KIM THANH: TRÊN XỨ BUỒN MUÔN THUỞ

 TRÊN XỨ BUỒN MUÔN THUỞ

Souvenir, souvenir, que me veux-tu? [...]                                                                        

Kỷ niệm, kỷ niệm, ngươi muốn gì ta?   (Verlaine)                   Collège Français 1963-65                                                             

             Đang dạy tại Collège Français Nha Trang, tôi nhận được lệnh nhập ngũ. Đó là vào tháng 4, 1965, cách đây hơn nửa thế kỷ. Dĩ nhiên, lúc ấy còn trẻ, và đang có công ăn việc làm thích hợp, lương nhiều, tôi đâu “hồ hởi phấn khởi” gì. Lại nữa, chiến tranh leo thang từng ngày, khốc liệt hơn, cũng thấy ớn. Trường Pháp tôi dạy là trường tư đối với chính phủ Việt Nam, và tôi không xuất thân Đại Học Sư Phạm, nên chuyện hoãn dịch, hoặc biệt phái, khó có chút hy vọng nào. Bạn bè thuộc “Nhóm Nhân Sĩ Trí Thức Công Giáo” Nha Trang, trong số có Kỹ sư Khí Tượng Trần Văn Trí, các giáo sư Võ Tánh Ngô Đức Diễm, Nguyễn Văn Thơ, Đỗ Phương Anh, Nguyễn Huy Hoàng... nghe tin, liền tìm cách để tôi được hoãn dịch vài năm.

      Bác sĩ tại quân y viện Nguyễn Huệ khám tôi là Nguyễn Đình Lý, sau này thành dân biểu, lúc bấy giờ cũng thuộc Nhóm, gặp nhau hàng tuần, đã được các bạn gửi gắm, “làm thế nào cho nó hoãn dịch được không?”. Khi khám sức khoẻ, Bác sĩ Lý, có lẽ vì lương tâm nghề nghiệp cao độ, đã cho tôi điểm tối ưu, tim gan phèo phổi, lá lách lá mía, tai mắt mũi họng gì cũng đều “chất lượng”, quá “đạt yêu cầu”. Nghĩa là chạy trời không khỏi nắng. Tôi hơi thất vọng, nhưng không buồn, vì cho rằng anh ta làm đúng nhiệm vụ, nên cũng không than phiền, xin xỏ gì cả, bình thản xách ba-lô ra đi, nhưng các bạn khác, đặc biệt vợ chồng Kỹ sư Trí (đã chọn tôi làm cha đỡ đầu, parrain, cho đứa con), thì trách móc Bác sĩ Lý mãi. Bây giờ nghĩ lại, tôi phải cám ơn anh ta. Bởi vì anh đã tạo dịp cho tôi rèn luyện thể xác và nhất là tinh thần, có nghị lực, và bình tĩnh trước những gian nguy, hiểu thế nào là đời lính, và sau đó, đời tù cải tạo, đời thuyền nhân, đời tỵ nạn. Cũng lạ, sau lần khám này, tôi không bao giờ được gặp lại anh bác sĩ này, dù là tình cờ...

       Vào Thủ Đức, khóa 20, đại đội 5. Ở cùng đại đội, trung đội với Nguyễn Văn Sở, người cao ráo, đứng đắn, sau này là Đại úy dạy Anh văn tại trường Võ Bị (và một lần, trước khi mất, có ghé Portland thăm tôi và những bạn khác). Và Nguyễn Trọng Nho, thường bị cán bộ đì (như bắt hít đất về những lỗi không đáng), vì quá nổi tiếng một thời là vua xuống đường chống đối chính phủ, nay đang là (cựu?) thẩm phán ở Quận Cam. Và nhiều bạn mới quen khác. Như Đặng Trần Hải, hiện ở San José, xuất thân Lycée Yersin, đeo kính trắng gọng bự, thuộc diện beau gosse, dáng dấp và lời ăn tiếng nói đúng là một công tử Hà Nội thứ thiệt, cuối tuần nào cũng được một mỹ nhân người yêu, trông rất quý phái, sang cả, đến thăm tại khu tiếp tân. 

      Chỉ huy trường là Chuẩn tướng Trần Văn Trung, sau này là xếp quá lớn của tôi trong ngành CTCT. Đại đội trưởng là Trung úy Vũ Văn Chung, đối xử tử tế với SVSQ dưới quyền mà ông khen nịnh là “thành phần trí thức được gọi động viên”. Một trong bốn sĩ quan cán bộ trung đội trưởng là Thiếu úy Nguyễn Ngọc Toàn, nghe nói hiện ở Arizona (?), còn gọi là Toàn Tây Lai, bạn học cũ từ nhỏ ở Nha Trang. Toàn gặp lại tôi, có vẻ mừng rỡ, nhưng để tránh tiếng phe đảng đã gửi tôi vào trung đội của Thiếu úy Lương (Già) rất hiền lành, sau khi dặn dò đủ thứ. Trong số huấn luyện viên chiến thuật tôi nhớ có Đại úy đẹp trai Nguyễn Minh Mẫn, người Nam, ở chiến trường về, vẻ rất phong trần, chân đi hơi khập khiễng (vì bị thương?), nhưng khi thực tập lội sông, tỏ ra rất chì. Sỡ dĩ tôi nhắc đến ông là bởi sau này đọc báo thấy ông trở thành người chồng thứ mấy của cô đào thần tượng Thanh Nga. Là một SVSQ cũ của ông, tôi cũng thấy “thơm” lây, và vui sướng “ké” theo ông.

      Mãn giai đoạn I, SVSQ, những ngày cuối tuần, được phép lên Sài Gòn chơi, mặc quân phục “dạo phố” kaki vàng với cà-vạt đen, và mũ casquette  thêu hàng chữ đỏ chói “Cư An Tư Nguy” (mà lúc đó tôi không hiểu nghĩa là gì, định hỏi Nguyễn Ngọc Toàn, mà đi bãi về mệt quá, cứ quên hoài), trông rất “hoành tráng”. Một lần, trên đường Bonard, bị một anh phóng viên Mỹ chận, xin được chụp một tấm hình để đăng báo, Time hay Newsweek gì đó. Tôi còn đang ngần ngại, vì có lệnh của quân trường cấm tiếp xúc với báo chí, thì anh phóng viên nọ vội bấm đại mấy tấm. Tôi bước đi tiếp, lòng hơi lo. Rồi lâu ngày quá, tôi không nhớ tìm xem hình có được chưng lên báo hay không.

     Lần khác, tôi ghé nhà thương Grall thăm một em học trò cũ, Vũ Ngọc Yến, là ái nữ của ông bà chủ Grande-Pharmacie, đường Độc Lập, Nha Trang. Yến là học trò của tôi tại Collège Français, “thư ký” lớp từ năm 4ème, rất ngoan hiền, và lễ phép, cứ sau mỗi lớp học, đợi trình sổ cho tôi ký. Mấy tháng sau, mãn khóa Thủ Đức, tôi ghé thăm Yến một lần nữa, xem bệnh tình có đỡ hơn không, thì nhà thương cho biết em đã mất một tuần trước đó rồi.         

      Trong thời gian này, Sài Gòn có tổ chức Đại Hội Toàn Quân, tôi nhớ, hình như tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân, hay Hội trường Trung Ương Tình Báo, bởi có gió sông thổi vào mát rượi. SVSQ khóa 20, đeo alpha giai đoạn 2, được tuyển chọn vô đội tiếp tân. Tại đây, rất nhiều sĩ quan cao cấp, từ Đại tá đến Trung tướng, ở các đơn vị toàn quốc về tham dự. Một số đông đại tá tác chiến còn rất trẻ, và tôi đoán, lên lon tại mặt trận, khiến chúng tôi nghèo mà thấy ham lắm. Tất cả những ông tướng, ông tá này, được chúng tôi chào muốn rụng cả tay, mà không ông nào gật đầu, nói chi giơ tay, chào lại. Trừ một người: Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. Chẳng những ông chào lại chung cả toán, mà riêng tôi, bởi đứng đầu hàng, ông còn dừng lại, tươi cười bắt tay nữa, một cách lịch sự, đường hoàng. Tôi vốn nhậy cảm, còn nhớ mãi cái chào lại và bắt tay này, cho nên về sau, khi ông về nước bán linh hồn cho quỷ VC, tôi cũng đã viết bài “đánh” ông, nhưng không dữ dội, cạn tàu ráo máng, như đối với những tên phản thùng nặng ký khác. Chưa kể, hai cậu em vợ, họ Đặng, của ông là học trò của tôi tại trường Tây điều mà ông không bao giờ biết, dĩ nhiên.

       Tháng 12 năm 1965, tôi “tốt nghiệp” Đại Học Thủ Đức và được về ngành Tâm Lý Chiến (lúc ấy chưa có danh xưng Chiến Tranh Chính Trị). Phải ở lại Sài Gòn ba tháng học bổ túc Tâm Lý Chiến-Dân Sự Vụ (TLC-DSV), cùng với khoảng hai mươi lăm đồng nghiệp tân chuẩn úy. TLC là ngành mới mở, và những huấn luyện viên chưa ông nào ở đơn vị, tiếng VC gọi là chưa “đi thực tế”, chỉ giở tài liệu ra, nhắm mắt đọc rào rào. Trong số, tôi chỉ còn nhớ ông Thiếu úy tên Dzư Văn Tâm, mặt rải rác vài nốt mụn đỏ, ít nói, lạnh lùng, vẻ khinh khỉnh, không bao giờ cười, trông khó đăm đăm như người bị táo bón lâu ngày. Về sau, mới biết ông là nhà thơ hũ nút nổi tiếng (tác giả một bài thơ gì đó mà tôi chỉ còn nhớ một câu cực kỳ bí hiểm, “một cửa sổ, hai cửa sổ, ba cửa sổ...”), bút hiệu Thanh Tâm Tuyền, thuộc nhóm Sáng Tạo –người mà, cuối năm 1975, tôi được gặp lại trong chuyến tàu Sông Hương ra Bắc cải tạo và, hai năm sau đó, tại K5 trại Vĩnh Phú, nhưng vẫn không bao giờ kết thân được.

      Mãn khóa, bốc thăm chọn đơn vị. Tôi chỉ mong được về Nha Trang, để gần nhà, nhưng vô phương cách. Bốc trúng Quân đoàn I, ở tận miền Trung. Một anh bạn, quê Đà Nẵng, phải đi Pleiku. Anh năn nỉ tôi đổi chỗ. Lúc ấy, đối với tôi, Pleiku và Đà Nẵng đều xa lạ ngang nhau, về đâu cũng được, nên dễ dãi đồng ý. Anh mừng quá, đãi tôi một chầu phở. Sau này, nghe nói, anh bị phục kích chết trong một chuyến công tác ở Quảng Ngãi.

      Trước khi vô Thủ Đức, tôi đã được Đại tá Huỳnh Công Tịnh, Nha Trang, có hai con trai là học trò của tôi tại Collège Français, viết một bức thư không dán, dặn trao cho bạn ông, Trung tá Nguyễn Thủy Chung, thuộc Cục Chính Huấn (?), khi thấy cần. Lúc đó, tôi mới sực nhớ ra, lục thấy nó còn nằm yên trong ba-lô. Suy nghĩ mãi, nửa muốn đưa cho ông Trung tá, với hy vọng biết đâu, chuột sa hũ nếp, được ở lại Sài Gòn, ấm thân, nửa tự ái, không muốn nhờ vả, rủi bị ông lờ đi thì quá quê độ. Cuối cùng, tôi quyết định giữ lá thư làm kỷ niệm, cho đến 30/4/1975 thì mất hết, cùng với những thư từ và hình ảnh khác. Chân thành xin Đại tá Tịnh và Trung tá Chung thông cảm mà thứ lỗi cho.

       2. Tôi về Nha Trang nghỉ phép hai tuần, trước khi lên đường trình diện Quân đoàn II, đúng ra Tiểu đoàn 20 Tâm Lý Chiến. Mẹ tôi âm thầm khóc gần cạn nước mắt, bởi mẹ cũng như tôi tưởng rằng Pleiku là chốn khỉ ho cò gáy, rất nguy hiểm. Mà quả như thế thật, vì từ máy bay quân sự xuống phi trường Cù Hanh, tôi thấy phong cảnh quá tiêu điều, lạnh lẽo. Xa xa nghe ầm ì tiếng đại bác, chưa biết của bên nào. Quá giang một xe GMC nhà binh về doanh trại Quân đoàn, gặp mùa mưa, đường vắng vẻ, trơn ướt và bùn đỏ quyện vào botte de saut và quần treillis, trông chán quá. Ngủ qua đêm tại trại gia binh, trong  nhà của anh tài xế GMC tốt bụng, có vợ và hai con nhỏ.

       Sáng hôm sau, trình diện Tiểu đoàn 20 TLC. Chưa kịp thấy mặt mũi ông Đại úy Tiểu đoàn trưởng ra sao, chỉ nghe nói ông là một thi sĩ nổi tiếng, có thi tập xuất bản, lấy bút hiệu Vân Hòa, chuyên làm thơ tán ca sĩ, thì bị anh thiếu úy quân số, Bắc kỳ, răng hơi hô, người gầy đét, vẫy tay đuổi như đuổi tà, bán cái sang Đại đội 4 Dân Sự Vụ, do một Đại úy lớn tuổi tên Rô (quên họ), tục danh “ông Già Rô”, chỉ huy. Ông này gốc Nam kỳ, giọng nói rổn rảng, gọi tất cả cấp dưới là “thằng, mày, tao” tuốt luốt, dù quen lâu hay mới gặp lần đầu, một cách bình dân... học vụ. Trong đại đội tôi nhớ còn có Thiếu úy Richard Hải phụ tá cho ông, tên thì Tây, nhưng nói tiếng Bắc rặt, luôn đeo kính dâm dù mưa hay nắng, vẻ ngoài trông “ngầu” như một tay anh chị, mà thực ra hiền khô. Liếc qua sự vụ lệnh tôi trình, ông Già Rô hỏi liền một khi: 

      - Nguyễn Kim Quý hả, cái tên gì mà nghe như tên con gái dzậy mày? Mày muốn dzề trung đội nào, Ban Mê Thuột, Bình Định, hay Kontum?

      Đâu biết ất giáp gì. Toàn là những địa danh xa lạ. Xa lạ như cuộc đời nhà binh mới cắt chỉ của tôi. Tôi không biết rằng –và ông Già Rô chịu khó giải thích– thời kỳ đó Tiểu đoàn Tâm Lý Chiến (trực thuộc Cục TLC) và Đại đội Dân Sự Vụ Biệt Lập “có cùng một mục tiêu, công tác cho dân, với dân, vì dân, nhưng tách rời về mặt điều hành và chỉ huy”. Tôi trả lời:

      - Thưa Đại úy, tôi có ông cậu ruột, Thiếu úy Lê Văn Cậy, đang ở trung đội 403 DSV, không biết đóng tại đâu. Xin Đại úy cho tôi về với ổng.

      Ông già Rô bắt đầu ngó kỹ tôi:

      - Ủa, thằng Cậy là cậu mày thiệt hả? Nó mê gái và xì phé lắm, đang ở Ban Mê Thuột. Nó cùng trong Trung đội với thằng Phạm Văn Tải. Thằng Tải là Trung đội trưởng 403, dân chơi thứ thiệt, một cây nhảy đầm. Được, tao cho mày về dưới đó ở với tụi nó. Richard, mày làm cho nó cái sự vụ lệnh, tuần sau đi. Bây giờ, Kim Quý, mày ngủ tạm trong đại đội, chờ máy bay, cứ đi long nhong chơi cho biết mùi gái Pleiku.

      Nói xong, ông nháy mắt với tôi, cười cười. Mấy ngày ở Pleiku, cơm hàng cháo chợ, ngủ ghế bố. Phố xá thưa thớt. Tôi hay lang thang một mình giữa chợ đời để ngắm nghía những “em Pleiku má đỏ môi hồng”. Hoặc một đêm, chui vào vũ trường (còn gọi là Câu Lạc Bộ) Phượng Hoàng của ông tướng Tư lệnh Vĩnh Lộc, lúc ấy đang cặp với bà Minh Hiếu, chỉ để nghe các em ca sĩ hát. Bạn đồng ngũ thổ công địa phương đều yên bề gia thất, khá bận rộn, không ai hưỡn để tự nguyện làm hướng dẫn viên du lịch, tháp tùng tôi được.

      Đi loanh quanh chán chê gần một tuần trên những con phố nhà quê lầy lội, cụt ngủn, “dăm ba phút quay về chốn cũ” (thơ Vũ Hữu Định), chưa kịp biết “mùi gái Pleiku” ra sao, thì có chuyến bay nhà binh rước xuống BMT.

 

    3. Xứ BMT. Buồn Muôn Thuở. Là đây sao? Phố vắng, nhưng cũng có người lác đác. Xe nhà binh tấp nập. Tôi thầm nghĩ, không đến nỗi nào, có buồn cũng chút đỉnh thôi, làm gì mà muôn thuở? Đến phi trường quân sự L19, vừa ló đầu ra cửa máy bay, tôi thấy một chiếc jeep đang chờ, đứng kế bên xe 


  
Chuẩn úy, BMT, đầu năm 1966                     

     có ông cậu Thiếu úy, em út của mẹ tôi, dáng cao gầy, với điếu thuốc chưa đốt dính môi, và một thiếu úy khác còn trẻ, tầm thước, áo quần trận tươm tất, ủi thẳng nếp, cổ quấn một khăn quàng xanh dương. Tay bắt mặt mừng. Ông cậu giới thiệu:

       - Thiếu úy Phạm Văn Tải, Trung đội trưởng 403 Dân Sự Vụ, cùng khóa 15 Thủ Đức với cậu.

      Thiếu úy Tải nở nụ cười tươi, để lộ một chiếc răng cửa bọc vàng lóng lánh. Xã giao, bặt thiệp, niềm nở, khiến tôi cảm thấy rất an tâm. Trên đường vào thành phố, Tải bắt chuyện, ân cần hỏi han về sức khoẻ, gia thế, khởi đầu binh nghiệp thấy thế nào... Tôi trả lời chừng mực, vì mắt còn mải ngắm những hàng cây xanh biếc phơi mình trong tia nắng chiều vàng vọt và những căn nhà khang trang, nằm san sát bên nhau trên con đường đất lồi lõm hoặc trải nhựa phẳng phiu. Lại bụi đỏ, lại cái lạnh buốt xương của cao nguyên trong chiều hiu hắt, dù màn đêm chưa kịp buông. Tôi kéo chặt cổ áo jacket nhà binh. Hai ông Thiếu úy có vẻ quen khí hậu, ngồi tỉnh bơ. Vào phố, thấy những bàn thờ Phật bày ngoài đường, hoặc trước tư gia. Tôi thắc mắc:

      - Ủa, tại sao vậy cà? Cụ Diệm bị giết rồi mà, sao vụ này vẫn chưa dứt?

      Tải cắt nghĩa:

      - Mấy ông Phật giáo tranh đấu đưa Phật xuống đường chống đối chính phủ Trần Văn Hương. Cả tháng nay, lính Tiểu khu đi dọn dẹp bàn thờ, mệt nghỉ.

      Về đến căn nhà thuê, số 58 đường Huyền Trân Công Chúa. Bước vào thấy một gian lớn chia thành phòng tiếp khách và buồng ngủ ngăn cách nhau bởi một tấm bình phong bằng nhựa cứng, mờ đục, sơn hình mỹ nữ uốn éo, chim bay cò bay, hoa hòe hoa sói. Năm chiếc giường bố nhà binh, đặt cạnh nhau dành cho bốn sĩ quan ma cũ và cho tôi, một ma mới toanh. Một chiếc giường gỗ lớn, có nệm êm, ông cậu tôi nói, là của vợ chồng Trung đội trưởng Tải. Bà vợ mang bầu, về quê Di Linh tĩnh dưõng, và Tải may mắn trúng số độc đắc, trở thành độc thân tại chỗ. Nghĩa là căn nhà chứa năm sĩ quan độc thân thứ thiệt và một độc thân thứ giả. Một số sĩ quan của Trung đội mướn nhà khác, hoặc ở với thân nhân, như Thiếu úy Lê Đồng, trung đội phó, cùng khóa 15 Thủ Đức với Tải và Cậy, cũng mê đánh phé như ông cậu tôi, ăn dầm nằm dề tại nhà cô vợ chưa bao giờ (chịu) cưới.

      Phía sau căn nhà của chúng tôi là một phòng nhỏ hơn, đầy đủ tiện nghi, có lối đi riêng bên hông, do hai cô giáo độc thân mướn, tên Nga và Thu (không ai biết họ gì), người Bắc. Vẻ hiền thục, đoan trang, hai cô đẹp nhưng không lồ lộ, có duyên ngầm. Buổi tối, biết có một chuẩn úy tân láng giềng đến, hai cô nấu chè đem qua, luôn tiện coi mắt. Chấm đậu, cho nên về sau thỉnh thoảng bị đau, hoặc đi hành quân về, tôi được hai cô cạo gió và nấu cháo gà cho ăn, và lần nào cũng bị rầy không chăm lo sức khoẻ. Ngược lại, tôi rất quý hai cô.

      Tôi nhớ trong căn nhà độc thân ấy, ngoài ba thiếu úy Tải, Cậy, Phúc và tôi, còn có Chuẩn úy Võ Văn Quang. Quang, mập lùn, dáng đi bệ vệ, là sĩ quan rất hiếu học, và tự học, suốt ngày không rời quyển Anh văn “English for to-day”, ở đâu, và lúc nào, cũng nói lảm nhảm một mình những câu trong sách, và chê tiếng Anh của tôi đặc giọng Tây, nghĩa là... không giống ai. Quang được anh em đặt nickname là Quang Học Giả. Thiếu úy Phúc, không nhớ họ, được gọi là Phúc Huế, vì nói tiếng Huế đặc sệt, ưa lý sự, lên lớp, nhưng lập luận đúng và rất tư cách. Lúc ấy, tôi trẻ nhất đám, và lon nhỏ nhất, nên không dám nói nhiều, chỉ nhìn thôi, đóng vai con nai vàng ngơ ngác. 

      Ngày tôi đến, lúc tan việc, tất cả sĩ quan trung đội 403 DSV kéo về “tư dinh Huyền Trân Công Chúa”, chất đầy một xe dodge. Anh nào cũng niềm nở bắt tay, và thấy vẻ hồ hởi quá mức, không bình thường của họ, tôi bỗng chột dạ và đoán rằng chắc họ mừng thầm từ nay có thêm sĩ quan, nên phiên đi hành quân được nới rộng ra, lâu hơn. Căn cứ trên lời giải thích của Tải: trung đội DSV gồm toàn sĩ quan, chia doanh trại với đại đội TLC (chỉ huy bởi Thiếu úy Nguyễn Văn Mỹ và Thượng sĩ Nguyễn Hữu Đạo), mà quân số chỉ có hạ sĩ quan và binh sĩ, Kinh và Thượng Ra-đê (như Trung sĩ Y Ksor, biết nói chút ít tiếng Pháp). Mỗi khi đại đội có lệnh đi công tác theo sư đoàn 23, Thiếu úy Mỹ lập một toán hỗn hợp gọi là TLC-DSV và Thiếu úy Tải cử một sĩ quan, luân phiên, làm trưởng toán. Trung bình mỗi tháng đi công tác hai lần, mỗi lần trên một tuần, đôi khi cùng một lúc cần đến hai, ba toán theo những cánh quân khác nhau. Về vũ khí thì ngoài cây Colt do trung đội phát, để đeo cho oai, tôi  được ông cậu cho cây carbine tự động, báng xếp rất gọn, của riêng ông (thời

ấy chưa có M16).

        Hàng ngày, Thiếu úy Tải chở chúng tôi đi làm trên xe jeep, ngang qua Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23. Vào câu lạc bộ đại đội do vợ một hạ sĩ, tên Tông, trúng thầu làm chủ, để uống cà phê, ăn bún bò, bún riêu, bánh cuốn, dĩ nhiên ghi sổ, bắt đầu từ giữa tháng. Những ngày không đi hành quân, ở trại, các sĩ quan không biết làm gì để giết hết thời gian. Thiếu úy Tải lại dễ dãi, không bày việc để hành anh em, như một số chỉ huy khác, miễn là đến phiên công tác ai cũng phải chu toàn nhiệm vụ. Ăn sáng xong, rủ nhau ra Chợ Nhỏ sát bên doanh trại uống bia, liếc mắt đưa tình cô chủ tiệm Nam kỳ nho nhỏ xinh xinh, da trắng như trứng gà bóc, đánh bi da, và ăn trưa. Riết rồi các bà các cô trong chợ biết mặt chúng tôi hết.

            Lần đầu tiên công tác, tôi phải dẫn một toán TLC-DSV tăng phái cho một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 45 của Trung tá Võ Văn Cảnh hành quân ở Quảng Nhiêu, bị VC tạm chiếm. Quảng Nhiêu, gần Buôn Hô, cách khoảng hơn 30 km về hướng Bắc Ban Mê Thuột, trên đường đi Kontum. Đó là một quận lỵ dân cư thưa thớt, gồm cả Kinh lẫn Thượng, đa số làm rẫy. Đi theo một tiểu đoàn khác là toán của Thiếu úy Phan Văn Tần. Lần ấy, Tiểu đoàn của tôi đụng nặng, nên toán TLC-DSV không thể làm công tác, nghĩa là bắt buộc phải chiến đấu như ai. Cũng súng cầm tay nạp đạn sẵn sàng, bám sát Bộ chỉ huy Tiểu đoàn.

      Ông Đại úy Tiểu đoàn trưởng, tên Trần Văn Chà, người Phan Rang, mà  phát âm tôi nghe đặc giọng Quảng, chính cống. Ông rất gan dạ, ra trận đội mũ rằn ri rộng vành, có thói quen ra lệnh di chuyển bằng tiếng Anh, “léc xì gao, gao” (let’s go, go!), và luôn miệng nhắc tôi, “khi nàu tui roa lẹng mới được béng nghe choa” (khi nào tôi ra lệnh mới được bắn nghe cha). Tiếng súng đủ loại nổ giòn. Đạn rít qua nón sắt. Tổng cộng, trận đó, riêng tôi bắn hết bốn băng carbine vẫn chưa đã, không biết có trúng ai không, nhưng thấy kích thích được tham chiến trực tiếp. Phấn khởi lắm. Đến khi một binh sĩ toán tôi bị thương ở cánh tay, máu chảy xối xả, miệng rên đau, và một mảnh đạn tạt qua vai trái tôi, làm rách một đường da nhỏ, không nặng lắm, tôi hiểu rằng mình đang đối diện cái chết thực sự, cận kề, và chiến tranh không phải là một trò đùa, hay một thủ đoạn chính trị. Tôi cũng hiểu rằng thái độ của những tên sợ chết, trốn quân dịch, như Trịnh Công Sơn, một bạn lớp Philo tại Jean-Jacques Rousseau Sài Gòn, có thể được thông cảm phần nào, nếu chúng đừng che đậy sự hèn nhát dưới chiêu bài phản chiến một chiều, làm lợi cho VC.

     Vài phút sau, Trung úy Nguyễn Tấn Mỹ, khoá 16 Võ Bị, một đại đội trưởng đẹp trai, đứng cách tôi khoảng mười lăm thước, bị bắn bay nón sắt, vỡ óc. Được chở về Ban Mê Thuột ngay, và tôi nghe kể, tình nhân của anh một vũ nữ trẻ đẹp của vũ trường International đang mang bầu, đã ôm xác anh khóc như mưa như gió, và xỉu lên xỉu xuống, trông rất tội.

      Sau lần baptême du feu (rửa tội bằng lửa, i.e. ra trận lần đầu) dữ dằn ấy, tôi cảm thấy mình “ngầu” hơn, “lớn” hơn, và được Thiếu úy Tải đối đãi ân cần, coi như anh em. Tôi về lại BMT được hai tháng thì ông cậu được lệnh xuống Qui Nhơn để nắm Đại đội TLC dưới đó, và Thiếu úy Phúc Huế cũng đổi đi đâu, không rõ. Còn lại mình tôi, Tải và Quang trụ trì căn nhà rộng, bỗng trở thành vắng vẻ. Đêm khuya, bấy giờ tôi mới để ý, nghe trên trần có tiếng như của một người bị xiềng, lê từng bước chầm chậm, xích sắt khua loảng xoảng, ớn xương sống. Quang cho biết, căn nhà này là của một bà có chồng sĩ quan bị rớt trực thăng chết cháy đen. Như vậy, nhà có ma, Quang kết luận, cố tình hù tôi. Tôi càng sợ hơn. Và đêm nào Tải và Quang trực trại, tôi phải mang chăn gối vào Trung đội hoặc sang nhà Thượng sĩ Nguyễn Hữu Đạo gần đó ngủ ké, để trốn ma.

      Nửa tháng sau, có chuẩn úy Thủ Đức mới ra lò, Phạm Trọng Khôi, đến “nhập hộ khẩu” căn nhà ma. Khôi, người Bắc, là kỹ sư canh nông du học từ Pháp về, đã lập gia đình, là con của bác sĩ Phạm Trọng Nhân, có phòng mạch bên hông chợ Hòa Bình, Đà Lạt. Khôi hiền lành, vui tính, tóc lùi khá nhiều về phía sau gáy, để lộ một vầng trán cao, thông minh, được chúng tôi đặt tên là “Khôi Trán Cao”. Anh được cấp một giường bố, nằm cạnh tôi, và thỉnh thoảng hai đứa nói chuyện nho nhỏ bằng tiếng Pháp với nhau. Đêm đầu, anh cũng nghe tiếng xích sắt trên trần nhà, và cũng hoảng như tôi.

        Thiếu úy Phạm Văn Tải là nhạc sĩ dương cầm và phong cầm (accordéon) tài ba. Sau giờ làm việc, anh chơi đàn tại vũ trường International, đường Tôn Thất Thuyết, cho đến nửa đêm. Tôi khoe đã có bằng lái xe dân sự từ 1964. Anh nhờ tôi lái chiếc jeep đưa và đón anh đi làm thêm, và lâu lâu nhét vào túi tôi một, hai trăm đồng “uống cà phê”. Có khi bảo tôi ở lại vũ trường uống bia free, ngắm chùa các vũ nữ thân gầy lắc lư cho đời mua vui. Dáng dấp Tải nhanh nhẹn, vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa, nói chuyện với các cô ngọt như mía lùi. Cho nên, rất đắt đào: ai lỡ dại (như Quang Học Giả) giới thiệu bồ mới với anh là trước sau gì bồ cũng đơn phương mê anh, mặc dù anh đứng đắn, thứ nào để cúng, thứ nào để ăn, rất phân minh, đâu ra đó.

      Thời còn ông cậu tôi, vào những dịp cuối tuần, thỉnh thoảng Tải tổ chức khiêu vũ tại căn nhà ma, mời tất cả sĩ quan Trung đội, và một số sĩ quan Trung đoàn 45,  hai cô láng giềng Thu, Nga, và bạn bè, các ca sĩ đại đội TLC-DSV, tiểu khu, hay đài phát thanh Ban Mê Thuột, trong số có hai cô Thượng khá xinh, vài vũ nữ International và ca sĩ phòng trà, tham dự. Có cả Thiếu úy Đội trưởng Quân Cảnh Nguyễn Vinh Hiển, bạn thân của Tải. Đó là những tối vui thực sự, đối với mọi người. Vì hát sai nhịp và nhảy dở, tôi được Tải chỉ định làm “trưởng ban tiếp tân”, nghĩa là buổi sáng đó, lo quét nhà, chà láng cái sàn xi-măng (sẽ được dùng làm sàn nhảy dã chiến), dọn dẹp giường chiếu nhét vào kho phía sau, và đến tối, mặc veste, đeo cà-vạt đứng ở cửa chào đón quan khách, và trong tiệc mang khay bia, nước ngọt đi mời vòng vòng.

     Ông cậu Cậy, Quang, và các sĩ quan trung đội nhảy cũng cỡ “gà chết” giống tôi, nhưng họ can đảm hơn, điệu nào cũng dắt đào ra... sân. Tải nhảy đẹp và bay bướm nhất đám. Quang, vì mập và lùn nên xoay trở khó khăn, chậm chạp, luôn bước sau tiếng đàn. Ông cậu tôi nhảy xấu nhất, vì cao khều, bình thường không sao, nhưng khi ôm một cô rủi giò ngắn, trông xa thấy cái lưng ông bỗng nhiên trở thành gù, và cái cổ rụt lại như cổ con gà rù.

      Tôi không có đào. Thấy bơ vơ tội nghiệp, Tải gửi tôi cho một cô vũ nữ đẹp nhất, nước da trắng muốt, tên Mộng Lan, từ một vũ trường Sài Gòn lên cao nguyên để lập nghiệp (hoặc bị thất tình, tôi đoán mò), với những lời ân cần dặn dò, “ảnh nai tơ lắm, còn trinh hay không thì anh không bảo đảm, cưng nhẹ nhẹ tay một chút nghe”. Lan cười, nheo mắt ngắm tôi từ đầu đến chân một hồi, như nài xem ngựa đua:

      - Trông mặt mũi, dáng dấp anh cũng sạch nước cản, dễ coi. May phước cho anh đó. Nghe anh Tải nói anh là dân trường Tây mà sao cù..., ý quên, em muốn nói, mà sao không biết nhảy?

        Cô vừa tránh kịp chữ “lần”, tôi nghĩ. Tôi ấp úng, chống chế:

      - Thì tôi cũng biết sơ sơ. Đâu phải dân trường Tây nào cũng giỏi nhảy đầm. Từ nhỏ tới lớn tôi đâu có đi vũ trường bao giờ, vì vừa con nhà quê, vừa con nhà nghèo, vừa phải gạo bài thi. Kìa như anh Khôi Trán Cao kia, du học ở Pháp mới về, mà nhảy nhót chỉ khá hơn tôi một chút xíu thôi.

        - Được rồi, để em chỉ cho anh vài điệu.

        Nói xong, Lan kéo tay tôi lôi vào sàn nhảy liền. Tôi run lên. May quá, lúc

ấy vừa hết bản valse, ban nhạc bắt đầu chơi điệu slow, là điệu mà dù cù lần cù là đến mấy ai cũng phải biết. Ánh sáng bỗng hạ xuống mờ ảo. Lan ôm tôi, dìu bước, chủ động. Mái tóc thoảng hương, dìu dịu. Tôi cũng liều nhắm mắt đưa chân. Một lúc sau, cô ngả đầu vào ngực tôi, thúc giục:

     - Ôm em sát, ôm mạnh chút nữa đi anh. Sì-lô là phải như vậy, sĩ quan gì mà nhát như thỏ đế. Bộ em là ma hay sao mà anh sợ dữ vậy?

       Nghe nhắc đến ma, tự nhiên tôi ngước nhìn trần nhà. Trả bài xong, về lại

ghế ngồi, trong khi Lan cặp với một anh chàng “kỵ mã” khác, thỉnh thoảng đưa tay về phía tôi hôn gió, cười ghẹo. Tôi ngắm Tải và các bạn anh nhảy rất điệu nghệ, bước đi quá đẹp, mà phát thèm. Trong số, có một anh khách tôi quen mặt, nhưng không biết tên và làm nghề gì, thường chỉ nhảy với một cô bồ duy nhất ốm tong ốm teo, mỗi lần sắp kết thúc bài tango, hay valse gì đó, đều làm một động tác rất lạ, chắc có cầu chứng tại tòa (trade-mark), mà tôi cứ tấm tắc khen mãi, là vật ngửa cô xuống, lưng gần chạm sàn, hai chân duỗi song song giữa hai chân anh, còn anh khòm người, cúi sát, theo điệu nhạc, trên thân cô, mặt thộn ra, mắt lim dim, như bị phê xì-ke hoặc say thuốc lào –điều mà tôi nghĩ thầm, nếu phải làm như vậy, sẽ từ chết tới bị thương, nghĩa là té gãy xương sống một cái rụp.

       Và dịp đó cũng là lần thứ hai tôi được ôm nhảy miễn phí tại gia với một vũ nữ thực thụ. Và lần cuối. Vì một lúc sau, giữa đám quan khách có một anh sĩ quan An Ninh tiểu khu hay sư đoàn, tên Đ., vẻ mặt trông phách lối, ngà ngà say và hình như giành đào, thình lình rút súng bắn “pằng pằng” mấy phát lên trần nhà ma của chúng tôi. Quân Cảnh đến lập biên bản. Trách nhiệm, dĩ nhiên, thuộc về chủ nhà và trưởng ban tổ chức Phạm Văn Tải. May có Thiếu úy Nguyễn Vinh Hiển, mọi rắc rối thông qua. Nhưng từ đó, Tải không mở party nữa. Tôi đoán con ma trên trần muốn phá chúng tôi, vì quấy rầy nó quá.

       Tôi còn dẫn toán đi công tác mấy chuyến nữa. Đặc biệt, một lần biệt phái hai tuần cho chi khu Kiến Đức, tỉnh Quảng Đức, cùng với toán của Thiếu úy Nguyễn Cảnh Lộc, một bạn học cũ ở Nha Trang. Liên toán có nhiệm vụ làm công tác Dân sự vụ, lần này hướng dẫn vệ sinh, tại các ấp Thượng B’râu, bình dân còn gọi là “Thượng Cà Răng Căng Tai”. Chi khu cung cấp thông dịch viên, hai cô ca sĩ (nữ chính huấn) người Thượng, và phương tiện, cuốc xẻng chẳng hạn, nếu cần. Lần đầu đến một buôn Thượng, giữa lúc trời mưa, đường trơn và đầy bùn đỏ. Trên đường Quảng Đức, khá xa, xe dodge bị trợt bánh mấy lần, phải xúm nhau đẩy, mệt phờ người. Người B'râu có thói quen rất lạ: người nằm ngủ trên sàn, trâu bò, heo gà vịt ngủ phía dưới, phân và nước tiểu gia súc và người trộn lẫn, nặng mùi. Nước nấu ăn và nước uống gánh từ một con suối duy nhất. Chưa nói đến tục xăm mặt, trai gái, già trẻ gì cũng phải mài hết hai hàm răng, và kéo hai tai thành hai lỗ bự, mỗi tai đặt vừa một đồng xu, trông rất ghê, nhất là khi họ cười. Thông dịch viên cắt nghĩa: “Đàn bà con gái phải như vậy mới được gọi là đẹp”. Liên toán thay nhau đào giếng nước, hố vệ sinh cho dân, trong khi mỗi ngày y tá khám bệnh, phát thuốc. Đào xong, họ lại không đi vào hố, và buổi sáng trở lại, chúng tôi thấy phân người rải rác khắp lối. Cái giếng cũng bị bỏ trống, dân vẫn rủ nhau ra suối.

      Quận Kiến Đức buồn rợn người. Đây đó có vài nóc gia của người Kinh, đều là lính địa phương. Khi màn đêm buông xuống, sương mù bao phủ cả quận như một dải lụa trắng. Đứng trên lô cốt, tôi ngắm trăng sao, buồn nhớ quê nhà. Xa xa, thấy một vùng có ánh đèn lung linh hắt lên nền trời. Được hỏi đó là đâu, một anh lính chi khu bảo tôi: “Phía đó là Căm Bốt, ông thầy!”.

       Một lần khác, tôi phải dẫn một toán đến Lâm Đồng theo tiểu đoàn 22 Biệt

Động Quân hành quân giải tỏa một đồn điền cà-phê giữa rừng, bị VC chiếm giữ. Đến nơi thì chúng đã “chém vè” (rút lui) trước, bỏ lại một kho gạo và hai máy phát điện, và Tiểu đoàn tiến quân dễ dàng, không tốn một viên đạn. Chỉ có vài tên du kích bị bắt sống. Tuy nhiên, tất cả phải ở lại đấy hơn một tuần lễ, và toán tôi không phải làm gì cả, vì không thấy dân đâu, đêm mắc võng ngủ giữa hai thân cây, ngày theo tiểu đoàn đi tìm địch, ăn gạo sấy và đồ hộp Mỹ.

      4. Sau chuyến này, tôi có thể được nghỉ một tháng hơn, tính theo phiên, nếu không có công tác đòi hỏi bất ngờ. Một buổi chiều, trở về nhà, Thiếu úy Tải nói riêng với tôi: 

      - Trung tá Trung đoàn trưởng Võ Văn Cảnh mới gọi tớ, ổng nghe nói trong trung đội mình có một sĩ quan trước là giáo sư Pháp văn, tớ liền nghĩ đến cậu...

        Tôi vội hỏi:

        - Để làm gì?

        - Ông đang tìm một giáo sư đến nhà dạy kèm Pháp văn cho ba người con của ổng.    

        Tôi lưỡng lự:

         - Đây có phải là lệnh?     

       - Không. Ổng nói ổng sẽ trả tiền dạy. Cậu có thể từ chối, ổng sẽ kiếm người khác, không sao cả. Vả lại, ổng không chỉ huy trực tiếp tụi mình, cho nên cậu không ngại nếu từ chối. Nhưng tại sao phải từ chối?     

        Tải để tôi tự do suy nghĩ một ngày. Tôi hỏi ý kiến Khôi Trán Cao, đang

nằm đọc sách. Khôi ngồi nhổm dậy, chậm rãi nói:

        - Nên lắm chứ, toa có đầy đủ điều kiện và kinh nghiệm. Moa muốn, cũng chưa chắc được. Không phải hễ nói tiếng Pháp, như moa, là dạy được. Phải là chuyên môn!

       Tôi bèn đồng ý. Và chiều hôm sau, đúng giờ hẹn, Trung tá Cảnh trong bộ đồ dân sự, đích thân lái xe jeep nệm bọc vải trắng đến căn nhà ma đón tôi về tư thất của ông. Vừa lái, ông vừa hỏi về gia thế, đời lính, công tác v.v... đủ chuyện, một cách rất thân tình, gọi tôi bằng “thầy”, cười tươi, không còn vẻ oai nghiêm, dõng dạc như khi ông thuyết trình hành quân tại Sư đoàn. Đó cũng là lần đầu tiên tôi nói chuyện riêng với ông, được quan sát ông rõ và gần: ông cao lớn, mặt trắng trẻo, cương nghị, và theo tôi là mẫu người đàn ông đứng tuổi đẹp trai, hùng dũng. Tôi cảm thấy yên lòng.

       Tư thất có sân rộng, kiến trúc như một biệt thự nhỏ kiểu Pháp. Bà Trung tá đón tôi tại cửa. Dáng người quý phái, cử chỉ lịch duyệt, nói năng nhỏ nhẹ, bà cho tôi một cảm nghĩ rất tốt. Ba người học trò mới của tôi –hai cô lớn xinh đẹp và một cậu nhỏ mặt mày sáng sủa, thông minh– đang ngồi chờ tại bàn với sách vở sẵn sàng, thấy tôi vụt đứng dậy như máy, lễ phép “chào thầy”. Tôi vốn yêu thích những học trò lễ phép. Nhìn hai cô, tôi bỗng nhớ những nữ sinh trạc tuổi ở trường Collège Français Nha Trang, mà tôi đã bỏ lại sau lưng gần hai năm. Trung tá Cảnh giới thiệu:

        -Đây Như Hường, chị cả, đây Bích Thủy, và Huy.

         Và không quên dặn dò các con:

        - Ráng học cho đường hoàng, đừng làm thầy phiền lòng.                                

        Ông bà lui vào phòng. Tôi nhìn quanh, thấy bên phía tường đối diện, sau

tấm màn hoa mỏng, thấp thoáng những bóng “con nít” mà tôi đoán là đám em

của Như Hường đang nhìn chăm chú, chỉ trỏ về phía ông thầy mới. Có tiếng

cười khúc khích, rồi sau đó im bặt, tất cả biến mất theo lệnh của bà mẹ.

        Tôi cho một bài test thử trình độ. Kết quả, cả ba cũng gần bằng nhau,

mặc dù, dĩ nhiên, Hường khá hơn, và để tiện, tôi quyết định cho cả ba vào                                                                            

                         


                                   Võ Đình Huy                              Như Hường & Bích Thủy

                                                                 

một lớp, soạn chương trình riêng, không theo sách vở, chú trọng phần phát âm, nói chuyện, đặt câu, bắt đọc trước cho hôm sau một bài văn rất ngắn trong đó tôi sẽ nhân tiện giảng một số ngữ vựng và vài luật văn phạm, v.v... Mỗi bữa có trả bài (questionnaire) và viết một bài chánh tả (dictée). Trong suốt hai tiếng, tôi nói tiếng Pháp, trừ khi giảng văn phạm, và bắt tất cả nói tiếng Pháp, theo tôi. Tôi biết cả ba rất khổ, vì không quen phương pháp mới. Như Hường là chị lớn tự nguyện nói nhiều làm gương. Bích Thủy, rất nhút nhát, có hỏi mới trả lời, nhưng học rất chăm. Huy thường im lặng, chờ thầy gọi đích danh mới nói vài câu ngắn. Một bữa, gặp một bài dictée khó quá, Huy ngồi cắn bút, lặng lẽ khóc, tôi phải ngưng, và chuyển sang mục khác. Sau một tháng, tôi thấy cả ba có tấn tới, hoặc ít ra, đã quen với lối học, nhất là bạo dạn nói tiếng Pháp hơn. Bà Trung tá, vốn là cựu nữ sinh một trường Pháp, sau khi được ông đồng ý, đã xin tôi vào lớp, ngồi dự thính, “để ôn lại”, bà nói.

       Xong lớp, Trung tá Cảnh đích thân lái xe đưa tôi về nhà, và như thế trong suốt thời gian tôi dạy tại tư gia. Tôi thầm cám ơn ông về cách đối đãi rất ân cần, lịch sự, và tế nhị đối với thầy giáo và nhất là, trong trường hợp của tôi, với một sĩ quan mà cấp bậc quá dưới. Một tối, lúc đưa về, ông đề nghị hai ngày cuối tuần nếu tôi có muốn đi chơi đâu, hay đi lễ nhà thờ, ông sẽ cho tài xế đến đón đưa. Tôi cám ơn, và trả lời tôi nếu cần đi đâu sẽ mượn xe của Thiếu úy Tải, không dám làm phiền ông. Ông cười, dễ dãi: “Cũng tùy thầy!” Bữa khác, sau lớp dạy, bất ngờ ông mời tôi ở lại ăn cơm. Bà Trung tá và hai cô học trò lo dọn các món. Dĩ nhiên, cơm hàng cháo chợ đã lâu, nay được ăn một bữa thịnh soạn dưới một mái gia đình mà tôi nhận xét thấy tràn đầy hạnh phúc và đầm ấm, làm sao không thấy ngon miệng. Có thêm chai bia, tôi ăn

nói, theo nghĩa đen, ăn và nói, tự nhiên hơn. Một lúc nào đó, Trung tá Cảnh

bảo tôi:     

       - Khi nào hai bác ở Nha Trang lên Ban Mê Thuột, thầy cho tôi biết, chúng tôi xin mời hai bác đến nhà chúng tôi chơi.                                                                 

       Tôi vâng dạ, và nói lời cám ơn, nhưng không biết có ngày nào ba mẹ tôi đến xứ Buồn Muôn Thuở này.

            Dạy như vậy được hai tháng thì đến phiên tôi phải đi công tác. Tôi báo cho Trung tá Cảnh biết, và vì tế nhị, ông không can thiệp với Thiếu úy Tải.  Tải không thể viện cớ gì để nhảy qua phiên của tôi. Phần tôi vui vẻ vác súng và ba-lô ra đi, và như thường lệ, bỏ theo trong bốn túi quần trận một bịch kẹo nougat, một phong chocolat Meunier, một quyển Truyện Kiều và tập thơ Les Fleurs du Mal của Baudelaire, đều rách bìa. Việc dạy học bị gián đoạn, khó lòng tiếp tục như trước, vì những cuộc hành quân lúc ấy diễn ra liên miên, có khi Đại đội TLC-DSV phải cung cấp từ ba đến bốn toán cùng một lượt.

        Công tác vừa về, tôi được nghỉ mấy hôm. Lại có lệnh hành quân cấp trung đoàn tại Khánh Dương do Trung tá Trung đoàn trưởng đích thân chỉ huy. Lần ấy đến phiên của Khôi Trán Cao, hay Quang Học Giả, tôi không nhớ rõ, thì buổi sáng Thiếu úy Tải thông báo trước hàng quân:

       - Trung tá Cảnh muốn đích danh Chuẩn úy Quý đi công tác kỳ này.     

      Ai nấy ngạc nhiên, ngó nhau. Vì ngoài Tải và Khôi, không ai, kể cả Quang, biết việc tôi dạy kèm mỗi tối cho con của Trung đoàn trưởng. Riêng tôi hiểu đó là một ưu đãi ông dành cho tôi. Sáng ấy, sau khi chiếc xe dodge của toán TLC-DSV nhập vào dòng xe của Trung đoàn, một binh sĩ đến nói: “Trung tá Trung đoàn trưởng muốn Chuẩn úy đi gặp ông”. Tưởng chuyện gì. Thấy tôi, ông bèn cười hỏi, “thầy khỏe không?” và bắt tôi ngồi lên xe jeep chỉ huy của ông, khiến anh sĩ quan truyền tin lấy làm lạ, hỏi nhỏ vào tai, tôi có phải là thân nhân của Trung tá Cảnh hay của Chuẩn tướng Nguyễn Văn Mạnh, lúc đó là Tư lệnh Sư đoàn 23. Tôi lắc đầu, chỉ đáp một tiếng “không”, và không mất công giải thích gì thêm.

       Đến Khánh Dương, Bộ Chỉ huy Hành quân dựng trại phía ngoài bìa rừng, bên quốc lộ 21 đi Nha Trang. Các cánh quân chia nhau bung ra khắp vùng. Còn toán tôi phải xuống dưới một buôn Thượng cách đó khoảng mười phút lội bộ. Buôn ấy của người Ra-đê, vì vậy lần này Trung sĩ Y Ksor đi theo công 

tác, làm toán phó và thông dịch. Nhà cửa trong buôn gọn ghẽ, ngăn nắp,

nhưng người ngủ trên và gia súc ngủ dưới, như dân B’râu tại Kiến Đức.

      Ở đây, đặc biệt, có một bông hoa rừng biết nói, mà sĩ quan Ban Mê Thuột, Sư đoàn hoặc Tiểu khu, kể cả những người chưa đi toán bao giờ như Thiếu úy Mỹ và Thiếu úy Tải, đều nghe tiếng. Danh bất hư truyền. Cô tên H’(Hờ) Mai, da trắng, mặt trái xoan, mắt to đen, mũi thẳng, và tóc dài buông xõa, như đầm lai, nhưng biết mắc cỡ như cô gái Việt. H’Mai không nói tiếng Việt, nhưng nghe hiểu. Mấy anh lính Sư đoàn, học lóm được câu  “bắt cái nước” (có nghĩa làm... yêu, make love), gặp cô liền thả dê: “H’Mai có thương anh không, nếu thương, cho anh bắt cái nước chút chút đi”, khiến cô thét lên, hoảng kinh, bỏ chạy vào nhà. Cứ thế, mỗi ngày tôi cắt một binh nhì ở lại lều, gần Bộ Chỉ huy Trung đoàn, lo nấu ăn, còn lại chín người, gồm tôi và một y tá, vào buôn làm công tác dân sự vụ, phát thuốc, hướng dẫn vệ sinh...

      Một buổi sáng, như thường lệ, tôi sắp sửa dẫn toán đi thì một binh sĩ Trung đoàn đến lều, theo sau là bà Trung tá Cảnh, Như Hường và Bích Thủy. Tôi ngạc nhiên. Bà bảo:

        - Chúng tôi đi Nha Trang, biết thầy ở đây, nên ghé thăm thầy một chút.

        Sự việc xảy ra quá đột ngột khiến tôi cảm động, không thốt nên lời, chỉ biết chào và nói cám ơn. Nghỉ dạy từ chuyến công tác sau cùng, tôi chưa gặp lại bà và hai cô học trò ngoan. Như Hường đứng ngắm nghía tôi hồi lâu, rồi cười khen, với giọng đặc Huế, rất dịu dàng:

        - Lần đầu em thấy thầy mặc đồ lính, trông lạ và oai ghê.

        Tôi cười:

        - Lạ thì có lạ, nhưng oai thì còn xét lại đó em...

        Tôi hỏi thăm sức khỏe bà và hai cô, vắn tắt “thuyết trình” công tác dân sự vụ của chúng tôi như thế nào, ăn ở ra sao. Rồi giao công việc cho Trung sĩ Y Ksor, và khoảng mười phút sau đó, tôi đích thân đưa bà và hai cô trở về Bộ Chỉ huy Trung đoàn. Tại đây, Trung tá Cảnh bảo tôi ở lại với ông. Sau khi ba mẹ con đáp xe đò đi Nha Trang, ông vừa nghe các cánh quân báo cáo tình hình, thường là “vô sự”, qua máy vô tuyến khuếch đại, vừa cho mở sòng mini xì phé, chơi với các sĩ quan tham mưu. Ông để tôi ngồi cạnh xem ông đánh bài, thỉnh thoảng hé cho tôi thấy con bài tẩy, và cười sảng khoái khi tháu cáy ăn. Rồi dùng cơm trưa tại chỗ. Các sĩ quan Trung đoàn nhìn tôi, ngạc nhiên, có lẽ tự hỏi: “Thằng cha chuẩn úy này là ai mà ngon lành vậy cà, chắc có bà con với bà Trung tá chăng...” Có người cười thân thiện với tôi –điều rất hiếm hoi, vì thường họ không có mấy cảm tình với cái đám TLC “ăn rồi nói dóc”. Có người nói riêng với tôi, nhờ xin ông về một chuyện rất cá nhân, điều mà

tôi từ chối, dĩ nhiên, lấy cớ tôi không là gì cả, cấp bậc lại quá nhỏ...   

      Cuộc hành quân Khánh Dương kết thúc sau mười ngày, không báo trước. Ngày chót, như thường lệ, toán tôi xuống buôn, và bất ngờ gặp lại H’Mai đang giặt quần áo bên dòng suối. Tôi cười, chào cô. Dưới bầu trời âm u đầy sương mù, mặt cô có vẻ buồn buồn, không hồn nhiên tươi vui như mọi khi, chẳng hiểu sao. Đó cũng là lần cuối tôi thấy cô. Không có lời giã từ lưu luyến, nhưng lòng tôi thấy tiếc vẩn vơ cho một bông hoa đẹp phải chôn vùi hương sắc và tuổi xuân trong một góc rừng hoang vắng. Và thầm mong một anh lính, hay sĩ quan, hay một anh chàng người Kinh nào lạc bước vô buôn, gặp cô, cưới cô, mang về thành phố. Nhưng liền sau đó, tôi lại nghĩ, biết đâu, ở đây, cô thấy hạnh phúc hơn chăng?

       5. Về lại Ban Mê Thuột thì được tin Tải lên trung úy và sắp đi Mỹ học khoá TLC-DSV, Khôi Trán Cao đã đổi về trường Đại Học CTCT Đà Lạt. Còn lại Quang Học Giả và tôi. Tôi cũng được thăng cấp thiếu úy. Đêm trước khi lên đường, Tải tâm sự nhiều, rồi chở tôi vào vũ trường, để tôi gặp lại Mộng Lan. Lan không nhận ra tôi, vì “anh sao có vẻ phong trần quá vậy, không còn trắng trẻo như xưa”. Tôi bèn bắt chước Hùng Cường hát một câu khôi hài, rất vô duyên, “lính mà em”... Cô phá ra cười, tôi càng quê hơn. Trình độ nhảy nhót của tôi không khá thêm chút nào, Lan bảo, “chỉ có ôm em thì thấy anh tiến bộ rõ rệt, em nghe mấy ông lính của anh nói anh đã ôm thực tập mấy cô Thượng trong buôn, như H’Mai, rồi phải không?” Đêm ấy, cô đãi tôi hai bản, một slow và một rumba, và bất ngờ, một nụ hôn thấm ướt làn môi, mà tôi không hề mong đợi, nhưng vẫn đủ nồng nàn cho lòng còn mãi tiếc nhớ. Ngồi dựa sát vào ngực tôi, cô tỉ tê, giọng nghe đầy nước mắt:

      - Thấy anh hiền, em thương anh quá. Quen em, anh không bao giờ đòi hỏi điều gì nơi em, không như những người đàn ông khác, coi em như một món đồ chơi và nghề gái nhảy của em rất tệ. Anh luôn đối xử đứng đắn với em, tôn trọng em, em cám ơn anh...

      Tải đi Mỹ, Trung úy Lê Đồng lên thay, và sau đó, Trung đội DSV sáp nhập vào Đại đội TLC để trở thành Đại đội 203 CTCT, dưới quyền chỉ huy của Trung úy Nguyễn Văn Mỹ. Cũng trong thời gian này, tôi được lệnh dẫn một toán xuống quận Thiện Giáo (Ma Lâm cũ), Phan Thiết, tăng phái dài hạn cho Tiểu đoàn 4, thuộc Trung đoàn 44 (đóng tại Sông Mao), trong chiến dịch Bình Định Nông Thôn của ông tướng thành thị Nguyễn Đức Thắng. Đồng thời cũng có lệnh, sau chuyến công tác này, thuyên chuyển thẳng về Đại đội 202 CTCT Qui Nhơn, do chính ông cậu tôi, Trung úy đại đội trưởng, làm đơn xin theo lời yêu cầu của bà chị cả, tức mẹ tôi. Biết đi lần này là bỏ luôn Xứ Buồn Muôn Thuở, tôi trả nhà đường Huyền Trân Công Chúa và từ giã một vài người thân quen. Tôi đến tư thất của Trung tá Võ Văn Cảnh. Ông nắm chặt tay tôi, chúc những lời tốt đẹp nhất. Bà Trung tá Cảnh, hai cô Như Hường và Bích Thủy, đứng ở cửa thật lâu, vẫy vẫy tay chào.

      Tôi không có người yêu để bịn rịn lúc tiễn đưa. Tải đi rồi, tôi không có dịp, và ý định, gặp lại Mộng Lan.

      6. Trung đoàn trưởng 44 là Trung tá Võ Khâm, đeo kính trắng, da dẻ hồng hào, dáng người trí thức hào hoa, quen thân Tải vì những lần về Ban Mê Thuột ông thường ghé vào vũ trường. Trước đây, tôi đã được Tải mời ăn sáng, uống cà phê mấy lần với ông và vài sĩ quan Trung đội DSV. Sau này, tại Qui Nhơn, tôi có ghé nhà thăm vợ, và con gái ông, tên Thu Sương, có suối tóc đen dài, rất đẹp. Tiểu đoàn trưởng 4/44 là Đại úy Vũ Công Khanh, thấp người, mập mạp, dễ tính, hiền hậu, và chịu chơi. Ông để ria mép đậm đen, và khi ông cười, ria cũng rung rinh cười theo, trông rất “ấn tượng”.

      Thời gian này, chiến tranh giảm cường độ, thỉnh thoảng chỉ gặp mấy tên du kích rình bắn sẻ lai rai, không đụng những trận lớn. Ban ngày, Tiểu đoàn đi lùng địch, được một đại đội vợ lính lếch thếch đi theo hộ tống, giặt quần áo và nấu cơm cho chồng. Đêm, dừng quân trong một trường học bỏ trống của quận, một sân nhà dân, hay một bìa rừng. Vài anh lính trẻ, nằm rải rác chung quanh tôi, vừa trút bỏ ba-lô, đã cuống quýt vồ lấy vợ, như hổ đói lâu ngày, và thỉnh thoảng từ tấm mền hay poncho trùm kín mít, không ngừng động đậy, vang lên những tiếng thở dồn dập và những tiếng rên nho nhỏ, cố nén, làm tôi, vốn dễ ngủ, bỗng nhiên bị thức trắng đêm. Phải kiếm chỗ nằm khác.

       Có khi TĐ phối hợp với Thiếu úy chi khu gốc Chàm, tên Thổ Thêm, mà VC sợ khiếp vía vì nghe đồn ông chơi bùa ngãi, đánh đâu thắng đó. Lâu lâu, và một lần chính mắt tôi chứng kiến, đang đi, ông bỗng chỉ tay về phía trước, trừng mắt, và miệng hô to, bảo lính đến hốt một, hai thằng du kích đang trốn trong một lùm cây hay một hố sâu. Người ta nói ông là sĩ quan có nhiều huy chương nhất trong Quân Lực VNCH. Tôi hỏi ông bao nhiêu, ông trả lời không nhớ, và quả thật, một lần tôi lén đếm những Anh dũng bội tinh ông đeo trên

ngực áo, đến cái thứ 80 là đã lộn, phải đếm lại, rồi lộn nữa.                                                                                                                                             Tối đến, nhìn lên trời xa, về hướng Phan Thiết, tôi thấy ngọn Tà Dôm thỉnh thoảng sáng rực hỏa châu. Hoặc những đêm rằm, thấy từ trên đó những giọt trăng long lanh rớt xuống như từng hàng lệ rơi.

      Toán TLC-DSV của tôi ăn dầm nằm dề với BCH Tiểu đoàn, và mặc nhiên tôi trở thành một trong những sĩ quan cơ hữu, giống như hai cố vấn Mỹ và ông bạn Tôn Thất Quế, trung úy trưởng toán Pháo binh SĐ 23 tăng phái, hay nói câu “mật sượng” (mất sướng) khi không vừa ý điều gì. Tiểu đoàn đi đâu, tôi theo đó. Đụng trận, cũng nổ súng như ai. Và cũng suýt chết như ai. Một lần Đại úy Khanh bị bắn sẻ, tôi đứng cạnh ông, một viên đạn rít bên mang tai, bay xuyên cổ người lính mang máy truyền tin, gần đó, chết ngay tại chỗ.                                                            

     Những ngày không hành quân, tôi thường mò xuống quận Thiện Giáo, cách bìa rừng khoảng 15 phút xe lam, súng ống và lựu đạn trang bị đến tận răng, chỉ để thăm và ngắm cô thư ký tên L., nhỏ nhắn, xinh xắn, rất lãng mạn. Một hôm tôi nhận được một lá thư của cô, giọng văn ngọt ngào, nhưng vòng vo tam quốc, làm sốt cả ruột, không đi thẳng vào chủ đề, gồm những câu trữ tình kiểu cải lương Lan và Điệp. Tôi không trả lời, vì không hiểu cô muốn nói gì, vả lại cũng sợ mỹ nhân kế. Một tháng sau, một sĩ quan trong toán pháo binh biệt phái, tên S., khoe có “quen em thư ký quận” và cho tôi xem thư của cô. Chết rồi! Cũng những câu Lan và Điệp đã viết cho tôi. Đối chiếu hai lá thư thấy sao y bản chánh, giống y chang, chỉ đổi tên “khổ chủ”. Hai đứa cùng cười ngất. Tôi tự nguyện rút lui và năn nỉ anh bạn hy sanh tiếp tục cuộc chơi, hay cuộc tình đầy chất lãng mạn.     

      Mỗi cuối tuần, Đại úy Khanh cho phép chúng tôi thay phiên nhau lên thị xã Phan Thiết nghỉ xả hơi, ăn nhậu, bù lại những ngày lội sình, cơm thịt hộp, ngán tận óc. Buổi tối, đến công viên nghe Nhật Trường hát live hoặc ra chợ cùng với bạn bè, ăn những chiếc bánh căng (căn?) đúc còn ướt sền sệt bỏ đầy trong tô ngập nước mắm pha chế đặc biệt và uống bia ướp lạnh. Rồi, trong khi bạn bè rủ nhau đi bắt bò lạc, tôi về khách sạn bình dân, rẻ tiền, ngủ tạm, mặc nguyên quân phục, hai khẩu súng lên đạn sẵn, đặt vừa tay với, nằm đọc thơ Baudelaire hoặc nghe tiếng đại bác thỉnh thoảng vang rền trên núi Tà Dôm.

      Trong Tiểu đoàn có một đại đội trưởng tên Trần Đăng Lộc, nguyên giáo sư Võ Tánh, trước có quen tại Nha Trang, gặp lại nhau, vui mừng hớn hở. Tha phương ngộ cố tri là vậy. Và trong BCH Trung đoàn 44 lúc ấy có một đồng hương, nay là nhà văn tài hoa nổi tiếng, đang định cư tại Na Uy, Phạm Tín An Ninh –mà mãi đến bây giờ nhờ duyên may tôi mới được biết và quen thân. Cũng nhân một dịp nghỉ cuối tuần tại Phan Thiết tôi được đọc trên báo biết tin, và khóc cho, người bạn Thanh Sinh Công Văn Khoa Ngô Đình Lệ Thủy bị tai nạn chết, như tôi đã kể trong bài viết về cô.

     Mãn hạn công tác, tôi rời Phan Thiết. Vẫn không có người yêu nào đưa tiễn. Vào Sài Gòn, rồi về Nha Trang, nghỉ hơn nửa tháng, trước khi bay ra Qui Nhơn trình diện Đại đội 202 CTCT. Tại đây, bắt đầu một giai đoạn mới của đời chiến binh. Nhưng đó là một chuyện khác. Trong những bài viết khác.

           7. Cuối tháng 10, 2020. Năm mươi bốn năm đi qua, kể từ ngày tôi đặt chân lên Xứ Buồn Muôn Thuở (1966-2020). Hôm nay, mùa thu trở về với thành phố Portland. Mưa từng cơn lạnh, và buổi sáng, buổi chiều, sương mù phủ trắng các thung lũng, che khuât những ngọn thông già rung mình trong gió. Lái xe ngang qua, tôi nghe rét mướt lùa vào hồn, nghe từng kỷ niệm êm đềm, từng tiếc nuối xót xa của mùa thu cao nguyên xưa lần lượt kéo về, úa vàng như những chiếc lá rơi đầy trước ngõ. Như thời gian đã mất mà tôi vẫn khắc khoải tìm về để nâng niu, cho quên đời phiền lụy.

      Cựu Đại úy Phạm Văn Tải và gia đình đang sống tại Portland, như tôi. Người nhạc sĩ vũ trường tài hoa, “dân chơi thứ thiệt” ngày nào, chỉ huy trưởng đầu tiên của tôi, giờ đã gần chín bó, có một người con làm linh mục và một giàn cháu nội ngoại, và chỉ đàn trong nhà thờ và thỉnh thoảng tại nhà cho con cháu, và tôi, người khách đặc biệt, nghe. Cựu Thượng sĩ, sau này lên Trung úy, Nguyễn Hữu Đạo, trước khi qua đời cách đây trên dưới mười năm, cũng là đồng hương Portland, vẫn làm và xuất bản thơ, dưới tên Thanh Khê, như lúc còn ở Xứ Buồn Muôn Thuở, để ca tụng thiên nhiên, cuộc đời, gia đình, nhất là hiền thê đã gắn bó với ông hơn ba phần tư thế kỷ (và đã ra đi trước ông), với những dòng thơ bình dị, chan chứa tình người. Cựu Trung úy Nguyễn Văn Mỹ, sau lên thiếu tá tiểu đoàn phó tiểu đoàn 20 CTCT, đang định cư ở Seattle, tiểu bang Washington, cùng với gia đình. Ông Già Rô không biết bây giờ ra sao, cũng như Richard Hải. Tiểu đoàn trưởng cuối cùng của TĐ 20 CTCT, Trung Tá Vũ Mạnh Hùng, mà tôi hết sức kính nể về cách chỉ huy và đạo đức cá nhân, tuy ít gặp nhau, hiện đang sống một đời đầm ấm với hiền thê và con cháu, tại Beaverton, thành phố kế cận với Portland. Tiểu đoàn trưởng trước đó nữa là Trung tá Đỗ Duy Chương, vẫn trẻ trung, và rất chịu chơi, như ngày nào, mới đây, từ California, đã đến Portland, với bà xã, để thăm các cựu sĩ quan thuộc quyền. Cựu Đại úy Nguyễn Lương Tâm, một sĩ quan cơ hữu của

TĐ 20 CTCT, hiện đang ở Portland, cách nhà tôi chỉ hai con đường, cùng với gia đình rất đạo hạnh và gương mẫu, có một người con được thụ phong mục sư.

      Cựu Đại úy Lê Văn Cậy, ông cậu tôi, sau về làm quận trưởng quận châu thành Hàm Thuận, Phan Thiết, hiện định cư tại Tokyo (Nhật) với vợ con. Khôi Trán Cao, sau khi rời trường Đại Học CTCT về Trung Tâm Nguyên Tử Lực Đà Lạt, rồi về lại Pháp (Nancy). Quang Học Giả, nghe nói sau này lấy cô Nga, hàng xóm của chúng tôi tại căn nhà ma, không biết hai người bây giờ ở đâu. Nguyễn Cảnh Lộc và Phan Văn Tần, nghe nói đang sống tại Mỹ, nhưng tôi chưa liên lạc được. Lê Đồng về sau lên thiếu tá, trưởng phòng 5 Sư đoàn 23 BB, và một tháng trước ngày tan hàng, trong một chuyến công tác từ Kontum về, ngang Buôn Hô, trực thăng bị rơi, được truy thăng cố trung tá.

        Theo lời Phạm Tín An Ninh kể, Đại tá Võ Khâm đã tử trận, mất xác, năm 1974 tại Bu Prang, Quảng Đức, khi ông, trong chức vụ Tiểu khu phó Khánh Hòa, dẫn một lực lượng địa phương quân lên tăng cường cho Quảng Đức. Hiện tôi vẫn liên lạc, qua email, với người cháu ruột của ông, đang sống tại VN. Ninh cũng cho biết Thiếu úy Thổ Thêm, sau lên Thiếu tá, cải tạo trở về, chết già tại gia. Cựu Trung tá Vũ Công Khanh đi tù nhiều năm ngoài Bắc (mà một lần, vào đầu năm 1977, tôi có gặp trong rừng nứa Hoàng Liên Sơn), hiện định cư tại Na Uy như Ninh, cùng với gia đình gồm vợ và con, cháu. Cựu Đại úy Quân cảnh Nguyễn Vinh Hiển nay trở thành nhà văn nổi tiếng Hoàng Khởi Phong, nghe nói về VN sinh sống luôn. Theo các cựu sĩ quan Tiểu đoàn 3/45, và phi công nhà văn Trường Sơn Lê Xuân Nhị, Đại úy Trần Văn Chà, cấp bậc cuối cùng là đại tá, hiện định cư ở Oklahoma.      

      Về những mỹ nhân, các bạn Võ Bị của cố Đại úy Nguyễn Tấn Mỹ (chết trận Quảng Nhiêu) cho biết vũ nữ tình nhân (tên Cúc) đã ôm xác ông, đang ở Nha Trang cùng với đứa con của hai người. Tôi cũng nghe ai nói, cô chủ quán bi da Chợ Nhỏ bị người anh rể nổi cơn ghen, hay cơn điên, trước 1975, xả súng bắn chết cùng với toàn gia đình trong một vụ thảm sát và tự sát kinh hoàng làm rúng động Ban Mê Thuột. H’Mai và Thu Sương, không biết ra sao bây giờ. Cô thư ký L. của quận Thiện Giáo, không rõ sau này có lấy anh bạn Pháo binh –người mà tôi cũng biệt vô âm tín, cùng với ông bạn Quế “mật sượng”. Mộng Lan đã từ trần, bỏ cuộc chơi giữa tuổi thanh xuân, khi vũ trường International bị VC đặt chất nổ, khiến nhiều người tử vong.

          Ôi, cả một dĩ vãng úa vàng và những người muôn năm cũ...

        8. Còn ông bà Thiếu tướng Võ Văn Cảnh và hai chị em Như Hường, Bích Thủy? Tôi không bao giờ gặp lại Thiếu tướng Cảnh sau ngày rời bỏ Ban Mê 

  Cố Thiếu tướng Võ Văn Cảnh († 1994). Hình do gia đình gửi                                                                                                                                                   Thuột, nhưng mỗi lần nghe ai nhắc đến tên ông, những kỷ niệm buồn vui từ đâu bỗng hiện về tràn ngập tâm hồn  –rộn rã với bao nhiêu tình cảm luyến lưu,

đằm thắm, không chỉ riêng đối với ông mà cả gia đình ông. Sau đó, những năm trước, nói chuyện qua email, rồi qua điện thoại với Như Hường, tôi được biết Thiếu tướng Cảnh đã mất năm 1994, bà đã trên 80 và sống lặng lẽ, đạo đức, chăm lo việc Chúa. Ba người học trò nhỏ năm xưa nay đã lớn, có gia đình êm ấm, con cái thành tài. Năm 2015, nhân dịp xuống Nam Cali, tôi và Nguyễn Kim Trọng, em kế tôi, được vợ chồng Tuấn-Hường chở về ngôi nhà ở Los Angeles thăm chơi một đêm, và sáng hôm sau ra nghĩa trang viếng mộ cố Thiếu tướng. Ghé thăm cụ bà, tại nhà dưỡng lão, thấy cụ vẫn khoẻ mạnh, minh mẫn, và lịch thiệp, còn nhớ rất nhiều chuyện thời BMT. Lúc ra về, tôi ôm hôn cụ rất lâu, và hẹn một ngày sẽ gặp lại.

       Đâu ngờ, mới đây nhất, vào tháng 1/2021, Như Hường cho biết, cụ bà đã tạ thế, vì bệnh già, cuối năm 2020, hưởng đại thọ trên 90. Một năm trước đó, Bích Thủy, bất ngờ, cũng đã qua đời, sau một cơn bạo bệnh, khi tuổi còn quá trẻ. Võ Đình Huy đang sinh sống tại Đức cùng với người vợ ngoại quốc.                                          

          Chồng của Như Hường là bác sĩ, đã nghỉ hưu. Hai vợ chồng đã rời LA, về Irvine sống. Hai người con của Tuấn-Hường cũng là bác sĩ, có vợ con, đang ở hai tiểu bang khác. Tôi hứa với Hường, ngày nào nếu có dịp và sức khỏe còn cho phép, tôi sẽ lại xuống Nam Cali thăm, sẽ đến viếng mộ, thắp nhang, và cầu nguyện cho linh hồn cố Thiếu tướng Võ Văn Cảnh, cụ bà, và em gái Bích Thủy được Chúa sớm đưa về nước Thiên Đàng. Quả thực, tất cả mọi người trong gia đình Như Hường đều là những quý nhân tuyệt vời mà tôi đã may mắn được một lần gặp gỡ, quen biết. Để nhớ thương cả đời

                          Bài viết này được hiệu đính và gửi lại ngày Feb 8, 2021

            Kim Thanh, tại Portland, 53 năm sau ngày lên xứ Buồn Muôn Thuở (1966-2019)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                                                                                                      

 

Tags: HỒI KÝ
Tags: NHÂN VẬT
Tags: TÁC GIẢ
Tags: TÁC PHẨM

Đăng nhận xét

Tin liên quan