HỌC GIẢ MINH DI Phê bình BẢN DỊCH cuốn ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TÒAN THƯ.

HỌC GIẢ MINH DI phê bình BẢN DỊCH cuốn ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TÒAN THƯ.

Minh Di.

03 tháng 12 / 2017. Đầu Hè Úc Châu. 22:52.

Duyệt lại tạm gọi là lần cuối: 17. 02. 2018. Cuối Hè Úc Châu.

Mồng 2 Tết năm Mậu Tuất.

Kỷ niệm 1080 năm Chiến thắng Bạch Đằng (2018 – 938).

(KỲ 1)

Dẫn nhập.

Vào khoảng giữa tháng 3 năm nay [2007], sẵn một số Sử liệu Trung Hoa liên quan việc giao thương thời cổ giữa Trung Quốc và các nước ở vùng Đông nam Á tôi bắt đầu việc biên soạn bài, một cuốn sách thì đúng hơn, tựa là “Nam biên”.

Một số tự thuật về Giao ChỉChiêm Thành thời cổ là một phần trong những Sử liệu nói trên.

Những gì về Giao Chỉ tôi đã dẫn trong bài “Đất Nước. Con Người” trước đây.

Cuốn “Nam biên”, như tựa sách cho thấy, là một cuốn sách viết về Chiêm Thành.

Các lãnh vực như Phong tục, tập quán, thổ sản khí hậu, tông giáo, lễ nghi…, nói chung là “Đất nước, Con người Chiêm Thành”, những sử liệu Trung Hoa tôi có trên kệ sách chép bao nhiêu tôi dịch lại hầu như toàn bộ!

Tuy nhiên, nói như trên đây không có nghĩa là cuốn “Nam Biên” thuần những trích dẫn từ Sử tịch, nói chung là thư tịch Trung Hoa, được sắp xếp lại với nhau thành sách, mà quan trọng là ở những phân tích, đối chứng, phê bình và nhận định của cá nhân tôi về những ghi chép của Sử gia, học giả Trung Hoa về vấn đề.

Tại sao viết về Chiêm Thành thì có lẽ hầu hết chúng ta đều rõ!

Đất cũ Chiêm Thành bao cả một dải miền Trung Việt nam hiện nay, do đó, tìm hiểu về đất nướccon người Chiêm Thành ngày trước chúng ta có thể ít nhiều tìm lại được một vài dấu vết còn lưu lại nơi con người miền Trung ngày nay.

                                                                            *

Ngoài sử liệu Trung Hoa tôi tham khảo bản Hán văn bộ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”.

Trong khi đọc bộ Sử này, và bước đầu chuyên đọc những gì ghi chép về Chiêm Thành đôi lúc tôi thử “ghé mắt qua” bản dịch Việt văn của Ngô Đức Thọ và Hoàng Văn Lâu - với phần hiệu đính của Hà Văn Tấn, để coi ở “bên kia bờ” người ta nghiên cứu Sử học ra làm sao?

Bản dịch bộ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” gồm 3 Tập:

Tập I gồm Quyển Thủ + Ngoại kỷ, từ Qu. I tới Qu. V + Bản kỷ từ Qu. I tới Qu. IV.

Tập này do Ngô Đức Thọ dịch và chú giải, Hà Văn Tấn hiệu đính.

Tập II là phần Bản kỷ từ Qu. V tới Qu. XIII.

Tập III là phần Bản kỷ từ Qu. XIV tới Qu. XIX.

2 Tập II và III này do Hoàng Văn Lâu dịch và chú giải, Hà Văn Tấn hiệu đính.

Tập IV là nguyên tác Hán văn, Bản in năm 1697.

Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội ấn hành năm 1998.

Bản dịch Việt văn bộ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” này căn cứ Bản in nói trên, trước giờ lưu trữ tại “Trường Viễn Đông Bác Cổ” (Ecole Française d’ Extrême-Orient. EFEO) ở Pháp.

Năm 1985, Trường Bác Cổ đã chụp vi phim bản Hán văn này tặng Việt Nam.

2 người dịch bộ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”, Ngô Đức Thọ, Hoàng Văn Lâu, theo như lời “Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội”, đều là những “nhà nghiên cứu Hán Nôm”.

(Coi: “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”. Tập I. Lời Nhà Xuất bản. Trang 06).

                                                                              *

Viết cuốn “Nam biên” được nửa chừng, bắt đầu phần tham khảo những ghi chép trong bộ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” tôi phải tạm ngưng để viết bài này.

Ngưng, vì thấy không thể không nói qua về cung cách làm việc, cũng như về khả năng Hán văn của  2 “nhà nghiên cứu Hán Nôm” Ngô Đức Thọ và Hoàng Văn  Lâu kể trên.

                                                                              *

Cũng xin nói rõ là “những điều trông thấy” sau đây của tôi giới hạn trong một số đoạn liên quan Chiêm Thành chép trong “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” mà thôi, những gì thấy ngoài những ghi chép này trong Bản dịch của Ngô Đức Thọ và Hoàng Văn Lâu tôi sẽ đề cập ở một dịp khác.

Những trích dẫn liên quan Chiêm Thành trong bài viết này, do đó, chỉ là một phần rất là nhỏ của cuốn “Nam biên”.

                                                                              *

Tôi được biết là ở “bên đây bờ” đã có nhiều người mua bản dịch “Đại Việt Sử Ký” này - trong đó có vài ông “ngè Sử học”, và là “ngè Tây học” của Miền Nam trước đây!

                                                                              &

Lý triều (1009 - 1225). Tập I. Ngô Đức Thọ dịch.

 

(1). Lý Thái tông (1000 - 1054; tại vị: 1028 - 1054).

+ Niên hiệu Thông Thụy (1034 - 1039)

~ Kỷ Mão. Lục niên.

Hạ tứ nguyệt.

Chiêm Thành vương tử Địa bà Thích (地婆刺), Lạc Thuấn (樂舜), Sạ Đâu (乍兜), La Kế (羅繼), A Thát Thích (阿撻刺) ngũ nhân lai phụ.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. II. Lý kỷ. Thái tông hoàng đế  /.

~ Năm Kỷ Mão. Năm thứ 6.

Tháng 4, mùa Hè.

Vương tử Chiêm Thành Địa Bà Thích, Lạc Thuấn, Sạ Đâu, La Kế, A Thát Thích 5 người xin về theo.

(Phụ chú.

+ Địa Bà Thích. A Thát Thích.

Chữ “Thích” (), Ngô Đức Thọ đọc là Lạt, sai!).

 

+ Niên hiệu Càn Phù Hữu Đạo (1039 - 1042).

~ Nhị niên.

Thu bát nguyệt.

Chiêm Thành quốc thủ Bố ChínhTrại nhân Bố Lệnh (布令), Bố Kha (布哥), Lan Đà Tinh (蘭沱星) suất kỳ bộ thuộc bách dư nhân lai phụ.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. II. Lý kỷ. Thái tông hoàng đế  /.

~ Năm thứ 2.

Tháng 8, mùa Thu.

Mấy người Chiêm Thành cai quản Trại Bố Chính Bố Lệnh, Bố Kha, Lan Đà Tinh dẫn hơn 100 người bộ tộc mình về theo.

 

+ Niên hiệu Minh Đạo (Tháng 10 năm 1042 - 1044).

~ Quí Vị. Nhị niên.

Hạ tứ nguyệt.

Chiêm Thành “phong lãng” tặc. vị thừa phong lãng khấu lược. lược thủ hải biên dân.

Mệnh Đào Xử Trung trấn chi nãi bình.

…………

Cửu nguyệt.

…………

Đế dĩ minh niên tương phạt Chiêm Thành, chiếu tạo Long, Phụng, Ngư, Xà, Hổ, Báo, Anh Vũ chiến hạm sổ bách dư sưu ().

…………

Thập nhị nguyệt.

Chiếu quân sĩ thiện giáp (繕甲), trị binh (治兵), ước dĩ minh niên xuân, nhị nguyệt, phạt Chiêm Thành.

Giáp Thân tam niên. Xuân.

Chinh nguyệt.

Phát phủ khố khí giới, ban thụ chư quân.

Quí Mão. Đế thân chinh Chiêm Thành, dĩ Khai Hoàng vương vi Kinh sư Lưu thủ (留守).

…………

Giáp Thìn. Phát Kinh sư.

Ất Tỵ thứ Đại Ác hải khẩu, hội phong đào thiếp tĩnh (怗靜), đại quân lợi thiệp, cố cải Đại Ác vi Đại An. Để Ma Cô Sơn tử vân bổng () nhật; quá Hà Não loan hữu phiến vân phú đế sở ngự chu, tùy kỳ hành, chỉ. Thị nhật chí Trú Nha - nhất tác thân () - hải khẩu trú doanh. Thứ nhật phát, dĩ phong thế chi tiện nhất nhật quá đại, tiểu nhị Trường sa, để Tư Khách hải khẩu, bạch ngư nhập chu.

Đế văn Chiêm Thành dẫn kỳ chúng cập tượng trận vu Ngũ Bồ giang Nam ngạn, dục cự quan quân. Chiếu xả chu đăng lục, lãnh quân sĩ chí Bắc ngạn, kiến bỉ thuộc tòng dĩ liệt giang biên. Đế nãi bộ phân sĩ tốt kiến kỳ minh cổ, kính độ kích chi. Binh nhận vị tiếp Chiêm Thành tự hội, truy trảm tam vạn cấp. Quách Gia Di trảm kỳ chủ Sạ Đẩu thủ vu trận hiến chi; hoạch () tuần tượng tam thập dư, sinh cầm ngũ thiên dư nhân; kỳ dư vị quan quân sở sát, huyết đồ binh nhận, thi tắc () nguyên dã!

Đế vi chi khái nhiên, hạ lệnh viết:

- Hữu vọng sát Chiêm Thành nhân giả, sát vô xá!

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. II. Lý kỷ. Thái tông hoàng đế  /.

~ Năm Quí Vị (Mùi), năm thứ 2.

Tháng 4, mùa Hè.

Giặc “sóng gió”. Ý nói thừa sóng gió giong thuyền đi cướp. cướp bóc dân ven biển.

Vua sai Đào Xử Trung trấn áp đánh dẹp mới yên.

…………

Tháng 9.

…………

Dự định năm sau đi đánh Chiêm Thành, (vua) ra chiếu chỉ đóng chiến hạm, đặt các tên Long, Phụng, Ngư, Xà, Hổ, Báo, Anh Vũ, (tất cả) mấy trăm chiếc.

…………

Tháng 12.

Truyền chiếu chỉ cho quân sĩ tu bổ vũ khí, tập luyện quân sự, hẹn tới tháng 2 mùa xuân năm sau đi đánh Chiêm Thành.

Năm Giáp Thân, năm thứ 3, mùa Xuân.

Tháng Giêng.

Mở kho khí giới ban cho các quân.

Ngày Quí Mão. Vua thân hành đánh Chiêm Thành, để Khai Hoàng vương làm Lưu thủ ở Kinh đô.

………….

Ngày Giáp Thìn. Xuất quân từ Kinh Đô.

Ngày Ất Tỵ Quân đến Cửa biển Đại Ác, gặp lúc sóng êm gió lặng đại quân vượt biển thuận lợi, vậy đổi tên Cửa biển Đại Ác là Đại An. Tới núi Ma Cô thì có đám mây tím (ở dưới) nâng mặt trời; qua vịnh Hà Não thì có một đám mây che trên thuyền vua ngự, thuyền đi mây đi theo, thuyền ngừng mây ngừng theo. Ngày này tới cửa biển Trú Nha - có sách chép là Thân () - trú quân lại.

Ngày hôm sau lên đường gặp thế gió thuận đi 1 ngày thì vượt 2 bãi Tiểu Trường Sa và Đại Trường Sa; tới cửa biển Tư Khách thì có con cá trắng vọt lên thuyền.

Vua được tin Chiêm Thành dẫn quân binh và bầy voi trận dàn ở bờ Nam sông Ngũ Bồ để chống lại quan quân; ra lệnh bỏ thuyền lên bờ đem quân đến bờ Bắc sông, (tới nơi) thì thấy quân Chiêm đã dàn trận ở bờ sông, vua liền chia quân ra, dựng cờ gióng trống vượt thẳng qua sông tấn công, 2 bên chưa giao chiến quân Chiêm Thành đã tự tan rã, (quan quân ta) truy kích chém được hơn 30,000 thủ cấp! Quách Gia Di chém đầu vua Chiêm Thành Sạ Đẩu tại trận, dâng lên; thu lấy được hơn 30 con voi đã được nuôi dạy thuần thục, bắt sống 5,000 người; số còn lại đều bị quan quân giết tới máu nhuộm đầy binh khí, xác lấp nghẽn sông..

Vua cảm khái, xuống lệnh:

- Kẻ nào còn giết người Chiêm Thành bừa bãi sẽ bị giết, không tha!

 Chú thích.

+ Lưu thủ (留守).

Thời cổ, hoàng đế ra ngoài tuần du, thị sát các địa phương, lúc sắp lên đường, thì giao cho một thân vương, hoặc trọng thần, trấn thủ Kinh Đô tùy nghi mà điều hành các sự vụ. Vị này được gọi là “Kinh Thành Lưu Thủ”.

Tại các địa phương, chức Thích sử khi đi thanh tra định kỳ (vào tháng 8 mỗi năm) chính sự  và hình sự các nơi trong vùng mình cai trị thì cũng giao cho 1 trưởng quan điều hành sự vụ ở nhà khi mình vắng mặt].

 Tới tháng 7 cùng năm:

~ Thu thất nguyệt.

Đế dẫn quân nhập Phật Thệ (佛誓) Thành, phù () Sạ Đẩu thê, thiếp, cập cung nữ chi thiện ca vũ Tây thiên khúc điệu giả.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. II. Lý kỷ. Thái tông hoàng đế  /.

~ Tháng 7 mùa Thu.

Vua đưa quân vào thành Phật Thệ bắt đi thê, thiếp và những cung nữ của vua Sạ Đẩu giỏi ca múa những khúc điệu của phương Tây .

[Chú thích.

+ Phật Thệ.

Còn gọi là Thành Đồ Bàn, Kinh Đô của Chiêm Thành từ cuối thế kỷ thứ 9 trở về sau.

Chiêm vănVijaya - là danh xưng khắc trên những tấm bia còn sót lạiMỹ Sơn, thuộc tỉnh Quảng Nam hiện nay. Chiêm văn nói đây tức chỉ Phạm văn (cũng ghi là Phạn văn), là  chữ viết chính thức của Chiêm Thành thời cổ. Vijaya nghĩa là “Thắng Lợi”.

Thành cũ ở phía Tây bắc hải cảng Qui Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay, khoảng 50 cây số.

Qui Nhơn vào thời đó là hải cảng của Chiêm Thành, đương thời có tên gọi là Tân Cảng, để phân biệt với hải cảng trước đó tại Trà Kiệu là Cựu Cảng (Hội An, Quảng Nam hiện nay).

Vị trí trên bản đồ: Kinh độ 109o 14’ / Vĩ độ 13o 46’.

(KỲ 2)

Cao Bá Quát (1809 - 1854) triều Nguyễn (1802 - 1884) viết trong “Mẫn Hiên Thuyết Loại”:

~ Đồ Bàn Thành.

Đồ Bàn thành tại Bình Định Phù Cát huyện, Chiêm Thành cố đô, di chỉ (遺址) do tại. Thành

trung hữu Tháp, Chiêm Thành sở kiến.

Quốc sơ, Hoài Quốc công Vũ Tính, Ninh Giang Quận công Ngô Tòng Chu tuẫn tiết xứ, kim hữu từ tại yên.

                     /  Mẫn Hiên Thuyết Loại (敏軒說類). II. Cổ tích  /. 

~ Thành Đồ Bàn.

Thành Đồ Bànhuyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, là Kinh Đô cũ của Chiêm Thành, nền cũ hiện vẫn còn. Trong Thành có ngôi Tháp, do Chiêm Thành xây.

Thuở đầu triều ta, đây là chỗ Hoài Quốc công Vũ () Tính (Tánh), Ninh Giang Quận công Ngô Tòng Chu tuẫn tiết, hiện nay còn Miếu thờ.

 Minh Di.

Ghi chép của Cao Bá Quát về Kinh đô Phật Thệ rất sơ lược! Trước năm 75, miền Nam VN tỉnh Bình Định có quận Phù Cát, sau 75 có huyện Phù Cát, dẫn Cao Bá Quát ở đây tôi có ý nói tới tính cách Lịch sử gần 200 năm, hoặc hơn, của Địa danh Phù Cát này.

 Một vài chú thích về Cao Bá Quát.

+ Cao Bá Quát là Văn học gia nổi tiếng của Việt Nam, có tên TựChu Thần (周臣) - tên HiệuMẫn Hiên (敏軒).

Về Cao Bá Quát có 2 vấn đề cần sửa lại cho đúng:

(1). Tên Tự. Tên Hiệu.

Trước đây, trước năm 75, những sách Giáo khoa Việt văn bậc Trung học - và những sách viết về Cao Bá Quát, khi ghi tên Tự, tên Hiệu của Cao Bá Quát, thì có sách ghi:

Cao Bá Quát tên TựChu Thần, tên HiệuMẫn Hiên.

Lại có sách ghi ngược lại:

Cao Bá Quát tên TựMẫn Hiên, tên HiệuChu Thần.

Nhưng, chưa thấy người viết nào của 2 bên đưa ra được giải thích về điểm trái nghịch về tên Tự, tên Hiệu của Cao Bá Quát.

một cuốn sách, hình như là “Mảnh Vụn Văn Học Sử” của Bằng Giang, đã thắc mắc, và nhìn quanh cũng không thấy giải đáp, nên đã “tùy tiện” gọi đây là 1 nghi vấn văn học?

Trong Văn học, trong Sử học, khi nói “nghi vấn” là nói những vấn đề không còn tìm được thực tướng, thường là như vậy! Và lý do chính là không còn tài liệu để tra cứu.

Nhưng ở đây không là vấn đề tài liệu, mà là do không hiểu nguyên tắc lấy tên Tự, tên Hiệu của cổ nhân:

(a). Tên Tự luôn luôn, không có ngoại lệ, được chọn từ chữ trong Kinh điển, nói chung là Sách vở, và hơn nữa, giữa tên cha mẹ đặt, Danh, và tên Tự phải tương quan về ý nghĩa.

(b). Trong khi tên Hiệu thì tùy ý, thích chữ nào lấy chữ nấy, nhưng lại có trường hợp, mà tôi gọi là “tứ tự” (4 chữ), là dấu hiệu xác định tên Hiệu, không thể sai lầm - sẽ nói ở sau.

 Trường hợp Cao Bá Quát ở đây, tên Tự Chu Thần, nghĩa là bề tôi Chu triều, được lấy từ sách Luận Ngữ:

~ Chu hữu bát sĩ:

Bá Đạt, Bá Quát, Trọng Đột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quí Tùy, Quí Oa.

                                                                            /  Luận Ngữ. Vi Tử. 11  /.

~ Chu triều có 8 người hiền năng:

Bá Đạt, Bá Quát, Trọng Đột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quí Tùy, Quí Oa.

 Đây là 8 anh em ruột. Theo truyền thuyết, mẹ của 8 người này có 4 vú.

Bởi lẽ không biết nguyên tắc lấy tên Tự, tên Hiệu của người xưa, đồng thời lại cho rằng sự trái ngược đã nói ở trên về tên Tự, tên Hiệu của Cao Bá Quát là không quan trọng cho nên trước đây ở trường học người ta cũng đã dạy học sinh một cách tùy tiện, Cao Bá Quát tên TựChu Thần cũng được, mà tên TựMẫn Hiên cũng chẳng sao! Ngược lại cũng vậy!

Kế đến là tên Hiệu.

Vương Ứng Khuê (1683 - 1760) đời Thanh viết:

~ Biệt hiệu cổ nhân sở vô, bất tri khởi vu hà thời? ¾ Hoặc vân tự Hàn Tuyền Tử (寒泉子), Sư Lý Tử (樗里子) thủy. Chí Đường nhi tiệm chúng, chí Tống nhi ích đa!

Cận tắc thị tỉnh đồ cô (屠沽) giai hữu “Am (), Trai (), Hiên (), Đình ()” chi xưng.

Nhược chỉ hữu Tự nhi vô Hiệu, Ngô Thứ Vĩ (吳次尾) sở vị “như thử đại nhã () chi sĩ, ngô bất sác kiến (數見) dã!”.

Thường kiến Chúc Hi Triết “Tiền Văn Ký” tái Giang Tây nhất lệnh () tấn đạo (訊盜), đạo đối viết: ~ “Thủ Ngu bất cảm”.

Lệnh bất tri sở vị, vấn chi tả hữu, nhất tư () vân:

~ Thủ Ngu giả, kỳ Hiệu nhĩ!

Tắc tri kim nhật tặc dịch hữu Hiệu hĩ! Thử đẳng phong tục bất tri hà thời khả biến dã!

                                                                  /  Liễu Nam Tùy Bút. Qu. III. 43  /.

~ Biệt hiệu, người xưa không có, không rõ có từ thời nào? ¾ Có người nói là khởi đầu từ Hàn Tuyền Tử, Sư Lý Tử. Tới thời Đường thì nhiều dần, tới thời Tống thì càng nhiều hơn!

Gần đây thì tại các chốn thị tỉnh những hạng làm những nghề như mổ heo, mổ bò, rồi hạng buôn hàng bán quán kẻ nào cũng xưng nào là “Am, Trai, Hiên, Đình”.

Còn như những người chỉ có tên Tự, không có tên Hiệu, những người mà ông Ngô Thứ Vĩ nói là “những bậc học thức cao nhã như vậy tôi thực ít khi thấy!.

Tôi có lần đọc cuốn “Tiền Văn Ký” của Chúc Hi Triết tự thuật chuyện một vị Huyện lệnh ở tỉnh Giang Tây hỏi cung một cướp, (lúc trả lời) tên cướp nói: ~ “Thủ Ngu không dám”.

Quan huyện không hiểu hắn nói cái gì, day lại hỏi tả hữu, có một chức lại nhỏ nói:

Thủ Ngu là tên Hiệu của hắn đó thôi!

Cứ đây thì rõ đời bây giờ ngay cả giặc cướp rồi cũng có tên Hiệu nữa là! Những phong tục như vậy không biết tới bao giờ mới thay đổi được?!

 Chúc Hi Triết mà Vương Ứng Khuê đề cập ở trên đây tức Chúc Doãn Minh (1460 - 1526) - Văn học gia, và Thư, Họa gia đời Minh. Hi Triết là tên Tự của ông.

Trong lãnh vực nghệ thuật tuy cũng có tài Hội họa nhưng vì họa phẩm để lại quá ít cho nên chủ yếu Chúc Doãn Minh được coi là Thư pháp gia, và là Thư pháp gia tài nhất thời Minh.

Trong đoạn văn dẫn trên Vương Ứng Khuê chỉ trích lấy đoạn cuối của một bài văn ngắn có tựa là “Cận thời nhân Biệt hiệu” trong cuốn “Tiền Văn Ký”.

Bài văn ngắn này của Chúc Doãn Minh cũng thú vị, cũng cần dẫn lại toàn văn ở đây.

 Chúc Doãn Minh viết:

~ Đạo hiệu, Biệt xưng, cổ nhân gián hữu chi, phi sở trọng dã!

Dư thường vị (嘗謂), vi nhân như Tô Văn Trung tắc nhi đồng mạc bất tri Đông Pha, vi nhân như Chu Khảo Đình tắc mông trĩ [蒙稚] mạc bất thức Hối Am (晦庵), hội tỏa (嵬瑣) chi nhân hà tất vọng () tự tiêu bảng (摽榜)!

Cận thế sĩ đại phu danh thực xứng giả cố đa hĩ! Kỳ tha cái () duy nông phu bất nhiên, tự dư lư (餘閭) thị thôn (市村) khúc tế (曲細) phu vị thường vô Biệt hiệu giả! Nhi kỳ sở xưng, phi dung thiển (庸淺) tắc cuồng quái! Hựu trùng khả tiếu Lan, Quế, Tuyền, Thạch chi loại thử cứ () bỉ chiếm (), sở vị nhất tọa bách phạm! Hựu huynh Sơn tắc đệ Thủy, bá Tùng tắc trọng, thúc tất Trúc, Mai. Phụ thử vật tắc tử tôn dẫn thử vật ư bất dĩ! Y, ngu hĩ tai! Chí ư cận giả tắc phụ nhân dịch hữu chi!

Hựu truyền Giang Tây nhất lệnh thường tấn đạo, đạo hốt đối viết: ~ “Thủ Ngu bất cảm!”.

Lệnh bất tri sở vị, vấn chi tả hữu, nhất tư () vân:

~ Thủ Ngu giả, kỳ Hiệu nhĩ!

Tắc tri kim nhật tặc dịch hữu Biệt hiệu hĩ! Thử đẳng phong tục bất tri hà thời khả biến?!

Tiền Văn Ký. Cận thời nhân Biệt hiệu  /.

~ Đạo hiệu, Biệt hiệu người xưa cũng có người có, nhưng (với cổ nhân) đây không là điều quan trọng!

Tôi từng nói người như Tô Văn Trung thì đứa con nít nào mà không biết là (Tô) Đông Pha, người như Chu Khảo Đình thì có đứa trẻ nít nào mà không biết là (Chu) Hối Am, những kẻ chẳng ra chi rồi khỏi cần lăng xăng vỗ ngực xưng tên!

Tên Hiệu của các bậc Sĩ, Đại phu thời gần đây đa số cố nhiên xứng hợp với con người của các vị! Ngoài ra, những hạng làm ruộng, làm rẫy thì không vậy, từ thôn ấp ra tới chốn thị tứ những bọn học thức nông cạn không kẻ nào mà không có Biệt hiệu! Và rồi Biệt hiệu của bọn này không tầm thường thì cũng quái đản! Lại tức cười hơn nữa là những tên Hiệu như Lan, Quế, Tuyền, Thạch thì kẻ này giành, kẻ kia giựt, thôi thì cứ loạn lên! Và, tên Hiệu của anh đã có chữ Sơn thì tên Hiệu của em là Thủy; anh hai (cả) đã lấy chữ Tùng thì em út rồi lấy các chữ Trúc, Mai. Cha đã lấy tên Hiệu loại nào con cháu rồi cứ loại đó mà lấy theo mãi không thôi! Ôi, thực ngu quá đi thôi! Cho tới gần đây thì đàn bà cũng có tên Hiệu nữa!

Người ta còn kể rằng ở Giang Tây có vị quan huyện hỏi cung [một] tên cướp, tên cướp này  bỗng đâu phát trả lời: ~ “Thủ Ngu không dám!”.

Quan huyện chẳng hiểu hắn nói cái chi, day qua hỏi tả hữu thì có chức lại nhỏ nói:

~ Thủ Ngu là tên Hiệu của hắn đó thôi!

Cứ đó thì rõ bây giờ giặc cướp cũng có tên Hiệu! Phong tục như vậy không biết tới bao giờ mới thay đổi được!

4 chữ “AM. TRAI. HIÊN. ĐÌNH” Vương Ứng Khuê nêu ở đoạn dẫn trên luôn luôn, không có ngoại lệ, là dấu hiệu cho biết đây là tên Hiệu. Đây là “Tứ tự” tôi nói ở một đoạn trên!

Tên Hiệu của Cao Bá Quát chính là đã theo định lệ này trong việc lấy tên Hiệu!

Cứ xét các tên Hiệu của danh nhân Việt Nam thời cổ chúng ta sẽ thấy vấn đề hết sức rõ!

 Một số thí dụ về “tứ tự” Am. Trai. Hiên. Đình trong tên Hiệu của danh nhân Việt thời cổ.

1/. Tên Hiệu có chữ AM. []. Chữ cũng viết là , dùng chữ nào cũng được.

Lý Tử Tấn (? - ?) tên Hiệu là Chuyết Am.

Nguyễn Công Hãng (1680 - 1732) tên Hiệu là Tĩnh Am.

Nguyễn Cư Trinh (1716 - 1767) tên Hiệu là Đạm Am.

Bùi Huy Bích (1744 - 1818) tên Hiệu là Tồn Am.

Phan Huy Ích (1750 - 1822) tên Hiệu là Dụ Am.

Phan Huy Ôn (1755 - 1786) tên Hiệu là Chỉ Am.

2/. Tên Hiệu có chữ TRAI. [].

Nguyễn Trãi (1380 - 1442) tên Hiệu là Ức Trai.

Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613) tên Hiệu là Nghị Trai.

Ngô Thời Ức (1690 - 1736) tên Hiệu là Tuyết Trai.

Lê Quang Định (1760 - 1813) tên Hiệu là Tấn Trai.

Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825) tên Hiệu là Cấn Trai.

Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) tên Hiệu là Ngộ Trai.

3/. Tên Hiệu có chữ HIÊN. [].

Phan Phu Tiên (? - ?) tên Hiệu là Mặc Hiên.

Đặng Minh Khiêm (1450 - 1522) tên Hiệu là Thoát Hiên.

Vũ Cán (1475 - ?) tên Hiệu là Tùng Hiên.

Nguyễn Hãng (? - ?) tên Hiệu là Nại Hiên.

[Người cuối triều Hậu Lê (1428 - 1527) đầu triều Mạc (1527 - 1592)].

Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775) tên Hiệu là Nghị Hiên.

Nguyễn Du (1765 - 1820) tên Hiệu là Thanh Hiên.

4/. Tên Hiệu có chữ ĐÌNH. [].

Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872) tên Hiệu là Phương Đình.

Nguyễn Thuật (1842 - 1911) tên Hiệu là Hà Đình.

 

Khi gặp 4 chữ “Am. Trai. Hiên. Đình” thì đây là khẳng định tuyệt đối của tên Hiệu.

Cứ những gì tự thuật về tên Tự, tên Hiệu trên đây, tôi đính chính:

Cao Bá Quát tên Tự là Chu Thần, tên Hiệu là Mẫn Hiên.

Về tên Tự và tên Hiệu của người xưa tôi đã tự thuật cặn kẽ, và đầy đủ, trong bài biên khảo có tựa là “Tên Tự, Tên Hiệu”  ¾ sau đổi lại là “Tự dư viết Linh Quân”, lấy chữ từ một câu trong thiên Li Tao của Khuất Bình (343 - 299 tr. Cn):

Danh dư viết Chính Tắc hề,

Tự dư viết Linh Quân.

Tên ta đặt Chính Tắc kìa,

Tự ta đặt Linh Quân.

 

Nguyên tắc lấy tên Tự vẫn không thay đổi từ thi hào Khuất Bình, hơn 2,000 năm nay.

 

Bài này viết cách đây hơn 20 năm.

Tôi lập lại những gì đã viết cách đây hơn 20 năm là nhằm cho thấy tiền nhân chúng ta tuy dùng chữ Hán nhưng đây không phải là lệ thuộc phương Bắc, như một số người Việt Nam thường nghĩ, Bài “Hịch Tướng sĩ”, Bài “Bình Ngô Đại Cáo” viết bằng chữ Hán đó nhưng điều này không quan trọng, quan trọng là những gì bên trongngoài những chữ viết đó!

 

(2). Một chữ trong bài Hát nói của Cao Bá Quát.

Sau hết, tôi xin hiệu đính một lầm lẫn nữa về 1 chữ trong bài Hát nói của Cao Bá Quát có tựa đề “Uống rượu tiêu sầu”.

Bài Hát nói này có 2 câu Hán văn mà các sách giáo khoa Việt văn ở miền Nam trước 1975 đều chép là:

Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu,

Trầm tư bách kế bất như nhàn.

 

~ Trầm . Chữ “trầm” sai hoàn toàn, là chữ tầm () mới đúng!

Chữ Tầm có nghĩa là tìm, là kiếm.

Tầm tư (尋思) có nghĩa là “suy nghĩ đi, suy nghĩ lại”, “suy nghĩ không ngừng”.

 

Đây là 2 câu đầu của bài thất tuyệt tựa là “Khiển hứng” (遣興) của Hàn Dũ (768 - 824) mà Cao Bá Quát mượn để vào bài Hát nói của mình:

Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu,

Tầm tư (尋思) bách kế bất như nhàn!

Mạc ưu thế sự kiêm thân sự,

Tu trước nhân gian tỷ mộng gian!

(Toàn Đường Thi. Qu. CCCXLIII. Hàn Dũ 8  /.

                              Dứt hết sầu đời chỉ có rượu,

                              Lo toan trăm kế chẳng như nhàn!

                              Chớ lo thế sự cùng thân sự,

                              Cõi thế coi như giấc mộng trần!

                              (Minh Di).

Cao Bá Quát tuyệt đối không thể mượn sai, mỗi người đời sau vì không biết Hán văn, và cũng không biết bài thơ trên đây của Hàn Dũ cho nên mới sửa bậy chữ tầm ra chữ trầm trong bài Hát nói “Uống rượu tiêu sầu” của Cao Bá Quát. 

Lại nữa, trong tiếng Việt người ta cũng thường nói “trầm tư mặc tưởng” do đó kẻ sửa bậy cứ nghĩ là mình sửa đúng!

Có một ông Hòa thượng dạy các tiểu ni, tôi không nhớ ở Chùa nào, gặp chữ “tầm tư” trong bản Luận (chú giải) Kinh Phật nào đó thì nói các tiểu ni sửa lại là “trầm tư”.

Cái băng giảng Pháp của ông Hòa thượng này (có vợ con, nhưng không phải Nhất Hạnh) còn ở đâu đó, trước sau tôi sẽ tìm ra. Xin ông hòa thượng biết thì thưa thốt.

 

+ Phương Tây nói đây tức chỉ Ấn Độ].

 

(2). Lý Thánh tông (1023 - 1072; tại vị: 1054 - 1072).

+ Niên hiệu Long Chương Thiên Tự (1066 – tháng 2 năm 1068).

~ Long Chương Thiên Tự….

Tam niên…. Chiêm Thành hiến bạch tượng, hậu tái nhiễu biên.

             /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. III. Lý kỷ. Thánh tông hoàng đế  /.

~ Niên hiệu Long Chương Thiên Tự….

Năm thứ 3…. Chiêm Thành dâng voi trắng, (nhưng) sau đó lại quấy nhiễu ở biên thùy.

 

+ Niên hiệu Thiên Huống Bảo Tượng (Tháng 2 năm 1068 tới tháng 6 năm 1069).

~ Thiên Huống Bảo Tượng nhị niên.

Xuân nhị nguyệt.

Đế thân chinh Chiêm Thành, hoạch kỳ chủ Chế Củ cập kỳ chúng ngũ vạn nhân.

Thu thất nguyệt.

Đế hoàn tự Chiêm Thành, hiến phù vu Thái Miếu, cải nguyên Thần Vũ nguyên niên.

Chế Củ thỉnh dĩ Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính tam Châu thục chúng.

Hứa chi, phóng Chế Củ, hoàn quốc. Địa Lý, kim Quảng Nam.

(Sđd. Qu. Thứ và Mục đã dẫn).

~ Năm thứ 2 Niên hiệu Thiên Huống Bảo Tượng.

Tháng 2, mùa Xuân.

Vua đích thân đưa quân đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ và 50,000 quân nước này.

Vua từ nước Chiêm Thành trở về, dâng tù binh ở Thái Miếu - đổi Niên hiệu là Thần Vũ năm thứ nhất.

Chế Củ xin lấy 3 Châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính chuộc những quân binh bị cầm tù.

Vua chấp thuận, thả Chế Củ về nước. Châu Địa Lý nay là đất Quảng Nam.

 

(KỲ 3)

Minh Di.

Bản dịch và chú thích của Ngô Đức Thọ - với phần hiệu đính của Hà Văn Tấn, đã dịch câu Chế Củ thỉnh dĩ Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính tam Châu thục chúng như sau:

- “Chế Củ xin dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc tội”.

 

Dịch như trên thì chưa dịch trọn ý của nguyên văn, chưa hiểu hết phần cuối câu!

Dịch như trên làm người đọc không biết Hán văn nghĩ chữ “chúng” nghĩa là “tội”.

Cuối câu, nguyên tác ghi rất rõ ràng là “thục chúng”, nghĩa là “chuộc đám đông” - và đám đông nói đây là “50,000 quân Chiêm Thành bị bắt làm tù binh”, không chỉ chuộc mỗi Chế Củ như Ngô Đức Thọ hiểu không tới nơi, làm người đọc hiểu sai lạc!

Cũng vì không hiểu rõ nghĩa chữ cho nên câu “kỳ chúng ngũ vạn nhân” của nguyên tác Ngô Đức Thọ đã dịch là “dân chúng 5 vạn người”, dịch như vậy là sai hoàn toàn!

Đám đông “50,000 người” ở đây phải hiểu là “50,000 quân”, không phải “dân chúng”!

Chữ “chúng” () ở đây có nghĩa:

1/. Nhiều, đông. 2/. Nhiều người, đám đông nói chung.

Từ nghĩa thứ 2/ này, tùy câu văn mà có lúc chữ “chúng” nghĩa là “đám đông” nói chung có lúc phải giảng là “dân chúng”, và có lúc phải hiểu là “Quân đội”.

Trường hợp chữ “CHÚNG” bộ “Đại Việt Sử Ký” nói ở đây phải hiểu là “Quân đội”.

Kinh Dịch, Thoán truyện Quẻ (Khôn / Khảm) nói:

~ , chúng dã.

~Quân đội là đám đông.

 

Điều mà ai cũng có thể biết là bắt quân binh là để triệt tiêu “lực lượng đối kháng” nhằm chấm dứt chiến tranh. Lại nữa, quân binh thì tập họp thành đội, thành ngũ… tóm lại là thành đám đông ~ và là đám đông có kỷ luật, triệt để theo lệnh của tướng chỉ huy; khi Tướng đã đầu hàng thì quân binh, theo lệnh, cũng hàng theo, do đó, trong chiến tranh việc bắt được 5, 7 chục ngàn quân là chuyện thường!

Trong khi đó DÂN thì không dễ bắt hàng loạt như vậy, chiến tranh tới là họ chạy tứ tán!

Chưa kể trong chiến tranh rất hiếm khi, nếu không muốn nói là không bao giờ, bên này bắt dân của bên kia ở một số lượng lớn như thế! Nếu có bắt dân nước địch thì rồi cũng chỉ đến mấy trăm người là nhiều!

Tôi không ngờ khả năng ngôn ngữ (Hán văn) và trình độ nhận thức của 1 người được gọi là “nhà nghiên cứu Hán Nôm” trên vùng “đỉnh cao” Ngô Đức Thọ lại có thể yếu kém thiển cận đến như thế!

(3). Lý Nhân tông (1066 - 1127; tại vị: 1072 - 1127).

+ Niên hiệu Thái Ninh (năm 1072 - tới tháng 3 năm 1076).

~ Giáp Dần tam niên….

Chiêm Thành phục nhiễu biên.

             /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. III. Lý kỷ. Nhân tông hoàng đế  /.

Năm Giáp Dần, năm thứ 3….

Chiêm Thành lại quấy nhiễu ở biên giới.

 

+ Niên hiệu Long Phù (1101 - 1109).

~ Long Phù….

Quí Vị tam niên….

Đông thập nguyệt.

Diễn Châu nhân Lý Giác mưu phản.

Sơ Lý Giác học đắc kỳ thuật, năng biến thảo mộc vi nhân, chiêu tập vô lại cứ bản châu trúc thành tác loạn.

Sự văn, mệnh Lý Thường Kiệt đẳng thảo chi. Giác bại xuất vong Chiêm Thành, dư đảng tất bình!

Chiêm Thành khấu biên….

Giáp Thân tứ niên. Xuân nhị nguyệt.

Mệnh Lý Thường Kiệt phạt Chiêm Thành.

Sơ Lý Giác vong Chiêm Thành ngôn trung quốc hư thực, Chiêm Thành chủ Chế Ma Na nhân chi nhập khấu, phục thủ Chế Củ sở hiến Địa Lý đẳng tam Châu.

Chí thị, mệnh Lý Thường Kiệt kích phá chi, Chế Ma Na phục nạp kỳ địa.

          /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. III. Lý kỷ. Nhân tông hoàng đế  /.

~ Niên hiệu Long Phù….

Năm Quí Vị (Mùi), năm thứ 3….

Tháng 10, mùa Đông.

Lý Giác, người ở Diễn Châu, mưu làm phản! Lúc đầu Lý Giác học được thuật lạ có thể biến cây cỏ thành người, tụ tập bọn vô lại chiếm cứ bản Châu, xây thành lũy gây loạn.

Việc tới tai triều đình, vua sai Lý Thường Kiệt và các tướng đi đánh dẹp. (Lý) Giác thua chạy qua Chiêm Thành, dư đảng của Lý Giác bị tiêu diệt hoàn toàn!

Chiêm Thành cướp phá ở biên giới….

Năm Giáp Thân, năm thứ 4. Tháng 2, mùa Xuân.

Sai Lý Thường Kiệt đi đánh Chiêm Thành.

Lúc Lý Giác mới trốn chạy qua Chiêm Thành thì đem tình hình trong nước nói cho vua Chiêm Thành. Vua Chiêm Thành Chế Ma Na nhân đó (đưa quân) xâm nhập, cướp phá lấy lại 3 Châu Địa Lý…. 3 Châu Chế Củ dâng trước đây.

Tới đây thì sai Lý Thường Kiệt đánh tan quân Chiêm, Chế Ma Na lại trả lại đất.

[Chú thích.

+ Diễn Châu. Ngày nay là tỉnh Hà Tĩnh.

 

+ Trung quốc (中國). Trong nước.

Trong Hán ngữ, thông thường chữ “trung” khi đi kèm với một danh từ chỉ nơi chốn thì chữ “trung” này đứng sau danh từ đó, chẳng hạn:

~ trong lòng” thì nói “tâm trung”, “trong rừng” thì nói “lâm trung”...

Thế nhưng, trong Cú pháp Trung Quốc thời tối cổ người ta rất thường nói ngược lại.

Như 2 thí dụ nêu trên người ta lại nói là “trung tâm” và “trung lâm”.

Tiếng “TRUNG” được đặt trước danh từ chỉ không gian, nơi chốn, đây là cú pháp tối cổ có từ thời Kinh Thi.

Những trưng dẫn sau đây trong “Kinh Thi”, và dài dài trong thơ văn các thời sau đó, tôi đã đưa ra trong một bài phê bình cuốn “Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam” của Lê Mạnh Thát - có tựa đề là “Xe cán kiến” - khi Lê Mạnh Thát khẳng định rằng 2 tiếng “trung tâm”, nghĩa là “ở trong” (ở bên trong) là cú pháp thuần của Việt Nam, trong khi đó thì Trung Hoa nếu nói “ở trong” thì phải nói “tâm trung”, hoặc nói khác đi, theo cái kiến thức chưa tới chốn của Lê Mạnh Thát thì một bên nói xuôi (Việt) và một bên nói ngược (Hoa).

Điều khẳng định trên đây của Lê Mạnh Thát được một tờ báo “bên kia bờ” tâng bốc, bổng lên hư không, không phải tới mà là quá trời, là một “phát hiện lịch sử chấn động”.

Dẫn lại những gì đã viết về vấn đề này trong bài phê bình Lê Mạnh Thát nói trên ở đây là nhằm tiêu trừ một sự sai lầm độc hại. Có hơi dài giòng, lập lại, nhưng cần thiết!

Vào đầu thập niên 70 ở Miền Nam, Lê Mạnh ThátPhạm Công Thiện được Phật Giáo o bế, ca tụng rất ồn ào, coi như là những “đại thiện tri thức” của Phật Giáo Việt Nam!

Bây giờ, đã hơn 40 năm qua, thử hỏi Lê Mạnh Thát và Phạm Công Thiện (đã chết) đã làm được gì cho Phật Giáo Việt Nam, cho Đạo Pháp? hay chỉ là ngồi đó ba hoa, khoác lác!

“Kinh Hoa Nghiêm” có câu “tử thử sinh bỉ tâm vô si loạn” (Thập Hạnh phẩm. XXI), nghĩa là “chết đây sanh kia tâm không si loạn”.

Phạm Công Thiện không rõ rồi “sanh kia” chốn nào? tâm có tiếp tục “si loạn” chăng?

 

Duyệt qua Thi Kinh (詩經).

PHONG ().

+ Chu Nam (周南).

~ Cát đàm (葛覃).

Cát chi đàm hề! (Dây leo bò lan)!

Dị vu trung cốc. (Bò lan trong hang). [1].

Duy diệp thê thê (萋萋)!

...........…

Cát chi đàm hề! (Dây leo bò lan)!

Dị vu trung cốc. (Bò lan trong hang). [2].

Duy diệp mạc mạc (莫莫)!

Chú thích tiếng “trung cốc”, Chu Hi (1130 - 1200) viết trong “Thi Tập Truyện”:

~ Trung cốc, cốc trung dã. (Trung cốc, là ở trong động).

 

~ Thố ta (兔罝).

Túc túc thố ta, (Bẫy thỏ ngay ngắn),

Thi vu trung quì. (Đặt giữa đường lớn). [3].

...........…

Túc túc thố ta, (Bẫy thỏ ngay ngắn),

Thi vu trung lâm. (Đặt ở trong rừng). [4].

Chú thích tiếng “trung lâm”, Chu Hi viết:

~ Trung lâm, lâm trung. (Trung lâm, là ở trong rừng).

 

+ Bội Phong (邶風) [Phong dao nước Bội].

~ Chung phong (終風).

Hước lãng tiếu ngạo, (Thoải mái cười vui),

Trung tâm thị đáo! (Trong lòng bi thương! [5].

 

~ Cốc phong (谷風).

Hành đạo trì trì, (Chầm chậm trên đường),

Trung tâm hữu vi! (Trong lòng ngập ngừng!). [6].

 

~ Thức vi (式微).

Thức vi, thức vi! (Trời chiều, chiều rồi!).

Hồ bất qui? (Sao chẳng về)?

Vị quân chi cố, (Chẳng phải vì ông),

Hồ vi hồ trung lộ? (Sao ta dãi dầu trong sương)? [7].

Chú thích tiếng “trung lộ”, Chu Hi viết:

~ Trung lộ, lộ trung dã”. (Trung lộ, là trong sương).

 

~ Nhị tử thừa chu (二子乘舟).

Nhị tử thừa chu, (Hai người dạo thuyền),

Phiếm phiếm kỳ ảnh. (Bềnh bồng đây đó).

Nguyện ngôn tư tử, (Lòng nói nhớ bạn),

Trung tâm dưỡng dưỡng! (Trong lòng ưu phiền!). [8].

 

+ Dung Phong (鄘風) [Phong dao nước Dung].

~ Bách chu (柏舟).

Phiếm bỉ bách chu, (Dạo thuyền gỗ bách kia),

Tại bỉ trung hà. (Ở trong sông kia). [9].

Chú thích tiếng “trung hà”, Chu Hi viết:

~ Trung hà, trung ư hà dã. (Trung hà, là ở giữa sông).

 

+ Vương Phong (王風) [Phong dao nước Vương].

~ Thử li (黍離).

Hành liệt mị mị, (Chân bước trầm trệ),

Trung tâm dao dao. (Trong lòng chao đảo). [10].

……

Hành liệt mị mị, (Chân bước trầm trệ),

Trung tâm như túy. (Trong lòng như say). [11].

……

Hành liệt mị mị, (Chân bước trầm trệ),

Trung tâm như yết. (Trong lòng nghẹn ngào). [12].

 

~ Trung cốc hữu thôi (中谷有蓷).

Trung cốc hữu Thôi, (Cỏ Thôi trong hang), [13]

Kỳ kiên hĩ! (Cỏ thôi héo)!

...........…

Trung cốc hữu Thôi, (Cỏ Thôi trong hang), [14].

Hán kỳ túc hĩ! (Thân dài khô héo)!

...........…

Trung cốc hữu Thôi, (Cỏ Thôi trong hang), [15].

Hán kỳ thấp hĩ! (Dầu ẩm cũng héo)!

 

+ Đường Phong (唐風) [Phong dao nước Đường].

~ Dĩ đế chi đỗ (有杕之杜).

Bỉ quân tử hề, (Người quân tử kia),

Thế khẳng thích ngã. (Chịu đến với ta).

Trung tâm hiếu chi, (Trong lòng ta thích), [16].

Hạt ấm tự chi. (Sao chẳng đãi đằng).

………

Bỉ quân tử hề, (Người quân tử kia),

Thế khẳng lai du. (Chịu đến chơi ta).

Trung tâm hiếu chi, (Trong lòng ta thích), [17].

Hạt ấm tự chi. (Sao chẳng đãi đằng).

 

(KỲ 4)

(Minh Di:

Trần Đệ (1541 - 1617), Âm vận học gia trứ danh cuối Minh triều, chú thích âm đọc chữ “” trong tựa bài thơ “有杕之杜” nói trên như sau:

~ . Âm (). Phàm Thi giai thử thanh.

/  Mao Thi Cổ Âm Khảo. Qu. I.   /.

~ (hữu). (Đọc) âm . Tất cả (chữ ) trong Kinh Thi đều đọc âm này.

Trước Trần Đệ, học giả đọc cổ thư như Kinh Thi khi gặp những chữ âm vận không được hài hòa thì sửa sao cho vận hợp, thuyết gọi là “Hiệp vận” thành từ những sửa đổi đó.

Từ các thời Đường (618 - 907), Tống (960 - 1279) thuyết “hiệp vận” lan tràn. Cầu hợp vận cho nên học giả sửa cổ thư tới độ làm cho Kinh điển các thời tiên Tần (221 - 206 tr. Cn,) và 2 triều Hán (206 tr. Cn - 220 Cn) hồ như không thể đọc được.

Các học giả như Ngô Vực (? - ?) thời Nam Tống (1127 - 1279), Dương Thận (1488 - 1559) triều Minh (1368 - 1644) từng tỏ ý hoài nghi thuyết “hiệp vận”, nhưng không dám mạnh mẽ phủ nhận.

Trong tác phẩm “Mao Thi Cổ Âm Khảo” Trần Đệ tham khảo rất nhiều sách vở chứng minh việc dụng vận trong Kinh Thi và phần lớn tác phẩm tương đối đồng thời như Tả TruyệnQuốc Ngữ, Dịch Kinh, Li Tao, Sở Từ, Tần bi (Bia thời Tần), Hán phú (phú thời Hán), cho tới Ca dao thời thượng cổ…. tương hợp trên căn bản. Từ đây Trần Đệ suy đoán vận dùng trong Kinh Thi phản ảnh thực tế ngữ ngôn đương thời.

Chính Trần Đệngười khai sáng lãnh vực nghiên cứu âm vận cổ, có ảnh hưởng rất lớn đối với học giả nghiên cứu âm vận học đời Thanh (1644 - 1911) tiếp sau đó.

Khang Thụy Tông, người điểm hiệu “Mao Thi Cổ Âm Khảo”, trong phần “Tiền ngôn”, ghi là Trần Đệ sinh năm 1540 nhưng không cho biết ông qua đời năm nào?

Trong cuốn “Ngôn Ngữ học Từ điển” của nhóm Trần Tân Hùng cho biết rõ hơn là Trần Đệ sinh năm 1541, mất năm 1617 - [1541 - 1617]).

 

+ Trần Phong (陳風) [Phong dao nước Trần].

~ Trạch ba (澤陂).

Ngụ mị vô vi, (Thức, ngủ chẳng xong),

Trung tâm uyên uyên. (Trong lòng ưu phiền). [18].

 

+ Khoái Phong (檜風) [Phong dao nước Khoái].

~ Cao cừu (羔裘).

Khởi bất nhĩ tư? (Có đâu quên bạn?).

Trung tâm thị đáo! (Trong lòng bi thương!). [19].

 

~ Phỉ Phong (匪風).

Nguyện chiêm Chu đạo, (Ước thấy Chu triều),

Trung tâm thiết hề! (Trong lòng bi thương!). [20].

………..

Nguyện chiêm Chu đạo, (Ước thấy Chu triều),

Trung tâm điếu hề! (Trong lòng sầu bi!). [21].

 

TIỂU NHÃ (小雅).

~ Đồng cung (彤弓).

Đồng cung chiêu hề, (Cung đỏ chưa giương),

Thụ ngôn tàng chi, (Nhận lời cất giữ).

Ngã hữu gia tân, (Ta có khách quí),

Trung tâm hoang chi. (Trong lòng muốn cho). [22].

…………

Ngã hữu gia tân, (Ta có khách quí),

Trung tâm hí chi! (Trong lòng hớn hở!). [23].

…………

Ngã hữu gia tân, (Ta có khách quí),

Trung tâm hiếu chi! (Trong lòng yêu thích!). [24].

 ~ Tinh tinh giả nga (菁菁者莪).

Tinh tinh giả nga, (Cỏ nga xanh xanh),

Tại bỉ trung a []. (Trong gò lớn kia). [25].

Ký kiến quân tử, (Đã gặp quân tử),

Lạc thả hữu nghi []! (Vui lại xứng đôi)!

Tinh tinh giả Nga, (Cỏ Nga xanh xanh),

Tại bỉ trung chỉ []. (trong cù lao nhỏ). [26].

Ký kiến quân tử, (Đã gặp quân tử),

Ngã tâm tắc hỉ! (Lòng ta hớn hở)!

Tinh tinh giả nga, (Cỏ nga xanh xanh),

Tại bỉ trung lăng []. (Trong cái gò kia). [27].

Ký kiến quân tử, (Đã gặp quân tử),

Tích ngã bách bằng! (Như được trăm bạn)!

 ~ Thân Nam sơn (信南山).

Trung điền hữu lư, (Trong ruộng có nhà), [28].

Cương dịch hữu qua. (Bờ ruộng có dưa).

 Sau Kinh Thi, trong Sở Từ (楚辭) cũng thấy mẫu cú pháp “trung tâm”…. trên đây.

Trong thiên “Ly Tao” (離騷) Khuất Nguyên (343 - 299 tr. Cn) có câu:

Triêu kiển bi chi mộc lan hề,

Tịch lãm trung châu túc mộ (宿莽).[29].

                                  Sáng nhổ mộc lan trên gò kia,

                               Chiều hái cỏ bất tử trong cồn.

(Minh Di:

Trong tập “Sở Từ Bổ Chú”, Hồng Hưng Tổ [1090 - 1155] thời Nam Tống (1127 - 1279) chú âm đọc chữ “” như sau:

~ , mạc bổ thiết.

~ , thiết âm là mạc + bổ.

 Chữ “” bình thường đọc âm “mãng”, nghĩa là “cỏ” nói chung, là “cây cỏ mọc rậm rạp”).

 Vương Dật (? - ?), Văn học gia thời Đông Hán (25 - 220), chú thích tiếng “túc mộ” viết:

~ Thảo Đông sinh bất tử giả, Sở nhân danh viết túc mộ.

~ Loài cỏ vào mùa Đông mà vẫn không chết, người nước Sở gọi là túc mộ.

 Cũng Khuất Nguyên trong thiên “Viễn du”:

Nhất khí khổng thần hề,

Ư trung dạ tồn hư dĩ đãi chi hề! [30].

                   Một khí rất thần kìa,

                Trong đêm tâm không để tiếp nhận kìa!

 Cũng Khuất Nguyên trong thiên “Bi hồi phong”:

~ Sầu uất uất chi vô khoái hề!

Sở Từ. Cửu Chương. Bi hồi phong  /.

~ Sầu chất ngất chẳng vui sướng kìa!

 Chú giải câu trên, Vương Dật viết:

~ Trung tâm phiền oan, thường hoài phẫn dã! [31].

~ Trong lòng phiền muộn vì nỗi oan nên thường phẫn hận!,

Lưu Hướng (77 - 06 tr. Cn) có câu:

Đăng sơn trường vọng,

Trung tâm bi thương! [32].

                 /  Sở Từ. Cửu thán. Ưu khổ  /.

Lên non nhìn hút,

Trong lòng bi thương!

 Chú thích 2 câu trên, Vương Dật viết:

~ Ngôn kỷ đăng ư cao sơn, trường vọng Sở quốc tắc tâm trung bi thương nhi bất độc dã!

~ Nói mình lên núi cao nhìn về nước Sở xa xa, trong lòng đau buồn nhưng không oán hận!

 Mục Thiên Tử Truyện (穆天子傳).

Xuy sinh cổ hoàng,

Trung tâm tường tường! [33].

/ Mục Thiên Tử Truyện. Qu. III  /.

                                       Thổi sênh chơi sáo,

                                       Trong lòng lâng lâng!

 Minh Di:

+ Trung tâm tường tường.

Đỗ Văn Lan (1815 - 1881) trong Tập “Cổ Dao Ngạn” sưu tập Phong dao, Ngạn ngữ cổ của Trung Quốc cũng đã trưng dẫn 2 câu thơ trên từ cuốn “Mục Thiên Tử Truyện”, chỉ khác là 2 tiếng “tường tường” ông lại ghi là “ngao ngao”: “trung tâm ngao ngao”.

(Tham khảo:

Cổ dao Ngạn. Qu. XV).

 2 tiếng “ngao ngao”, “tường tường” diễn tả tư thế của chim lúc bay.

Chim bay 2 cánh đập lên, đập xuống, gọi là “ngao”, còn 2 cánh xòe ngang bất động gọi là “tường”.

 Vương Kiến (? - ?) đời Đường trong bài thất tuyệt “Thập ngũ dạ vọng nguyệt”:

Trung đình địa bạch thụ thê nha,

Lãnh lộ vô thanh thấp quế hoa.

Kim dạ nguyệt minh nhân tận vọng,

Bất tri thu tứ tại thùy gia?

Đường Âm Thống Thiêm. Qu. CCCLI. Đinh Thiêm 76. Vương Kiến 8  /.

                                                Trong sân đất trắng quạ trên cây,

                                                Hoa quế ướt thầm sương lạnh bay

                                                Trăng sáng đêm nay ai cũng thấy,

                                                Chẳng hay thu hứng tại nhà ai?

(Phụ chú.

+ Bất tri thu tứ tại thùy gia?

Chữ “tại” có bản chép là “lạc”, nghĩa là “rơi, rớt, rụng”). 

 Cũng Vương Kiến, trong bài Từ “Đảo y khúc” - còn gọi “Tống y khúc”, 2 câu đầu:

Nguyệt minh trung đình đảo y thạch,

Yểm vi (掩帷) hạ đường lai đảo bạch (搗帛).

Toàn Đường Thi. Qu. CCXCVIII  /.

                               Trong sân đảo y phiến trăng tỏ,

                               Xả mành xuống nhà ra giặt dũ.

 [Chú thích.

+ Đảo y thạch.

Thời cổ ở Trung Quốc giặt quần áo gọi là “đảo y” (trở quần áo), trên 1 tảng đá, tảng đá này được gọi là trâm (); trong khi giặt thì dùng chày đập, đập… trên quần áo cho sạch, đập bề này xong thì trở qua bề kia đập.

Bộ “Từ Vị” giảng chữ “đảo y” ( () ) như sau:

~ [Đảo y]. Tẩy y thời dụng chử kích chi nhi sử khiết tĩnh.

~ [Đảo y]. Lúc giặt (quần) áo dùng chày đập (đập) quần áo để làm cho sạch sẽ.

 2 câu cuối bài “Thu hứng” thứ nhất của Đỗ Phủ:

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ trâm.

Câu “cấp mộ trâm” nghĩa là “tiếng chày buổi chiều vội vã đập trên phiến đá giặt quần áo”.

Mùa Thu trời mau tối, chiều [mộ] vừa xuống người giặt quần áo vội [cấp] giặt cho xong để mà về, Đỗ Phủ nói “cấp mộ trâm” là vậy.

 Về “đảo y” văn học gia Dương Thận viết:

~ “Tự Lâm” vân:

~ Trực thung (直舂) viết “đảo”. Cổ nhân đảo y, lưỡng nữ tử đối lập chấp nhất chử () như thung mễ (舂米) nhiên. 

Kim dịch () tác ngọa chử, đối tọa đảo chi, thủ kỳ tiện dã.

Thường kiến Lục Triều nhân họa “Đảo y đồ”, kỳ chế như thử.

                                                 /  Thăng Am Thi Thoại. Qu. XII. Đảo y  /.

~ Sách “Tự Lâm” nói:

~ Giã gạo ở tư thế đứng gọi là “đảo”. Cổ nhân giặt quần áo 2 người phụ nữ đứng đối diện cầm một cái chày như (đứng) giã gạo.

Ngày nay thì đổi tư thế, để chày nằm, ngồi dối diện mà dập chày, (đây là) để cho tiện.

(Tôi) từng thấy bức tranh “Đảo y” của người thời Lục Triều, cách thức là vậy. 

 Trong bài “Dạ” () Đỗ Phủ có 2 câu:

                 Sơ đăng (疏燈) tự chiếu cô phàm túc (宿),

                 Tân nguyệt do huyền () song chử minh ().

                 (Đỗ Thi Kính Thuyên. Qu. XIII).

                                                     Đèn xa tự chiếu một thuyền đậu,  

                                                     Trăng mới còn treo chày cặp vang.

 

Dương Luân dẫn cuốn “Đơn Diên Lục” (丹鉛錄) của Dương Thận nói:

~ Cổ nhân đảo y, lưỡng nữ tử đối lập chấp chử (執杵) như thung mễ (舂米) nhiên.

Thường kiến Lục triều nhân họa “Đảo y đồ”, kỳ chế như thử.

~ Cổ nhân giặt quần áo (thì) 2 người phụ nữ đứng đối diện cầm chày như (đứng) giã gạo. (Tôi) từng thấy bức tranh “Đảo y” của người thời Lục triều, cách thức là vậy.

 Ở đây Dương Luân chỉ lược ý, không trích dẫn đúng từng chữ một như Dương Thận chép trong “Thăng Am Thi Thoại”].

 Dẫn thêm một số thí dụ trong Văn xuôi.

+ Trung triều.

Sử gia Tư Mã Thiên (145 - 86 tr. Cn) viết:

~ Kim đại vương trung triều nhi ưu, thần cảm thỉnh kỳ tội. [1].

                                                    /  Sử Ký. Qu. LXXXIX. Phạm Tuy truyện  /.

~ Bây giờ đại vương ở trong triều mà lo lắng, thần xin chịu cái tội này.

 

Âu Dương Tu (1007 - 1072) chép trong “Tân Đường Thư”:

~ Đức Dụ vi Tướng, dữ Tông Mẫn cộng đương quốc. Đức Dụ nhập tạ.

Văn tông viết: - Nhĩ tri triều đình hữu bằng đảng hồ?.

Đức Dụ viết: - Kim trung triều bán vi đảng nhân. [2].

                                /  Tân Đường Thư. Qu. CLXXIV. Lý Tông Mẫn truyện  /.

~ (Lý) Đức Dụ làm quan đầu triều, cùng với (Lý) Tông Mẫn chung lo việc Quốc gia. Đức Dụ vào tạ ơn.

(Đường) Văn tông nói: - Ông có biết triều đình có nạn bè đảng không?

Đức Dụ thưa: - Hiện nay trong triều phân nửa là người bè đảng!

 (KỲ 5)

Trong Từ điển.

Từ điển Từ Nguyên giảng tiếng “trung triều” như sau:

~ [Trung triều]. 1. Triều trung.

~ [Trung triều]. 1. Trong triều.[3].

 Từ điển Từ Hải giảng tiếng “trung triều”:

~ [Trung triều]. 4. Vị triều nội dã.

~ [Trung triều]. 4. Ý nói ở trong triều).[4].

 Sau cùng.

Thư tịch Hán văn cổ Việt Nam cũng dùng cú pháp cổ dẫn trên.

Ngoài “Đại Việt Sử Ký” ở đây, trong bài “Hịch Tướng Sĩ” Trần Hưng Đạo cũng viết:

~ Nhữ đẳng tọa thị (坐視) chủ nhục tằng () bất vi ưu, thân đương () Quốc sỉ (國恥) tằng bất vi quí (), vi trung quốc chi tướng thị lập (侍立) di tù (夷酋) nhi vô phẫn (忿) tâm, thính Thái Thường (太常) chi nhạc, yến hưởng (宴饗) ngụy sứ nhi vô nộ sắc! [1].

~ Các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà chẳng lo rầu, thân gặp nhục Nước mà chẳng hề thẹn, là tướng trong nước đứng hầu giặc mọi mà không căm giận, nghe nhạc Thái Thường, đãi tiệc ngụy sứ mà không sắc giận!

 Trong bài hát nói “Mẹ Mốc” Nguyễn Khuyến (1835 - 1910) có 2 câu Hán văn:

Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc,

Trung tâm thường thủ tự kiêm kim. [2].

~ Ngoài mặt chẳng cầu như ngọc đẹp,

Trong lòng thường giữ tựa vàng quí.

 Trước đây, trước 1975, các sách giáo khoa Văn chương Việt Nam bậc Trung học đều sửa 2 chữ “trung tâm” thành tâm trung.

Đây là một cặp đối, cho nên sửa như trên đây thì “đối không chỉnh” - rằng câu trên đã là “Ngoại mạo” thì câu dưới phải là “Trung tâm” , tức “trung” (trong) đối “ngoại” (ngoài).

từ trước tới giờ phần lớn đều nghĩ rằng nói “trong lòng” thì phải nói là “tâm trung” - mà không hiểu ở đây Nguyễn Khuyến dùng cú pháp cổ trong Kinh Thi.

Trước đây, ông Hư Chu hiệu đính tập “Văn Đàn Bảo Giám” của Việt Nam cũng đã sai lầm khi ghi là tâm trung].

 (5). Lý Anh tông (1136 - 1175; tại vị: 1138 - 1175).

 + Niên hiệu Chính Long Bảo Ứng (1163 - 1174).

~ Giáp Thân nhị niên Xuân.

Tam nguyệt.

Chiêm Thành lai cống.

Thu thất nguyệt.

…………

Tống phong đế vi An Nam Quốc vương, cải Giao Chỉ vi An Nam Quốc.

 ~ Bính Tuất tứ niên Xuân.

Tam nguyệt.

Chiêm Thành sứ hành chí Ô Lý, dĩ phong thủy quân [風水軍] (tăng ma) giá hải lược ngã tần hải (瀕海) tiểu dân nhi hoàn.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. IV. Lý kỷ. Anh tông hoàng đế  /.

~ Năm Giáp Thân, năm thứ 2, mùa Xuân.

Tháng 3.

Chiêm Thành tới triều cống.

Tháng 7, mùa Thu.

…………

Tống (triều) phong cho vua là Quốc vương An Nam, đổi tên (Nước) Giao Chỉ thành Nước An Nam.

 ~ Năm Bính Tuất, năm thứ 4.

Tháng 3.

Sứ giả Chiêm Thành đi tới đất Ô Lý dùng quân phong thủy (thầy tu ma) vượt biển cướp dân chúng ở ven biển của ta.

(Phụ chú.

+ Quân phong thủy tức như chúng ta vẫn nói là “âm binh”).

 (4). Lý Cao tông (1173 - 1210; tại vị: 1176 - 1210).

+ Niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu (1202 - 1205).

~ Quí Hợi. Thiên Gia Bảo Hựu nhị niên….

Thu, thất nguyệt.

Điện tiền Chỉ huy sứ, Tri châu Nghệ An châu Đỗ Thanh, Châu mục Phạm Diên tấu viết:

- Chiêm Thành quốc chủ Bố Trì [布池] vị kỳ thúc Văn Bố Điền sở trục kim tái [] thê tử ngụ () Cơ La (機羅) hải khẩu, ý dục cầu cứu.

Bát nguyệt.

Đế mệnh Đàm Dĩ Mông, Đỗ An vãng kế kỳ sự. Tương chí Cơ La, Đỗ An viết:

- Bỉ dĩ binh lai, lỗ tình nan tín! Ngạn () vân: “Nghị khổng hội đê, thốn yên liệu ốc!”, kim Bố Trì khởi đặc “nghị khổng, thốn yên” nhi dĩ?

Dĩ Mông ngữ Thanh, Diên, sử vi chi bị.

Thanh đẳng viết: - Bỉ dĩ nạn lai cầu cứu, hà tất nghi!

Dĩ Mông nộ, biệt quân hoàn.

Thanh, Diên cộng mưu tập Bố Trì, vi tự toàn kế.

Mưu tiết phản vị sở… Nghệ An đại hội [大潰], tử giả vô toán! Trì đại lược [大掠] nhi qui.

                   /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. IV. Lý kỷ. Cao tông hoàng đế  /.

~ Năm Quí Hợi, năm thứ 2 Niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu….

Tháng 7, mùa Thu.

Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, (và) Tri châu Nghệ An, Châu mục Phạm Diên tâu rằng:

- Vua Chiêm Thành là Bố Trì bị chú mình là Văn Bố Điền đuổi đi, hiện nay đưa vợ con tới cư ngụ ở cửa biển Cơ La, những muốn cầu cứu (ta).

Tháng 8.

Vua sai Đàm Dĩ Mông, Đỗ An tới để lo toan việc này. Sắp tới Cơ La thì Đỗ An nói:

- Kẻ kia đưa quân đến, lòng giặc khó mà tin! Ngạn ngữ nói “Lỗ kiến lở đê, khói mỏng cháy nhà!”, bây giờ Bố Trì phải chăng là rồi là “lỗ kiến nhỏ, làn khói mỏng”?

(Đàm) Dĩ Mông đem lời này nói với (Đỗ) Thanh, (Phạm) Diên cần đề phòng.

Đỗ Thanh, Phạm Diên nói: - Kẻ kia gặp nạn tới cầu cứu, việc gì phải nghi ngờ!

(Đàm) Dĩ Mông nổi giận, dẫn quân trở về.

(Đỗ) Thanh, (Phạm) Diên bàn tính với nhau và cho rằng việc tập kích Bố Trì là kế sách hoàn hảo.

Mưu tính bị tiết lộ, (để rồi) trái lại bị…. Quân binh Nghệ An tan rã nặng, chết không biết bao nhiêu mà kể! Bố Trì cướp bóc thỏa thuê rồi rút về.

Minh Di.

Câu “Mưu tiết, phản vị sở…..”, sau 3 chữ “phản vị sở ….. (“trái lại bị…..) có 2 chữ trong   bản Hán văn rất nhòe, vì chụp lại không rõ, tự dạng nhận không ra!

Chữ trước thì không sao đoán được là chữ gì, chữ sau thì đoán ra được chữ “Nghệ” - nhờ tiếp ở dưới là chữ “An”.

Do đó, chữ không nhìn ra, không đoán ra được, tôi đánh các dấu chấm… chấm….

Trong khi đó, Ngô Đức Thọ lại đoán ẩu chữ này là chữ “SÁT” (= giết); nói là “đoán ẩuvì lẽ có thể khẳng định là không ai có thể nhận dạng được các nét chữ để có thể biết chữ này là chữ gì?

Đỗ Thanh và Phạm Diên có thể bị quân Chiêm “giết”, mà cũng có thể là “bị bắt”, không thể khẳng định là trường hợp nào? Đã không thể khẳng định thì không thể đoán ẩu như vậy!

Trường hợp nếu Ngô Đức Thọ có được một bộ Sử nào đó chép cùng sự việc, và ghi rõ là Đỗ Thanh, Phạm Diên bị giết, hay bị bắt,… Ngô Đức Thọ phải nêu rõ ra!

Làm việc đàng hoàng, và tự trọng thì phải như vậy!

Lối làm việc ở đây của Ngô Đức Thọ [dịch] và Hà Văn Tấn [hiệu đính] rất tùy tiện, làm việc như các ông mà được gọi là “nhà nghiên cứu” sao? Các ông rồi bôi bác chữ nghĩa quá!

Trong Sử học thì đây là việc không thể chấp nhận được!

[Chú thích.

+ Nghị khổng hội đê, thốn yên liệu ốc! (Lỗ kiến lở đê, khói mỏng cháy nhà).

Câu này nghĩa là:

Một cái lỗ nhỏ như lỗ ổ kiến trên đê nếu không trám ngay lại, lâu dần, nước xoáy rộng ra đê rồi sẽ lở.

Một đốm lửa nhỏ với làn khói mỏng trong nhà nếu không dập tắt liền, từ từ, lửa sẽ ngún nhà rồi sẽ cháy.

Câu này xuất từ sách “Hàn Phi Tử” thời Chiến Quốc (403 -221 tr. Cn):

~ Thiên trượng chi đê dĩ lâu nghị chi huyệt hội; bách xích chi thất dĩ đột khích chi yên phần.

Hàn Phi Tử. Qu. VII. Dụ Lão đệ nhị thập nhị  /.

~ Đê cao ngàn trượng rồi lở vì cái ổ kiến, nhà cao trăm thước rồi cháy vì làn khói mỏng như cái kẽ nứt.

 Sau Hàn Phi Tử, Lưu An (179 - 122 tr. Cn) trong cuốn “Hoài Nam Tử” cũng ghi lại câu trên nhưng với vài chi tiết hơi khác:

~ Thiên lý chi đê dĩ lâu nghị chi huyệt lậu, bách tầm chi ốc dĩ đột khích chi yên phần.

                                               /  Hoài Nam Tử. Qu. XVIII. Nhân gian huấn  /.

~ Đê dài ngàn dặm bị nước thấm vì cái ổ kiến, nhà cao trăm tầm cháy vì làn khói mỏng của bếp lò.

Tầm là đơn vị độ dài thời Tam Đại (Hạ, Thương, Chu).

Thời cổ, 4 xích () = 1 Nhận ().

1 Tầm () = 2 Nhận.

- Xích đời Hạ = 24.88 cm.

1 Tầm = (24.88 cm x 4) x 2 = 199.04 cm, tức 1.9904 m.

- Xích đời Thương = 31.10 cm.

1 Tầm = (31.10 cm x 4) x 2 = 248.80 cm., tức 2.488 m.

- Xích đời Chu = 19.91 cm.

1 Tầm = (19.91 x 4) x 2 = 159.28 cm, tức 1.5928 m.

Nói chung, thời cổ đại khái người Hoa ước định Tầm là chiều dài của 2 cánh tay dang rộng ra 2 bên thành một đường 180o, như cuốn “Trung Quốc Độ. Lượng. Hành Sử” viết:

~ Tầm, thư [] lưỡng quăng [] dã.

~ Tầm, là (độ dài) của 2 cánh tay dang (thẳng) ra (2 bên). 

(Tham khảo:

Trung Quốc Độ. Lượng. Hành Sử (中國度量衡史). Thượng Biên.

Đệ nhị Chương. Trung Quốc Độ. Lượng. Hành chế độ chi tiêu chuẩn.

Đệ Thất Tiết. Độ. Lượng. Hành ngụ pháp (寓法) ư tự nhiên vật chi nhất ban (一般).  

Tuy nhiên, “thiên lý”, “bách tầm” ở đây chỉ có ý chỉ là “Đê rất dài”, “Nhà rất cao”.

 Tác giả cuốn “Trung Quốc Độ Lượng Hành Sử” là Ngô Thừa Lạc (1872 - 1955).

Ông tốt nghiệp “Thanh Hoa Học hiệu” [tức Đại học Thanh Hoa] năm 1916.

Năm sau, năm 1917, ông qua Mỹ du học, học ở Đại học Columbia. - Năm 1920, lấy được bằng thạc sĩ và về nước. Sau đó ông lần lượt giữ chân giáo sư [Giáo thụ / Professor] ở các Đại học Sư Phạm, Đại học Kỹ nghệ…. tại Bắc Kinh, kiêm Trưởng khoa bộ môn Hóa học.

Năm 1937, nhà xuất bản “Thương Vụ Ấn Thư Quán” xuất bản cuốn Biên khảo kể trên của ông về Hệ thống Cân (Hành), Đong (Lượng), Đo (Độ) của Trung Quốc khởi từ thượng cổ cho tới Thanh triều (1644 - 1911).

Ngô Thừa Lạc từng là Trưởng Cục của “Độ Lượng Hành Cục” ¾ thuộc Bộ Thực Nghiệp (tức Bộ Kỹ Nghệ / Thương Mại) của Chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Quốc.

Năm 1984, tháng 5, nhà xuất bản Thượng Hải Thư Điếm đã in lại tác phẩm kể trên.

Đây là cuốn sách tiêu chuẩn về Hệ thống Cân, Đong, Đo thời cổ của Trung Quốc.  

 + Nghệ An đại hội.

Ngô Đức Thọ dịch là:Quân Nghệ An tan vỡ”.

Câu “đại hội” có nghĩa là “tan rã trầm trọng”; chỉ dịch “tan rã” không thôi thì chưa diễn hết ý Sử thư muốn nói.

Chữ “đại” nghĩa là “lớn, nhiều, nặng….”, chữ “hội” nghĩa là “phân tán, li tán, rối loạn….”

Tan rã thì có nhiều mức độ, và mức độ ở đây được xác định là trầm trọng!].

 + Niên hiệu Trị Bình Long Ứng (1205 -1210).

~ Mậu Thìn tứ niên.

Xuân chinh nguyệt….

Dĩ Phạm Du tri () Nghệ An quân sự, Du toại phản, chiêu nạp vong mệnh (亡命) đạo tặc - hiệu “Hậu nhân” (候人), phân hành kiếp lược.

Quốc Uy châu nhân dịch suất đồ lữ đồn vu Tây Kết, đạo lộ vi chi bất thông.

Đế mệnh Thượng phẩm Phụng ngự Phạm Bỉnh Di tương Đằng Châu binh thảo chi.

Kỷ Tỵ ngũ niên.

Xuân chinh nguyệt.

Phạm Bỉnh Di suất Đằng Châu, Khoái Châu nhân công Du, bại chi. Du bôn Hồng Châu.

Bỉnh Di tịch kỳ gia, phần chi. Du oán dũ thâm. Đế mệnh Phụng ngự trưng Du hồi Kinh.

Thu thất nguyệt.

Bỉnh Di hồi Kinh Sư, tương nhập tấu, hữu chỉ chi viết:

- Du ngôn tiên nhập, oán do vị giải!

Bỉnh Di viết:

- Ngô sự thượng tận trung nhi vị gian tặc sở siểm () gia? Huống hữu quân mệnh, ngô kỳ yên tỵ?

Toại nhập. Đế mệnh chấp chi cập kỳ tử Phụ, tù vu Thủy Viện.

Tương hình, kỳ tướng Quách Bốc đẳng văn chi, tương binh cổ táo nhi nhập. Chí đại Thành môn ngoại vị môn giả sở cự, trảm quan nhi nhập.

Đế văn sự cấp, sử triệu Bỉnh Di cập Phụ nhập Kim Tinh giai lương thạch xứ thích sát chi.

                  /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. III. Lý kỷ. Cao tông hoàng đế  /.

~ Năm Mậu Thìn, năm thứ 4.

Tháng Giêng, mùa Xuân….

Giao Phạm Du chỉ huy quân đội ở Nghệ An, (dựa vào thế này) Du làm phản, chiêu nạp bọn trộm cướp trốn tránh pháp luật - xưng là “Hậu nhân”, phân ra đi các nơi cướp bóc.

Người ở Châu Quốc Uy (Oai) cũng đem quân trú đóng ở Tây Kết, đường xá vì vậy mà bị cắt đứt, không qua lại được.

Vua sai chức Thượng phẩm Phụng ngự Phạm Bỉnh Di mang quân binh đất Đằng Châu đi đánh dẹp.

Năm Kỷ Tỵ, năm thứ 5.

Tháng Giêng, mùa Xuân.

Phạm Bỉnh Di dẫn người Đằng Châu, Khoái Châu đánh (Phạm) Du, đánh bại được Du. Du trốn tới Hồng Châu. Bỉnh Di tịch thu gia sản của Du, đốt nhà Du đi. Oán hận của Du do đó càng sâu hơn. Vua sai chức Phụng ngự triệu (Phạm) Du về Kinh.

Tháng 7, mùa Thu.

Bỉnh Di về tới Kinh đô, sắp sửa vào triều tâu thì có người can ngăn:

- Lời nói của Du đã lọt vào tai vua trước rồi, oán thù còn chưa giải được!

Bỉnh Di nói:

- Tôi phục vụ vua hết lòng trung thành mà bị gian tặc dèm pha được sao? huống chi là có lệnh vua, tôi làm sao tránh né được?

Bỉnh Di liền vào cung. Vua sai bắt Bỉnh Di và con (tên) là Phụ, nhốt ở Thủy Viện.

Lúc sắp hành hình (cha con Phạm Bỉnh Di), bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc và các tướng khác được tin, dẫn quân reo hò tiến vào Thành. Tới mé ngoài cổng Thành thì kẻ gác cổng kháng cự, bọn Quách Bốc chém quan gác cổng Thành mà tiến vào.

Vua nghe tình hình khẩn cấp, vua sai đưa (Phạm) Bỉnh Di và (Phạm) Phụ vào viện Kim Tinh, ở chỗ thềm đá ngồi hóng mát giết đi.

[Chú thích.

+ Hậu nhân (候人).

Chữ “Hậu” trong tiếng “Hậu nhân” nói đây có nghĩa là “dò xét; chờ đợi” - và cũng chính là chữ “HẬU” trong các câu “Tri huyện hậu bổ”, “Tại ngoại hậu tra”.

Ở đây, ở đoạn dẫn trên ý nói “dò xét tình hình trước, chờ người ơ hờ mà trộm, mà cướp!

Ngoài ra, “Hậu nhân” còn là một chức quan thời cổ, có nhiệm vụ đón và đưa khách, bài thơ “Hậu nhân”trong Kinh Thi (phần Tào Phong) chính là chỉ chức quan này.

Đón và đưa” thì đứng bên đường, không rõ ở đây có ý (mỉa mai) nói bọn Phạm Du còn ra đứng đường cướp bóc giữa đạo lộ hay không?].

 (KỲ 6)

Minh Di.

Đối chiếu đoạn nguyên tác dẫn trên thì lòi ra Ngô Đức Thọ đã có vài chỗ dịch quá sức bậy bạ.

1). Câu “Du ngôn tiên nhập, oán do vị giải….”.

Ngô Đức Thọ dịch:

- Lời của Du đã đến tai vua trước rồi, vua còn chưa nguôi giận.

 Tôi tới chẳng rõ câu vua còn chưa nguôi giậnNgô Đức Thọ dịch từ đâu ra? vì trong nguyên tác dẫn trên không có câu nào như vậy hết!

Căn cứ mạch văn, có thể nhận ra câu “oán do vị giải” ở đoạn dẫn trên đã mất khúc sau vì câu văn chưa trọn ý: “oán thù còn chưa giải….”.

 2). Câu -Đế văn sự cấp, sử triệu Bỉnh Di cập Phụ nhập Kim Tinh giai, lương thạch xứ thích sát chi”.

Câu này như tôi đã dịch ở trên là:

~ Vua nghe tình hình khẩn cấp, vua sai đưa (Phạm) Bỉnh Di và (Phạm) Phụ vào viện Kim Tinh, ở chỗ thềm đá ngồi hóng mát giết đi.

 Câu này Ngô Đức Thọ dịch rất lếu láo như sau:

- Vua thấy việc kíp quá, sai đem Bỉnh Di và Phụ vào chỗ bệ đá mát, lấy xe ngự chở xác Bỉnh Di, lấy chiếu ngự bọc xác của Phụ.

 Câu dịch này, từ đoạn lấy xe ngự chở xác Bỉnh Di, lấy chiếu ngự bọc xác của Phụ thuộc về câu tiếp sau đó, mà Ngô Đức Thọ dịch cũng rất sai!

Trước hết, không thấy 2 chữ “Kim Tinh” ở đâu hết trong câu dịch của Ngô Đức Thọ, và cũng chẳng thấy Ngô Đức Thọ nói cha con Phạm Bỉnh Di bị giết lúc nào? tại đâu?

Như tôi đã dịch ở trên thì Lý Cao tông sai đưa Phạm Bỉnh Di, Phạm Phụ (từ Thủy viện) tới Kim Tinh viện rồi giết 2 cha con tại thềm đá hóng mát.

Một người có trình độ Hán văn trung bình, chẳng cần là 1 “nhà nghiên cứu Hán Nôm” như Ngô Đức Thọ đây, cũng có thể dịch câu trên  rất xuông xẻ!

Tiếp đến, cứ như đoạn dịch của Ngô Đức Thọ thì:

- “Lý Cao tông lấy xe của mình mà chở xác của Bỉnh Di, lại lấy chiếu của mình nằm mà bọc xác của Phạm Phụ”.

Tới câu dịch này thì tôi không tưởng ra được “nhà nghiên cứu Hán Nôm” Ngô Đức Thọ lại có thể dịch bậy, dịch “mê sảng” tới như vậy!

Để độc giả hình dung được mức độ lếu láo của cái gọi là “nhà nghiên cứu Hán Nôm” có cái tên gọi là Ngô Đức Thọ, tôi trích dẫn một đoạn nguyên tác Hán văn tiếp liền sau câu “Đế văn sự cấp, sử triệu Bỉnh Di cập Phụ nhập Kim Tinh giai lương thạch xứ, thích sát chi”, tự thuật cái chết của cha con Phạm Bỉnh Di dẫn ở một đoạn trước, để cho thấy cái vô sỉ, bất tài của kẻ được gọi là “nhà nghiên cứu Hán Nôm” tên Ngô Đức Thọ:

~ Bốc đẳng đột nhập lương thạch, dĩ đế sở ngự xa () Bỉnh Di thi, ngự tịch (御席) khỏa () Phụ thi.

~ Đám [Quách] Bốc xông vào [hoàng cung], tới thềm đá ngồi hóng mát, lấy xe của vua khiêng xác Bỉnh Di bỏ lên xe, lấy chiếu của vua nằm bó xác Phạm Phụ.

 Cứ đoạn dẫn trên đây trong nguyên tác Hán văn thì rõ ràng là 2 sự việc:

1/. “Khiêng xác Phạm Bỉnh Di bỏ lên xe của vua đi”.

2/. “Lấy chiếu của vua nằm bó xác Phạm Phụ”, con của Phạm Bỉnh Di.

Đây là 2 việc làm của Quách Bốc, thuộc hạ của Phạm Bỉnh Di, không là việc làm của người trong cung, do Lý Cao tông sai làm, như Ngô Đức Thọ dịch bậy như đã thấy!!!

Chẳng rõ cái “tầm bậy tầm bạ” này của Ngô Đức Thọ từ đâu mà ra? - Điều này thực khó hiểu, vì với một đoạn Hán văn cực dễ hiểu như dẫn ở trên thì bất cứ người nào có trình độ Hán văn bình thường thôi cũng dịch được chính xác, không mấy khó, vậy mà không hiểu tại sao 1 kẻ được gọi là “nhà nghiên cứu Hán Nôm” như Ngô Đức Thọ đây lại dịch như hạng thất học như vậy! 

Lập lại cái thất học của Ngô Đức Thọ ở đây.

Nguyên tác:

~ Bốc đẳng đột nhập lương thạch, dĩ đế sở ngự xa () Bỉnh Di thi, ngự tịch (御席) khỏa () Phụ thi.

Ngô Đức Thọ dịch:

- Vua thấy việc kíp quá, sai đem Bỉnh Di và Phụ vào chỗ bệ đá mát, lấy xe ngự chở xác Bỉnh Di, lấy chiếu ngự bọc xác của Phụ.

 Với đoạn trên có lẽ tôi không cần nói thêm về cái học thức lếu láo của Ngô Đức Thọ!

Độc giả nào bản dịch “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” cứ lật Tập I (trang 333), đối chiếu với bản Hán văn ở Tập IV (trang 162), thì thấy ngay cái ba láp của Ngô Đức Thọ).

 (7). Lý Huệ tông (1194 - 1224; tại vị: 1211 - 1224).

 + Niên hiệu Kiến Gia (1211 tới tháng 10 năm 1224).

 Bính Tý lục niên.

…………

Chiêm Thành, Chân Lạp khấu Nghệ An châu, châu bá Lý Bất Nhiễm bại chi.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. IV. Lý kỷ. Huệ tông hoàng đế  /.

~ Năm Bính Tý, năm thứ 6.

…………

Chiêm Thành, Chân Lạp vào cướp phá châu Nghệ An quan trưởng châu Lý Bất Nhiễm đánh bại chúng.

                                                                            &

 Trần triều (1225 - 1400). Tập II. Hoàng Văn Lâu dịch.

 (1). Trần Thái tông (1218 - 1277; tại vị: 1226 - 1258).

+ Niên hiệu Nguyên Phong (1251 tới tháng 2 năm 1258).

~ Nhâm Tý. Nguyên Phong nhị niên.

Xuân chinh nguyệt.

Đế thân chinh Chiêm Thành, mệnh Khâm thiên Đại vương Nhật Kiểu (日皎) vi lưu thủ.

Chiêm Thành tự Lý suy nhược thường dĩ khinh chu phiêu lược duyên hải cư dân.

Đế tức vị, hoài () chi dĩ đức, khiển Sứ vãng dụ (). Tuy thường nhập cống [入貢] nhi phục khất () cố địa, thả hữu khuy du (窺覦) chi ý. - Đế nộ cố hữu thân chinh chi dịch.

Đông thập nhị nguyệt.

Hoạch Chiêm Thành chủ thê Bố Gia La, cập kỳ thần thiếp (臣妾), nhân dân nhi hoàn.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. V. Trần kỷ. Thái tông hoàng đế  /.

~ Năm nhâm Tý. Năm thứ 2 Niên hiệu Nguyên Phong.

Tháng Giêng, mùa Xuân.

Vua đích thân đưa quân đi đánh Chiêm Thành - sai Khâm Thiên Đại vương Nhật Kiểu ở lại giữ thành.

Chiêm Thành từ lúc Lý triều suy yếu thì thường dùng thuyền nhẹ tới đánh cướp cư dân ở dọc ven biển.

Vua tức vị thì lấy đức cảm hóa để họ về theo, sai Sứ giả qua chiêu dụ. Tuy thường vào triều cống nhưng họ lại xin lại những đất cũ, lại có ý rình rập, dò xét (nước ta). Nhà vua nổi giận nên đích thân đi đánh.

Tháng 12, mùa Đông.

Bắt được vợ vua Chiêm Thành là Bố Gia La và nô lệ nam nữ, dân chúng của họ rồi về.

 [Chú thích.

+ Rình rập [nước ta]. Nguyên tác là “khuy dư”.

Ngô Đức Thọ dịch là có ý nhòm ngó [nước ta].

Trên bình diện Quốc gia, nói “dòm [nhòm] ngó” là ý chỉ một Quốc gia hùng mạnh hơn, hoặc tương đương một Quốc gia khác, có mưu toan chiếm lấy đất đai của Quốc gia khác này, và sự chiếm cứ này thường là chiếm cứ toàn lãnh thổ.

Ở đây, sự “dòm ngó” của Chiêm Thành không nhằm chiếm toàn lãnh thổ của Đại Việt, mà chỉ nhằm chiếm lại đất đai đã dâng, đã mất cho Đại Việt, hoặc chỉ cướp bóc thôi!

Dầu vậy đi nữa thì đây chỉ là mộng tưởng, vì Chiêm Thành yếu hơn Đại Việt nhiều!

Cho nên dầu chỉ có ý chiếm lấy một phần đất đai thì đây cũng là một ý muốn vượt quá sức của họ. Ý của “Đại Việt Sử Ký” là ở đó!

Từ điển Từ Nguyên giải các chữ “Khuy” (), “Du” () như sau:

~ [Khuy. ].

1). Ám trung thâu khán.

2). Tòng nội vãng ngoại khán.

1). Ở trong tối nhìn trộm.

2). Ở bên trong nhìn ra bên ngoài.

~ [Du. ].

Hi vọng đắc đáo. Chỉ phi phận chi tưởng.

Hi vọng có được. Chỉ ý nghĩ quá phận.

 

Nói “quá phận” tức nói “quá sức mình”.

 + Thần thiếp (臣妾).

Từ điển Từ Nguyên giải nghĩa:

~ [Thần thiếp]. Nô lệ. Nam viết thần, nữ viết thiếp.

~ [Thần thiếp]. Nô lệ. Nam gọi là “thần”, nữ gọi là “thiếp”.

 Trong câu dịch này Hoàng Văn Lâu đã để nguyên chữ “thần thiếp” không dịch.

Để nguyên như vậy làm cho người đọc không biết Hán văn khó hiểu. 2 tiếng này không là loại tiếng Hán Việt đã Việt hóa, nói rõ hơn là chưa phổ biến, do đó, nếu không chuyển ngữ được thì cần chú thích cho người đọc hiểu.

Cũng vậy, ở 1 đoạn sau Hoàng Văn Lâu cũng đã để nguyên tiếng “du binh” không dịch, và không giải thích; không hiểu gì hết do đó để nguyên chữ, do đó không giải thích gì hết].

 (2). Trần Dụ tông (1336 -1369; tại vị: 1341 -1369).

+ Niên hiệu Thiệu Phong (1341 - 1357).

~ Bính Tuất lục niên.

Xuân nhị nguyệt. Sóc nhật thực.

Khiển Phạm Nguyên Hằng sứ Chiêm Thành, trách vấn liên niên triều cống khuyết lễ.

………..

Đông thập nguyệt.

Chiêm Thành khiển sứ lai cống, lễ vật thậm bạc.

             /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. VII. Trần kỷ. Dụ tông hoàng đế  /.             

Năm Bính Tuất, năm thứ 6.

Tháng 2 mùa Xuân, mồng 1 nhật thực.

Sai Phạm Nguyên Hằng đi sứ Chiêm Thành trách hỏi việc triều cống bê trễ nhiều năm.

…………

Tháng 10 mùa Đông.

Chiêm Thành sai sứ qua triều cống, lễ vật rất ít.

 ~ Quí Tỵ thập tam niên.

Hạ lục nguyệt.

Đại cử phạt Chiêm Thành, bộ quân chí Cổ Lũy (古壘), thủy quân vận lương kiến trở () nãi hoàn.

            /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. VII. Trần kỷ. Dụ tông hoàng đế  /.            

Năm Quí Tỵ, năm thứ 13.

Tháng 6, mùa Hè.

Điều động Đại quân chinh phạt Chiêm Thành, lục quân tiến tới Cổ Lũy, (còn) thủy quân vì chuyển vận lương thực gặp trở ngại, cho nên kéo quân về.

Bản Hán văn bộ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” chép tới năm Ất Vị (Mùi) – là năm thứ 15 Niên hiệu Thiệu Phong (năm 1355) thì bỗng đâu nhảy ngược lại năm Ất Sửu - năm 21 Niên hiệu Hưng Long (năm 1313) của Trần Anh tông.

Bản Hán văn mỗi trang phân 2 khung trên / dưới, mỗi khung 18 hàng, in theo sắp xếp cổ điển Trung Quốc, tức các hàng chữ đi từ phải qua trái, từ trên xuống dưới.

Trang 233, trong khung dưới, từ hàng 12 tới hàng 18, tất cả 7 hàng, là phần ghi chép các sự việc trong năm thứ 15 Niên hiệu Thiệu Phong, năm Ất Vị (Mùi).

7 hàng này chép một số việc trong các tháng 2, tháng 7 - và một đoạn đầu về tháng 9 của Niên hiệu vừa kể.

Tiếp đó, lật qua Khung trên của trang kế tiếp [trang 234] thì mất dấu, để từ hàng 1 của Khung này tới hàng 13 là phần chép sự việc của Niên hiệu khác. Và, cũng khung này từ hàng 14 tới hàng 18 thì chép các sự việc trong các tháng giêng, tháng 2, tháng 3, và một phần của tháng 6 năm 21 Niên hiệu Hưng Long (1293 - 1314) của Trần Anh tông.

Liền đó, nếu lần xuống khung dưới trang này thì tất cả 18 hàng của khung này chép sự việc của một Niên hiệu khác, và ghi chép này trải dài qua trang kế tiếp là trang 235.

Qua trang 235 thì suốt 18 hàng của khung trên và 8 hàng đầu của khung dưới là phần chép tiếp theo phần ghi chép trong khung dưới của trang 234.

Tóm lại, ở đây người đọc rồi không thấy đâu phần dưới ghi chép những sự việc xảy ra trong tháng 9 năm thứ 15 Niên hiệu Thiệu Phong cũng như toàn bộ những ghi chép về 2 năm sau cùng của Niên hiệu này, là các năm 16, 17, tức năm 1356 và năm 1357.

Sau cùng, bắt đầu từ hàng thứ 9 trong khung dưới của trang 235 trở đi việc ghi chép mới trở lại Niên hiệu Đại Trị (1358 - 1369), tiếp theo Niên hiệu Thiệu Phong.

Duyệt lại bản dịch Việt văn của Hoàng Văn Lâu thì dịch văn rất liên tục, những sự việc xảy ra trong 3 năm 15, 16, 17 Niên hiệu Thiệu Phong không hề gián đoạn!

(Phụ chú.

Danh từ chuyên môn trong lãnh vực ấn loát cổ gọi cái khung nói trên đây là “hành khoản”.

Cùng một tác phẩm mà triều đại in khác nhau thì số chữ, số hàng trong “hành khoản” cũng thường là khác đi. Do đó, “hành khoản” cũng là một căn cứ để biện biệt các Bản in).

 (KỲ 7)

Vấn đề.

1). Đương nhiên, bản dịch Việt văn của Hoàng Văn Lâu phải căn cứ bản Hán văn trên đây.

Vậy thì, tôi không rõ Hoàng Văn Lâu “lấy đâu ra những đoạn nguyên tác thiếu”  tôi trưng dẫn trên đây, để có thể dịch suốt một mạch như vậy?

Lấy ở đâu ra thì cũng vậy, người dịch, và nhất là người hiệu đính - ở đây là Hà Văn Tấn - phải nêu rõ xuất xứ tài liệu mình căn cứ để trám vào phần khiếm khuyết nói trên!

Vậy thì, xin dịch giả, “nhà nghiên cứu Hán Nôm” Hoàng Văn Lâu - và cả người hiệu đính phần Bản kỷ từ Quyển V tới Quyển XIII, là “giáo sư” Hà Văn Tấn, giải thích rõ việc này!

Đây là 1 trường hợp làm việc cẩu thả, vô trách nhiệm của một số người nghiên cứu Sử học trong nước hiện nay. 

Lối làm việc trên đây, ở một giới hạn nào đó, biểu hiện một thái độ xấc xược, coi thường giới học thuật trong nước và ngoài nước. Vì rằng với cung cách làm việc này cả người dịch lẫn người hiệu đính đều cho tất cả mọi người là “một lũ ngu ngơ” chẳng biết gì, mình dịch cái gì, mình nói cái chi người đọc cứ theo đó mà đọc, chẳng cần giải thích!

 Phần “Bản kỷ” Trần Dụ tông là một phần của Quyển VII bộ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”.

Duyệt qua “thư khẩu” của Bản Hán văn, duyệt dài dài xuống, duyệt qua tất cả “thư khẩu” ghi Quyển VII, để tìm, kiếm, coi những phần thiếu tôi đã nêu ở đoạn trước đây có thể nào đã bị sắp xếp lộn đâu dó chăng? Nhưng rốt cục tôi chẳng thấy ở đâu hết!

(Phụ chú.

Trong các bản in Hán văn cổ, thư khẩu là một hàng ở chính giữa của hành khoản.

Thư khẩu còn được gọi là “bản tâm”.

Thư khẩu in những chi tiết như tên Sách, quyển thứ, số thứ tự trang, và đôi lúc cả số chữ và tên người in nữa!

Ngoài ra, trong phần thư khẩu còn có những chi tiết như ‘ngư vĩ”, “tượng tỵ”.

Ngư vĩ là một cái khung nhỏ hình chữ nhật nằm ngang choán hết bề rộng của thư khẩu, ở phần đáy khuyết thành dạng chữ V ngược (L), như đuôi con cá, do đó gọi là ngư vĩ!

Đuôi cá này nếu in đen thì gọi là “hắc ngư vĩ”, để trắng thì gọi “bạch ngư vĩ”.

Trong một thư khẩu có thể có 1 hoặc 2 ngư vĩ, không hơn nữa!

Có 1 ngư vĩ thì gọi là “đơn ngư vĩ”, có 2 ngư vĩ thì gọi là “song ngư vĩ”.

Trường hợp một thư khẩu có 2 ngư vĩ thì 2 đuôi cá sẽ nằm cùng chiều; tuy nhiên, cũng có trường hợp 2 ngư vĩ ở vị thế trái nghịch, tức 2 đuôi cá đâu đuôi lại, nói rõ hơn, ngư vĩ trên là chữ V ngược (L) trong khi ngư vĩ dưới là chữ V xuôi. Mẫu sau này rất hiếm!

 Vị trí của ngư vĩ.

Thư khẩu có 1 ngư vĩ thì ngư vĩ này nằm ở 1 / 3 trên của thư khẩu, 2 ngư vĩ thì một nằm ở 1 / 3 trên của thư khẩu, ngư vĩ kia nằm ở 1 / 3 dưới của thư khẩu.

Thư khẩu có 2 ngư vĩ thì tượng tỵ sẽ tận cùng ở 2 đầu ngư vĩ trên và ngư vĩ dưới.

Trong các bản in thời Tống (960 - 1279), Nguyên (1279 - 1368) tên Sách được in ở ngay dưới ngư vĩ, xuống nữa, trong khoảng nửa dưới của thư khẩu, ghi Quyển thứ, tiếp đến là số thứ tự trang….

Tới Minh triều (1369 - 1644) các khắc bản đều in tên Sách ở khoảng trên đầu ngư vĩ - còn các chi tiết như Quyển thứ, số thứ tự trang…. đều ở mé dưới ngư vĩ trên, nếu có 2 ngư vĩ.

Ngoài ra còn có các mẫu “tuyến ngư vĩ”“hoa ngư vĩ”.

Ở mẫu “tuyến ngư vĩ” thì các đường tạo thành ngư vĩ là những đường thẳng song song, ở bên trong những đường song song này để trắng.

Ở mẫu “hoa ngư vĩ”, 2 đường làm thành cái đuôi cá (tức chữ V ngược L) mỗi cạnh được cải biến, khắc thành 2 đường cong như cánh hoa, 2 bên là 4 cánh.

Mẫu hoa ngư vĩ là mẫu rất thường thấy trong các bản in cuối thời Nguyên.

Và sau hết là tượng tỵ (象鼻).

Tượng tỵ là một lằn đen dọc ở giữa thư khẩu, song song với các lằn ngăn cách (giới cách) các hàng chữ trong hành khoản. Lằn này coi giống như một cái vòi voi thòng xuống, do đó được gọi là tượng tỵ.

Cũng như ngư vĩ, trong thư khẩu có thể có 1 hoặc 2 tượng tỵ.

Tượng tỵ ở phần trên thư khẩu chạy từ đường biên phía trên của hành khoản xuống tới đầu ngư vĩ.

Chỉ có 1 ngư vĩ trên thì tại điểm bắt đầu 1 / 3 dưới của thư khẩu là một lằn ngang.

Nếu có 2 tượng tỵ thì lằn ngang này là điểm tận cùng của tượng tỵ dưới, nếu có, chạy từ đường biên dưới của hành khoản lên.

Tượng tỵ nếu chỉ là một lằn đen nhỏ thì gọi là “tuyến hắc khẩu”, hay “tế hắc khẩu”. - nếu là một lằn đen thô, dày thì gọi là “đại hắc khẩu”.

Thư khẩu có tượng tỵ thì gọi là hắc khẩu, không có tượng tỵ thì gọi bạch khẩu.

Trường hợp chỉ có tượng tỵ trên thì thư khẩu được gọi là thượng hắc khẩu; chỉ có tượng tỵ dưới thì gọi là hạ hắc khẩu; trên dưới thư khẩu đều có tượng tỵ thì gọi thượng hạ hắc khẩu. 

Cuối thời Nguyên đầu thời Minh thì hắc khẩu thấy tương đối nhiều trong các bản in; thực ra tượng tỵ chỉ là một đường để chia trang cho đều.

 Phụ bản I. Ngư vĩ. Tượng tỵ. Kiên Hồ Tập. Ngũ tập. Qu. IV. Nhất Chi Mai.

(Bút Ký Tiểu Thuyết Đại Quan. Tập VII. Sách 14).

Khung giữa trang, tức thư khẩu, trên cùng có hình chữ T ngược ^,ở trên đầu ngư vĩ (^) - ở dưới là hình chữ T xuôi, nét dọc½của 2 chữ T - ^ này là tượng tỵ (vòi voi).

Ở bên phải tượng tỵ trên ghi tên Sách: Kiên Hồ Ngũ Tập.

Dưới ngư vĩ, sát bên lằn phải của khung là Quyển thứ: Quyển Tứ.

Trên đầu tượng tỵ dưới, sát lằn phải của khung ghi số trang: thập nhất.

Bên trái trang là bài “Nhất Chi Mai” nói về Hồ Quí Li (Dẫn ở khoảng gần cuối bài).

Liền sau bài “Nhất Chi Mai” là bài “Đề Tây Hồ”, ghi lại 2 bài thất tuyệt, của Sứ giả Giao Chỉ và Sứ giả Nhật Bản vịnh cảnh Tây Hồ ở Hàng Châu. Bài thơ của Sứ giả Giao Chỉ như sau:

Nhất chu () dương liễu nhất chu hoa,

Túy ẩm Tây Hồ mại tửu gia.

Ngã quốc phiền hoa bất như thử,

Xuân lai biến địa thị tang, ma (桑麻)!

                          Một cây dương liễu một cây hoa,

                          Quán rượu Tây Hồ uống đã ngà.

                          Tấp nập nước tôi chẳng như vậy, 

                          Xuân về khắp chốn dâu, đay mà.

 + Niên hiệu Đại Trị (1358 - 1369).

~ Nhâm Dần ngũ niên.

Tam nguyệt.

Chiêm Thành kiếp lược Hóa Châu.

…………

Ất Tỵ bát niên Xuân.

Chinh nguyệt.

Chiêm Thành nhân lược Hóa Châu xuân du dân.

Tiên thị, Hóa Châu tục, mỗi niên Xuân chinh nguyệt hội sĩ, nữ thu thiên (鞦韆) ư Bà Dương. Chiêm Thành nhân ư tiền niên thập nhị nguyệt tiềm phục Hóa Châu nguyên đầu, chí thị yểm chí, lỗ lược nhân khẩu dĩ qui.

…………

Bính Ngọ cửu niên.

Tam nguyệt.

Chiêm nhân khấu () Lâm Bình phủ, phủ quan Phạm A Song kích bại chi. Thụ A Song Lâm Bình Phủ Đại Tri phủ Hành quân Thủ Ngự sứ.

…………

Đinh Vị thập niên.

Đông thập nhị nguyệt.

Dĩ Minh tự Trần Thế Hưng vi Thống Quân Hành Khiển, Đồng tri Thượng thư Tả Tư sự, Đỗ Tử Bình phó chi, phạt Chiêm Thành.

…………

Mậu Thân thập nhất niên.

Nhị nguyệt.

Chiêm Thành khiển Mục Bà Ma lai khất phục Hóa Châu biên giới….

Hạ tứ nguyệt.

Trần Thế Hưng chí Chiêm Động. Chiêm nhân phục binh đạo phát, ngã quân đại hội, Thế Hưng vị tặc sở cầm, Tử Bình dẫn quân hoàn.

              /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. VII. Trần kỷ. Dụ tông hoàng đế  /.

 Năm Nhâm Dần, năm thứ 5.

Tháng 3.

Chiêm Thành cướp phá Hóa Châu.

…………

Năm Ất Tỵ, năm thứ 8, mùa Xuân.

Tháng Giêng.

Người Chiêm Thành bắt dân đi chơi xuân ở Hóa Châu.

Nguyên là, phong tục Hóa Châu mỗi năm vào tháng Giêng, mùa Xuân, trai, gái tụ tập ở Bà Dương để chơi ghế đu. Người Chiêm Thành vào tháng 12 năm trước đã núp sẵn ở đầu nguồn sông Hóa Châu, tới dịp này thì bất chợt xông ra bắt lấy người rồi về.

………..

Năm Bính Ngọ, năm thứ 9.

Tháng 3.

Người Chiêm Thành cướp phá Phủ Lâm Bình, Phủ quan Phạm A Song đánh bại họ - phong A Song làm Đại Tri phủ Hành quân Thủ ngự sứ phủ Lâm Bình.

………..

Năm Đinh Vị (Mùi), năm thứ 10.

Điều Trần Thế Hưng, phong tước là Minh Tự (明字), vào chức Thống quân Hành khiển Đồng tri Thượng thư, Đỗ Tử Bình làm phó, đi đánh Chiêm Thành.

…………

Năm Mậu Thân, năm thứ 11.

Tháng 2.

Chiêm Thành sai Mục Bà Ma qua xin lại vùng biên giới Hóa Châu….

............

Tháng 4, mùa Hè.

Trần Thế Hưng (dẫn quân) đến Chiêm Động thì phục binh Chiêm Thành đổ ra, quân ta tan rã, đại bại, Thế Hưng bị giặc bắt, (Đỗ) Tử Bình dẫn (tàn) quân về.

 [Chú thích.

+ Thu thiên (鞦韆).

Tức trò chơi ghế đu, dùng 2 sợi giây màu cột 2 đầu 1 miếng ván, để làm chỗ ngồi, treo lên 1 cái thanh ngang, người ngồi trên “ghế” này được người đứng dưới đẩy tới, đẩy lui - tức không khác gì ghế đu ngày nay.

 Tập “Kinh Sở Tuế Thời Ký” cho biết:

~ Thanh Minh thị tam nguyệt chi sơ…. Đả cầu, thu thiên, thi câu (施鉤) chi hí.

 ~ Tiết Thanh Minh là vào đầu tháng 3…. (Lúc này có) các trò chơi đá cầu, ghế đu, kéo co.

 Hoàng Triều Anh (? - ?) cuối thời Bắc Tống (960 - 1127) viết:

~ Thu thiên (鞦韆).

Hứa Thận “Thuyết Văn hậu tự”, Từ chú vân:

- Án: Từ nhân Cao Vô Tế tác “Thiên thu phú” (千秋賦) tự vân:

- Thu thiên (秋千), Hán Vũ đế hậu đình chi hí dã.

Bản vân thiên thu (千秋), chúc thọ chi từ dã, ngữ ngoa chuyển vi thu thiên, hậu nhân bất ý bản nãi bàng thủy gia CÁCH () vi thu thiên tự.

Án: - Thu thiên phi BÌ CÁCH sở vi, hựu phi xa mã chi dụng, bất hợp tòng CÁCH ().

Hựu “Cổ Kim Nghệ Thuật” viết:

- Thu thiên (秋千), Bắc phương nhung hí (), dĩ tập khinh khiêu (輕趫).

Hựu “Khai Thiên Di Sự” vân:

- Thiên Bảo cung trung Hàn thựctiết cạnh thụ thu thiên, lệnh cung tần bối dĩ vi yến lạc, đế hô vi “Bán tiên” (半仙) chi hí, Đô hạ sĩ dân nhân nhi hô chi.

                          /  Tĩnh Khang Tương Tố Tạp Ký (靖康緗素雜記). Qu. VIII  /.

~ Thu thiên.

Chú thích bài “Thuyết Văn hậu tự” của Hứa Thận, họ Từ nói:

- Xét: Từ nhân Cao Vô Tế viết lời tựa cho bài “Thiên thu phú” nói:

- Thu thiên, trò chơi ở hậu cung của Hán Vũ đế.

Nguyên ngữ là “thiên thu”, là lời chúc thọ, do nói sai mà chuyển thành “thu thiên”, người đời sau không rõ nguồn gốc nên mới thêm chữ CÁCH ở bên cạnh chữ thu thiên.

Xét: - Thu thiên không làm bằng DA, lại không phải dùng cho xe ngựa, (chữ) viết bộ CÁCH không hợp (lý).

 Và rồi, cuốn “Cổ Kim Nghệ Thuật” viết:

- Thu thiên là trò chơi trong Quân đội ở phương Bắc, nhằm luyện tập cho thân thể lanh lẹ  nhẹ nhàng.

Và rồi, tập “Khai Nguyên Thiên Bảo Di Sự” nói:

- Trong khoảng Niên hiệu Thiên Bảo, vào dịp tiết Hàn thực thì trong cung tranh nhau dựng cọc treo ghế đu (thu thiên), truyền lệnh cho các cung tần bày yến tiệc vui chơi, vua gọi là trò chơi “Bán tiên”, dân chúng ở Kinh Thành nhân đó mà gọi theo.

Minh Di:

(a). Thiên thu vạn tuế là lời chúc người sống lâu.

(b). Tập “Khai Nguyên Thiên Bảo Di Sự” (Qu. Hạ. Thiên Bảo. Bán tiên chi hí) có mấy chữ khác với trích dẫn của Hoàng Triều Anh, tôi ghi chữ xanh lá cây sau đây:

~ …. lệnh cung tần bối hí tiếu, dĩ vi yến lạc…. Đô trung thập dân nhân nhi hô chi.

 + Trần Thế Hưng, phong tước là Minh Tự.

Không rõ tước “Minh Tự” (明字) là tước hiệu gì, ý nghĩa ra sao?

Ngoài đoạn chép về Trần Thế Hưng và tước “Minh Tự” trên đây, ở môt đoạn sau, vào năm thứ 3 Niên hiệu Thiệu Khánh (1370 - 1372 ) thời Trần Nghệ tông bộ “Đại Việt Sử Ký” viết:

~ Canh Tuất Thiệu Khánh nguyên niên….

Nhâm Tý tam niên.

Thu thất nguyệt.

Tứ Lâm Bình Phủ quan Phạm A Song tước Minh Tự.

          /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. VII. Trần kỷ. Nghệ tông hoàng đế  /.

~ Năm Canh Tuất, năm đầu Niên hiệu Thiệu Khánh….

Năm Nhâm Tý, năm thứ 3.

Tháng 7, mùa Thu.

Ban tước Minh Tự cho Phạm A Song, quan phủ Lâm Bình.

 + Tử Bình dẫn quân hoàn. (Tử Bình dẫn quân về).

Quân đây tức tàn quân].

 (KỲ 8)

(3). Trần Nghệ tông (1321 - 1394; tại vị: 1370 - 1372).

+ Niên hiệu Thiệu Khánh (1370 - 1372).

~ Tân Hợi nhị niên.

Nhuận tam nguyệt.

Chiêm Thành nhập khấu, do Đại An (大安) hải môn trực phạm Kinh Sư. Du binh (游兵) chí Thái Tổ tân. (Kim Phục Cổ thị); đế di bạch (移舶) quá Đông Ngạn giang tỵ chi.

Nhị thập thất nhật.

Tặc loạn nhập Thành, phần hủy Cung điện, lỗ lược nữ tử, ngọc bạch dĩ qui.

Chiêm Thành chi khấu lược dã, dĩ Nhật Lễ mẫu xuất vong kỳ quốc, dụ sử nhập khấu dĩ phục Nhật Lễ chi thù.

Thời thừa () bình nhật cửu, biên thành vô bị, khấu chí vô binh khả ngự.

Tặc thiêu phần Cung thất, đồ tịch vị chi tảo không! Quốc gia tự thử đa sự hĩ!

          /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. VII. Trần kỷ. Nghệ tông hoàng đế  /.

~ Năm Tân Hợi, năm thứ 2.

Tháng 3 nhuận.

Chiêm Thành vào cướp phá, từ cửa biển Đại An mà đánh thẳng vào Kinh Thành. Cánh  quân lưu động của giặc đến Bến Thái Tổ (nay là Bến Phục Cổ); vua dời thuyền lớn qua sông Đông Ngạn để tránh.

Ngày 27.

Giặc ồ ạt tràn vào Kinh đô đốt phá Cung điện, bắt đàn bà con gái, cướp lấy vàng ngọc vải vóc rồi rút về.

Việc Chiêm Thành cướp phá này là do mẹ của Nhật Lễ trốn chạy qua nước này dụ họ vào cướp để báo thù cho Nhật Lễ.

Bấy giờ vì vẫn sống trong thời thanh bình quá lâu, biên thành không phòng bị, giặc đến thì không quân binh nào chống lại được.

Giặc thiêu hủy Cung thất, tranh vẽ, sách vở tiêu hết không còn gì! Quốc gia từ đây sinh nhiều chuyện!

 [Chú thích.

+ Du binh (游兵).

Còn gọi là “du quân”, là loại “quân binh lưu động”, không trấn đóng, phòng thủ cố định ở một chỗ nào, mà tùy tình thế chiến trường lúc ở chỗ này, lúc ở chỗ kia.

Từ Nguyên giải chữ “du binh” là “Vô cố định phòng địa, lưu động xuất kích đích quân đội”.

Nghĩa là “(Loại) Quân binh không giữ một chỗ cố định, (mà) lưu động tấn công (địch)”.

 Bộ Tống Thư chép:

~ Nghĩa Hi (義熙)….Ngũ niên, ngũ nguyệt….

Mộ Dung Siêu (慕容超) văn vương sư tương chí, kỳ tướng Công Tôn Ngũ Lâu thuyết Siêu nghi đoạn cứ Đại Nghiễn (大峴), nghệ trừ (刈除) túc miêu (粟苗), kiên bích (堅壁) thanh dã dĩ đãi chi….

Lục nguyệt.

Mộ Dung Siêu khiển Ngũ Lâu cập Quảng Ninh vương Hạ Lại Lư tiên cứ Lâm Câu () thành. Ký văn đại quân chí lưu luy lão (羸老) thủ Quảng Cố, nãi tất () xuất Lâm Câu; hữu Cự Miệt thủy (蔑水) khứ thành tứ thập lý. Siêu cáo Ngũ Lâu viết cấp vãng cứ chi, Tấn quân đắc thủy tắc nan kích dã!

Ngũ Lâu trì () tiến, Long Nhương tướng quân Mạnh Long Phù lãnh kỵ cư tiền bôn vãng tranh chi. Ngũ Lâu nãi thoái chúng quân bộ tiến, hữu xa tứ thiên lưỡng, phân xa vi lưỡng dực, phương quĩ từ hành; xa tất trương man (), ngự giả chấp sóc (); hựu dĩ khinh kỵ vi du quân, quân lệnh nghiêm túc, hàng ngũ tề chỉnh.

Tống Thư. Qu. I. Bản kỷ 1. Vũ đế kỷ - Thượng  /.

Niên hiệu Nghĩa Hi….Tháng 5 năm thứ 5….

Mộ Dung Siêu nghe tin quân triều đình sắp kéo đến, tướng của Mộ Dung Siêu là Công Tôn Ngũ Lâu nói với Siêu nên cắt đường trấn đóng núi Đại Nghiễn, gặt lúa gạo dự trữ, kiên thủ nơi đồng hoang nhà trống để chờ địch….

Tháng 6.

Mộ Dung Siêu sai Ngũ Lâu và Quảng Ninh vương Hạ Lại Lư tới trú đóng thành Lâm Câu. Lúc nghe đại quân đã tới thì (Ngũ Lâu) để các quân già yếu ở lại giữ thành Quảng Cố, còn tất cả xuất thành. Thành Lâm Câu có sông Cự Miệt ở cách thành 40 dặm. (Mộ Dung) Siêu nói Ngũ Lâu gấp tới giữ lấy sông này, để quân Tấn chiếm sông thì khó mà tấn công!

Ngũ Lâu tiến gấp tới, Long Nhương Tướng quân Mạnh Long Phù dẫn kỵ binh phía trước đổ tới tranh chiếm sông. Ngũ Lâu liền kéo quân trở lui đibộ tiến tới, 4,000 chiếc xe, chia đoàn xe làm 2 cánh, hai chiếc một song song, đi từ từ; các xe đều trương màn, người đi xe cầm dáo dài; lại lấy quân khinh kỵ làm du quân, quân lệnh nghiêm túc, hàng ngũ tề chỉnh.

(Phụ chú.

+ Nghĩa Hi (405 - 418).

Niên hiệu của Tấn An đế (382 - 418; tại vị: 397 - 418) thời Đông Tấn (317 - 420).

+ Kiên bích (堅壁). Thanh dã (清野).

Vách chắc, đồng không, chiến thuật ở trong thành cố thủ không ra giao chiến với địch, và đồng thời tiêu hủy những nguồn thực phẩm như cây trái, lúa gạo…; nếu ta không giữ được cũng như không dùng được thì cũng không để đối phương dùng.

Đây là chiến thuật thường được gọi là “vườn không, nhà trống”).  

 Cứ đó thì có thể thấy bất cứ loại quân binh nào cũng có thể chuyển thành du binh.

Không là một tiếng Hán Việt đã được Việt hóa, cho nên tiếng “DU BINH” ở đây không thể không dịch rõ ra, hoặc nếu không có tiếng tương đương thì cần có vài lời giải thích.

Hoàng Văn Lâu để nguyên tiếng “du binh” không dịch, cũng không giải thích, để như thế chẳng những người không biết Hán văn mù mờ, mà cho tới những người biết Hán văn nếu không có tài liệu tra cứu thì đến không rõ đây là loại quân binh gì? để rồi, có thể hiểu lầmquân du kích (guerrilla) chúng ta thường hiểu!

 Dương Nhất Thanh (1454 - 1530), Chính trị gia trứ danh trung kỳ Minh triều cho biết:

~ Du binh là quân binh được lọc lựa từ các Quân doanh (các doanh sở chi khiêu tuyển) và là những quân binh can trường, gặp tình thế nguy cấp thì bất kể nguy hiểm mà xông thẳng tới (ngộ cảnh trc tiền), thấy địch chẳng khiếp sợ (kiến đch bất khiếp).

Du binh biệt lập thành 1 doanh riêng, tự thủ cương vực của mình (t thủ kỳ cương), tự chiến đấu tại địa phương họ đồn trú (các chiến kỳ đa). Nhưng, địa bàn hoạt động của du binh có lúc còn bao cả 1 số địa phương nữa, như du binh và 3 cánh Kỳ binh tại trấn Diên Ty tỉnh Thiểm Tây, ở mặt Đông còn phải đối phó với tình thế ở 2 trấn Đại Đồng và  Tuyên Phủ, mặt Tây phải ứng phó với tình thế ở 3 trấn Thiểm Tây, Ninh Hạ, Cam Túc.  

Tướng chỉ huy du binh được gọi là Du Kích Tướng Quân” (游擊將軍).

Du binh vốn gian khổ quanh năm, thân không lúc nào cởi giáp trụ, ngựa không lúc nào tháo yên cương, so với các loại quân binh khác thì du binh gian khổ hơn rất nhiều!

(Tham khảo:

Dương Nhất Thanh Tập. Các Dụ Lục. Qu. II. Luận du binh tướng quan tấu đối).

 Cứ như tự thuật trên đây của Dương Nhất Thanh thì du binh là loại quân được tuyển chọn trong những quân binh ưu tú, được huấn luyện đặc biệt khắt khe, để có thể tác chiến trong những điều kiện không gian (địa hình) và thời gian (thời điểm) khác nhau.

+ Sông Đông Ngạn (東岸江).

Trương Tiệp (1574 - 1640) cuối thời Minh viết:

~ Thiên Đức giang. Nhất danh Đình Uẩn (廷蘊) giang, hựu danh Đông Ngạn (東岸) giang.

Vĩnh Lạc sơ, Lê khấu cụ thảo (), dịch dân (役民) yên tắc (堙塞); thiên binh ký bình khấu trùng gia tuấn trị (浚治), chu tập phục thông.

Đông Tây Dương Khảo. Qu. I. Tây Dương Liệt Quốc Khảo

Giao Chỉ. Hình thắng danh tích  /.

~ Sông Thiên Đức. Có tên nữa là sông Đình Uẩn, lại có tên là sông Đông Ngạn.

Đầu Niên hiệu Vĩnh Lạc, giặc Lê sợ bị đánh dẹp,bắt dân lấp song (này); quân triều đình bình định giặc xong thì cho khơi sông lại, thuyền bè lại qua lại được.

(Phụ chú.

Niên hiệu Vĩnh Lạc (1403 - 1424) đời Minh Thành tổ [1360 - 1424; tại vị: 1402 - 1424]).

 Cao Bá Quát (1809 - 1854) trong tập “Mẫn Hiên Thuyết Loại” tự thuật về sông Đông Ngạn như sau:

~ Thiên Đức giang, tại Đông Ngạn huyện (東岸縣), nãi Nhĩ Hà (珥河) biệt () lưu, cố danh Đình Thảng (廷盪) [nhất tác Đình Uẩn (廷蘊)] giang.

Lý Thái tổ dĩ Cổ Pháp (古法) vi Thiên Đức Phủ (天德府), nhân danh Thiên Đức giang, hựu viết Đông Ngạn giang (東岸江), tức An Dương Vương (安陽王) dữ Triệu Úy Đà (趙尉陀) sở  phân Bình giang Nam Bắc giới xứ, dữ Nhật Đức giang, Nguyệt Đức giang tam giang lưu hạ quân chú vu Lục Đầu (六頭) [Bắc châu hữu Tam Hằng (三恒), Tam Đức chi dao ()].

                              /  Mẫn Hiên Thuyết Loại. II. Cổ tích. Thiên Đức giang  /.

~ Sông Thiên Đức, ở huyện Đông Ngạn, là chi lưu khác của Nhĩ Hà, tên cũ là Đình Thảng [có sách ghi là Đình Uẩn].

Lý Thái tổ lấy đất Cổ Pháp lập Phủ Thiên Đức do đó đặt tên sông là Thiên Đức, còn gọi là sông Đông Ngạn, tức là chỗ phân giới Nam / Bắc đất Bình giang giữa An Dương vương và Triệu Đà, sông (Thiên Đức) và sông Nhật Đức, sông Nguyệt Đức là 3 con sông chảy xuống vùng hạ lưu rồi đều đổ vào sông Lục Đầu [Lời tục của dân miền Bắc gọi 3 con sông này là Tam Hằng, Tam Đức].

Minh Di.

+ Nhĩ Hà (珥河) tức Sông Hồng (紅河) ở miền Bắc Việt Nam.

Thời cổ còn có các tên sông (瀘江), sôngThao (洮江), sông Phú Lương (富良江).

+ Tam Hằng, “hằng” đây tức “thường hằng”, “không thay đổi”.

Ở đây ý nói cái “Đức” là cái phải thường giữ, phải thường thực hành luôn, không bỏ.

 (Phụ chú.

Sông Lục Đầu. Cũng sách “Mẫn Hiên Thuyết Loại” chép:

~ Lục Đầu giang tại Chí Linh (至靈) huyện.

(Tả vi Chí Linh giới, hữu vi Bắc Ninh, Quế Dương, Gia Bình giới.Giang chi thượng lưu tự Bắc Ninh Thiên Đức, Nhật Đức, Nguyệt Đức tam giang, lai thấu () hội vu Chí Linh huyện Lý Dương (里陽) xã, hợp chú vu Thanh Lâm huyện Lâu Khê (樓溪) Tam Kỳ (三歧) giang thị vi Lục Đầu giang dã) biệt hiệu Phao giang (拋江).

Trung hữu nhất đới () sa châu (沙洲) hiệu Đại Than Châu (大灘洲), phong thủy (風水) gia dĩ vi “Lục long tranh châu”.

Đông nam hữu dựng sa (孕沙) như bạch nhạn hình, cận vọng như diêm () viễn vọng như băng (). Bắc nhân quyết () viết: ~ “Bạch nhạn sinh mao, sản tận anh hào”.

(Bắc Ninh Vũ Giang huyện Nguyễn tộc tổ mộ tại Ngũ Viên sơn (五圓山) hạ bình cương () dĩ thử nhạn sa tác án (), kế xuất tiến sĩ thập bát nhân, y quan (衣冠) đại vọng tộc.

 /  Mẫn Hiên Thuyết Loại. II. Cổ tích  /.

~ Sông Lục Đầu ở huyện Chí Linh.

(Bên đông là phân giới Chí Linh, bên tây là phân giới các huyện Quế Dương, Gia Bình tỉnh Bắc Ninh. Thượng lưu của Sông từ 3 sông Thiên Đức, Nhật Đức, Nguyệt Đức ở Bắc Ninh chảy tới tụ hội ở Lý Dương huyện Chí Linh để rồi cùng đổ vào sông Tam Kỳ tại Lâu Khê huyện Thanh Lâm, đây là sông Lục Đầu), có tên khác là sông Phao.

Ở giữa sông có một dải Cồn cát có tên Đại Than Châu (Cồn Cát Lớn), các nhà Phong thủy gọi đây là thế đất “Lục long tranh châu”.

Ở mé Đông nam có cồn cát dạng như con nhạn trắng, nhìn gần thì trắng như muối, nhìn xa thì trắng như băng tuyết. Bí quyết [Phong thủy] của người phương Bắc nói: ~ “Nhạn trắng ra lông, những giỏi toàn giòng”.

(Mộ tổ của giòng họ Nguyễn ở huyện Vũ Giang tỉnh Bắc Ninh nằm trên mặt đá bằng phẳng dưới núi Ngũ Viên, lấy cái thế cồn cát con nhạn (trắng) này chắn ở mặt trước mộ, (nhờ đó)  giòng họ nối nhau xuất sinh được 18 người đậu tiến sĩ, thành một đại vọng tộc khoa bảng!

(Minh Di:

Theo phương vị Ngũ hành: phương Đông bên trái, phương Tây bên phải - đâynhìn theo chiều Bắc - Nam; nhìn theo chiều Nam - Bắc phương hướng sẽ ngược lại.

Người phương Bắc nói ở trên tức chỉ người Trung Hoa).

 + Mẹ Nhật Lễ.

Trần Dụ Tông chết, hoàng thái hậu Hiến Từ sai người đi rước Nhật Lễ lên kế vị.

Nhật Lễ là con nuôi của cố Cung Túc vương Dục (). Mẹ của Nhật Lễ xuất thân ca kỹ, có chồng là Dương Khương; Nhật Lễ chính là con của Dương Khương. Cung Túc vương Dục coi hát, mê sắc đẹp mẹ Nhật Lễ, lấy làm vợ - lúc này vợ Dương Khương vừa có thai; sinh Nhật Lễ thì Cung Túc vương coi như con mình.

Hoàng thái hậu nói với các quan trong triều:

 - Dục là giòng đích trưởng không được làm vua, chết sớm, Nhật Lễ không phải là con của Dục sao?

Do đó rước về làm vua, Nhật Lễ truy phong Dục - cha ghẻ của mình, là Hoàng Thái Bá.

Ngày 4 tháng 8, mùa Thu năm thứ 12 Niên hiệu Đại Trị (1358 - 1369) - năm 1369, Nhật Lễ tôn Hiến Từ hoàng thái hậu là Hiến Từ Tuyên Thánh Thái hoàng Thái hậu.

Ngày 14 tháng 12 cùng năm, Nhật Lễ giết Hiến Từ Tuyên Thánh Thái hoàng Thái hậu ngay trong Cung. Thái hậu lúc sống hối hận vì đã đưa Nhật Lễ lên làm vua, Nhật Lễ do đó bỏ độc giết bà.

Ngày 21 tháng 11 năm đầu Niên hiệu Thiệu Khánh (1370 - 1372) Nghệ tông mang quân về Kinh Thành, truất phế Nhật Lễ giáng làm Hôn Đức công. Sau vì Nhật Lễ giết chức Thiếu úy Trần Ngô Lang nên Nghệ tông sai giết Nhật Lễ và con tên là Liễu, chôn ở núi Đại Mông.

(Tham khảo.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. VII. Trần Kỷ. Dụ tông. Nghệ tông).

 + Không quân binh nào chống lại được.

Nguyên tác “vô binh khả ngự”, ý nói không loại binh nào, bộ binh, kỵ binh… chống cự được quân Chiêm Thành - không chống được, sống trong một thời thái bình lâu dài quân binh Trần triều đã lơ là việc tập luyện, khả năng tác chiến, do đó, đã xuống rất thấp!]. 

 (KỲ 9)

(4). Trần Duệ tông (1337 - 1377; tại vị: 1372 - 1377).

+ Niên hiệu Long Khánh (1373 - 1377).

~ Quí Sửu. Long Khánh nguyên niên.

………..

Bính Thìn tứ niên.

Ngũ nguyệt.

Chiêm Thành khấu Hóa Châu.

Lục nguyệt.

Chiếu chư quân tu chiến cụ, chiến hạm dĩ hậu () thân chinh Chiêm Thành chi dịch.

Thu thất nguyệt.

Ngự sử Trung tán Lê Tích thượng Sớ viết:

- Phù binh giả hung khí dã, bất khả cung tự khởi nhung. Thẩn kim thủy bình nội tặc thế như thương () vị thuyên (), chủ bất khả dĩ tư nộ nhi hưng sư, tướng bất khả dĩ yêu công nhi vọng chiến. Chiêm Thành tuy vô thần thiếp chi tâm, nghi mệnh tướng thảo chi dĩ đãi thiên diệt. Nhược xa giá thân chinh thần ngu dĩ vi bất khả!

Đế bất thính.

Bát nguyệt.

Chiếu Thanh Hóa, Nghệ An, Diễn Châu quân dân vận lương (運糧) ngũ vạn Thạch () tựu Hóa Châu.

Đông thập nguyệt.

Đại duyệt thủy, bộ quân ư Bạch Hạc giang phù sa (浮沙), nhị đế thân lâm vi tướng.

Thập nhị nguyệt.

Đế thân chinh Chiêm Thành, lãnh quân thập nhị vạn, phát Kinh Sư.

Chí Bát Xã giang tân hữu hương nhân cử hành táng lễ, chiếu phạt tiền tam thập đĩnh.

Mệnh Lê Quí Li đốc Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa tào vận dĩ cấp quân.

Sơ, Chiêm Thành chủ Chế Bồng Nga nhiễu biên, mệnh Hành khiển Đỗ Tử Bình tương binh trấn Hóa Châu. Bồng Nga tê () kim thập bàn thượng tiến, Tử Bình đạo ẩn (盜隱) nhập kỷ, trá ngôn Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nghi gia binh thảo chi.

Đế đại nộ quyết ý thân chinh.

Thời quan quân chí Di Luân (瀰淪) hải, chư quân giá hải (駕海) nhi hành - Đế thừa mã lãnh bộ quân duyên hải ngạn.

Chí Nhật Lệ hải khẩu trú doanh thao luyện nhất cá nguyệt!

Tân Bình, Thuận Hóa nhân lỗ hoạch Chiêm nhân đào giả lai hiến.

Đinh Tỵ ngũ niên. Xuân

Chinh nguyệt.

Nhị thập tam nhật.

Đại quân chí Chiêm Thành Thi Nại Cổn (尸耐混) cảng khẩu Thạch Kiều (石橋), thứ () Ỷ Mang Động (倚忙洞).

Bồng Nga lập…Đồ Bàn (闍槃) thành ngoại, khiển tiểu thần Mục Bà Ma trá hàng, ngôn Bồng Nga dĩ độn, đản lưu không thành, nghi tốc tiến binh, vô thất cơ hội.

Nhị thập tứ nhật.

Đế ý tạo () phục, kỵ nê thông mã, lệnh Ngự Câu vương Húc ý bạch y, kỵ bạch mã cức () mệnh tiến quân.

Đại tướng Đỗ Lễ gián viết:

- Bỉ ký thụ hàng, dục dĩ toàn quốc vi thượng, quan quân thâm nhập công tặc thành tại bất đắc dĩ, cô () lệnh nhất biện sĩ trì xích thư (尺書) vấn tội dĩ sát lỗ tình hư thực, như Hàn Tín phá Yên chi sách, bất lao nhi hữu công! Cổ nhân hữu ngôn lỗ tình nan trắc, thần nguyện bệ hạ thẩm chi!

Đế viết:

- Ngã bị kiên (被堅) chấp nhuệ (), mạo phong mộc vũ, bạt thiệp (跋涉) sơn xuyên, thâm nhập tặc cảnh vô nhất nhân cảm anh () kỳ phong () giả; thị thiên chi sở tư ()! Huống kim tặc văn phong đào thoán, vô hữu đấu tâm, cổ ngôn viết “binh quí thần tốc”, kim đậu lưu bất tiến thị thiên dữ nhi bất thủ, bỉ hữu dị đồ (異圖), hối chi an cập? Nhĩ nãi phụ nhân!

Dĩ phụ nhân y ý (衣衣) chi.

Quân toại ngư quán (魚貫) nhi hành, tiền hậu cách tuyệt, tặc thừa thế đột xuất tiệt chi.

Tỵ thời quan quân đại hội, đế hãm vu trận, băng. Đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền Linh đẳng giai tử chi.

Tặc sinh cầm Ngự Câu vương, dĩ nữ thê chi.

Đỗ Tử Bình lãnh hậu quân bất cứu đắc thoát.

Lê Quí Li đốc lương quân văn đế băng, tiên tự đào qui.

Thị nhật Kinh Sư trú ám, thị tứ nhiên chúc dĩ tương mậu dịch.

Tử Bình hãm xa (檻車) hồi quá Thiên Trường, nhân dĩ vĩ lịch (尾礫) đầu thuyền nhi mạ chi giả.

Sư hoàn, trị Tử Bình tội, miễn tử đồ vi binh.

           /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. VII. Trần kỷ. Duệ tông hoàng đế  /.

~ Năm Quí Sửu. Niên hiệu Long Khánh năm thứ nhất.

…………

~ Năm Bính thìn, năm thứ 4.

Tháng 5.

Chiêm Thành cướp Hóa Châu.

Tháng 6.

Xuống chiếu chỉ cho quân binh tu bổ binh khí, chiến thuyền, chờ vua thân hành đi đánh Chiêm Thành.

Tháng 7, mùa Thu.

Chức Ngự sử Trung tán Lê Tích dâng Sớ nói:

- Chiến tranh là việc chẳng lành, không thể tự mình dấy lên việc quân trận! Huống chi hiện nay trong nước vừa dẹp xong giặc, cái thế như cái nhọt chưa khỏi, bậc quân chủ  không thể vì cơn giận cá nhân mà động binh, (làm) Tướng thì không thể tham công mà vọng động gây chiến! Chiêm Thành dầu không có lòng thần phục nữa thì nên sai tướng đi đánh, chờ trời diệt họ. Nếu như vua thân hành đi đánh thì theo ý của kẻ ngu dốt như thần đây, việc này không nên!

Vua không nghe.

Tháng 8.

Ra chiếu chỉ cho quân dân Thanh Hóa, Nghệ An, Diễn Châu chuyển vận 50,000 Thạch lương thực tới Hóa Châu.

Tháng 10, mùa Đông.

Duyệt toàn quân thủy, lục ở bãi đất bồi sông Bạch Hạc. 2 vua làm tướng chỉ huy quân.

Tháng 12.

Vua thân hành đi đánh Chiêm Thành, cầm 120,000 quân xuất phát từ Kinh Thành.

Quân đi tới bến sông Bát Xã thì có người trong làng làm đám ma, nhà vua ra chiếu chỉ phạt 30 đĩnh bạc!

Sai Lê Quí Li đốc thúc các Châu Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa theo đường thủy mà chuyển vận lương thực cho quân sĩ.

Trước đây, vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga nhiễu loạn vùng biên thùy, vua sai chức Hành khiển Đỗ Tử Bình đưa quân trấn thủ Hóa Châu.

Bồng Nga dâng 10 mâm vàng, Tử Bình dấu nhẹm việc này, lấy cắp bỏ túi, nói láo rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn, vô lễ nên đưa quân đánh.

Vua bừng bừng nổi giận, quyết ý thân hành chinh phạt.

Bấy giờ quan quân đi tới cửa biển Di Luân, các quân vượt biển mà tiến. - về phần vua thì cỡi ngựa dẫn bộ binh đi lần ven biển.

Tới cửa biển Nhật Lệ thì lập doanh trại, ở đây luyện tập 1 tháng.

Người các đất Tân Bình, Thuận Hóa bắt được người Chiêm trốn qua các nơi này, đem dâng lên.

Năm Đinh Tỵ, năm thứ năm, mùa Xuân.

Ngày 23 tháng Giêng.

Đại quân tới Thạch Kiều ở Cổn cảng, cửa Thị Nại, đóng quân ở Động Ỷ Mang.

Chế Bồng Nga dựng…. mé ngoài thành Đồ Bàn, sai một chức quan nhỏ là Mục Bà Ma tới giả đầu hàng, nói rằng Chế Bồng Nga đã bỏ trốn, thành bỏ trống, [quân ta] nên gấp  tiến quân, đừng để lỡ cơ hội!

Ngày 24.

Vua khoác áo đen, cỡi ngựa đen lợt lốm đốm lông trắng, sai Ngự Câu vương (tên) Húc   bận áo trắng, cỡi ngựa trắng, truyền lệnh tiến quân gấp!

Đại tướng Đỗ Lễ can:

- Kẻ kia đã xin hàng đặt sự toàn vẹn quốc gia lên hàng đầu, quan quân tiến sâu vào (nước giặc), công phá thành giặc là việc bất đắc dĩ, bây giờ tạm thời cho một người có tài biện luận đưa thư qua hỏi tội để dò xét tình hình thực hư của giặc, làm theo kế sách của Hàn Tín phá tan quân binh nước Yên, không mệt nhọc mà thành công! Người xưa có câu lòng giặc khó dò, thần xin bệ hạ xét lại!

Vua nói:

- Ta thân mặc giáp cứng, cầm vũ khí sắc nhọn, dãi gió dầm mưa, băng sông vượt núi, tiến sâu vào đất giặc, không một người nào dám chống cái sắc nhọn của ta, đây là cái trời cho ta! Huống chi bây giờ vua giặc nghe thanh thế của ta mà trốn chạy, không còn lòng dạ chiến đấu. Lời xưa có nói “Dụng binh cốt ở chỗ thần tốc”, bây giớ cứ chần chừ không tiến thì đây là trời cho mà không lấy, lỡ giặc kia có toan tính gì khác, hối sao kịp, ngươi đúng là đàn bà.

Rồi sai lấy y phục đàn bà bắt Đỗ Lễ mặc!

Quân binh liền nối đuôi nhau cứ thế mà tiến, khoảng cách giữa những quân đi trước và những quân đi sau rất xa! Thừa thế này giặc chợt đâu đổ ra, cắt đứt hàng ngũ quân ta thành nhiều đoạn.

Tới giờ Tỵ quan quân ta tan rã hoàn toàn, vua bị vây hãm trong trận mà chết; đám mấy người như đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Hòa Nạp, chức hành khiển Phạm Huyền Linh đều tử trận!

Giặc bắt sống được Ngự Câu vương Húc, rồi (sau đó) gả con gái (Chiêm Thành) cho.

Đỗ Tử Bình chỉ huy cánh hậu quân không tiến lên cứu viện nhờ đó mà thoát chết.

Lê Quí Li trông coi việc quân lương, nghe tin vua băng thì đã trốn chạy về trước.

Ngày này, tại Kinh đô, giữa ban ngày mà trời tối đen, chợ búa phải đốt đuốc buôn bán!

Xe cũi chở tù nhốt Đỗ Tử Bình về, đi ngang qua vùng Thiên Trường, người dân ở đây lấy sỏi đá nhỏ liệng vào thuyền nguyền rủa hắn!

Quân về tới thì xử tội (Đỗ) Tử Bình. Thoát tội chết nhưng bị truất làm lính làm lao dịch.

[Chú thích.

+ Theo ý của kẻ ngu dốt như thần.

Nguyên tác: “Thần ngu”.

Hoàng Văn Lâu dịch là “Thần trộm nghĩ”, là thiếu chính xác.

 + 50,000 Thạch lương thực.

Nguyên tác: “lương ngũ vạn Thạch”.

Hoàng Văn Lâu dịch là: “5 vạn hộc lương”.

Hoàng Văn Lâu không biết Hệ thống dung lượng thời cổ.

Ở đây, về dung lượng, Thạch khác với Hộc, do đó chuyển dịch Thạch là Hộc là sai quá đi!

Thời Trần Duệ tông ở đây tương ứng thời Minh (1368 - 1644), do đó đơn vị Thạch ở đây là Thạch đời Minh.

Theo qui định đời Minh về dung lượng:

1 Thạch = 2 Hộc.

1 Hộc = 5 Đấu.1 Đấu = 10 Thăng.

Vậy, 1 Thạch = 100 Thăng.

1 Thăng đời Minh tính ra Hệ thống SI (Système International) = 1.0737 L (Litre).

Vậy 50,000 Thạch nói ở đây sẽ là:

50,000 x 100 = 5,000,000 (5 triệu Thăng), tức: 5,000,000 x 1.0737 = 5,368,000 L.

Tính ra kg: 5,368,000 x 3 / 4 = 4,026,000 kg.

Trong khi đó, nói như Hoàng Văn Lâu thì chỉ bằng nửa số trên, tức:

4,026,000 ¸ 2 = 2,013,000 kg gạo.

Trần Duệ tông đưa 120,000 quân đi đánh Chiêm Thành thì với số 4,026,000 kg lương thực trên đây thì mỗi quân binh 1 tháng được cấp: 4,026,000 ¸ 120,000 = 33.55 kg lương thực.

35.55 kg ở đây chỉ chung lương thực, trong đó có gạo, muối, đồ khô….

 Phạm Thành Đại, trong tập“Quế Hải Ngu Hành Chí”, nói mỗi quân binh đời Lý được cấp 10 bó lúa mỗi tháng: ~ Nguyệt cấp hòa thập thúc. (Quế Hải Ngu Hành Chí. Chí Man).

Nói “được cấp 10 bó lúa” nhưng Phạm Thành Đại không nói “bó lúa” bao lớn? Do đó khó biết 10 bó lúa này đập ra được bao nhiêu ký gạo.

 

Bây giờ, cứ cho là chế độ cấp phát gạo thời Trần đại khái như thời thì có thể suy đoán Trần Duê tông dự tính chiến tranh với Chiêm Thành sẽ kéo dài khoảng 1 tháng - không kể 1 tháng tập luyện quân ở cửa biển Nhật Lệ, như đã thấy.

 + Sông Bạch Hạc.

Là con sông ở mạn thượng du sông Phú Lương.

Sách “Đông Tây Dương Khảo” chép:

~ Phú Lương giang [富良江]. - (Tại Giao Châu Phủ Đông Quan huyện [東關縣], nhất danh  Lô giang [瀘江], thượng tiếp Tam Đới Châu [三帶州] Bạch Hạc giang, kinh () thành Đông, hạ thông Lợi Nhân huyện Đại Hoàng giang [大黃江], dĩ đạt ư hải. ¾ Tống Quách Quì phá Man quyết lý ải [決里隘], thứ Phú Lương giang. Bản triều Trương Phụ phá Lê khấu ư thử).

/Đông Tây Dương Khảo. Qu. I. Tây Dương Liệt Quốc Khảo.

                                             Giao Chỉ. Hình thắng Danh tích  /.

~ Phú Lương giang. - (Ở huyện Đông Quan, Phủ Giao Châu, còn tên nữa là Lô giang, ở mạn thượng du tiếp nối với sông Bạch Hạc tại lưu vực Tam Đới Châu, chảy ngang qua mé Đông của Thành (Giao Châu), mạn hạ du thông với Sông Đại Hoàng ở huyện Lợi Nhân, để chảy ra biển ¾ Quách Quì thời Tống phá giặc Man, dẹp trừ chướng ngại, tới đóng quân ở sông Phú Lương. Trương Phụ triều ta đánh tan giặc họ Lê tại đây.

 Sông Phú Lương lại có các tên sông Thao (洮江), sông Hồng (紅河) ở Miền Bắc Việt Nam hiện nay.

Tam Đới châu, là vùng đất bồi [phù sa] từ những nhánh của 1 con sông ở cửa sông này. - Đây là 1 vùng đất hồ như bằng phẳng, và có dạng tam giác, nhưng không nhất thiết là vậy.

Anh ngữ là “Delta”.

 Phụ bản II. Phú Lương giang.

 

Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Đệ Thất Sách. Nguyên. Minh thời kỳ.

Minh thời kỳ (1368 - 1644).

Bản đồ Địa lý Hành chánh năm thứ 10 Niên hiệu Vạn Lịch (1573 - 1620), năm 1582.

Tỷ lệ: 1¸ 4,900,000.

Phú Lương giang chảy qua mé Đông (bên mặt) thành Thăng Long - điểm tròn màu xanh.

Mấy con sông của Giao Chỉ trên bản đồ.Từ trái qua:

(1). Hắc thủy (黑水). Tên Việt là Sông Đà.

(2). Thao giang (). Nay là Sông Hồng.

(3). Trai hà (齋河). Tên Việt là Sông Chảy.

(4). Minh giang (明江). Tên Việt là Sông Lô.

(5). Cẩm giang (錦江). Tên Việt là Sông Gầm.

 

+ Bồng Nga lập ()…. Đồ Bàn (闍槃) thành ngoại.

Trong bản Hán văn “Đại Việt Sử Ký”, liền sau chữ “LẬP” () là một chữ rất mờ không sao nhận ra được tự dạng, do đó tôi chỉ chấm chấm…..

Chữ này gồm 2 phần, bên trái là bộ MỘC, bên phải là 1 chữ từa tựa như chữ “”, chữ này âm đọc là “nhiễm”; hợp MỘC + nhiễm là chữ “” (âm đọc Hán Việt là Nam), là tên gọi của một giống cây, cây “nam- tên khoa học là Machilus Nanmu.

Nhưng nếu là “cây nam” thì chẳng liên quan gì tới ý nghĩa ở đây. 

Lại nữa chữ này lại có 2 nét sổ ǀǀ ở giữa chữ “quynh” - một chữ không có trong tự, từ điển.  

 (KỲ 10)

Hoàng Văn Lâu dịch câu “Bồng Nga lập…. Đồ Bàn thành ngoại” là:

- Bồng Nga dựng trại bên ngoại thành Đồ Bàn.

Chữ “TRẠI” đây chỉ là suy đoán, và là một sự suy đoán mò, lại không chính xác, không dựa trên một lập luận nào hết!

 Trong chiến thuật Quân sự cổ có từ ngữ “sách lũy” [柵壘], là kết những cọc gỗ, thanh gỗ - hoặc cọc tre, thanh tre, ràng lại với nhau thành một tấm vách chắn để phòng chống địch.

Có thể chữ sau chữ “lập” ở câu dẫn trên là chữ “sách” ()? Hợp lý hơn hết là như vậy.

Việc lập những tấm vách chắn phòng thủ ngoài vòng thành bằng gỗ, hoặc bằng tre nói trên để ngăn quân địch tới tấn công cũng được phía Đại Việt áp dụng.

Chẳng hạn thời Trần Phế đế (1361 - 1388; tại vị: 1377 - 1388) - tháng 6 mùa Hè năm thứ 7 Niên hiệu Xương Phù [1377 - 1388] - năm 1383, Chế Bồng Nga đưa quân đến Quảng Uy lập doanh trại, đóng quân tại làng Khổng Mục - nghe tin này thì cả Kinh Thành kinh hoàng chấn động. Để phòng bị quân Chiêm Thành đổ tới tấn công:

~ Nguyễn Đa Phương đốc quân lập sách () ư Kinh Thành, nhật dạ thủ bị.

                             /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. VII. Trần kỷ. Phế đế  /.

~ Nguyễn Đa Phương đôn đốc quân binh dựng rào tre chắn vòng Kinh Thành, ngày đêm phòng giữ.

 Kết lại vấn đề: - Câu Bồng Nga lập.... Đồ Bàn thành ngoại, chữ có những nét mờ nhận không ra tự dạng ở liền ngay sau chữ “LẬP” là chữ “SÁCH”, đây là do thợ khắc chữ thời cổ đã khắc sai thành một chữ như đã nói ở trên.  

Tái lập nguyên bản của Lê Văn Hưu là: Bồng Nga lập SÁCH Đồ Bàn thành ngoại”.

 + Ngựa đen lợt lốm đốm lông trắng.

Nguyên tác: “nê thông mã” (泥驄).

Sách “Nhĩ Nhã” gọi “nê thông m㔓ân” ():

~ Âm (). Bạch tạp mao, ân.

                                            /  Nhĩ Nhã. Thích Súc đệ thập cửu  /.

~ Ngựa sắc đen lợt lẫn lông trắng.

Chú thích câu này, Quách Phác (276 - 324) thời Đông Tấn (317 - 420) viết:

~ Âm, thiển hắc chi nê thông.

~ Âm, ngựa nê thông sắc đen lợt.

+ Thị nhật Kinh Sư trú ám, thị tứ nhiên chúc dĩ tương mậu dịch.

Ngày này, tại Kinh đô, giữa ban ngày mà trời tối đen, chợ búa phải đốt đuốc buôn bán!

Không phải quỉ thần thương tiếc chi một hôn quân, kiêu căng, vô trí, như Trần Duệ tông hiện điềm u ám này.

 + Lấy sỏi đá nhỏ liệng vào thuyền.

Nguyên tác: “dĩ vĩ lịch (尾礫) đầu thuyền”.

Hoàng Văn Lâu dịch là “lấy gạch ngói ném vào thuyền” - sai quá đi!

Chữ “lịch” () mà Hoàng Văn Lâu giải nghĩa là gạch ngói thì phải nói đây là một chuyện không thể nào tưởng ra được! Một kẻ được gọi là “nhà nghiên cứu Hán Nôm” mà khả năng Hán văn lại kém cỏi như vậy sao?

 Chữ “vĩ”, Thuyết Văn Giải Tự giải nghĩa là “nhỏ”:

~ Vĩ. Vi () dã.

~ Vĩ. Nhỏ.

Chữ “lịch”, bộ Thuyết Văn Giải Tự giải là “tiểu thạch dã” (đá nhỏ).

 Và như vậy, vĩ lịch (尾礫) nghĩa là cục đá nhỏ, “đá sỏi”.

Ở đây có thể thấy rõ Hoàng Văn Lâu không hiểu chữ “” nghĩa là gì?

 + bị truất làm lính làm lao dịch.

Nguyên tác: “đồ vi binh”.

Đồ () là một trong “Ngũ hình” (“5 hình phạt”) thời cổ:

Si (). Trượng (). Đồ (). Lưu (). Tử ().

Si là dùng thanh tre hoặc cành gai đánh vào lưng, hoặc vào mông.

Trượng là dùng thanh tre lớn, hoặc cành gai lớn đánh vào lưng, vào mông, vào bắp vế.

Đồ (coi ở dưới).

Lưu là đầy tới chốn xa xôi làm việc nặng nhọc.

Tử là giết chết.

5 hình phạt trên đây khởi từ thời Đường (618 - 907), các triều đại sau đó cũng y theo đây.

Kẻ bị xử tội “Đồ” thân bị quản thúc, và phải phục dịch tại một chỗ được chỉ định.

Theo hình pháp Minh triều, tội Đồ có 5 bậc:

(1). Quản thúc 1 năm, đánh 60 gậy (trượng).

Muốn chuộc tội phải nộp 12 xâu tiền đồng. (tiền đúc bằng đồng).

(2). Quản thúc 1 năm rưỡi, đánh 70 gậy.

Chuộc tội 15 xâu tiền đồng.

(3) Quản thúc 2 năm, đánh 80 gậy

Chuộc tội 18 xâu tiền đồng.

(4). Quản thúc 2 năm rưỡi, đánh 90 gậy.

Chuộc tội 21 xâu tiền đồng.

(5). Quản thúc 3 năm, đánh 100 gậy.

Chuộc tội 24 xâu tiền đồng.

(Tham khảo:

Minh Sử. Qu XCIII. Hình pháp 1.

Lịch Đại Hình Pháp Khảo. Hình pháp Tổng khảo 4. Minh.

Thẩm Gia Bản (1840 - 1913) thời Dân Quốc (1911 - 1949) biên soạn).

(Phụ chú.

+ 1 xâu tiền thời cổ gồm 1,000 tiền).

 Đã biết, thời Trần Duệ tông tương ứng Minh triều do đó ở đây tôi trưng dẫn những qui định về tội ĐỒ của Minh triều.

Chưa rõ tội ĐỒ của triều Trần có hoàn toàn theo như Minh triều hay không?

Ngày 24 tháng Giêng năm 1377 Duệ tông tử trận, Trần triều rút quân về. Về tới Kinh Thành thì luận tội Đỗ Tử Bình. Thời điểm xét xử có thể là vào lối tháng 2, hoặc tháng 3 cùng năm.

Tới tháng 6 năm sau, năm 1378, Đỗ Tử Bình, với chức vụ cũ là Hành khiển, nhận lệnh dẫn quân ngăn chống Chiêm Thành xâm phạm Kinh Đô. Từ đó tới đây là 15, 16 tháng.

Và như vậy có thể Đỗ Tử Bình chỉ bị khép vào tội ĐỒ bậc 1. - Hoặc giả hắn lấy tiền chuộc mà được phục chức cũ để cầm quân chống Chiêm Thành?

Vốn là một tên tham quan thì trong thời gian trấn thủ Hóa Châu hẳn là hắn đã vơ vét không phải ít - chưa kể việc hắn ém 10 mâm vàng Chế Bồng Nga dâng vua Trần!

Việc Đỗ Tử Bình nhận lệnh đưa quân ngăn chặn quân Chiêm Thành tấn công KinhThành được chép ở một đoạn sau; riêng về việc Đỗ Tử Bình “được phục chức” vào thời điểm nào thì không thấy “Đại Việt Sử Ký” chép.

Và như vậy, có vẻ Trần triều áp dụng hình phạt ĐỒ rập theo Minh triều. Tuy nhiên việc này cũng cần tra cứu thêm cho chắc.

Trước đó, trong thời gian chuẩn bị đánh Chiêm Thành quan Ngự sử Đại phu Trương Đỗ đã từng can ngăn Duệ tông:

~ Chiêm Thành nghịch mệnh tôi bất dung tru, nhiên viễn tại Tây ngung sơn xuyên hiểm trở. Kim bệ hạ sơ tức vị, chính hóa vị năng viễn bị, nghi tu văn đức dĩ lai chi, như sở bất tòng mệnh tướng chinh chi vị vãn!

Tam thượng Sớ () gián, đế bất tòng, nãi quải quan (掛冠) nhi khứ.

           /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. VII. Trần kỷ. Duệ tông hoàng đế  /.

~ Chiêm Thành trái lệnh tội không đáng chết, và hơn nữa họ lại ở tận góc trời Tây núi sông hiểm trở. Bây giờ bệ hạ mới lên ngôi, chính trịgiáo hóa chưa bao trùm cõi xa xôi, nên trau sửa lễ nhạc, đức độ để họ đến với ta, (như vậy mà) họ không nghe lệnh thì chừng đó sai tướng đi đánh cũng chưa muộn!

3 lần dâng Sớ can gián, vua không nghe, do đó ông treo mũ mà bỏ đi!

(Phụ chú.

+ Treo mũ.

Nguyên tác: “quải quan” (掛冠).

QUAN là cái mũ của các quan đội; bây giờ không đội nữa, treo lên, tức từ quan về).

 Cũng năm thứ 5 Niên hiệu Long Khánh  nói trên:

~ Lục nguyệt.

Thập nhất nhật.

Chiêm Thành nhập khấu.

Sơ thượng hoàng văn khấu chí, mệnh Trấn Quốc tướng quân Cung Chính vương Sư Hiền thủ Đại An hải khẩu. Tặc tri hữu bị, tỉ Thiên Phù hải nhập, trực phạm Kinh Sư.

Thập nhị nhật.

Tặc hựu dẫn quân hoàn, xuất đại hải khẩu, tao phong nịch tử thậm chúng!

          /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. VII. Trần kỷ. Duệ tông hoàng đế  /.

~ Tháng 6.

Ngày 11.

Chiêm Thành vào cướp phá.

Lúc mới nghe tin giặc kéo đến, thượng hoàng sai Trấn Quốc Tướng Quân Cung Chính vương Sư Hiền trấn giữ Cửa biển Đại An. Biết (quân ta) có phòng bị, giặc chuyển qua cửa biển Thiên Phù mà vào, đánh thẳng vào Kinh Đô.

Ngày 12.

Giặc lại rút quân về, ra cửa biển lớn thì gặp gió (lớn), thuyền đắm, chết chìm rất nhiều!

 [Chú thích.

+ Thượng hoàng. Tức chỉ Trần Nghệ tông.

 + Cửa biển lớn.

Nguyên tác: “Đại hải khẩu”.

Câu “xuất đại hải khẩu” ở đoạn dẫn trên Hoàng Văn Lâu dịch là: “ra cửa biển Đại An”.

Và ở cước chú số “2” Hoàng Văn Lâu ghi:

- “2. Nguyên văn: “… hoàn xuất Đại hải khẩu”. thiếu chữ “An”.”.

 Minh Di:

Đại Việt Sử Ký chép:

~ Tặc hựu dẫn quân hoàn, xuất đại hải khẩu, tao phong nịch tử thậm chúng!

~ Giặc lại rút quân về, ra cửa biển lớn thì gặp gió (lớn), thuyền đắm, chết chìm rất nhiều!

 Khi nói rằng “Nguyên văn: “… hoàn xuất Đại hải khẩu”. thiếu chữ “An”.”.thì hiển nhiên Hoàng Văn Lâu cho rằng quân Chiêm Thành rút về qua Cửa biển Đại An. 

 (1). Đã biết, khi nghe quân Chiêm tới tấn công Trần Nghệ tông sai Trấn Quốc Tướng quân Sư Hiền ra giữ Cửa biển Đại An. Quân Chiêm, do đó, mới chuyển qua Cửa biển Thiên Phù xâm nhập theo ngã này, và điều hiển nhiên là “vào cửa nào ra cửa nấy”.

Đã vào Cửa Thiên Phù thì chiến thuyền Chiêm Thành phải neo chờ ở Cửa Thiên Phù, có muốn rút về qua Cửa biển Đại An cũng không được, ra Cửa Đại An quân Chiêm Thành lấy thuyền đâu mà rút về?

Ngoài ra:

Chữ “ĐẠI” trong tên gọi “Đại An” nghĩa là “LỚN” - ở đây, tác giả “Đại Việt Sử Ký” khi chép là “Cửa biển lớn” là ngầm chỉ cửa biển vừa kể, không phải bản Hán in thiếu chữ “AN” như Hoàng Văn Lâu suy đoán. Hợp lý mà nói, về mặt văn pháp, thì đây chỉ là sự thay đổi cách hành văn, tránh sự lập lại cho đỡ nhàm.

Và như vậy, theo “Đại Việt Sử Ký” quân Chiêm đã rút về qua cửa Đại An?

Thế nhưng, lẽ nào tác giả “Đại Việt Sử Ký” lại tự mâu thuẫn, hoặc không thì cũng ghi chép sơ sót, ở câu trước đây đã chép là quân Chiêm Thành thấy Cửa biển Đại An có quân Trần triều trấn đóng nên chuyển qua Cửa biển Thiên Phù mà xâm nhập.

Tôi không nghĩ Lê Văn Hưu lại sơ sót, lại tự mâu thuẫn trong một đoạn văn ngắn như vậy.

+ Cho nên câu “Tặc hựu dẫn quân hoàn, xuất đại hải khẩu”, tiếng “đại hải khẩu” ở đây dứt khoát chỉ Cửa Thiên Phù.

 Cửa Đại An tương đối sóng lặng hơn cửa Thiên Phù, quân Chiêm Thành, do đó, nếu rút về qua cửa biển này cũng không là điều lạ, cũng như trước đó họ đã tính vào cửa biển này để đánh thẳng vào Thăng Long.

(Cần nhắc lại:

Tháng 3 nhuận năm thứ 2 Niên hiệu Thiệu Khánh [1370 - 1372], năm 1371, dưới triều Trần Nghệ tông, Chiêm Thành đã vào cửa biển Đại An đánh vào Kinh Đô của Đại Việt).

 Năm thứ 3 niên hiệu Minh Đạo (1042 - 1044) Lý Thái tông (1000 - 1054; tại vị: 1028 - 1054) đi đánh Chiêm Thành, đi tới cửa biển Đại Ác, gặp nhằm lúc sóng êm gió lặng, chiến thuyền vượt biển thuận lợi, vì vậy mà đổi tên Cửa biển ĐẠI ÁC (大惡) thành ĐẠI AN (大安):

~ Minh Đạo….

Tam niên xuân.

Chinh nguyệt.

Quí Mão, đế thân chinh Chiêm Thành…..

Giáp thìn phát Kinh Sư….

Ất tỵ thứ Đại Ác Hải khẩu, hội phong đào thiếp tĩnh (帖靜), đại quân lợi thiệp, cố cải Đại Ác vi Đại An.

              /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. II. Lý kỷ. Thái tông hoàng đế  /.

~ Niên hiệu Minh Đạo….

Năm thứ 3, mùa Xuân.

Tháng Giêng.

Ngày Quí Mão, vua thân hành đi đánh Chiêm Thành….

Ngày Giáp Thìn xuất phát từ Kinh Đô….

Ngày Ất Tỵ tới Cửa biển Đại Ác, gặp sóng gió lặng êm, đại quân vượt biển thuận lợi, do đó đổi tên (Cửa biển) Đại Ác thành Đại An.

 (2). Bây giờ, giả sử quân Chiêm trước khi xâm nhập Cửa Thiên Phù lúc trở ra muốn rút về theo Cửa biển Đại An nên hẹn chiến thuyền tới chờ tại Cửa này.

Toan tính này rất rủi ro, rất mạo hiểm, vì trước đó quân Chiêm đã biết Cửa Đại An có quân Đại Việt trấn giữ tại đây, và không tính chắc được lúc trở ra quân Đại Việt có còn trấn ở đó hay không?

- Nguyên tắc Binh pháp: khi triệt thoái thì tránh đụng độ! Tâm lý mong được trở về an toàn làm cho tinh thần chiến đấu sút đi nhiều, nhất là sau một trận giao tranh, và là giao tranh trên đất nước địch, do đó tuyệt đối tránh đụng độ - dầu cho quân Chiêm Thành có sẵn một đội chiến thuyền chờ sẵn ở Cửa Đại An.

Tóm lại, giả thuyết nói ở đây khó có thể xảy ra.

Quân Chiêm Thành rất muốn triệt thoái qua Cửa Đại An nhưng không thể - nói rõ hơn là không dám, thực hiện! Có thể nói như vậy!

Kết lại:

Qua những biện luận trên đây thì tiếng “đại hải khẩu” cuốn “Đại Việt Sử Ký” tự thuật trong đoạn Chiêm Thành tấn công An Nam đã dẫn trước đây nhằm chỉ Cửa biển Thiên Phù.

 (KỲ 11)

Tiếp đến là vài giòng về cửa biển Thiên Phù (天符).

Trước hết, chưa thấy Sử sách nói tới một Cửa biển Thiên Phù như “Đại Việt Sử Ký” chép ở đây, chỉ thấy các tên gọi:

(1). Thần Đầu (神投).

(2). Thần Đầu (神頭).

Về Hán tự thì chữ “Đầu” () này và chữ “Đầu” () ở trên viết khác, tức chữ đồng âm.

(3). Thần Phù (神符).

(4). Thần Thụ (神授).

(Tham khảo:

Cổ Đại Nam Hải Địa Danh Hối Thích (古代南海地名匯釋). Thần Đầu Hải Khẩu).

BộTừ điển về vùng Nam Hải kể trên cũng không thấy đề cập “Cửa biển Thiên Phùchép trong “Đại Việt Sử Ký”.

Có lẽ Thiên Phù là tên gọi khác của một cửa biển có những tên gọi nói trên, chỉ không rõ tên Thiên Phù có trước hay những tên dẫn trên có trước? Ngoài ra tên gọi Thiên Phù cũng không mấy thông dụng trong sách vở tiếng Việt. Có thể đây là Cửa Thần Phù?

Cửa biển Thấn Phù nhiều sóng lớn, thuyền qua lại Cửa biển này rất nguy hiểm.

Ca dao Việt Nam ngày trước có câu:

Lênh đênh qua cửa Thần Phù,

Khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm.

 Bộ “An Nam Chí Lược” (安南志略) của Lê Tắc (黎崱) cho biết:

~ Thần Đầu Sơn (神投山). [La Thành (羅城), Thanh Hóa (清化) nhị Quận giới () sơn dã - Sơn liên lưỡng ngạn, hải triều trung lưu.

Tích nhân kính tạc (徑鑿) Nam ngạn tam phong (三峰) lai vãng.

Lý Thánh tông công Chiêm Thành, dục tế hải, yên lãng bất năng độ, đảo () ư Sơn thần, toại đắc tế vận. Hoàn tức vị tự () ư thử.

Hậu chư sơn giai lệ () Thanh Hóa].

An Nam Chí Lược. Qu. I. Quận ấp. Sơn  /.

~ Thần Đầu Sơn. [Dãy núi ở phân giới 2 Quận La Thành và Thanh Hóa - Núi nối liền 2 bờ, biển trôi ở giữa.

Người thời trước đục con đường xuyên qua 3 ngọn núi ở bờ phía Nam để qua lại.

Lý Thánh tông đi đánh Chiêm Thành, muốn qua biển, nhưng, sóng (lớn), sương khói (mờ) không qua được, cầu Thần núi thì qua được. Lúc trở về, lên ngôi thì thờ Thần núi tại đây.

Về sau dãy núi này đều thuộc quản hạt Quận Thanh Hóa].

Trong tập bút ký “Nam Ông Mộng Lục” (南翁夢錄) Lê Trừng đã kể lại một truyền thuyết về Cửa biển Thần Đầu như sau:

~ Áp Lãng Chân Nhân (壓浪真人).

Tống Nhân tông thời, An Nam vương thân suất (親率) chu sư (舟師) phạt Chiêm Thành, chí Thần Đầu (神投) hải khẩu, phong lãng liên nhật, bất đắc hàng hải (航海).

Văn cận sơn hữu đạo sĩ, độc cư am trung, nãi triệu thỉnh kỳ đảo (祈禱). Đạo sĩ viết:

- Vương tự hữu phúc lực, thần bảo vạn nhất vô ưu, minh nhật phát hành, vật sinh nghi lự.

Dạ bán phong chỉ, cật đán (詰旦) hành chí hải ngoại viễn vọng phong lãng như sơn, chu sư sở hướng ninh tĩnh.

Thời phục kiến thử đạo sĩ thủy thượng bộ hành, hoặc tiền hoặc hậu uyển nhiên minh bạch, đản nhân bất khả cận nhĩ!

Sư hoàn, chí Thần Đầu Sơn, đạo sĩ nghinh kiến, vương hỉ tạ ủy lao.

Đạo sĩ viết:

- Thần tri vương phúc trọng, cố vô ưu, thử Thần hựu () vương nhĩ, phi thần dã.

(Vấn chi hương nhân, viết:

- Đạo sĩ tự thử thái dược, cửu bất tại am).

Vương đại dị chi, phong vi “Áp Lãng Chân Nhân”, thưởng tứ kim bạch (金帛) giai bất thụ.

Hậu nhập sơn khứ, bất tri sở chi?

Chân nhân tính La, vô danh, nhân giai dĩ “Áp Lãng” hô chi, Nhược quán (弱冠) khí thê tử nhập Đạo.

Kỳ hậu duệ hữu La Tu giả sĩ Trần Nghệ vương, quan chí Thẩm Hình Viện Ty nhi tốt, dư sở thân thức dã.

                  /  Nam Ông Mộng Lục. 13. Áp Lãng Chân Nhân  /.

~ Áp Lãng Chân Nhân.

Dưới thời Tống Nhân tông vua họ nước An Nam đích thân chỉ huy chiến thuyền đi đánh Chiêm Thành, tới cửa biển Thần Đầu, sóng gió nhiều ngày liền không vượt biển được.

Nghe nói ở một ngọn núi gần đó có một đạo sĩ, một mình ở trong am, nên cho thỉnh tới để cầu đảo. Đạo sĩ nói:

- Vua tự phước lực, thần bảo đảm không có gì phải lo lắng trong muôn một, sáng sớm ngày mai xuất hành, đừng lo nghĩ.

Nửa đêm gió lặng, thuyền tới biển khơi, nhìn ra ngoài xa sóng như núi, vùng hướng thuyền đi tới sóng lặng êm.

Lúc đó lại thấy đạo sĩ đi trên mặt nước, hoặc mé trước, hoặc mé sau thấy rõ rành rành, thế nhưng không thể tới gần người được!

Lúc quân trở về, tới núi Thần Đầu, đạo sĩ ra đón, vua vui mừng thăm hỏi, tạ ơn.

Đạo sĩ nói:

- Thần biết nhà vua phước trọng, bởi vậy không lo, đây là Thần linh giúp nhà vua, không là công của thần.

(Hỏi chuyện người trong làng, người làng nói:

- Đạo sĩ từ sau câu chuyện này thì đi hái thuốc, lâu rồi không ở trong am).

Vua rất kinh ngạc, phong cho tên Hiệu “Áp Lãng Chân Nhân” (Chân Nhân Đè Sóng), ban thưởng vàng bạc vải vóc (Đạo sĩ) không nhận món nào hết!

Sau đó đi vào núi, không biết đi về đâu?

Chân nhân tên họ La, không có tên, mọi người đều gọi là “Áp Lãng”, lúc vừa trưởng thành bỏ vợ con theo Đạo.

Con cháu ông có La Tu làm quan cho vua Trần Nghệ (Nghệ tông), chức vụ đến Thẩm Hình Viện Ty thì qua đời; ông là người tôi quen biết.

(Phụ chú.

+ Lê Trừng.

Lê Trừng, tác giả tập Bút ký “Nam Ông Mộng Lục” kể trên đây, tức Hồ Nguyên Trừng, con của Hồ Quí Li.

+ Thời Tống Nhân tông.

Hồ Nguyên Trừng viết cuốn “Nam Ông Mộng Lục” sau khi triều Hồ (1401 - 1407) sụp đổ - cha con Hồ Quí Li bị Minh triều bắt đưa về Trung Quốc, thời điểm tự thuật, vì thế, đều chép theo các triều đại của Trung Quốc.

 Tháng 5 năm thứ 5 Niên hiệu Vĩnh Lạc (1403 - 1424) - năm 1407, An Nam tiến hải thuyền vô sông Phú Lương, bị các Tướng Mộc Thạnh, Trương Phụ, Liễu Thăng đánh bại, cha con Hồ Quí Li lên thuyền nhỏ trốn ra cửa biển, nhằm lúc bãi cạn, bỏ thuyền lên bộ chạy.

Quan quân Minh triều đuổi tới thì bất chợt mưa lớn, nước lên vài thước, thuyền lại nổi; truy đuổi ráo riết, cuối cùng bắt được cha con Hồ Quí Li ở Cửa biển Kỳ La (奇羅海口), đem lên chiến hạm giải về Trung Quốc.

(Tham khảo:

Minh Giám. Qu. III. Thành tổ Văn hoàng đế).

 Đối chiếu thời Tống Nhân tông (1010 - 1063; tại vị: 1022 - 1063), triều này tương ứng triều Lý Thái tông (1000 - 1054; tại vị: 1028 - 1054).

“Lý vương” thân chinh Chiêm Thành Hồ Nguyên Trừng nói ở trên tức Lý Thái tông.

Đã dẫn ở đoạn trước, Lý Thái tông vượt biển đi đánh Chiêm Thành là năm thứ 3 Niên hiệu Minh Đạo (1042 - 1044), tức năm 1044)].

 

(5). Trần Phế đế (1361 - 1388; tại vị: 1377 - 1388).

+ Niên hiệu Xương Phù (1377 - 1388).

~ Mậu Ngọ. Xương Phù nhị niên.

Hạ ngũ nguyệt. Ngũ nhật.

Chiêm Thành dẫn Ngự Câu hàng vương Húc khấu Nghệ An phủ, tiếm hiệu dĩ chiêu nhân dân, đa thụ ngụy mệnh giả.

Lục nguyệt.

Phạm Đại Hoàng giang, đế mệnh Hành khiển Đỗ Tử Bình ngự chi. Quan quân tự hội, tặc toại phạm Kinh sư lỗ lược nhi hoàn.

                            /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. VII. Trần kỷ. Phế đế  /.

~ Năm Mậu Ngọ. Năm thứ 2 Niên hiệu Xương Phù.

Mùa Hè, ngày mồng 5 tháng 5.

Chiêm Thành dẫn vương tử đầu hàng giặc là Ngự Câu vương, tên Húc, cướp phá Phủ Nghệ An, tiếm hiệu để chiêu dụ dân chúng, đa số sự việc là làm theo lệnh của giặc.

Tháng 6.

Giặc đánh phá vùng sông Đại Hoàng, vua sai Hành khiển Đỗ Tử Bình ngăn chống.

Quan quân tự rã hàng, giặc thừa thế tiến đánh Kinh Đô, bắt người, cướp của rồi rút về.

[Chú thích.

+ Đã tự thuật trước đây, Trần Duệ tông đi đánh Chiêm Thành bị phục kích chết Đỗ Tử Bình ở đội hậu quân, vì không lên cứu mà bị bắt giải về Kinh xử tội, bị khép vào tội Đồ - Sự việc xảy ra vào năm thứ 5 Niên hiệu Long Khánh (1373 - 1377), tức năm 1377.

Tới đây, như tự thuật ở trên thì Đỗ Tử Bình đã được phục chức cũ. Thế nhưng, phục chức vào thời điểm nào thì không thấy “Đại Việt Sử Ký” ghi chép. (Coi chú thích ở đoạn trước).

+ Quan quân tự tan rã.

Nguyên tác: “Quan quân tự hội”.

Hoàng Văn Lâu dịch là: Quan quân tan vỡ.

Dịch như vậy:

1/. Dịch không sát nguyên văn.

Thiếu đi cái ý quan trọng là “TỰ”, tức xác định chân tướng của sự “tan rã hàng ngũ”.

Nói Quan quân tan vỡ như Hoàng Văn Lâu là nói “hàm hồ”, hàm hồ vì “tan vỡ” vì lý do gì? trong chiến tranh Quân đội tan rã có nhiều nguyên nhân:

- Thua trận mà tan rã.

- Mất tinh thần mà tan rã (sợ hãi….). Đây là trường hợp của quân triều Trần nói trên, vì sợ quân Chiêm Thành quá mà tự động rã hàng ngũ.

 2 năm sau.

~ Canh Thân tứ niên xuân.

Nhị nguyệt.

Chiêm nhân dụ sử Tân Bình, Hóa Châu nhân khấu Nghệ An, Diễn Châu, lỗ lược (擄掠) nhân khẩu.

Tam nguyệt.

Khấu Thanh Hóa đẳng xứ. Thượng hoàng mệnh Lê Quí Li lãnh thủy quân, Đỗ Tử Bình lãnh bộ quân, dĩ ngự () chi. Chí Ngu giang (虞江) thực đang (植樁), dữ Chiêm nhân tương trì.

Hạ ngũ nguyệt.

Quí Li lãnh Thần Vũ quân Tướng Nguyễn Kim Ngao, Thị Vệ quân Tướng Đỗ Dã Kha xuất chiến. Kim Ngao tuyền chu (旋舟) dĩ tỵ tặc phong, Quí Li trảm chi dĩ tuẩn ()! Chư quân cổ táo (鼓噪) nhi tiền! Chiêm chủ Chế Bồng Nga chiến bại độn qui!

Tử Bình tự thị xưng tật giải binh quyền. Duy Quí Li chuyên lãnh Nguyên nhung (元戎), hành Hải Tây Đô Thống chế.

                         /  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Qu. VIII. Trần kỷ. Phế đế  /.

Năm Canh Thân, năm thứ 4, mùa xuân.

Tháng 2.

Người Chiêm Thành dụ, sai người các đất Tân Bình, Hóa Châu cướp phá Nghệ An, và Diễn Châu, cướp của, bắt người.

Tháng 3.

(Chiêm Thành) cướp phá Thanh Hóa và ở vài nơi. Thượng hoàng sai Lê Quí Li chỉ huy thủy quân, Đỗ Tử Bình chỉ huy bộ binh chống giặc. Quan quân đến sông Ngu đóng cọc ở lòng sông, giằng co với người Chiêm Thành.

Mùa Hè, tháng 5.

Quí Li chỉ huy Tướng Nguyễn Kim Ngao bên Quân Thần Vũ, Tướng Đỗ Dã Kha bên Quân Thị Vệ ra đánh. Kim Ngao chạy thuyền lòng vòng để tránh né thế mạnh của giặc, Quí Li chém (Kim Ngao) cho quân binh thấy! Quân sĩ reo hò tở mở tiến lên. Vua Chiêm Chế Bồng Nga thua trận, chạy trốn về nước.

Từ đó (Đỗ) Tử Bình lấy cớ bệnh, xin giải hết binh quyền. Còn mỗi (Lê) Qui Li nắm trọn Binh quyền, kiêm chức Đô Thống Chế vùng Hải Tây.

[Chú thích.

+ Chém đầu Kim Ngao cho quân binh thấy.

Nguyên tác: “trảm chi dĩ tuẩn”.

Hoàng Văn Lâu dịch là:

- “Chém Ngao để rao trong quân”.

Dịch như Hoàng Văn Lâu không chính xác!

Chữ “tuẩn” ở đây Từ Nguyên giải nghĩa như sau:

~ [Tuẩn ]. Hướng chúng tuyên thị.

~ [Tuẩn]. Nêu cho đám đông thấy.

 Tức ở đây Lê Quí Li chém đầu Nguyễn Kim Ngao trước hàng quân cho quân sĩ đều thấy tận mắt, mà không là chém rồi truyền rao trong quân, như Hoàng Văn Lâu dịch sai!

 (KỲ 12)

Thời Xuân Thu (770 - 403 tr. Cn) Tề Cảnh công (? - 490; tại vị: 547 - 490) - qua sự tiến cử của Yến Anh (? – 506 tr. Cn), bổ nhiệm Điền Nhương Thư (còn gọi là Tư Mã Nhương Thư) làm Đại tướng chỉ huy Quân đội. Lại sai Trang Giả làm Giám quân (tức như Thanh tra).

 

~ Tề Cảnh công thời Tấn phạt A Chân (阿甄) nhi Yên xâm Hà Thượng, Tề sư bại tích.

Cảnh công hoạn chi, Yến Anh nãi tiến Điền Nhương Thư, viết:

- Nhương Thư tuy Điền thị thứ nghiệt nhiên kỳ nhân, văn năng phụ () chúng, năng uy địch nguyện quân thí chi.

Cảnh công triệu Nhương Thư dữ ngữ binh sự, đại duyệt chi, dĩ vi Tướng quân, tương binh hán () Yên, Tấn chi sư.

Nhương Thư viết:

- Thần tố ti tiện, quân trạc () chi lư ngũ (閭伍) chi trung, gia () chi Đại phu chi thượng, sĩ tốt vị phụ (), bách tính bất tín; nhân vi (人微), quyền khinh (權輕), nguyện đắc quân chi sủng thần, Quốc chi sở tôn, dĩ Giám quân nãi khả!

Ư thị Cảnh công hứa chi, sử Trang Giả vãng.

Nhương Thư ký từ, dữ Trang Giả ước viết:

- Đán nhật, nhật trung hội ư quân môn.

Nhương Thư tiên trì () chí quân, lập biểu () hạ lậu () đãi Giả.

Giả tố kiêu quí, dĩ vi tướng () chi quân nhi kỷ vi Giám, bất thậm cấp, thân thích, tả hữu tống chi, lưu ẩm.

Nhật trung nhi Giả bất chí, Nhương Thư tắc phó biểu (仆表), quyết lậu (決漏), nhập hành quân lặc binh (勒兵), thân minh ước thúc.

Ước thúc ký định, tịch thời Trang Giả nãi chí.

Nhương Thư viết:

- Hà hậu kỳ vi?

Giả tạ viết:

- Bất nịnh (不佞) Đại phu, thân thích tống chi, cố lưu.

Nhương Thư viết:

- Tướng thụ mệnh chi nhật tắc vong kỳ gia, lâm quân ước thúc tắc vong kỳ thân (), viện phu cổ (枹鼓) chi cấp tắc vong kỳ thân (). Kim địch quốc thâm xâm, bang nội tao động, sĩ tốt bộc lộ ư cảnh, quân tẩm bất an tịch, thực bất cam vị, bách tích chi mệnh giai huyền () ư quân, hà vị tương tống hồ?

Triệu Quân chính vấn viết:

Quân pháp kỳ nhi hậu chí giả vân hà?

Đối viết: - Đương trảm.

Trang Giả cụ, sử nhân trì báo Cảnh công thỉnh cứu.

Ký vãng vị cập phản ư thị toại trảm Trang Giả tuẩn tam quân.

Tam quân chi sĩ giai chấn lật (振慄)!

Cửu chi, Cảnh công khiển sứ giả trì tiết xá Giả, trì nhập quân trung, Nhương Thư viết:

- Tướng tại quân, quân lệnh hữu sở bất thụ!

                                    /  Sử Ký. Qu. LXIV. Tư Mã Nhương Thư truyện  /.

~ Thời Tề Cảnh công, nước Tấn đánh ấp A Chân, nước Yên xâm lấn ấp Hà Thượng, quân Tề bại trận.

Cảnh công nghĩ tới những việc này mà lo, Yến Anh do đó tiến cử Điền Nhương Thư, nói:

- Nhương Thư tuy thuộc giòng thứ của họ Điền nhưng về văn làm người ta phải phục, về làm kẻ địch phải sợ, xin nhà vua hãy thử.

Cảnh công cho gọi Nhương Thư tới, cùng luận binh pháp, (nghe xong Cảnh công) hết sức mừng rỡ, cho làm Tướng quân, chỉ huy quân binh đương đầu với quân 2 nước Yên, Tấn.

Nhương Thư nói:

- Thần vốn [xuất thân] nghèo hèn, nhà vua nâng đỡ, từ chốn xóm làngđặt vào địa vị trên cả Đại phu, như vậy quân binh không phục, dân chúng không tin tưởng; kẻ nghèo hèn địa vị phải thấp, mong được một bề tôi tin yêu nhà vua, người mà trong nước tôn kính, làm Giám quân mới được.

Cảnh công chấp thuận, sai Trang Giả tới bàn luận với Nhương Thư.

Lúc từ giã, Nhương Thư hẹn với Trang Giả:

- Ngày mai, giữa trưa sẽ gặp ở Quân doanh.

Nhương Thư tới Quân doanh trước, đặt bình nước đo giờ dưới cây nêu đo bóng nắng, chờ Trang Giả.

Trang Giả vốn là người sang cả, kiêu hãnh, nghĩ là Tướng đã tới Quân doanh, nhưng mình là Giám quân thì có gì phải gấp gáp, thân thích, kẻ thân cận đưa tiễn níu kéo thì ở lại uống.

Đến giữa trưa Trang Giả vẫn không tới, Nhương Thư cứ coi bóng nêu, coi bình đo giờ giấc mà tiến hành việc chỉ đạo tác chiến, thị sát quân binh, ban bố hiệu lệnh.

Ban bố hiệu lệnh xong thì trời đã chiều, bấy giờ Trang Giả mới tới.

Nhương Thư hỏi:

- Sao ông lại tới trễ vậy?

Trang Giả tạ lỗi, nói:

- Vì thân thích của kẻ Đại phu bất tài này đưa tiễn cho nên ở lại (uống).

Nhương Thư nói:

- Ngày mà Tướng quân nhận lệnh (nhiệm vụ) thì quên gia đình của mình, lúc đứng trước quân ban bố hiệu lệnh thì quên thân thuộc của mình, trong tình thế cấp bách của chiến trận thì quên thân mình! Hiện nay nước địch tiến vào sâu lãnh thổ ta, trong nước thì náo động, ngoài biên thùy quân sĩ chiến đấu gian khổ, vua ăn không ngon, ngủ không yên, sinh mạng của dân gắn nơi thân ông, vậy mà còn (dùng dằng) đưa tiễn nhau sao?

Nhương Thư gọi chức chấp pháp trong Quân tới hỏi:

- Trong Quân pháp, hẹn mà tới trễ thì tội ra sao?

Người này trả lời: - Tội phải chém.

Trang Giả sợ quá, sai người gấp đi báo cho Cảnh công xin cứu mạng.

Người đi báo tin chưa về Nhương Thư đã chém đầu Trang Giả cho quân sĩ cùng thấy.

Toàn quân chấn động, kinh hoàng!

Lâu lắm sau đó Cảnh công mới sai Sứ giả cầm lệnh tha tội cho Trang Giả tới, Sứ giả chạy vội vào trướng quân, Nhương Thư nói:

- Một khi Tướng ở trong Quân thì lệnh vua có lệnh không cần chấp hành.

 

Cứ như đoạn trên đây trong bộ“Sử Ký” thì rõ là Hoàng Văn Lâu đã không hiểu nghĩa của chữ Tuẩn trong câu dẫn trên của “Đại Việt Sử Ký”.

 Tôn Tử nói:

~ Tướng năng nhi quân bất ngự giả thắng.

                                                   /  Tôn Tử. Mưu công đệ tam  /.

~ Tướng tài mà không bị vua ước thúc, ràng buộc thì thắng.

 Ở một thiên khác:

~ Quân mệnh hữu sở bất thụ.

                    /  Sđd. Cửu biến đệ bát  /.

~ Lệnh vua có lệnh không chấp hành.

 

Tư Mã Thiên (145 - 86 ? tr. Cn) viết:

~ Thượng dĩ Hồ khấu vi ý, nãi tốt phục vấn Đường viết:

- Công hà dĩ tri ngô bất năng dụng Liêm Pha, Lý Mục dã?

Đường đối viết:

- Thần văn thượng cổ Vương giả chi khiển tướng dã, quị nhi suy cốc viết:

- Khổn dĩ nội giả quả nhân chế chi, khổn dĩ ngoại giả Tướng quân chế chi.

                                           /  Sử Ký. Qu. CII. Phùng Đường truyện  /.

~ Vua lo việc rợ Hồ vào cướp phá, rốt cục lại phải hỏi (Phùng) Đường:

- Sao ông biết ta không dùng Liêm Pha, Lý Mục được?

(Phùng) Đường trả lời:

- Thần nghe nói, thời thượng cổ bậc Vương giả khi sai Tướng hành quân tác chiến thì quì xuống đẩy phần che đầu trục bánh xe (trận), nói:

- Từ cửa thành trở vào thì quả nhân ra lệnh, từ cửa thành trở ra thì Tướng quân ra lệnh!                       

 Ở đoạn trên Điền Nhương Thư cũng nói - “Tướng tại quân, quân lệnh hữu sở bất thụ!”.

 

Cứ đây thì Trang Giả sao mà thoát chết được, cho dầu người Trang Giả sai đi cầu cứu vua có về kịp đi nữa!].

 Năm thứ 6 Niên hiệu Xương Phù, năm 1382.

~ Nhâm Tuất lục niên. Xuân.

Nhị nguyệt.

Chiêm Thành nhập khấu Thanh Hóa.

Mệnh Quí Li lãnh quân ngự chi, đồn Long Đại sơn (龍岱山).

Hựu dĩ Thần Khôi (神魁) quân tướng Nguyễn Đa Phương thủ Thần Đầu hải đang ().

Chiêm nhân thủy, bộ câu tiến, tại sơn thượng dĩ thạch đầu hạ, quân hạm đa tổn hoại.

Đa Phương bất đãi Quí Li lệnh, tự khai thung xuất chiến, nhất thời thủ thắng.

Chư quân thừa thắng công chi, Chiêm nhân đại bại tán nhập sơn lâm.

Ngã quân vi sơn tam nhật, tặc đa ngạ tử, thiêu tận chu thuyền, dư chúng bôn bắc.

Tam nguyệt.

Truy chí Nghệ An thành nhi hoàn.

Như đã dẫn trên  /.

~ Năm Nhâm Tuất, năm thứ 6. Mùa Xuân.

Tháng 2.

Chiêm Thành vào cướp phá Thanh Hóa.

Vua sai (Lê) Quí Li cầm quân chống cự, đóng quân ở núi Long Đại.

Lại sai Nguyễn Đa Phương dẫn quân tướng đội Quân Thần Khôi ra giữ hàng cọc cắm ở cửa biển Thần Đầu chống giặc.

Quân Chiêm thủy quân, bộ binh cùng tiến, (quân ta) trên núi tuôn đá xuống, chiến hạm của Chiêm Thành bị tổn hại nhiều.

Đa Phương không chờ lệnh của Quí Li, tự đem quân mở hàng cọc (cắm ở cửa biển) ra đánh, nhất thời chiến thắng.

Quân tướng thừa thắng tấn công, quân Chiêm đại bại chạy tán loạn vào rừng núi.

Quâ ta vây núi 3 ngày, phần lớn quân giặc bị chết đói, đốt hết thuyền, còn lại bỏ chạy.

Tháng 3.

Quân ta truy kích quân Chiêm tới thành Nghệ An rồi về.

 ~ Quí Hợi thất niên. Xuân.

Chinh nguyệt.

Mệnh Quí Li lãnh chu sư phạt Chiêm Thành.

Thời tân tạo đại sưu () hữu Diễm Trị (艷治), Vương Đột (王突), Nha Tiệp (牙捷) đẳng hiệu (). Hành chí Lại Bộ Nương loan (吏部娘灣), Ô Tôn (烏噂) đẳng xứ, bị phong đào chiết hoại, dẫn quân hoàn.

Hạ, lục nguyệt.

Chiêm Thành chủ Chế Bồng Nga dữ thủ tướng La Ngai (羅皚) dẫn chúng lục hành sơn cước do Quảng Uy trấn tiêu lộ (哨路), đồn Khổng Mục sách (孔目冊). Kinh sư chấn hãi!

Thượng hoàng mệnh Hoa Ngạch (華額) quân tướng Lê Mật Ôn tương binh ngự chi.

Mật Ôn chí Tam Kỳ (三岐) Châu (kim Quảng Uy Phủ thị dã) dục liệt trận cự chiến; tặc tiên thiết phục, binh, tượng câu khởi, quan quân bại bắc (敗北), Mật Ôn vị tặc sở cầm.

Chiêm Thành tự Lê, Lý dĩ lai binh, chúng thuế khiếp (脆怯), ngã sư chí tắc khế () gia bôn độn, hoặc tụ khốc qui hàng. Chí Bồng Nga, La Ngai trang tụ giáo huấn, tiệm cách cựu tục, dũng hán (), nại khổ, cố thường nhập khấu, vi ngã quốc hoạn.

Nguyễn Đa Phương đốc quân lập sách () ư Kinh Thành, nhật dạ thủ bị.

Thượng hoàng hạnh Đông Ngạn giang dĩ tỵ tặc. Thời hữu sĩ nhân Nguyễn Mộng Hoa y quan hạ thủy khiên vãn ngự chu thỉnh lưu thảo tặc, bất thính.

Độc bạ Trần Công Nhiễu kỵ mã tuần sách, tặc truy chi; bôn chí Cát Giang giới, trở mãn trượng hứa mã dược quá chi đắc thoát, nhân danh kỳ mã Tử Bất Tề.

Đông thập nhị nguyệt.

Chiêm Thành dẫn chúng hoàn.

Như đã dẫn trên  /.

~ Năm Quí Hợi, năm thứ 7. Mùa Xuân.

Tháng Giêng.

Sai Quí Li thống lãnh thủy quân đi đánh Chiêm Thành.

Bấy giờ ta vừa đóng xong các loại thuyền lớn có tên Diễm Trị, Vương Đột, Nha Tiệp. Thuyền đi tới vịnh Lại Bộ Nương, Ô Tôn thì gặp bão làm hư hoại, phải dẫn quân về.

Mùa Hè, tháng 6.

Vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga và đại tướng thống suất Quân đội La Ngai đem quân theo đường núi từ trấn Quảng Uy dò đường, đóng quân ở làng Khổng Mục. Kinh thành kinh hoàng chấn động!

Thượng hoàng sai tướng Lê Mật Ôn của Quân Hoa Ngạch đem binh chống giặc.

Mật Ôn đi tới Châu Tam Kỳ (nay là Phủ Quảng Uy), sắp sửa dàn trận cự chiến; trước đó giặc đã đặt phục binh, quân binh, voi trận cùng lúc đổ ra, quan quân bại trận, Mật Ôn bị giặc bắt.

Từ các triều Lê, Lý quân binh và dân chúng Chiêm Thành đều khiếp nhược, hễ quân ta tới thì dắt díu gia đình chạy trốn, hoặc không thì tụ tập (một chỗ) khóc lóc ra hàng. Đến (Chế) Bồng Nga, La Ngai thì tụ tập quân, dân lại dạy dỗ, để rồi dần sửa đổi thói tục cũ mà trở nên dũng mãnh, chịu được cực khổ, do đó, thường vào cướp phá, là mối lo của Quốc gia! 

Nguyễn Đa Phương đôn đốc quân binh dựng rào tre chắn vòng Kinh Thành, ngày đêm phòng bị.

Còn thượng hoàng thì qua sông Đông Ngạn để lánh giặc. Lúc đó, có một người học trò tên Nguyễn Mộng Hoa để nguyên cả áo mũ lội xuống nước níu kéo thuyền vua xin vua ở lại đánh giặc, (thượng hoàng) không nghe!

Chức Độc bạ Trần Công Nhiễu cỡi ngựa đi tuần quanh rào thành bị giặc rượt; chạy tới địa phận Cát Giang, gặp cái rạch rộng 1 trượng chắn ngang, ông thúc ngựa phóng qua  nhờ vậy mà thoát, nhân đó đặt tên cho con ngựa của mình là Tử Bất Tề.

Tháng Chạp, mùa Đông.

Chiêm Thành dẫn quân về.

[Chú thích.

+ đại sưu () hữu Diễm Trị (艷治), Vương Đột (王突), Nha Tiệp (牙捷) đẳng hiệu ().

(các loại thuyền lớn có tên Diễm Trị, Vương Đột, Nha Tiệp).

Vương Đột, Hoàng Văn Lâu ghi sai là Ngọc Đột.

Chữ trong nguyên tác Hán văn không có dấu chấm ở mé dưới bên phải].

 + Thượng hoàng ở đoạn trên chỉ Trần Nghệ tông].

                                                                          &

(KỲ 13)

Chiêm Thành và An Nam.

Về khởi nguyên của Chiêm Thành thì không còn tài liệu nào xác định thời điểm thành lập của Quốc gia này bắt đầu từ năm nào.

Đại khái, theo Stephen Oppenheimer, trong cuốn Eden in the East, thì vào lối 2,000 năm trước Tây lịch dân tộc Chàm đã xuất hiện ở Việt Nam.

(Tham khảo: Eden in the East. Chapter 3. WET FEET. D’ou les Champs).

Theo tự thuật của Sử học gia Đỗ Hựu (735 - 812) đời Đường (618 - 907) thì vào năm thứ 3 Niên hiệu Sơ Bình (190 - 193) - năm 192, thời Hán Hiến đế (181 -234; tại vị: 190 - 220) có viên Công tào huyện Tượng Lâm tên Khu Liên nổi dậy giết huyện lệnh sở tại, lên làm vua.

Tới triều Ngô (222 - 280), Tam Quốc (220 - 280), thì thông Sứ với Trung Quốc.

(Tham khảo: Thông Điển. Qu. CXXCVIII. Biên phòng 4. Nam Man hạ. Lâm Ấp).

 Huyện Tượng Lâm được thành lập năm thứ 14 Niên hiệu Vĩnh Nguyên (89 - 105) vào triều Hán Hòa đế (79 - 105; tại vị: 89 - 105), năm 102.

(Tham khảo: Hậu Hán Thư. Qu. IV. Đế kỷ. Hiếu Hòa hoàng đế).

 Sau đó vì không dẹp được Hán triều đành cắt một phần của Quận Nhật Nam cho Khu Liên mà phân giới là ở Hiện Cảng Loan (tức Vịnh Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam hiện nay).

Huyện thành Tượng Lâm nằm ở phía Tây nam Cảng Đà Nẵng và thành phố Hội An - cách Đà Nẵng 33 cây số, cách Hội An 15 cây số, ở Vĩ độ 15o 42’ 04”.

Tới triều Ngô thời Tam Quốc địa giới Lâm Ấp lên tới Quảng Trị hiện nay.

Tới triều Tây Tấn (265 - 317) tiếp đó Lâm Ấp bị đẩy lui xuống, về lại vị trí ở Vịnh Đà Nẵng.

Thời Đông Tấn (317 - 420) Lâm Ấp lấn lên tới huyện Chu Ngô (nay là Quảng Bình).

Sau đó, tới Nam Bắc triều (420 - 589), trải các vương triều Trung Hoa ở phương Nam, như Tống (420 - 479), Tề (479 - 502), Lương (502 - 557), Trần (557 - 589), Lâm Ấp lấn nữa lên tới Hoành Sơn, ở khoảng Vĩ tuyến 18o, giữa 2 tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh hiện nay.

Sau cùng tới 2 triều Tùy (581 - 618), Đường (618 - 907) thì đại khái phân giới giữa Lâm Ấp và Giao Chỉ nằm ở Vĩ tuyến 18 này.

Sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng thì phân giới giữa Chiêm Thành và Giao Chỉ cũng ở Vĩ tuyến 18 này.

Khoảng trung kỳ Niên hiệu Trinh Quan (627 - 650) Lâm Ấp đổi tên là Hoàn Vương Quốc.

(Tham khảo: Đường Hội Yếu. Qu. XCVIII).

 Khoảng đầu Niên hiệu Nguyên Hòa (806 - 820) đổi tên là Chiêm Thành.

(Tham khảo: Thù Vực Chu Tư Lục. Qu. VII. Nam Man. Chiêm Thành).

Mùa đông năm Mậu Tuất (năm 938), sau khi đánh bại quân Nam Hán (917 - 970) trên sông Bạch Đằng (白藤), Giao Chỉ thành một Quốc gia độc lập, sau hơn 1,000 năm Bắc thuộc, từ mùa Đông năm 111 trước Tây lịch tới tháng 10 năm này (111 tr. Cn - 938). 

Cũng từ năm này trở đi bắt đầu thời kỳ Giao Chỉ bành trướng về phương Nam - với những cuộc chiến tranh dai dẳng với Chiêm Thành, vốn là chủ của mảnh đất phương Nam.

 Chiến tranh với Giao Chỉ.

Sau khi kiến lập nước Lâm Ấp năm 192 người Chiêm thường xuyên dẫn quân lên phía Bắc đánh phá các quận Cửu Chân, Nhật Nam.

Từ cuối thời Đông Hán (25 - 220) tới các triều Ngô (222 - 280) - Tam Quốc (220 - 280) cho tới Tấn triều (265 - 420), rồi tiếp theo đó qua thời kỳ Nam Bắc triều (420 - 589) với các triều Tống (420 - 479), Tề (479 - 502), Lương (502 - 557), Trần (557 - 589) - và cuối cùng là các triều Tùy (581 - 618), Đường (618 - 907), và vào khoảng nửa thời kỳ Ngũ Đại (907 - 960) - hơn 700 năm, Lâm Ấp luôn luôn khuấy động vùng biên phía Nam Giao Chỉ.

Tóm lại, từ năm 192 tới năm 938, 746 năm, chiến tranh liên miên ở vùng Nam biên.

Trong khoảng thời gian nói trên Trung Quốc thường xuyên phải lo đối phó với những cuộc nổi dậy giành độc lập của Giao Chỉ, và hơn nữa, đường xá lại xa xôi, đây là những yếu tố Chiêm Thành lợi dụng triệt để lên mặt Bắc chiếm lại đất đai của Tổ tiên họ!

Sau khi Giao Chỉ độc lập thì Chiêm Thành rồi trở thành “mối lo sát bên” của Giao Chỉ.

Trong những lần xâm lăng Giao Chỉ vào thời “Hậu Bắc thuộc” Trung Quốc đã những lần sai Sứ tới Chiêm Thành để liên kết tấn công Giao Chỉ ở mặt sau.

Trong một tình thế như thế, “hành trình đi về phương Nam” của Giao Chỉ sau này, do đó, là điều tất yếu!

Đã biết, quân Nhật Nam của triều Tây Hán tận cùng ở Vĩ độ 12o 48’.

Vào buổi đầu thành lập Lâm Ấp, phân giới mặt Bắc của Lâm Ấp với quận Nhật Nam nằm khoảng vịnh Đà Nẵng ngày nay, ở tại Vĩ độ 16o 02’ - nói khác đi, khi Lâm Ấp mới thành lập Hán triều đã mất đi một phần khá lớn quận Nhật nam, từ Vĩ độ 16o 02’ xuống tới 12o 48’.

Trải các triều sau đó, vì ở quá xa, Trung Quốc không thể đánh dẹp được cho nên Lâm Ấp đã từ Vĩ độ 16o lấn dần lên tới dãy Hoành Sơn ở Vĩ độ 18o.

Từ cuối thời Đông Tấn (317 - 420) người Chiêm đã muốn phân giới tại dãy Hoành Sơn.

Bộ “Thái Bình Hoàn Vũ Ký” viết:

~ ….. Đông Tấn mạt, công hãm Nhật Nam quận, cáo Giao Châu Thích sử Cát Phiên (吉蕃) cầu dĩ Nhật Nam quận Bắc giới Hoành Sơn vi giới.

       /  Thái Bình Hoàn Vũ Ký. Qu. CLXXI. Lãnh Nam đạo 15. Lâm Châu  /.

~ …… Cuối thời Đông Tấn, [Lâm Ấp] vây hãm quận Nhật Nam, nói với Cát Phiên, Thích sử Giao Châu, xin lấy phân giới phía Bắc của quận Nhật Nam là Hoành Sơn làm phân giới.

(Phụ chú.

+ Cát Phiên (吉蕃).

Phần “Hiệu khám ký” (校勘記), ghi số hạng 48, của Vương Văn Sở ở cuối Quyển CLXXI bộ Địa chí Thái Bình Hoàn Vũ Ký dẫn trên, viết:

~ [48]. Cát Phiên, Cát, “Cựu Đường Thư”. Địa lý chí 4, tác Chu (); thử Cát cái vi Chu tự chi ngộ.

~ [48]. Cát Phiên, chữ Cát bộ “Cựu Đường Thư”. Địa lý Chí 4, viết là Chu (); tóm lại chữ Cát này chính là chữ Chu viết lầm).

Minh Di:

+ Thực ra, trước “Cựu Đường Thư”, bộ “Thông Điển” của Đỗ Hựu (735 - 812) đời Đường đã chép đúng là “Chu Phiên”.

Tham khảo: Thông Điển. Qu. CXXCVIII. Biên phòng 4. Lâm Ấp.

Nghiêm Tòng Giản trong cuốn “Thù Vực Chu Tư Lục” chép đúng là Chu Phiên (朱蕃).

(Tham khảo: Thù Vực Chu Tư Lục. Qu. VII. Nam man. Chiêm Thành). 

 Trong khoảng mấy trăm năm kể trên, có một khoảng thời gian ngắn là 8 năm - từ năm 802 tới năm 809, Lâm Ấp đã chiếm lãnh các Châu Hoan (Nghệ An), Châu Ái (Thanh Hóa) - tức trải từ Vĩ độ 18o tới Vĩ độ 20o.

Trong khoảng 8 năm nói trên Lâm Ấp đã thành lập cơ cấu chính quyền tại 2 Châu này, cho tới tháng 8 năm 809 thì bị chức An Nam Đô hộ Trương Đơn đánh bại.

Sau năm 809 có lẽ Lâm Ấp đã lui về vĩ tuyến 18, và ở vị trí này tới hết thời Đường, cho đến giữa thời Ngũ Đại, khi Giao Chỉ độc lập vào năm 938.

Từ sau thời Đông Hán, 3 triều Ngụy (220 - 265), Thục (221 - 263), Ngô (222 - 280), Sử học gọi là Tam Quốc, Trung Quốc vẫn loạn lạc.

Tiếp đó, Tấn triều (265 - 420) thống nhất Trung Quốc, nhưng bên trong thì xã hội mơ màng trong không khí “thanh đàm”, chính sự do đó đồi phế, bên ngoài thì các Bộ tộc phương Bắc lần lượt kiến lập 16 nước nhiễu loạn Trung Quốc cuối thời Tây Tấn (265 - 317, từ năm 304 tới năm 439, tức suốt triều Đông Tấn (317 - 420). Quân vương 16 nước này hầu hết thuộc 5 Chủng tộc Hung nô (匈奴), Tiên ty (鮮卑), Kiệt (), Đê (), Khương () ¾ mà Sử học Trung Quốc gọi chung là “Ngũ Hồ” (五胡), và cái loạn phát xuất từ 16 nước ngoại tộc này được gọi là “Ngũ Hồ loạn Hoa”. Hán tộc tới thời điểm này đã suy nhược, vì việc này càng không gượng lên được.

Tháng 9 năm 439, năm Thái Diên thứ 5 (435 - 440) Thái Vũ đế (408 - 452; tại vị: 423 - 452) triều Bắc Ngụy (386 - 534) thống nhất miền Bắc, chấm dứt thời kỳ “Thập lục quốc” nói trên.

Sau Tấn triều là các triều đại ngắn ngủi tiếp nhau ở Nam và Bắc Trung Hoa.

Nam triều có 4 triều Tống, Tề, Lương, Trần (đã nói ở trước).

Bắc triều gồm 5 triều là Bắc Ngụy (386 - 534), Đông Ngụy (534 - 550), Bắc Tề (550 - 577), Tây Ngụy (535 - 556) và sau cùng là Bắc Chu (557 - 581).

Trong các triều nói trên chỉ mỗi Bắc Ngụy tương đối bền vững hơn hết, được 148 năm.

Thời lượng ngắn ngủi của các triều đại thời kỳ này cho thấy đây là những triều đại bất ổn. Việc xâm phạt lẫn nhau giữa các Vương triều thời kỳ nàynguyên nhân chủ yếu của sự ngắn ngủi đó.

Trong một tình thế như vậy Lâm Ấp có khuấy động ở phương Nam cũng là điều dễ hiểu.

Nhưng từ sau khi Giao Chỉ độc lập thì tình thế rồi có khác!

Với các triều Ngô (939 - 965), Đinh (968 - 980) và Tiền Lê (980 - 1009) trong một buổi đầu độc lập, nền móng Quốc gia chưa được vững vàng, phải chuyển qua triều Lý (1009 - 1225) Giao Chỉ mới thực sự trở thành một Quốc gia hùng mạnh ở phương Nam - và cũng từ đây Giao Chỉ mới có kế hoạch qui mô tiến về phía Nam.

Như đã nói ở một đoạn trước, mỗi lần chuẩn bị đánh Giao Chỉ thì Trung Quốc hầu như đều sai Sứ giả hoặc gián điệp qua Chiêm Thành giao ước cùng hợp lực tấn công Giao Chỉ - có lúc tuy thuận, có lúc không, nhưng Chiêm Thành thường là khoanh tay thủ lợi - ngay cả khi đã đồng ý với Trung Quốc.

Chiêm Thành là một mối lo sau lưng Giao Chỉ không thể không có kế hoạch diệt nước này! Tuy thần phục Giao Chỉ thế nhưng Chiêm Thành vẫn rình rập cơ hội đưa quân đánh phá ở vùng biên thùy 2 nước.

Từ buổi đầu độc lập Giao Chỉ đã có chiến tranh với Chiêm Thành, để từ đây hai Quốc gia phát sinh hiềm thù, mối thù không thể hóa giải, khi nào một Quốc gia bị diệt vong mới thôi!

Bộ “Tống Sử” chép:

~ Vương sư thảo Giao Chỉ, dĩ kỳ tố cừu, chiếu sử thừa cơ hiệp lực trừ đãng Hành doanh!

Chiến trạo () Đô giám Dương Tòng Tiên khiển tiểu hiệu Phàn Thực dụ chỉ.

Thực hoàn, ngôn tuyển binh thất thiên nễ () tặc yếu lộ. Kỳ vương dĩ mộc diệp (木葉) thư hồi điệp.

Chiếu sử thượng () chi, nhiên dịch bất năng thành công.

Hậu lưỡng Quốc đồng nhập cống, Chiêm Thành Sứ giả khất tỵ Giao nhân!

Chiếu ngộ sóc () triều Văn Đức, diện phân Đông, Tây lập, vọng () tắc Giao nhân nhập Thùy Củng (垂拱) điện nhi Chiêm Thành xu Tử Thìn (紫宸). Đại yến tắc Đông, Tây tọa!

                         /  Tống Sử. Qu. CDXXCIX. Ngoại quốc 5. Chiêm Thành  /.

  ~ Lúc quân triều đình đánh Giao Chỉ, nhân Chiêm Thành vốn thù hận Giao Chỉ, triều đình ra chiếu chỉ nói nên thừa cơ hội này mà tiêu diệt doanh trại hành quân của Giao Chỉ!

Chức Chiến trạo Đô giám Dương Tòng Tiên sai một chức lại nhỏ tên Phàn Thực qua Nước Chiêm Thành nói rõ ý định này. 

Phan Thực trở về nói Chiêm Thành [sẽ] chọn 7,000 quân chặn những con đường hiểm yếu của giặc, vua xứ này có viết thư trên lá cây hồi đáp.

Vua ra chiếu tiến hành mưu tính trước đây, nhưng cuối cùng cũng không thành công!

Sau này 2 Nước cùng vào triều cống, Sứ giả Chiêm Thành xin tránh gặp người Giao Chỉ!

Vua ra lệnh là ngày mồng 1 triều kiến ở điện Văn Đức thì người của 2 Nước phân ra đứng bên Đông, bên Tây, ngày rằm thì người Giao vào điện Thùy Củng, và người Chiêm thì vào điện Tử Thìn. Có tiệc lớn thì một Nước ngồi bên Đông, một Nước ngồi bên Tây!

(Phụ chú.

+ Thư viết trên lá cây.

Lá cây đây tức lá Bồ đề.

 + Thùy Củng (垂拱).

Thùy tức “thùy y”, là “thõng tay áo”, Củng tức “củng thủ”, là “chắp tay”.

Ý nói “thõng tay áo, chắp tay” mà thiên hạ thái bình, tức vô vi nhi trị.

Chữ từ sách “Thượng Thư”:

~ Đôn tính minh nghĩa, sùng đức báo công, thùy củng nhi thiên hạ trị.

Thượng Thư. Chu Thư. Vũ Thành  /.

~ Đôn hậu thành tín, làm rõ cái nghĩa, trọng đức, thưởng công phân minh, chỉ thõng tay áo, chắp tay mà thiên hạ thái bình.

(Đây là câu cuối của thiên “Vũ Thành”).

 + Tử Thìn (紫宸).

Dưới 2 triều Đường, Tống, Điện chánh của Nội điện đều có tên “Tử Thìn”, là nơi vua tiếp Đình thần và Sứ giả ngoại quốc tới chúc mừng vua trong những dịp lễ.

Thìn (cũng đọc âm Thần) là vị trí của sao “Bắc Cực”, sau suy rộng ra là “Vương vị”, hoặc bậc Đế vương).

Cũng bộ “Tống Sử” chép:

~ Thuần Hóa nguyên niên, tân vương Dương Đà Bài tự xưng tân tọa Phật Thệ Quốc.

Dương Đà Bài khiển Sứ Lý Trăn cống tuần tê, phương vật (方物), biểu tố vị Giao Châu sở công, Quốc trung nhân dân tài bảo giai vị sở lược!

Thượng tứ Lê Hoàn chiếu lệnh các thủ cảnh.

                         /  Tống Sử. Qu. CDXXCIX. Ngoại quốc 5. Chiêm Thành  /.

~ Năm thứ nhất Niên hiệu Thuần Hóa vua mới là Dương Đà Bài tự xưng là vừa lên ngôi ở Nước Phật Thệ.

Dương Đà Bài sai Sứ giả tới cống tê giác đã được nuôi dạy thuần thục, thổ sản. Dâng biểu tố cáo bị Giao Châu đánh, tài sản, vật quí của dân chúng trong nước bị cướp sạch!

Vua ban chiếu chỉ lệnh cho Lê Hoàn là nước nào giữ biên cảnh của nước đó!

(Thuần Hóa [990 - 994]. Niên hiệu của Tống Thái tông [939 - 997; tại vị: 976 - 997]).

 + Phật Thệ Quốc.

Phật Thệ là Kinh đô của Chiêm Thành, nói “Phật Thệ Quốc” tức chỉ nước Chiêm Thành].

Minh Di:

Sự kiện Lê Hoàn (941 - 1005; tại vị: 980 - 1005) đánh Chiêm Thành “Tống Sử” chép ở trên không thấy “Đại Việt Sử Ký” ghi lại.

Trước đây, Giao Chỉ còn dưới sự đô hộ của Trung Quốc thì Chiêm Thành không triều cống Trung Quốc. Sau khi Giao Chỉ độc lập, Chiêm Thành bị áp lực nặng nề của Giao Chỉ do đó đã thay đổi chính sách ngoại giao mà thường qua tiến cống Trung Quốc để cầu cứu.

6 năm sau, vào năm đầu Niên hiệu Chí Đạo (995 - 997),Chiêm Thành sai Sứ vào cống, và trong bài biểu tiến cống Dương Đà Bài có đoạn viết:

~ …. Cận mông hoàng đế tứ thần nội hàn (內閑) tổ tuấn, cập kỳ xí, binh khí đẳng, lân Quốc văn chi tri thần hà () đại Quốc chi sủng nhi các cụ thiên uy bất cảm mưu hại! - Kim thần nhất Quốc an ninh lưu dân lai phục, nhược phi hoàng đế thiên đức gia hộ hà dĩ chí thử!

                            /  Tống Sử. Qu. CDXXCIX. Ngoại quốc 5. Chiêm Thành  /.

~ ….. Gần đây nhờ hoàng đế ban cho thần những ngựa hay trong chuồng ngựa của hoàng đế và cờ xí, binh khí, các Nước láng giềng nghe được việc này, biết thần được lòng tin yêu của Nước lớn thì đều sợ uy trời mà không dám mưu hại! - Hiện nay thì cả nước của thần được yên ổn, dân chúng qua lại bình an, (việc này) nếu không được đức trời của hoàng đế gia hộ thì sao được như vậy! 

 Ở một đoạn dưới “Tống Sử” liệt kê cống vật lần này của Chiêm Thành gồm có:

Sừng tê 10 cái. Ngà voi 1 cặp. Vỏ đồi mồi 10 cân.

Long não 2 cân. Trầm hương 100 cân. Tiên hương, Hoàng thục hương tất cả là 90 cân, và Đàn hương 160 cân.

Gà rừng 24,300 cặp (48,600 con). - Trước đây trong bài “Đi về phương Nam”, 24,300 cặp tôi ghi sai 24,300 con, xin cáo lỗi và sửa lại). Hồ tiêu 200 cân.

Chiếu lạt tre (điểm tịch [簟席]) 5 cái.

(1 Cân thời Tống = 596.82 gr.).

[Chú thích.

+ Nội hàn (內閑). Tổ tuấn (駔駿). Chữ “hàn” () nghĩa là “chuồng ngựa” (mã cứu [廄]).

Các chữ tổ, tuấn đều có nghĩa là ngựa hay, ngựa tốt].

 Về mặt Quân sự của Chiêm Thành bộ “Tống Sử” chép:

~ Gia Hựu thất niên. Chinh nguyệt.

Quảng Tây An Phủ Kinh Lược Ty ngôn Chiêm Thành tố () bất tập binh, dữ Giao Chỉ lân thường khổ xâm dật, nhi Chiêm Thành phục cận tu vũ bị dĩ kháng Giao Chỉ.

                         /  Tống Sử. Qu. CDXXCIX. Ngoại quốc 5. Chiêm Thành  /.

~ Năm thứ 7 Niên hiệu Gia Hựu. Tháng Giêng.

Ty An Phủ Kinh Lược Quảng Tây nói rằng Chiêm Thành vốn không tập luyện Quân sự, ở sát bên Giao Chỉ thường bị khổ vì bị xâm lấn, đánh phá, bởi thế mà gần đây chỉnh đốn việc võ bị để chống Giao Chỉ.

(KỲ 14)

(Phụ chú.

Gia Hựu [1056 -1063]. Niên hiệu của Tống Nhân tông [1010 - 1063; tại vị: 1022 - 1063]).

Nhận xét trên đây của Ty An Phủ Kinh Lược Quảng Tây cho thấy tới đầu triều Bắc Tống Chiêm Thành lơ là việc Quân sự.

Nguyên nhân là, như đã dẫn ở một đoạn trước đây, Chiêm Thành quá ỷ lại vào sự bảo vệ của Trung Quốc.

Từ khi thành lập Vương quốc Lâm Ấp Chiêm Thành đã không ngừng tiến lên mặt Bắc, và có lúc đã mở rộng lãnh thổ đến Vĩ tuyến 20o. Dầu thời đó Trung Quốc yếu kém, không giữ được đất đai đã chiếm, nhưng nếu người Chiêm cũng yếu kém thì không thể nào đạt được kết quả như vậy!

Thế nhưng, càng về sau Quốc thế ngày càng suy đồi, thêm vào đó lại ở sát bên một Nước Giao Chỉ mới độc lập, tinh thần bắt đầu lên cao, áp lực từ  phía Giao Chỉ, do đó, ngày càng nặng hơn. Từ đó Chiêm Thành phải dựa vào Trung Quốc để mưu cầu 1 sự yên ổn nào đó!

Lúc đầu thì như vậy, về sau thì Chiêm Thành thấy được rằng không chỉ thuần dựa thế lực nước ngoài để giữ nước, Chiêm Thành chỉnh đốn, tổ chức lại Quân đội cũng là do nhận ra vấn đề nói trên. Có điều Chiêm Thành đã không thấy được 1 vấn đề quan trọng hơn nữa!

 Sử học gia Âu Dương Tu (1007 - 1072) viết:

~ Ngũ Đại tứ di kiến Trung Quốc giả viễn bất quá Vu Điền, Chiêm Thành. Sử chi sở kỷ kỳ Tây bắc phả tường nhi Đông nam vưu lược, cái kỳ viễn nhi hãn chí, thả bất vi Trung Quốc lợi hại vân!

               /  Tân Ngũ Đại Sử. Qu. LXXIV. Tứ di. Phụ lục 3. Chiêm Thành  /.

 ~ Thời Ngũ Đại, các nước Man di ở bốn phía đến triều kiến Trung Quốc, xa nhất thì không Nước nào xa hơn Vu Điền, Chiêm Thành. Sử thư ghi chép về vùng Tây bắc Trung Quốc rất tường tận, trong khi về vùng Đông nam lại chép rất sơ lược, đây là các Nước ở phía Đông nam xa xôi nên ít lui tới, lại nữa, các Nước trong vùng này rồi không liên quan gì đến cái lợi cũng như cái hại của Trung Quốc!

Từ  thời Tây Hán (206 tr. Cn. - 08 Cn) tới thời Thanh (1644 - 1911), hơn 2,000 năm, vấn đề của Trung Quốc - hay nói như Âu Dương Tu, “cái lợi và cái hại” của Trung Quốc chủ yếu ở các mặt Tây bắc, và Bắc - do đó, sự tranh chấp của các Quốc gia ở mặt Nam Trung Hoa phương Bắc rất dửng dưng!

Không nhận ra điều nói trên đây cho nên Chiêm Thành có đi tới sự diệt vong cũng không là việc ngạc nhiên nữa là đáng ngạc nhiên!

Mặt kia, nếu như Trung Quốc ở những thời trước mà “không dửng dưng” trước sự tình ở mặt Nam thì việc gọi là “Nam tiến” của Giao Chỉ những thời trước khó mà hoàn thành, nếu không muốn nói là không bao giờ xảy ra!

Mặt kia, có những người viết và chép sử Việt Nam ở thời cận đại thường tự hào về sự kiện gọi là “Nam tiến” của Việt Nam đời trước, thế nhưng, những người này đã không phân tích cho cùng tận lẽ được tại sao lại thành công? - hay nói khác đi, những người viết sử này không nhận ra được nguyên nhân thành công của cuộc Nam tiến này! 

 Tới đây cũng cần nhấn mạnh một điểm, Giao Chỉ vẫn cho rằng Chiêm Thành là một nước Man di mọi, bởi vậy cũng không lạ Giao Chỉ đã gọi Chiêm Thành là nước “Hồ Tôn” (狐孫) - hoặc “Hồ Tôn Tinh Quốc” (狐孫精國).

Hồ tôn là tên 1 giống khỉ, Hán gọi là di hầu (獼猴), Anh ngữ, Pháp ngữ gọi là macaque.

Hồ Tôn Tinh Quốc có nghĩa “Nước Khỉ Yêu Tinh- qua tên gọi trên đây thì có thể thấy rõ sự ngạo mạn của giới nho sĩ Việt Nam ngày trước.

(Tham khảo:

Lĩnh Nam Chích Quái Liệt Truyện. Qu. I. Hồng Bàng thị truyện.

Thiên Nam Vân Lục [天南雲籙]. Qu. II. Dạ Xoa Vương Truyện [夜叉王傳]).

 Sự việc rồi có khác gì Trung Quốc vẫn coi các nước ở bốn phía là Man di mọi rợ, trong đó có Giao Chỉ.

Tóm lại, thực dân thì thực dân nào cũng như nhau!

 Trở lại vấn đề Quân sự của Chiêm Thành và Giao Chỉ.

Muốn tổ chức một Quân đội hùng mạnh thì phải tập luyện thường xuyên, và bên cạnh đó phải nuôi quân, quân có đủ ăn, đủ mặc Quân đội mới mạnh

Bộ “Tống Sử” chép:

~ Thắng binh (勝兵) vạn dư nhân, nguyệt cấp canh mễ (粳米) nhị hộc, Đông, Hạ y bố các tam thất chí ngũ thất ().

                   /  Tống Sử. Qu. CDXXCIX. Ngoại quốc 5. Chiêm Thành  /.

~ Quân tinh nhuệ có hơn 10,000 người, mỗi tháng mỗi quân binh được cấp cho 2 hộc gạo loại ít nhựa, mùa Đông, mùa Hè cấp vải vóc quần áo từ 3 tới 5 tấm vải.

(Phụ chú.

+ Hộc. Thời cổ 1 hộc = 10 Đấu, 1 Đấu = 10 thăng, tức 1 Hộc = 100 thăng.

Cuối thời Nam Tống (1127 - 1279) thì Giả Tự Đạo (1213 - 1275) định lại 1 Hộc = 5 Đấu.

1 thăng thời kỳ này (thời Bắc Tống (960 - 1127) tính ra Hệ thống SI = 0.6641 L.

200 thăng = 200 x 0.6641 L = 132.82 L, tính ra Kg: 132.82 L x ¾ = 99.615 Kg.

Con số này vô lý, có thể là cấp cho cả gia đình, Tống Sử lại không nói rõ điểm này).

So sánh với mức cấp dưỡng của quân binh Giao Chỉ.

Theo Phạm Thành Đại (1126 - 1193) thời Nam Tống thì Quân đội Giao Chỉ thời kỳ này:

~ Binh sĩ nguyệt nhất tiển canh (踐更), hạ () tắc canh chủng công nghệ (工藝) tự cấp.

Chinh nguyệt thất nhật nhân các cấp tiền tam bách, trừu, quyên, bố các nhất thất, như trừu cương nhi mông chi dĩ miên. Nguyệt cấp hòa thập thúc.

Dĩ nguyên nhật khao quân, nhân đắc đại hòa phạn nhất bàn, ngư trả (魚鮓) sổ mai ().

Kỳ địa đa chiêm mễ (占米), cố dĩ đại hòa vi quí.

Quế Hải Ngu Hành Chí. Chí Man  /

~ Quân binh thì mỗi tháng thay phiên nhau một lần, lúc rảnh rỗi thì trồng trọt, cày cấy, hoặc làm các nghề để sinh sống.

Ngày mồng 7 tháng Giêng thì cấp cho mỗi người300 tiền, các thứ vải vóc loại thường như trừu, quyên, bố mỗi thứ 1 tấm - các thứ vải này giống như thứ vải thô dệt từ tơ tằm, nhưng dệt lẫn với sợi bông. Mỗi tháng quân sĩ được cấp (mỗi người) 10 bó lúa.

Ngày mồng 1 Tết thì khao quân, mỗi người được 1 dĩa cơm, mấy con cá khô.

Xứ này đa số trồng nếp, do đó quí lúa gạo

(Tự thuật của Phạm Thành Đại ở đây hàm hồ, hàm hồ vì 1 bó lúa nói ở đây là bao lớn? Có biết độ lớn của bó lúa thì mới tính được số gạo thu được).

Đối chiếu thì thấy mức cấp dưỡng của Quân đội Chiêm Thành đầy đủ hơn Giao Chỉ.

Với chế độ cấp dưỡng quân đội của Chiêm Thành như đã nói ở trên thì có thể thấy được áp lực của Giao Chỉ rất trầm trọng.

 Sau khi độc lập Giao Chỉ dần trở thành Quốc gia hùng mạnh thì để đối phó với Nước này Trung Quốc chọn đường lối hoặc Chính trị, hoặc là Ngoại giao hơn là Quân sự, và ngay cả khi Chính trị cũng như Ngoại giao không đi tới đâu thì Quân sự cũng không là con đường sau cùng!

Đưa quân qua An Nam là một điều không thuận lợi đối với Trung Quốc, vì nhiều lý do, như không hạp thủy thổ, cũng như không rành địa hình, địa thế…. và nhất là hậu quả tai hại về các phương diện Tài chánh và Kinh tế…. Tất cả những điều trên đây tất cả chúng ta đều rõ Trung Quốc đã trải qua kinh nghiệm của nhiều triều đại, do đó càng về sau các vương triều Trung Quốc, bởi đã học được những bài học của những triều đại trước, càng dè dặt hơn khi họ phải điều động quân binh xuống phương Nam.

Như năm Gia Tĩnh thứ 16 (năm 1537), Minh triều (1368 - 1644) sắp sửa quân binh đi đánh hỏi tội Mạc Đăng Dung thì Thị lang Phan Trân, Tổng đốc Lưỡng Quảng Phan Đán, Ngự Sử Từ Cửu Cao, và các chức Cấp Sự trung Tạ Đình Chỉ, Án Sát sứ Dư Quang đều phản đối - để rồi, có người như Phan Trân bị cách chức, và Dư Quang bị tước bổng lộc một năm.

(Tham khảo:

Minh Sử. Qu. CCCXXI. An Nam).

 Cho nên có những lúc tuy có cớ đưa đại quân xuống phương Nam nhưng phương Bắc vẫn e dè!

~ Hoằng Trị….

Nhị niên.

Khiển đệ Bốc Cổ Lương phó Quảng Đông, ngôn An Nam nhưng tứ () xâm lăng khất như Vĩnh Lạc thời khiển tướng đốc binh thủ hộ! Tổng đốc Tần Hoành đẳng dĩ văn!

Binh Bộ ngôn:

~ An Nam, Chiêm Thành giai tổ huấn sở tái () “bất chinh chi quốc”. Vĩnh Lạc gian mệnh tướng xuất sư nãi chính Lê tặc thí nghịch chi tội, phi dĩ lân cảnh giao ố chi cố! Kim Lê Hạo tu cống duy cẩn, Cổ Lai phu thụ chi tố dung () hữu quá, tình bất khả tín kỳ đơn từ lao sư “Bất chinh chi quốc”, nghi lệnh thủ thần hồi tư ngôn:

- Cận lai Giao nhân sát hại vương tử Cổ Tô Ma vương tức suất chúng bại chi; cừu sỉ (仇恥) dĩ tuyết, vương nghi tự cường tu chính, phủ tuất quốc nhân, bảo cố cương ngữ, nhưng dữ An Nam đôn mục tu hảo kỳ dư hiềm tế cố tất nghi tổn trừ; thảng bất năng tự cường chuyên tạ triều đình phát binh độ hải đại vương thủ Quốc, cổ vô thị lý!

Đế như kỳ ngôn.

                        /  Minh Sử. Qu. CCCXXIV. Ngoại quốc 5. Chiêm Thành  /.

 ~ Niên hiệu Hoằng Trị….

Năm thứ 2.

(Vua Chiêm Thành) sai em mình là Bốc Cổ Lương qua Quảng Đông nói rằng An Nam vẫn cứ xâm lăng không kiêng dè, xin cho tướng đem quân qua giữ gìn, bảo vệ Nước mình như thời Vĩnh Lạc! Tổng đốc Tần Hoành mấy người báo sự việc lên!

Bên Bộ Binh nói:

~ An Nam, Chiêm Thành, trong những giáo huấn được ghi chép của Tiên tổ, đều là những “Nước không nên đánh”; trong khoảng Niên hiệu Vĩnh Lạc triều đình sai Tướng đưa quân đi đánh An Nam là để trị tội giặc họ Lê giết vua, không việc 2 nước láng giềng xích mích về biên giới! Bây giờ Lê Hạo vẫn cung kính triều cống, mấy lời tố cáo mặt ngoài của Cổ Lai có thể là quá đáng, sự tình không thể tin mỗi lời tố cáo của Chiêm Thành mà làm cho quân phải nhọc nhằn, cực khổ đi đánh một “Nước không nên đánh”, nên ra lệnh cho chức quan ở biên khu gởi văn thư trả lời (Chiêm Thành) rằng:

- Gần đây người Giao Chỉ giết con của nhà vua là Cổ Tô Ma, nhà vua đã tức thời đưa binh đánh bại Giao Chỉ, mối sỉ nhục cừu thù đã được rửa sạch, nhà vua nên gắng sức sửa sang Chính sự, vỗ về, chăm lo cho dân, giữ vững biên cương, sống hòa thuận, giao tiếp tốt đẹp với An Nam, những tỵ hiềm nhỏ nhặt thì nên bỏ đi hết; nếu không cố gắng mà mỗi dựa vào triều đình đưa quân vượt biển thay nhà vua giữ Nước thì tự cổ không có cái lý này!

Vua y theo lời của Bộ Binh.

(Phụ chú.

+ Lê Hạo nói ở trên là tên của Lê Thánh tông [1442 - 1497; tại vị: 1460 - 1497]).

 Trước đó, năm 16 Niên hiệu Thành Hóa (1465 - 1487), tức 1480, Minh triều cũng tính đánh An Nam, sau Lục Dung (1436 - 1494) can là không nên, do đó bỏ ý định này.

~ Thành Hóa…… Thập lục niên, nghị chinh An Nam, ký nhi bãi chi!

Thời An Nam lũy tuế xâm nhiễu Chiêm Thành, Chiêm Thành khiển sứ nhập tấu, thỉnh thảo chi. Uông Trực nhân hiến thủ An Nam chi sách.

Chức phương Lang trung Lục Dung thượng ngôn:

~ An Nam thần phục Trung Quốc dĩ cửu, kim sự đại chi lễ bất khuy, bạn nghịch chi hình vị kiến, nhất dĩ binh gia chi, khủng di họa bất tế!

Trực ý do vị dĩ (thời Trung quan (中官) Uông Trực chuyên sủng dụng sự), truyền thượng chỉ sách Vĩnh Lạc trung điều quân số.

Thời Lưu Đại Hạ dịch tại Chức Phương, cố nặc cụ tịch, từ dĩ lợi hại cáo Thượng thư Dư Tử Tuấn, lực ngôn thư chi, sự nãi tẩm!

                                             /  Thù Vực Chu Tư Lục. Qu. V. An Nam  /.

 ~ Niên hiệu Thành Hóa…. năm thứ 16, bàn việc đánh An Nam, sau đó thì bãi!

Bấy giờ An Nam bao năm xâm lấn nhiễu loạn Chiêm Thành, Chiêm Thành sai Sứ giả vào tâu sự việc, xin (triều đình đem quân) đánh hỏi tội An Nam. Uông Trực nhân đó mà hiến kế đánh chiếm An Nam.

Chức Lang trung Lục Dung ở Cơ quan Chức phương tâu:

~ Đất An Nam thần phục Trung Quốc đã lâu, bây giờ việc lớn thì lễ không thiếu sót, việc phản nghịch thì chưa lộ, một khi đưa quân đánh thì cái họa về sau sợ rồi không nhỏ!

Trực vẫn chưa chịu thôi (Lúc đó hoạn quan Uông Trực một bề được sủng ái, chuyên nắm giữ chính sự), do đó truyền chiếu chỉ của vua cho lục lại các tài liệu về quân số điều động (đi đánh An Nam) trong Niên hiệu Vĩnh Lạc.

Bấy giờ Lưu Đại Hạ cũng làm việc tại cơ quan Chức Phương, do đó đem giấu hết sách vở thời Vĩnh Lạc liên quan sự việc chinh phạt An Nam, rồi từ từ phân tích lợi hại, nói với quan Thượng thư Dư Tử Tuấn, dùng mọi lời lẽ ngăn trở, việc đánh An Nam do đó mà ngưng lại!

[Chú thích.

+ Thành Hóa (1465 - 1487). Niên hiệu của Hiến tông (1447 - 1487; tại vị: 1464 - 1487).

+ Lục Dung (1436 - 1494). Biên soạn tập bút ký “Thục Viên Tạp Ký” - nội dung ghi những việc xảy ra dưới Minh triều, trong triều và ngoài triều, bên cạnh đó là những tạp sự, những chuyện khôi hài…. Tự thuật của Lục Dung rất tường tận, có thể bổ túc cũng như đối chứng với các Sử thư, là luận Sử hay đàm luận Học thuật ông đều có những kiến giải độc đáo.

Lục Dung đậu Tiến sĩ năm thứ 2 Niên hiệu Thành Hóa (năm 1466) - chức vụ sau cùng của ông là Tham tri tỉnh Chiết Giang].

+ Uông Trực (? - ?). Dân sắc tộc Dao, Quảng Tây. Thuở trẻ vào Cung làm hoạn quan, và giữ chức Ngự Mã giám. Sau được sủng ái và nhận lệnh thành lập Cơ quan y Xưởng vào năm 1477, với số quan chức dưới tay gấp 2 bên Cơ quan Đông Xưởng; sau vì tranh quyền với hoạn quan Thượng Minh bên Đông Xưởng mà sự sủng ái từ đây bớt dần đi, để rồi, đến năm 1483 khi Cơ quan Tây Xưởng bị bãi bỏ thì Uông Trực bị điều về giữ chức ban đầu lúc mới vào Cung là Ngự Mã giám ở Nam Kinh.

Đông XưởngTây Xưởng là 2 Cơ quan mật vụ đời Minh, quyền hành ngang Cẩm Y Vệ.

Đông Xưởng được thành lập năm Vĩnh Lạc (1403 - 1424) thứ 18, tức năm 1420, dưới triều Thành tổ (1360 - 1424; tại vị: 1402 - 1424), có nhiệm vụ dò la những âm mưu phản nghịch, những việc đại gian ác, kể cả những chuyện quái đản không hợp lẽ thường….

Sau khi Tây Xưởng được thành lập thì bọn này được tung đi khắp nơi, từ Kinh đô trải khắp thiên hạ, nơi nào cũng có bọn này, tới các Vương phủ cũng không thoát lệ. Người chết oan vì bọn này không biết bao nhiêu mà kể.

2 Cơ quan Đông Xưởng (東廠) / Tây Xưởng (西廠) thường giao cho hoạn quan nắm giữ].

 Về việc Lục Dung can ngăn việc đánh An Nam Sử gia Nghiêm Tòng Giản viết như sau:

~ Trần thị Kiến viết:

~ Trình Hoàng Đôn kỷ Lục Chức phương sự, xưng kỳ thư () chinh An Nam chi sự vưu vĩ!

Phù Uông Trực thị thời Đông câu oán Nữ Chân, Bắc khiêu hấn () ư Thát đát, nhị phương dĩ binh liên họa kết, ương dân, nhục Quốc hĩ!

Giao Nam chi dịch () sử Trực phục đắc trình kỳ chí, thiên hạ an nguy vị khả tri! Hạnh nhi bản Binh chư công hiệp lực thư chỉ chi, khởi phi Tổ tông chi linh, xã tắc chi phúc, tư thế tư dân chi đại hạnh dư?!

Thù Vực Chu Tư Lục. Qu. V. An Nam  /.

~ Trần Kiến nói:

~ Trình Hoàng Đôn ghi chép sự việc quan Chức phương họ Lục, khen việc ông ngăn cản quyết định đánh An Nam là một việc rất lớn!

Lúc đó Uông Trực ở mặt Đông kết oán với Nữ chân, mặt Bắc gây hấn với Thát đát,hai bên chiến tranh liên miên khiến dân mắc họa, Quốc gia mang nhục!

Sự việc An Nam cũng lại là dịp cho Trực khoe toan tính của mình, sự an nguy của thiên hạ từ việc này rồi không biết đâu mà nói!

May nhờ các ông bên Bộ Binh hợp lực ngăn cản (việc này) chẳng là do sự linh thiêng của Tổ tông, do cái phước của Đất nước, là cái may mắn lớn cho đời này, dân này hay sao?!

 (KỲ 15)

Cũng Nghiêm Tòng Giản chép:

~ Hoằng Trị bát niên, An Nam xâm Chiêm Thành, Chiêm Thành vương khiển Sứ nhập tấu, thỉnh mệnh quan vãng vấn kỳ tội!

Thượng dục tòng chi Đại học sĩ Từ Phổ đẳng thượng ngôn: - “.... nhược trí () nhi bất vấn tổn uy dĩ đa, nhược vấn tội hưng sư di hoạn vưu đại, nghi vật thính!” - Nãi chỉ.

                                       /  Thù Vực Chu Tư Lục. Qu. V. An Nam  /.

~ Năm thứ 8 Niên hiệu Hoằng Trị An Nam xâm lấn Chiêm Thành, vua Chiêm Thành sai Sứ vào tâu, xin cho sai quan đưa quân qua hỏi tội An Nam!

Nhà vua những muốn theo lời (Chiêm Thành thỉnh cầu) mấy người như Đại Học sĩ Từ Phổ tâu rằng:…. - “Nếu bỏ qua [sự việc] không hỏi gì tới, cái uy [của triều đình] bị thương tổn hẳn là nhiều, nhưng nếu như hỏi tội [mà tới phải] động binh thì mối lo sau này rất lớn, xin đừng nghe (theo thỉnh cầu của Chiêm Thành)!”. - Vua liền ngưng ý định động binh.

[Hoằng Trị (1488 - 1505). Niên hiệu của Hiếu tông (1470 - 1505; tại vị: 1487 - 1505).

Chúng ta thấy, trước sau Trung Quốc vẫn tránh né một cuộc Chiến tranh với An Nam!

Nếu đọc Sử sách Trung Quốc chúng ta thấy điều này rất rõ ràng!

 Ở 1 đoạn trước đây đã dẫn phân tích của Âu Dương Tu về quan điểm của Trung Quốc đối với các Nước ở phương Nam, quan điểm này là:

~ Những nước này vốn không liên quan cái lợi cũng như cái hại của Trung Quốc.

 Hơn 500 năm sau, tới Minh triều, quan điểm nói trên vẫn không thay đổi.

Tiết Tuấn (? - ?) đời Minh viết:

~ Bình nghị lược.

Hoàng Minh tổ huấn.

Tứ phương chư Di giai hạn sơn, cách hải, tịch () tại nhất ngu (), đắc kỳ địa bất túc  dĩ cung cấp, đắc kỳ dân bất túc dĩ sử lệnh (使令). Nhược kỳ tự bất suyển lượng (揣量) lai nhiễu ngã biên, tắc bỉ vi bất tường; bỉbất vi Trung Quốc hoạn nhi ngã hưng binh khinh phạt dịch bất tường dã!

Ngô khủng hậu thế tử tôn ỷ Trung Quốc phú cường, tham nhất thời chiến công, vô cố hưng binh trí thương nhân mệnh, thiết ký bất khả!

Đản Hồ nhung (胡戎) dữ ngã Tây bắc biên cảnh hỗ tương mật nhĩ (密邇), lũy thế (累世) chiến tranh, tất tuyển tướng, luyện binh, thời giảng bị chi!

Nhật Bản Quốc Khảo Lược  /.

~ Bình nghị sơ lược.

Giáo huấn của Tổ triều Minh.

Các xứ Man di ở bốn bên đều ở một góc trời, núi ngăn biển cách, lấy được đất của họ cũng không thể cung cấp (đủ những gì ta cần), cai trị được dân họ thì cũng không thể sai sử họ (theo ý ta). Nếu họ không tự suy xét mà nhiễu loạn biên cảnh của ta thì đó là điều chẳng lành cho họ; kẻ kia vốn không là mối lo của Trung Quốc mà ta coi thường động binh chinh phạt (thì đây) cũng là việc chẳng lành!

Ta sợ con cháu đời sau ỷ Trung Quốc giàu mạnh, tham chiến công nhất thời, vô cớ mà động binh làm hại mạng người, (ta) nghiêm nhặt ghi lại việc này, không được trái lời!

Nhưng quân Hồ thì họ ở sát bên biên cảnh Tây bắc của ta, đã nhiều đời ta chiến tranh với họ, về vấn đề này thì phải chọn tướng (tài giỏi), huấn luyện quân binh, phải thường giảng luôn về việc phòng bị!

 Trung Quốc có lúc nào mà không dòm ngó, không đề phòng vùng đất phương Nam!

Nhưng từ sau trận thủy chiến Bạch Đằng năm Mậu Tuất, năm 938, mảnh đất phương Nam không còn dễ nuốt! Từ sau trận thủy chiến năm Mậu Tuất kể trên thì Giao Chỉ đã phát triển thành một Quốc gia hùng mạnh ở phương Nam Trung Quốc.

 La Viết Cảnh (? - ?) cuối đời Minh luận về An Nam như sau:

~ Luận viết:

~ An Nam Đông chí hải, Tây để () Lão Qua, Nam tiếp Chiêm Thành, Bắc liên Tư Minh, vi hùng thị Nam phương chi Quốc. Tự Hán Vũ diệt bình Nam Việt chi hậu, liệt vi Quận, huyện bạn phục vô thường! Trung Quốc vị thường nhất thế vong kỳ binh cách hĩ!

Hàm Tân Lục. Qu. VI. Nam di chí. An Nam  /.

~ Luận:

~ Nước An Nam, mặt Đông ra tới biển, Tây giáp Lão Qua, phía Nam giáp Chiêm Thành, về phía Bắc liền với phủ Tư Minh, là một Quốc gia hùng mạnh ở phương Nam; từ sau lúc Hán Vũ đế bình định nước Nam Việt, phân thành quận, huyện của Trung Quốc thì nước này lúc thần phục, lúc phản nghịch không chừng! Trung Quốc rồi chưa từng có một thời mà quên việc chiến tranh với nước này!

                                                                               &

Ngoài ra về danh xưng Chiêm Thành, các ông Dohamide, Dorohiêm nói như sau:

Champa là quốc hiệu đã được ghi khắc trong các văn bia thời cổ, các bản thảo viết tay được lưu truyền trong dân gian, gắn liền với linh hồn dân tộc, bút tích của các tiền nhân Champa từ những ngày xa xưa, nên người dân Champa rất trang trọng đối với từ “Champa” quốc hồn quốc túy ngày xưa của dân tộc hơn là từ “Chiêm Thành”.

             /  Bangsa Champa. 10. 1. Vài nét khái quát. Về từ ngữ Champa  /.

Rất tiếc, hai ông Dohamide, Dorohiêm không biết Hán văn cho nên không biết rằng từ “Chiêm” người Việt viết, nói trong tên gọi “Chiêm Thành” chính từ “Cham” trong từ “Champa” mà hai ông thân yêu, gọi với tất cả sự trang trọng.

Chúng ta đều biết, âm “Cham” chuyển ra tiếng Việt thuần là “Chàm” (trước năm 1975) ở miền Nam Việt Nam; sau 1975 thì lại phát âm là “Chăm”.

Còn chữ “Chiêm” thì rồi không gì khác hơn là từ “Cham” phát âm theo Hán Việt - theo thiết âm Trung Hoa của chữ “Cham(pa)”.

+ Tóm lại “Chàm”, “Chăm”, và “Chiêm” đều từ âm “Cham(pa)” mà ra, chỉ khác nhau ở cách phát âm mà thôi!

(Về tên gọi “Chiêm Thành” tôi đã nói rất rõ trong cuốn “Nam Biên” của tôi [chưa in]).

                                                                                &

Trên đây là một số thiếu sót, sai lầm - trong đó có những cái sai hết sức nặng, trong bản dịch Việt văn bộ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” của Ngô Đức Thọ và Hoàng Văn Lâu.

Đây chỉ mới là những cái sai lầm tôi thấy trong những đoạn tự thuật liên quan Quốc gia Chiêm Thành từ đầu triều Lý (1009 - 1225) tới khoảng cuối triều Trần (1225 - 1400).

Ngoài ra, bên cạnh những gì nói trên đây cũng một vài đoạn trong bản dịch tuy rằng không dính gì tới Chiêm Thành nhưng ý tưởng có những điểm vô lý - để khi đối chiếu với nguyên tác thì thấy sai, lầm trầm trọng, những đoạn như vậy tôi cũng đưa vào đây.

Như đã nói trước đây, những gì tự thuật về Chiêm Thành trong bài này chỉ là một phần của cuốn “Nam Biên” của tôi.

Cuốn “Nam Biên” đang viết giữa chừng, do đó, tôi cũng chỉ mới “ghé mắt qua” tới đây tôi chưa nhìn xa hơn, và rộng hơn, tới toàn bản dịch.

Nhưng có điều cũng cần nói rõ ở đây là việc duyệt lại toàn bộ bản dịch này nhìn chung là một việc rất khó, rất vất vả, vì:

Bản Hán văn cuốn “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”, nhìn chung, chữ rất mờ, thêm vào đó có rất nhiều chữ không thể nào nhận ra dạng chữ! Đây có thể là do tình trạng bản in cổ (năm 1697) quá tồi tệ, dầu cho kỹ thuật ảnh ấn (photocopy) ngày nay có tân tiến mấy đi nữa cũng không thể làm những chữ rất lờ mờ thành rõ nét!

Do đó có rất nhiều chỗ không thể đối chiếu để phê bình bản dịch cho chính xác!

Tập I bản dịch “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” in lần đầu năm 1983, Tập 2 năm 1985.

Và, theo như lời của nhà xuất bản “Khoa Học Xã Hội” thì 2 Tập trên đây được ấn hành trong “điều kiện ấn loát chưa được tốt lắm”  (“Lời Nhà Xuất Bản”. Trang 06).

Năm 1992, 2 Tập nói trên được in lạicó sửa chữa, theo nhà xuất bản cho biết, và bên cạnh đó 2 Tập III, IV cũng được ấn hành cùng lúc.

Bản dịch tôi hiện có là bản in năm 1998.

Những gì tôi phê bình tới đây chưa bước qua Tập III, và hồ hết cũng chỉ giới hạn trong những ghi chép về Chiêm Thành, chưa trải ra các phần khác.

Đại khái những khuyết điểm của bản dịch Việt ngữ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” có thể phân 2 phương diện:

(1). Phương pháp làm việc.

Phương pháp làm việc ở đây gồm thái độ nghiên cứu, và cách chú thích.

(a). Nghiên cứu.

Gặp một đoạn, một câu, hoặc một chữ…. trong nguyên tác, vì bất cứ lý do nào đó, như chữ in không rõ, câu văn chưa trọn… có thể đưa tới một sự nghi ngờ thì để trống, hoặc nếu tìm được một Sử liệu nào để bổ túc thì phải nêu rõ.

Nhưng Ngô Đức Thọ và Hoàng Văn Lâu, như đã chứng minh, đã không làm như vậy!

Gặp những trường hợp như thế thì thể suy đoán, một suy đoán hợp lý dựa trên lý luận để tìm ra sự thực; thế nhưng Ngô Đức Thọ và Hoàng Văn Lâu, như đã chứng minh, đã không làm như vậy mà chỉ suy đoán mò.

Phải nói đây là khuyết điểm lớn nhất, nghiêm trọng nhất của bản dịch “Đại Việt Sử Ký” tôi thấy được!

(b). Chú thích.

Chú thích là nhằm, hoặc giải thích rõ hơn một câu văn, một đoạn văn, hay một chữ, để người đọc hiểu chính xác ý của nguyên tác, hoặc giả trưng dẫn Sử liệu để chứng minh một ý tưởng, một quan điểm nào đó của nguyên tác, hay của người dịch.

Về điểm này, phần chú thích của bản dịch mỗi khi dẫn Sử liệu thì chỉ ghi tên tài liệu mà không nêu rõ Quyển thứ, Thiên, Chương…. để người đọc dễ tra cứu, kiểm chứng lại. Bên cạnh đó lại không trích dẫn nguyên văn.

Với cách chú thích như vậy thì ai biết đó vào đâu mà kiểm chứng người dịch dịch đúng hay sai?

(2). Dịch thuật.

Qua những sai lầm nghiêm trọng, nếu không muốn nói là ba láp, tôi đã trưng dẫn trong bài này thì có thể thấy độ khả tín của Ngô Đức Thọ và Hoàng Văn Lâu về Hán văn cần phải xét lại, nếu không muốn nói là chưa đủ trình độ để làm công việc ở đây.

Những độc giả không biết Hán văn thì đành bằng lòng với bản dịch Việt ngữ của 2 ông dịch giả không có khả năng Hán văn Ngô Đức Thọ và Hoàng Văn Lâu.

Với những độc giả rành rẽ Hán văn nếu đối chiếu bản Hán và bản Việt thì sẽ thấy ngay những câu dịch tầm bậy tầm bạ của “hai nhà nghiên cứu Hán Nôm” - khiếp thực - như tôi đã trưng dẫn!

                                                                              &

Bộ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” và một ông Việt Nam dạy Sử.

 phần cuối cuốn “Sử Việt Đọc Một Quyển” ông Tạ Chí Đại Trường có mấy giòng về bộ Sử nói trên như sau:

- Lịch sử Việt Nam đến thế kỷ XVII, để lại cho người Việt, chỉ còn độc một quyển – hay nói cho đúng hơn, một tập họp dưới cái tên Đại Việt sử kí toàn thư (thường gọi tắt là Toàn thư)….

Phần chúng tôi khi muốn giở lại quyển sách cũ đó không phải là vì muốn người ta ngán sợ mình.

Sđd. LƯU GIỮ. Sử Việt, Đọc Một Quyển. trang 521, 522  /.

Đọc mấy giòng trên đây của ông Tạ Chí Đại Trường tôi có một vài ý nghĩ thế này:

Thứ nhất, ông Tạ Chí Đại Trường cứ làm như trên cõi đời này chỉ mỗi mình ông là có Bản dịch bộ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” ~ Ông đã mua được nó thì người khác cũng mua được, sách in ra không lẽ chỉ in một bộ để ông độc quyền mua?

Có thể, có thể thôi, với tiếng người khácở đây Tạ Chí Đại Trường nhằm chỉ những người Việt ở hải ngoại? - vì có thể vào thời điểm ông lưu giữ những giòng dẫn trên bản dịch bộ Sử này chưa ra tới hải ngoại? Nhưng nếu nói như thế thì lẽ nào người đọc rồi chỉ có ở ngoài nước? Vậy thì Tạ Chí Đại Trường muốn làm ai ngán sợ mình?

Đây là chưa nói ông chỉ đọc bản dịch của bộ Sử nói trên thì ông hù dọa được ai, ông có chắc là bản dịch này không có những sai lầm trầm trọng hay không?

Có mấy chỗ trong cuốn“Sử Việt, Đọc Một Quyển” Tạ Chí Đại Trường làm cho những độc giả không biết Hán văn nghĩ là ông ta thông thạo thứ văn tự này, nhưng tôi có thể khẳng định mà không sợ sai lầm là Tạ Chí Đại Trường rồi không đọc nổi cổ văn, là thể được dùng để viết “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”.

(Keith Weller Taylor, ông tiến sĩ sử học Mỹ dốt Cổ sử Việt Nam và Trung Hoa mà ông Tạ Chí Đại Trường phục gọi là lăn quay như con vụ, chơi “trò lập lờ” này rất táo bạo trong cuốn sách Sử chẳng có giá trị bao nhiêu của ông ta là The Birth of Vietnam).

một lẽ giản dị là không một người nghiên cứu nào lại cam tâm đi đọc bản dịch trong khi mình đọc được nguyên tác.

Trong cuốn “Sử Việt”.. nêu trên của Tạ Chí Đại Trường có một bài về Chiêm Thành tựa đề “Chuyện Sử Chàm Trong Toàn Thư”.

Nếu Tạ Chí Đại Trường đọc được Hán văn thì sẽ thấy những sai lầm, những tắc trách ngờ ngờ của bản dịch tôi trưng dẫn trong bài này

Cũng trong phần “Lưu Giữ Sử Việt, Đọc Một Quyển” đã dẫn trên Tạ Chí Đại Trường còn viết:

- “Có một quyển, đọc kĩ, người ta mới sợ”.

 Và như vậy, Tạ Chí Đại Trường ngầm cho rằng mình đã “đọc kĩ” bộ “Đại Việt Sử Ký”  – “đọc kĩ” bản dịch tiếng Việt!

Và như vậy, tôi cũng thấy luôn rằng ông Tạ Chí Đại Trường tới cũng ôm luôn vào thân mình “rất kĩ” những cái sailầm, nhẹ lẫn nặng – từ nặng tới rất nặng, đến độ bá láp của Ngô Đức Thọ và Hoàng Văn Lâu trong bản dịch “Đại Việt Sử Ký”.

Ở đây, cõi đời lại thêm một kẻ đắc ý tới quên cả hình hài!

Mà dầu cho có đọc được nguyên tác Hán văn đi nữa thì cũng không ai có thể tự cho mình cái quyền lố bịch là “hù dọa” người khác, làm người “ngán sợ mình”! Vì rằng nếu chỉ nói riêng về những gì chép về Chiêm Thành thì ngoài những ghi chép của Sử thần Việt Nam còn phải đối chiếu với những ghi chép của Sử sách Trung Hoa. Vì sao? - Vì trong quá khứ rất nhiều lần Giao Chỉ đưa quân đánh Chiêm Thành, và người Chiêm đã qua cầu cứu Trung Quốc, cho nên những ghi chép của họ về vấn đề này dầu đôi lúc có thể thiên lệch nhưng không thể không nghiên cứu gạn lọc, đối chiếu để tìm sự thực!

Tôi muốn nói rằng trường hợp có đọc được nguyên tác, và đọc rấtkỹ đi nữa, thì đọc một Quyển rồi không thể nào đủ! Nếu tôi không lầm, lấy tựa sách là “Đọc Một Quyển” ông Tạ Chí Đại Trường đã dựa theo một câu nói của Thomas Aquinas (1224 - 1274).

Đọc kỹ gì thì kỹ, một Quyển sách thì không bao giờ đủ. Lấy mấy thí dụ:

~ Thành Hóa.

Tứ niên. Xâm cứ Quảng Tây Bằng Tường. Đế văn, mệnh thủ thần cẩn bị chi.

Thất niên. Phá Chiêm Thành, chấp kỳ vương Bàn La Trà Toàn; du () tam niên hựu phá chi, chấp kỳ vương Bàn La Trà Duyệt, cải kỳ Quốc vi Giao Nam Châu, thiết binh thú thủ….

Hạo () ký đắc Bằng Tường, diệt Chiêm Thành, toại xâm Quảng Đông Quỳnh, Lôi, đạo Chu Trì (珠池).

Quảng Tây chi Long Châu, Hữu Bình, Vân Nam chi Lâm An, Quảng Nam, Trấn An dịch sổ cáo cảnh….

Thập ngũ niên đông. Hạo khiển binh bát bách dư nhân Vân Nam Mông Tự giới, thanh ngôn bô () đạo thiện () kết doanh, trúc thất dĩ cư. Thủ thần lực chỉ chi thủy thoái.

Minh Sử. Qu. CCCXXI. Ngoại quốc 2. An Nam  /.

 (KỲ 16)

~ Niên hiệu Thành Hóa.

Năm thứ 4. (An Nam) chiếm cứ Bằng Tường thuộc Quảng Tây, vua được tin, lệnh cho quan trấn thủ phòng bị cẩn mật.

Năm thứ 7. [An Nam] thắng Chiêm Thành, bắt vua Chiêm Bàn La Trà Toàn. 3 năm sau lại đánh thắng Chiêm Thành, bắt vua Chiêm Bàn La Trà Duyệt, đổi Địa lý Hành chánh nước này thành Châu Giao Nam, đặt quân binh trấn thủ….

Đã lấy được Bằng Tường, tiêu diệt được Chiêm Thành, Hạo lại xâm lấn Quỳnh Châu, Lôi Châu, thuộc Quảng Đông, cướp vùng biển Chu Trì.

Các đất Long Châu, Hữu Bình thuộc Quảng Tây, Lâm An, Quảng Nam, Trấn An thuộc Vân Nam cũng đã mấy lần được báo là phải cảnh giác….

Mùa Đông năm thứ 15. Hạo sai hơn 800 binh vượt qua phân giới huyện Mông Tự của Vân Nam, tung tin là qua bắt cướp, tự tiện lập doanh trại, làm nhà để ở. Quan trấn thủ cố hết sức ngăn cản chừng đó mới chịu rút về.

(Phụ chú.

+ Thành Hóa (1465 - 1487).

Niên hiệu của Minh Hiến tông (1447 - 1487; tại vị: 1464 - 1487).

 + Bằng Tường (憑祥).

Vùng Khê động của Trung Quốc ở vùng biên thùy Đại Việt và Trung Quốc, phía Tây bắc là Cao Bằng, phía Nam là Lạng Sơn, đều Đại Việt, phía Đông là Phủ Tư Minh (Trung Quốc).

Khê động là khu tụ cư của một sắc tộc, bộ tộc không phải Hán tộc.

Vị trí trên bản đồ:

Kinh độ 106o 45’ 06”.

Vĩ độ 22o 05’ 05”.

 Đối chiếu với một số vị trí khác:

~ Cao Bằng (Bình). Kinh độ106o 15’ / Vĩ độ 22o 39’.

~ Lạng (Lượng) Sơn. Kinh độ 106o 43’ / Vĩ độ 21o 46’.

~ Tư Minh Phủ. Kinh độ 107o 07’ / Vĩ độ 22o 06’.

~ Thăng Long. Kinh độ 105o 48’ / Vĩ độ 21o.

 Phía đông Lộc Châu là Lạng Sơn, trong địa hạt có Trại Vĩnh Bình, thời cổ vẫn là một trong những địa điểm giao dịch buôn bán tấp nập giữa Giao Chỉ và Trung Quốc.

Vị trí Lộc Châu trên bản đồ:

Kinh độ 106o 55’ / Vĩ độ 21o 45’.

 Ngoài ra, còn có Đồng Đăng, 1 thị trấn Việt Nam ở khoảng giữa Lạng Sơn và Bằng Tường.

Có bài Ca dao về Đồng Đăng như sau:

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,

Có nàng Tô thị có chùa Tam Thanh.

Ai lên phố Lạng cùng anh,

Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em.

Tay cầm bầu rượu nắm nem,

Mải vui quên hết lời em dặn dò.

Gánh vàng đi đổ sông Ngô,

Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Thương!

 + Long Châu.

Đất Long Châu nằm về phía Đông bắc Bằng Tường, 30 cây số tính theo bản đồ tỷ lệ.

 + Hữu Bình.

Đất Hữu Bình không được ghi trên bản đồ Lịch sử.

 + Hạo ().

Tên của Lê Thánh tông (1442 -1497; tại vị: 1460 - 1497).

Thời cổ, các vua Giao Chỉ thường có 2 tên, một tên dùng trong nước và một tên dùng trong quan hệ Ngoại giao với Trung Quốc, tức một tên trong, một tên ngoài.

Tên húy của Lê Thánh tông là Tư Thành (思誠), do đó “Hạo” ở đây chính là tên ngoài của Lê Thánh tông. Sử thư Trung Quốc khi nhắc Lê Thánh tông thì ghi tên Hạo này.

Thế nhưng, Hạo cũng là tên húy khác của Lê Thánh tông.

Bộ “Đại Việt Sử Ký” viết:

~ Thánh tông Thuần hoàng đế.

Húy () Tư Thành (思誠), hựu húy Hạo ().

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư Bản Kỷ Thực Lục. Qu. XII. Lê hoàng triều kỷ.

                                                                    Thánh tông Thuần hoàng đế  /.

~ Thánh tông Thuần hoàng đế.

Tên húy là Tư Thành, còn tên húy nữa là Hạo.

Sử thư Trung Quốc viết về tên trong, tên ngoài của các vua Việt Nam thời cổ như sau:

~ Lân () nhất danh Long ().

Tự thị kỳ quân trưởng giai hữu nhị danh, dĩ nhất danh tấu thiên triều.

Minh Sử. Qu. CCCXXI. Ngoại Quốc 2. An Nam  /.

~ Lân, còn tên nữa là Long.

Từ đây vua nước này đều có 2 tên, một Tên dùng để tâu thiên triều.

Minh Di:

Lân đây tức Lê Thái tông (1423 - 1442; tại vị: 1434 - 1442).

 

Nhưng theo Nghiêm Tòng Giản (? - ?), Sử học gia Minh triều (1368 - 1844), thì:

~ Lê Lân [黎麟] tử tự thị giai hữu nhị danh, đích danh [的名] dĩ sự thần kỳ [神衹], ngụy danh dĩ sự Trung Quốc. Cái () kỳ tù [] tập ư khi đản [欺誕], tự Tống Trần Uy Hoảng [陳威晃] ngụy danh Quang Bính (光昺) dĩ nhiên, bất độc kim dã!

                                 /  Thù Vực Chu Tư Lục. Qu. V. Nam Man. An Nam  /.

~ Lê Lân chết, từ đây vua nước này đều có 2 tên, tên thật để dùng trong tế tự, tên giả dùng trong quan hệ vua tôi với Trung Quốc. Tóm lại vua nước này đã quen dối trá, từ đời Tống Trần Uy Hoảng đã lấy tên giả là Quang Bính như vậy rồi, không phải tới bây giờ mới có!

Minh Di:

Trần Uy Hoảng, Hoảng là tên húy của Trần Thánh tông (1241 - 1291; tại vị: 1258 - 1278).

 

+ Quỳnh Châu.

Tức đảo Hải Nam hiện nay.

 + Lôi Châu.

Tức bán đảo Lôi Châu hiện nay, trị sở là huyện Hải Khang:

Kinh độ 110o 04’ 08”.

Vĩ độ 20o 04’ 04”.

 + Chu Trì.

Vùng biển nằm giữa Liêm Châu ở phía Bắc, Lôi Châu ở phía Đông, và đảo Hải Nam ở về phía Nam; về phía Tây và Tây nam là Việt Nam và vịnh Bắc Việt.

Vùng biển Chu Trì (珠池) có 2 hòn đảo nhỏ gần nhau là Vi Châu (潿洲), Tà Dương (斜陽) - đảo Tà Dương nằm về phía Đông nam của đảo Vi Châu.

Về vị trí của các vùng đất trên đây, xin coi các Bản đồ Lịch sử III và  IV].

  Phụ bản III.Chu Trì. Đảo Tà Dương. Đảo Vi Châu.

 Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. ĐệThất Sách. Nguyên. Minh thời kỳ.

Minh thời kỳ (1368 - 1644).

Quảng Đông. Bản đồ 72 - 73.

Bản đồ Địa lý Hành chánh năm thứ 10 Niên hiệu Vạn Lịch (1573 - 1620), năm 1582.

Tỷ lệ: 1¸ 3,500,000.

Vùng biển Chu Trì và 2 đảo Tà Dương, Vi Châu, vị trí bên trái Bán đảo Lôi Châu - là phần đất gie ra biển xuống gần đảo Hải Nam, tạo thành một eo biển giữa bán đảođảo, được mệnh danh là Eo biển Lôi Châu (Lôi Châu Hải giáp. 雷州海峽) - nhưng cũng còn được gọi là Eo biển Qunh Châu(Quỳnh Châu hải giáp. 瓊州海峽).

Các vùng biển Chu Trì và 2 đảo Tà Dương, Vi Châu nằm trong khoảng chung quanhđiểm Kinh tuyến 109 và Vĩ tuyến 21 giao nhau.

Kinh tuyến 109 là lằn thứ 3 từ trái qua, Vĩ tuyến 21 là lằn thứ 3 từ dưới lên.

(Vì điều kiện khổ trang không cho phép, xin phóng lớn để coi rõ hơn các địa danh).

  Phụ bản IV. Đảo Tà Dương. Đảo Vi Châu.

 Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Đệ ngũ Sách.Tùy. Đường. Ngũ Đại Thập Quốc thời kỳ.

Nam Hán (917 - 971). Bản đồ 92.

Địa lý Hành chánh năm thứ 12 Niên hiệu Càn Hòa (943 - 958) - năm 954.

Tỷ lệ: 1 / 7,000,000.

 2 đảo Tà Dương, Vi Châu nằm giữa ô thứ nhất bên trái.

 Phụ bản V. Bằng Tường Châu.

 Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Đệ Thất Sách. Nguyên. Minh thời kỳ.

Minh thời kỳ (1368 - 1644).

Quảng Tây. Bản đồ 74 - 75.

Bản đồ Địa lý Hành chánh năm thứ 10 Niên hiệu Vạn Lịch (1573 - 1620), năm 1582.

Tỷ lệ: 1¸ 2,800,000.

Đã nói ở đoạn trước, Kinh độ và Vĩ độ củaChâu Bằng Tường:

Kinh độ 106o 45’ 06”.

Vĩ độ 22o 05’ 05”.

Trên Bản đồ:

Bằng Tường ở khoảng giao điểm 2/3 ô thứ 3 từ trái qua và 1/10 ô thứ 2, từ dưới lên - gần biên giới (lằn tím dày) Việt Nam và Trung Quốc.

(Vì điều kiện khổ trang không cho phép, xin phóng lớn để coi rõ hơn các địa danh).

 (KỲ 17)

Đã dẫn, năm 1471 Lê Thánh tông đánh Chiêm Thành - 3 năm sau, năm 1473 lại đánh Chiêm Thành, lấy đất này lập Châu Giao Nam.

Duyệt lại “Đại Việt Sử Ký” thì không thấy chép sự kiện xảy ra năm 1473 nói trên.

Trong khi đó, về Sự kiện nói trên Nghiêm Tòng Giản (? - ?), sử học gia kiệt xuất trong lãnh vực nghiên cứu về biên cương Trung Hoa và một số Quốc gia chung quanh, vào cuối đời Minh (1368 - 1644) đã chép như sau: 

~ Thành Hóa lục niên, An Nam quốc vương Lê Hạo dữ Chiêm Thành giao binh.

Thời Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn tốt, kỳ đệ Bàn La Trà Duyệt tự vị (嗣位), tấu xưng:

~ An Nam quốc sai nhân sách thủ tê, tượng, bảo vật, bất tòng, khởi binh công vi bản quốc, đề nô (提拏) thần huynh liên thê tiểu ngũ thập dư khẩu, thương kiếp (搶劫) bảo ấn, thiêu hủy phòng ốc, sát tử quân dân tam bách dư khẩu, lỗ khứ nam, phụ bất kế kỳ số, sai nhân chiếm thủ bản quốc địa phương. Thần tạm quản Quốc sự, khất vị tứ ấn phong vương cập sắc An Nam phóng xuất lỗ quốc nam, phụ nhân khẩu .…………

Cửu niên, thượng mệnh Công khoa Hữu Cấp Sự trung Trần Tuấn đẳng () sắc vãng Chiêm Thành quốc phong Bàn La Trà Duyệt vi vương, vị An Nam trở tuyệt.

Tuấn đẳng thượng Sớ viết:

~ Thần đẳng phụng mệnh vu thập niên chinh nguyệt nhị thập cửu nhật đáo Chiêm Thành Tân Châu Cảng Khẩu (新洲港口), bả thủ (把守) câu () thị An Nam phiên nhân (番人), bất dung (不容) tiến nhập. Thần đẳng kiến đắc man nhân bất tốn, lệnh thông sự (通事) Mãn Nguyên (滿源) đẳng dụ () xuất Sứ Chiêm Thành quốc duyên do. Mãn đẳng hồi báo, phiên nhân ngôn thuyết thử Cảng Chiêm Thành Vương thoái hoàn ngã đích An Nam Quốc Vương, các lập giới bài bả thủ, tha tự kiến tại Linh Sơn vi vương.

Khai thuyền đáo Linh Sơn hải diện hạ định (), tùy lệnh Mãn Nguyên đẳng thượng sơn phỏng vấn, yêu kiến Bàn La Trà Duyệt hữu vô thực tích? Hồi hoàn báo thuyết sơn trung ngộ kiến tỵ binh nhân thuyết Bàn La Trà Duyệt nhất gia câu bị An Nam lỗ khứ, địa phương tận số chiếm đoạt, cải vi Giao Nam Châu danh sắc.

Hựu lệnh tiểu kỳ Diêu Quan Khang tứ tán tập phỏng thị thực, khai thuyền hồi hoàn, tương lại () tứ ấn tín tính nguyên phụng chiếu sắc tiến kiểu ().

Chiếu hạ Binh bộ hội đồng ngũ Phủ, lục Bộ, Đô sát viện, Thông chính ty, Đại lý tự đẳng nha môn nghị đắc An Nam quốc lai tuế đương triều, hợp hậu bồi thần chí nhật, hành lệnh thông sự Chiêm Thăng đẳng tương tiền hạng sự tình dịch thẩm minh bạch, lánh hành cụ tấu định đoạt.

    Thù Vực Chu Tư Lục (殊域周咨錄). Qu. VII. Nam Man. Chiêm Thành  /.

~ Niên hiệuThành Hóa năm thứ 6 vua An Nam Lê Hạo chiến tranh với Chiêm Thành.

Lúc đó vua Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn đã chết, em là Bàn La Trà Duyệt kế vị tâu:

- Nước An Nam cho người qua đòi tê giác, voi, các vật quí giá, (Chiêm Thành) không làm theo lời thì động quân qua đánh Nước chúng tôi, bắt anh của thần cùng với vợ con hơn 50 người, cướp đi bảo ấn (ấn vua), đốt nhà cửa, giết chết quân binh và dân chúng hơn 300 người, bắt đi đàn ông, đàn bà nhiều không biết bao nhiêu mà kể, và sai người chiếm cứ đất đai của chúng tôi. Tạm thời thần xử lý việc nước, xin [triều đình] ban cho ấn phong vương và ra lệnh cho An Nam thả những đàn ông, đàn bà mà họ đã bắt đi.

…………

Năm thứ 9, vua lệnh cho chức Hữu Cấp Sự Trung Trần Tuấn mấy người cầm sắc chỉ đi Chiêm Thành phong vương cho Bàn La Trà Duyệt, bị An Nam ngăn trở.

Trần Tuấn mấy người dâng Sớ nói:

- Bọn thần thừa lệnh đi Chiêm Thành, ngày 29 tháng Giêng năm thứ 10 đến Hải Cảng Tân Châu nước này; phòng thủ Hải Cảng, đều là người phiên An Nam, không cho vào. Thấy người Man không lễ độ bọn thần ra lệnh cho viên thông sự tên Mãn Nguyên nói cho [họ] biết nguyên do đi Sứ Chiêm Thành. Mãn Nguyên về báo lại là người Phiên nói Bến Cảng này vua Chiêm Thành trả lại cho Quốc Vương An Nam chúng tôi, hai bên đã lập bảng phân ranh giới canh giữ, còn ông ta thì về làm vua ở Linh Sơn.

(Bọn thần) đi thuyền đến biển Linh Sơn, neo thuyền dưới núi, liền đó sai (Mãn) Nguyên mấy người lên núi hỏi thăm Bàn La Trà Duyệt, coi thực sự ông ta có ở đây hay không? (Mãn Nguyên) mấy người trở về báo lại nói là ở trong núi gặp quân lính (Chiêm Thành) trốn ở đây nói rằng cả nhà của Bàn La Trà Duyệt đã bị quân An Nam bắt đưa đi, chiếm đoạt hết đất đai (vùng này), đổi tên (vùng đất chiếm đoạt) lại là Châu Giao Nam.

Lại ra lệnh cho một chức quan nhỏ tên Diêu Quan Khang cho người đi các nơi thu thập tin tức coi có thực như thế hay không, rồi dong thuyền trở về thì mang ấn tín, cùng sắc thư ban cho Chiêm Thành giao nạp lên.

Ra chiếu cho Binh Bộ họp với 5 Phủ, 6 Bộ, Đô Sát viện, Thông Chính ty, Đại Lý tự, các Nha sở để rồi đi tới quyết định chờ năm sau An Nam vào triều, đợi ngày bồi thần họ tới lệnh cho nhóm thông sự Chiêm Thăng dịch lại cho xác thực, rõ ràng, sự tình trước đây và tâu lên đầy đủ để định đoạt.

(Phụ chú.

Châu Giao Nam, bộ “Tục Văn Hiến Thông Khảo” chép là Châu Nam Giao.

Tham khảo: Qu. CCXXXIX. Tứ duệ khảo. Nam di. Chiêm Thành).

[Phụ chú.

+ Thông sự (通事).

Tức ngày nay gọi là “thông dịch viên”, hoặc trước chút nữa gọi là “thông ngôn”.

Khi nói về Sứ giả Việt Nam thời cổ qua Trung Quốc người ta thường nghĩ tới việc bút đàm.

Tuy nhiên, không hẳn lúc nào cũng vậy.

Thời trước trong một vài Sứ bộ An Nam hoặc có lúc cũng có một hoặc 2 viên thông sự.

Đàm Nhụ Mộc (1593 - 1657) viết trong tập bút ký “Tảo Lâm Tạp Trở” (棗林雜俎) như sau:

~ Ngũ nguyệt, lục nhật.

An Nam nhập cống, bổ Vạn Lịch tứ thập ngũ niên….

Tùy tòng nhị thập nhất viên, bồi thần (陪臣) tam viên: - Nguyễn Tiến Dụng, Đỗ Khắc Kính, Nguyễn Tự Cường; thông sự nhất viên: - Nguyễn Viết Nhân.

…………

Bổ cống phương vật tịnh như (並如) tiền.

Tùy tòng nhị thập nhất danh: Bồi thần tam viên: -Trần Vĩ, Trang Tất Thắng, Nguyễn Lại;

thông sự nhất viên: - Nguyễn Trình.

Tảo Lâm Tạp Trở. Qu. I. Trí tập. Dật điển. An Nam  /.

~ Ngày 6 tháng 5.

An Nam vào triều cống, bổ túc kỳ Cống năm thứ 45 Niên hiệu Vạn Lịch….

Tùy tòng Sứ bộ có 21 người, 3 viên bồi thần: - Nguyễn Tiến Dụng, Đỗ Khắc Kính, Nguyễn Tự Cường; một viên thông sự: - Nguyễn Viết Nhân.

…………

Cống bổ túc thổ sản thì đều như trước.

Đi theo Sứ bộ 21 người, 3 viên bồi thần: - Trần Vĩ, Trang Tất Thắng, Nguyễn Lại; một viên thông sự: - Nguyễn Trình.

Minh Di:

Ngày 6 tháng 5 ở đây là ngày tháng của năm thứ 6 Niên hiệu Thiên Khải (1621 - 1627), tức năm 1626, năm Bính Dần đời Minh Hi tông (1605 -1627; tại vị: 1620 - 1627).

Vạn Lịch (1573 - 1620) là Niên hiệu của Minh Thần tông (1563 - 1620; tại vị: 1572 - 1620).

Đàm Nhụ Mộc, Nhụ Mộc là tên Tự của Đàm Thiên, tác giả tập bút ký “Tảo Lâm Tạp Trở”.

 

+ Bồi thần.

Quan chức các nước chư hầu khi gặp thiên tử thì tự xưng là bồi thần; chữ “Bồi” ở đây có nghĩa là “trùng” (lập lại), trong nước là bề tôi (thần) của vua mình, mà vua mình lại là bề tôi của thiên tử, thân là bề tôi 2 tầng như vậy, do đó, vào triều thiên tử thì xưng là “bồi thần”.

 

An Nam và Trung Quốc có quan rất hệ lâu đời, vậy mà các thời trước có vẻ như triều đình  đã không có một cơ quan, hay một trường sở nào đào tạo thông sự để sử dụng trong việc giao thương giữa 2 Quốc gia. Cứ đọc đoạn sau đây của Chu Chi Du (1600 - 1682) thì rõ:

~ …. Nhân Lê y quan tác thông sự, ngôn ngữ dịch bất minh biện, đại phàm vấn đáp câu dụng thư tả, tả tất tức tương khứ phúc vương.

                                                                       /  An Nam Cung Dịch Kỷ Sự  /.

~…. Nhân nhờ viên y quan họ Lê làm thông sự, (nhưng) ngôn ngữ của viên chức này cũng không rành cho lắm, nói chung những hỏi, đáp (giữa 2 bên) đều phải viết, viết xong thì liền đem trình quốc vương.

 Ở 1 đoạn trước, trong tập “An Nam Cung Dịch Kỷ Sự” Chu Chi Dư kể là lúc vào triều gặp Chúa Nguyễn ông không chịu quì lạy, đình thần cho rằng ông ỷ thế Trung Quốc khinh nước nhỏ, tất cả đều tâu là phải giết ông. Vì ông là người nước khác nên triều đình tùy tiện đưa ông về ở nhà viên y quan (thầy thuốc làm việc cho triều đình) tên Lê Sĩ Khôi, lệnh cho viên y quan này khuyên dụ ông.

Chúng ta đều rõ, Trung Quốc đô hộ chúng ta trong một thời kỳ hơn ngàn năm - thời kỳ mà Sử gọi là thời “Bắc thuộc”. Thời kỳ này phương Bắc đã bắt tiền nhân ta học chữ Hán, theo chế độ Khoa cử Trung Quốc…. nhằm đồng hóa chúng ta.

Sau khi giành được độc lập vào năm 939 - và trong suốt thời kỳ phong kiến An Nam vẫn triều cống Trung Quốc, vẫn lấy Hán tự làm văn tự chính thức của mình.

Trong một tình thế như vậy lẽ ra chúng ta rồi cần học ngôn ngữ Trung Quốc cho mục đích Ngoại giao. Thế nhưng tiền nhân ta đã không học.

Cho tới nay tôi vẫn chưa tìm được Sử liệu nào đề cập các triều đình An Nam thời cổ đã lập những trường đào tạo thông sự!

Hoặc giả những trường như vậy “chẳng từng hiện hữu”, bởi lẽ giản dị tiền nhân chúng ta không muốn khuyến khích dân trong nước học tiếng nói của kẻ xâm lược, để từ đó có thể đưa tới nguy cơ bị đồng hóa dần dần?

Cho nên trường hợp có người nói được Hoa ngữ triều đình sẽ trưng dụng, sung vào Sứ bộ đi Trung Quốc, hoặc trong công việc nào khác, như buôn bán chẳng hạn…. Tuy nhiên, đây chỉ là giả thiết cá nhân trong khi chờ đợi tìm kiếm Sử liệu liên quan vấn đề.

 Chu Chi Du, tên Tự là Lỗ Dư, tên Hiệu là Thuấn Thủy, người cuối  triều Minh, quê ở huyện Dư Diêu, Phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang.

Khi Thanh triều (1644 - 1911) tiêu diệt Minh triều (1368 - 1644), ông chạy xuống miền Nam bôn ba qua lại Nhật Bản, An Nam, kết hợp một số bạn bè mưu “phản Thanh phục Minh”.

Năm 1647, lần đầu tiên Chu Chi Du tới Xứ Đàng Trong - lúc bấy giờ là triều Chúa Nguyễn Phúc Lan (1601 - 1648; tại vị: 1635 - 1648).Ở đây được ít lâu Chu Chi Du lại đi.

Cho tới năm 1652 Chu Chi Du định trở lại đây nhưng thuyền gặp bão, do đó chuyển hướng qua Nhật Bản.

2 năm sau, tháng 12 năm 1654, Chu Chi Du trở lại Đàng Trong, lúc này là vào khoảng đầu  thời Chúa Nguyễn Phúc Tần (1620 - 1687; tại vị: 1648 - 1687).

Năm 1657, ông đến An Nam lần nữa, đang định qua Phủ Tư Minh theo lệnh trưng triệu của Lỗ vương Chu Dĩ Hải (1618 - 1662), bấy giờ là “Giám quốc” triều Nam Minh (1645 - 1662) nhưng nhằm lúc Nguyễn Phúc Tần có lệnh trưng tập những Hoa kiều có học thức, bó buộc ông phải lên Kinh. Ở đây Nguyễn Phúc Tần muốn phong 1 chức quan cho ông, nhưng ông từ chối, cuối cùng đành thả ông về Hội An.

Năm sau, Chu Chi Du lại đi Nhật Bản, để từ đây qua Phủ Tư Minh, vì không thể trực tiếp từ An Nam mà đi. Chưa tới nơi thì nghe tin Chu Sơn thất thủ, một số bạn bè tử trận, ông đành trở lại Nhật Bản, để năm sau, năm 1659, thì định cư tại đây cho tới hết đời.

(Chu Sơn (舟山) là một quần đảo trên Biển Đông, ở vịnh Hàng Châu, huyện Ninh Ba, thuộc tỉnh Chiết Giang. Quần đảohơn 400 hòn đảo lớn, nhỏ, Chu Sơn lớn hơn hết, quanh co trải dài hơn 400 dặm (hơn 200 cs).

Năm thứ 2 Niên hiệu Hồng Vũ (1368 - 1398) Minh Thái tổ (1328 - 1398; tại vị: 1368 - 1398) đặt chức Thiên hộ và chiến thuyền tuần phòng tại đây.

 TẬP “An Nam Cung Dịch Kỷ Sự” trích dẫn ở đoạn trước, nói cho chính xác, không phải là một cuốn sách, mà chỉ là 1 tập Nhật ký ghi lại những cảnh ngộ Chu Chi Du gặp trên đường lên Kinh, cũng như thời gian ông ở tại đây gặp Nguyễn Phúc Tần; ngoài ra còn số ghi chép về Hội An lúc ông từ Kinh trở về đây, có những điều thú vị nhưng không kém quan trọng về xứ Đàng Trong, có thể bổ túc cho Cổ sử Việt Nam.

Vào khoảng trung kỳ Minh triều (1368 - 1644), Vương Thủ Nhân (1472 - 1528), tên Hiệu là Dương Minh, đưa ra thuyết “trí lương tri”, chủ trương “tự do ý chí”, “tri hành hợp nhất” - nhưng thuyết này bị giới trí thức Trung Quốc đương thời phản đối, không phát triển được.

Việc “phản Thanh” thất bại, Chu Chi Du chạy qua Nhật Bản, định cư tại đây, truyền thụ học thuyết của Vương Dương Minh, và được chấp nhận, và thành tư tưởng chỉ đạo trong việc duy tân của Minh Trị thiên hoàng sau này. Điều đáng nói nhất về Chu Chi Du là việc này].

 Ngày 4 tháng 8 năm Giáp Tuất (1694), Nguyễn Phúc Chu (1676 - 1725; tại vị: 1691 - 1725) sai người tới chùa Trường Thọ ở Quảng Đông thỉnh Đại Sán tới Thuận Hóa giảng Pháp.

 (KỲ 18)

Trong thời gian 1 năm rưỡi ở Thuận Hóa và Hội An Thích Đại Sán đã ghi lại một số điều về đất nướccon người xứ Đàng Trong, như khí hậu, động vật, cây cỏ, thổ sản, nhà cửa, phương tiện di chuyển, phong tục, tập quán, buôn bán, sưu dịch, quân dịch,…. tất cả được ghi lại khá tỉ mỉ trong tập bút ký “Hải Ngoại Kỷ Sự”.

Tập “Hải Ngoại Kỷ Sự” là một trong những tác phẩm quan trọng viết về Việt Nam thời cổ của các tác giả Trung Quốc thời trước; giá trị của tác phẩm là ở chỗ tự thuật ở đây căn cứ những gì tác giả thấy tận mắt, nghe tận tai. 

Ngày mồng 1 tháng 2 năm Ất Hợi, trước Ngọ, Nguyễn Phúc Chu thiết trai tăng cung thỉnh Đại Sán, và tiếp đó cúng dường ca vũ. Sau đó Đại Sán có hỏi chuyện các nàng ca kỹ:

~ Phạn tất, thỉnh viết: - Lão hòa thượng tiền đắc dĩ ca vũ cung dưỡng phủ?

Dư viết: - Thập cung dưỡng trung, âm nhạc kỳ nhất dã.

Vương viết: - Cáo quá thủy cảm.

Tùy mệnh xuất cung nữ tứ, ngũ thập nhân… dã dung (冶容) nhạn hàng, chúng âm tịnh tấu, ca giả trì () kỳ thanhmị chi, vũ tụ phi dương tự thái liên tình thái, ca kỳ khúc điệu dã.

Diễn [] bãi, xuất nô tiền (帑錢) ngũ thập thiên dữ dư thưởng tiểu hầu (小侯), tiểu hầu tức lê viên (梨園) chi xưng, dịch nhã danh dư? Ngữ trung thường dĩ Đông Kinh vi niệm, ngôn Đông Kinh nguyên bản Quốc cương thổ, kỳ tiên thế nãi An Nam chuế tế (贅婿) phân phiên ư tư, hậu chuyển cường thịnh…. tự thử cát cứ bản quốc, nhân thị cải xưng vi Đại Việt vân!

Vấn đáp mỗi vị thông sự thố mậu, thị dĩ bất phục đa ngôn.

                                                                         /  Hải Ngoại Kỷ Sự. Qu. I  /.

~ Cơm xong, (vua) mời: - Lão hòa thượng trước đây có được cúng dường ca vũ không?

Tôi nói: - Trong 10 thứ cúng dường âm nhạc là một.

Vua nói: - Phải nói qua mới dám thỉnh.

Liền đó gọi 4, 5 chục cung nữ ra… mặt mày trang điểm, đứng theo hàng lối thứ tự, các thứ nhạc khí đồng thời tấu, người ca tiếng ca ngân nga cho đắm lòng người, ống tay áo múa tung bay như tư thái hái sen, ca nhạc khúc của mình.

Diễn (ca vũ) xong, xuất tiền vương phủ đưa tôi 50,000 tiền thưởng các tiểu hầu, tiểu hầu là tên gọi các cô ca kỹ, cũng chẳng là tiếng gọi thanh nhã sao? Trong lúc nói chuyện các cô này thường tỏ lộ hoài niệm Đông Kinh, nói Đông Kinh vốn là cương thổ nước mình, nói đời trước của vua (hiện nay) là rể của vua An Nam, được cho ra trấn thủ đất này, đến sau trở nên cường thịnh…. từ đó cát cứ bản quốc đây, nhân đó đổi quốc hiệu là Đại Việt.

Trong khi đối đáp, thường vì thông sự dịch sai lạc cho nên tôi không nói nhiều! 

 Minh Di:

Sự kiện Lê Thánh tông đánh Chiêm Thành năm 1473, bắt cả nhà vua Chiêm Thành Bàn La Trà Duyệt, chiếm đất đổi tên khác, không thấy “Đại Việt Sử Ký” ghi chép.

 

Về quan hệ Việt / Chiêm, Việt / Trung, rồi Chiêm Thành và Trung Quốc, có bao nhiêu Sử liệu trong tay, trong đó có một số tác phẩm của những người đã từng tới xứ Chiêm và sống tại đây một thời gian vài ba tháng, 1 năm hay năm ngoài, với tư cách là Sứ giả Trung Quốc, tôi đều dẫn hết trong cuốn “Nam Biên”.

Tuy chưa thể gọi là đầy đủ nhưng ít ra những Sử liệu này cũng có thể cho người đọc một cái nhìn tổng quát về những nét chủ yếu về Chiêm Thành.

                                                                            &

Sau cùng, cũng có một đôi điều cần nói thêm ở đây.

Cuối tác phẩm “Nam Biên” tôi có mấy giòng:

~ Duyệt lại Cổ sử người ta thấy có một sự tránh né của Sử gia Việt Nam thời cổ, nói rõ ở đây là bộ “Đại Việt Sử Ký”, khi viết về “hành trình về phương Nam” của An Nam. - hoặc nói rõ ra là cuộc Chiến tranh giữa Chiêm thành và Đại  Việt.

Trong hơn 1,000 năm lệ thuộc phương Bắc thư tịch của chúng ta bị Trung Quốc, hoặc lấy đi hoặc tiêu hủy không là ít lắm, thế nhưng vẫn còn một số được họ lưu giữ -có một số trong số này được họ ấn hành để nghiên cứu! Đây là chưa kể trong khá nhiều thư tịch của học giả, nhất là Sử gia nước họ chúng ta, người Việt ngày nay, còn có thể thấy lại được con người của chúng ta ngàn năm trước.

Trong khi đó thư tịch của Chiêm Thành cổ nhân chúng ta thẳng tay tiêu diệt, không còn manh mối gì! Nguồn Sử liệu chủ yếu còn lại về Chiêm Thành đến từ phía Trung Quốc!

Ngoài ra, có thể Cao Miên, tức Chân Lạp cổ cũng có vài ghi chép về Chiêm Thành!

Có lẽ cần học thêm tiếng Miên nếu muốn thêm phần nào về dân tộc Chiêm Thành.

Lại nữa, có vẻ Sử gia, học giả của chúng ta những thời trước đã không mấy người có hứng thú chép về một Quốc gia - một Dân tộc, một thời đã bị chúng ta tiêu diệt!

~ Phải chăng đây là một mặc cảm? Phải chăng hay chẳng phải?

Mất nước đã là một nỗi bất hạnh lớn lao, con cháu ngày nay rồi cũng không rõ gì nhiều về tổ tiên mình lại là nỗi bất hạnh khác, đây là nỗi bất hạnh của người Chàm còn lại!

Sử gia thường nói tới điều gọi là “bài học lịch sử”, và cũng chính Sử gia lại đã thường quên nhắc tới một điểm trong “bài học lịch sử” đó:

~ Niềm tự hào của một Dân tộc luôn luôn được trải bằng xương, tưới bằng máu của một Dân tộc khác.

Muốn tiêu diệt một nước, tiêu diệt Văn hóa của nước đó trước! Việt Nam của những thời trước, là Giao Chỉ, là An Nam…. đã áp dụng triệt để nguyên tắc này, và áp dụng đến lạnh lùng, một sự lạnh lùng của Lịch sử!

Lịch sử vốn lạnh lùng, như Sử gia phải bình thản trước sự kiện Lịch sử, chính xác là phải “lãnh tĩnh” trước mọi biến động - nhưng “lãnh tĩnh” rồi không có nghĩa là lạnh lùng sắt đá trước cảnh tang thương, lầm than của con người, của đồng loại!

Đây là góc cạnh nhân bản của Sử gia, và chính tấm lòng “nhân bản” này mới làm nên một Sử gia chân chính, ngoài những đức tính khác phải có của Sử gia.

                                                                             &                

 Vì phải tiếp xúc với Trung Quốc để nhờ giúp đỡ chống lại Giao Chỉ từ đó người Chiêm dần dần đã học chữ Hán, viết văn, làm thơ chữ Hán - và hơn thế nữa, còn đọc tới cả Kinh điển Trung Quốc như Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư….

 

Tập “Trạc Anh Đình Bút Ký” (濯纓亭筆記) kể rằng sau khi Nguyên triều diệt Tống triều Thẩm Kính Chi (? - ?) lưu vong phương Nam tới Chiêm Thành xin giúp quân chống với Nguyên triều, khôi phục Tống triều! Chiêm Thành nói nước mình nhỏ để từ chối.

Thẩm Kính Chi vào tận triều khóc lóc van xin cũng không được.

Thẩm Kính Chi ở lại Chiêm Thành, vua Chiêm đối đãi như khách nhưng trước sau vẫn không cho làm quan. Thẩm Kính Chi lo nghĩ đến phẫn hận, sinh bệnh mà chết.

Vua Chiêm làm một bài thơ thương tiếc như sau:

Động () khốc Giang Nam lão cự khanh (鉅卿),

Xuân phong thức lệ (拭淚) vị thương tình.

Vô đoan thiên hạ biên niên nguyệt,

Trí sử nhân gian hữu tử sinh.

Vạn điệp (萬疊) bạch vân già cố quốc,

Nhất phôi (一抔) hoàng thổ cái () hương danh.

Anh hồn (英魂) hảo trục (好逐) Đông lưu khứ,

Mạc hướng biên ngu (邊隅) oán bất bình!

                                 Khóc thảm Giang Nam lão đại khanh,

                                 Gió xuân quét lệ mà thương tình.

                                 Cớ chi thiên hạ ghi năm tháng,

                                 Để khiến nhân gian có tử sinh.

                                 Mây trắng vạn tầng che cố quốc,

                                 Đất vàng một nắm lấp hương danh.

                                 Hồn thiêng nếu nhập giòng Đông cuốn,

                                 Chớ hướng góc trời dạ bất bình!

 Tham khảo:

Thù Vực Chu Tư Lục. Qu. VII. Nam man. Chiêm Thành.

 Dưới bài thơ của vua Chiêm nói trên, Nghiêm Tòng Giản viết:

~ Quan thử tắc Chiêm Thành bất duy thô thông [粗通] văn mặc nhi thả đôn trọng (敦重) tiết nghĩa; bất duy kỳ thần hữu thi tài nhi kỳ chủ dịch thiện biên chương, bân bân (彬彬) hồ thanh danh văn vật, thất () vu Triều Tiên, siêu vu Nhật Bản viễn hĩ!

Ngã Thái tổ khoa cử chiếu chi ban, chân bất bỉ lậu kỳ nhân nhi dục nạp chi vu hợp giáo đồng văn (同文) chi thịnh dã, nghi tai!

~ Coi đây thì (người) Chiêm Thành chẳng những thông thi văn mà còn trung hậu, trọng tiết nghĩa; chẳng những bề tôi nước này có tài làm thơ mà rồi vua của họ cũng giỏi việc văn chương, tiếng tăm về các phương diện lễ, nhạc, Điển chương đều trọn vẹn, ngang với Triều Tiên, vượt xa Nhật Bản.

Thái tổ triều ta ban chiếu về khoa cử đúng là không coi người xứ này là quê mùa, mà muốn chiêu nạp họ nhập nền giáo hóa hay đẹp rực rỡ của những nước cùng văn tự.

(Phụ chú.

+ Hảo trục (好逐). Chữ “hảo” ở đây nghĩa là “nếu như”.

+ Đồng văn (同文). Cùng dùng 1 thứ văn tự (chữ viết), ở đây tức chỉ văn tự Trung Quốc).

 Tập “Thù Vực Chu Tư Lục” sưu tập được tất cả 5 bài Đường thi của Chiêm Thành:

3 bài thất tuyệt cú và 2 bài thất ngôn bát cú, bài dẫn trên đây là 1 trong 5 bài này.

4 bài kia được dẫn từ tập bút ký “Cận Phong Văn Lược” (近峰聞略) là các bài: 

(1). Sơ phát (初發).

(2). Dương Châu đối khách (揚州對客).

(3). Giang lâu lưu biệt (江樓留別).

(4). Nhất trượng hồng (一丈紅).

Bài thứ 5 trên đây không thấy Nghiêm Tòng Giản cho biết đề tựa.

Trong các tập bút ký của danh nhân, học giả, Trung Quốc ngày trước đâu đó chúng ta có thể tìm được một vài bài Đường thi chẳng những của Sứ giả Chiêm Thành mà còn của các Sứ giả Nhật Bản, Giao Chỉ khi đi Sứ qua Trung Quốc.

 Chẳng những giỏi Đường thi, giới học thức Chiêm Thành cũng giỏi cả văn xuôi.

Một tờ Biểu văn viết Hán văn của Quốc vương Chiêm Thành gởi vua Tống triều.

~ Cảnh Đức…… Tứ niên. Khiển sứ Bố Lộc Gia Địa Gia đẳng phụng Biểu lai triều.

Biểu hàm tịch dĩ văn cẩm, từ viết:

~ Chiêm Thành Quốc vương Dương Phổ Câu Tỳ Trà Thất Li đốn thủ ngôn:

~ Thần văn nhị đế phong cương Nam chỉ giới ư Tương, Sở, tam vương cảnh giới Bắc bất cập ư U, Yên ¾ ngưỡng chúc () xương thời, thực mại (實邁) vãng tích, phục duy hoàng đế bệ hạ! Càn Khôn thụ khí, nhật nguyệt trừ anh (儲英), xuất Chấn tôn, thừa cơ ngự cực, từ bi phu () ư thiên hạ, thanh giáo bị () ư vực trung; nghiệp mậu () tiền vương, công phương () tồ hậu (徂后), thương sinh thị niệm, hoàng ốc phi tâm. Vô phương bất thị sinh linh, hữu thổ tịnh vi thần thiếp. Chân phong biến bố, bái trạch (霈澤) chu hành, phàm mộc chiếu lâm, cộng tăng tủng biến (聳抃).

Thần sinh ư biên bỉ, hạnh tập Hoa phong, nghị điệt (蟻垤) phong phòng (蜂房), liêu () vi toại tính. Long lâu, phụng các, thượng () trở () quan quang, tái niệm tự hà (自假) thiên uy, hoạch toàn phong bộ (封部), lân vô xâm đoạt, tục hữu thư tô (舒蘇).

Mỗi tuế bái khiển, hạ thần vấn ninh (問寧) thượng quốc. Mông thánh hạ ân triêm (恩霑) hành vĩ (行葦), phúc cập đồn ngư (豚魚). Đặc nhân hồi ban tứ nhung khí, thần bản thổ duy vọng khuyết phần hương, hoan hô bái thụ! Tâm tri đa hạnh, hạt () đáp hồng ân? Thánh quân ký niệm ư tân vương, vi khẩn khẳng vong ư thuật chức.

Kim khiển chuyên () tín thần Bố Lộc Gia Địa Gia, phó Sứ thần Trừ Bô Ma Hà Ca Gia, Phán quan Thần Bì Bá Để, nhất hàng nhân lực đẳng, bộ thự (部署) thổ mao viễn xung tuế cống. Tuy biểu Sở mao (楚毛) chi lễ, thực hoài Lỗ tửu (魯酒) chi ưu! Kiền () vọng duệ minh (睿明), phủ khoan khiển lục (甫寬譴戮). Chuyên tín thần đẳng hồi nhật, quân dung (軍容) khí trượng, diệu vũ chi vật, phục nguyện trùng gia tứ lai.

Cái niệm thiêm vi thần tử, hợp cáo quân, thân. Phục sức, xa dư, uy nghi phủ việt bất cảm tư chế, duy vọng ân ban. Can mạo miện lâu bất nhiệm tử tội.

                          /  Tống Sử. Qu. CDXXCIX. Ngoại quốc 5. Chiêm Thành  /.

 (KỲ 19)

~ Niên hiệu Cảnh Đức….

Năm thứ 4.

Sai Bố Lộc Gia Địa Gia mấy người cầm Biểu tới triều.

Biểu văn đựng trong hộp lót gấm hoa, văn viết:

- Quốc vương Chiêm Thành Dương Phổ Câu Tỳ Trà Thất Li cúi đầu thưa:

- Thần nghe cương vực của nhị đế ở phương Nam cũng chỉ tới vùng Tương, Sở, biên cảnh của tam vương ở phương Bắc chưa tới các vùng U, Yên - ngước nhìn thời thịnh vượt hơn các thời đã qua chỉ có hoàng đế bệ hạ! Trời đất trao cho khí thiêng, trăng sao tích tụ tinh anh, đế xuất phương Đông, nối nghiệp ở ngôi cao, từ bi tỏ khắp thiên hạ, uy thanh, giao hóa bao trùm trong cõi, sự nghiệp rực rỡ hơn các vua trước, công trạng lưu tiếng thơm tới các đời sau, dân chúng tưởng nhớ, chẳng trái ý vua!

Dân phương nào mà không là dân của vua, dân cõi nào cũng là tôi tớ của vua, giáo hóa trải khắp, ân đức lan khắp, những chỗ ân trạch của vua chiếu tới rồi làm thêm cao lòng kính ngưỡng!

Thần ở chốn quê mùa xa xôi, may mắn được tiếp xúc với giáo hóa của Trung Hoa, cái trí nhỏ nhoi của loài ong, kiến nhờ đó mà tăng tiến. Lầu rồng gác phụng ánh sáng rực rỡ còn cách trở; (nhưng) nghĩ lại nhờ cái uy trời nơi xa xôi mà giữ được Cương thổ, nước láng giềng không xâm lấn, chiếm đoạt, lại được hồi sinh, sống đời an lành!

Mỗi năm [thần] sai chức quan nhỏ tới vấn an thượng quốc! Mong ân thánh thấm nhuần cho tươi tốt loài lau sậy, phúc tới loài heo nhỏ, cá nhỏ (loài nhỏ nhít). Đặc biệt nhân lúc Sứ giả trở về xin ban cho (các thứ) binh khí, (cả) nước thần hướng về Cung khuyết mà thắp hương, vui mừng nhận lãnh! Tự biết mình có nhiều may mắn (nhưng) làm sao mà báo được ân lớn này? Thánh quân đã có lòng tưởng nhớ vua mới (này) thì thần thành khẩn không quên phận chư hầu.

Nay [thần] phái Đặc sứ Bố Lộc Gia Địa Gia, phó sứ Trừ Bô Ma Hà Ca Gia, Phán quan Thần Bì Bá Để, nhân lực 1 đoàn, sắm sửa thổ sản cho việc tiến cống xa xôi hàng năm. Tuy biện lễ tiến cống mà lòng thực lo lễ vật bạc! Kính mong bệ hạ sáng suốt soi xét mà nhẹ phần trách phạt. Ngày các bề tôi trong đoàn Đặc sứ trở về thì binh khí, nghi trượng biểu dương sức mạnh mong bệ hạ gia ân ban thêm!

Nghĩ mà thẹn cho phận thần tử khi phải cáo tế vua, cha! Phục sức, xe cộ, các vật dụng uy nghi xử phạt trong Quân không dám tự làm lấy, mong bệ hạ ra ơn ban cho. Giáp trụ khiên thuẫn, vật trang sức cờ xí (cũng không dám chế), không dám gánh lấy tội chết!

 Minh Di:

Biểu văn trên đây vua Chiêm viết vào năm cuối Niên hiệu Cảnh Đức (1004 - 1007), tức năm 1007, thời Tống Chân tông (968 - 1022; tại vị: 997 - 1022).

Biểu văn này cho thấy vào đầu thế kỷ 11 tiến trình Hán hóa của Chiêm Thành đã bước được những bước khá xa.

Biểu văn trên cho thấy rõ Quốc vương Chiêm Thành Dương Phổ Câu Trà Tỳ Thất Li là một người thông hiểu Kinh, Sử Trung Quốc.

A. Kinh.

(1). Kinh Dịch.

(a). Câu “Chấn xuất cư tôn” trong Biểu văn xuất từ Kinh Dịch:

~ Đế xuất hồ Chấn.

                             /  Dịch. Thuyết Quái. V  /.

~ Bậc đế vương khởi lên từ phương Đông.

 

(b). Quan quang. Tân vương.

Đây là những chữ trong Quẻ Quan (Tốn / Khôn):

~ Quan quốc chi quang, lợi dụng vu tân vương.

                                                           /  Dịch. Quan. Lục tứ  /.

~ (Muốn) quan sát sự thịnh vượng của Quốc gia thì thuận lợi là ở vào địa vị khách của vua.

 (c). Đồn ngư.

Chữ lấy từ Quẻ Trung Phu (Tốn / Đoài):

~ Trung Phu, đồn ngư cát, lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh.

                   Dịch. Trung Phu. Quái từ  /.

~ Quẻ Trung Phu, tâm thành đến cảm hóa được loài heo nhỏ, cá nhỏ thì tốt lành, lợi cho việc vượt sông lớn, bền chí sẽ được lợi.

 (2). Kinh Thư (Thượng Thư).

+ Nhị đế. Tam vương.

Nhị đế là vua Nghiêu, vua Thuấn.

Tam vương là Hạ Vũ, Thành Thang, Chu Văn vương, 3 vị vua khai sáng 3 triều đại mà Sử gọi là Tam Đại (Hạ. Thương. Chu).

Cuốn Vĩ thư “Xuân Thu Thuyết Đề Từ” viết:

~ “Thượng Thư” giả, nhị đế chi tích, tam vương chi nghĩa, sở suy kỳ vận, minh thụ mệnh chi tế.

~ “Thượng Thư”Sách chép về công trạng của nhị đế, về cái uy nghi của tam vương - những suy giải thời vận trong Sách là nhằm làm rõ sự tiếp nối của việc nhận mệnh trời.

 (3). Kinh Thi.

+ Vô phương bất thị sinh linh, hữu thổ tịnh vi thần thiếp.

Kinh Thi viết:

Phổ thiên chi hạ,

Mạc phi vương thổ.

Suất thổ chi tân,

Mạc phi vương thần.

Thi Kinh. Tiểu Nhã. Bắc phong  /.

                  Khắp cả thiên hạ,

                  Đều là đất vua.

                  Bến bãi sông, biển,

                  Ai chẳng vương thần.

 B. Sử.

(1). Tả Truyện.

+ Tuy biểu Sở mao chi lễ, thực hoài Lỗ tửu chi ưu.

Sách Tả Truyện chép:

~ Tứ niên Xuân.

Tề hầu dĩ chư hầu chi Sư xâm Thái. Thái hội toại phạt Sở.

Sở tử Sứ dữ Sư ngôn viết:

- Quân xử Bắc hải, quả nhân xử Nam hải, duy thị phong [] mã ngưu bất tương cập dã, bất ngu (不虞) chi thiệp ngô địa dã, hà cố?

Quản Trọng đối viết:

- Tích Thiệu Khang Công mệnh ngã tiên quân Thái Công viết:

- Ngũ hầu, cửu bá, nhữ thực () chinh chi, hiệp phụ (夾輔) Chu thất, tứ ngã tiên quân () Đông chí vu hải, Tây chí vu Hà, Nam chí vu Mục Lăng, Bắc chí vu Vô Đệ.

Nhĩ cống bao mao (包茅) bất nhập, vương tế bất cung, vô dĩ súc tửu (縮酒).

Tả Truyện. Hi Công tứ niên  /.

 ~ Năm thứ 4, mùa Xuân.

Tề hầu điều động quân chư hầu xâm lăng nước Thái - Quân nước Thái tan rã lại tiến đánh nước Sở.

Sứ giả nước Sở nói với (Tướng) chỉ huy quân nước Tề:

- Ông ở biển Bắc, quả nhân ở biển Nam, 2 bên chẳng dính dáng gì với nhau, không ngờ ông lại xâm phạm đất tôi, đây là duyên cớ gì vậy?

Quản Trọng trả lời:

- Ngày xưa Thiệu Khang Công lệnh cho vua đời trước nước tôi là Thái Công, nói rằng:

- Ngũ hầu, cửu bá, ngươi cứ việc đánh để giúp Chu triều, ban cho tiên quân tôi cai quản ở phía Đông tới biển, phía Tây tới Hoàng Hà, phía Nam tới Mục Lăng, phía Bắc tới Vô Đệ.

Ông không tiến cống cỏ bao mao làm thiên tử lúc tế tự không có cái để lược cặn rượu.

(Phụ chú.

+ Phong mã ngưu.

Trâu, ngựa, con đực con cái dẫn dụ nhau; đây là chuyện nhỏ không đáng để ý tới, cho nên dùng ở đây để hàm ý chẳng dính dáng gì tới nhau.

 + Bao mao. Súc tửu.

Thời cổ, khi tế tự thì lấy cỏ tranh bó thành từng bó đặt đứng trước đàn Tế, lấy rượu rót lên trên đầu bó tranh, rượu chảy qua kẽ của bó tranh, xuống đất, giống như Thần uống rượu.

2 chữ “Sở mao” trong bài Biểu tiến cống của Chiêm Thành ở đây chỉ “vật tiến cống”.

 + Lỗ tửu.

Sách Trang Tử có câu:

~ Lỗ tửu bạc nhi Hàm Đơn vi.

                  /  Trang Tử. Khư khiếp  /.

~ Rượu nước Lỗ lạt lẽo mà thành Hàm Đơn bị vây.

 Lục Đức Minh chú câu trên viết:

~ Sở Tuyên vương triều chư hầu, Lỗ Cung Công hậu chí nhi tửu bạc.

Tuyên vương nộ, dục nhục chi. Cung Công bất thụ mệnh nãi viết:

- Ngã Chu Công chi dận (), trưởng ư chư hầu, hành thiên tử Lễ, Nhạc, huân () tại Chu thất, ngã tống tửu dĩ thất lễ, phương thanh kỳ bạc vô nãi đại thậm

Toại bất từ nhi hoàn.

Tuyên vương nộ, nãi phát binh dữ Tề công Lỗ.

Lương Huệ vương thường dục kích Triệu nhi úy Sở cứu. Sở dĩ Lỗ vi sự cố Lương đắc vi Hàm Đơn - ngôn sự tương do dã, dịch thị cảm ứng.

…………

Hứa Thận chú “Hoài Nam Tử” vân:

- Sở hội chư hầu, Lỗ, Triệu câu hiến tửu ư Sở vương.

Lỗ tửu bạc nhi Triệu tửu hậu, Sở chi chủ Tửu lại (酒吏) cầu tửu ư Triệu, Triệu bất dữ.

Lại nộ, nãi dĩ Triệu hậu tửu dịch Lỗ bạc tửu tấu chi Sở vương. Dĩ Triệu tửu bạc cố vi (故圍) Hàm Đơn dã.

/ Kinh Điển Thích Văn. Qu. XXVII. Trang Tử âm nghĩa Trung. Khư khiếp 10  /.

~ Sở Tuyên vương triều kiến các nước chư hầu, Lỗ Cung Công tới trễ mà rượu đem tới lại lạt lẽo.

Tuyên vương nổi giận, muốn làm nhục Cung Công. Cung Cung đã không tuân lệnh mà còn nói rằng:

- Tôi là con cháu Chu Công - người đứng đầu trong hàng chư hầu, trông coi việc Lễ, Nhạc cho thiên tử, có công lao lớn với Chu triều; tôi dâng rượu có thất lễ nhưng rượu mới cất độ lạt cũng không quá lắm!

Sau đó không từ tạ mà bỏ về.

(Sở) Tuyên vương nổi giận cùng với Tề khởi binh đánh Lỗ.

Lương Huệ vương vẫn muốn đánh nước Triệu nhưng sợ nước Sở cứu Triệu. (Bây giờ) Sở bận rộn việc đánh Lỗ nên Lương Huệ vương được dịp vây thành Hàm Đơn - đây là nói về duyên do của sự việc, mà cũng là lẽ cảm ứng.

…………

Hứa Thận chú giải sách “Hoài Nam Tử”, viết:

- Nước Sở hội chư hầu, nước Lỗ, nước Triệu đều dâng rượu lên vua Sở.

Rượu nước Lỗ lạt lẽo, rượu nước Triệu thì đậm đà, chức quan trông coi về Rượu nước Sở xin rượu nước Triệu, Triệu không cho.

Chức về rượu nổi giận, tráo rượu đậm đà của Triệu với rượu lạt lẽo của Lỗ, rồi tâu với vua nước Sở. Vì cớ rượu nước Triệu lạt cho nên Sở đem quân vây thành Hàm Đơn.

 Sau này 2 tiếng “Lỗ tửu” được dùng để chỉ “rượu dở”.

Sau hết, 2 tiếng “Tương, Sở” đề cập trong tờ biểu văn của Quốc vương Chiêm Thành tức chỉ 2 tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc hiện nay; 2 tiếng “U, Yên” tức chỉ tỉnh Hà Nam hiện nay. 

                                                                               &

Coi thi văn chữ Hán của Chiêm Thành dẫn trên đây thì rõ giới học thức Chiêm Thành những thời trước cũng tinh thông Hán văn ở một trình độ cao, cho nên đương thời nếu Chiêm Thành có những sáng tác, những biên soạn về Văn học, Lịch sử… Đất nước họ bằng Hán văn thì đây không phải là sự kiện lạ! - và chắc chắn là có!

[Có khác chi người Giao Chỉ thuở trước, cũng đọc Hán văn, sáng tác bằng Hán văn].

Những sáng tác, những biên soạn như vừa nói, nếu có, cũng đã bị Giao Chỉ hủy diệt - nằm trong sách lược tiêu diệt Văn hóa, không còn gì!

Đáng tiếc, nếu không chúng ta có thêm một số Sử liệu để hiểu rõ hơn về Đất nước, và Con người Chiêm Thành.

Trung Quốc đô hộ Giao Chỉ hơn 1 ngàn năm - nói cho chính xác1049 năm, bắt đầu từ năm 111 trước Tây lịch cho tới năm 939 Tây lịch (939 Tl - 111 tr. Tl).

Thế nhưng, những sách của tiền nhân chúng ta viết họ không hủy diệt, trái lại có khi họ  in lại, nếu thấy có giá trị! Lý do là họ chỉ nhằm đồng hóa người Giao Chỉ, không nhắm tới sự tiêu diệt.

Một điểm sau cùng có lẽ cũng cần nói ở đây.

Chiêm Thành một mặt phải tiến cống Trung Quốc để nhờ giúp đỡ chống lại An Nam và mặt kia cũng phải nạp cống An Nam để được yên thân, một cổ mà 2 tròng.

Tuy nhiên, người Chiêm không học tiếng Việt, vì mối thù giữa 2 bên quá sâu nặng; gặp lúc trùng kỳ tiến cống, vào triều, Sứ giả nước này ngồi bên Đông thì Sứ giả nước kia ở bên Tây, không muốn nhìn mặt nhau (coi ở trước)….

Cũng vậy, ngày trước, khi vào triều cống, Sứ bộ Giao Chỉ vẫn theo ngã Quảng Tây để từ đây lên Kinh, vì lẽ đó Sứ bộ Chiêm Thành xin Trung Quốc vào tỉnh Quảng Đông để  từ đây lên Kinh, để khỏi chạm mặt nhau, trường hợp cùng lúc vào tiến cống.

(Mở ngoặc:

Về định kỳ triều cống của Chiêm Thành, Hoàng Tỉnh Tăng đời Minh chép:

~ Kỳ triều cống dĩ tam tái; kỳ truyền vị thụ hoàng đế chi phong.

Hồng Vũ nhị niên, kỳ chủ A Đáp A Giả thủ khiển kỳ thần Hổ Đô Man lai triều cống.….

Vĩnh Lạc hậu, kỳ quốc dữ chư quốc giai lai triều cống, thủy định mỗi tam niên nhất lai.

              /  Tây Dương Triều Cống Điển Lục. Qu. Thượng. Chiêm Thành  /.

~ Việc triều cống của nước này cứ 3 năm 1 kỳ; việc truyền vị ngôi vua của nước này thì thụ phong từ hoàng đế.

Năm thứ 2 Niên hiệu Hồng Vũ, vua A Đáp A Giả nước này đầu tiên sai bề tôi là Hổ Đô Man tới triều cống….

Sau niên hiệu Vĩnh Lạc, nước này và các nước đều tới triều cống, (chừng đó) mới bắt đầu ấn định 3 năm triều cống một lần.

Thế nhưng, tình thế cấp bách thường xuyên, bị An Nam tấn công, xâm lăng, do đó mà không chờ tới kỳ cống Chiêm Thành vẫn vào tiến cống Trung Quốc liền liền để cầu cứu.

 (KỲ 20)

Bộ Minh Sử chép:

~ Chính Thống nguyên niên.

Quỳnh Châu tri phủ Trình Oanh ngôn Chiêm Thành tỉ niên (比年) nhất Cống, lao phí (勞費) thực đa, khất như Tiêm La chư quốc, lệ tam niên nhất cống.

Đế thị chi, sắc kỳ Sứ như Oanh ngôn.

                               /  Minh Sử. Qu. CCCXXIV. Ngoại Quốc 5. Chiêm Thành  /.

~ Năm đầu Niên hiệu Chính Thống.

Tri phủ Quỳnh Châu Trình Oanh nói Chiêm Thành cứ mỗi năm mỗi vào Cống, nhân lực và tài khoản bỏ ra cho việc này thực nhiều, xin y theo như lệ của các nước như nước Tiêm La 3 năm vào cống 1 lần.

Vua cho là phải, ra sắc chỉ cho Sứ giả Chiêm Thành làm như lời trình của Trình Oanh.

 Quan Tri phủ Quỳnh Châu Trình Oanh than phiền việc Chiêm Thành cứ mỗi năm mỗi đến triều cống làm triều đình phải điều động nhân lực, và còn phải dành ra 1 tài khoản, cho việc phục dịch Sứ bộ lên Kinh, vì vậy Trình Oanh xin qui định 3 năm 1 lần cống.

Vua thuận theo, thế nhưng Chiêm Thành vẫn cứ tới liền liền.

11 năm sau, năm 1446, Sứ giả Chiêm Thành tới triều thì triều đình hỏi Sứ giả về việc này:

~ Tiên thị định tam niên nhất cống chi lệ, kỳ Quốc bất tuân.

Cập cật (), kỳ Sứ giả tắc vân tiên vương dĩ thệ () nhi sắc vô tồn, cố bất tri thử lệnh.

                               /  Minh Sử. Qu. CCCXXIV. Ngoại Quốc 5. Chiêm Thành  /.

~ Trước đây qui định 3 năm triều cống 1 lần, nhưng Nước này không tuân theo.

Chừng hỏi Sứ giả nước này về sự việc thì Sứ giả nói rằng vua đời trước đã chết, sắc chiếu về việc này (cũng) không còn, cho nên không hay biết lệnh này).

 Do đó, người Chiêm học chữ Hán một mặt để giao tiếp với Trung Quốc, một mặt nhằm giao tiếp với một nước thù địch qua một ngôn ngữ trung gian mà 2 bên đều rành, tránh dùng ngôn ngữ của kẻ thù.

                                                                            &

 Trở lại với ông Tạ Chí Đại Trường.

Không truy tận gốc, chỉ trích dẫn lại từ người khác, cho nên, ông Tạ Chí Đại Trường có những lúc đã sai một cách thảm hại, sai “rất kỹ”.

Lấy một vài thí dụ:

Ông Tạ Chí Đại Trường viết:

~ “Năm Đại Thông thứ 11 (Hậu Tề, 537) có chiếu bắt buộc một mạch ăn một trăm mà dân không chịu”.

Sử Việt Đọc Vài Quyển. IV. Tiền bạc, Văn Chương và Lịch Sử - tr. 180  /.

 

Những cái SAI của ông Tạ Chí Đại Trường:

(1). Trong Lịch sử Trung Quốc không có một triều đại nào là Hậu Tề hết!

Thời kỳ gọi là Nam - Bắc Triều (420 - 589) có 2 triều Tề, một ở miền Nam mà Sử học Trung Quốc gọi là Nam Tề (479 - 502), và một ở phương Bắc là Bắc Tề (550 - 577).

(2). Đại Thông là Niên hiệu của Lương Vũ đế Tiêu Diễn (464 - 549; tại vị: 502 - 549) - người khai sáng triều Lương (502 - 557).

Niên hiệu này chỉ trải 2 năm7 tháng - từ tháng 3 năm 527 tới tháng 10 năm 529.

Và như vậy, năm (“537”) Tạ Chí Đại Trường ghi chú trong ngoặc đơn rồi chẳng khớp vào đâu: Nam Tề chẳng hợp, mà Bắc Tề cũng chẳng khớp, nếu nói triều Tề.

Nếu năm 537 là năm 11 Niên hiệu Đại Thông như Tạ Chí Đại Trường ghi, nguyên niên của Niên hiệu này là năm 527, tức phù hợp với năm thứ nhất Niên hiệu Đại Thông của Lương Vũ đế.

Bây giờ cứ cho là Tạ Chí Đại Trường nói lộn đi, Niên hiệu kể trên là của Lương Vũ đế, nếu vậy thì Tạ Chí Đại Trường giải thích ra sao về cái năm thứ 11 này? - Vì như đã dẫn ở trên, Niên hiệu Đại Thông này chỉ có 2 năm và 7 tháng!

Tiếp đến, cứ cho là in ấn sai mà năm thứ 1 thành năm thứ 11, và năm 527 thành 537 thì rốt cục Niên hiệu này cũng không là của triều “Hậu Tề”, một triều đại không từng có trong Lịch Sử Trung Quốc, chỉ có qua cái Học chưa tới, Vấn chưa thông, hoặc là do sự cẩu thả, làm việc không có phương pháp, không tra cứu của Tạ Chí Đại Trường.

Kết lại, nói xuôi / nói ngược, nói tới / nói lui, nói chiều nào đi nữa, Tạ Chí Đại Trường cũng SAI cả!

Sau hết, tôi không rõ Tạ Chí Đại Trường đọc từ đâu ra được cái triều Hậu Tề, cho đến cái Niên hiệu Đại Thông của cái triều đại lạ lùng này và cái năm thứ 11 (năm 537) của cái Niên hiệu này?

 

Tiếp đến, ở một đoạn khác, ông Tạ Chí Đại Trường viết:

-Lí có nguồn gốc Trung Quốc đã là điều khẳng định bình thường với người có đọc sách ngày nay từ khi quyển Lí Thường Kit của Hoàng Xuân Hãn ra đời năm 1949. Trần cũng vậy”.

Sđd. VII. Các Trung Tâm Quyền Lực Trong Lịch Sử Việt Nam. Tr.316  /.

Minh Di:

Té ra rằng… trước năm 1949 chẳng có“người có đọc sách ngày nay” nào biết được Lý Công Uẩn và người kiến lập triều đại Trần thuộc gốc Hoa.

Tôi chưa đọc cuốn “Lý Thường Kiệt” của Hoàng Xuân Hãn cho nên không rõ ông này dẫn từ đâu để nói Lý Công Uẩn người Hoa? Trừ phi ông ta dẫn các sách tiếng Miên và tiếng Lèo… thì tôi đây không biết, còn như nếu ông ta dẫn những điều này từ các sách Hán văn thì lại té ra một điều nữa là “chỉ có” ông họ Hoàng tên Xuân Hãn là đọc được chữ Hán, và nhờ ông ta dịch ra “người có đọc sách ngày nay” mới biết được điều mà Tạ Chí Đại Trường cứ tưởng - theo cái kiến thức rất hạn hẹp của ông ta về Cổ sử, là nếu không có ông họ Hoàng, tên Xuân Hãn, này thì những “người có đọc sách” - và ở lãnh vực chuyên môn là giới nghiên cứu Sử học, rồi mãi mãi mờ mịt trong “vô tri”, theo như “lời ca”, mà không biết mình ca cái chi, của ông Tạ Chí Đại Trường!

[Ghi chú sau này.

Trước đây, năm 2007, khi viết bài phê bình này, tôi không có cuốn “Lý Thường Kiệt” của Hoàng Xuân Hãn.

Tới năm 2012 tôi mượn được cuốn sách kể trên của một người quen, đem từ Việt Nam khi qua Úc đoàn tụ gia đình (khoảng 1991, 1992 gì đó).

Đọc cuốn “Lý Thường Kiệt” tôi không ngờ Hoàng Xuân Hãn bất thông Hán văn - những Sử liệu ông ta dùng để viết cuốn sách này là những sách Hán văn dịch ra Pháp văn.

Lại điều không ngờ nữa, Hoàng Xuân Hãn đã lập lờ đánh lận làm như ông ta tham khảo trực tiếp bản Hán văn. Chuyện đánh lận này của Hoàng Xuân Hãn tôi đã trưng dẫn rất rõ trong bài phê bình cuốn “Lý Thường Kiệt”, với những chứng cứ không thể chối cãi được!

Ở thời buổi INTERNET như ngày nay, một bài viết đã lên diễn đàn thì chỉ vài phút sau cả Thế giới đều hay biết, cho nên chuyện đánh lận như kiểu Hoàng Xuân Hãn, và của một số tôi phê bình gần đây, như Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Duy Chính…., thiên hạ cũng hay, cũng biết rất mau chóng, không gạt thiên hạ được lâu như Hoàng Xuân Hãn đâu, đừng có mà ngây thơ điên đảo mộng tưởng!

Tạ Chí Đại Trường đã đọc 2 bài tôi phê bình cuốn “Lý Thường Kiệt” , chắc hẳn là vậy!].

                                                                           &

 Ông Tạ Chí Đại Trường hãy đọc những giòng sau đây:

Phạm Thành Đại (1126 - 1293) thời Nam Tống (1127 - 1279) viết:

~ Bất năng tạo chỉ, bút, cầu chi tỉnh địa.

Kỳ nhân thiểu thông văn mặc, Mân nhân phụ hải bạch (海舶) vãng giả tất hậu ngộ chi - nhân mệnh chi quan, tư dĩ quyết sự. Phàm văn di ngụy, loạn, đa tự du khách xuất! Tương truyền kỳ tổ Công Uẩn dịch bản Mân nhân.

                                                           /  Quế Hải Ngu Hành Chí. Chí Man  /.

~ Dân xứ này không chế được giấy, bút, những thứ này đều kiếm ở tỉnh địa chúng ta!

Xứ này ít người thông chữ nghĩa, người Phúc Kiến đi biển qua thì chắc chắn họ đối đãi rất hậu - rồi nhân đó cho làm quan, được tham dự và quyết đoán công việc. Nói chung công văn viết sai văn pháp và lộn xộn phần lớn rồi từ đám du khách này mà ra!

Tương truyền Công Uẩn, người khai sáng triều đại này, vốn cũng là người Phúc Kiến.

Những giòng trên đây viết vào năm 1173. Ở đây, Phạm Thành Đại nói “tương truyền” tức việc này đã được đề cập trước ông đã lâu, không phải vào năm 1173.

 + Tập “Quế Hải Ngu Hành Chí” là một trong những tác phẩm quan trọng về Giao Chỉ. Tác giả Phạm Thành Đại ngoài là một học giả còn là thi nhân lớn cuối thời Nam Tống.

 Về họ Trần, Chu Mật (1232 - 1298) viết:

~ An Nam quốc vương Trần Nhật Cự [14] bản Phúc ChâuTrường Lạc ấp nhân,tính danh vi Tạ Thăng Khanh.

                             /  Tề Đông Dã Ngữ. Qu. XIX. An Nam Quốc vương  /.

~ Quốc vương An Nam Trần Nhật Cự [14] vốn là người ấp Trường Lạc, Phúc Châu, họ và tên là Tạ Thăng Khanh.

 

Chú thích số [14] ghi:

~ An Nam quốc vương Trần Nhật Cự giả, “Cự” () nguyên tác “Chiếu” (), cứ “Tống Sử” Quyển tứ nhị “Lý tông kỷ” Nhị, quyển tứ bát bát “Giao Chỉ truyện” cải.

~ Quốc vương An Nam Trần Nhật Cự, chữ “Cự” [] nguyên viết là chữ “Chiếu” [], (nay) y cứ “Tống Sử” - Qu. XLII, “Lý tông kỷ” 2, Qu. CDLXXXVIII, Giao Chỉ truyện mà sửa lại.

 

Trữ Nhân Hoạch (? - ?) vào sơ kỳ Thanh triều (1644 - 1911) viết:

~ Nhất Chi Mai (一枝梅).

Giao Chỉ quốc vương nguyên () tính Trần thị.

Hậu hữu Giang Tây Lê Quí Li ấu thời thương phân (商販) kỳ quốc, đăng ngạn thời kiến sa thượng hữu cú vân: - Quảng hàn cung lý nhất chi mai.

Li hậu dần duyên (夤緣) đắc quan.

Nhất nhật Trần vương tỵ thử ư Thanh Thử Điện (清署殿), đình hữu quế () thiên thụ. Vương xuất đối viết:

~ Thanh Thử Điện tiền thiên thụ quế.

Quần thần giai vị đối, Li ức sa thượng sở kiến, toại dĩ đối chi.

Vương đại kinh viết:

~ Tử hà dĩ tri ngã cung sự?

Quí Li dĩ thực cáo,vương viết:

~ Thử thiên số dã!

Cái vương hữu nữ danh Nhất Chi Mai, kiến Quảng Hàn Cung dĩ xử chi.

Toại phối chi.

                   /  Kiên Hồ Tập. Ngũ Tập. Qu. IV. Nhất Chi Mai  /.

~ Một cành mai.

Quốc vương Giao chỉ nguyên họ Trần.

Về sau có Lê Quí Li người tỉnh Giang Tây thuở nhỏ đến nước này buôn bán, lúc lên bờ thấy trên bãi cát có một câu: ~ Quảng Hàn cung ấy một cành mai.

Sau nhờ lân la quen biết người này người kia mà (Quí Li) được một chức quan.

Một ngày kia vua Trần nghỉ mát ở Điện Thanh Thử, trong sân Điện có ngàn cây quế.

Vua Trần ra câu đối:

~ Thanh Thử Điện kia ngàn gốc quế.

Các quan đều chưa kịp đối, (Quí) Li chợt nhớ câu trên bãi cát, liền lấy câu này đối lại.

Vô cùng kinh ngạc, vua hỏi:

~ Sao ông lại biết việc trong cung của ta?

Quí Li tình thực thưa lại sự việc, vua nói:

~ Đây là số trời!

Số là vua  có người con gái tên Nhất Chi Mai, xây cung (đặt tên là) Quảng Hàn cho ở.

Do đó gả cô con gái này cho Quí Li.

 [Chú thích.

+ Lê Quí Li.

Khi cướp ngôi của họ Trần Lê Quí Ly đổi lại họ Hồ, lấy Quốc hiệu là Đại Ngu (大虞).

Lê Quí Li tự nhận mình là con cháu của Ngu Thuấn, một vị Đế thời tối cổ của Trung Hoa.

Chu Vũ vương diệt Thương triều, phong con cháu Ngu ThuấnHồ Công Mãn (胡公滿) ở đất Trần, Lê Quí Li nhân đó mới đổi lại họ Hồ.

(Tham khảo:

Thông Chí. Qu. XXVI. Thị tộc lược 2. Dĩ Quốc vi Thị).

 Về Quốc hiệu Đại Ngu (大虞) nói trên của Hồ Quí Li tôi có một kỷ niệm thực khó phai mờ. Năm lớp 5 tôi học Sử với một thầy tên Dậu (tôi không còn nhớ tên họ của thầy là gì?).

Vốn ghét Hồ Quí Li, khi dạy tới triều Hồ, giải nghĩa Quốc hiệu “Đại Ngu” trên đây, thầy Dậu nói với bọn con nít chúng tôi như sau:

- Quốc hiệu mà đặt là Đại Ngu thì các em thấy Hồ Quí Li ngu như thế nào!

Chữ “ngu” () là ngu ngốc, về Hán tự, viết khác chữ “Ngu” trong Quốc hiệu Đại Ngu! Thầy Dậu vì không biết Hán văn nên giảng quá sai lạc và tức cười, nhưng cũng không kém phần tai hại, như vậy!

 Sau này lớn lên học chữ Hán, đọc Sử tôi mới biết chữ “NGU” đây nhằm chỉ vua Thuấn, ông vua hiền năng thời tối cổ của Trung Quốc.

Đúng là một sự trùng hợp, thời xưa con cháu đế Thuấn được phong ở đất Trần, bây giờ Lê Quí Li cướp ngôi của họ Trần ở Việt Nam!

 (KỲ 21)

Thời nay ở chốn “vu xứ” này bỗng nảy ra vài ba ông ngè Tây học, hoặc nói theo bây giờ là ông “tiến sĩ”, chẳng biết Hán văn lại quờ quạng viết ẩu, bàn loạn về Lịch sử cổ, Văn hóa cổ Việt Nam và Trung Hoa, để rồi viết bậy viết bạ những điều không sao tưởng ra nổi!

Mấy ông “ngè” này cứ tưởng cái bằng của mấy ông to lắm, thiên hạ nghe phải khiếp vía!

Tôi cũng khiếp vía, nhưng khiếp vía vì cái dốt của mấy ông “ngè” Tây học này!

+ Kiên Hồ Tập (堅瓠集).

Danh xưng “Kiên Hồ Tập” lấy từ một ngụ ngôn trong sách “Hàn Phi Tử”

Hàn Phi (280 - 233 tr. Cn) viết:

~ Tề hữu cư sĩ Điền Trọng giả, Tống nhân Khuất Cốc kiến chi, viết:

~ Cốc văn tiên sinh chi nghĩa, bất thị nhân nhi thực, kim Cốc hữu thụ hồ chi đạo, kiên như thạch, hậu nhi vô khiếu, hiến chi.

Trọng viết:

~ Phù hồ sở quí giả, vị kỳ khả dĩ thành () dã. Kim hậu () nhi vô khiếu (), tắc bất khả phẫu dĩ thànhvật; nhi nhiệm trọng như kiên thạch tắc bất khả dĩ phẫu nhi dĩ châm (), ngô vô dĩ hồ vi dã.

Viết: ~ Nhiên, Cốc tương khí chi!

Kim Điền Trọng bất thị nhân nhi thực dịch vô ích nhân chi Quốc, dịch kiên hồ chi loại dã!

Hàn Phi Tử Tập Giải. Qu. XI. Ngoại Trừ Thuyết. Tả Thượng đệ 32  /.

~ Nước Tề có cư sĩ Điền Trọng, người nước Tống là Khuất Cốc tới gặp ông và nói:

- Cốc tôi nghe nói tiên sinh là người nghĩa khí, không ăn bám người khác, Cốc tôi đây có giống bầu cứng như đá, dày chắc mà đặc ruột, xin biếu tiên sinh.

Điền Trọng nói:

~ Trái bầu quí ở chỗ có thể dùng làm vật chứa. Bây giờ trái bầu (của ông) dày, cứng mà ruột không rỗng thì không thể xẻ khoét để chứa đựng; lại cứng như đá thì rồi không thể xẻ    khoét để đựng nước, đựng rượu, tôi không làm gì được với thứ bầu này.

(Khuất Cốc) nói:

~ Nếu vậy Cốc tôi sẽ bỏ giống bầu này đi!

Bây giờ Điền Trọng không nương dựa người khác để ăn thì cũng có khác chi Quốc gia mà không làm điều lợi ích cho con người, cũng như loại bầu cứng đặc ruột vậy!

(Phụ chú.

Tiếng “Cư sĩ” trong đoạn trên chỉ người có học thức mà không ra làm quan).

 Tác giả của “Kiên Hồ Tập” là Trữ Nhân Hoạch, học giả sơ kỳ Thanh triều (1644 - 1911).

Ông có tên Hiệu là Giá Hiên,cho nên cũng được học giới gọi là Trữ Giá Hiên.

- “Kiên Hồ Tập” là tên của một Tổng tập Bút ký gồm 6 Tập, mỗi Tập có một tên gọi riêng:

(1). Kiên Hồ Tập. Tập này lại phân 10 Tập, từ Thủ Tập (Tập Đầu) đến Thập Tập, và phân đều mỗi Tập gồm 04 Quyển, cộng tất cả 40 Quyển.

(2). Kiên Hồ Tục Tập. 04 Quyển.

(3). Kiên Hồ Quảng Tập. 06 Quyển.

(4). Kiên Hồ Bổ Tập. 06 Quyển.

(5). Kiên Hồ Bí Tập. 06 Quyển.

(6). Kiên Hồ Dư Tập. 04 Quyển.

Cộng 6 Tập, được tất cả 66 Quyển.

 

Nội dung “Kiên Hồ Tập” rất phong phú, tự thuật bao quát rất nhiều lãnh vực, như Kinh, Sử và Thi văn, Nhân vật, Phong tục Tập quán, ẩm thực, Danh lam Thắng cảnh….

Lấy 2 chữ “KIÊN HỒ” đặt tên tựa Sách Trữ Nhân Hoạch có ý khiêm tốn là Bút ký của mình vốn không có ích lợi gì về mặt thực tế.

 

Đề tựa cho “Kiên Hồ. Tam Tập”, Mao Tông Cương (1632 - 1710 ?), Phê bình gia tiếng tăm trong lãnh vực tiểu thuyết sơ kỳ Thanh triều, có đoạn viết:

- “…. Cố thư thành nhi thủ nghĩa ư vật chi vô dụng như kiên hồ giả dĩ danh kỳ biên”.

- “…. Cho nên sách viết xong thì lấy ý nghĩa của một vật vô dụng như trái bầu cứng, đặc mà đặt tên cho tập sách của mình”.

 Năm sinh, năm tử đích xác của Trữ Nhân Hoạch cho đến nay vẫn chưa truy cứu ra.

Cuối bài đề Tựa đã dẫn trên Mao Tông Cương ghi:

- “Đồng học Kiết Am Mao Tông Cương, Tự Thủy Thị, mạn đề”.

- “Bạn đồng học, Kiết Am Mao Tông Cương, Tự là Thủy Thị, tùy tiện đề (mấy giòng)”.

 Bạn đồng học của Trữ Nhân Hoạch, Mao Tông  Cương, sinh năm 1632:

+ Cứ đó thì có thể suy đoán Trữ Nhân Hoạch sinh trong khoảng năm 1630 tới 1632 - hoặc trễ lắm là trước, sau năm 1635 một chút].

 Những ghi chép như loại dẫn trên về nguồn gốc, tịch quán của một vài nhân vật lịch sử Việt Nam cổ thư tịch Trung Quốc ít nhiều có ghi chép, nếu có hứng thú với Cổ sử học người đọc được Hán văn có thể tìm thấy tương đối dễ dàng.

Tạ Chí Đại Trường cũng rõ là tiền nhân ta viết chữ Hán, đọc Hán tự, và rồi cho đến cả nhiều “người có đọc sách ngày nay” cũng đọc được Hán văn - và đọc tới nơi tới chốn chứ không phải lõm bõm như họ Hoàng tên Xuân Hãn.

Không lẽ là “những người đọc sách mấy trăm năm trước” rồi không biết tới điều mà một kẻ “hậu bối” như Hoàng Xuân Hãn biết? tiền nhân không viết, không nói ra đó thôi!

Tạ Chí Đại Trường rồi quá tâng bốc Hoàng Xuân Hãn, quá, tới độ lố bịch!

 Cũng như lần ông Tạ Chí Đại Trường lấy làm tiếc, có lẽ là rất tiếc, khi không được có cái hân hạnh quen biết tiến sĩ Cổ sử học người Mỹ là Keith Weller Taylor - tác giả cuốn “The Birth of Vietnam” rất nổi tiếng, nổi tiếng cái kiến thức Cổ sử Việt Nam và Trung Hoa quá tệ của ông tiến sĩ cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam.

Có một lúc, có 1 số ông bà khoa bảng Việt Nam ở hải ngoại đã ồn ào ca tụng, tâng bốc Keith Weller Taylor mà chẳng ông nào, bà nào biết rõ mình ca tụng cái chi nữa!

Trong Tập san Văn Lang, Số 3 ~ tháng 6 / 1992, Tạ Chí Đại Trường có một bài viết có tựa đề “Những hoàng đế điền chủ đại việt (thế kỷ X - XIV)”.

Ngay dưới tên ông - Tạ Chí Đại Trường - ông ghi mấy giòng như sau:

- “Tặng ông Keith Weller Taylor (1).

     Không được hân hạnh quen biết”.

Và ở Cước chú ghi số (1) trên đây Tạ Chí Đại Trường cho biết:

“1. “Tham dự hội thảo “Tìm hiểu lịch sử Việt nam” từ 7 đến ngày 12 - 1 1991 tại thành phố Hồ Chí Minh (Phỏng vấn của Tuổi trẻ chủ nhật số 3 / 91 ngày 20 – 1 -1991)”.

 Ông Tạ Chí Đại Trường (hình như là Cao học, hay tiến sĩ Sử học chi đó) thì như vậy!

Ông tiến sĩ Sử học Phạm Cao Dương thì trích dẫn ào ào cuốn “The Birth of Vietnam”  trong bài một bài viết tựa là Góp phần Nhận định Về Sự Du Nhập Nho Giáo Vào VN Dưới Thời Bắc Thuộc, mà trích dẫn những cái sai - và sai nặng, mới chết người đọc không rành về Cổ sử, và người chết trước hết là ông tiến sĩ Sử học Phạm Cao Dương!

Vốn liếng về Cổ sử Việt Nam Trung Hoa ông chẳng có tôi tới chẳng rõ ông tiến sĩ Phạm Cao Dương rồi “p phần” với cái gì đây? “nhn đnh” theo cái ngã nào đây? - Hỡi ơi!

 K W Taylor viết trong “The Birth of Vietnam” như sau:

“Lieu Huu Phuong was from Giao Province. To go from Giao to Ch’ang-an in T’ang times, it was usual to embark and sail 250 miles downriver and along the coast to Sea Gate, the port in western Kuang-tung where the land route began. From there to the capital, a horse would have had cover 1,200 miles”.

Dch văn:

“Liêu Hữu Phương vốn gốc ở Giao châu. Vào thời Đường, muốn đi từ Giao châu tới Trường An thường là phải đi thuyền xuôi giòng sông và lần theo bờ biển qua 1 đoạn thủy lộ dài 250 dặm tới Hải Môn, hải cảng ở mặt tây Quảng-đông, nơi mà đường bộ bắt đầu. Từ đó tới kinh đô, đi ngựa thì phải trải qua 1 đoạn đường là 1,200 dặm”.

 như vậy, như đoạn văn trên của ông tiến sĩ Cổ sử học K W Taylor, vào thời Đường đoạn đường từ Giao châu tới thành Trường An, Kinh đô Đường triều xa:

250 dặm + 1,200 dặm =1,450 dặm.

Chữ “dặm” ở đây, Anh ngữ là “mile”, người Việt chúng ta thường gọi là “dặm Anh”, để phân biệt với “dặm Tàu” ().

Dặm Anh tính SI [Système International] = 1.60934 cs - tính tròn là 1.609 cây số.

Vậy khoảng cách Giao châu – Trường An thời Đường, theo K W Taylor, xa:

1,450 dA x 1.609 cs = 2,333.05 cs - tính cho tròn là 2,333 cây số.

Không rõ K W Taylor đã lấy số liệu trên đây từ đâu? không thấy ông tiến sĩ ghi xuất xứ!

 Con đường đâu có gần vậy ông tiến sĩ Taylor!

Tôi không nghĩ đoạn đường Giao châuTrường An thuở đó lại có thể gần tới vậy!

Đoạn văn trên đây của Taylor nằm trong phần có tiêu đề:

~ “T’ang-Viet Society, (Xã hội Đường-Việt),

Economy and Culture”. (Kinh tế và Văn hóa).

Và phần trên đây là 1 phần trong Chương 5 cuốn “The Birth of Vietnam”, đó là Chương có tựa đề “The Protectorate of An-Nam” (An Nam Đô Hộ Phủ).

~ Chương “An Nam Đô H Phủ” trải từ trang 166 tới trang 221; trong suốt 56 trang của Chương này ông tiến sĩ Sử học, và là Sử học cổ, đã đề cập bộ Chính sử đời Đường là bộ “Cựu Đường Thư” - mà ông ta ghi tắt theo phát âm Quốc ngữ [tức Phổ thông] của Hoa ngữ là CTS (Chiu T’ang Shu), đâu đó tôi đếm được tất cả 24 lần ở phần cước chú cuối mỗi trang.

(Phụ chú.

Ở đây K W Taylor dùng Hệ thống ký âm Hoa ngữ Thomas Francis Wade (1818 - 1895), là hệ thống ký âm tiêu chuẩn vẫn được học giới Tây phương sử dụng tới hiện nay.

Thomas Francis Wade là giáo sư Hoa ngữ tại Đại học Cambridge từ năm 1888).

 Thế nhưng, có điều hết sức là khó hiểu, nói khác đi, tôi có điều thắc mắc:

Nếu như Keith Weller Taylor có đọc Bộ “Cựu Đường Thư” thế thì tại sao, tại sao, ông tiến sĩ Cổ Sử lại không biết đoạn đường “Giao châuTrường An” vào thời Đường là bao xa? Nói rõ hơn là tại sao ông ta lại không biết là ngay trong “Cựu Đường Thư” có một đoạn chép về An Nam Đô Đốc Phủ, và chép rất rõ như sau:

~ An Nam Đô Đốc Phủ…… chí Kinh sư thất thiên nhị bách ngũ thập tam lý.

                                                 /  Cựu Đường Thư. Qu. XLI. Địa lý chí 4  /.

~ An Nam Đô Đốc Phủ…… (từ đây) tới Kinh sư7 ngàn 2 trăm 5 mươi 3 dặm.

 

Kinh sư (Kinh đô) nói ở đây tức chỉ thành Trường An, Thủ đô của Đường triều.

Để tôi nói luôn cho ông tiến sĩ Sử học Keith Weller Taylor, và những ông / bà Việt Nam dạy Sử học mà “chỉ có cái bằng cấp” thôi mà phục ông tiến sĩ K W Taylor sát đất rõ:

1 dặm thời Đường (618 - 907) tính ra Hệ thống SI = 559.8 m, tức 0.5598 cs (km).

Vậy, 7,253 dặm (lý) = 7,253 x 0.5598 m = 4,060.2294 km, tính tròn số là 4,060 cây số.

Và như vậy, so với khoảng cách ông tiến sĩ K W Taylor đã chỉ đưa ra khơi khơi thì sự sai biệt ở đây cũng khá:

                                      4,060 cây số - 2,333 cây số = 1,727 cây số.

 Ông tiến sĩ Phạm Cao Dương đã trích dẫn đoạn đường nêu trên của K W Taylor trong bài Góp phần nhận định về sự du nhập Nho giáo vào VN dưới thời Bắc thuộc và không có 1 mảy thắc mắc là đoạn đường “Giao Châu - Trường An” này từ đâu mà ra? - ở Sách nào? Quyển thứ mấy? ở Mục nào, Phần nào của Sách nào? Hỡi ơi!

Trưng dẫn ở đây một thí dụ, trong rất nhiều thí dụ, trong cuốn “The Birth of Vietnam” của K W Taylor để cho thấy cái lối làm việc không phải thiếu mà là không có khoa học chút nào của ông ta - chưa nói tới sự lập lờ của Taylor khi dẫn Sử liệu Hán văn, từ đó mà thấy cái kiến thức lem nhem của ông tiến sĩ về lãnh vực Cổ sử. 

Keith Weller Taylor đưa ra một con số khơi khơi, không trưng ra xuất xứ của con số được nêu ra đó, vậy mà ông tiến sĩ Phạm Cao Dương lại cứ thế mà tin, mà dẫn theo!

 Ông Lê Thọ Giáo ở Mỹ cũng ồn ào không kém, giới thiệu:

Tại miền Đông Hoa kỳ, G.S. Huỳnh Sanh Thông chủ biên tạp chí The Viet Nam Forum, dưới sự bảo trợ của Council on Southeast Asia Studies, thu hút sự đóng góp đáng kể của nhiều học giả lỗi lạc về Việt Nam như Keith Taylor, David Haines, John Whitmores…

 /  VĂN LANG. Tập San Nghiên Cứu Việt Học. Số 4 Tháng 12. 1992. tr. 12, 12  /.

 Dĩ nhiên, tôi không nói giữa hư không, nói không có chứng cứ, cũng không nói quá về Keith Weller Taylor, vì tôi đã viết 2 bài phê bình chỉ ra rất rõ cái lơ mơ, cái kém cỏi của ông ngè Mỹ này về Cổ sử với những chứng cứ rành rành, không chạy vào đâu được!

Sau 2 bài phê bình Keith Weller Taylor tận tình của tôi có lẽ rồi ông Tạ Chí Đại Trường đã bỏ đi cái lòng hăm hở muốn có được cái “hân hạnh quen biết” ông tiến sĩ lỗi, lạc tên Keith Weller Taylor! Nếu không, Tạ Chí Đại Trường rồi cũng thành “lỗi, lạc” luôn!

Và, các ông….

 Tóm lại, tôi muốn nói ở đây là mấy ông Việt Nam dạy Sử trích dẫn mấy ông Tây viết về Cổ sử Việt Nam, Trung Hoa mà mấy ông không có vốn Hán văn khả quan thì mấy ông có khác chi giao mạng cho những người chẳng hiểu bao nhiêu về Cổ sử Việt Nam và Trung Hoa, chưa nói là có nhiều điều viết bậy, viết sai, như Keith Weller Taylor đây.

                                                                            &

(KỲ 23)

Bài viết này cũng là một câu trả lời cho một số khoa bảng Tây học cứ nghĩ rằng có thể tin tưởng dẫn dụng sách vở Tây phương, và nhất là những bản dịch từ Hán qua Việt ở bên kia bờ hiện nay, viết về Cổ sử Việt Nam và Trung Hoa.

2 năm trước, và mấy tháng trước đây thôi, có vài kẻ biện hộ cho việc nghiên cứu cổ sử Việt Nam cũng như Trung Hoa nói riêng, Cổ học nói chung, qua các tài liệu của những người Tây phương. Biện hộ này, suy cho cùng, chỉ là biện hộ cho sự yếu kém của họ về Hán văn để có thể đọc tận nguồn vấn đề họ nghiên cứu! Và “cùng” tới nữa điều này cũng xuất từ lòng tự ái, để từ sự tự ái này họ lên tiếng công kích tôi! Rất tiếc, họ nói mà chẳng biết mình nói cái chi! Họ lấy cái sở đoản của bản thân hòng đối lại cái sở trường của người, thất bại, đuối lý cũng là chuyện dễ hiểu!

Tôi phải tạm ngưng bài “Nam biên” để viết bài này, theo tôi biết thì hiện nay cũng khá nhiều người, chuyên môn và không chuyên môn, đã mua bản dịch bộ Sử kể trên!

Ở đây, tạm thời tôi chỉ trưng dẫn một số sai lầm, và là những sai lầm rất căn bảnmột người học Hán văn thực sự không bao giờ sai, đủ để cho mọi người - nhất là mấy ông, mấy bà khoa bảng Tây học Việt Nam, xóa tan đi “cái ảo tưởng” về khả năng và trình độ của những kẻ được gọi“nghiên cứu Hán Nôm” trên vùng “đỉnh cao” ở phía “bên kia bờ” hiện nay trong lãnh vực Cổ sử học nói riêng, và Cổ học nói chung!

Tôi nhớ trước năm 75 ở miền Nam VN ông tu sĩ Thiên Chúa giáo Thanh Lãng có soạn một cuốn văn học sử, trong đó trích dẫn loạn những gì dân cư ở vùng “đỉnh cao” viết - và có 2 ông nọ (tôi không còn nhớ tên) cũng viết 1 cuốn sách, và cũng trích dẫn những đoạn y như vậy! Thế là ông tu sĩ Thanh Lãng lôi hai ông kia ra tòa vì tội “đạo văn” của ông ta.

Ra tòa, 2 ông kia thưa tòa rằng ông ta (tu sĩ Thanh Lãng) leo lên tận đỉnh cao” mà lấy những thứ đó, chúng tôi cũng leo lên đó mà lấy, sao lại gọi chúng tôi là “đạo văn” của ông ta được! Thế là ông tu sĩ Thanh Lãng thua kiện!

Hỡi ơi, vùng “đỉnh cao” kia, nhìn lại, rồi chỉ là cõi “vô hà hữu”!

 Tôi lấy trường hợp Hoàng Xuân Hãn trong cuốn “Lý Thường Kiệt”.

Về địa giới Giao Chỉ và Tống triều, Hoàng Xuân Hãn viết:

          “Một nơi quan-trọng thuộc trại Vĩnh-bình. Sách LNĐĐ chép : “Trại Vĩnh-bình kề Giao-chỉ, chỉ cách bằng mt con sông mà thôi. Phía bắc sông có trạm Giao-chỉ (ở đất Tống). Phía nam sông có đình Nghi-hòa. Đều là chỗ để buôn bán trao đổi, do chúa trại Vĩnh-bình cai quản”.

(CHƯƠNG V. BANG-GIAO LÝ TỐNG. 2. – GIAO-DỊCH. Tr. 121).

Về địa giới giữa Giao Chỉ và Tống triều “Lãnh Ngoại Đại Đáp” chép như sau:

~ Ung châu Hữu giang Vĩnh Bình Trại dữ Giao Chỉ vi cảnh, cách nhất giản nhĩ! Kỳ Bắc hữu Giao Chỉ dịch, kỳ Nam hữu Tuyên Hòa đình (宣和亭), tựu vi bác dịch trường.

Sđd. Qu. V. Tài Kế môn. Ung châu Vĩnh Bình Trại bác dịch trường  /.

- Trại Vĩnh Bình ở vùng sông Hữu giang, thuộc Ung Châu, tiếp giới với Giao Chỉ, cách một khe suối thôi! Phía Bắc khe suối có trạm (tên gọi là) Giao Chỉ, phía Nam (suối) đình Tuyên Hòa, là nơi buôn bán giao dịch.

 Có thể thấy liền Hoàng Xuân Hãn đã sai lầm khi ghi rằng đường ranh giữa Giao Chỉ và Trại Vĩnh Bình là mt con sông”.

Lằn ranh này tập bút ký “Lãnh Ngoại Đại Đáp” chép rõ là “mt khe suối” (nhất giản).

Sông và Suối khác nhau rất xa!

Nếu như Hoàng Xuân Hãn đọc nguyên tác Hán văn thì không bao giờ ông ta lại dịch chữ “Giản” () là “Sông” hết! 

Vậy tại sao “khe suối” Hoàng Xuân Hãn lại viết là “Sông”?

Lý do cũng không có gì là khó hiểu hết, vì lẽ những ông học giả Hán học người Pháp ở trường “Viễn Đông Bác Cổ” đã dịch chữ “giản” hoặc là fleuve, hoặc là rivière gì đó cho nên Hoàng Xuân Hãn cứ thế mà tin theo, mà viết xuống!

Chưa kể 2 chữ “Tuyên Hòa” Hoàng Xuân Hãn đọc ra làm sao mà thành “Nghi Hòa”

 

Khi chỉ ra cái sai của một người nào tôi đều trưng dẫn Sử sách, tài liệu rõ ràng - và biện luận, nếu thấy cần, không nói giữa hư không!

 Minh Di.

Bản đầu tiên, viết mẫu chữ VPS. 

19 tháng 3 năm 2007.

Đánh lại Unicode (23 – 26 / 10. 2017).

Viết thêm nhiều trang.

08 tháng 11 năm 2017.

 (KỲ 24)

Thư mục.

 

[1]. Xuân Thu Tả Truyện Tập Giải.

Tây Tấn. Đỗ Dự.

Thập Tam Kinh Bản.

Thượng Hải Thư Điếm (TQ)      1997 / Sơ.

[2]. Sử Ký.

Tây Hán. Tư Mã Thiên.

Lưu Tống. Bùi Ân tập giải (Bùi Ân, Ân cũng đọc âm Nhân).

Đường. Tư Mã Trinh sách ẩn. / Trương Thủ Tiết chính nghĩa.

Thượng Hải Thư Điếm      1988 / Sơ.

[3]. Hậu Hán Thư Tập Giải.

Lưu Tống. Phạm Việp.

Thanh. Vương Tiên Khiêm tập giải.

Dân Quốc. Hoàng Sơn hiệu bổ.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1984 / Sơ.

[4]. Tống Thư. (1).

Nam Bắc triều - Lương. Thẩm Ước,

[5]. Tân Ngũ Đại Sử. (2).

Bắc Tống. Âu Dương Tu.

[6]. Tống Sử. (3).

Nguyên. Thoát Thoát.

[7]. Minh Sử. (4).

Thanh. Trương Đình Ngọc.

Nhị Thập Ngũ Sử Bản. [3]. [4]. [5]. [6].

Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1991 / 8.

[8]. Minh Giám.

Thanh. Cao tông (Càn Long) sắc soạn.

Dân Quốc. Ấn Loan Chương hiệu đính.

Thượng Hải Thư Điếm (TQ)      1984 / Sơ.

[9]. Tư Trị Thông Giám.

Bắc Tống. Tư Mã Quang.

Nguyên. Hồ Tam Tỉnh chú.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1987 / 7.

[10]. Thái Bình Hoàn Vũ Ký.

Bắc Tống. Nhạc Sử.

Vương Văn Sở điểm hiệu.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2007 / Sơ.

[11]. Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập.

Đệ ngũ Sách.Tùy. Đường. Ngũ Đại Thập Quốc thời kỳ.

[12]. Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Đệ Thất Sách. Nguyên. Minh thời kỳ.

Đàm Kỳ Tương chủ biên.

Địa Đồ Xuất Bản Xã (TQ)      1996 / 2. (Tinh trang bản).

[13]. Thông Điển.

Đường. Đỗ Hựu.

[14]. Thông Chí.

Nam Tống. Trịnh Tiều.

Thập Thông Bản. (Đệ nhị Bản).

Chiết Giang Cổ Tịch Xuất Bản Xã      2000 / Sơ.

[15]. Cổ Đại Nam Hải Địa Danh Hối Thích.

Trần Giai Vinh. Tạ Phương. Lục Tuấn Lãnh.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2002 / 2.

[16]. Quế Hải Ngu Hành Chí. (Phạm Thành Đại Bút Ký Lục Chủng).

Nam Tống. Phạm Thành Đại.

Khổng Phàm Lễ điểm hiệu.

Tập bút ký này đã thất lạc vào khoảng giữa thời Minh, bản đang lưu hành được sao lục từ các thư tịch khác. Danh từ chuyên môn gọi loại ấn bản này là “Tập phục bản” (輯復本).

Như tựa sách cho thấy, Tổng tập này gồm 6 tác phẩm của Phạm Thành Đại.

Ngoài Tập “Quế Hải Ngu Hành Chí”, 5 Tập kia là:

Tham Loan Lục. Lãm Bí Lục. Ngô Thuyền Lục. Mai Phổ. Cúc Phổ.

+ Mai Phổ, Cúc Phổ chỉ là 2 bài viết ngắn, Mai Phổ 3 trang, Cúc Phổ khoảng 4 trang.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2004 / 2.

[17]. Thù Vực Chu Tư Lục. [Trung, Ngoại Giao Thông Sử Tịch Tùng San].

Minh. Nghiêm Tòng Giản.

Dư Tư Lê điểm hiệu.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2000 / 2.

 

[18]. Hàm Tân Lục. (1). [Trung, Ngoại Giao Thông Sử Tịch Tùng San].

Minh. La Viết Cảnh.

Dư Tư Lê điểm hiệu.

+ Tây Vực Hành Trình Ký. (2).

+ Tây Vực Phiên Quốc Chí. (3).

Minh. Trần Thành (1365 - 1457). Lý Tiêm (1376 - 1445).

Chu Liên Khoan hiệu chú.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2000 / 2.

[19]. Đông Tây Dương Khảo. [Trung, Ngoại Giao Thông Sử Tịch Tùng San].

Minh. Trương Tiệp (1574 - 1640).

Tạ Phương điểm hiệu.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1981 / Sơ.

[20]. Nhật Bản Quốc Khảo Lược.

Minh. Tiết Tuấn toản thuật.

Kim Lăng Vương Văn Quang tăng bổ trùng san

Quốc Triều Điển Cố Bản.

Minh. Đặng Sĩ Long tập.

Chủ điểm hiệu: Hứa Đại Linh & Vương Thiên Hữu.

Bắc Kinh Đại Học Xuất Bản Xã      1993 / Sơ.

[21]. Hải Ngoại Kỷ Sự. (1). [Trung, Ngoại Giao Thông Sử Tịch Tùng San].

Thanh. Đại Sán.

Dư Tư Lê điểm hiệu.

+ An Nam Chí Lược. (2).

An Nam. Lê Tắc.

Vũ Thượng Thanh điểm hiệu.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2000 / Sơ.

[22]. Kinh Sở Tuế Thời Ký.

Nam Bắc triều – Bắc Tề. Tông Lẫm.

(Các Từ điển Từ Hải, Từ Nguyên đều ghi Tông Lẫm người thời Lương [502 - 557]).

Lịch Đại Tiểu Thuyết Bút Ký Tuyển Bản. (Hán. Ngụy. Lục triều)

Dân Quốc. Giang Dư Kinh tuyển.

Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC)      1976 / Khuyết.

 [23]. Khai Nguyên Thiên Bảo Di Sự.

Ngũ Đại. Vương Nhân Dụ.

Khai Nguyên Thiên Bảo Di Sự Thập Chủng Bản.

(1). Thứ Liễu Thị Cựu Văn.

(2). Minh Hoàng Tạp Lục.

(3). Khai Nguyên Truyện Tín Ký.

(4). Khai Nguyên Thiên Bảo Di Sự.

(5). Khai Nguyên Thăng Bình Nguyên.

(6). Cao Lực Sĩ Ngoại Truyện.

(7). Trường Hận Ca Truyện.

(8).Dương Thái Chân Ngoại Truyện.

(9). Lý Lâm Phủ Ngoại Truyện.

(10). Mai Phi Truyện.

Đinh Như Minh tập hiệu.

Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1985 / Sơ.

 [24]. Tĩnh Khang Tương Tố Tạp Ký.

Bắc Tống. Hoàng Triều Anh.

Ngô Xí Minh điểm hiệu.

Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1986 / Sơ.

[25]. Tề Đông Dã Ngữ.

Nam Tống. Chu Mật.

Trương Mậu Bằng điểm hiệu, hiệu khám.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1983 / Sơ.

[26]. Tiền Văn Ký.

Minh. Chúc Hi Triết.

Quốc Triều Điển Cố Bản. [Minh. Đặng Sĩ Long tập].

Chủ điểm hiệu. Hứa Đại Linh & Vương Thiên Hữu

Bắc Kinh Đại Học Xuất bản Xã (TQ)      1993 / Sơ.     

[27]. Tảo Lâm Tạp Trở. (1).

Minh. Đàm Nhụ Mộc (Đàm Thiên).

[28]. Kiên Hồ Tập (Ngũ Tập). (2).

Thanh. Trữ Nhân Hoạch.

Bút Ký Tiểu Thuyết Đại Quan Bản.

(1). Tập VII. Sách 15. (2). Tập XVI. Sách 32.

Giang Tô Quảng Lăng Cổ Tịch Khắc Ấn Xã      1984 / Sơ.

[29]. Chu Thuấn Thủy.

Quách Viên biên trứ.

Chính Trung Thư Cục (ĐL)      Dân Quốc 53 niên (1964) / Đài nhất bản.

(Dân Quốc 26 niên [1937] Sơ bản).

[30]. Liễu Nam Tùy Bút. (1).

Thanh. Vương Ứng Khuê.

Vương Bân. Nghiêm Anh Tuấn điểm hiệu:

+ Liễu Nam Tục Bút. (2).

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1997 / 2.

[31]. Trung Quốc Độ Lượng Hành Sử.

Dân Quốc. Ngô Thừa Lạc (1872 - 1955).

Thượng Hải Thư Điếm      1984 / Sơ.

(Thương Vụ Ấn Thư Quán 1937 Sơ bản).

[32]. Tống Hình Thống.

Bắc Tống. Đậu Nghi.

Ngô Dực Như điểm hiệu.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1984 / Sơ.

[33]. Lịch Đại Hình Pháp Khảo.

Thanh. Thẩm Gia Bản.

Đặng Kinh Nguyên. Biền Vũ Khiên điểm hiệu.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1985 / Sơ.

[34]. Chu Dịch Vương Hàn Chú. (1)

Tam Quốc ~ Ngụy. Vương Bật. (Lục thập tứ Quái).

Đông Tấn. Hàn Khang Bá chú (Truyện).

+ Chu Dịch Lược Lệ. (2).

Tam Quốc ~ Ngụy. Vương Bật.

Đường. Hình Thọ chú.

Tân Hưng Thư Cục (ĐL)      Dân Quốc 50 niên (1961) / Khuyết.

[35]. Thư Kinh Độc Bản. (Thư Kinh Tập Truyện).

Nam Tống. Thái Trầm (1167 - 1230) tập truyện.

Đại Phương Xuất Bản Xã (ĐL)      Dân Quốc 67 niên (1978) / Khuyết.

[36]. Thi Tập Truyện.

Nam Tống. Chu Hi.

Trung Hoa Thư Cục (HC)      1983 / Trùng ấn.

 [37]. Thi Nghĩa Hội Thông.

Thanh. Ngô Khải Sinh.

Trung Hoa Thư Cục (HC)      1961 / Sơ bản.

[38]. Mao Thi Cổ Âm Khảo.

Minh. Trần Đệ.

Khang Thụy Tông điểm hiệu.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1988 / Sơ.

[39]. Thi Thảo Mộc Kim Thích.

Lục Văn Úc.

Vạn Diệp Xuất Bản Xã (HC)      Nhà Xuất bản này không bao giờ ghi năm xuất bản.

[40]. Xuân Thu Thuyết Đề Từ.

Vô danh.

Vĩ Thư Tập Thành Bản.

Nhật Bản. An Cư Hương Sơn. Trung Thôn Chương Bát.

Hà Nam Nhân Dân Xuất Bản Xã      1994 / Sơ.

[41]. Vương Dật Chú Sở Từ. (Tăng đính bản).

Đông Hán. Vương Dật.

Lê Minh Văn Hóa Sự Nghiệp (ĐL)      Dân Quốc 62 niên (1973) Tái bản.

[42]. Sở Từ Bổ Chú.

Nam Tống. Hồng Hưng Tổ.

Điểm hiệu: Bạch Hóa Văn. Hứa Đức Nam. Lý Như Loan. Phương Tiến.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2006 / 5.

[43]. Đường Âm Thống Thiêm.

Minh. Hồ Chấn Hanh.

Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      2003 / Sơ.

[44]. Toàn Đường Thi. (1).

Thanh. Thánh tổ (Khang Hi) sắc soạn.

+ Toàn Đường Thi Dật. (2).

Nhật Bản. Thượng Mao Hà Thế Ninh toản tập.

Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã (TQ)      1986 / Sơ.

[45]. Cổ Dao Ngạn.

Thanh. Đỗ Văn Lan.

Chu Thiệu Lương hiệu điểm.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2000 / 3.

 

[46]. Thập Nhất Gia Chú Tôn Tử.

Tam Quốc ~ Ngụy. Tào Tháo đẳng chú.

Quách Hóa Nhược dịch.

Trung Hoa Thư Cục (HC)      1985 / trùng ấn

[47]. Luận Ngữ. (1).

+ Đại Học. (2).

+ Trung Dung. (3).

+ Mạnh Tử. (4).

Nam Tống. Chu Hi tập chú.

Tứ Thư Tập Chú Bản.

Thái Bình Thư Cục (HC)      1986 / 7.

[48]. Trang Tử Giải.

Thanh. Vương Phu Chi.

Trung Hoa Thư Cục (HC)      1985 / Trùng ấn.

[49]. Hàn Phi Tử Tập Giải.

Chiến Quốc. Hàn Phi.

Thanh. Vương Tiên Thận tập giải.

Chung Triết điểm hiệu.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1998 / Sơ.

[50]. Hoài Nam Tử Tập Thích.

Tây Hán. Lưu An.

Hà Ninh tập thích.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2006 / 2.

[51]. Dương Nhất Thanh Tập.

Minh. Dương Nhất Thanh.

Đường Cảnh Thân. Tạ Ngọc Kiệt điểm hiệu.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2001 / Sơ.

[52]. Mục Thiên Tử Truyện. (1). [Vô danh].

Đông Tấn. Quách Phác chú.

+ Thần Dị Kinh. (2).

+ Thập Châu Ký. (3).

Tây Hán. Đông Phương Sóc.

+ Bác Vật Chí. (4).

Tây Tấn. Trương Hoa.

Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1990 / Sơ.

[53]. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sớ. Luận. Toản Yếu.

Đường. Thanh Lương Quốc Sư Trừng Quán Sớ sao.

              Phương Sơn Trưởng giả Lý Thông Huyền Luận.

Thanh. Tư Thục Tỳ khâu Đạo Bái Toản yếu.

Cao Hùng Văn Thù Giảng Đường (ĐL) cung ấn      Dân Quốc 86 niên [1997] / Sơ bản.

[54]. Bản Bản Thông Nghĩa.

Dân Quốc. Tiền Cơ Bác (1887 - 1957).

Nghiêm Tá Chi đạo độc.

Nghiêm Tá Chi. Mao Văn Ngao chú.

Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      2007 / Sơ.

[55]. Cổ Tịch Bản Bản Giám Định Tùng Đàm.

Ngụy Ẩn Nhu. Vương Kim Vũ.

Ấn Loát Công Nghiệp Xuất Bản Xã (TQ)      1984 / Sơ.

[56]. Tiên Tần Chư Tử Hệ Niên. (Tăng định Bản. 1956).

Tiền Mục (1895 - 1990).

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1985 / Sơ. [Thương Vụ Ấn Thư Quán 1935 Sơ bản].

[57]. Trung Quốc Cận Hiện Đại Nhân Danh Đại Từ Điển.

Lý Thịnh Bình chủ biên.

Trung Quốc Quốc Tế Quảng Bá Xuất Bản Xã      1989 / Sơ.

[58]. Kinh Điển Thích Văn.

Đường. Lục Đức Minh.

Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1985 / Sơ.

[59]. Nhĩ Nhã Nghĩa Sớ.

Thanh. Hách Ý Hạnh.

Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1983 / Sơ.

[60]. Thuyết Văn Giải Tự Chú.

Đông Hán. Hứa Thận.

Thanh. Đoàn Ngọc Tài chú.

Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã (TQ)      2006 [Nhị bản] / 15. (1988 [Nhị bản] / Sơ).

[61]. Từ Hải (Hợp đính Bản).

Chủ biên: Thư Tân Thành. Thẩm Di. Từ Nguyên Cáo. Trương Tướng.

Trung Hoa Thư Cục (HC)      1983 / Trùng ấn.

[62]. Từ Hải. (Ngũ Quyển Bản. Thái đồ Súc ấn Bản - 1999 Bản).

Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã      2007 / 6.

[63]. Từ Nguyên (Súc ấn Hợp đính Bản. 1987 Bản).

Chủ biên: Quảng Đông. Quảng Tây. Hồ Nam. Hà Nam Tu đính Tổ.

Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC)      1987 / Sơ.

[64]. Vương Lực Cổ Đại Hán Ngữ Tự Điển.

Vương Lực (1900 - 1986) chủ biên.

Đường Tác Phiên. Quách Tích Lương. Tào Tiên Trạc.

Hà Cửu Doanh. Tưởng Thiệu Ngu. Trương Song Đê.

Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2003 / 4.

[65]. Từ Vị.

Văn Hóa Đồ Thư Công Ty Biên Thẩm Ủy Viên Hội biên tập.

Lục Sư Thành chủ biên.

Văn Hóa Đồ Thư Công Ty (ĐL)      Dân Quốc năm 74 (1985) / Khuyết.

[66]. Ngữ Ngôn Học Từ Điển.

Biên trứ:

Trần Tân Hùng. Trúc Gia Ninh. Diêu Vinh Tùng.

La Triệu Cẩm. Khổng Trọng Ôn. Ngô Thánh Hùng.

Tam Dân Thư Cục (ĐL)      Dân Quốc 78 niên (1989) / Sơ bản.

 Việt Nam.

(1). Hán văn.

 [1]. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Tập IV [Hán văn]. Nội Các Quan Bản).

Việt Nam - Trần triều. Lê Văn Hưu.

Việt Nam - Hậu Lê. Ngô Sĩ Liên.

Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội (Hà Nội. Việt Nam)      1998 / 2.

[2]. An Nam Chí Lược. (1). [Trung, Ngoại Giao Thông Sử Tịch Tùng San].

An Nam. Trần triều - Lê Tắc.

Vũ Thượng Thanh điểm hiệu.

+ Hải Ngoại Kỷ Sự. (2).

Thanh. Đại Sán.

Dư Tư Lê điểm hiệu.

[3]. Nam Ông Mộng Lục. (1).

Hồ. Lê Trừng.

+ Nam Thiên Trung Nghĩa Thực Lục. (2).

Lê (Trung hưng). Phạm Phỉ Kiến.

+ Nhân Vật Chí. (3).

Triều đại (vô khảo). Tác giả (dật danh).

Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết Tùng San.

(Đệ Nhất Tập. Lục Sách. Bút ký Tiểu thuyết loại).

Chủ biên. Trần Khánh Hạo. Vương Tam Khánh.

Pháp Quốc Viễn Đông Học Viện [Ecole Française d’Extrême-Orient (EFEO)] xuất bản.

Đài Loan Học Sinh Thư Xã ấn hành      Dân Quốc 76 niên (1987) / Tinh trang Sơ bản.

[4]. Lãnh Nam Chích Quái Liệt Truyện.

Hậu Lê. Vũ Quỳnh (1452 - 1516) tập.

Trần Nghĩa hiệu điểm.

[5]. Thiên Nam Vân Lục. (Dật danh).

Uông Quyên hiệu điểm.

Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết Tùng San.

(Đệ Nhị Tập.Nhất Sách. Thần thoại Truyền thuyết loại).

Pháp Quốc Viễn Đông Học Viện [Ecole Française d’Extrême-Orient (EFEO)] xuất bản.

Đài Loan Học Sinh Thư Xã ấn hành      Dân Quốc 81 niên (1992) / Tinh trang Sơ bản.

 [6]. Mẫn Hiên Thuyết Loại. (1).

Nguyễn. Cao Bá Quát.

+ Vũ Trung Tùy Bút. (2).

Nguyễn. Phạm Đình Hổ.

+ Hội Chân Biên. (3).

Nguyễn. Thanh Hòa Tử. Quế Hiên Tử.

+ Tân Truyền Kỳ Lục. (4).

Nguyễn. Phạm Quí Thích.

Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết Tùng San.

(Đệ Nhị Tập. Ngũ Sách. Bút ký. Truyền kỳ Tiểu thuyết loại).

Chủ biên. Trần Khánh Hạo. Trịnh A Tài. Trần Nghĩa.

Pháp Quốc Viễn Đông Học Viện [Ecole Française d’Extrême-Orient (EFEO)] xuất bản.

Đài Loan Học Sinh Thư Xã ấn hành      Dân Quốc 81 niên (1992) / Tinh trang Sơ bản.

 (2). Việt văn.

 Bangsa Champa. Tìm về với một cội nguồn cách xa.

Dohamide & Dorohiêm.

SEACAEF & VIET FOUNDATION.

California, Hoa Kỳ, 2004.

 (3). Ngoại ngữ khác.

 [1]. Eden in the East.

Anh. Stephen Oppenheimer.

Phoenix, a division of Orion Books Ltd. (London)      1998.   

  

Tags: TÁC GIẢ
Tags: TÁC PHẨM

Đăng nhận xét

Tin liên quan