phát
biểu gì đó như là “hồ hởi phấn khởi cám ơn Đảng mới có ngày hôm nay.” Xin lỗi
thầy, em không thể làm con vẹt để nói những lời trân tráo đó, em chưa thấy “hoà hợp hòa giải”
với mấy tên “Kách mệnh” này đâu thầy ơi! Lần đầu tiên tôi cảm nhận ra sự mất
mát hụt hẫng của chính mình, tự dưng thấy như chới với.
Nhưng chuyện
làm tôi bất ngờ sửng sốt nhất trong cuộc đổi đời này khi biết được tôi và nó là
chị em ruột… Má tôi chính là Cô sáu, em của “Cậu Năm” bà không có con gái nên
mới xin tôi về nuôi khi còn đỏ hỏn, làm khai sanh cho tôi lấy họ Trần của
dượng, “Mợ Năm” nể chồng không dám cãi nên lâu lâu chỉ biết ôm tôi chặt cứng
trong mùng và tôi cũng hồn nhiên rúc vào lòng “mợ” tìm hơi ấm cho giấc ngủ thơ ngây.
Hèn gì…
Trong khi tôi
vùng vằng khóc hết nước mắt chia tay với Ba Má tôi để về Sàigòn “đoàn tụ gia
đình” thì nó vui ra mặt lúc đón nhận tin này, nó gọi tôi bằng “chị Tư” đầy thân
thiện. Mấy ngày đầu thấy tôi mặt mày ủ ê rầu rĩ tiếc nhớ về Sóc Trăng một thời yên ổn
đã mất thì nó lăng xăng lấy xe đạp rủ tôi đi uống sinh tố, chở tôi đi đây đó đỡ buồn. Khi
chạy ngang trường Chu Văn An, nó than với tôi là bạn bè của nó ngày càng vắng,
không biết biến đi đâu. Tôi nói như hét “thì lên rừng đi Kinh tế mới hay xuống
biển vượt biên chớ đâu”. Không hiểu sao tôi lại bực dọc cau có với nó. Chuyện
giải phóng này đâu phải lỗi của nó đâu?
Xã hội mới
xếp gia đình tôi vào loại “lớp nghèo thành thị” nghĩa là thành phần nhân dân
lao động không dính dáng đến “ngụy quân ngụy quyền” nên cho nó tham gia vào đội
đoàn nòng cốt của Phường khóm. Nó đi họp ngày họp đêm về chánh sách mới của Xã
hội chủ nghĩa, nó huênh hoang tự hào về lý tưởng, về chủ nghĩa vô thần của Mác
Lenin, người ta bơm thuốc trừ sâu vào cái đầu non nớt của nó “nào là thế hệ HCM
vinh quang, nào là tổ quốc nằm trong tay của tuổi trẻ v.v và v.v” khiến nó
tưởng mình là dũng sĩ khi hăm hở tình nguyện đi “nghĩa vụ quân sự” đợt đầu
tiên. Ngày nó về khoe với tôi là được kết nạp Đoàn, một danh dự cho thanh niên
thời này, tôi chỉ cười lặng lẽ khi nhìn con ngựa non háo thắng, không chắc là vẻ vang gì đâu
nhóc ơi. Tôi chưa biết gì về Cộng sản nhưng tôi biết từ ngày “giải phóng” đến
giờ, miền Nam bỗng trở thành nghèo đói, nhà nhà đều ăn bo bo, thực phẩm thuốc
men cái gì cũng thiếu… Vậy mà no cơm ấm áo cái nỗi gì, Xã hội chủ nghĩa chỉ là
viên thuốc độc bọc đường bằng những danh từ hoa mỹ, lừa dối lòng dân thôi. Càng
ngày nó như xa dần tôi với bộn bề “công tác”, tôi mơ hồ nhận ra giữa chúng tôi
có một khoảng cách vô hình.
Câu chuyện
bùng nổ khi tôi phát hiện ra cục phấn tròn vo trên tay nó “Ở đâu em có cái
này?” nó cười khẩy “Em bẻ trong tượng Phật ra”. Tôi hét lên như gặp ác quỷ,
“Sao em lại làm việc điên khùng vậy, bà Nội sẽ giận lắm nếu biết em đập bể
tượng Phật của bà để làm phấn viết bảng”. Nó nhởn nhơ trả treo: “Phật thánh gì,
chỉ là thạch cao thôi mà”. Thế là cuộc tranh luận xảy ra giữa hai đứa về tín ngưỡng, về tôn giáo
về chủ thuyết vô thần của Cộng sản duy vật. Tôi giận nó từ đó.
Ngày nó lên
đường đi bộ đội cũng là ngày tôi rời bỏ gia đình để dấn thân vào nơi nguy hiểm,
tham gia trong một tổ chức chính trị. Nếu trước đây Ba và các chị tôi kháng
chiến chống Mỹ thì bây giờ đến lượt tôi “chống kháng chiến chống Mỹ”. Tôi viết
cho nó lá thư ngắn nhưng đầy xúc cảm “Có thể hai đứa mình sẽ đứng trên hai
chiến tuyến đối đầu nhau, nhưng mãi mãi chị vẫn là chị của em nhóc à!” Máu chảy
ruột mềm, tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ bỏ rơi nó.
Mười hai năm
sau tôi trở về xơ xác trong bộ đồ tù rộng thùng thình. Nó đón tôi tươi cười như
hồi nào đón tôi mới lên Sàigòn “đoàn tụ gia đình”. Sự mất mát lần này tuy nhỏ hơn
lần trước, nhưng làm tôi đau âm ỉ cả đời. Năm 75 tôi mất nước vào tay Cộng Sản,
còn bây giờ tôi mất cả thời thanh xuân trong “trại cải tạo” với mức án dài,
chồng tôi bị tử hình vì tội “phản động”...
Cho tới hôm
nay nhắc lại chuyện buồn này, tôi vẫn không ân hận về sự chọn lựa của mình lúc
đó. Trong một cuộc chiến đấu, thua thắng là chuyện bình thường, chỉ có điều đau
lòng là đứa con trai duy nhất của chúng tôi, mới một tuổi phải theo mẹ sống đói
khổ bệnh tật suốt mấy năm trời trong trại giam, tới khi được một tổ chức quốc
tế can thiệp đưa ra khỏi tù thì thằng bé đã bị tật nguyền èo uột vì suy kiệt…
Còn nó bây
giờ có vợ đẹp con khôn, cửa nhà êm ấm, việc làm ổn định. Coi như trong cuộc
sống, nó đang là người chiến thắng, còn tôi, tôi có cái tự hào của kẻ chiến
bại. Nó bỏ ra một đêm để kể lể cho tôi nghe nhiều điều về nó trong thời gian xa
vắng, nhưng tôi thì không, tôi im lặng trước những bất hạnh của mình. Tôi có
cái kiêu hãnh riêng tư, tuyệt nhiên không đứa nào đá động tới chuyện cũ, tới
bức thư “hai đầu chiến tuyến” ngày trước. Mỗi người đều có mục đích để hướng về
phía trước. Nó cũng biết tánh tôi ngang tàng, gai góc, cứ lầm lũi mà đi tới.
Miền Nam mười mấy năm qua chắc nó cũng thấm đau khi nhìn ra thực tế của cái gọi
là Cộng sản. Quả bóng lý tưởng của nó đang xẹp dần bầu nhiệt huyết. Tuy không
nói ra, nhưng chắc nó hiểu những điều tôi hiểu.
Bước đầu trở
về tôi sống tạm nhờ người chị họ xa ở Bình Dương, nhà chị nghèo đông con, ăn
uống thiếu thốn, nó gởi tiền cho chị hàng tháng để lo cho tôi có nơi yên ổn.
Mỗi ngày tôi cố tìm việc làm, đọc báo thấy gần nhà nó có cần người giúp việc,
tôi vội vã đến. Chủ nhà còn rất trẻ, dân Bắc kỳ 75 đanh đá chanh chua, tôi cần
tiền nên cũng dẹp tự ái để làm con sen quần quật từ sáng sớm đến tối mịt mới ngả lưng nằm.
Nhiều lúc thấy tủi thân nhưng tôi phải tập cho mình lòng kiên nhẫn. Một hôm con
nhỏ chủ liệng cái quần lót từ tầng 3 xuống thau đồ tôi đang ngồi giặt rồi cười
hăng hắc vì “trúng mục tiêu” khiến tôi nổi giận thật sự. Tôi chửi con chủ te
tét rồi xách giỏ đi về, không cần đòi món tiền lương hèn hạ của đứa khốn nạn.
Đang đứng đón xe bus trở lại Thủ Đức thì tôi gặp nó đi làm về, nó ngạc nhiên
khi thấy tôi lang thang ở đây, nó kéo tôi vào một tiệm gần đó để ăn và gặng hỏi
mãi, tôi ấm ức kể cho nó nghe mọi việc. Nó cũng bực bội không kém, đòi tôi chỉ
nhà để nó mắng con chủ thêm một trận nữa. Tôi nhìn nó tự dưng thấy nó vẫn y như
“thằng nhóc” hồi nào, bênh chị và bảo vệ chị khi ở xóm có đứa nào gây sự. Bây
giờ thì khỏi cần nữa rồi nhóc à, “chị Tư” làm đại bàng mà, cả xóm nghe tôi tù
mười mấy năm, ai cũng ớn, có người không biết chuyện phán một câu “Con mẹ đó
tội gì mà dữ vậy, chắc cũng giết người mới ra nông nỗi!”. Nhớ hồi
trong trại, cán bộ khai cung gằn giọng chỉ vào mặt tôi “ Giết một người là bị
tội tử hình rồi, còn chị thì ghê gớm hơn, chị âm mưu giết cả chế độ, tội chị xử
bắn hàng trăm lần cũng chưa đáng”. Tôi nhớ lúc đó mình đã cười phá lên khi nhìn
gương mặt “khẩn trương” của hắn “Có thật là tôi nặng tội đến vậy sao?” Thật
buồn cười những từ đao to búa lớn của Cộng Sản nghe sợ chết khiếp!
Sau lần đó nó
năn nỉ tôi về ở với gia đình nó, nhưng tôi từ chối... Mấy tên công an phường
lâu lâu kêu lên trình diện, hỏi han này nọ về lý lịch trích ngang, khiến tôi
ngán ngẫm. Ở không được thì đi, mà đi đâu bây giờ? Tôi không có một phân vàng
lận lưng thì nói gì đến chuyện tìm đường vượt biển. Thời buổi nhất thân nhì thế
này dễ gì tìm một chỗ làm ổn định… May nhờ mấy người bạn cũ chỉ giúp, tôi xin vào làm công nhân
cho một xưởng gỗ trên Bình Dương, ban ngày làm hai ca, tối về học thêm một khóa
hàm thụ, biết thêm chút chữ nghĩa cầu may. Nó mua cho tôi một đống sách vở, ông
Thầy cũ cho chiếc xe đạp, bạn bè có đứa đóng dùm tiền học. Tôi ạch đụi chèo
thuyền nước ngược mấy năm trời mới lấy được cái bằng “học đại”…
Nhân buổi
tiệc liên hoan của trường, tôi đứng lên kể về thành tích “cua rơ xe đạp” của
tôi suốt mấy năm qua, từ Bình Dương đạp về Quận Nhất sau giờ tan ca để kịp vào
lớp học luyện thi, nhiều hôm trời mưa, xe cán đinh xẹp bánh, tôi lết về nhà
cũng đến nửa đêm. Tôi nhìn xuống cuối giảng đường thấy gương mặt nó hân hoan
chia xẻ, tôi đâu muốn rủ nó tới đây nhưng nó cũng tới để tự hào về gương vượt
khó của “chị Tư”. Tôi biết nó xót thương tôi, nhưng nhóc ơi chuyện nhỏ thôi mà,
giải quyết cơm no áo ấm cho dân chúng trong cái Xã hội chủ nghĩa của nhóc mới
là chuyện lớn, hãy ngồi vào phòng họp với mấy tay Đảng Ủy để nói thẳng với bọn
họ rằng đừng lếu láo mỵ dân nữa, người ta chán cái chế độ đầy sự giả trá bịp
bợm này rồi.
Nói thì nói
vậy, chớ tôi biết nó cũng chỉ là tên đảng viên quèn trong cái thời buổi bát
nháo lưu manh giả danh trí thức, mua bằng cấp giả, bán hàng hóa giả, xài tiền
giả, nhơn nghĩa giả… thì mong gì có một tiếng nói trung thực trong cái chung
của cả nước, để đánh động lương tri những kẻ bán nước hại dân. Bạn bè của tôi cũng
vậy thôi, danh vị đảng viên như cái nhãn dán bên ngoài nồi cơm của những gia
đình không có dính líu tới chế độ cũ nên còn chút cơ hội để vươn lên trong cuộc
sống bon chen này. Tôi biết nó cũng mang trong lòng đầy ắp nỗi thất vọng, leo
lưng cọp dễ gì leo xuống, nó thừa hiểu nghĩa của cụm từ “thanh trừng nội bộ” là
thế nào mà, nó chỉ là con mèo nhỏ trong cái hang cọp đầy nguy hiểm, mơ ước bây
giờ của nó là tiếp tục học lên cao học, nó muốn ra nước ngoài...
Những năm
tháng mòn mỏi khắc khoải, tôi vẫn chờ đợi cái gì đó xảy ra ở ngày mai, nhưng giống như con đỉa
sống dai nhờ hút máu động vật, cái chế độ Cộng sản ác nghiệt hút máu đồng bào
này vẫn tồn tại nhởn nhơ mấy chục năm nay, không biết bao giờ mới sụp đổ. Trong
khi người dân đen sống dở chết dở trong cái “xã hội ưu liệt” này để làm giàu
cho bọn tư bản đỏ phè phỡn hưởng vinh hoa phú quý thì cuộc sống của nó, nhân viên kế toán cho một
công ty nước ngoài không phải danh giá gì nhưng trong thời buổi người ta thiếu
nhiều thứ mà nó đủ ăn đủ mặc, tiền bạc đủ xài là ấm quá rồi.
Tôi thì trôi
nổi lên tận Thủ Đức, dành dụm mua được miếng đất cất nhà, tưởng sống yên thân,
ai dè nhằm khu giải tỏa, phường xã bẻ miếng đất ra dọc ra ngang gọi là lộ giới,
viện cớ đất mua giấy tay nên khó đền bù, tôi chỉ còn mỗi cái nền trơ trụi vừa
đủ cất mái nhà lá che nắng che mưa cho hai mẹ con, (cũng nói thêm là ở tù về
tôi bước thêm bước nữa, nhưng bị đạp gai nên đau quá xin ly dị sau đó vài năm,
tôi lời được đứa con gái 3 tuổi thỏ thẻ dễ thương, đối với tôi đó cũng là cách
giải quyết hợp lý nhất trong bước đường lênh lênh của mình).
Cuối cùng thì
vận may cũng mỉm cười với tôi khi gặp lại người Thầy cũ sau mấy mươi năm biền
biệt, duyên phận gắn bó chúng tôi thành vợ chồng, anh là người đàn ông rộng
lượng mà tôi có thể tin cậy để tựa vào vai... Sau ngày cưới, anh ấy quyết định
mang hai mẹ con tôi rời khỏi đất nước có quá nhiều bất trắc đau thương này. Quá
khứ là điều đáng buồn, tôi cần phải ra đi, cho dù biết mình như đang trốn chạy
một sự thật, giống như người lính trận buông súng khi chiến trường còn nồng mùi
khói lửa, bỏ lại quê hương còn trăm nỗi nhọc nhằn.
Ngày tôi lên
máy bay, nó ra phi trường tiễn đưa bịn rịn, nó vẫn nắm bàn tay tôi thân thiết
như dạo nào, tôi thấy lòng rưng rưng thương cảm, có lẽ mình cũng nên quên đi
câu chuyện “hai đầu chiến tuyến” của thời chúng tôi còn trẻ, quên đi những hận
thù tủi nhục
trong giai
đoạn tù đày, quên những cái đáng quên và nhớ những điều đáng nhớ trong suốt năm
tháng đã qua...
Cánh cửa khép
lại, tôi quay lưng đi mà còn thấy dáng nó đứng đó nhìn theo, cái bóng đổ dài
gầy guộc cô đơn...
Sau đó vài
năm thì nghe tin nó mất vì bệnh ung thư, ngày tang lễ nó tôi không về được cũng
bùi ngùi trong bụng, nhưng tôi biết nó luôn quanh quẩn theo tôi, trước kia nó
mơ ước được du lịch sang Mỹ cho thỏa lòng thì bây giờ với hồn vía nhẹ tênh, nó
sẽ bay được qua đây, không hiểu sao tôi lại hay tin những điều có vẻ như hoang
tưởng như vậy, nhưng sự thật nước Mỹ là thiên đường của nó mà, “American dream”
mà lúc sống nó không thể vói tới vì quá muộn.
Câu chuyện đã
qua lâu rồi, tôi nghĩ mình sẽ không có đủ can đảm để khơi dậy một vết thương đã
liền da theo thời gian, dĩ nhiên nó vẫn còn dấu thẹo đậm nét trong tâm hồn, mãi
mãi khó nguôi ngoai, nhưng may cho tôi là biết giác ngộ theo kiểu nhà Phật “Oán
thù nên cởi chớ không nên trói”
Gần 40 năm
trôi qua, tuổi đời đã già, đã lớn, tôi nghiệm ra rằng chỉ có lòng khoan dung độ
lượng mới giúp ta thanh thản trong lòng, và tôi đã tha thứ cho họ, những người
Cộng sản trong quá khứ cuộc đời tôi, tha những oan nghiệt mà họ gây ra cho cá
nhân tôi, bản án nặng nề đã giết chết anh ấy và hủy hoại cả thời tuổi trẻ của
tôi, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi chấp nhận chế độ Cộng sản tồn tại trên
quê hương Việt Nam, sự áp đặt một chủ nghĩa sai lầm của họ đã và đang giết chết
cả một dân tộc, với bản tính độc tài tham lam, manh tâm bán nước sau khi tàn
phá một nền văn hóa có từ bao đời của cha ông để lại của bọn vô thần Cộng sản
là một tội lỗi kinh khiếp mà lịch sử Việt Nam sẽ đời đời nguyền rủa.
Câu chuyện
của tôi kể ra chỉ để nguôi ngoai nỗi buồn của một cá nhân trong giai đoạn đầy
đau thương của đất nước, nếu so với hàng vạn câu chuyện viết sau ngày 30/4 /75
về những gian nan trên đường tìm tự do mong manh giữa cái sống và cái chết, hay
hoàn cảnh đau đớn khốn cùng của kẻ ở lại chịu đựng đòn thù trong các trại giam
suốt từ Nam ra Bắc đã không có ngày về, thì nỗi đau của cá nhân tôi chỉ là hạt
muối nhỏ không đáng vào đâu trong đại dương mặn đắng của cả dân tộc đang oằn
mình dưới ách Cộng sản hôm nay.
Nếu có phải
làm lại từ đầu, chắc chắn tôi cũng sẽ chọn con đường cũ để chống kháng chiến
chống Mỹ, để cái chết của những người như anh Trần Thắng Tài và bao anh hùng vị
quốc vong thân khác đã nằm xuống cho quê hương Việt Nam sẽ không phải là sự hy
sinh vô nghĩa.
Ngày tháng
buồn hiu không hẳn là của riêng tôi, nó là nỗi buồn chung của một giai đoạn
lịch sử mà chúng ta cần phải nhớ như một kinh nghiệm xương máu. Lịch sử không
thể lập lại, chế độ độc tài Đảng trị phải bị diệt vong thì dân tộc Việt Nam mới
có cơ hội đứng thẳng để xây dựng đất nước giàu mạnh tự do.
Khi cuốn sách
này được in ra và tới tay mọi người thân của tôi là cũng nhờ sự khuyến khích
của nhiều người, bạn bè Thầy cô trường cũ, thân hữu gần xa quý mến và sự động
viên chân tình của nhà tôi, anh Nguyễn văn S., người đã đưa tay cho tôi nắm để
tôi dũng cảm bước qua nỗi bất hạnh nửa đời người.
Xin gởi lời
cám ơn đến tất cả bạn bè quí mến, cám ơn anh- người bạn đời đến muộn đã giúp
tôi nhận ra chân giá trị của cuộc sống này.
Ngọc Ánh
Mời đọc tiếp phần 4
Ngày Tháng Buồn Hiu - Phần 4 - Ngọc Ánh
PHỤ BẢN
NHẬT KÝ MỰC TÍM
Đây là những
suy nghĩ của cô học trò nhỏ nhìn miền Nam tả tơi sau biến động 30/4/75. Xã hội
chủ nghĩa đã biến đổi toàn bộ cuộc sống của người dân và đẩy họ vào bước đường
cùng của đói nghèo, áp bức, bất công… Chân dung thật sự của bộ mặt giả trá Cộng
sản trong thời gian cô có dịp “sống chung với lũ”, sự cảm nhận chua xót phẫn
uất mà cô không biết phải chia sẻ cùng ai trong nỗi cô đơn thất vọng mà cô đã trải qua những năm
tháng đáng nguyền rủa ấy
Cuốn nhật ký
được viết bằng mực tím của thời làm học trò lãng mạn mà văn phong còn vụng về
như viên sỏi thô thiển ném vào khoảng không tăm tối, thật sự cô không hy vọng
nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm của địa đạo Cộng sản hun hút phía trước, mà
cuộc chiến đấu nếu có cũng không chắc gì lật ngược tình thế khi dân quân miền
Nam đang sức cùng lực kiệt trong nhà tù rộng lớn của chế độ Cộng Sản.
“Nhật ký mực
tím” được người thân chuyển ra nước ngoài trước khi tác giả bị bắt và được in
trong Tạp chí Việt Nam Hải Ngoại bắt đầu từ số 44 năm 1979 tại SanDeigo, California.
Gần 30 năm
sau, khi tôi đến Mỹ thì tạp chí Việt Nam Hải Ngoại đã đóng cửa lâu rồi, trong
lúc tôi không biết tìm đâu ra nguyên bản “đứa con đầu tay” của mình thì anh Ba
Trí từ Paris bay sang gặp Ông Đinh Thạch Bích chủ biên của tạp chí VNHN và lục
tìm trong kho báo cũ của ông để copy lại tương đối đầy đủ, đóng bìa màu tím và
anh đã tặng tôi như món quà ý nghĩa nhất trong ngày tôi đặt chân xuống vùng đất
Tự Do. “Cây thánh giá nặng nề trên vai em đã được gỡ xuống, hãy quên đi những đau
buồn đã qua để sống tự tin và hy vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn”.
Xin cám ơn
người anh đáng kính và Ông Đinh Thạch Bích chủ biên của VNHN đã giúp tôi có
được ấn phẩm này.
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgG1TBySLzw9iYNtBw1mdWFpOgB_nWTmk845-JCzGQQReethlf6-iFtkfBj93YNtIf_R2IjdpPVqOCGKTycsaFZPSaHZpPUHYR31KSoGpXePhIrAIRhVHk7Jm6JibO9WgsTLxuL_XeaVWc/s640/%25E1%25BA%25A5n+ph%25E1%25BA%25A9m.jpg
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiwr_BTYVFJuL8QFIicp17ELdVyFprT8oZbOyiGt9PpMsZlTr40Fgb6M5wLo4pEki5qxDJ5TL_ddD_jOK7bNVTMhPWSn3HtWZUqYl_iE0m_TDekjI1npkId0AQqT-ylswKr6hdfqvAIV3U/s640/nh%25E1%25BB%25B1t+k%25C3%25BD.jpg
Tháng 6 năm
1975
“Người trưởng
thành là người tự chọn cho mình một lối đi – mà không phải do kẻ khác vạch sẵn”
– Ta chán nản buông cây bút xuống bàn, khi nguệch ngoạc dòng chữ ký cuối cùng
trong tờ khai sơ yếu lý lịch – do Ba ngồi cạnh bên đọc cho viết - thế là hết.
Đời ta sẽ gắn liền với mảnh giấy dễ ghét đó. Không thoát được. Không thể chạy
trốn đàng nào. Kẻ khác đã vạch sẵn tương lai cho ta – và ta bất lực trong hành
động độc đoán đó. Điều này sẽ làm ta thất vọng ray rứt đến suốt cả đời. Có thể
vậy. Vì ta sẽ không bao giờ được trưởng thành. Vâng, mãi mãi ta vẫn là một con
bé yếu đuối trong “nỗi buồn nhược tiểu”. Chán quá! Thấy mình chẳng quyết định
được gì hết cho cuộc đời. Cứ lừng khừng như rong rêu trôi dạt.
Ta chỉ khoái
làm học trò ôm cặp vô tư. Ta chả ham mần thư ký, thư cóp “sáng vác ô đi - tối
vác ô về” trong cái phòng giấy chật hẹp tù túng.
Thế mà “kẻ
khác” vẫn cứ phom phom dí vào mặt ta bản sơ yếu lý lịch:
- Con ghi vào
đây những sự thật về tiểu sử, về đời tư, về những quá trình hoạt động từ trước
đến nay. Kê khai họ hàng. Kê khai cha mẹ anh em. Đời sống gia đình giai cấp
xuất thân. v.v… và v.v…
Hai mươi phút
ngồi lại để ghi chuyện hai mươi năm. Ta nản muốn phát khóc với cái tên Lê Ngọc Ánh
vô duyên. (đến cái tên cũng do người khác áp đặt.) Biết nói cái gì bây giờ?
Mọi việc đều
ngoài ý muốn, kẻ khác đã dành quyền định đoạt.
- Con phải
học khóa kế toán tài chánh. Con phải đi làm thư ký cho phường. Con phải dành
nhiều thì giờ cho công tác hơn là việc trau dồi văn hoá. Học thì cũng từ từ,
chầm chậm. Lo thực tế trước. Có tinh thần cách mạng trước vẫn hơn, như bà
Nguyễn thị Bình, nhà nghèo không có điều kiện đi học, bà đi làm cách mạng
trước, bây giờ bà đi khắp nơi trên thế giới, nói hàng trăm thứ tiếng đó, có
muộn màng gì đâu! Con nên làm theo ý Ba, thế này… thế này…
Ta ngao ngán
quá đỗi và cũng rầu rĩ quá đỗi. Mấy ngày nay cứ lang thang đi chơi, chả biết
người mình ra làm sao nữa. nhu nhược thất vọng buồn bã… đủ thứ tâm trạng hững
hờ!
Trời ơi! Giá
biết thế, ta ở quách dưới quê cho rồi, dù gì ở đó cũng đỡ tẻ nhạt hơn,
cũng cảm thấy đời an ủi hơn. Bây giờ mới tiếc rẻ khi rời xa thành phố nhỏ nhoi
ấm cúng đó, tiếc mình đã dại dột khăn gói trở lại Sài Gòn khó chịu này.
Mọi sự đã
rồi, có vẫy vùng phản kháng thế mấy cũng vô ích. Liệu mình có đủ can đảm thoát
ly làm thân ngựa hoang trên cánh đồng cỏ úa hôm nay không?
Nhớ tới hàng
chữ ghi trong phần khuyết điểm cá nhân “nhạy cảm và hay yếu đuối.”. Vâng, ta
phải tự thú như vậy bởi vì ta biết khó mà ngoi đầu lên được trong dòng nước
ngược này!
Ngày… tháng…
Đi học một
khóa kế toán. Ngôi nhà rộng trên đường Trần Quý Cáp bị tịch thu lại của chính
quyền cũ. Nghĩ cũng tiếc của trời. Đúng là số Vici đẻ bọc điều - tự dưng đầu
hôm sớm mơi được mần chủ hàng trăm ngàn ngôi nhà với đầy đủ tiện nghi, quả
sướng thật!
Đồng chí Thầy
là dân Nam bộ, tập kết ngoài Bắc mới về, giọng nói bị pha trộn nghe deo dẻo như
đôi dép cao su của ông, câu chuyện cũng hể hả cởi mở. Một lớp có chừng mươi cái
bàn. Chừng năm sáu chục gương mặt đủ giới, sinh viên Luật, Kinh tế, Văn khoa
có, học sinh lớp 10, 11, 12 cũng có. Đàn ông, đàn bà sồn sồn đủ dạng, mấy nàng
thơ ký mặc áo bà ba, đi dép bộ đội cũng ngồi rải rác trong phòng. Mỗi bàn là
một tổ. Mỗi tổ gồm 8 người. Bàn ta là tổ một, kê dưới cái quạt gió lạnh thấu
xương, tổ có hai thằng nhóc, ba đàn bà, ba con gái, ngồi kế bên trái là chị uỷ
viên kinh tài từ rừng cao su miền Đông chường mặt ra, bên phải một nàng sinh
viên Văn khoa năm thứ ba, nàng khoe là cán bộ nòng cốt của đảng, bí thơ bí thở
gì đó hoạt động nằm vùng Sài Gòn - Gia định tỉnh bơ trong thời kỳ “Mỹ Thiệu”.
Nàng xinh xắn khả ái như thế mà đâu có ai ngờ, mấy hôm đầu thấy nàng tưởng như
muốn mê, vậy mà khi nghe nàng tiết lộ lý lịch trích ngang, tự dưng nổi da gà.
Ôi trời! Người đẹp ghê thật! Mỗi tháng vào bưng học tập cứ như đi chợ.
Nhìn tới nhìn
lui trong lớp thấy mình chả giống ai hết. Việt cộng dày đặc. Việt cộng lềnh như
bánh canh, đông như bèo, như kiến. Lòng chán ơi là chán, ta phải làm thế nào
đây để tự cô lập ta?
Ngày… tháng…
Nghe thương
bạn bè quá đỗi là thương khi biết lúc này mình chợt mất mát nhiều quá. Nhìn mà
không biết phải lôi kéo thế nào để đỡ hư hao, để bớt vuột mất. Buổi sáng đi
uống cà phê với Sơn trong công viên “con rùa”, hai đứa kể về bạn bè một thời
còn rong chơi, rộn rã. Đọc thư nhỏ Hương viết từ SócTrăng kỷ niệm, lòng bồi hồi
nhung nhớ không cùng. Những lời trách móc trẻ con, thứ ngôn ngữ đay nghiến nồng
nàn đã khiến ta buồn muốn khóc. Không, ta không quên cái thị xã êm đềm một thời
tuổi nhỏ, Sài Gòn chẳng làm nguôi ngoai chút xíu nào. Sở dĩ ta thích đi chơi
với tên Sơn vì ở hắn ta còn thấy được chút hồn quê trong tình nghĩa bạn bè thân
mật.
“Thời cuộc
càng lúc càng dầu sôi lửa bỏng. Đẩy mạnh tớ vào trách nhiệm không thể thoái
thác. Chấp nhận gánh vác là chấp nhận cái chết đeo đuổi - cầm bằng. Bây giờ còn
ngồi đây nói chuyện với cậu - Biết đâu là lần cuối cùng. Chúa nhật tuần sau cậu
chẳng còn nhìn thấy tớ nữa. Mạng sống tớ giờ mong manh. Tương lai tớ thí vào
ván bài định mệnh. Chuyện thế nào cũng kết thúc. Tớ biết mình đang liều lĩnh.
Nhưng ít ra khi nằm xuống, tớ còn có cái hãnh diện của kẻ làm người – dù kẻ đó
vô danh. Bạn bè sẽ không còn dịp để chọc Sơn quắn, Sơn cận… Sơn nào thì cũng đã
mất rồi!..”
Điếu thuốc
ngậm hờ trên miệng, cái môi dưới trề ra khinh bạc. Cặp kính cận kéo xuống sóng
mũi. Trông tên bạn tôi già cỗi đến tội nghiệp. Thương ngươi quá Sơn ơi! Nhưng
tớ cũng ghét nghe cái giọng điệu như trăn trối đó. Nói bậy vừa thôi chứ. Sao bi
quan lắm thế. Tớ ích kỷ lắm, tớ không muốn mất đi một người bạn nào của tớ,
Thành đi Mỹ rồi, hắn là bạn trai mà dạo còn đi học, tớ khoái cái tính khùng
khùng của hắn. Trông hắn dễ chịu với bạn bè hơn cả Sơn. Vậy mà hắn bỏ đi im
lìm. Tớ cảm thấy tiêng tiếc nao nao. Khi nghe hắn đã rời bỏ quê hương, Sơn mừng
cho hắn trong khi tớ tự hỏi bao giờ hắn mới được trở về với bạn bè ngày cũ. Ôi,
tên Tí quạu đáng yêu của nhóm Du ca Hoàng Diệu. Tết này ai sẽ chạy Vespa chở tớ
đi chơi. Ai sẽ là đầu tàu bao cả bọn đi ăn uống tưng bừng? Ôi tên Thành tưng
tửng đáng yêu của bạn bè!
Chuyện Sơn
làm sẽ đưa đến con đường nào không máu và đổ vỡ điêu tàn. Liệu có thành công
không Sơn? Tớ chỉ sợ nay mai mình sẽ mất đi một người bạn nữa. Đó là điều tớ
không muốn một chút xíu nào. Sơn, cẩn thận nghe Sơn!
Buổi sáng Sài
Gòn trời âm u như sắp có mưa to. Không khí thành phố chợt ngột ngạt đến kỳ dị.
Sơn chở tôi về con hẻm nhỏ, nghe tiếng thở dài mình yếu đuối, buồn hiu.
Ngày… tháng…
Lá thư của
nhỏ Hai vừa gởi lên chiều hôm qua, lá thư cầu cứu của con bò lạc bầy đang chán
cánh đồng cỏ úa, lời thư kể lể, thở than. Tự dưng nghe thương bạn bè vô cùng.
An ủi nhỏ như an ủi chính mình. Cố lên đi Hai. Tao đang gắng hết sức để lôi kéo
bạn bè. Hãy suy nghĩ kỹ trước khi lên đây với tao. Tao đi làm rồi, lương có thể
sống lây lất qua ngày. Bạn bè cứ rủ nhau về hết Sài Gòn, khổ sở có nhau, tao
không muốn đứa nào còn nhọc nhằn lao đao trong cái tỉnh nhỏ đó. SócTrăng không
còn là của tụi mình. Quê hương đã giải phóng nên tụi mình phải đi chỗ khác dung
thân. Đừng buồn nghe nhỏ. Cố can đảm mà chịu đựng, mà sống cho qua thời buổi
khốn khổ này. Tao hiểu hoàn cảnh mày, Ba mày đi tù nên mày cảm thấy chới với,
hụt hẫng, mẹ mày nay đau mai yếu và bầy em nheo nhóc bơ vơ … Tuổi trẻ chúng ta
không thể ngồi đó, khoanh tay than thở. Tuổi trẻ chúng ta cần phải làm một cái
gì cho hôm nay. Dù thế nào đi nữa thì mọi việc cũng cố đến ván cuối cùng. Mày
hiểu ra sao rồi chứ?
Im lặng bây
giờ là một điều tốt, nếu mày thích mày có thể bắt tay với bạn bè. Chúng ta sẽ
đi làm cơn gió nhỏ, hoặc thành trận mưa giông hay chỉ là làn khói mỏng. Thế nào
thì cũng phải có một lần. Suy nghĩ chín chắn đi để sau này không trách mình lỡ
lầm, dại dột.
Tao mong gặp
mày cũng như mong thấy lại nhỏ Hạnh, nhỏ Hương, tên Sùng, tên Kiệt… hàng chục
khuôn mặt bạn bè ngày cũ – hãy kéo hết tuổi trẻ đang loay hoay buồn nản ở Sóc Trăng
lên Sài Gòn kết bè kết lũ, một ngày mà bọn mình đều vui hát, hoan ca.
Ngày… tháng…
Chị Tư biết
thế nào rồi cũng có ngày chị Tư sẽ mất Hùng. Mất từ trong trí tuởng ước vọng.
Mỗi ngày nhìn Hùng đi qua đôi mắt chị tin yêu – những bước chân hăng hái, thần
tượng, tuổi trẻ Hùng hăm hở tiên phong. Nâng dần những nấc thang cao vọng tự
mãn, trong khi niềm tin yêu trong chị đang đổ dốc buồn rầu.
Chị biết Hùng
đang cố tình xóa dần một lời hứa mà đêm nào “hòa bình” hai chị em ngồi trên sân
thượng trông xuống Sài Gòn rực rỡ hoa đăng. Chị không trách Hùng vì chị đã tiên
liệu được điều đó. Viên kẹo ngọt đang ngấm dần trong lòng em sôi nổi. Làm thế
nào để bỏ nó ra khi miệng em ngậm lại đồng ý. Chị buồn nhưng chị phải chịu
đựng. Cố mà chấp nhận thử thách. Sự mất mát gây trong lòng chị nỗi đố kỵ, nhỏ
nhen, dù đôi lúc chị cũng muốn tỏ ra mình cao thượng, khách quan nhưng thái độ
cũng không tránh được vẻ hậm hực vô lý. Chị biết bây giờ mọi chúng ta đều tự
chọn cho mình một lý tưởng riêng rẽ để đuổi đeo, tiếc là hai lý tưởng đó như
mâu thuẫn, như đối chọi lẫn nhau. Làm sao bây giờ hở Hùng? Chị Tư muốn khóc khi
gương mặt Hùng quay đi thản nhiên.
-“Biết đâu về
sau Việt Nam lại chẳng có hai lãnh tụ đã từng ăn chung mâm, đã từng ngủ chung
gối”.
Ừ, đau đớn
trớ trêu là thế đó, thú thật chị cũng không thích như vậy một chút xíu nào,
nhưng có lẽ chị em ta đang bị đặt trước một hoàn cảnh khó mà thối thoát được
phải không em? Ừ, biết đâu về sau Việt Nam lại chẳng có hai lãnh tụ. Chị cũng
cố mà nghĩ như vậy nhưng sao buồn quá nhóc ơi!
Ngày… tháng…
Đi học tập,
tại sao chị lại bắt buộc em đi học tập? Tư tưởng em đâu cần ai cải tạo, đời
sống em đâu cần ai thay đổi. Đó là một lớp ai thích thì vào, không thích thì
ra. Thế thì tại sao chị lại nằng nặc gọi em chui vào cái lớp ngột ngạt, cứng
ngắc đó như những người của chế độ cũ bị bắt buộc đi cải tạo tư tưởng. Hay là
cách nói giáo điều sắt thép hơn “sự tẩy não”. Học tập chính trị chỉ thích hợp với người Cộng sản.
Em là học trò, không phải ngụy quân ngụy quyền theo kiểu nói phân biệt đối xử,
em không phải là Cộng sản nên em không nhất thiết phải học tập chính trị. Đầu
óc em ra sao bấy lâu nay thì giờ vẫn dính cứng như vậy. Mười Bác Hồ của chị
sống dậy cũng không thể tẩy não được em.
Chưa ý thức
đường lối cách mạng ư? Ừ, chị cứ kiểm thảo em như vậy đi. Em nào sợ gì đâu. Đi
làm về, suốt ngày đã mệt, chưa tắm rửa, chưa ăn cơm, tối phải bắt đi học tập.
Cách mạng con khỉ gì mà lợi dụng sức lao động lắm thế. em nói không đi là không
đi. Chị sẽ đánh em à! Em đã lầm lỡ để đất nước này vào tay Bác và Đảng, em đã
dại dột khi về ở với chị, với ba. Nỗi ân hận chưa nguôi thì làm sao em có thể
tỉnh bơ mà chịu đựng, mà thích nghi. Đời sống mới đầy thành kiến khắt khe này
khiến em luôn dè dặt, nghi kỵ, em không thể tin Bác, tin Đảng, tin cái gọi là
chế độ Cộng Sản thiên đường hoang tưởng, mơ hồ của chị được. Chị giận thì em
chịu. Ba có đuổi thì em đi. Nhà này chứa toàn Vici, em không chấp nhận đời sống
Xã hội chủ nghĩa này. Em phản động. Em ngoan cố. Mặc em!
Ngày… tháng…
BẢN TỰ THÚ
GỞI CHO BA
Thưa ba,
Khi con từ
giã cô dượng Sáu lên Sài Gòn thì tự lòng con đã có một quyết định dứt khoát:
sống nhờ vả vào gia đình trên này để tiếp tục học và vươn lên trong tương lai.
Hai tháng nay
con đã cố hòa mình trong đời sống mới này. Gia đình mà gần hai mươi năm không
sống chung đụng, gần gũi, tâm tính con khó mà biết được ra sao. Con không quen
cái tính hay cằn nhằn của má, cái vẻ soi mói thành kiến của chị Hai, cái tính
hời hợt tình cảm của chị Ba, sự thân mật không tìm thấy của lũ em nhỏ.
Cách mạng của
ba thành công, từ lâu nay con không có tinh thần “xã hội chủ nghĩa” như chị Hai
nên con không yêu bác và đảng. Con không quen gia nhập vào đoàn thể này hay
phong trào kia. Có lẽ đầu óc con bấy lâu nay chỉ quen sống ích kỷ một mình,
cách sống đó con gọi là Tự Do và ba thì gọi là vô kỷ luật. Bây giờ con đã về
với ba, coi như con đã tạm chấp nhận. Cái gì cũng từ từ, Ba muốn con làm quen
với cách mạng thì ba phải cho con thấy rằng cái gia đình này là nền tảng cách
mạng thể hiện tất cả những tình cảm thân mật, gần gũi. Má không phải là “con
yêu con ghét”, chị Hai không phải xem như là con”phản động”, con “ngoan cố”, để
khi sống trong gia đình này con không mang mặc cảm con là tên “ngụy” mới về quy
hàng.
Con đi học
tập chính trị không phải vì chị Hai rầy, vì Ba la mà vì anh bí thư chi bộ nói
với con những lời nhỏ nhẹ, dụ cho con thấy “bổn phận” khi con muốn làm cán bộ
của phường, điều nhỏ nhoi này đủ chứng tỏ với ba, con chỉ quen ngọt chứ không
quen cay, chị Hai đã bắt buộc con đi học tập nên con không đi.
Khi về ở với
ba, con không đòi hỏi gia đình chiều đãi con như hồi con ở với cô dượng Sáu,
con chỉ mong được tiếp tục đi học và nếu có phục vụ cho guồng máy cách mạng của
ba thì cũng không phải vì lòng yêu nước mà chỉ để kiếm tiền tự nuôi thân, không
phải làm phiền nhiều đến gia đình. Con đi học và đi làm, hạn chế hết mọi bè bạn
vui chơi thuở trước. Con thực tâm muốn sửa đổi đời sống thì ba cũng nên thông
cảm cho con. Cách mạng hay hay dở là ở cách hành động cư xử đúng đắn tử tế, con
đi làm hay đi học vẫn giữ đúng tư thế của con. Ba má đừng thành kiến nhiều quá.
Dù sao con cũng đã lớn rồi. Con đã ý thức được tất cả.
Con nói thật
hết tâm trạng kỳ cục của con để ba hiểu. Đó là những nguyên nhân đã khiến con
có những hành động ngang bướng với gia đình. Tùy ba suy xét cho con. Nếu ba
không đồng ý, con sẽ thu xếp về lại Sóc Trăng. Con muốn nói thẳng mọi việc cùng
ba như vậy, con xin lỗi Ba!
Ngày… tháng…
Ta đã ngủ một
giấc ngọt ngào trong ngôi nhà đó, bình yên và không mộng mị cho đến suốt đêm.
Buổi sáng, ta đi ăn với ba má Sáu, đi thăm lại trường lớp, bạn bè dù mọi sự đã
đổi thay. Buổi chiều, họp mặt dung dăng với lũ bạn thân yêu ngày cũ, nói cười,
tâm sự lao xao. Một ngày, ta đã sống trọn vẹn trong thành phố thân yêu một thuở
đó. Vui cũng nhiều mà buồn cũng lắm. Dù hồn nhiên vẫn rộn rã, vui chơi vẫn đầy
tay, thế mà tại sao ta nghe như có cái gì vướng đục, tối tăm. Phải chăng trong
thành phố này, những con người đang trằn trọc băn khoăn về một tương lai mơ hồ
nào đó. Bạn bè ta, người thân ta như đang xoay trở mệt nhoài trong thứ xích
xiềng tù túng. Cảm tưởng như mình đã ích kỷ khi bỏ đi, để lại đằng sau nỗi hụt
hẫng tuyệt vọng của mọi người.
Những khuôn
mặt nhăn nhó. Những lời kể than vãn. Ta đã buồn đến ứa nước mắt khi nghe nói về
thứ hách dịch thô kệch quê mùa của “người anh em” trong vùng mới giải phóng,
bằng một thứ ngôn ngữ mai mỉa, châm biếm: “trình độ ngu dốt còn cao” của các
cán bộ du kích.
Bạn bè ta bất
mãn, người thân ta chê chán cho ta thấy rằng thời thế đã tạo nên những chú vua
con ngớ ngẩn lố bịch ngay trong thành phố của mình.
Tôi an ủi tụi
nó như an ủi chính mình: “Cố lên chúng mày, cố học và cố thi tháng 9 về hết Sài
Gòn, bọn mình sống dựa với nhau, ở đây ngột ngạt quá chừng rồi. Tớ hiểu và tớ
thương bạn bè. Dù tớ có nhiều thiện chí nhưng ở đây, cách tốt nhất là mình nên
im lặng và cố chịu đựng.
Gần 3 tháng
rồi. Vậy mà thành phố vẫn không tiến bộ nổi. Thật tệ! Vẫn có những tên du kích
lạc hậu, thành kiến, mở miệng ra là kiểm thảo, là phê bình. Vẫn có những tên
nhân viên nhà nước soi mói và tò mò vào cái tự do tối thiểu của dân chúng. Vẫn
có những quan lớn quan bé hách dịch với đám người bị khép tội ngụy quân, ngụy
quyền.
Tôi thấy thấm
thía khi nghe tin mấy ông thầy bị bắt vô trung tâm cải huấn cơ cực và đầy bịnh
tật. Không được đi thăm nuôi. Không được đi tiếp tế. Mặc mỗi cái quần đùi, làm
công tác giữa trời nắng chang chang. Những tên cán bộ chính trị xỉa xói vào
mặt:
- Các anh
đáng tội hơn những tên ngụy quân, ngụy quyền. Các anh đã đầu độc cả một thế hệ
trẻ.
Người thầy giáo
cúi mặt chịu đựng. Bạn bè tôi uất ức phẫn nộ Bố khỉ! Những thằng dốt lên mặt
dạy đời. Các anh ganh tỵ với giai cấp trí thức vì trình độ ngu dốt của các anh
gấp trăm ngàn lần họ, phải không?
Ta về Sài Gòn
kể chuyện lại với ông thầy cũ – ông thầy mà đầu óc từ ngày “giải phóng” đến nay
chỉ xem toàn truyện bằng tranh, với ý hướng xây dựng lý tưởng tốt đẹp huy
hoàng. “Bây giờ thì thầy đã hiểu tại sao em lại có thái độ phản kháng hung hăng
đó. Lỗi không phải ở em mà chính là ở những thằng đầu sỏ ngu xuẩn và dốt nát
đang nắm đầu nắm cổ dân chúng mà không biết cách cai trị, không biết cách chỉ
huy. Ở đây, tại thành phố này người ta dạy em về chính nghĩa cách mạng, em đồng
ý những xây dựng tốt đẹp của họ đối với nhân dân, đất nước. (nếu quả thật họ có
chính nghĩa) Nhưng em tức là tại sao trong hàng ngũ lại có quá nhiều những con
sâu ngu ngốc làm mất lòng dân, gây chia rẽ giữa quần chúng và chính quyền vì
thái độ vụng về thô lỗ của họ, mà biết đâu chính cái bộ máy thống trị cũng muốn
lập lờ đánh lận con đen trong chính sách chia để trị?
Em không phải
là kẻ thích đi châm chọc và phá rối đời sống của cả một đất nước, mà em muốn đi
xây dựng hòa vào dân để thấu đáo tâm tư nguyện vọng của họ, mơ ước của đồng bào
miền Nam nhỏ nhoi tầm thường như miếng cơm manh áo, họ chân thật và khao khát
sự tự do độc lập đúng nghĩa của một con người”
Miền Nam tôi
đâu có đòi hỏi các anh phải dời sông lấp bể, gọi nắng kêu mưa. Các anh đến đây,
tưởng như mình là bà tiên, cầm chiếc đũa thần gõ côm cốp trên bàn thờ Dân Tộc
mở mắt ra, mọi sự đều đã xa lạ, đổi thay. Và người ta phải ngạc nhiên tự hỏi
“bộ tôi không phải là tôi nữa hay sao?” Người ta hoang mang hốt hoảng trước
những xung đột, mâu thuẫn giữa hai thời thế. Ai là ngụy? Mà ai không là ngụy?
Lúc này, em thèm được tỉnh – hoặc được điên. Đừng dở dở ương ương như bây giờ.
Khổ lắm thầy ơi!
Ngày… tháng…
Đại biểu hai
miền Nam Bắc mở hiệp thương thống nhất đất nước. Nên mừng hay nên khóc đây?
Thấy chưa? Trung lập chỉ là một hình thức trấn an dư luận trong giai đoạn đầu,
một thứ lừa phỉnh chua cay nhứt, thành phần thứ ba chỉ là con cờ chính trị,
thậm chí họ không có danh vị để được đứng trong hàng ngũ chóp bu của cái gọi là
Trung Ương Đảng, mấy ông tập kết về chắc đau cái vụ này khi những cái ghế ngon
lành dành cho chức vụ quan trọng hầu hết đều do miền Bắc chễm chệ lên
ngôi.
Đồng ý nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Thống nhất Nam Bắc một nhà là điều
hết sức đương nhiên nhưng có thật là những người “đại biểu dân tộc” đó có nhiệt
tình yêu dân, yêu nước không? Hay chỉ là cái cớ để xâm chiếm miền Nam theo
chính sách độc tài đảng trị?
Ngày… tháng…
Tại sao ta
lại có tên trong danh sách kết nạp đoàn viên? Tại sao người ta cố ý chọn như
vậy? Ta có thật tình hoàn hảo với tiêu chuẩn “trung với Đảng, hiếu với dân,
chấp hành nghiêm túc mọi chủ trương của Bác và chính quyền cách mạng” không?
Hay ta đã từng ăn cơm quốc gia mà nhất định không thờ ma Cộng sản? Ta thấy bị
vướng víu nhiều quá, những thói lề nội qui, những tác phong nghiêm túc, sự
“chỉnh chu” hoàn hảo đến khó chịu, có cái gì đó ngứa ngáy lắm!
Nga bên
phường ủy đã than thở “vào đoàn tí là bị hạch thế này, tí là bị kiểm thảo thế
kia. Lúc nào cũng chực chờ bằng một giọng điệu gay gắt: “Đoàn viên mà thế này
à!”. Chán ghê!” tôi cười khẩy “ai biểu?”
Tôi bình thản
nói với ba tôi về quyết định không thích vào đoàn. Chị Hai tôi dẫy nẩy gào lên:
- Bộ mày điên
à? Được vào đoàn, bộ tưởng dễ lắm hả? Phải phấn đấu bằng xương máu mới được kết
nạp chứ bộ ai muốn thì được sao?
Tôi lạnh
lùng:
Vì em không
tốn một giọt mồ hôi nào cho công cuộc kháng chiến thần thánh vĩ đại của Ba và
chị, nên em không xứng đáng được làm đoàn viên.
Ba tôi giận
dữ quát tháo:
Tư tưởng con
vẫn còn ngoan cố con sợ vào tập thể, con sợ sống với đám đông. Con thối thoát
đủ chuyện nếu con không muốn kết nạp thì con hãy xin nghỉ làm đi, Ba không giải
quyết được gì cho con hết. Con cứng đầu lắm.
Tôi nghĩ tới
anh Tùng đang sống chui rúc ở đâu đó để trốn cải tạo bởi vì anh khó mà thoát
mạng với bọn Việt Cộng ác ôn này khi chúng biết trước kia anh đả từng làm tình
báo trong quân đội cũ, tôi cũng nghĩ tới cô dượng Sáu ở dưới quê ngày đêm vất
vả mưu sinh để lén lút tiếp tế cho con trai đang chui nhủi như con trùng con dế dưới
ánh sáng chói chang của mặt trời đỏ quạch màu cờ Cộng sản.
Con phải làm
sao đây hở má? Em phải làm sao đây hở anh?
Tâm trạng xao
động bối rối, cuộc sống vây kín như thế này. Liệu mình có cố thủ được không?
Tôi cảm thấy mình cô đơn yếu đuối và muốn khóc quá!
Ngày… tháng…
Cái phường này càng ngày càng xuống dốc. Tai tiếng từ trong nội bộ ban ngành mà ra. Phường đoàn kết nạp bừa bãi, thiên vị phê bình theo chủ quan khe khắt. Danh sách đề nghị kết nạp từ Ủy ban đưa qua, bị bác bỏ với những lý do mơ hồ. Trời ơi! Cách mạng gì mà tệ quá, bè phái cá nhân nhỏ mọn, xấu xí đủ thứ.
Không cần! Ta
vái trời cho nó xóa tên ta trong danh sách kết nạp đoàn quái gở đó, ta đâu
thiết tha được vào cái tập thể hỗn độn này đâu? Vậy mà tại sao bọn họ thích cổ
võ quá vậy? Được vào đoàn là danh dự, là niềm tự hào của tuổi trẻ. Nổ như kho
đạn, có quái gì trong đó đâu mà tự hào vẻ vang, không có ta trong vụ này nhe, màu
mè hợm hĩnh, ta chúa ghét thùng rỗng kêu oang oang, như chiều nay khi đi chơi, lúc mặc chiếc quần xì-gà khá
mode vào người, con nhỏ Việt Cộng chung phòng vội phê bình:
- Cán bộ cách
mạng mà ăn mặc như vậy, nhân dân sẽ đánh giá thế nào?
Ta cáu sườn
ngắt lời Vi-Xi:
Xin các đồng
chí! Cán bộ cần phục vụ tốt quần chúng. Cần hoàn thành tốt công tác. Cần có tác
phong đứng đắn khi làm việc, thế là quá đủ, còn ngoài ra đời sống riêng tư, thì
cũng phải cho người ta được thoải mái tí chứ! Đi chơi, ăn mặc thế nào tùy thích
miễn đi làm giản dị, khiêm tốn, không chướng mắt mọi người là được.
Ta đi tơn tơn
ra cửa để khỏi tay đôi với nó, vậy mà con quỷ nhỏ vẫn cong cớn vói theo “chị
đừng có tư tưởng chủ quan thế không tốt.”
Cãi với nhỏ
này tốn sức lao động quá, giá mà được nện cho nó một trận thì đã tay, ta không
thiết tha được kết nạp vào đoàn nên ta không cần giữ ý với nó, mày tức thì cứ
đi báo cáo bí thư kiểm điểm, ta cứ mặc quần xì-gà và cứ tà tà ra chợ chơi. Làm
gì nhau nào?.
Ngày… tháng…
Vấn đề kết
nạp vào đoàn vẫn là một điều khổ tâm, khó nghĩ. Làm sao bây giờ? Ta không có
một lối thoát nào, thật khó chịu với những “đồng chóe” mà ta đang phải sống
chung đụng, không thể chịu đựng được mấy con nhỏ bí thơ, bí thở gì đó đã khiến
ta ngột ngạt vì những hạch sách vớ vẫn, tí là dòm ngó, tí là phê bình kiểm
điểm, cái tập thể đáng ghét và chán phèo! Vào đó để nhập bọn làm giặc à?
Tên Bảo kêu
chuẩn bị tư tưởng để kiểm điểm trước khi kết nạp, bị mụ Tuyết quay sơ ít câu để
thăm dò kiến thức chính trị. “Tư tưởng em chưa chuẩn bị gì hết. Chị đừng hỏi em
vô ích. Việc vào đoàn, theo em nghĩ, là một việc ắt phải như vậy. Thú thật, em
không hề lo sợ hay ngại ngùng khi biết mình sẽ được vào đoàn. Chỉ giải thích
rằng trước ngày giải phóng, em không phải là đặc công nằm vùng hay giao liên
thành phố hoặc ít ra cũng là sinh viên đấu tranh.v.v và v.v, chỉ vì em là con
của ba em nên việc vào đoàn, em biết chắc rằng trước sau gì cũng phải vào đó.
Rồi chị sẽ thấy. Em thật tỉnh táo, thật bình thản khi tuyên thệ. Em chắc rằng
mình sẽ không mảy may xúc động. Vì, thật lâu rồi, em đang ở tư thế sẵn sàng và
chờ đợi “Thanh niên kiên quyết. Anh dũng tiến lên. Nhất định không sợ… chó”
Mụ Tuyết cau
mày khó chịu khi nghe ta nói nhại lời thề thiêng liêng của Đảng “Em đừng có bôi
bác như vậy!”
Bây giờ người
ta hay dùng chữ bôi bác để thay thế cho từ thóa mạ, lăng nhục thật buồn cười
với ngôn ngữ cách mạng hổng giống ai! Ừ, có lẽ ta nên dứt khoát tư tưởng là
hơn, mà trông ta cũng giống cách mạng đấy chứ, các “đồng chí” cũng thích dùng
từ dứt khoát để chứng tỏ mình giữ vững lập trường chính trị, Ôi trời, chắc ta
phải dứt khoát để dứt khoát cái vụ lằng nhằng này.
Ngày… tháng…
BẢN TỰ THÚ
CON GỞI CHO BA LẦN THỨ HAI
Con biết. Con
ích kỷ, con khó tánh. Cái tôi cá nhân trong con bấy lâu nay đã đeo nặng trong
người, khó lòng dứt bỏ trong một sớm một chiều mà được. Con thấy mình khó khăn,
khổ sở khi bắt buộc sống trong một môi trường tập thể với những khuôn phép tù
túng mà con không tài nào dung hòa nổi. Trong thời đại này, nếu con vẫn còn khư
khư ôm lấy sự riêng tư vặt vãnh của mình, con biết mình sẽ bị thiệt thòi, thua
kém trong cái đại đồng tập thể mà đời sống xã hội mỗi ngày một thay đổi. Nhưng
con không thể làm gì khác hơn được, ngoài nỗi thụ động, bởi vì không có ai chịu
khó hiểu con. Đối với gia đình này, con lại còn thụ động hơn nữa.
Những biến cố
lớn về chính trị. Những thay đổi trầm trọng của bộ mặt xã hội đương thời, mọi
việc xảy ra dồn dập, bất ngờ. Con chưa kịp chuẩn bị gì hết. Đầu óc con hoang
mang, dè dặt. Và con chỉ muốn được yên.
Đừng ai bắt
con phải thay đổi (nhưng con không thể làm gì khác hơn được) dù chỉ là một thay
đổi nhỏ nhặt nhất trong đời sống hàng ngày. Con biết mình đã vô lý trong thái
độ gần như hậm hực ngoan cố đó.
Cách mạng xảy
ra khi mà con đang sống bình yên - trong sách vở, bạn bè. Biến cố «giải phóng»
của Ba đột ngột như tiếng nổ lớn làm chấn động đời con, như đã nói, bất ngờ đến
độ con chưa kịp chuẩn bị đối phó, tư tưởng con đang vương đầy hình ảnh của một
thời cũ, sự liên hệ mật thiết đã khiến con phải xúc động bùi ngùi.
Theo ba lên
Sài Gòn, đầu óc con như một sự tính toán thực tế trút bớt gánh nặng cho cô
dượng Sáu trong thời buổi cơm áo khó khăn này, lên Sài Gòn để tìm cách tự nuôi
thân, để con có cơ hội theo đuổi cái mộng học lên cao của mình, bước vào giảng
đường đại học, tham gia công tác cách mạng như một phương tiện nhằm thực hiện
những tính toán đó. Con không hề nghĩ là con đang làm một thanh niên có lý
tưởng cách mạng để phục vụ quần chúng, này nọ, mà thật lòng con chỉ nghĩ đến
vấn đề thực tế nhất, con đi để có cơm ăn. Vậy thôi!
Lúc mới bắt
tay vào việc, con vẫn chưa ý thức được trách nhiệm của mình. Ba làm cách mạng –
ba sống ngoài cá nhân con. Chị Hai sống ngoài cá nhân con. Chỉ có con sống với
chính con. Nên con không muốn suy nghĩ gì dài dòng hết.
Nhưng sau mấy
tháng sống và thở trong cái không khí tập thể đầu tiên đó, con có cảm thấy dễ
chịu, thoải mái. Dễ chịu, vì biết mọi người cũng như mình, cũng có một lối làm
việc hăng hái, tích cực và đầy thiện chí phục vụ quần chúng, cũng có một cái
nhìn nhận xét khách quan mà không hề ngụ ý tuyên truyền hay chỉ trích. Con
thoải mái vì nhận ra mình đang làm một điều tốt và đúng, xã hội con đang sống
tự dưng bị đói nghèo, cách mạng đến lấy cơm gạo của họ và phân phát lại cho họ
như kẻ ban ơn. Ba có thấy kỳ cục không? tự dưng con “được” đi làm cách mạng để
giúp họ, con có cơ hội tiếp xúc với mọi người để nghe và hiểu họ như thế nào,
con được trực tiếp bắt tay vào việc phục vụ cho lợi ích nhân dân(?) dù chỉ là
hình thức.
Làm việc ở
Sài Gòn thấy hăng hái, thấy phấn khởi bao nhiêu thì khi về Sóc Trăng con lại
chán nản và bực dọc bấy nhiêu. Mọi việc xảy ra trong tỉnh nhỏ với nhiều người
làm cách mạng mà không ra cái gì hết, là một chuyện không thể chấp nhận được.
Con đã thấy những cái sự thật đáng buồn trong thành phố của con. Con đã nghe
những lời than vãn xót xa đó của dân chúng. Con bực dọc tự hỏi tại sao họ lại
húng hiếp người dân quê nghèo khổ?
Với ý nghĩ
đó, con chỉ muốn mình đứng hẳn vào tập thể, sẵn sàng đóng góp để xây dựng lại
cho tốt đẹp hơn. Điều này có nghĩa là con đã ý thức được trách nhiệm cùng bổn
phận phải làm của mình trong buổi giao thời như bây giờ.
Có thích thì
mới làm được. Có thích cách mạng thì con mới dám tin mình làm cách mạng được.
Còn ba, thì ba không đặt niềm tin vào thiện chí đóng góp của con. Ba nghi ngờ
con nhiều quá, vì đàng sau bộ mặt quá khứ của con đã có sẵn một lô thành tích
mà ba không thể chịu được bất cứ điểm nào.
Ba nói đúng,
con còn tự ái ích kỷ, con sai lầm mù quáng, con phóng túng riêng tư thì con
không thể làm cách mạng được. Ba thay mặt cách mạng. ba không chấp nhận cái đời
sống cá nhân vô lý của con. Và con chỉ thích làm việc với người nào chịu đặt
niềm tin nơi con. Bởi vì khi biết chắc có người sẵn sàng tin mình thì con mới
làm việc được.
Con là người
rất thích tâm sự và thích được cảm thông. Con không muốn mình phải giấu diếm gì
hết. Chuyện gì con cũng muốn nói thật. Bởi vì khi nói thật con sẽ thấy nhẹ nhõm
trong lòng. Bạn bè, thầy giáo, là những người con nói thật nhiều nhất. Còn đối
với gia đình, con ngại nói thật, là vì con sợ những ý nghĩ, những hành động của
mình sẽ không phù hợp nổi với cha mẹ, với những bậc họ hàng lớn tuổi.
Những điều mà
con nghĩ về cách mạng trong suốt mấy tháng qua, con nhìn nhận là mình có thay
đổi lập trường, có thay đổi một chút xíu đời sống cá nhân, có thay đổi một chút
xíu cảm nghĩ về tư tưởng mới. Chính những cái chút xíu đó đã chứng tỏ con đang
cố gắng nhích từng bước để đi đến chỗ hòa hợp với gia đình, với xã hội. Nhưng,
lạ một điều, là tại sao mỗi lần nghe ba nói là con lại mang cảm tưởng không đẹp
với cách mạng? Có thật cách mạng cũng gò bó và khe khắt như ba nói không? Bao
nhiêu cái hăng hái mà con đã tạo dựng trong mấy tháng nay chợt biến mất.
Ấn tượng về
đời sống tập thể sắp tới đã khiến con chùn chân. Bao nhiêu là khuôn khổ bao
nhiêu là kỷ luật cứng ngắc mà ba đã thẳng thắn đưa con nhìn vào thực tế! Thú
thật, con ngại quá! Liệu mình có chịu đựng nổi hay không? Hay nửa chừng lại giở
thói thụ động, buông tay? Con nghĩ giá như ba đừng nói gì hết, ba cứ dẫn con
đi, chừng gặp trở ngại gian nan nào thì mặc con thấm thía cái khó khăn đó, tự
con khắc phục lấy lâu ngày rồi cũng quen đi. Tình cảm tập thể sẽ tạo cho con
môi trường sinh hoạt thuận tiện nhất.
Lần kiểm điểm
đầu tiên như một lời tự thú, con ngại ngùng khi phải sống trong tâm trạng của
kẻ có tội đối với xã hội (mà thật lòng con đã làm gì nên tội khi con không phải
là ngụy quân ngụy quyền nợ máu với nhân dân như cách mạng của Ba đã khép tội họ
và ba đã khép tội con?) con chưa lần nào gặp phải trường hợp lạ lùng này. Thái
đội và sinh hoạt của gia đình nói riêng, cũng như của xã hội bây giờ nói chung,
vô tình đã làm cho con có sự so sánh. Và thú thật, giờ chót của buổi kiểm điểm,
con chỉ muốn sống lại khoảng đời bình thường cũ. Bởi vì, từ khi ba vạch rõ sự
thật mà con đang tưởng tượng sẽ dấn thân vào, con cảm thấy mình không đủ khả
năng. Con yếu đuối khi phải sống một mình một ngựa đối phó với bao nhiêu điều
mâu thuẫn trong lòng. Con phải dứt bỏ không còn manh giáp cái đầu óc cũ kỹ của
con. Con phải sửa đổi lại tư tưởng, phải làm lại cuộc đời mà trước đây mình đã
lầm lẫn, lạc lối. Thú thật, con ngại quá! Con không thích sự thay đổi, không
thích sự xóa bỏ, dù một xóa bỏ nhỏ nhặt nhất.
Con vẫn muốn
là chính mình chứ không phải là ai khác, ba đừng đóng con trong cái khung Xã
hội chủ nghĩa của ba như trái cây vú ép, chín sượng chín sần hay như trái bầu
trái bí bỏ vô cái gọng để rồi nó chỉ được lớn nhỏ rập khuôn cố định cho ba sản
xuất đại trà, có thể trái nó lạ, nó đẹp theo kiểu mẫu nào đó nhưng nó vẫn là
bầu bí đúng như bản chất nguyên thủy của nó.
Ngày… tháng…
Chuyến xe
hàng lắc lư. Câu chuyện gật gù với hành khách ngồi bên cạnh để ngăn cơn buồn
nôn mệt mỏi, đứa con gái chỉ nghĩ nhiều đến buổi gặp gỡ sắp tới với gia đình bè
bạn. Trời chạng vạng tối chiếc xe ném tôi xuống với đống hành lý ngổn ngang
trên ngã ba đường vào chợ. Ngoắc chiếc xe lôi đang chạy tới.
- Vào hẻm 3
đường Bố Thảo bao nhiêu đó chú?
-Trăm rưởi.
-Trăm đi.
Gã xe lôi
nhăn mặt:
- Trả giá chi
cô ơi! Nói hổng phải tả oán, chứ giờ này nhà tôi còn chưa có hột gạo nữa kìa.
Con đường đá
gập ghềnh. Mặt đứa con gái bắt đầu tươi tỉnh:
- Sao, chạy
xe khá hông chú? Hòa bình rồi mà. Đói sao? Tình hình dưới này dễ thở lắm không?
Tết nhứt thế nào?
Giọng gã xe
lôi vẫn não nuột:
- Khá gì được
mà khá cô ơi! Lo chạy gạo từng bữa muốn hụt hơi, gạo phải đăng ký mua từng lít
có bữa không mua được ăn, đói dài dài mà Tết nhứt cái nỗi gì? Có nghẹt thở cũng
hổng dám hé môi than thở với ai. Làm dân bây giờ kẹt đủ thứ. Có miệng mà nói
hổng được mới tức chớ cô!
Chiếc xe lao
đi như nỗi lòng hậm hực của chủ nó. Đứa con gái vẫn giữ nụ cười cởi mở trên
môi, giọng thân thiện
- Trong khung
cảnh lờ mờ tối thì ráng chịu đựng chớ biết sao bây giờ? Thời buổi này chỉ biết
thông cảm nhau mà sống. Mà hình như ở địa phương đầu óc người ta đâm ra hẹp hòi
thiển cận, cứ thành kiến kín bưng phải không chú? Nghe nói ở địa phương, mỗi
cán bộ là một ông trời con mà. Thảo nào dân chúng họ “phản ánh” quá chừng thấy
sốt ruột!
- Vậy mà hổng
ai dám hó hé hết cô ơi! Bắt đi học tập cải tạo là có nước bỏ vợ bỏ con, giải
phóng gì mà dân khổ quá trời
Xe lôi ngừng
trước hẻm nhà, nắm tay gã xe lôi thân mật:
- Thôi, đừng
buồn. Ráng sống cho qua ngày nhe chú! Mình đang ở thế kẹt mà. Lấy hai trăm mua
gạo cho con. Dù gì cũng ăn Tết với người ta.
Nụ cười gã
héo hắt như mếu
- Cám ơn cô.
Ngày… tháng…
Buổi tối phải
đi thăm lại bạn bè, thăm lại phố xá Sóc Trăng. Thay đồ, chải tóc trong nỗi nôn
nao như ngày còn trẻ (mà mình đâu đã già nua, mới tròn hai mươi mà, có lẽ cách
mạng đã khiến mình thấy như còm cõi)
Con đường
giữa chiều hăm chín Tết mà sao vắng vẻ đìu hiu, “giải phóng” hơn nửa năm rồi,
dân chúng đói muốn chết mà lòng dạ nào ăn tết, mà rộn ràng lân pháo đón Xuân
sang,
Ta gặp lại
vài khuôn mặt bạn bè cũ, Sùng vẫn ngồi ở góc đường nhà Võ, đăm chiêu nhả khói
ngóng trông nhỏ Hương vẫn chưa về. Tí Cồ vẫn còn cồ trong nụ cười có khóe răng
vàng hớn hở “bạn bè hôm qua ngồi nhắc về cậu, mình biết thế nào cậu cũng về mà,
làm sao cậu bỏ Sóc Trăng cho đành.”
Ừ sao quên
cho đành, nhớ tiếng đàn Guitar của Sùng trong nhóm du ca “xin chọn nơi này làm
quê hương dẫu cho khó thương” Tụi mình còn có lựa chọn nào khác được đâu? Quê
hương bây giờ khó thương thiệt rồi khi thấy cái nón cối xanh, đôi dép râu nhan
nhản trên khắp nẻo đường Việt Nam.
Ngày… tháng…
Ngủ một giấc
no nê, sảng khoái. Sáng Má vào giường vỗ đầu con gái “Dậy đi con. Dậy uống cà
phê sữa”.
Nằm mê cũng
thú mà thức dậy cũng thú. Ước gì thời gian cứ dậm chân tại chỗ mãi nơi đây, cho
ta sống hoài trong cái hương vị của mùa xuân ấm áp bên gia đình như thuở nào.
Nắng quá
nhưng vẫn thích đi thăm lại bạn bè. Đến rủ Võ lại nhà Kiệt. Tội nghiệp cậu Út,
trưa đổ mồ hôi phải cong lưng đạp xe chở ta lên tận nhà máy nước, đứng thập thò
trước cổng thấy Kiệt mặc xà lỏn đang cầm chổi quét nhà lia lịa, khi Võ dựng xe thì
hắn ngẩng đầu lên reo vui «Ủa! chị mới về.”
Ta với Võ nhìn
hắn cười khúc khích «Thưa thầy, em đi chơi ạ!” Trông giáo Kiệt khỏe ra, nghe
Quan nói Kiệt ở trỏng mần lớn lắm hả? Vừa hiệu trưởng, vừa giám thị, vừa thầy
giáo, thầu hết phải không? Sao, học trò dễ dạy không? »
Cũng được,
giáo viên vùng sâu vùng xa mà chị, học trò có thằng đứng gần bằng tôi, công
việc thì khỏe lắm, muốn cho học trò về giờ nào thì về. Lúc đầu bà con cho ở
trong nhà hổng tốn tiền, về sau thì đều đều mỗi tháng không thiếu một đồng, quê
quá! Ơ, mà chị ở Sài Gòn về hồi nào? Sao thằng Quan biết tôi ở trỏng cà? Lâu
quá, tôi cũng chưa gặp nó. Hổng biết bây giờ nó ra sao nữa? Ờ, mà chị ở Sài Gòn
có nghe cái vụ lộn xộn đánh nhau bên cầu chữ Y không?
- Không. Tớ ở
bên Chợ Lớn xa thấy mồ. Chuyện gì xảy ra ở đâu cũng như điếc, nghe gì!
- Quên, xin
lỗi nhe. Tôi lẩm cẩm như ông già quê trong chỗ tôi dạy học. “Cháu biết thằng
Minh không? Thằng Minh cũng đi học nữa. Cháu biết Tư Mập không? Tư Mập quen với
bác, buôn bán ở Sóc Trăng đó!” Trời ơi! ổng tưởng chợ Sóc Trăng nhỏ bằng cái
xóm quê của ổng. Chút nữa tôi cũng quên chợ Sài Gòn của chị bằng cái thị xã của
tôi. Chưa gì mà lấn đất dành dân rồi, thị xã cũng của tớ nữa chớ.»
Tiếng cười
dòn dã, hồn nhiên. Câu chuyện mỗi lúc một «líu lo như con cò gáy” đủ thứ chuyện
trên đời, từ vụ nhỏ Chuôn, nhỏ Thắm ra trường đổi tuốt về vùng sâu vùng xa vì
cô thân cô thế, con gái lần đầu xa nhà sợ gần chết, lội ruộng thì sợ đỉa đeo,
leo cầu khỉ thì sợ té mương, ngồi cầu cá vồ thì mắc cở… Đám con gái tan tác mỗi
nơi bon chen kiếm sống, Phượng thì lên Sàigòn bán cơm, Nhung thì hồi nào làm
tiểu thư con nhà quan bây giờ nghe đâu buôn vải lậu, quấn mấy thước katé quanh
bụng, len lỏi trong chợ huyện bán kiếm lời.... Thương bạn bè ta cực trần thân,
gian khổ!
Kiệt kể về
nghề giáo bất đắc dĩ của mình giữa chốn đồng không mông quạnh, mỗi lần đi họp
kiểm điểm, cười lắm kìa! Nhà cất ở giữa khu đất trống, chung quanh là sông nước
mênh mông. Họp 2 giờ, chèo ghe tới cũng 4 giờ, chờ tụ lại đông đủ bà con xa gần
cũng tới 6 giờ để nghe ông xã trưởng báo cáo:”Các cháu biết hôn, Bác Hồ dạy
rằng, vì lợi ích 10 năm trồng người, vì lợi ích 100 năm trồng cây…”. Chời ơi! Nản muốn chết!
ha ha! Cũng như Thông tấn xã Sóc Trăng sáng chiều ra rả trên loa phóng thanh um
sùm: «Chúng ta phải tiêu diệt tận gốc tệ đoan xã hội, xì ke ma túy, ma cô ma
cậu, chúng ta phải ‘cải chánh quy tà’ chúng, như chúng ta đã bài trừ bọn ‘tư
bản mại sản’, do bọn ’xê xê a’ và bè lũ phản động kết cấu với thế lực đen tối
âm mưu gây ‘gối’ cho chúng ta...”
Những tràng
cười rú lên sau mỗi câu nói, đúng là ngôn ngữ chói tai của thời giải phóng, họ
nói như vẹt mà không hiểu gì hết, cứ khoái dùng đao to búa lớn cho người ta hết
hồn!
- Vui quá.
Bạn bè họp lại vui quá. Tớ về đây lòng mừng khấp khởi à quên phải nói là ‘hồ
hởi’ chứ, những ngày ở Sàigòn lông bông lêu bêu nhớ bạn bè, mơ ước được trở
lại, được gặp mặt ít ra cũng có một lần đông đủ cả bọn, từng gương mặt học trò
ngày trước, những hình ảnh thân thương kỷ niệm của năm tháng đến trường. Tớ về
đây, lòng như mở hội. Vui ơi là vui.
Định tổ chức
chiều nay họp bạn, nhưng không kịp chuẩn bị, sợ bạn bè tụ lại chưa đủ hết, thôi
thì để mùng một mùng hai gì đó cũng được. Miễn có họp vì mùng ba tớ đã đi rồi.
Về trong vội vã hấp tấp, đi làm thấy bó buộc đủ thứ, tớ chỉ muốn ở đây hoài,
bạn bè làm tớ suốt đời bịn rịn mãi thôi.
Câu chuyện
đang vui, chợt như có cái gì đó nao nao. Kiệt chặc lưỡi, lắc đầu:
- Sao càng
ngày tôi càng thấy buồn chán thêm hơn. Chị xem: hồi xưa, hồi tám tháng về trước
mỗi lần gặp chị, gặp tụi nó, tôi đều chạy vào nhà mặc quần dài, áo rộng đàng
hoàng, còn bây giờ, chị thấy không? Tôi mặc cha nó cái quần ngắn tiếp chị, tại
vì buồn quá!
Câu nói thiệt
tình tự nhiên của Kiệt làm tôi bật cười, cười đến ứa nước mắt được. - Ừ, hồi
xưa, hồi tám tháng về trước, hồi còn đi học, hồi đó đó… Trời ơi! ngôn ngữ của
bạn bè tôi sao mà sầu thảm vậy! tưởng như thời gian nào đã xa lắc xa lơ trôi
qua đời sống chúng tôi rồi bỗng chốc ngập ngừng lắng đọng.
“Mỗi ngày
nhìn đời mình chết đi” Nghe thương bạn bè quá đỗi là thương, mới thuở nào làm
học trò xôn xao rộn rã, những khuôn mặt ngơ ngác hồn nhiên tung tăng đùa phá
ngất trời, vậy mà bây giờ mỗi đứa một nơi tứ tán tha phương, sống đời du mục. Tuổi
trẻ chúng tôi sớm chiều như giòng sông phân nhánh, trôi dạt đó đây mang theo
những rác rưởi u buồn, chợt thấy như mình già hơn, cô độc hơn trong nỗi nhung
nhớ ngậm ngùi.
Cúc đi dạy.
Kiệt đi dạy. Chuôn, Thắm đi dạy. Phương đi làm. Hà đi làm. Chính, Nhan đi làm,
trong cái tỉnh nhỏ chật hẹp này tương lai chỉ được định đoạt đến thế, giáo viên
cấp 1 trường ấp trường làng, thư ký ngành thương nghiệp, hay tệ hơn nữa, về
cuốc đất trồng khoai như Sơn, như Võ, ngày qua ngày rời rã lặng câm.
Võ quay đầu
xe ở trước cổng bệnh viện. Buổi trưa, khu bệnh viện im lìm. Tôi bước đến bậc
thềm bằng tiếng guốc lao xao, gõ cửa nhè nhẹ, thấy Thầy Thiếp khuất đằng sau
lưng cô “A em đó hả, vào đây.” Tôi xúc động ngồi xuống cạnh giường.
- Thầy, em có
nghe tin thầy mới ra…
- Ừ, cũng hơi
lâu rồi. Còn em, về từ bao giờ?
- Dạ chiều
28. Ở trong ấy thế nào thầy? Mấy tháng trước em có về Sóc Trăng một lần, chạy
xe với Lộc lên khu nghĩa trang liệt sĩ để mong tìm mấy thầy làm cỏ mà không
thấy. Lộc nói có vào thăm thầy và thầy bảo thầy đang ở tù. Em hỏi ra sao. Lộc
bảo em chờ thầy về, thầy sẽ nói “ra sao” cho em nghe. Bây giờ thầy nói cho em
nghe đi thầy!
Giọng thầy
Thiếp cười lớn như khỏa lấp một ám ảnh nào đó:
- Ở tù thì có
gì để nói đâu em.
Cô Thiếp đỡ
lời chồng:
-Người ta gọi
nhà tôi là tù, chứ nhà tôi có xưng mình là “tù” đâu! Chính họ gọi thế mà “danh
sách tù binh, bọn tù, đi thăm tù”, thế chẳng tù là gì?
- Nghĩa trang
liệt sĩ trên quốc lộ 4 đó hả? Tôi cũng”được” lên đó 2 lần. Mừng lắm chứ! Được
ra ngoài trời, được nhìn thấy con đường liên tỉnh. Được có dịp gặp vợ con lên
thăm. Vui lắm chứ! Ở trong ấy, tôi với thầy Tráng nhắc em hoài, có thầy Thừa là
trông thê thảm, nhiều khi yếu đến độ cầm cây cuốc bổ xuống đất không nổi, run
run muốn chúi đầu, mồ hôi vã ra phải ngồi phệt xuống đất trông thật tội. tôi phải làm giúp để ổng thở.
Thầy Thắng ra muộn là kể như liệt luôn, chân ổng đang khập khễnh đó!
- Có ghẻ không
thầy?
- Làm sao mà
tránh khỏi! Tôi cũng bị sơ sơ, bây giờ hết rồi. Ông Thừa, ông Thạnh vẫn còn
trong ấy…
- Trong ấy
sống thế nào Thầy?
- Cũng ăn
cũng ngủ bình thường nhưng mới vô phải học thuộc bản nội qui trước đã, trong điều
thứ 6 của bản nội qui, có chỗ tức cười lắm. Thầy nào đọc qua một lần cũng nhớ
rất rõ “Khi gặp cán bộ, bộ đội, nhân viên nhà nước đi qua, hãy lột nón ra, đang
cầm gì trên tay phải bỏ xuống đất đứng im cho đến khi người đó đi qua hẳn mới
được cầm lên”.
- Chắc họ sợ
bị đập vào đầu chứ gì?
Ông Thiếp
cười ha hả trong khi tôi nhăn mặt:
- Em nghe
nhiều câu chuyện như vậy sao mà bực mình quá, càng thấy giận điên lên được với
chế độ thù hằn ác độc này. Họ muốn người ta chết dần chết mòn trong tù đày.
- Có gì mà
bực mình em, theo tôi thì thoải mái lắm, phải thay đổi không khí chứ, cứ tưởng
tượng ngày qua ngày hai buổi đều đặn đi dạy năm này qua năm khác, không có gì
xảy ra cũng chán. Tôi bây giờ khỏe lắm được nghỉ dạy ở nhà nấu cơm, giặt quần
áo cho vợ con, thảnh thơi nằm suy nghĩ chuyện đời, bảy hôm đi trình diện một
lần không được xuất tỉnh, không được vắng nhà ban đêm, tối tối xuống ông Thừa
nói chuyện chơi rồi về, cũng vui…
“Vui lắm”.
“Khỏe lắm”, “Thoải mái lắm”. Tự dưng tôi nghe có cái gì chua chát, mỉa mai
trong tiếng cười ha hả, khỏa lấp đó.
- Về lần nào
em cũng nghe thấy những điều trái tai gai mắt. Em không hiểu tại sao họ lại có
thể làm như thế được, họ căm thù miền Nam của mình đến như vậy à?
- Tôi thấy có
gì đâu em. Tại em suy nghĩ nhiều quá đó thôi.
- Có lẽ vậy
em biết thầy cần được yên, thầy cần được nhắm mắt ngủ quên cái đời sống thay
đổi này, còn em, em không thể chịu được, em cần phải làm một cái gì đó như ý
nghĩ ray rứt không nguôi của bạn bè em. Tuổi trẻ chúng em không muốn ngồi yên,
khoanh tay thụ động để nhìn thời gian đi qua giết chết lần mòn cuộc đời mình.
Thầy ơi! Chúng em chỉ mới mười tám đôi mươi.
Ngày… tháng…
Bữa cơm nào ở
SócTrăng cũng đều ngon hết, thịt cá ngon, bạn bè thân mật, không khí gia đình
ấm cúng thoải mái, nên ăn mãi mà chẳng thấy no.
Tối nay là
Giao Thừa, tôi mở tủ ra ôm hết sách vở báo chí, tranh ảnh thư từ vào phòng, bật
đèn lên xem xét nâng niu từng kỷ vật, đọc lại vài trang nhật ký ghi vội trong
sổ tay, xem mấy cuốn báo Xuân cũ của trường Hoàng Diệu, tờ đặc san Giao cảm học
trò. Lật lại từng trang Album những hình ảnh nhí nhố xao động.
Kìa! Tí khùng
đang nhai bánh mì ngồm ngoàm trong cuộc họp ban làm tờ Giao Cảm đầu tiên trên
Hoàng Thị, hình Sùng cười thật tươi với mái tóc bờm xờm “như anh híppi trẻ, mặc
áo rách đứng bên nhà thờ”, nhỏ Hương trong cặp kiến cận nổi nhất đám đang ngồi
cắn hột dưa với Chuôn, Rảnh. Tí cồ bị một lũ con gái xoắn lấy hành hung trên
lan can nhà nhỏ Nhan, này hình nhỏ Hai nhỏ Tú hồi còn đi học ngây ngô, hình Trí
Hiền ngày em chưa hoàn tục với áo dài lam và cái chỏm tóc vắt bên tai, hình
Quan, Hiền hai tên đứng cứng đơ như tờ khai gia đình, hình của Võ ốm yếu xì-ke,
Sơn mặc quần sọc như Charlot, Kiệt nhăn nhăn như Vương Vũ…
Đặc san “Sỏi
đá trổ bông” của nhóm Du Ca với bài của Nhã Thụy Quan “chưa đầy hai mươi”, thơ
tình lãng mạn của “Sóng Bạc Trùng Dương” trong “còn một chút gì”. Bài “tự
thú”của N.H. Tâm, bài “Đừng bán văn chương” của Kali Kiển, bài của Hương áo
trắng Nguyên Anh.
Ôi, một thuở
huy hoàng vàng son được làm học trò áo trắng. Nhớ quá, thương quá, kỷ niệm sống
dậy mãnh liệt lúc này. Như một nhân vật trong tác phẩm của văn hào quốc tế nào
đó, khi về già, chống gậy leo lên sườn núi, nhìn xuống thung lũng xanh thẳm
dưới chân, bàng hoàng mơ về một thời trai trẻ dũng mãnh ngồi trên lưng ngựa
phóng vun vút xuống đèo, qua suối, mạnh mẽ kiêu hùng.
Quá khứ bao
giờ cũng làm người ta ngậm ngùi vì mớ kỷ niệm dằng dặc trong đó, kỷ niệm của ta
quá đẹp nên cứ khiến lòng ta ray rứt không nguôi khi nó bị mất đi.
Một vài tiếng
pháo nổ khởi đầu, rồi từng loạt ngắn, rồi hàng loạt dài, thi nhau ầm ĩ, thị xã
như chợt bừng lên trong đêm tối. Giao thừa rồi đó ư? Tôi cứ tưởng thời gian đã
chết cứng ở đây, lắng đọng thành kính như không khí ngát mùi hương tưởng nhớ
đang im lặng vây quanh căn phòng bé nhỏ này, vây quanh lấy tôi quấn quít âu
yếm. Cô bạn nhỏ vừa đi trở lại khu vườn đầy hoa năm cũ. Gió vẫn dịu dàng cây
vẫn xanh màu lá, hoa bướm vẫn nhởn nhơ, và trái tim tôi rộn ràng như thời mới
lớn.
Giao thừa rồi
đó sao! Ba má đang đốt nhang đèn trên bàn thờ ông bà, tôi thay chiếc áo dài
trắng, cảm xúc lây trước ngọn nến lung linh, mắt Ba ngầu đỏ, không biết vì khói
hương hay vì thương nhớ xót xa cho thằng con biệt xứ, ngoài sân, tiếng nức nở
của Má thật thấm thía chạnh lòng. Trời ơi! Sao hòa bình rồi mà tôi vẫn phải xa
con? Tại sao người ta cười vui xum họp mà gia đình tôi lại phải khóc chia lìa?
Trời ơi! Bao nhiêu người còn ngồi trong những trại giam đón giao thừa nhớ cha
nhớ mẹ, nhớ vợ nhớ con mà có kẻ vui sướng sao đành? Trời ơi!!!
Tiếng súng
lẫn với tiếng pháo ầm ĩ, hỗn loạn. Không gian như muốn vỡ tung ra. Lửa đạn vùn
vụt trên không. Hỏa châu sáng rực, lững lờ rồi tắt ngấm.
Tôi ngồi đong
đưa võng ngoài sân dưới cây anh đào bông trắng xóa, muốn hát một bài ca nào đó
để nguôi ngoai, mà sao không nhớ nổi“. đêm nay hòa bình sao mắt mẹ chưa vui, Mẹ
hãy ra xem đường phố ngập người.” Đầu óc cứ tắt ngấm như pháo bông. Tai tôi đã
điếc rồi sao?
Vào giường cứ
thao thức, trăn trở trong giấc ngủ muộn màng, tiếng pháo thưa thớt rồi cũng
lặng im.
Giao thừa đã
qua đi, đêm vẫn còn dài để tôi chờ đợi một điều gì đó xảy ra, một điều gì đó
thật khác thường như tiếng depart của đại bác 105 ly, hay tiếng súng M16, một
tiếng nổi dậy ùa vỡ. Tôi chờ đợi, cũng như bạn bè tôi đang chờ đợi.
Qua đêm. Trời
vẫn câm nín vô tình.
Ngày… tháng…
Phố xá mùa
Xuân tưng bừng, tâm lý người nghèo mà, một năm có 3 ngày Tết, phải tươm tất một
chút dù nợ nần vây bủa lung tung, con nít thì khoái áo mới và tiền lì xì, còn
người lớn thì cần xả hơi cho suốt một năm áo cơm túi bụi. Đám trẻ trong quê kéo
nhau ra chợ xôn xao hồn nhiên, trong khi lớp già thì vẫn còn đau âm ỉ trong
lòng nỗi buồn đất nước, loa phát thanh ngoài thị xã ra rả bài ca giải phóng “Mùa
xuân này về trên quê ta, khắp đất trời mở rộng bao la … vui sao nước mắt lại
trào.” Khóc hận hay vui thì mỗi người thấm thía theo một cách…
Vài ba khuôn
mặt lâu ngày gặp nhau. Long, Võ, Văn, Thu, Kiệt, Sơn, Hạnh, Ánh. Cả bọn chở
nhau ra quốc lộ 4 uống cà phê, cười nói lao xao rồi về. Nhỏ Hạnh hỏi:
- Mày thấy
sao?
- Không vui.
Không buồn. Chỉ có gặp bạn bè mới thấy thoải mái, dễ chịu hơn.
Chiều tối, ra
phố với Kiệt, Hương, Hà, Nhan, Tường, Loan, Định, Sơn, Sùng, cả bọn nhắc nhở
đến một người bạn đã mất hút Thành và ngày vui năm cũ “Hoa đào năm ngoái còn
cười gió đông”. Tí quạu của bạn bè giờ ra sao? Cả bọn nhớ ngón tay cụt ngo ngoe
đón Tết của hắn năm nào…
Sơn hằn học
về chuyện phụ thu lúa mùa, thu hoạch được bao nhiêu gom hết vào cái gọi là Hợp
tác xã rồi chia theo chế độ “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” Bà mẹ nó,
mình làm ra mà nó chia, tức hông. Đồng bào đang chết dần trong sức lao động của
họ, trên miếng đất cầy vỡ, đẻ ra cơm áo xã hội. Người dân đã quen chịu đựng và
sẽ còn chịu đựng dài dài trong nổi nhẫn nhục bất lực, họ đổi nhọc nhằn, đổi
giọt mồ hôi lấy thành quả bồi đắp cho quê hương sau chiến tranh đổ nát. Lao
động là vinh quang mà, nếu quả thật lý tưởng Xã hội chủ nghĩa là thiên đàng thì
cũng ráng bò lên, đằng này mỗi ngày qua đi mọi người như thấy mình bị đọa đày
lún sâu trong địa ngục.
Ta thấy tuổi
trẻ mình bất tài, yếu đuối hay tại ta mặc cảm thua thiệt?
Tối mồng một,
họp mặt nhà Cúc, tiếng đàn Sùng dìu dặt, giọng hát Nhan nghẹn ngào, “Đêm nay
hòa bình sao mắt mẹ chưa vui? Hãy bước ra xem đường phố ngập người… Đêm nay hòa
bình mắt mẹ buồn như Kinh… Lời kinh đêm trong căn nhà nhỏ… đèn thắp thì mờ…”
Nhạc Trịnh
Công Sơn chắc chỉ đúng trong tâm trạng của chúng tôi lúc này, khi nhìn mắt bạn
bè tôi đỏ hoe, cả bọn ngồi im như mặc niệm những tháng ngày tuyệt vời đã qua,
ngoài kia bóng tối phủ đầy…
Đêm về nằm
trăn trở giấc ngủ muộn màng, có cái gì đó trong tôi thao thức, rưng rưng. Ngày
qua nhanh và chúng ta sẽ còn lại gì?
Bò qua giường
Má ôm chặt bà để cố dỗ giấc ngủ như trẻ thơ, mà sao nước mắt chảy dài thầm
lặng, xót xa. Trong đêm, con tắc kè kêu não nuột, từng tiếng rã rời buồn hiu.
Ngày… tháng…
Ghé thăm Cô
Tráng để nghe những tiếng nấc nghẹn đầu năm. Ta chợt tức giận, cay đắng ngập
lòng.“Người ta mắng chúng tôi như mắng chó: - Đồ lì như bò, đã không cho thăm
mà cũng thăm, mấy người không quấn khăn tang là may rồi, một lũ ngoan cố tránh
ra ngay”. Nhẫn nhục thương chồng thương con nhịn ăn nhịn uống, gởi tiền cho anh
ấy được ba nghìn. vậy mà anh không nhận được. Tức không?”
“Em yêu, anh
vẫn mạnh khỏe, anh vẫn bình thường. Lao động làm anh thoải mái hơn. Ở nhà, ráng
giữ gìn sức khỏe của em và các con. Nhớ đóng cửa kín lại mỗi tối; tháng này
lạnh lắm, kẻo cảm. Đừng gởi gì cho anh cả. Anh đủ dùng rồi…”
- Thầy! Em
biết bức thư này là những lời nói dối, em biết thầy thiếu đường của đời sống,
thiếu đèn cầy của đêm tăm tối, tù đày. Thầy, cơn giận nghẹn cứng, lòng em sôi
sục căm hờn, em phải làm gì đây Thầy ơi.
Ngày… tháng…
Ba bốn thằng
xúm nhau vây lấy ông già đánh đấm, chung quanh gánh rau tung tóe, rơi vãi. Tụi nó có
súng dài, súng ngắn, ông nông dân tay không, thấy cảnh trái tai gay mắt mà nóng
mặt, sôi máu, tôi vỗ mạnh lên vai thằng du kích xã:
- Chuyện gì?
- Ổng đòi
chạy xe qua cầu. Không cho ổng cự.
Ông già xin
được dắt chiếc xe đạp chở mấy bó rau qua chợ bán, thằng du kích đuổi không cho
với lý do gì đó, nó xô ngã xe rau chổng gọng, ông già tức tối cự lại. Nhà nước chửi
lộn với nhân dân. Và sự việc xảy ra…
Sự phẫn nộ
bất bình khiến tôi xông tới chỉ mặt bọn họ mà nói như thể tôi là Chủ tịch xã uy
quyền.
- Các anh có
thừa lời để giải thích nhã nhặn với dân, các anh không thể có hành động thiếu
tác phong như vậy, nhìn mọi người đang bu
quanh xem hành động của các anh kìa, thật tệ! Các anh làm như vậy không có lợi cho chế độ cách mạng của các anh đâu.
Mấy tên du
kích nhìn ta ngờ ngợ, trong cảnh tranh tối tranh sáng này vàng thau lẫn lộn
cũng dễ thị uy, dù ta là ai đi nữa thì làm được gì nhau? Quan vội vã kéo tay cô
bạn đi, hai đứa lặng thinh trên suốt con đường làng.
- Ánh! Quên
chuyện hồi nãy đi.
Đứa con gái
bực bội
- Cái quân
chỉ giỏi tài húng hiếp dân lành.
Về tới nhà
hãy còn ấm ức, tội nghiệp Quan hắn đã kéo ta đi, không biết chuyện gì sẽ xảy ra
nếu ta còn đứng đó với bọn du kích xấc xược và khẩu súng AK trên tay lăm le.
Tại sao chúng
ta lại có thể im lặng trước những cảnh chướng ta gai mắt diễn ra hàng ngày trên
quê hương “giải phóng” như vậy, mọi nhu cầu hàng hoá thiết yếu đều do nhà nước quản
lý, ai mua bán đều bị hạch sách phạt vạ, buôn lậu gì với vài cân thịt heo, năm
ba gói thuốc lá, mươi ký gạo. Cái vốn liếng nghèo nàn chắt chiu không chắc đủ
để mưu sinh cơm áo gia đình trong một ngày tần tảo, vậy mà có lúc bị “hốt”
trắng tay. Đau lòng ta muốn khóc!
Ngày… tháng…
Họp bạn trước
sân nhà, trăng non thanh bình trong không gian yên tỉnh, nhưng sao ta vẫn thấy
trong lòng bất an, mơ hồ như mình sắp đi xa lắm, cái cảm giác bị đánh mất một
góc trời hồn nhiên chim sáo của ngày hôm qua làm ta chợt hoảng hốt vu vơ… Biết
sao giờ khi ta nhỏ nhoi giữa cuộc đời dâu bể.
Gặp nhau lần
này chỉ có Kiệt, Võ, Quan, Nhan, Chuôn, Hạnh, Dung, Lộc, Sơn, Minh. Cũng còn
thiếu vài khuôn mặt bạn bè, có đứa chắc đã đi xa. Vài cái mứt, cái kẹo bên tách
trà Blao nóng hổi, câu chuyện từ đầu đến cuối vẫn dòn dã tiếng cười. Thời buổi
này vô tư thoải mái được lúc nào hay lúc đó, chắc gì tụi mình còn có cơ hội nhí
nhố bên nhau như hôm nay.
Cả bọn nắm
chặt tay thân tình bịn rịn.
-Thôi giã từ,
mai tớ đi rồi các bạn ơi!
Vòng xuống
phố một lần chót. Đưa Nhan, Dung, Chuôn về. Đưa Hạnh về. Kiệt, Võ, Quan rẽ ngõ
nhà Lộc. Còn bốn đứa lang thang trong đêm, không khí Tết nhuốm hơi nhạt nhẽo.
Nhưng ánh đèn trong quán Kinh Đô vẫn ấm cúng với những khúc hòa tấu dịu dàng.
Kỷ niệm như ngưng đọng lại. Sơn bật quẹt mồi điếu thuốc, đóm sáng lập lòe soi
mặt hắn già nua, còm cõi, tiếng kèn Trompet não
nùng trong
bài “Biển nhớ” của TCS càng làm ta thêm héo hắt, tay bắt tay vui vậy cũng gọi
là “thôi thì thôi, cũng đành thì thôi” giã từ mùa Xuân qua vội, ngày mai ta đi
không biết thị xã có rưng buồn…
Ngày… tháng…
Lên Sàigòn
nhớ bạn bè trường lớp bây giờ tan tác như chim lạc bầy, tôi lại có một đống thơ
kể lể chuyện xóm làng của mấy đứa, thơ của Sơn than trời than đất “ta và anh
Toán vẫn mong nhỏ về lại đây để bạn bè đấu hót cho vui, này cô bé ráng thi đậu
vào Đại Học, nếu nhắm không xong thì xin đi Kinh Tế Mới may ra có chỗ vẫy vùng,
ha ha”, còn Thu Hương thì tả cảnh buồn muốn chết khi còn quanh quẩn ở lại
SócTrăng “thèm được gặp vài đứa bạn để tìm chút tin yêu của hồi đó.” Cuối thơ
nó còn thoòng thêm câu “mày phải về đăng ký học sinh nếu còn muốn tiếp tục học,
qua ngày qui định mà không đăng ký là coi như tự ý nghỉ học, nghỉ thiệt đó
nghe, chớ hổng phải dọa dẫm như…”. Cái giọng tưng tửng của nó làm tôi mắc cười.
Ừ, nghỉ thì nghỉ. Vài tháng sau đã thấy nó lên Sàigòn rủ tôi đi ăn bò bía ở hồ
con Rùa. Vậy đó bạn bè tôi đã bỏ lớp bỏ trường từ dạo ấy, còn vài đứa gồng mình
ở lại học cho hết năm hết tháng để ra trường với mảnh bằng “giáo viên cấp một”
bị đổi về xã ấp vùng sâu vùng xa nào đó dạy học quên đời.
Nhắc chuyện
này mới nhớ nhỏ bạn chung lớp tên Thắm xinh xắn mặn mà, bị đì về hóc bò tó xa
tít tè dạy lớp Ba, gặp đứa học trò quậy như quỷ, Cô đét cho một phát, nó chạy
về méc má, và trời ạ, má nó là vợ chủ tịch xã hầm hầm vác cây dao phay đang bằm
rau đi xăm xăm tới lớp cắm cái phụp xuống bàn hỏi “Tại sao dám uýnh nó?”. Dĩ
nhiên là cô giáo nhỏ sợ chết khiếp phải bỏ nhiệm sở mà khăn gói trở về nhà chờ
ngày vượt biển.
Ngày…tháng…
Tưởng như mùa
hạ cũ đã xa lắc xa lơ qua đi từ dạo cả bọn chia tay nhau trong buổi tiệc thân
mật ở nhà nhỏ Nhan, tớ nhận được thư Lộc chiều nay, thấy phượng chợt đỏ rực
trong lòng. Ừ! Một năm rồi hở Lộc! Thành phố tớ đang trú ngụ thật vô duyên và
tẻ ngắt, quanh đây không có một cành phượng, không có tiếng ve râm ran, cái
nóng hừng hực và không gian khô cháy màu cỏ úa. Có những bận tớ đạp xe ngang
trường học, mong tìm một tà áo trắng để thanh thản cõi lòng, vậy mà chỉ thấy lố
nhố những áo ngắn quần đen trông chẳng giống ai, nữ sinh thời Xã hội chủ nghĩa
là vậy, lòng tớ vừa buồn mà vừa cười, thấy tội nghiệp cho lớp đàn em của mình,
chúng nó sẽ học những gì bên trong cửa lớp? chắc chắn không có thơ Quang Dũng
“Đôi mắt người Sơn Tây”, không có Nguyễn Công Trứ, Tản Đà.
Tuổi nhỏ thì
có “Năm điều bác Hồ dạy”, lớn chút nữa thì có Marx Lenine, vào Đại học thì có
Lịch sử Đảng và Thuyết Duy Vật biện chứng.
Và cái điều
đáng ghét nhất hôm nay là chế độ này đã thô lỗ tạo nên những dấu ấn đau nhói
vào trái tim ngây thơ, thui chột niềm tin của các em khi nhìn về phía trước,
rào cản mọi mơ ước chắp cánh vào tương lai. Đó là chủ nghĩa lý lịch, sự kỳ thị
đầy thù hằn ác độc của phe thắng đối với kẻ chiến bại, là gông cùm đè lên
thân phận con em của những gia đình “ngụy quân, ngụy quyền” miền Nam sau ngày
giải phóng.
Tớ có đứa em
gái học lớp 5, nó thường phàn nàn với tớ là bây giờ nó không còn bạn. Đầu năm
học, khi vào lớp cô giáo hỏi “Ai là gia đình cách mạng?” chỉ có mình nó đứng
lên, cả lớp nhìn nó chăm chăm như giận dỗi, khiến nó buồn phát khóc, bởi vì
cách mạng làm gia đình bạn nó trở nên nghèo xác xơ, Ba của bạn phải đi tù, Mẹ
của bạn phải bán buôn tần tảo để nuôi cả nhà. Giọng con bé vùng vằng trẻ con.”
Ba nói cách mạng tốt, cách mạng đem cơm no áo ấm cho mọi người, nhưng sao em
thấy còn khổ hơn hồi đó, ai mua gạo cũng phải sắp hàng, cực muốn chết, gia đình
tụi bạn em bị bắt đi Kinh tế mới, mà ở đó đâu có trường học đâu, vậy là tụi nó
dốt luôn hả chị? Em thương tụi nó và em ghét cách mạng của Ba.”
Vậy đó, tuổi
thơ của em gái tớ không còn thấy hồn nhiên nữa, nó đã biết lo cho cái lo của
người khác, nó đã biết băn khoăn khi nhìn thời cuộc đổi thay, tớ chỉ có thể an
ủi nó đừng buồn, có thể ngày mai sẽ tốt hơn ngày hôm nay.
Tớ đem chuyện
này kể cho chú Mười (em của ba) nghe, ông nghiêm mặt cảnh cáo “đừng có dại dột
phát biểu linh tinh, ổng mà biết được ổng bắt tụi con làm kiểm điểm đấy!”
Lá thư của
cậu làm tớ vừa vui vừa buồn, tớ đi lang thang trên những con đường chợt mưa
chợt nắng giữa Sài gòn mà nhớ về phố cũ. Tớ đã đánh mất thuở học trò, nên tớ
cũng quên mất mùa phượng nồng nàn ngày trước. Cám ơn Lộc đã nhắc cho tớ nhớ.
Vâng, phượng đang đỏ rực trong lòng, tớ thấy xôn xao khi sống lại với kỷ niệm.
Một năm qua
đi rồi. Khoảng thời gian này năm ngoái…
Ngày… tháng…
Bầu cử Quốc
Hội đầu tiên sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, sạch bóng quân thù. Đúng
như Sơn nói, đây là một trò chơi bầu cử. Đêm nào nhà nước cũng tổ chức bầu thử
95%, 96%, 98%, tỉ lệ tiêu chuẩn loại bỏ ba nhân vật mang số 1, 3, 13. Đảng đã
“nhất trí” như vậy, sự bịp bợm trắng trợn không cần che đậy khi thằng an ninh
phường ghé sát tai ta thì thầm:
- Nên nhớ là
viết dùm cho những người không biết chữ, chị nên “ý tứ” một chút.
- Tiên sư
anh, dân chủ ở cái chỗ người ta chỉ một đằng anh “nhất trí” gạch một nẻo đấy
hả? Ta lầm bầm tức muốn điên lên mà chẳng biết phải làm sao, phải công nhận họ
chơi trò lưu manh trong bầu cử, bởi vì họ chắc rằng dân đâu ai ủng hộ họ đâu,
không gian lận sao thắng??
- Sẽ có 90
nước trên thế giới đến tham quan cuộc bầu cử của chúng ta, trong đó bao gồm cả
các anh em Xã hội chủ nghĩa và ký giả tư bản, nếu có được hỏi về chính trị, xã
hội tình hình trong nước sau ngày giải phóng tới giờ, yêu cầu các đồng chí hãy
trả lời “không biết”, những người học tập cải tạo đang nằm trong tay chúng ta,
nếu có những thế lực phản động âm mưu gây rối bạo động, lộn xộn ở bên ngoài thì
chúng ta sẽ giữ họ lại lâu dài, hoặc thủ tiêu…
Cái thế đàn
áp như vậy có giận chết được không chứ! Mẹ kiếp! Chế độ độc tài, đả đảo cộng
sản!
Câu chuyện
bầu cử vẫn không “hồ hởi phấn khởi” một chút xíu nào. Qua cuộc bỏ phiếu thử ở
Ủy Ban Khóm 7, người ta cứ lẻn về từ từ, khi kiểm phiếu chả có là bao, một số
phiếu trắng, có phiếu gạch chéo tên của mấy tay đầu sỏ, có phiếu chẳng thèm bầu
ai. Chán không! Cái điệu này nhà nước chẳng khá nổi, dân chúng cứ phản ảnh rầm
rầm, người ta không tin tưởng vào nền dân chủ trong chế độ này thì ai mà bỏ
phiếu.
Ta được chỉ
định trong bàn viết dùm, được rồi ta sẽ thể hiện đúng quyền dân chủ của đồng
bào, ta thề rằng ta sẽ tôn trọng và bảo vệ hết sức quyền tự do bỏ phiếu của cử
tri. Nhớ mấy hôm đi xuống tổ vận động bầu cử, cứ thao thao:
- Bà con hãy
thể hiện đúng mức cái quyền dân chủ trọng đại của mình. Không ai có thể bảo
mình làm thế này hay thế kia được, mặc dù họ là “đảng lãnh đạo”, là “nhà nước
quản lý” đi nữa, bà con đang sống trong xã hội độc lập tự do mà. Đi bỏ phiếu,
không nhất thiết phải là đủ 10, nếu không thích thì mình bỏ 3, bỏ 5 cũng được,
cũng chả chết thằng tây đen nào…
Ê, nhân viên
nhà nước mà phản tuyên truyền thế hả? Coi chừng nhe con, tụi an ninh không hưỡn
đứng gác để trong này con ba que xỏ lá như thế. Ta cười hóm hỉnh với chính
mình. Ít ra thì lòng cũng đỡ ấm ức!
Ngày… tháng…
Mít tinh rầm
rộ từ khóm tới phường, tới quận. Bích chương, biểu ngữ, cờ xí rợp trời. Tự dưng
ta nghe lòng dâng lên niềm chua xót. Chào mừng cái gì đây? Khi cái mặt trái của
thời cuộc đã phơi bày ra một cách chán chường?! Ta ứa nước mắt khi nhắc nhở với
chị Ngọ về những người thân của mình đang ở trong một tỉnh huống khác với những
cờ xí kia, họ là ngụy hay chính những kẻ bịp bợm kia là ngụy? Thấy tâm trạng
mình não nề làm sao, những hoan ca trong lòng ta đổ nát, nghe buồn tiếc và
nhung nhớ xa xăm.
Hỡi những
người lính đã chết và đang chết! Người ta đang reo vui thắng lợi trong nỗi ê
chề của các anh, hỡi những người đang tập trung trong nhà tù cải tạo, vợ con,
thân nhân các anh đang điêu đứng khốn khổ trong cái gọi là Xã hội chủ nghĩa hôm
nay.
Buổi chiều,
tự dưng trời đổ một cơn mưa lớn đầu mùa khiến nỗi buồn thêm tê tái, tự dưng ta bỗng lo
ngại một điều gì bâng quơ, cuộc bầu cử đã lộ rõ bộ mặt lừa dối trơ trẽn của chế độ
Cộng sản khiến ta càng thêm chán ngán.
Cuộc kiểm
phiếu kết thúc lúc 9 giờ tối, ra khỏi Ủy ban thì đêm đã khuya, đường về bỗng
như dài hơn trong chua xót não nề, dân ta học chính sách thuộc lòng như cháo,
đạt đúng “chỉ tiêu” yêu cầu. Chính phủ ta nhắc tuồng khéo không chê vào đâu
được, đạt đúng tỉ số hoạch định mà họ đã tính toán hàng tháng trước khi bầu cử
“Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đại bịp! “Dân chủ, tự do
sử dụng lá phiếu như một viên gạch xây dựng đất nước”.
Xạo Hết Chỗ
Nói!
Sao càng nghĩ
ta càng giận thêm. “Đảng lãnh đạo” đã nắm chắc kết quả trước khi bầu cử, như
thế còn gì để nói nữa! Tổ chức bầu cử cho quốc tế thấy họ Dân chủ, Công bằng
trong một quốc gia vừa được thống nhất, độc lập. Sự thật chỉ là gian trá, lừa
mỵ. Sư khỉ nhà chúng nó!
Ngày… tháng…
Một năm sắp
tròn. Những con số đánh dấu bước ngoặt lịch sử chua xót mỉa mai. Ta đứng ngoảnh
đầu nhìn lại quá trình ồn ào cách mạng, lòng bâng khuâng tự hỏi một năm rồi ta
được gì, anh được gì? Hay chúng ta đã đánh mất tất cả trong bối cảnh xã hội lạ
mặt hôm nay, tên nước bỗng trở nên kỳ quặc ngớ ngẩn “Cộng Hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”, tên con đường thân quen bỗng trở thành Đồng Khởi, tên thành phố ta
yêu bỗng một ngày không còn nữa, mà thay vào đó cái tên lạ hoắc Hồ Chí Minh thật vô
duyên kỳ cục!
Những giọt
nước mắt nhỏ xuống thương tiếc ngậm ngùi. Một năm đánh dấu hằn sâu như vết chém
tàn bạo. Ta nhớ về 30 tháng Tư như một ngày quốc hận, không thể nguôi ngoai.
Tháng 3 mở
màn chiến trận cao nguyên tàn khốc. Bao nhiêu là máu và xác chết, bao nhiêu là
nước mắt chảy dài dọc đường số 9 và đường 14, chết từ trên cao, chết từ quốc lộ
13 kinh hoàng, từ bờ biển Nha Trang, Đà Nẵng, Vũng Tàu, chết dập vùi tan tác
như bèo, như sóng…
Từng địa danh
miền Trung bị mất dần vào tay Việt Cộng và trận đánh tàn khốc đã kết thúc khi
cánh cổng sắt của Dinh Độc lập bị xe tăng T54 ủi sập vào trưa ngày 30 tháng
4/1975. Cộng sản miền Bắc đã cưỡng chiếm thành công miền Nam. Những chiếc phi
cơ bay vòng vòng trên bầu trời Sàigòn với cột khói đen sau đuôi vì hết nhiên
liệu mà không có bãi đáp, những chiếc tàu chìm vì không chở nổi hàng trăm ngàn
người cố đeo bám lên đó để chạy ra khơi trốn tránh Cộng sản, những xe cộ vất
lăn lốc trên đường phố, thây người ngổn ngang trong đợt pháo kích quyết liệt
cuối cùng để đập tan sào huyệt của Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Hình ảnh tang
thương của những người lính tan hàng rã ngũ, chạy bơ phờ qua từng ngõ ngách đô
thị, những lá cờ bị xé rách, bị bôi xóa vội vàng, ta nhớ cái nghiến răng của ai
đó khi nhìn thấy lá cờ vàng bị một tên đeo băng đỏ ném vào thùng rác, để thay
vào đó lá cờ máu trước một công sở trên đường Nguyễn Tri Phương, thế mà là vinh
quang, là thắng lợi, là giải phóng miền Nam? Ai cần mấy người giải phóng, ngụy
ngữ lếu láo!
Một năm qua đi mà sao ta vẫn nặng mang nỗi sầu quá khứ. Hờn oán ai đây, giải phóng vô đã làm đảo lộn tất cả.
Nhỏ Minh nói
đúng “bài học đầu tiên mà những người cha cách mạng đã dạy tụi mình là bài học
phản bội”. Sở dĩ hai đứa thân nhau vì cùng hoàn cảnh, Ba nhỏ Minh đi tập kết từ
hồi nó mới 3 tuổi, Mẹ nó không thể chờ đợi được nên bước thêm bước nữa, cha
dượng và một bầy em khiến Minh phải lên Sàigòn sống bên Dì, tuổi thơ nặng nề
với quá khứ đáng buồn. Sau 75, Ba nó trở về với quân hàm cấp tướng trong Uỷ ban
quân quản của Thành phố, dượng nó đi tù vì là sĩ quan chế độ cũ, gia đình Dì nó
tan nát trong khi Ba nó được Nhà nước cấp một căn lầu mặt tiền trên đường Nhật
Tảo và ông mong muốn nó trở về ở với ông, đứa con mà ông đã tha thiết nhớ
thương trong suốt những năm dài đi kháng chiến “hy sinh đời bố để cũng cố đời
con.” nhỏ kể lại ấn tượng của ngày đầu tiên khi nó gặp mặt Ba sau gần 20 năm xa
cách, ông ôm nó vào lòng tràn ngập thương yêu.
Nhưng ông
cũng răn đe nó không nên dính líu tới gia đình ngụy của Dì, bởi vì đó là thành
phần phản quốc, ông buộc nó phải đổi theo họ của ông để tương lai tươi sáng
hơn, dĩ nhiên là nó phản đối tới cùng, nó không thể trở mặt với quá khứ, gia
đình Dì đã cưu mang nó bấy lâu nay, đổi lại họ có nghĩa là chối bỏ cái lý lịch
ngụy đã nuôi nó lớn lên, là phản bội lại những tình cảm gắn bó của Dì nó dành
cho đứa trẻ bơ vơ như nó suốt mười mấy năm ròng.
Ta nghe lòng
quặn thắt mỗi khi nhớ tới giọt nước mắt của Ba Sáu rớt xuống cánh tay khi ta ôm
ông giã từ để theo Ba lên Sài gòn đi làm cách mạng, cái giọng hách dịch của kẻ
chiến thắng đã khiến ta khó chịu “Nhà cô dượng bây giờ là sĩ quan ngụy, con Ánh
nó không thể có tương lai được, bây giờ tôi bắt nó về Sài Gòn để cho nó tiến
thân trong xã hội mới, nhưng nói trước là Cô dượng đừng có thơ từ kêu réo nó
trở lại đây nhe, bây giờ nó là con tôi, tôi sẽ làm khai sanh đổi nó lại họ của
tôi.” giọng Má Sáu nghẹn ngào “thì con anh, anh muốn làm gì thì làm, ăn thua là
tấm lòng của nó.”
Vài bộ đồ cũ,
mấy cuốn sách, ít món linh tinh, má Sáu gói trong cái mền dù túm bốn góc như
tay nải của mấy ông sư. Hành trang vào đời của ta chỉ có thế, nghe nhẹ tênh mà sao
lòng trĩu nặng, cái tình nghĩa cưu mang hai mươi năm dưỡng dục, ta nhớ
như in con đường đất trơn trợt trong hẻm mà hai ông bà đã thay nhau cõng ta đến
trường đầu tiên, rồi những lần ta ốm đau quặt quẹo thuốc Bắc thuốc Nam, mái tóc
ta chỉ có mỗi Ba Sáu cắt, áo quần ta mặc chỉ có mỗi Má Sáu may, Ba Sáu hớt tóc,
Má Sáu bán hàng rong, chắt chiu nuôi ta khôn lớn, cơm rau hiu hẩm cả nhà cùng
chia xẻ ngọt bùi bấy nhiêu năm, vậy mà bây giờ dứt áo ra đi đành đoạn, công ơn
Cô Sáu nuôi dạy con mình khôn lớn, Ba phủi tay hết.
Lên xe đi Sài
gòn ta đã khóc suốt trên đoạn đường dài, ngồi bên cạnh gương mặt Ba trầm ngâm,
ta thấy ấm ức giống như mình là tù binh đang bị “áp tải”. Tên tù binh phản bội!
Ừ nhỏ Minh nói đúng, “bài học đầu tiên của những người cha Cách mạng dạy mình
là bài học phản bội.”
Sang nhà nhỏ
Minh ngủ, tự dưng hai đứa nổi hứng đạp xe đi chơi vòng Sàigòn xem thiên hạ hồ hởi
phấn khởi ra sao. Thành phố mới hơn 9 giờ mà hoang vắng lạ lùng, lưa thưa vài
cặp tình nhân vòng tay hối hả, hai chiếc xe đạp cót két trong đêm như nỗi hậm
hực không nói thành lời.
Những đèn màu
giăng mắc, cờ xí rợp trên các cơ quan, công trường. Những gã Công an mặc áo
vàng, ôm súng đứng thẳng người như trụ điện ở các ngã tư, cái không khí lặng
câm trơ trẽn, thấy trong lòng mình cũng chán ngắt như thế. Hai đứa tấp lại xe
bò bía cuối cùng ở nhà thờ Đức Bà, vừa ăn vừa nghe ông cụ phẫn uất nghiến ngầm:
“30 năm mới
có một ngày… đau khổ, biết bao là nước mắt, biết bao là tiếng than, hòa bình
với hàng triệu người chết. Cuộc chiến tranh quá thảm khốc mà hòa bình thì chắc
gì không có bạo tàn? Các cô còn quá trẻ để nhận ra cái giá của tự do, chúng tôi
từ Bắc chạy trốn gông cùm của Cộng sản vào Nam, tưởng đã yên thân, nào ngờ bọn
họ đuổi theo đến cuối đường hầm, rồi các cô sẽ thấy thôi.”
Nhìn những
hàng đèn giăng mắc trước Bưu Điện, ta xót xa ngậm ngùi, nghe nỗi buồn đau gặm
nhấm. Đêm khuya, đường dài, đời sống mình cũng hun hút tận cùng như thế, Minh
ơi!
Đi đâu cũng
thấy những tâm sự bi thiết, họ không cần biết mình là ai, họ cứ nói như để vơi
bớt nỗi ấm ức căng cứng trong lòng, nói để nguôi ngoai.
Sự thật ngày
càng não nề, chán ngấy mà sao người ta vẫn cố tình như không biết. Chính nghĩa
là phải biết lắng nghe, chỉ có độc tài mới mắt ngơ tai điếc. Về tới nhà đã 12
giờ đêm. Hai chiếc xe phóng vun vút qua những con đường vắng, cây lá ngủ quên,
30 năm mới có một ngày. Ôi thê thảm!
Ngày… tháng…
Có một điều
rất đau đớn mà ta không biết phải nói với ai. Chiều nay, khi ta tình cờ về nhà,
lục tìm cặp hồ sơ của ba với ý định viết những tên tuổi liên hệ với gia đình để
điền vào sơ yếu lý lịch, nhưng ta đã tìm thấy một tờ cáo trạng chi chít chữ.
Vâng, một tờ
cáo trạng đã làm trái tim ta tan nát.
Đúng hơn nó
là một bản án dài dặc báo cáo lên Thành Ủy về tên Trần Văn Tùng, thằng con trai
duy nhất của Má Sáu:
“… Tên Tùng
quá nguy hiểm cho cách mạng. Khi tôi thấy không thể tuyên truyền được nó, tôi
có đề nghị với các đồng chí cho Ban Công Tác Thành bắn nó, nhưng các đồng chí
vẫn còn do dự. Tôi nghĩ rằng nó là một thằng nguy hiểm, việc làm của nó phương
hại đến cách mạng không nhỏ. Cần phải dứt khoát hạ nó…”
Bản cáo trạng
làm ta hoa cả mắt, điếc cả tai. Sự thật làm ta hỡi ơi, thất vọng. Cộng sản là thế đó ư?
Cậu ruột có thể tìm mọi cách để giết thằng con trai duy nhất của em mình, cháu
của mình. Trời ơi! Ta đau đớn có thể chết được.
Những năm ba
đi làm cách mạng, hình ảnh mẹ Tùng là hình ảnh của ba, nhưng vì “Đảng” ba lại
nghĩ khác, ba “trung với đảng, hiếu với dân và chuyên chính với kẻ thù” lẽ nào
con cháu mình là kẻ thù chỉ vì nó không cùng chiến tuyến với mình? Ba đã giết
chết niềm tin ở ta. Con xin lỗi ba, con không thể ích kỷ như ba; con càng muốn
xa rời ba hơn sau khi phát giác chuyện này, thà con tìm việc khác mà tự lập,
con từ chối ân huệ “gia đình cách mạng” của ba, con phủ nhận mọi ưu tiên từ chế
độ đưa tới.
Con không bao
giờ chấp nhận cộng sản dưới bất kỳ hình thức nào. Một chế độ mị dân, một chính
quyền chuyên chế lừa dối, chỉ dùng vũ lực đàn áp khắc nghiệt, thà con đi học
lại, thà con sống lây lất ở một chỗ nào đó, không có ba. Giữa chúng ta tình cha
con riêng rẽ “bất hợp tác, bất đồng quan điểm.”
Thôi thì con
cố không làm hại đến ba và ba cũng nên tỏ thiện chí với con một chút may ra cha
con ta còn có chuyện để nói với nhau lâu dài. Bằng ngược lại, thì con cũng rất
tiếc, con xin lỗi ba, con không thể phản bội, con không thể phụ lòng người đã
nuôi con 20 năm nay.
Ta đau lòng
không biết thố lộ với ai, cả ngày đạp xe lang thang ngoài đường với tâm trạng
bi thảm thất vọng cùng cực, liệu ta phải làm gì với lá thư đó, những dòng chữ
do chính tay Ba đã viết như con rắn độc cắn nát tim ta tê điếng, ta lẳng lặng
rút nó ra khỏi tập hồ sơ của Ba và cất kỹ vào cái hộp, dấu kín không cho Ba Má
Sáu biết chuyện nồi da xáo thịt đáng ghê tởm này, có lẽ ta sẽ đem nó về quê,
chôn dưới gốc cây xoài trong vườn, đợi một ngày yên bình sẽ mang ra hỏi Ba,
chắc chắn như vậy!
Ta tin mình
đã có quyết định đúng mặc dù phải nuốt nước mắt vào lòng. Lần đầu tiên trong
đời ta phải đối diện với một sự thật kinh khiếp, ta ước gì mình chưa từng thấy
lá thư đó trong cặp của ba...
Ngày...
tháng.
Giấc ngủ đầy,
buổi sáng thức dậy khoan khoái, con đã về bình thường như một nhân viên nhà
nước được nghỉ phép 7 ngày thong dong, con đã về với ba má, và nếu cần con sẽ ở
lâu hơn nữa, những ngày lêu bêu trên Sài Gòn, con đã thật sự thấm mệt!
Trời mờ mờ
sương lạnh thấy nhớ buổi sáng nào sửa soạn vào trường, tóc dài áo trắng guốc gỗ
khua vang, dẫy hành lang lớp học vắng hoe, thuở còn đi học, ta luôn luôn là nhỏ
học trò đi sớm nhất, đi sớm chẳng để làm gì nhưng thấy thú vị trong cái vắng
lặng của buổi sáng tinh khiết.
Thay đồ đi ăn
sáng với Ba Sáu, phố xá cũng bình thường, buồn hiu, đi thăm nhỏ Hạnh, thăm cô
Tráng, thăm trường. Thấy tụi nhỏ lao xao liên hoan cuối năm, lòng mình chợt
bàng hoàng thế nào ấy thôi. Nhớ quá bạn bè ơi, lớp nầy ngày xưa ta học, bàn này
ngày xưa ta ngồi, trên bục giảng những người thầy học cũ đứng đó. Bây giờ chỉ
có những tầng lớp tiên tiến lạ mặt, ta ngại ngùng trong cái gật đầu chào, đó là
điều ray rứt không nguôi trong ta. Ta hay thầy mặc cảm?
Đi uống cà
phê với Võ, Long, nghe vài ba câu chuyện não lòng. Cũng thế thôi, ước gì ta ngủ
được một giấc dài 5 năm hay 10 năm, mở mắt ra mọi chuyện đã xong rồi, có lẽ
mình thấy thoải mái hơn phải không Võ? Ước gì tai ta điếc, mắt ta mù, để đừng
nghe thấy gì hết, vì sự thật quá thê thảm. Tuổi trẻ vốn ồn ào, mà lúc này ta ồn
ào thì chết!
Trưa lại thăm
thầy Hiếu, kể lể hết tâm sự của ta, từ gia đình, đời sống bản thân đến xã hội,
kinh tế, lu bu trăm thứ chuyện. Thầy trầm ngâm đốt thuốc:
- Tội nghiệp
học trò tôi, bánh xe xã hội sẽ nghiến nát em. Em đang đánh bạc, trước khi em
muốn rút lui khỏi sòng bạc với một đống tiền, hãy khôn khéo một chút, những tên
cháy túi không để yên cho em đâu, đừng để bánh xe thời cuộc nghiến nhẹ một ngón
chân em, một ngón chân thôi cũng đủ đau điếng cả đời rồi.
- Dạ, cám ơn
thầy đã cho em một lời khuyên, em đã hiểu ý thầy và em sẽ cố gắng hết sức,
nhưng Thầy ơi, em nhỏ bé và tuyệt vọng quá.
Ngày… tháng…
Thành phố
thật lạ. Cúp điện mới có hai đêm không có cà phê sinh tố, không có nước, chỉ có
mặt trời là nguồn sống. 4 giờ chiều ăn cơm hối hả, chui vào mùng tránh muỗi
cắn, mở mắt nằm chờ trời sáng, thấy đêm thật dài.
Đó là lời
thầy Thiếp lúc trưa ghé thăm, quanh quẩn ở nhà nấu cơm, giặt quần áo cho vợ
con, ông thầy Việt văn hách xì xằng dạo nào của tôi giờ đã bệ rạc, xuống dốc.
Ôi, thương!
Ra về, lòng
ngậm ngùi quá đỗi.
Chế độ càng
ngày càng khắc nghiệt, người dân kêu rêu than thở mãi cũng thế thôi, ta thấy
mình bất tài vô tướng. Ghé quán café Thanh Bạch với Lộc, Bảo, Minh, tuổi trẻ
họp lại nhau có chuyện gì để nói ngoài chuyện chửi chế độ và chửi tất cả những
gì đã và đang xảy ra sau cái ngày 30/4 đáng chửi ấy, mọi danh từ nay đã trở
thành trừu tượng, như cái gì đó mơ hồ xa xăm: Dân Chủ, Giàu Mạnh, Xã Hội Chủ
Nghĩa Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc… tất cả chỉ là ngụy ngữ, mỵ dân!
Một ông thầy
vừa đi học tập về, chợt dở dở ương ương, vào trường khóc khóc, cười cười với lũ
học trò, có những giáo sư phải chạy vào phòng vệ sinh để giấu nước mắt, chỉ sợ
bị chú ý kiểm điểm, lũ học trò xúc động, thương tâm. Nghe kể mà lòng ta xót xa,
ngao ngán. Thương cho thầy tôi làm người mất trí, mà cũng mừng cho thầy tôi từ
nay sẽ quên mất trần gian, quên mất chuyện thế sự thăng trầm…«Chồng tao có tội
tình gì mà nó bắt đi học tập, đày đọa chồng tao? Giải phóng gì mà nhà tao tan
nát, con tao ốm đau, gia đình nghèo túng, đồ đạc bán đổ bán tháo, thậm chí đến
cái quần cái áo cũng bán. Hết nay đến mai, nó cứ hăm he đi vùng kinh tế mới.
Lấy cái gì mà sống? Lấy cái gì mà ăn? Đi thăm chồng một lần đứt ruột đứt gan.
Mong mỏi được nó sai khiến làm tôi mọi, đặng ra ngoài gánh nước, chẻ củi, hầu
thấy mặt vợ con đứng lấp ló ngoài rào như thằng ăn cắp, chực chờ thảy vô một
ống thuốc, một hộp kem đánh răng. Mồ tổ cha nó! Khốn nạn gì dữ vậy!»
Lời chửi rủa
bằng một thứ ngôn ngữ đay nghiến nỉ non, ta nghe mà ứa nước mắt, giọng kể lể
uất nghẹn của những bà vợ có chồng đang “học tập” trong tù, mà học tập cái gì
trong đó, có chăng là đòn thù của những tên say máu chiến thắng dành cho kẻ bại
trận, đói khổ bệnh tật, đày ải nhục hình giữa rừng thiêng nước độc cũng đủ cho
người ta chết dần mòn, độc kế của cộng sản là vậy, ta căm giận chính sách ác ôn
này vô cùng, vô tận.
Ngày… tháng…
Tình cờ xem
lại cuốn «Người tình ngoài mặt trận” của Nhã Ca. Não lòng và thương lính quá đỗi…
Hỡi những
người lính đang nằm trong trại tù, các anh thật dũng cảm và đáng yêu. Suốt đời,
bọn con gái chúng tôi chỉ nên yêu những người lính như các anh thôi, nhớ quá
thời vàng son cũ, ta muốn điên lên khi biết được sự thật mất mát hôm nay.
Chúng ta không
thua! Chúng ta chỉ bại trận, trong chiến đấu, bại trận là lẽ thường, chỉ khi
nào chúng ta chịu đầu hàng, ấy mới gọi là thua, phải không?
Cũng con
đường này, cách đây hơn năm, ta đã đi qua. Nhà cháy và những xác người chết
ngổn ngang. Trước ngày ‘giải phóng’ con đường Bùi Thị Xuân đầy lính Không Quân
và thịt cầy Bắc Cờ…
Ta tìm Quan
với tay nắm ngại ngùng. Ta tìm Quan với tiếng khóc nức nở chiều ngày 30/4/75
trên vai hắn, mới nhập ngũ trong đợt quân sự học đường, tuổi đời tuổi lính chưa
bao lâu thì mọi thứ sụp đổ, khi mọi người đổ xô vào phi trường để tháo chạy ra
nước ngoài thì hắn lại hối hả cởi bỏ bộ đồ ka ki dầy cộm để trở về làm anh học
trò ngơ ngác giữa dòng người di tản. Hai đứa gặp nhau khi Sài gòn hỗn độn với tâm
trạng hụt hẫng bàng hoàng. Thấy hắn cầm hoài một bao nilon nhỏ trên tay tần
ngần, có cái gì trong đó? không biết, tự nhiên lượm được, hai đứa đang buồn mà
cũng bật cười khi mở gói giấy ra, chỉ là cái máy đánh trứng gà, một dụng cụ nhà
bếp còn rất mới! Thiệt ngớ ngẩn hết biết, dù sao cũng là một kỷ niệm nhớ đời
của Quan trong những ngày chới với này.
Hai đứa ra
bến xe miền Tây đông nghẹt người, hình như chỉ có duy nhất một chuyến về Sóc
Trăng, không phải xe đò mà xe hàng, mọi người chui rúc trong thùng xe chật cứng
hết chỗ, hai đứa phải leo lên cabin. Lần đầu tiên đi xe đêm mà không sợ Việt
Cộng đắp mô gài mìn, cảm nhận được ý nghĩa “hoà bình” có lẽ chỉ thấy trong đêm
hôm ấy, không gian yên tĩnh, gió thổi lành lạnh, trăng mờ lẩn khuất. Có hai người lang bạt nắm chặt
tay nhau về lại quê nhà.
Buổi sáng
nay, tình cờ đi ngang qua khu Lăng Cha Cả, con hẻm vắng hoe, những gã con trai
biến mất. Những chàng lính ‘hào hoa’ biến mất, chỉ có bàn ghế, tủ giường,
ti-vi, tủ lạnh xuống đường, chờ người đến mua. Dân chúng bây giờ ai cũng thạo
nghề buôn bán, bán nhà, bán xe, bán quần, bán áo, bán tình bán nghĩa. Ôi! cám
ơn cách mạng đã cho dân tôi một cái nghề mới.
Ngày… tháng…
Nhờ ba chứng
giùm Sơ Yếu Lý Lịch nộp thi đại học. Ông chỉ chịu ký với điều kiện ghi thêm sơ
sơ vài hàng ‘thành thật’ có thằng anh sĩ quan ngụy, lý do khai tên đổi họ…
“ Vì hoàn
cảnh khổ đau của chiến tranh, cha con ly tán. Tôi là nạn nhân của thời cuộc do
Mỹ Ngụy gây ra. Nay nhờ cách mạng cứu sống lại đời tôi nói riêng, thế hệ trẻ
nói chung. Nay tôi nguyện trọn đời hy sinh cho cách mạng v.v… và v.v…”
Trời ạ! Chèn
ép nhân dân phải không, đã thế không thèm đề gì hết, cùng lắm bỏ thi, tội gì
phải đặt sự tiến thân của cá nhân mình vào dăm câu lếu láo nịnh bợ đó. Ta
nguyện trọn đời dâng con tim chai đá “không bao giờ biết đến nói dối” cho bồ ta
thôi, ta hổng hưởn hy sinh ‘phi lý, vô lý’ cho cách mạng à nhe! Nản quá, rút sơ
yếu lý lịch về để nghĩ lại xem, cái lối dồn người ta vào chân tường của ‘đồng
chí Ba’ này coi bộ không khá, hổng lẽ đời ta từ nay chỉ còn biết quỳ lụy và dựa
hơi thôi sao? Ông già vẫn không ngớt cằn nhằn:
‘Ba đã giới
thiệu được nhiều người có việc làm, tại sao ba lại ngần ngừ khi bảo đảm cho
con? Ba và Đảng đã đánh giá tư tưởng con như thế nào? Con không thật tâm phục
vụ cách mạng, con còn nặng về chủ nghĩa cá nhân ích kỷ tư hữu, con phải nhìn
nhận sự thật như vậy, nếu Ba bảo đảm cho con, nhưng con có bảo đảm cho sự
nghiệp cách mạng 30 năm của ba không? Nếu một lúc nào đó con phản Đảng, con
phản Ba thì Ba vẫn phải trừng phạt con như đối với kẻ thù.’
Ta nhìn gương
mặt nghiêm khắc của một người hết lòng vì Chủ nghĩa Xã Hội, cái cảm giác xa lạ
khi đối diện với người cha ruột thịt của mình, hình như chỉ có Ba Sáu thân
thương gắn bó trong cuộc đời ta, còn người đàn ông này là một Đảng viên Cộng
Sản!
Ngày… tháng…
Những con số
báo cáo từ bàn giấy thì không bao giờ chính xác cả. Ta hơi quê khi bị thằng nhỏ
chỉ mặt - Xạo!
- Ừ, có lẽ
vậy. Lỗi không phải tại ta…
Chỉ tiêu định
mỗi tháng phải có 200 người (tối thiểu) trong phường, giãn dân hồi hương hoặc
đi kinh tế mới.
Tiên sư anh!
Bắt buộc thế, nhưng người ta không đi, chả lẽ lấy cần trục mà xúc à? Vô lý! Từ
đây đến tháng 6-1977 Sàigòn phải đi trên một triệu rưỡi dân, thiên hạ dùng danh
từ nghe kêu to quá “Ra tiền tuyến hăng hái đi vào mặt trận sản xuất thể hiện
lòng yêu nước, thiết tha với sự nghiệp cách mạng, với nhiệt tình xây dựng chủ
nghĩa xã hội! v.v… v.v”…
Chán mớ đời!
Rồi bao giờ các đồng chí sẽ đi? Hay “vành đai xanh” sẽ bảo vệ an toàn cho quý
vị, để từ bên trong quý vị cứ xỉa tay năm ngón và hưởng thụ dài dài?
Những căn
biệt thự mặt tiền, những nhà lầu xe hơi, những nguy nga tráng lệ của thành phố
Mỹ Ngụy lần lượt bị các đồng chí tiếp thu và chia nhau quản lý, để đuổi gia
đình thân nhân của tay sai Đế quốc vào rừng bỏ chết vì đói nghèo bệnh tật, chưa
thấy hột gạo nào từ Bắc chuyển vào Nam “cứu đói đồng bào” mà ngược lại những
hàng xa xỉ “phồn vinh giả tạo” của miền Nam thì theo đoàn xe tải chở ra Bắc
không biết bao nhiêu mà kể. Hòa bình thống nhất đất nước là như vậy ư?
Ngày… tháng…
Lúc này không
phải là lúc ngồi mơ mộng bên trong cửa sổ. Lúc này là lúc xông xáo đi vào một
trò chơi lắm nguy hiểm, đe dọa, ta cân nhắc suy tính liệu sức mình, tuổi trẻ ta
sẵn sàng dâng hết cho lý tưởng, nếu thật đó là một lý tưởng hợp lý.
Ta đang có
niềm tin vào công cuộc trọng đại sắp tới, ta sẽ không ân hận khi bắt tay vào
việc, đời sống chẳng còn vô nghĩa, ta cười cợt như một trò chơi lớn, không ngại
ngùng và chùn bước.
Một tháng qua
đi, một ngày thấm thoát, ta nghĩ nhiều về thời cuộc, về những xao động lung
tung trong cái gọi là nhà nước cách mạng, liệu mọi việc có bình yên, huy hoàng
rực rỡ như mọi cuộc họp báo cáo tình hình công tác không? Một cán bộ ngoài Bắc
vào đã phải buột miệng:
- Chúng tôi đã
bị lừa. Chúng tôi đã lầm lỡ dại dột khi chấp nhận Chủ nghĩa xã hội, lúc còn ở
ngoài Bắc nghe tuyên truyền trong Nam là một lũ Mỹ Ngụy khát máu, dân chúng
trong Nam sống trong nghèo đói lầm than, thương đồng bào ruột thịt của mình nên
tình nguyện vào Nam đánh Mỹ, mang theo mấy cái chén gốm Bát Tràng, vài ký gạo ngon
tưởng là món quà quí báu tặng họ hàng. Vào Nam thấy dân chúng sống nhởn nhơ, dư
ăn dư để gấp vạn lần ngoài nớ, mấy ký gạo mốc meo ném vào thùng rác ngượng
ngùng.
Thế đấy! Cả
bè cả lũ bị lừa thế đấy, còn gì để phải phủ nhận nữa không? Còn sự thật nào chua
chát hơn thế không? Những lý thuyết của họ bao giờ cũng đầy “chính nghĩa”, lập
luận vững vàng và sắc bén, ta làm thế nào để có thể đánh đổ một chủ nghĩa được
nuôi lớn từ hơn nửa thế kỷ trước, đánh đổ một cách hợp lý và vững vàng hơn thế…
Ngày… tháng…
“Cho đồng bào
tôi ngồi nghếch mắt trông chờ… Nghe những ủy ban, hội đồng nói vu vơ…” Ta nản đến phát
khóc khi phải ngồi nghe thiên hạ bàn ra tán vào câu chuyện vận động kinh tế mới
và thanh niên xung phong thủy lợi.
- Tôi chắc
cũng dễ thôi. Mỗi tổ chọn một người đi công tác 15 ngày, thay phiên nhau tự túc
ăn công, cứ đào một mét sẽ được 200 đồng, đào nhiều ăn nhiều, đào ít ăn ít, tôi
nghĩ cũng giải quyết nhanh được, buôn bán lần lượt vào tay mình quản lý, tư
thương bán hàng bơ mỏ, ế ẩm, rồi cũng phải dỡ nhà mà đi kinh tế mới…
Ta ngồi nghe
mà buồn, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Xạo! Làm gì có mà hưởng, nhà
nước cứ bắt chẹt bắt lỏng thì dân còn cục cựa đàng nào. Không đi công tác thì
không có giấy chứng nhận lao động mà không có giấy chứng nhận lao động thì
không được cung cấp gạo, thì thiệt thòi việc này, việc kia… Khốn nạn, dân còn
gì nữa mà dồn vào đường cùng đến thế!
Công tác thủy
lợi, một hình thức lợi dụng sức lao động, bóc lột sức người, sức của. Ăn cơm
nhà, tự túc mọi phương tiện để lên kinh tế mới đào kinh, một ngày, một tuần,
một tháng, ba tháng, lấy danh nghĩa phục vụ ích lợi chung. Nhưng, cứ nghĩ bỏ ra
một ngày công như thế, liệu người ta có đủ một nguồn lợi để nuôi gia đình đang
nheo nhóc?
Tội nghiệp
mấy người đi học tập về, bị dính không chạy đâu được. Giọng thằng cha tổ trưởng
nghe mà phát ghét.
- Anh phải
sốt sắng tham gia công tác, càng nhiều chừng nào, sự phục hồi quyền công dân
của anh càng nhanh chừng đó…
Thiệt muốn
chửi thề hết sức! Anh là người Việt Nam từ hồi nào đến giờ, chẳng là công dân
thì là gì? hổng lẽ trước đây những người bại trận kia là người ngoại quốc?
Chẳng qua vì bại trận mà trở thành ‘phó thường dân’, bị tước đoạt hết, bị ruồng
bỏ, rẻ khinh, đày đọa. Học tập cái quái gì ở đó, nhốt trong mấy cái thùng sắt,
ngày nóng như lò nướng, đêm lạnh cắt da, ra ngoài lao động làm như trâu cày, ăn
uống thiếu thốn, bệnh tật chết dần mòn, lâu lâu cao hứng quăng lựu đạn vào giết
tù rồi đổ thừa bọn phản động phá hoại hay chĩa súng vào mùng bắn chơi, chết ai nấy
chịu như trường hợp anh của thằng bạn học chung trường. Má nó xỉu lên xỉu xuống
khi nhận xác con, so với ‘tắm máu’ trong chế độ phát xít thì cách đối xử với
người bại trận theo kiểu của chế độ này còn dã man hơn nhiều, ác có bài bản mà,
càng nói càng thấy nóng gan!
Ngày… tháng…
Cái món hành
chánh bao giờ cũng lằng nhằng, nó luôn khệnh khạng như lão ký già. Quanh quẩn
cứ báo cáo sổ sách linh tinh. báo cáo tuần, báo cáo tháng, báo cáo định kỳ,
chẳng công tác gì nhiều hơn những loại báo cáo ấy, cứ giấy tờ chất đống mà
không giải quyết được gì. Đúng như một ‘đồng chí’ đã tự phê: ‘Văn thư đầy túi
áo, báo cáo đầy túi quần!’
Ta ngồi loay
hoay như kẻ mắc ị mà táo bón cả tuần, thủ tục hành chánh luôn khắc nghiệt dù
rêu rao là đã giản dị đến tối đa. Có một ông lão cyclo già, đổ xăng công đoàn,
chạy tới đâu phải trình phường đóng dấu tới đó, từ Chợ Lớn qua Phú Nhuận, đóng
một dấu ở Phú Nhuận, từ Sài gòn sang cư xá Thanh Đa, đóng một cái dấu ở Thanh
Đa. Nội chạy vòng vòng tìm cho ra cái trụ sở phường để đóng dấu cũng mất cha nó
biết bao nhiêu xăng của nhà nước và sức lao động của nạn nhân, chưa kể gặp lúc
đồng chí chủ tịch đi vắng, ngồi chờ cả buổi, cũng hụt mất mấy cuốc xe. Nâng đỡ
lao động mà như thế à? Ông lão hằn học “Mồ tổ cha nó“.
Tội nghiệp
đồng bào tôi, nheo nhóc khổ sở trong chuyến đi kinh tế mới tội tình. Mấy ai
trong số hàng nghìn người rời thành phố hôm nay, đã ý thức được “lao động là
vinh quang” là “hăng say sản xuất”? Hay chỉ vì không sống được ở đây nên phải
đi thôi, dù tình nguyện hay cưỡng bức cũng đồng nghĩa như nhau, suốt ngày chạy
đôn chạy đáo lo cho đồng bào, ta thấm thía hơn cái tình nghĩa con người: ‘Vì ta
thương nhau là thương hết đám dân khổ đau…’.
Hàng hàng lớp
lớp người chen chúc nhau trong khuôn viên Viện Hóa Đao. Ướt loi ngoi như chuột
khi cơn mưa quái ác đổ xuống, tụi thanh niên cởi trần ngồi phát gạo cho đồng
bào. Mấy tên to đầu biến mất hết. Chỉ còn ta với ta, thương đồng bào nhót cả
ruột. Cố lên! Chịu khó, chịu khó một chút rồi cũng một chuyến đi mà, thế nào
rồi cũng có ngày ta lại gặp nhau…
Khúc đường
đầu là những ngôi nhà ngói đỏ, lẫn giữa vườn lá xanh um trên quốc lộ 13. Thủ
Dầu Một, đoạn đường kế đó là ruộng đồng ngút mắt, tăm tắp xa ở Phú Giáo và cuối
cùng là một con đường đất đỏ bụi mù với những giao thông hào đầy kẽm gai xơ
xác. Nước trũng hố bom, đồi chập chùng cỏ lau, và thung lũng xám xịt, xuống xe
giữa vùng kinh tế mới Bàu Ké hoang vu heo hút này đồng bào chúng ta nghĩ gì?
Đoàn người
vừa rời bỏ thành phố, rời bỏ tiện nghi vật chất đô thị để ngơ ngác đặt chân đến
đây, bao nhiêu là hoang mang ngại ngùng. Những ngôi nhà tranh thấp thoáng trong
cỏ rậm. Đời sống sẽ bắt đầu từ con số không ở đây. Dính líu và không thể quay
về, ta ứa nước mắt khi vẫy tay từ giã, có lẽ ta sẽ đến đây sớm hơn dự tính…
Ngày… tháng…
Ta đang bị
ViCi khủng bố và kềm kẹp, ngày nào không khí trong nhà cũng nặng nề, ngột ngạt,
tối đứng đó với má và lũ nhỏ, sáng cãi nhau với ba và chị hai, quanh quẩn trong
một con hẻm chán phèo.
Ta không thể
để đời sống bị lệ thuộc và chi phối nhiều đến thế. Ba hăm dọa đủ điều. Ba bảo
rằng, nếu rời khỏi ông ra, đời sống chính trị của ta sẽ vô cùng đen đúa. Họ sợ
con của cách mạng có tương lai tối tăm ư?
Ta sẵn sàng
chấp nhận tất cả, lao tù nhà giam vốn đã phi lý từ bản chất đàn áp của nó, ta
chỉ sợ tư tưởng bị đày đọa, nhốt kín thôi, ta là ngựa rừng chứ không phải là
ngựa phố. Tại sao cứ thích bịt mắt để ta kéo chiếc xe cách mạng kệch cỡm của
ba?
Ngày… tháng…
- Chị có mặt
trong ngôi nhà này để làm xáo trộn tư tưởng lũ nhỏ, quấy rối đời sống đang đi
lên của gia đình.
Nhóc Hùng
hung hăng ‘đấu tố’ ta giống như cách mạng đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng
đất. Mà có gì đâu khi nhỏ My cứ đi theo chị Tư than thở ”Em chán quá, ba nói
giải phóng là ai cũng no cơm ấm áo, mà có thấy gì đâu, tụi bạn em bỏ học vì nhà
nó nghèo túng, vì ba nó đi cải tạo, má nó bán hết đồ đạc trong nhà để chạy gạo
từng bữa mà không biết cầm cự được bao lâu?”
Ta ngạc nhiên
khi thấy Hùng thay đổi nhanh chóng từ khi theo học lớp đối tượng đoàn, nó tưởng
thế giới trong tay nó chắc, ta nghe cái từ ‘tẩy não’ của Cộng sản bây giờ mới biết, thật kinh
khủng quá, xã hội đã biến thằng nhóc dễ thương của ta thành một tên kiêu căng
phách lối, nó còn cao giọng phê bình ta là không có lập trường chính trị vững
vàng, tối ngày cứ nghêu ngao nhạc vàng và đọc văn hóa phẩm đồi trụy. Trời đất!
Mấy cuốn Tuổi Hoa mà hồi đi học ta nhịn ăn hàng để mua đem lên Sài Gòn cho nó
đọc, vậy mà bây giờ nó ”kiểm điểm” ta, tức chết đi được cái đảng Cộng sản đã
làm hư thằng nhóc, thiệt thất vọng quá “đau lòng ta muốn khóc!” Để rồi xem mi
phất tới cỡ nào, vô đoàn rồi lên đảng, vấn đề không phải mi là ai mà mi làm được cái
gì lợi ích cho đồng bào cho xã hội? Điều đó mới quan trọng nhóc à!
Ngày...tháng
Ra khỏi phòng
thi, buồn ngơ ngẩn. Một chút ân hận bâng khuâng, lỗi tại tớ hoàn toàn, tớ không
thích đi thi, tớ không thích đậu, không thích làm học trò nữa! Tớ chỉ tắm được
một lần trong một giòng sông, tuổi trẻ hồn nhiên của tớ trôi qua đi, mất hút.
Tiếc thì có tiếc, buồn thì có buồn nhưng chấp nhận. “Dứt khoát” thế thôi!
Đề thi có câu
hỏi mắc cười “cho biết sự khác nhau giữa người và khỉ,” cậu biết tớ trả lời sao
không? Tớ nhìn lên tường thấy hình ông Hồ chí Minh và tớ ghi ngay ‘người có râu
và khỉ không có râu’. Nộp bài mà tớ cứ tủm tỉm cười hoài.
Tớ không hy
vọng hay ao ước gì nữa, vì đời sống mình còn có gì để ao ước nữa đâu! Tí Cồ sẽ
mất đi cái dịp nôn nao chờ nghe kết quả của tớ như tâm trạng gã bộ đội trong
thơ ‘kách mệnh’
Nghe tin em
vào đại học,
Nửa tin nửa
ngờ tên lại trùng tên.
Tớ thấy mình
tàn nhẫn hết sức khi bình thản bước ra khỏi cổng trường thi mà lòng trống rỗng,
tớ muốn phì cười khi có người hỏi tớ “Đậu không?”. Chắc đậu.
Ừ! Nhờ 30 năm
đời ba ta có Đảng!
Quê quá, phải
không Tí Cồ? Tệ lắm thì tớ cũng được ‘bế’ vào Đại học Dự Bị, nhưng mệt quá. Tớ
sợ sách vở lạ lùng. ‘Thôi thì thôi, chẳng đành thì thôi, thôi thì thôi nhé…’
Giờ thì tớ
tiếp tục đi làm, bình thường nhưng chẳng có vẻ gì là bình thường hết, vẫn ngành
Vận Động Xây Dựng Kinh Tế Mới, mỗi tháng đi công tác hai lần, điều xe và đổ dân
xuống vùng kinh tế mới Đồng Xoài, Sông Bé.
Chen chúc
đứng ngồi giữa đoàn người gói khăn lũ lượt hỗn độn và bần cùng. Những buổi trưa
nắng cháy và chiều xuống mưa dầm. Những ngôi nhà tranh thấp tè (công trình của
Thanh Niên Xung Phong), lô nhô giữa rừng lau sậy, ngay ngắn, kiểu mẫu.
Đồng bào
xuống xe với gương mặt ngơ ngác, bàng hoàng khi được gọi tên nhận nhà mới,
thuộc quyền làm chủ của mình từ đây, với nước ngập đầy sân, cỏ tranh leo tận
cửa. Chưa có vách che nên gió thổi luồn lạnh buốt.
Những tiếng
thở dài, những lời phàn nàn trách móc, hay tệ hơn nữa, sự gay gắt sẵn sàng chụp
lên đầu các cán bộ điều xe, đổ dân như tát nước vào mặt.
- Vùng “đất
hứa” của các người đó à?
Ở năm ba
tháng, gặp bao nhiêu sự thật phũ phàng, gạo nước dầu lửa, nhu yếu phẩm, thuốc
men bệnh tật. Hàng trăm thứ khó khăn thiết yếu, đành trốn về Sài Gòn chửi rủa vung
vít. Những tiếng”phản ảnh” làm tớ đau lòng.
Có thật tớ
cũng đang đồng lõa tiếp tay với những tên đao phủ cố tình giết chết đồng bào
mình không? Mỗi chuyến đưa dân về, tớ buồn và nản lòng không tả được. Nảy ra ý
định “được” thi rớt, “được” dẹp bỏ dứt khoát mọi bận bịu ở Sài Gòn. Tớ sẽ đi
kinh tế mới! Tớ sẽ sống với đồng bào của tớ!
Có thấy những
gương mặt thảng thốt của người dân khi vừa đến vùng Kinh Tế Mới, mới thấy
thương dân chúng mình. Người vợ trẻ với năm bẩy đứa con nheo nhóc đi kinh tế
mới làm gì? Phải chăng để mong mỏi chồng mình sớm được học tập trở về? Anh sinh
viên đen đúa kia tại sao có mặt ở đây trong khi bạn bè anh đang ở giảng đường
đại học? Vì điều đơn giản, anh là con em của ngụy quân ngụy quyền, không đủ
tiêu chuẩn đi học, gia đình không thể cưu
mang mãi đời
sống bình yên cho anh. Rồi cũng phải đi thôi! Dứt khoát là như thế, không Thanh
Niên Xung Phong thì cũng nghĩa vụ quân sự. “Tầng lớp tiên tiến” mà!
Tớ yêu đồng
bào yêu tuổi trẻ của mình, bây giờ thì Tí Cồ đã hiểu tại sao tớ thi hỏng đại
học, lý do này có gì đáng trách không Lộc? Tại tớ muốn thế mà.
Ngày xưa, đọc
thơ bạn bè, thấy không có gì hết. Nhưng bây giờ, lật lại trang báo học trò cũ,
đọc thơ Huy Giao, thấy thấm thía lạ lùng:
Còn gì vui
bằng niềm vui hôm nay,
Lấp kín đi
anh, những hố bom cày.
Mùa sau xới
đất trồng khoai sắn,
Khi lá xanh
rồi, buồn cũng nguôi ngoai…
Mùa sau đã
hơn năm rồi mà sao lá chẳng xanh để lòng tớ nguôi ngoai? Lý tưởng tuyệt vời quá
đỗi với tuổi trẻ bọn mình. Hát đồng dao hòa bình và ngợi ca tự do hạnh phúc, bình
đẳng và yêu thương. Nỗi ao ước như một cái gì đó gắn bó không rời “ở một nơi
nào mà ai cũng yêu nhau”, có thật bây giờ chúng ta đang sống trong một vùng đất
mà “ai cũng yêu nhau”? thật là chuyện hoang tưởng khi sống trong chế độ này, vì
người nào thương ta cho bằng ta đâu.
Ngày ...tháng
Triển khai
công tác trong tháng, tiếng quạt máy quay đều đều, mệt mỏi, một vài tiếng ho
húng hắng những cái ngáp được che đậy vội vàng. Mới 9 giờ sáng mà sao buồn ngủ
lạ lùng. Mọi người đều uể oải trước câu “hạ quyết tâm” sôi nổi của đồng chí
trưởng ban, một chị trong đội tuyên truyền xung kích của Quận đã trề môi lắc
đầu:
- Trời ơi! Bộ
tưởng dễ lắm hả? Nói gần gãy lưỡi ngày này qua ngày kia mà có ma nào thèm nghe
đâu! Người ta còn chửi cho là đằng khác, nói suông thì dễ lắm, tới chừng xuống
dân mới biết bị phản ánh tơi bời. Họ nói “nhà nước đem con bỏ chợ, chưa đi thì
nói ngon lành lắm nào là có gạo có nước, có thuốc, có trường đầy đủ, bà con chỉ
đi lao động thôi, còn mọi thứ đều có nhà nước cung cấp, lo lắng chu toàn, nào
là khỏi lo chạy cơm từng bữa, sống chui rúc khổ sở ở Sài Gòn. Tưởng sao tới
chừng lên đó, chẳng có cái cóc khô gì hết. Lúc đầu, gạo phát cầm chừng, rồi từ
từ xuống bột mì ăn cầm hơi, nước nôi chẳng có, sanh ghẻ chóc, bệnh hoạn, chẳng
thấy một viên thuốc nào làm phước. Mấy cô mấy cậu xuống phường khóm họp dân lại
nói những chuyện phong thần, nhà nước thương dân, lo cho dân theo cái điệu vẽ
bánh bắt phải ăn no, thì dân cũng ngất ngư mà xá dài…”
Tôi cười cười
sự thật đã không thể bẻ quanh bẻ quẹo được thì cũng đành thôi!!
Đến phần kiểm
điểm công tác hầu hết các phường đều đứng lên nêu các khó khăn của ban mình
trong khi đi vận động.
- Chúng tôi
đến nhà bà A, thì bà B bên cạnh trông thấy đã vội đóng cửa…
- Mặc dầu
chúng tôi đã có kiên trì giải thích chính sách cũng như chế độ cấp phát dành
cho Kinh Tế Mới, nhưng nhiều đồng bào vẫn thắc mắc về những tin đồn còn sai
sót, thiếu thốn trên vùng Kinh Tế Mới…
- Đối với
diện gia đình sĩ quan học tập thì đa số đều ngoan cố, viện cớ chờ chồng về mới
đi, chứ không chịu đi trước, vì họ không tin là chồng, cha họ sẽ được về ngay.
Còn giới tiểu thương buôn bán thì cho rằng còn làm ăn được nên không chú ý lắm
về kinh tế mới v.v… và v.v…
Buổi họp kéo
lằng nhằng đến 11 giờ 30 vẫn chẳng đi tới đâu hết, không biết đây là lần họp
thứ mấy mươi của Ban Kinh Tế Mới, vẫn cái không khí tẻ ngắt chán chường, vẫn
cái giọng làm ra vẻ hăng hái sôi nổi của thằng cha trưởng ban Quận, đòi phải
“đạt chỉ tiêu”, điệu não nề của các phường khi báo cáo về con số thành tích,
biểu đồ tụt xuống dần dần như mạch của con bệnh đang hấp hối. Câu kết luận bao
giờ cũng “dứt khoát”. Khó khăn nào cũng vượt qua! Chúng ta phải nỗ lực để đạt
chỉ tiêu cho bằng được, vì đó là yêu cầu cấp bách khẩn trương mà Đảng đã giao
phó cho chúng ta phải hoàn thành…
Tan họp mọi
người ra về mệt mỏi. Nắng buổi trưa nhức đầu, hay tại ngồi nghe thiên hạ nói
nhiều quá đâm ra váng vất? Họp với hành sao mà chán thế không biết! Tôi sẽ phải
nói gì với đồng bào của tôi, cái máy nói quay quá nhiều vòng, đến nỗi người ta
có thể thuộc cả từng dấu chấm, dấu phẩy trong bản văn kiện “trọng tâm hàng đầu
của đảng” về Kinh Tế Mới. Và người ta cũng đã biết hết cái sự thật bên trong
của danh từ đó. Sự nói dối được truyền đi từ trên xuống dưới rõ ràng và rập
khuôn, làm sao bây giờ?
Ngày… tháng…
Dứt khoát là
phải thu xếp đi thôi. Nhà cất bất hợp pháp. Không giải quyết được vấn đề mua
bán phải dời ngay để trả lại sự nề nếp khang trang cho thành phố, khi phải sống
chui rúc khổ sở trong những căn nhà ổ chuột, bà con càng nên căm thù chế độ Mỹ
Ngụy đã bạc đãi đời sống đồng bào nghèo khó. Mỹ Ngụy là thủ phạm gây nên tệ
trạng hôm nay! Nhà nước cách mạng chủ trương vì hạnh phúc của nhân dân, vì đời
sống nheo nhóc của đồng bào.
Đi kinh tế
mới không phải là đẩy ai, là muốn tống khứ bà con rời khỏi thành phố, như một
số bà con đã hiểu sai lệch về chính sách tốt đẹp này. Đi kinh tế mới là tạo cơ
sở cho bà con đều có công ăn việc làm, giải quyết được tình trạng thất nghiệp
hiện nay, cân bằng về sự cung cầu kinh tế, phân bố sức lao động trên các vùng
đất tươi tốt còn bị bỏ hoang vì chiến tranh trước đây, tạo ra của cải và vật
chất để xây dựng lại đất nước sau bao nhiêu năm bị tàn phá trong bàn tay của Mỹ
Ngụy đế quốc. Đưa đồng bào đi kinh tế mới là một bổn phận tất yếu của nhà nước
cách mạng, được xem là một chính sách hàng đầu trong việc chăm lo cho đời sống
nhân dân tận tình, chu đáo.
Mỗi lần đưa
đồng bào đi kinh tế mới, phường khóm chúng tôi đã lo từng cây kim sợi chỉ, từ
manh quần tấm áo, từ nồi niêu mùng chiếu đến tiền bạc thuốc men. Và khi đưa lên
đến nơi đến chốn, thì ở đó đồng bào đã có sẵn nhà ở, có sẵn gạo ăn, có sẵn một
phần nào tiện nghi tương đối mà nhà nước đã chuẩn bị đầy đủ để tiếp đón đồng
bào định cư trên vùng kinh tế mới mầu mỡ, trù phú…
Giọng bà chủ
tịch dẻo quẹo trơn tru, tôi chán ngán khi phải ngồi câm miệng nghe thiên hạ lếu
láo “lo cho từng cây kim sợi chỉ”. Trời ơi! Hành động đâu phản ánh được bản
chất! Tôi biết chuyện này đã xảy ra đối với một gia đình chị lao công quét chợ
và 4 đứa con nhỏ. Tối ngủ ngoài sạp cá, bị công an đuổi, không có chỗ ở phải
đăng ký đi kinh tế mới. Mà “cây kim sợi chỉ” đó là do bà chủ tịch “tiếp thu”
của một gia đình khác, lấy danh nghĩa “cách mạng” tặng lại.
Tôi xấu hổ
khi nhớ những lần tổ chức lễ tiễn đưa đồng bảo đi kinh tế mới trong phường. Bà
chủ tịch đã nhờ tôi gói thật kỹ, thật đẹp, những bộ quần áo cũ có cái đã rách,
đã mục không biết lôi ở đâu ra, để lên micro hô hào quà tặng đồng bào nghĩa cử
cao đẹp của Ủy Ban dành cho “những người đã ý thức được nghĩa vụ và quyền lợi
của gia đình mình cũng như của đất nước” mà tình nguyện ra đi.
Không có gì
chua xót mỉa mai hơn khi về nhà, người ta mở những gói quà nham nhở đó ra, sự
mị dân đã đến tột cùng!!
Ra về, trời
mưa lất phất, nghe đồng bào bàn tán sau lưng:
Họp với hành!
Chán quá! Giờ còn bán gạo, mai mốt cúp gạo, bán bột, bán khoai. Từ từ cúp hết
lương thực, nhu yếu phẩm. Không ký giấy bán nhà. Dọn dẹp chợ búa. Không cho mua
bán lặt vặt để hàng hóa phải vô quốc doanh, vô hợp tác xã nhà nước. Họ làm tới
cùng để mình sống hổng nổi nữa thì phải dỡ nhà đi. Tôi biết quá mà! Chính sách
cách mạng là vậy đó chị ơi!
-“ Thương
dân, lo cho dân”! Tôi hổng cần họ thương theo cái kiểu bắt đi kinh tế mới đó.
Nói nghe mà ham! Thiệt tình trên kinh tế mới “ngon lành” vậy đó hả? Tôi hỏi chị
mình còn ở Sài gòn này làm cái giống gì, đi phứt cho nó khỏe, khỏi mắc công nay
kêu đi họp, mai kêu đi họp để nghe họ nói này nói kia nhức đầu. Kẹt nỗi kinh tế
mới bà chủ tịch nói hổng giống như kinh tế mới của thằng em tôi. Lúc đầu, hai
vợ chồng nó nghe nói cũng hăng, đăng ký đi, tôi cũng lên trển mới té ngửa! Cái
“nhà” có chút xíu mà dột lên dột xuống, gạo thì lãnh được hai ba ký gì đó, rồi
nín luôn, cứ ăn khoai lang, khoai mì riết thôi. Nói có giếng, mà có thấy cái
giếng nào đâu nước không có một giọt mà rửa ráy, chứ đừng nói tưới rẫy, tưới
nương. Thêm cái thứ sốt rét giết người nữa, mấy miệt kinh tế mới toàn là chỗ
rừng bụi không hà! Nó mới bỏ đứa con hồi tháng trước, tôi mới nói cho chị nghe
đó, còn mấy đứa dẫn về Sài Gòn, đứa nào cũng ghẻ đầy mình, mà người thì ốm
nhom, xanh le xanh lét thấy đứt ruột hết sức! Nói thiệt với chị thấy vậy rồi
thì thà ở đây ăn đất tôi cũng ở nữa, chứ chẳng đời nào mà đi. Nghe nói mai kêu
mấy đứa học sinh ra đuổi chợ, dọn dẹp không cho mua bán nữa.“Chợ phải đâu ra
đó, không có gióng gánh bừa bãi, người ra kẻ vô ồn ào mất trật tự, không kiểm
soát được hàng hóa chợ đen chợ đỏ”. Nghe nói mà mắc cười, cái chợ mà không ồn
ào thì làm sao gọi là cái chợ được! Tưởng gì họ sai con sai cháu mình ra đuổi
mình. Tôi hỏi chị không cho mua bán thì lấy gì sống? Không có bán gạo thì lấy gì
ăn? Thì phải đi kinh tế mới theo ý của họ.
- Xí! Nói
nghe dễ dữ! Bộ tưởng người ta khùng hết chắc? Còn lâu!
- Nhưng biết
đâu được chị! Nhà nước cách mạng có nhiều chánh sách lắm. Chị không nghe nói là
phải “dứt khoát” thu xếp mà đi hay sao? Sớm muộn gì cũng vậy, mình là cá nằm
trên thớt chị ơi! Mình chết chứ họ đâu có chết!
Tiếng guốc
dép kéo lê trên những con hẻm tối. Tôi lặng lẽ nép mình vào một hàng hiên, chờ
mọi người đi khuất.
Nỗi buồn
không gọi được tên, cá nhân tôi không giúp được gì cho mọi người. Chỉ có Đảng
và Nhà Nước “lãnh đạo”! Đành vậy sao?
Kinh tế mới
như một viễn tưởng hãi hùng của người dân thành phố từ sau ngày giải phóng. Ở
đâu cũng nghe nói về kinh tế mới, đi đâu cũng nghe bàn về kinh tế mới. Người ta
nói với nhau về danh từ này ở khắp nơi trong miền Nam. Thậm chí đến những đứa
trẻ nhỏ lớp 1, lớp 2 cũng có thể hiểu mang máng về kinh tế mới do cha mẹ chúng
nó kể lại.
Người ta xem
như đó là một vùng đất đày ải, nghèo đói và chết chóc. Tôi nhớ đến gương mặt
hợm hĩnh của Thạch khi kể cho tôi nghe một câu chuyện khôi hài lúc người ta
nhắc tới kinh tế mới.
Có ba người
đi trên một con tàu: một người Nga, một người Mỹ, một người Việt Nam. Tàu ra
đến giữa biển thì có một con khủng long dữ tợn nổi lên, người Nga quát:
- Nếu mày
không lặn xuống thì tao sẽ lấy hỏa tiễn Sam bắn mày.
Con vật cười.
Người Mỹ nói
- Nếu mày
không lặn xuống thì tao đem B.52 dội mày.
Con khủng
long vẫn trơ trơ, nhưng khi người Việt Nam chỉ tay nhẹ nhàng nói “Tao sẽ dắt
mày đi kinh tế mới”, lập tức con vật hoảng hồn lặn mất.
Tiếng cười
Thạch kết thúc ở đó làm tôi se lòng, ái ngại. Người ta đã khẳng định một điều
gì, qua câu chuyện đùa mỉa mai đó? Kinh tế mới đã được đánh giá ghê rợn hơn cả
hỏa tiễn Sam lẫn B52, sống trong chế độ cộng sản còn bị đày ải, nghèo khổ hơn
cả thời kỳ bị đế quốc thống trị! Nên cười hay nên khóc trong cái vai trò của
mình bây giờ?!
Ngày… tháng…
Ngày mai có
chuyến đưa dân.
Suốt một ngày
lăng xăng chạy tới chạy lui, khiêng từng cái bàn gỗ mục, cái ghế gãy chân. Xách
từng chiếc chiếu rách bươm, cái thúng móp méo ra xe tải để ngày mai lên đường.
Chị đàn bà
bồng đứa con nhỏ xíu đang ngó mấy người hàng xóm khiêng phụ cái thùng nhựa đen
xỉn, cáu bẩn, từ trong bếp ra.
- Hết chỗ
rồi! Gã tài xế lắc đầu từ chối.
Chị đàn bà
quay sang tôi van nài:
- Cô làm ơn
nói với mấy ổng cho lên dùm đi. Kệ! Có cái thùng, lên trển đựng nước mà xài.
Nước giếng chắc mát lắm hả cô?
Tôi nhìn vào
thùng xe chật ních, đồ đạc của tất cả 7 gia đình gom lại chỉ có một xe hàng. Tôi
chưa thấy người nhà giàu nào đi kinh tế mới. Cũng may, đỡ phải tốn xăng nhà
nước vận chuyển. Tôi nói với người tài xế:
- Anh chịu
khó thu lại cho gọn, để nhét thêm dùm chị này cái thùng đi lên trển chị có mà
đựng nước. Tội nghiệp, tài sản của một gia đình nghèo…
- Nước giếng
mát lắm hả cô?
- Vâng. Tôi
cũng hy vọng là nó rất mát, để cho lòng chị khỏi buồn.
Ngày… tháng…
Tôi thấm thía
hơn cái tình nghĩa con người, khi mặc áo mưa xuống thăm những gian nhà chờ đợi
tối om, nhìn đồng bào nằm ngồi nheo nhóc trong ánh sáng leo lét của những ngọn
nến được thắp lên, rải rác, thỉnh thoảng một vài đầu thuốc lóe đỏ, tiếng đập
muỗi chan chát vang lên giữa tiếng khóc la của trẻ con. Sự náo động rời rạc,
buồn thảm. Những bóng người chập chờn, lố nhố trong mỗi lần tia chớp lóe lên
như những bóng ma đang chờ đợi giờ đền tội dưới hỏa ngục. Tôi đến ngồi bên cạnh
một gia đình đang dùng cơm dưới ngọn đèn dầu nhỏ. Họ ăn lặng lẽ như cái chép
lưỡi của con thằn lằn trong khung cảnh tranh tối tranh sáng. Món ăn duy nhất là
chai nước tương dằn trên cái bọc nylon có vài lát dưa lèo tèo.
- Gia đình bác
đã lãnh gạo chưa bác?
- Mới xong đó
cô.
- Đi mà gặp
trời mưa như vậy, cực quá hả bác? Gia đình bác đông không?
Người đàn ông
ngước mắt nhìn tôi như có vẻ dò xét nghi kỵ rồi lại cúi xuống và nốt chén cơm,
trong khi người đàn bà thở dài, kể lể:
- Mưa nắng gì
thì cũng phải đi chứ biết sao cô? Hai vợ chồng tôi với tám đứa con, ổng chạy xe
ba gác chở than ngoài Ngã Bảy. Còn tôi thì bán rau ở chợ An Đông. Hai thằng lớn
thì vá xe đạp. Họ nói đó là mấy nghề tạm bợ, sống bấp bênh, nhà đông người mà
có sức lao động thì phải đi kinh tế mới, chứ ở thành phố, ai bán gạo hoài cho
mà ăn. Đã nghèo lại con đông nữa, khổ lắm cô ơi! Đêm nào thằng cha tổ trưởng
cũng bắt đi họp, rồi hết người này tới người kia lại nhà kêu đi kinh tế mới,
riết rồi ổng giận quá, bán luôn cái xe ba gác. Đi thì đi. Cái số nghèo, số khổ,
thì ở đâu cũng vậy. Nhà nước thương thì mình nhờ, ghét thì mình chịu…
- Cái bà này!
Gã đàn ông gắt lên buông đũa ra ngồi ngoài hàng hiên vấn thuốc hút, cái dáng
khắc khổ trầm ngâm như tượng đá.
Ngoài trời,
mưa lâm râm. Tôi xót xa nhìn qua gian nhà gió lùa trống trước trống sau, bao
nhiêu người đang tạm trú ở đây để chờ đợi một chuyến đi, đêm sẽ dài hay ngắn,
và có mấy ai sẽ ngủ được một giấc ngon lành? Hay tất cả đều trằn trọc, băn
khoăn, suy nghĩ về cuộc sống ngày mai trên một vùng đất xa lạ mà mình sắp đến?
Gom hết mớ
tài sản èo uột nhỏ nhoi, vợ chồng con cái bồng bế nhau rời bỏ thành phố. Có
những nụ cười tin tưởng, hy vọng, có những ánh mắt ái ngại, lo âu. Ngày mai sẽ
có một đoàn xe ra đi với cờ xí rợp trời, sẽ có bà chủ tịch Quận, ông Bí Thư
huyện ủy ra đứng trước ống kính thu hình ngồi khen tinh thần yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, tích cực tham gia đi vào lao động sản xuất của nhân dân và thân
ái gởi tặng đồng bào một ít hột giống cùng vài cái cuốc, cái liềm tượng trưng.
Rồi thôi.
Đoàn xe sẽ
lần lượt rời bỏ thành phố. Bà con hàng xóm từ giã nhau bùi ngùi.
- Con Ba, mầy
đi mạnh giỏi nhé!
- Bà Bẩy ở
lại mạnh giỏi. Mai mốt cháu trồng được trái bầu, trái bí, mang về làm quà cho
bà mừng.
- Chú Năm lên
trển có bắt được con nai con thỏ nhậu nhớ tui nhe.
- Ôi, nhậu
nhẹt gì mày ơi! Tao sợ hổng có gạo mà ăn kia. Bộ mày tưởng lên trển rảnh rang
như thời trước ngồi uống la-de trong Sở Thú chắc?
Suốt đêm tôi
đã không ngủ được. Cái mền quá ẩm nên làm tôi cảm thấy ray rứt, khó chịu thế
nào... Tôi nhớ gian nhà chờ đợi trống trải trong Viện Hóa Đạo, có hàng trăm
người nằm ngồi chen chúc nhau. Trời mưa lạnh, và họ cũng không ngủ được, vì mãi
nghĩ đến ngày mai và cuộc hành trình quái gở trong đời.
Ngày ...tháng
Tiếng nấc
nghẹn tuyệt vọng làm tôi bồi hồi.
Tôi có nên kể
cho cô nghe một sự thật nữa của chế độ không? Khi buổi sáng nay, tôi đã gặp một
người quen vừa từ kinh tế mới trở về thành phố, kể cho tôi nghe những chuyện
não lòng. Gia đình sĩ quan, tưởng khi học tập về, đi kinh tế mới sẽ yên thân
cùng gia đình lao động sản xuất. Chẳng ngờ đời sống bị kềm kẹp tù túng thêm
hơn, nói chuyện với ai năm ba người cũng bị dòm ngó, đi đâu cũng phải xin phép,
trình diện chầu chực, hàng tháng phải vào rừng làm công tác lao động phá rừng,
trồng lúa cho bộ đội ăn. Mỗi lần đi là làm cả mười hôm hay nửa tháng. Vậy mà
mỗi lần có cháy rừng hay nổ đạn ở đâu, là mấy người sĩ quan thất thế ấy lại bị
chửi bới vung vít, hăm dọa đủ điều. Nào là “bản chất ngụy”, nào là “thành phần
phá hoại phản động”. Muốn được yên thân thì đừng ngo ngoe, liệu hồn! Tưởng đi
kinh tế mới là khỏi nghĩa vụ quân sự, vậy mà những thằng con trai trụ cột trong
nhà vẫn bị gọi đi đợt đầu, bỏ lại vợ đang mang thai, bà già đang đau nặng. Nhà
nước tận dụng sức lao động, không chừa một người, lấy ai đâu mà canh tác?! Nước
vẫn không có. Bệnh tật vẫn ám ảnh. Sợ hãi, học tập và lao động mút mùa. Mỗi lần
họp hành, những tên cán bộ vẫn không ngớt ba hoa nào là tăng năng suất lao động
để vượt qua chỉ tiêu, hoàn thành kế hoạch, nào là thi đua lập thành tích để
chào mừng đại hội này, đại hội kia… Thử hỏi cô đàn bà con nít mà làm được cái
gì? Càng nói càng chán, có sống ở đó mới biết, gặp bao nhiêu chuyện bực mình.
Đi kinh tế mới là chui đầu vào rọ, mặc thiên hạ làm tình làm tội mình…”
Tôi đã ngồi
ngơ ngẩn cả buổi trời để nghe cho xong câu chuyện, có thật tôi cũng đang tiếp
tay cho họ để đày ải đồng bào tôi không? Nản hết muốn làm gì nữa! Tôi mong mình được
sống ở đó, chứng kiến mọi sự thật. Để chi vậy? tôi bất lực nhìn chế độ đã dồn
dân đến bước đường cùng!
Ngày… tháng…
Đi xem triển
lãm về kinh tế mới trên quận. Những hạt lúa trĩu nặng. những khoai sắn to
tướng, những trái bầu, trái bí ngon lành, những tranh ảnh sôi động, phô bày một
mùa thu hoạch đạt kết quả 100% trên vùng kinh tế mới. Tôi ngao ngán nhìn công
lao được tưới bằng mồ hôi và nước mắt của đồng bào suốt một năm nay, đang được
nằm trong bàn tay khép lại của nhà nước. Hàng biểu ngữ giăng mắc khắp nơi
- Tất cả cho
sản xuất!
- Tất cả để
xây dựng chủ nghĩa xã hội!
- Đảng lãnh
đạo, chính quyền quản lý và nhân dân làm chủ…
Quản lý có
nghĩa là giữ giùm, một đồng chí đã giải thích như vậy. Có ai tin được điều đó
không, tất cả những hoa màu này tôi đã nhìn thấy trên kinh tế mới, do chính bàn
tay lao động của những người dân đang sống khổ sở ở đó trồng nên. Nhưng điều
chua chát là họ không bao giờ được hưởng trọn vẹn những sản phẩm tốt tươi này.
Đó là một sự thật. Mọi thứ thu hoạch được, đã có nhà nước “quản lý”, tức là giữ
dùm. Cùng lắm là họ sẽ được tiếng có đạt chỉ tiêu, có tăng năng suất. Biểu dương
một vài cá nhân hay tập thể đã tỏ ra xuất sắc trong thành tích thi đua lao
động. Rồi thì vẫn tay cuốc tay cầy, vẫn ăn khoai sắn thay cơm gạo, vẫn đói kém
khổ sở và túng thiếu mọi thứ nhu cầu cần thiết trong đời sống người dân trên
vùng kinh tế mới. Chế độ mang danh nghĩa “đấu tranh cho giai cấp lao động nghèo
khó”, nhưng thật ra chính những giai cấp đó bị bóc lột nhiều nhất. Họ bị lợi
dụng để đưa ra “mặt trận lao động” như những công cụ phục vụ cho chế độ, cho
chủ nghĩa riêng tư của một thiểu số người lãnh đạo. Bằng những chiêu bài mị dân
sáng bóng, trò tiểu xảo mà ai cũng có thể đoán biết được.
Theo chân
đoàn đại biểu các phường, nghe một đồng chí thuyết minh về sơ đồ xây dựng kinh
tế mới đang sắp sửa tiến hành. Chỗ này là trường học, chỗ này là bệnh xá, chỗ
này là trụ sở Ủy Ban Hành Chánh xã, chỗ này là chợ và khu giả trí tập thể. Đây
là phần đất sản xuất tập thể. Đây là phần đất thổ cư của mỗi hộ gia đình để
công canh tác hoa màu phụ. Và đây là nghĩa địa, một khoảng đất nhỏ xíu ở góc sơ
đồ đã khiến tôi suýt buột miệng “Ủa! Sao ít vậy?” nhưng kịp dằn lại cái óc khôi
hài nhiều khi không đúng chỗ của mình. Quả thật, nhà nước chu đáo vô cùng!!
Đúng là một vùng kinh tế mới kiểu mẫu chỉ có trên sơ đồ, trên những cửa miệng
ba hoa bóng bẩy của tụi tuyên truyền
Kế đó là đến
phần chiếu phim. Những hình ảnh “sinh động khí thế” của một vài gia đình. Bà
Năm, Bà Tám điển hình, đã tự động giở những căn nhà ổ chuột của mình ở thành
phố để hồ hởi phấn khởi đi xây dựng vùng kinh tế mới. Những nụ cười toe toét
đứng quanh mái tranh, bên cạnh các luống khoai xanh um, chạy dài, cái bắt tay
thân mật của đồng chí trưởng ban kinh tế mới Quận lên thăm viếng đồng bào.
Hình ảnh các
cán bộ đang hì hục khiêng đồ đạc từ trên xe tải xuống, phụ giúp đồng bào, tôi
bắt gặp hình ảnh cô bạn đồng nghiệp đang xách chiếc ghế mây xộc xệch nhìn về
phía khán giả cười thật tươi, và tôi cũng thấy cái mặt mình đang cúi xuống cho
một gia đình hai ổ bánh mì mang theo để ăn trong chuyến đưa dân. Bộ bà ba đen
không thể biến tôi thành một cán bộ cốt cán của nhà nước và hành động của tôi
trên khung vải không phải là một nghĩa cử cao đẹp của chính quyền đối với nhân
dân. Trong vấn đề tuyên truyền để gây ưu thế cho cách mạng, người ta đã không
bỏ sót một chi tiết nhỏ nhoi nào để khai thác nó thành một lợi điểm cho chế độ,
cho chính sách. Tôi không ngờ hành động vô tình của mình, xuất phát từ mặc cảm
tội lỗi của mình đối với đồng bào, lại trở thành một đề tài tuyên truyền của
nhà nước và càng thấy mình “ăn ảnh” trên khung vải bao nhiêu, tôi lại càng xấu
hổ bấy nhiêu. Buồn thay!!!
Ngoài số đại
biểu, quan khách đến tham dự, phòng triển lãm chỉ lưa thưa vài đồng bào tò mò
vào xem kinh tế mới ra làm sao. Một chị cán bộ dẫn hai ba bà có lẽ là đối tượng
vận động đến bàn chưng bày sản phẩm hoa màu kinh tế mới chỉ trỏ.
- Mấy bác
thấy không? Đất trên kinh tế mới tốt lắm mới trồng được mấy thứ cây như vầy,
tha hồ mà ăn. Chứ đâu như ở Sài gòn, mỗi chút mỗi mua, đắt đỏ.
Một bà lão
vụt nói:
- Thiệt sao
cô? Tui nghe nói làm bao nhiêu phải bán hết bấy nhiêu cho chính phủ mà! Bán hết
rồi lấy gì mà ăn?
- Đâu có bác.
Chừng nào mình ăn không hết mới bán chứ, chẳng hạn như đậu phộng, đậu xanh.
Hổng lẽ bác ăn hết mấy chục, mấy trăm kí sao? Thì phải bán bớt…
Một bác khác
cúi xuống vốc nắm đậu, nói trống:
- Bán cho nhà
nước rẻ rề thì cũng như cho không.
Tôi đứng nghe
mà cười thầm, nhớ tới buổi họp dân tối hôm qua, khi mời đồng bào đi xem triển
lãm về kinh tế mới một người đã nói với tôi:
- Khỏi xem
cũng biết hết rồi cô ơi! Dân bây giờ họ sáng mắt, sáng dạ lắm. Nghe nói là biết
liền hà!
- Vâng. Tôi
cũng mong mọi người hiểu rõ như vậy.
Một chế độ mỵ
dân và bóc lột trong cái gọi là “Nhà Nước Cộng Sản” mà ai bây giờ cũng biết
Ngày… tháng…
Quận vừa ra
chỉ tiêu thi đua tới cuối tháng phải vận động cho được 80 hộ dân đi kinh tế
mới, con số tưởng dễ dàng như đếm hay sao ấy! Mặt ông Phó Ban của tôi chảy dài
rầu rĩ.
- Làm sao bây
giờ hả cháu?
Tôi cười trừ:
- Có lẽ phải
tính cả gia đình bà Chủ Tịch, ông Bí Thư Chi Bộ, ông Ủy Viên Thư Ký, bà Kinh
Tài, gia đình mấy cô cậu bên Công Đoàn Phụ Nữ… thì may ra mới đủ chỉ tiêu đã
định.
- Đừng giỡn
cháu! Họ đâu phải là đối tượng để mình đưa đi kinh tế mới.
-Thảo nào mà
đồng bào chẳng phân bì sao được, họ nói không thấy ai trong nhà nước tình
nguyện đưa cả gia đình đi kinh tế mới, sao cứ bắt họ đi, chú nghĩ sao?
Ông Phó Ban
bèn chống cằm lặng thinh, sự thật đã không thể chối cãi được, chính ông Chi Bộ
hôm qua trong buổi họp kiểm điểm cũng phải thú nhận:
- Chúng ta
ngồi đây, chưa chắc ai cũng hăng hái đi kinh tế mới, bởi vì chúng ta đã quen
hưởng thụ (!). Nên việc vận động đồng bào đi kinh tế mới, chắc chắn phải gặp
nhiều trở ngại khó khăn, nhưng, dứt khoát họ vẫn phải đi kinh tế mới. Vì đời
sống họ ở trong thành phố bấp bênh, tạm bợ.
Tôi ngồi
nghe, vừa buồn mà vừa buồn cười. Bác dạy “Khó khăn nào cũng phải vượt qua”, nên
các ông các bà cố mà vượt qua bằng mọi cách kể cả biện pháp hành chánh và quân
sự, để đẩy cho được từ một triệu rưỡi đến 2 triệu dân dời khỏi thành phố trong
cuối năm nay, một cuộc vận động cách mạng lớn mà, các đồng chí nhiệt liệt tán
thành chủ trương của đảng chứ?”.Gã thanh niên đề nghị phát động liên tiếp nhiều
đợt thanh niên xung phong, chị phụ nữ hứa sẽ vận động các chị em phụ nữ đăng ký
vào tổ hợp trên kinh tế mới, ông công đoàn tuyên bố sẽ không giải quyết những
đơn xin mở tổ hợp, cơ xưởng của số người có ý muốn nấn ná, viện cớ ở lại thành
phố, phía công an sẽ dứt khoát không chịu chứng nhận lý lịch để bổ túc hồ sơ
xin việc làm và gia hạn thêm thời gian cho những người tạm trú quá lâu, bà thư
ký thì chiếu theo văn thư mới nhất của Sở Nhà Đất thành phố, sẽ không ký giấy
chấp thuận cho mua bán nhà, nếu đằng bán không chịu hồi hương hoặc đi kinh tế
mới.
Một lô biện
pháp hành chánh được nêu ra, để chấp hành cho được cái chỉ thị hàng đầu của
Đảng “Tất cả cho sản xuất” mà dân là công cụ chính yếu nhất để họ thực hiện âm
mưu này
Ngày… tháng…
Tôi khó chịu
khi nhận một hàng danh sách do tên Bí Thư Chi Đoàn đưa qua với lời dặn dò:
- Chị hãy cố
gắng bằng mọi cách để bắt buộc họ phải chấp nhận một trong hai điều: hoặc là
chính họ phải đi thanh niên xung phong, hoặc là cả gia đình họ phải hồi hương,
hay đi kinh tế mới, nếu phần chị xong, thì số người còn lại không chịu cam kết,
chị lập lại một danh sách gởi qua tôi. Tôi sẽ cho giấy triệu tập đến tận nhà
họ.
Tôi nhìn cặp
kiếng cận xệ đến mũi của tên nhãi mà phát ứa gan, đằng nào thì cũng thế, thà cứ
bảo cha nó là cưỡng bức lao động đi còn hơn dùng hoài cái điệp ngữ kệch cỡm
“thi hành nghĩa vụ lao động”.
- Chúng tôi
xin trân trọng báo tin cho anh… đã đến tuổi thi hành nghĩa vụ lao động. Vậy mời
anh đúng ngày… giờ… đến đăng ký đợt Thanh Niên Xung Phong… xuất quân vào ngày…
Đề nghị anh chấp hành tốt đợt xuất quân trên…
Tôi hậm hực
muốn xé bỏ những tờ thông báo đáng ghét đó, cả một tương lai tuổi trẻ đều nằm
gọn trong hàng chữ cay nghiệt của chế độ.
- Đâu cần
thanh niên có, đâu khó có thanh niên!
Bằng tay ta
làm nên tất cả! Với sức người sỏi đá cũng thành cơm!
- Người thanh
niên phải có lý tưởng cộng sản! phải dâng tuổi trẻ, dâng nhiệt tình cách mạng
cho lý tưởng, cho lá cờ vẻ vang của Đảng, của Đoàn!
- Phải làm
cây tùng cây bách xanh tươi cho thế hệ, xứng đáng là thanh niên trong thế hệ Hồ
Chí Minh quang vinh!
- Mình vì mọi
người thì mọi người sẽ vì mình...
- Hăng hái
thi hành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động, chứng tỏ mình là thanh niên sớm ý
thức được vai trò rường cột của nước nhà, biết yêu chủ nghĩa xã hội, yêu quê
hương, yêu tổ quốc... Các em thiếu nhi có 5 điều Bác Hồ dạy; các anh chị thanh
niên có 3 xung phong, có 4 sẵn sàng...
Nói riết rồi
như con két lập đi lập lại những lời vô nghĩa bấy nhiêu bài học đã thuộc nằm
lòng, tôi sẽ chỉ việc tuôn ra như một cái máy hát. Công việc tưởng như dễ dàng
nhưng thật khó biết bao, những nạn nhân đang ngồi sắp hàng chờ đợi. Những gương
mặt trẻ thẫn thờ đang bị nhồi nhét mớ lý tưởng buồn nôn - Sống chiến đấu, lao
động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại, lợi dụng tuổi trẻ để làm những nấc
thang xây dựng cái chủ nghĩa Cộng sản đầy tham vọng, súc sinh và phi lý...
Im lặng để
chấp nhận việc người ta đẩy dần tuổi trẻ của tôi, của bạn bè tôi vào cái lò sát
sinh quái gở của Cộng Sản đã là một cái tội lớn. Tôi nghẹn cứng trong cái vai
trò của mình.
Ngày… tháng…
“… Trên bước
đường đi tìm sự thật, anh vừa sống qua những ngày trên vùng đất kinh tế mới của
em. Mùa mưa vừa về anh đã thấy gì trên một vùng đất phì nhiêu của đất nước, mà
tất cả mọi người đều hi vọng sẽ một ngày nào đó trở thành một nguồn sống, một
sinh lực mới, thật mạnh mẽ để đưa mọi người, mọi gia đình và cả một quốc gia
vươn lên sau bao nhiêu năm chiến tranh.
Anh đã thấy
sức sống vươn lên từng đọt cây ngọn cỏ. Những luống khoai mì, khoai lang. Những
cánh đồng đậu xanh, đậu phọng. Tất cả đều xanh mướt, báo hiệu cho một mùa gặt
đầy kết quả. Và kế đó, trên khía cạnh con người đã đổ mồ hôi và tài sản của
mình trên những mảnh đất này thì lại là hình ảnh cũa những nét ưu tư, thất vọng
và chán chường. Em thử tưởng tượng, có những nét chấm phá nào linh động, mỉa
mai hơn hình ảnh của từng dãy nhà xiêu vẹo, tróc nóc, bỏ hoang trên cánh đồng
hoa màu thật tươi tốt.
Mầm sống của
thiên nhiên đã vươn lên từ đó, nhưng con người đã lần lượt dứt áo ra đi, bỏ lại
tất cả mồ hôi và nước mắt của họ, để trở về sống chui rúc trong những khu ổ
chuột hay những vỉa hè của thành phố. Từ những người thợ, những người nông dân, họ trở thành
những hành khất. Không có ai đuổi họ đi hết, nhưng họ vẫn đi mà không tiếc nuối
sức lao động của mình! Tại sao họ lại bỏ miền đất hứa? Có phải họ đi tìm thiên
đường chăng?
Trong khi đó
thì cũng có một số gia đình ở lại. Họ đã tử thủ trên miền đất hứa đó và hình
ảnh tiêu biểu để anh có thể nhận dạng ra họ là một người đàn bà mặc cái quần
đen mốc, chiếc áo cánh vá víu tả tơi, đang bổ củi để bán cho khách qua đường.
Con người,
khi đến tột cùng của khổ đau hay hạnh phúc, đều có óc khôi hài rất tế nhị, anh
ghé lại mua củi (rất rẻ, chở về đến cầu Sông Bé, anh bị Công an tịch thu với lý
do thật buồn cười, phải có biện pháp như thế, để họ (những người dân kinh tế
mới) phải chịu lao động sản xuất, họ tin như vậy à.
Hỏi thăm về
đời sống về kết quả thu hoạch của vùng kinh tế mới, nhất là khi anh khen mùa
màng có vẻ tươi tốt, thì chị mỉm cười, đượm vẻ mỉa mai:
Lần này là
lần thứ ba rồi đấy cậu. Ở đây khỏe lắm khỏi ăn độn như dân thành phố, chỉ ăn rặt
một thứ khoai mì thôi à! Lâu lâu bữa nào vui thì ăn độn một bữa, như đám giỗ
chẳng hạn. Cậu hỏi kết quả thu hoạch của tôi hả? (Chị chỉ đứa bé gái khoảng 6
tháng, ốm èo uột đang nằm trên tấm đệm rách). Đó! Kết quả đó!!
Tại sao trong
khi có những người bỏ đi thì vẫn có những người ở lại? Họ ra đi để tìm cái gì?
Họ ở lại để làm gì? Hy vọng của họ ở đâu? Hình ảnh sau cùng đã làm cho anh bất
nhẫn phẫn uất nhất, là hình ảnh của những người Thanh Niên Xung Phong. Trong
một buổi sáng thật sớm, thật lạnh khi thức dậy từ trên xe bước xuống, anh thấy
họ ngồi dọc theo hàng hiên của dãy nhà tranh, trong đám đông mình không thể nào
nhận diện được một sắc thái cá biệt nào, nhưng hình ảnh chung của họ không phải
là một đoàn thể thanh niên khỏe mạnh rường cột của nước nhà, mà lại là hình ảnh
của sự tiều tụy chán chường và bệnh hoạn, đồng phục của họ là bộ đồ xanh rách
nhuộm đất đỏ, nón tai bèo lụp xụp bên tai. Cái nhìn của họ không còn là cái
nhìn trong sáng đầy tin tưởng ngạo mạn của tuổi trẻ, mà lại là những ánh mắt lạc
lõng, ngây dại. Sắc da của họ không phải là màu hung xạm nắng phong sương mà là
một màu bệt vàng với vành môi tái mét của sốt rét rừng. Họ lên đường thật mệt
mỏi, kẻ rìu người cuốc tiến quân vào rừng để đốn lồ-ô, chặt tre, khẩn đất xây
dựng lại quê hương?!
Cuộc tiến
quân của họ thật lặng lẽ, hy sinh của họ thật vô bờ. Anh theo họ vào khu vực
khai thác. Anh thấy họ không còn là những con người nữa, giữa hình ảnh của các
cán bộ điều hành, phì phà điếu thuốc trên môi, tay cầm gậy tre chỉ trỏ chửi
thề, họ chỉ là hình ảnh của những tên nô lệ, mình trần đầy ghẻ thẹo, đang làm
việc theo lệnh của các cai ngục.
Cũng trong
dịp đó, anh có làm quen với một cô bé tên Yến, mới vào thanh niên xung phong
được một tháng, làm toán cứu thương. Cô bé có óc lãng mạn, thích thú với cuộc
sống giữa thiên nhiên, nhưng đồng thời lại có những nhận xét rất chua cay về lý
tưởng, cô bé đã ý thức được mang máng về sự lợi dụng các danh từ, anh với cô bé
đã nói chuyện cả một buổi sáng trên công trường, trước cặp mắt soi mói của mấy
tên cán bộ. Rồi dần dần có một hai cậu mon men lại gần, hết gọi anh bằng “ông
thầy”, lại gọi là “đại ca”, để cuối cùng xin một điếu thuốc!
Thật anh xót
xa cho họ quá! Mới hôm qua đây, họ là những chàng trai trẻ ngổ ngáo, ngang
tàng, hôm nay đã trở nên xác xơ thảm hại…
Tối đến, từ
trong những dãy nhà tranh của đoàn thanh niên xung phong, dưới ánh đèn dầu leo
lét, vang lên những bản nhạc của Trịnh Công Sơn. Tiếng đàn, giọng hát hòa lẫn
tiếng mưa lâm râm của núi rừng. Thật không có gì tả đúng tình cảm của anh lúc
đó, anh muốn sống chung với họ, chia xẻ những khổ nhục với họ và đồng thời, anh
giận họ, bực tức sự khổ nhục mà họ đang chịu đựng. Suốt đêm anh không ngủ, đốt
biết bao nhiêu điếu thuốc trằn trọc, rồi những người thanh niên xung phong còn
phải chịu đựng bao lâu nữa?
Người dân đốn
một cây lồ-ô được 10 xu. Người thanh niên xung phong được tiếng “Anh hùng lao
động”. Nhiệt tình và lý tưởng cách mạng thật vô giá! Thiên đàng thật gần mà
cũng thật xa, chỉ cần nằm xuống là đến. Và còn bao nhiêu cô Yến nữa để đủ số
xây dựng thiên đường cộng sản?!
Trong lúc đó,
anh cũng vừa đọc được một bài trên báo Tin Sáng nói về kinh tế mới, báo ngày
thứ bảy hay chúa nhựt gì đó. Thật là hai hình ảnh đối chọi, mâu thuẫn nhau.
Một, anh là
thằng nói dóc, nếu không, thì thằng nói dóc chính là tên “ký giả” trên báo Tin
Sáng.
Ngày… tháng…
Tí Cồ ạ,
Sao tớ mệt
mỏi và lười biếng lạ lùng. Sự chờ đợi làm tớ chán nản. Những ngày còn lại ở đây
để chờ đợi một đổi thay, chôn chân trong thành phố tẻ nhạt này, mỗi sáng đi làm
băng ngang khu chợ ồn ào, hít ngập hai lá phổi những bụi bẩn từ bồn rác trong
chợ bốc lên giữa tiếng động cơ ầm ĩ của xe vệ sinh, vào phường gặp mặt ông
trưởng ban đỏ gay, nồng rượu khai vị trong ngày. Mặt ông phó ban chảy dài chống
cằm rầu rĩ, vì tới kỳ báo cáo mà không một ma nào đăng ký đi hồi hương hoặc
kinh tế mới.
Trời ơi! Tí
Cồ thử tưởng tượng ra khung cảnh đều đặn mà ngày nào tớ cũng phải chịu đựng,
chán phèo! Tớ thèm thay đổi không khí, thay đổi nghề nghiệp, đời sống, vì nếu
tình trạng này kéo dài lâu quá tớ e mình sẽ phát điên mất.
Nhớ Sóc Trăng
mà không về được, Sài Gòn có ai đâu. Nhỏ Minh chán học, cúp cua hoài và đòi đi
Thanh Niên Xung Phong để cho sáng mắt ông già cách mạng của nhỏ, tên Hương thì
lu bù chuyện áo cơm, nhà cửa, Kiệt cũng bận học thi, tớ chẳng có chỗ nào đi rong
cuối tuần. Vả lại, tớ cũng đang bị ông bố giới nghiêm trầm trọng, lý do là đã
nghỉ làm ba ngày liên tiếp không báo cáo với thủ trưởng, để theo anh Bảy và bạn
bè lên Long Khánh đi săn (?), xe lửa đỗ lại sân ga lúc nửa khuya giữa rừng núi
âm u, cả bọn đạp xe cọc cạch ra tới đường nhựa để về rẫy. Sáng hôm sau, anh bạn
thổ địa trong làng dẫn lên núi thăm mấy chiến khu cũ của cách mạng, mệt ơi là
mệt, nhưng cũng khuây khỏa được phần nào nỗi buồn chất chứa bấy lâu.
Suối reo róc
rách và lòng tớ hết muốn quay trở về thành phố. Thèm cả bọn mình đều có mặt ở
đây, quay con nai vàng ngậy mỡ trong ánh lửa bập bùng, tưởng mình vừa trở lại
thời đại nào hoang sơ, như chàng Robinson với râu tóc bờm xờm của anh hippie
cũ.
Đi xa, thấy
mình sống thật với mình hơn, Ngọc Ánh của thuở nào mơ mộng chuyện hoang đường
“Aladin với cây đèn thần” cổ tích, giữa núi giữa rừng mông mênh, thấy mình nhỏ
nhoi nhưng thật ngang tàng.
Thời đại nào,
tớ cũng ghét làm kẻ bon chen. Tại sao ta phải lao đầu vào cuộc sống hì hục, khổ
sở ở thành phố ồn ào, mà không nghĩ là nên lên núi vào rừng, yên tịnh bát ngát
như thế này cho thoải mái, đất đó suối đó sao không được tự do phá rừng làm rẫy
và muốn sống ra sao thì ra theo ý mình muốn? Sao lại cứ phải để cho nhà nước
lãnh đạo quản lý?
Kinh tế Mới
của tớ cũng vào rừng, cũng làm rẫy nhưng có điều nó tù túng khó chịu quá khi bị
áp đặt cưởng bức những điều người ta không muốn, dân chúng thì phát điên với
hàng mớ danh từ nổ như pháo - Thi đua lập thành tích dâng Đảng! dâng Bác! - Đạt
chỉ tiêu! Tăng năng suất! Hội thảo. Kiểm điểm. Chấm công…
Cơm gạo mỗi ngày một
giảm bớt., cuộc sống ở đâu cũng chật vật khó khăn làm mệt không được nghỉ, mặc
dù có câu cửa miệng “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Nhu cầu gì cân gạo
ký đường cũng tính theo tem phiếu. Xạo ke, dóc tổ!! Lao động chưa thấy vinh
quang mà đã thấy người càng gầy nhom bệnh tật do lao lực quá sức.
Mỗi lần đi
họp cháu ngoan bác Hồ, nghe mấy tên đoàn viên ba hoa với đàn em nhỏ rằng Đất
nước ta giàu đẹp, nhân dân ta anh hùng, đã có quá trình cách mạng lâu đời,
chống đế quốc xâm lược, chống thực dân phong kiến. Thế giới có Marx-Lenin và
Việt Nam ta có Hồ Chí Minh vĩ đại, có Đảng Cộng Sản quang vinh, có lá cờ đỏ
bách chiến bách thắng… và có trăm thứ v.v…
Mấy đứa nhỏ
ngồi nghe cười khúc khích, không phải tụi nó hiểu những danh từ đao to búa lớn
kia mà thấy anh Đoàn múa tay chân như con khỉ.
Cứ nói hoài
giọng điệu cũ rích “đất nước còn nghèo, đang ở thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai
đoạn khôi phục kinh tế do hậu quả chiến tranh xâm lược của đế quốc để lại. Cố
gắng khắc phục mọi gian khổ, khó khăn, để chừng bày tám cái kế hoạch ngũ niên
nữa thì lo gì mà chẳng bằng các nước xã hội chủ nghĩa anh em tiên tiến trên thế
giới?”
Ừ, hãy đợi
đấy, không có gì chán bằng phải ngồi im nghe người ta nói dóc, mỵ dân bằng
những lời hoa mỹ, khôi hài nhất là họ cứ tưởng người dân luôn tin vào những
điều giả trá bịp bợm đó.
Coi chừng! sự
chịu đựng đến lúc nào đó sẽ vỡ òa phẫn nộ.
Nhưng dù có
thế nào thì tớ cũng muốn nói với đằng ấy một điều, chúng ta là những người tuổi
trẻ mà tuổi trẻ thì có lý tưởng có nhiệt tình, hãy đặt lý tưởng nhiệt tình đó
vào một mục đích CÓ THẬT, cái gì CÓ THẬT thì chúng ta đeo đuổi hăng say để xây
đắp, vun bồi.
Thiên đường
không phải là điều có thật và thiên đường Xã hội chủ nghĩa mà Cộng Sản thường
rêu rao bằng mớ lý thuyết mơ hồ giả trá như những điều chúng ta đọc được ở
trong sách vở, từ chương của giảng đường cách mạng thì lại càng không có thật,
bộ mặt xã hội hiện nay là một minh chứng hùng hồn nhất mà ai cũng thấy, hể nói
tới Đảng là người ta nghĩ ngay đến sự tham lam độc tài của chính quyền và sự
bần cùng hoá của nhân dân Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản.
Trò chơi đã
bắt đầu và tớ đang nhập cuộc.
Còn đằng ấy
thì sao?
Mục lục
· Ngược Dòng
· Ngày tháng
buồn hiu
· Chặng đường
đã qua
· Cát bụi
· Ông già
Noel là M
· Nỗi xót xa
riêng
· Cảm ơn
· Phụ bản
cuốn”Nhật Ký Mực Tím”.
Vẽ bìa:
Trường Ân
Tranh và hình
phụ bản: Lê Phổ - Nguyễn Tư - Soan Phi
Sửa bản in:
Thanh Huyền
Đọc lại bản
thảo: S. Nguyễn
Lời cuối.
Xin chân
thành cám ơn các Thầy và các anh chị đã giúp hoàn thành cuốn sách này, sự sai
sót chắc không tránh khỏi khi nó được in ra, mong mọi người thông cảm và góp ý.
Mọi liên lạc
xin gởi cho Ngọc Ánh
email:
nhatoingocanh@yahoo.com
Ấn phí $15.
Đăng nhận xét