Giáng sinh 2022 và năm mới 2023 - Mời đọc truyện Nguyễn Ngọc Hoa Online (Tập Truyện I đến VIII)
Giáng sinh 2022 và năm mới 2023 - Mời đọc truyện Nguyễn Ngọc Hoa Online (Tập Truyện I đến VIII)
Sun, Dec 18 at 11:42 a.m.
Nhân dịp Giáng sinh 2022 và năm mới 2023, mời quý thân hữu đọc
(hay đọc lại) những truyện ngắn trong Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa
I đến VIII đã phổ biến và ấn hành từ đầu năm 2013 đến
nay. Có hai cách để đọc tám tập truyện (192 truyện ngắn) này: Một
là đọc các tập truyện dưới dạng Flipbook, và hai là đọc các tập truyện đó (hay
từng truyện ngắn riêng rẽ) dưới dạng Adobe Acrobat .pdf.
Flipbook * Trời
Cao Đất Dày - Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa VIII (2022)
Tập VII – Loạt truyện “Đất Khách Quê Mình”:
Flipbook * Trả Lại
Nụ Cười - Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa VII (2021)
Tập VI – Loạt truyện “Đời Phiêu Ngụ”:
Flipbook * Không
Bỏ Bạn Lại - Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa VI (2020)
Tập V – Loạt truyện “Bước Đổi Đời”:
Flipbook * Những
Tích Tắc của Số Phận - Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa V (2019)
Tập IV – Loạt truyện “Tuổi Trưởng Thành”:
Flipbook * Nhìn
Từ Trong Tháp Ngà - Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa (2018)
Tập III – Loạt truyện “Dạo Vào Đời”:
Flipbook * Thà
Làm Đứa Con Bất Hiếu - Tập Truyện Nguyễn Ngoc Hoa III (2017)
Tập II – Loạt truyện “Thuở Học Trò”:
Flipbook * Bùn Đỏ
Bụi Hồng - Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa II (2016)
Tập I – Loạt truyện “Thời Thơ Ấu”:
Flipbook * Cơn
Giận Con, Nỗi Đau Mẹ - Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa I (2016)
Bản .pdf * Trời Cao Đất Dày - Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa VIII
(2022)
Tập VII – Loạt truyện “Đất Khách Quê Mình”:
Bản .pdf * Trả Lại Nụ Cười - Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa VII
(2021)
Tập VI – Loạt truyện “Đời Phiêu Ngụ”:
Bản .pdf * Không Bỏ Bạn Lại - Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa VI
(2020)
Tập V – Loạt truyện “Bước Đổi Đời”:
Bản .pdf * Những Tích Tắc của Số Phận - Tập Truyện Nguyễn Ngọc
Hoa V (2019)
Tập IV – Loạt truyện “Tuổi Trưởng Thành”:
Bản .pdf * Nhìn Từ Trong Tháp Ngà - Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa
IV (2018)
Tập III – Loạt truyện “Dạo Vào Đời”:
Bản .pdf * Thà Làm Đứa Con Bất Hiếu - Tập Truyện Nguyễn Ngọc
Hoa III (2017)
Tập II – Loạt truyện “Thuở Học Trò”:
Bản .pdf * Bùn Đỏ Bụi Hồng - Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa II
(2016)
Tập I – Loạt truyện “Thời Thơ Ấu”:
Bản .pdf * Cơn Giận Con, Nỗi Đau Mẹ - Tập Truyện Nguyễn NgọcHoa I (2016)
***
***
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa
Trong màn đêm, chiếc xe chở bốn người lướt nhanh ra khỏi
trung tâm thành phố Toronto và theo xa lộ Queen Elizabeth Way (QEW) chạy về hướng
nam. QEW là con xa lộ dài khoảng 140 cây
số nối Toronto với bán đảo Niagara giáp giới Hoa kỳ và mang tên Hoàng hậu Elizabeth
vợ Vua George đệ Lục; bà là mẹ của Nữ hoàng Elizabeth đệ Nhị (1926 – 2022). Trên bầu trời tối đen lác đác mấy vì sao lấp
lánh, và mặt trăng tròn e thẹn ẩn mình sau đám mây mỏng. Các tia đèn pha thưa thớt của dăm ba chiếc xe
chạy ngược chiều ở phía xa lộ bên kia và ánh đèn thấp thoáng từ những thị trấn
xa xa không đủ soi sáng cảnh vật hai bên đường.
Ở băng trước, Ngôn vừa lái xe vừa chuyện
trò ríu rít với cô bạn gái Bách Thu ngồi bên cạnh. Đôi bạn sinh viên trẻ người Huế nhiệt thành ủng
hộ tạp chí Xxxx Việt chống Cộng, hâm mộ người chủ trương tờ báo là Bảo bạn
tôi, và tình nguyện thay Bảo đưa tôi đi đó đây trong thời gian tôi sang thăm
Toronto vì Bảo bận rộn lo việc in số Xxxx Việt tới cho kịp ngày phát
hành. Tôi ngồi băng sau với anh Tấn anh
họ của Bách Thu, anh là giáo sư vật lý ở Đại học Alabama tại Tuscaloosa thuộc
tiểu bang Alabama, Hoa kỳ. Nhân sang
Toronto dự hội nghị khoa học quốc tế tổ chức tại Đại học Toronto, anh được Bách
Thu rủ tới dự buổi họp mặt hàng tháng của nhóm Xxxx Việt. Hóa ra anh Tấn là người quen của tôi; vừa được
giới thiệu, anh chỉ mặt tôi cười khà,
“Tau
nghe tiếng nhà toán học Ba Hoa phụ trách mục ‘Đố Vui Để Chọc’ mấy bữa ni
mà không ngờ hắn là thằng Bé hoang như giặc Bá Vành thời xửa
thời xưa. Mới đó mà đã một phần tư thế kỷ!” “Thằng Bé” là tên ở nhà của tôi hồi đó.
“Ngày
tôi học lớp nhất (lớp 5), anh hay đến nhà tôi chơi với anh Quang. Anh nổi tiếng khắp xứ Huế về tài học gạo
và học băng, ai cũng phục lăn,” tôi mừng rỡ bắt tay anh; “học gạo” là học
chăm chỉ hết mức, và “học băng” là học nhảy lớp.
“Năm 1970,
trước khi đi Mỹ du học, tau nghe tin thằng Quang hy sinh đền nợ nước,
nhưng không thể lên Ban Mê Thuột đưa đám nên chỉ nhớ hắn trong lòng. Bữa ni may gặp mi ở xứ Gia Nã Đại
đất lạnh tình nồng.”
Anh Tấn người làng Vân Cù, tục gọi là làng
Bún vì dân làng chuyên nghề làm bún, thuộc quận Hương Trà và cách Huế khoảng 10
cây số về phía tây bắc. Làng không có
trường học, gia đình anh thuê một ông thầy thi rớt Tiểu học, nuôi ăn ở, và dùng
nhà thờ họ làm lớp học dạy trẻ con trong họ.
Nhờ đó anh học nhì nhằng, làm được toán đố dễ, và viết được các bài
chính tả ngắn. Khoảng năm 1957, anh lên
Huế theo học thầy Trình. Thầy dạy học
trò tiểu học tại gia, các lớp lớn nhỏ đều ngồi lúc nhúc trong một gian nhà rộng. Anh Tấn xin học để thi Tiểu học, và sau khi hỏi
sức học của anh, thầy quyết định,
“Thôi chẳng
cần học lớp ba (lớp 3) và lớp nhì (lớp 4) làm chi. Cho vô lớp nhứt (lớp 5) với đám ‘Chợ
Xép’ ngồi dãy bàn cuối, cuối năm đi thi Primaire (bằng Tiểu học) luôn.”
Học lớp nhất thì oai lắm, nhưng anh Tấn phải
học chết bỏ mới đủ sức theo kịp bài vở.
Cuối năm, anh đậu Tiểu học rồi sửa soạn thi vào đệ thất (lớp 6) trường
Hàm Nghi. Không may, anh chưa đủ sức
tranh đua với học sinh giỏi nên không đậu và sẽ phải đi học trường tư. Hết lớp cho anh học, nhưng thầy khuyên,
“Đừng học đệ
thất, băng lên đệ lục (lớp 7) luôn.”
Vậy là anh Tấn vào trường Bình Minh ở chân
cầu Thanh Long gần nhà tôi học đệ lục, học cùng lớp với anh Quang (cũng thi vào
trường công rớt và băng đệ thất), và thường đến nhà chơi với anh em tôi. Anh Tấn học hết năm đệ lục, thầy Trình lại cố
vấn,
“Con sáng dạ
và học được. Năm tới băng đệ ngũ
(lớp 8) học đệ tứ (lớp 9) để thi Diplôme (bằng Trung học Đệ nhất cấp)
luôn.”
Anh Tấn nghe lời chuyển sang học đệ tứ trường Nguyễn Du
gần cầu Đông Ba và thi đậu Trung học Đệ nhất cấp. Thừa thắng xông lên, anh chuyển sang trường
Bán Công gần ty Bưu điện Huế băng đệ tam (lớp 10) học đệ nhị (lớp 11) và
thi đậu Tú tài I. Cuối cùng, anh được nhận
vào trường công là trường Quốc Học học đệ nhất (lớp 12) và cuối năm thi đậu Tú
tài II. Nếu không kể thời gian học không
tính lớp ngoài làng Bún, anh rút ngắn 12 năm tiểu và trung học còn vỏn vẹn có
năm năm. Anh vào Sài gòn học Đại học
Khoa học, tốt nghiệp cao học vật lý, được học bổng đi Hoa kỳ lấy bằng Tiến sĩ, và
ở lại dạy Đại học Alabama từ trước năm 1975.
Chúng tôi đang ngồi trên xe đi xuống thác
Niagara, một chuyến đi chơi thác ban đêm hoàn toàn ngẫu hứng. Hồi tối, khi buổi họp mặt của nhóm Xxxx Việt
gần tàn, tôi tình cờ đề cập tới bản tin khí tượng nghe thấy trên ti-vi hồi
sáng: Đêm nay trăng tròn, và nửa đêm từ
vùng thác Niagara, sẽ thấy mặt trăng tròn vo – tròn 100 phần trăm. Ngôn hừng chí đưa tay nhìn đồng hồ rồi rủ tôi,
“Đêm
rằm trăng sáng, sao mình không xuống thác Niagara ngắm trăng một phen?”
“Đi
thì đi, sợ gì? Nhưng chú nhớ sáng mai
anh phải về Mỹ và sẽ nhờ chú làm tài xế đưa ra phi trường, máy bay cất cánh khoảng
11 giờ,” tôi hớn hở reo lên.
“Từ
đây xuống thác Niagara đi không tới hai tiếng đồng hồ. Lúc về, anh còn dư thì giờ để chi cho
tụi em ăn sáng trước khi từ giã Tố Lủn Tố,” Ngôn cười ngỏn ngoẻn; “Tố Lủn
Tố” là tiếng Quảng Đông gọi Toronto, đọc theo theo âm Hán Việt là Đa Luân Đa.
“Tau đi chơi thác với mi cho vui và cũng có chuyện để xuống chỗ nớ,” anh Tấn vỗ vai tôi.
* * *
Chỉ mới hơn bốn giờ mà trời đã tờ mờ
sáng. Mặt trời bắt đầu ló dạng ở phương
đông. Ráng hồng ửng đỏ phía chân trời hứa
hẹn một ngày nắng đẹp. Một ngày mới xuất
hiện, mang lại sinh khí cho hoa lá cỏ cây.
Đi thăm thác Niagara đêm trăng rằm, bốn người chúng tôi bừng tỉnh lại sau
gần một đêm không ngủ. Ngôn tỉnh như sáo
sậu, hướng dẫn cả bọn ra xe,
“Chúng mình
lên đường về Toronto. Quý vị nào thấy buồn
ngủ thì tự nhiên ình xuống làm một giấc cho khỏe người.”
“Ình” là tiếng Huế nói với con nít có nghĩa
là nằm. Nhưng không ai muốn ình, chúng
tôi còn tiếc nuối trầm trồ nhắc lại cảnh trăng rằm trên đầu thác đẹp như mơ. Xe chạy qua thành phố Niagara Falls, mặt đường
ươn ướt vì sương đêm. Tôi thấy bảng hiệu
của một quán ăn bên đường và cười khan,
“Lãng
mạn chưa: quán ‘Love Boat’ – thuyền
tình cặp bến nơi nao! Thác Niagara
là địa điểm lý tưởng để những đôi vợ chồng mới cưới hưởng tuần trăng mật có
khác.”
“Và
cũng là nơi để mấy tay to gan lớn mật trổ tài liều mạng cho thiên hạ lé mắt
chơi. Có nhiều người đi trên dây căng ngang
qua thác hay ngồi trong thùng tô-nô thả rớt hơn 50 thước từ ngọn thác xuống hạ
lưu. Thật là khùng!” Ngôn nói thêm.
“Chú Ngôn
nói ai khùng, những cặp vợ chồng mới cưới hay những tay đi dây và ngồi thùng
tô-nô?” anh Tấn cười nụ xen vào, “À, trên đường về ta ghé lại St. Catherines có
tiện không?”
St. Catherines là thành phố lớn nhất vùng
Niagara, nằm dọc theo sông Niagara, và cách Toronto khoảng 50 cây số về phía
nam. Tôi cười khì trêu anh Tấn,
“Tôi
là dân điên nặng (điện) ưa mát dây ẩu, nhưng bây giờ biết thêm dân
vật lý như anh còn bốc đồng hơn. Thời
buổi này làm chi có chuyện người yêu trong mộng chong đèn khuya, thức đến
năm giờ sáng, và đợi chàng tới thăm mà không báo trước?”
“Tau
nói muốn ghé lại St. Catharines chớ có định thăm ai mô. Ba mặt sáu tai, ai nấy đều nghe rõ, phải
không hè?” anh Tấn cười xòa nói với lên đằng trước, “Mình đang đi trên
xa lộ QEW, chú Ngôn xem ra exit 44, theo đường Niagara, và rẽ sang đường
Queenston giùm anh.”
Xe dừng lại xéo bên kia đường với một căn
nhà màu trắng có thảm cỏ rộng phía trước; đèn trong nhà bật sáng từ lúc nào. Anh Tấn mở cửa bước xuống, cố trấn tĩnh, và
ngoái lại,
“Chú Ngôn
cho anh mười phút. Chạy một vòng rồi quay
lại đón, hay chờ ở đây cũng được.”
Ngôn lặng im không đáp, vẫn để máy xe nổ,
và bật sang đèn mắt mèo. Anh Tấn chậm
rãi đi về phía căn nhà màu trắng. Lạ
thay, khi tới trước nhà, anh chỉ ngừng lại một phút, nhìn vào trong, và tiếp tục
rảo bước trên vỉa hè. Trong nhà, một bóng đàn bà xuất hiện sau lớp màn cửa sổ,
dáng người đứng bất động. Anh Tấn trở lại,
khuôn mặt nhợt nhạt nhưng tươi tỉnh,
“Thôi mình
đi! Cám ơn cô Bách Thu và hai chú đã chờ
ông anh già bất kham ni. Để bù lại,
trên đường về anh sẽ kể ngọn ngành cho nghe.”
Đối với lớp người tuổi trẻ hai mươi năm trước
thì đấy là một chuyện tình cổ điển. Lãng
mạn và mộng mơ như “nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát” trong thơ Nguyên
Sa. Nhưng cũng đơn sơ và đằm thắm như mắm
cà rau muống. Tấn và Huyền Nga cùng học
Đại học Khoa học Sài gòn. Đôi bạn quen
thân từ thuở bé, từ làng Bún lên Huế rồi vào Sài gòn, và mối tình trưởng thành
trong sự thương yêu gắn bó của hai gia đình. Ngoài giờ học họ đi đâu cũng có nhau và lựa ý
chiều chuộng nhau trong mỗi cử chỉ, từng câu nói. Bạn bè đã quen mắt với cảnh chàng và nàng ngồi
học bài với nhau dưới gốc cây trong sân trường đại học. Chỉ cần nhìn hai người, ta có thể tưởng tượng
ra cuộc sống lứa đôi đầm ấm và hạnh phúc của họ trong tương lai. Chàng có tiếng chăm học ở ban Vật lý, và nàng
là sinh viên xuất sắc bên ban Toán. Các
giáo sư nức nở ngợi khen nàng là một nhà toán học có nhiều triển vọng. Nhưng nàng không xem đó là điều quan trọng và
nói với người yêu,
“Em đi học để
sau này dạy con, cho anh rảnh tay lo việc lớn.”
Vài năm trước gia đình nàng đã di chuyển về
Vĩnh Long, nàng vẫn trọ học ở Sài gòn và thỉnh thoảng về thăm nhà. Tình hình chiến sự mỗi ngày một sôi động, và
Quốc lộ 4 nối Sài gòn với các tỉnh miền Tây, nhất là chặng Mỹ Tho - Vĩnh Long, hàng
ngày bị đặt mìn và đắp mô. Cuối kỳ nghỉ
hè năm đó, chiếc xe đò đưa nàng trở lại Sài gòn cán phải mìn và nổ tung. Nàng may mắn thoát khỏi tay tử thần nhưng trọn
cánh tay phải bị nát ngướu, phải cưa bỏ gần đến vai. Những ngày nằm trong bệnh viện Đồn Đất là
quãng đời đau thương nhất của người con gái tài hoa. Chàng vẫn say sưa bàn chuyện hôn nhân,
“Ba mạ
muốn mình làm đám cưới sau khi sức khỏe em phục hồi. Có sớm hơn chương trình mình dự tính, nhưng
không những để ba mạ vui lòng mà anh còn muốn sống bên em sớm ngày mô
hay ngày nớ.”
Nàng không đáp và gắng gượng làm mặt
vui. Ngày rời bệnh viện, nàng thông báo
một quyết định bất ngờ: Nàng sẽ sang Tây
Đức giải phẫu chỉnh hình rồi tiếp tục việc học bên đó. Nàng nghẹn ngào trong nước mắt,
“Quên em đi
anh. Tấm thân tật nguyền này không xứng
đáng để anh hy sinh cả một tương lai xán lạn.”
Ngày nàng rời bệnh viện là lần cuối cùng
hai người gặp nhau. Chàng đến nhà nàng
xin gặp, nhưng người nhà cương quyết chối từ.
Ngay cả ngày giờ nàng lên đường xuất ngoại, chàng cũng không được cho biết. Nàng biến mất hẳn khỏi cuộc đời chàng. Cho đến hai mươi năm sau, đôi bạn xưa vui mừng
gặp lại nhau trong hội nghị khoa học vừa qua.
Nàng và chồng, một khoa học gia người Đức, đều là giáo sư viện Đại học
Toronto và đồng tác giả một công trình khảo cứu trình bày tại hội nghị. Nàng vẫn tha thiết và dịu hiền như ngày nào,
“Suốt hai
mươi năm qua, lúc nào em cũng nghĩ đến anh và hằng mong Trời Phật phù hộ cho
anh được hạnh phúc bên chị và các cháu.”
Chàng lặng người rưng rưng nước mắt nói thầm,
“Cám ơn em đã vì anh mà hy sinh. Nhưng anh
vẫn sống một mình, đợi chờ người yêu muôn thuở. Anh hằng tin, tình đôi ta chân thành, Trời Phật
sẽ đưa em trở về với anh.” Nghĩ thế
nhưng không nói ra, chàng nuốt nước bọt và cố nhoẻn miệng cười,
“Các cháu sẽ
hãnh diện khi biết anh từng là bạn thân của một nhà khoa học tăm tiếng.”
Tôi đoán ra người đàn bà sau cửa sổ
là chị Huyền Nga và hiểu thấm thía câu nói của nhà triết học, toán học, khoa học,
và ngoại giao người Đức Gottfried Wilhelm Leibniz (1646 – 1716),
Yêu chính là tìm hạnh
phúc của mình trong hạnh phúc của kẻ khác.
Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày 28 tháng Chín, 2022
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa
Trong những lần đi họp xa hàng tháng, tôi dùng thì giờ
ngồi đợi ở phi trường và ngồi trên máy bay để viết bài cho mục “Đố Vui Để Chọc”
của tạp chí Xxxx Việt ở Toronto, Gia Nã Đại, thay vì đọc sách hay làm việc sở như
trước. Chỉ cần tập giấy ghi chép màu
vàng, cây bút chì bấm, và cây bút tẩy (để xóa bút chì) là ngồi ở đâu tôi cũng
có thể múa bút chuyện trò với độc giả. Mở
đầu bài viết bằng một truyện ngắn với lời đối thoại vui nhộn để đưa tới đầu đề
bài toán đố chính, tôi trình bày lời giải bài toán, các bài toán tương tự, và lịch
sử vấn đề toán học liên hệ. Cuối bài,
tôi viết thêm đôi ba câu “đố vui để cười” mà giải đáp sẽ đưa ra vào kỳ tới.
Tôi trở lại Toronto vào một buổi chiều mùa đông. Mùa này ngày ngắn, trời đã tối mịt mặc dù chỉ
mới sáu giờ chiều khi tôi ra khỏi khu kiểm soát quan thuế và di trú ở phi trường. Bảo bạn tôi, người chủ trương tờ Xxxx Việt, đứng
đón với nụ cười nghiêm trang cố hữu,
“Kỳ này ông sang nhằm
tối thứ Sáu cuối tháng, anh em tổ chức họp mặt ăn uống và thảo luận công tác cần
làm cho cộng đồng tỵ nạn. Nhờ đó ông sẽ gặp
hầu hết mọi người.”
Lúc tôi và Bảo đến nhà Hiền, người phụ
trách phần trị sự của tòa soạn, khoảng tám chín người đã tụ tập ngồi quanh chiếc
bàn lớn trong phòng khách. Tôi đã gặp Hiền
trước đây; chàng niềm nở kéo tay tôi tới giới thiệu,
“Nhà
toán học Ba Hoa phụ trách mục ‘Đố Vui Để Chọc’ được độc giả mến chuộng
nhờ tài diễn tả các bài toán khó điếc lỗ tai thành chuyện khôi hài ai cũng
khoái.”
“Anh
Ba Hoa ở đây, còn chị Chích Chòe ở đâu?” một người lên tiếng hỏi
đùa.
“Ngoại trừ
mục ‘Thư Đi Tin Lại’ của Phương Trâm, Ba Hoa là người nhận được nhiều
thư ái mộ của nữ độc giả nhất. Bộ ngu
hay sao mà vác cái rơ-moóc theo làm kỳ đà cản mũi?” Hiền trả lời, nhưng cốt
để ghẹo tôi.
Người vừa hỏi là Luật dáng người nhỏ thó và
trông nhỏ hơn tôi vài tuổi; Luật tiếp tục hỏi tới,
“Nghe
danh không bằng mắt thấy tai nghe. Anh Ba
Hoa cho tụi tui nghe liền một câu đố vui được không?”
“Luật
muốn nghe thật à?” tôi tủm tỉm cười, “Vậy các bạn có biết một chàng trẻ tuổi đẹp
trai, hào hoa phong nhã, và ăn nói lịch sự ở Toronto gọi là gì không?”
“Gọi
là gì?” Hiền cũng nóng lòng muốn biết.
“Là . . .
du khách – như tôi đây, chứ gì nữa!” tôi trả lời, cố nín không cười.
Tôi nhìn quanh rồi hỏi Bảo,
“Sao
không thấy Phương Trâm? Tôi thấy hình trên
báo và mong gặp người thật.”
“Cô
ấy tên thực là Hồng Thu, hôm nay bận việc không đến được. Hình trên báo là hình cô em của Hiền còn ở Việt
nam để mà mắt mấy thằng Việt Cộng nằm vùng; chúng nó sẽ không biết Phương Trâm
là ai mà theo quấy rầy phá thối,” Bảo nghiêm nghị giải thích.
“Đương
sự không có mặt thì tôi xăm mình kể cái giai thoại học tiếng Pháp: Thời trung học, tôi hay khuyên đùa các cô tên
Phương Thanh, Phương Thảo, hay Phương Trâm không nên viết tắt tên mình.”
“Ông
Ba Hoa thật nhiễu sự, sao thế?” Bảo có vẻ bực mình, nhưng tò mò.
“Vì
viết tắt thành ‘PT,’ đọc là ‘pê tê,’ là chữ ‘péter’ tiếng Pháp nghĩa là đánh rắm. Dùng chữ này để tự xưng thì còn đâu cái duyên
dáng mỹ miều của phái nữ?”
Bảo cho biết Luật viết truyện ngắn rất dí dỏm,
làm thơ tếu có hạng, có khiếu tiểu xảo, và giúp Bảo đắc lực trong các hoạt động
chống Cộng của cộng đồng. Luật ở chung nhà
với nữ văn sĩ Thảo Quỳnh mới nổi tiếng nhờ có bài đăng thường xuyên trên Xxxx
Việt. Tên thực là Quỳnh, chị làm nghề
trang điểm cho cô dâu, phụ nữ đi dạ hội, v.v. rất phát đạt. Cuối buổi họp mặt, Luật nói với tôi và Bảo,
“Chẳng mấy
khi anh sang đây, chị Quỳnh mời anh và anh Bảo đến nhà ăn cơm cho chị được đãi
khách quý từ bên Mỹ qua.”
* * *
Hôm sau tôi đi theo Bảo khi chàng chạy quanh
lo việc ấn hành số báo tới. Ăn cơm
nhà vác ngà voi làm báo chống Cộng, tiền bạc không có, và trăm bề thiếu thốn,
nhóm Xxxx Việt phải khắc phục khó khăn và chia nhau làm hàng chục công tác lớn
nhỏ để biến những bản thảo viết tay như bài viết của tôi thành cuốn báo 128
trang trang nhã. Bảo ghé lại nhà Hồng
Thu để đưa thư độc giả cho “cô Phương Trâm” viết trả lời. Người thiếu phụ trạc ba mươi tuổi có mái tóc
dài ngang vai, vẻ đẹp hiền hậu, và đôi mắt buồn sống với bà mẹ và hai đứa con trai,
đứa lớn mười tuổi và đứa nhỏ lên tám. Nàng
người Nha Trang, thành phố dừa xanh cát trắng hiền hòa tôi từng xem là quê nhà
thứ hai,
“Từ
bé đến trưởng thành, em sống với gia đình ở Nha Trang. Tiểu học và trung học đều học trường đạo, và năm
1972 bắt đầu học Đại học Duyên hải. Đến
tháng Ba năm 1975 mới dọn vào Sài gòn ở khu Ngã Bảy đường Lý Thái Tổ.”
“Hà
hà, học khóa đầu tiên của Đại học Duyên hải thì Thu cũng là . . . giáo gian
như anh. Lúc đó, trường chỉ có các lớp
sư phạm: lý hóa-vạn vật, Anh văn, và
Pháp văn. Em học ngành nào?” tôi reo
lên.
“Em
học ban Anh văn, tốt nghiệp mùa hè năm 1974 trong số 139 người, và đậu cao nên
được về dạy đệ nhất cấp ở trường Huyền Trân là trường Nữ trung học Nha Trang mới
đổi tên. Nhà em ở góc đường Phước Hải và
Lạc Long Quân gần nhà thờ Núi, tức là nhà thờ chính tòa; anh là dân Nha Trang chắc
chẳng lạ lùng chi,” với giọng Nha Trang nhỏ nhẹ êm tai, nàng đã xem tôi là
người đồng hương.
“Hồi đó nhà
anh ở ngoài cầu Xóm Bóng và nằm giữa tháp Bà và hòn Chồng ở Đồng Đế,” tôi nhớ về
Nha Trang và quay sang Bảo giải thích về Đại học Duyên hải; ngày trường thành lập
thì chàng đã đi Nhật du học.
Đầu thập niên 1970, trong khi cuộc hòa đàm diễn ra ở
Paris, Việt Cộng chỉ xăm xăm xua lính ngoài Bắc vào Nam đánh giết và thí mạng
thì chính phủ Việt nam Cộng hòa (“VNCH”) ráo riết thực hiện kế hoạch kinh tế hậu
chiến để tái thiết quốc gia khi hòa bình được tái lập. Trong kế hoạch đó, việc huấn nghệ cho quân
nhân khi họ giải ngũ trở về đời sống dân sự thành những chuyên viên trung cấp mọi
ngành là nhu cầu thiết yếu. Do đó, chính
phủ VNCH thành lập các trường đại học cộng đồng với sự tham gia đóng góp, xây dựng,
và quản trị của địa phương: Đại học Tiền
giang ở Mỹ Tho đặt trọng tâm vào nông nghiệp (1971), Đại học Duyên hải ở Nha
Trang hướng về nông ngư nghiệp (1972), Đại học Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Đại
học Long Hồ ở Vĩnh Long (1975, chưa hoạt động).
Công việc Bảo vừa tạm xong thì vừa đến giờ
hẹn với chị Quỳnh. Chị cao lớn, hơi đẫy
đà, và cao hơn “chú Luật” nửa cái đầu. Tôi
không thể đoán chừng chị bao nhiêu tuổi vì từ mái tóc đến bộ mặt, chị dùng quá nhiều
mỹ phẩm để trang điểm. Hai cô con gái
khoảng mười tám, mười chín tuổi của chị ra chào tôi và Bảo rồi rút lên gác. Chúng tôi ăn tối trong phòng khách, và các
món ăn Bắc sửa soạn công phu, nhưng tôi không thấy ngon miệng. Dáng điệu và ngôn ngữ của chị Quỳnh quá kiểu
cách, Luật mất tự nhiên và không còn đùa tếu như hôm qua, Bảo trở nên dè dặt ít
nói, và tôi chỉ mong ăn xong rồi về nhà Bảo.
Trên đường về, tôi cười nhẹ với Bảo,
“Tôi
thấy chị Quỳnh đánh phấn mặt dày hơn cả geisha Nhật Bản, chắc phải dùng
bay thợ hồ trét lên?”
“Người
ngoài chưa ai thấy mặt thật của chị ấy. Nếu
ai đến nhà sáng sớm, chị chưa kịp trang điểm thì không bao giờ mở cửa. Có lần một người bạn thân vào nhà bất thình
lình, chị trở tay không kịp bèn chui cửa sổ ra trốn bên hông nhà,” Bảo không biết
tôi hỏi đùa.
Về lại North Dakota, theo nghi thức xã giao
thông thường của người Mỹ, tôi viết gửi chị Quỳnh tấm thiệp Thank You nhỏ
để “cám ơn chị đã đãi một bữa ăn ngon và cho một buổi tối tuyệt vời.” Một tuần sau, vào hai giờ sáng (ba giờ sáng ở
Toronto), chuông điện thoại đánh thức tôi dậy.
Tưởng là cú gọi khẩn cấp, tôi nhổm dậy nhấc ống nói. Nghe tiếng xôn xao ở đầu dây bên kia, tôi nhận
ra tiếng của Luật,
“Luật
hả, có chuyện gì quan trọng không mà gọi vào giờ này?”
“Xin lỗi
anh, gọi lầm số,” Luật bối rối trả lời rồi gác máy.
Không thể nào gọi lầm số. Khi gọi tôi, trước hết Luật quay số “1” (để gọi
viễn liên) rồi area code “701” của North Dakota (area code của
Toronto là “416”) và sau đó mới đến số “123-4567” của tôi. Nếu gọi nội trong vùng đô thị Toronto, chỉ cần
quay bảy con số chính. Sau đó ít lâu, tôi
không còn thấy bài của Luật và truyện ngắn của Thảo Quỳnh xuất hiện trên báo.
Hai năm sau, trong một chuyến viếng thăm Toronto khác, tôi tháp
tùng Hiền lên phố Tàu Toronto xem dân cho biết sự tình. Mỗi ngày ngoài giờ làm việc, Hiền mang bên
vai chiếc túi vải lớn mà anh em gọi là “bị Cái bang” đựng vài chục số báo vừa
phát hành để phân phát cho các tiệm đăng quảng cáo và đồng thời thu tiền quảng
cáo và lấy quảng cáo mới. Tôi vui miệng
kể cho chàng nghe vụ Luật gọi lầm số giữa đêm khuya. Hiền nói ngay,
“Thằng Luật nhỏ hột
tiêu cái gì cũng biết, không kêu lộn đâu.
Chả ghen với anh đó.”
“Tôi có làm gì đâu mà
nó ghen?” tôi giật mình ngạc nhiên.
“Chả nhỏ người mà sung sức, đêm
đêm cong lưng phục vụ cho bà Quỳnh đô con phốp pháp. Được cơm no bò cỡi sướng quá nên chả
nơm nớp sợ người khác rinh mất cái mỏ chì.
Anh biết không, bao nhiêu truyện ngắn Thảo Quỳnh từ trước đến giờ đều do
chả tâng công viết và ký tên bả gởi đăng báo. Bả giỏi tài dùng bút chì kẻ lông mày chớ
có biết viết lách gì đâu.”
Điều Hiền nói khiến tôi tò mò thêm,
“Thằng Luật không có vợ
con gì cả hay sao?”
“Vợ con chả sờ
sờ ra đó; vợ thì đẹp gái, và hai đứa con trai khôn ngoan lễ phép. Cô Thu nhà mình chớ ai!”
“Sao mà đến nỗi đó?”
tôi la lên, nhớ lại đôi mắt buồn của Hồng Thu.
“Năm 1974, chả là quân nhân Hải
quân, cổ là cô giáo vừa tốt nghiệp Đại học Duyên hải, và họ gặp nhau yêu
nhau rồi lấy nhau. Năm 1979, hai người đã
có hai đứa con khi chả đi vượt biên một mình qua Gia Nã Đại. Sau khi thành ngoại kiều thường trú, chả
làm giấy tờ bảo lãnh vợ con và bà má vợ.
Rồi không biết ma đưa đường quỷ đưa lối làm sao mà rớt vô tay mụ Võ Tắc
Thiên dâm đãng!”
Tôi lại có thêm câu hỏi khác,
“Vậy chồng bà Quỳnh
đâu?”
“Ông chồng là sĩ quan
Việt nam Cộng hòa, năm 1975 đưa vợ con di tản sang Gia Nã Đại. Bả rêu rao ổng bỏ bê gia đình theo
vợ nhỏ, nhưng người biết chuyện nói ngày trước ổng đi đánh giặc bị
thương thành ra yếu sinh lý, không đủ sức cung phụng cho bà vợ đến tuổi hồi
xuân, và bị bả kiếm cớ đuổi ra khỏi nhà.”
“Không trách chi
thằng Luật sa vào bẫy,” tôi thở dài.
“Ngày cô Thu đưa hai đứa con và bà má đến
Toronto, cơ quan xã hội chưa kịp tìm nhà ở nên thằng Luật đành bấm bụng đưa cổ
về nhà chả và cũng là nhà bà Quỳnh ở tạm. Bốn người ngủ trong phòng của một cô con gái bả,
và – anh tin được không – chả ngang nhiên ôm bả nằm ngủ phây phây
trong căn phòng ngủ chính. Bà má và mẹ
con cổ cắn răng chịu đựng đến khi có nhà chính phủ để dọn đi. Từ đó chả từ luôn vợ con, không thèm đoái
hoài đoái quở.”
Tôi lắc đầu chưa thể tin lời Hiền,
“Bây giờ đôi uyên ương
đũa lệch đó ra sao?”
“Để hội đủ điều kiện nhận trợ cấp của
chính phủ, cô Thu phải kiện thằng Luật ra tòa, nêu địa chỉ cư ngụ, và đòi hỏi chả
cấp dưỡng cho con. Vợ tui thương
mẹ con cổ nên hăng hái ra tòa làm chứng.
Chả bị động ổ liền tức tốc dọn ra khỏi nhà bà Quỳnh. Bị mất Lao Ái đồ nghề bự tổ nái,
bả nổi tam bành gọi điện thoại chưởi vợ tui một trận tơi bời
hoa lá rồi bỏ Toronto qua Mỹ ở. Riêng
chả thì trốn chui trốn nhủi đâu đó trong vùng Toronto này,” Hiền cười
không ra tiếng.
Tôi
rời Toronto mà trong lòng ghi thêm một người đàn bà đáng kính – Hồng
Thu. Sống chật vật về vật chất, gặp tình
đời đen bạc, nàng vẫn ngẩng đầu lên cao, giữ vững tinh thần đấu tranh, và phản ảnh
ý chí chống Cộng của Xxxx Việt qua lời lẽ dịu dàng mà quả quyết khi trả lời thư
độc giả. Cám ơn “cô Phương Trâm.”
Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày 7 tháng Chín, 2022
Đăng nhận xét