KÍNH GIỚI THIỆU 2 TRUYÊN NGẮN MỚI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA: NHƯ MÚI SẦU RIÊNG + ĐÔI BẠN ĐÔI ĐƯỜNG
KÍNH GIỚI THIỆU 2 TRUYÊN NGẮN MỚI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA: NHƯ MÚI SẦU RIÊNG + ĐÔI BẠN ĐÔI ĐƯỜNG
Mời đọc truyện ngắn thứ mười một
trong loạt truyện "Ra Đứng Ngõ Sau,"
hay Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa X.
Xin đọc bản text dưới đây hay bản .pdf đính kèm.
Để đọc các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa đã phổ biến trước đây và một số bài viết khác, mời quý thân hữu vào Trang "Tác phẩm Nguyễn văn Hoa" ở trong Trang Nhà "Thân hữu Điện lực":
https://dconnect.co.jp/friend/
Xin chúc quý thân hữu và quý quyến một cuối tuần vui vẻ và thân tâm thường an lạc.
---------------------------------------------------------------------
Truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Hoa
Quỳnh Châu thường nửa đùa nửa thực khoe với bạn là chồng nàng đi chợ bằng máy bay. Bismarck không có tiệm bán thực phẩm Á Đông nên nhân hàng tháng đi họp ở Minneapolis, Minnesota cách chúng tôi một tiếng đồng hồ bay, tôi mua đồ ăn Việt nam mang về: Lúc bay xuống Minneapolis, trên đường từ phi trường đến chỗ họp hay khách sạn, tôi biểu tắc-xi ghé lại tiệm Mekong bán thực phẩm Á Đông duy nhất của thành phố này và đưa danh sách các thứ Quỳnh Châu cần mua cho cô chủ tiệm người Hoa nói tiếng Việt rất sõi. Hôm sau, trên đường ra phi trường bay về nhà, tôi ghé lại tiệm, thùng đồ ăn đã đóng gói sẵn sàng, và tôi chỉ việc trả tiền rồi mang về.
Tôi đi họp ở Minneapolis vì được cử vào và làm chủ tịch Tiểu
ban Thẩm định (“TBTĐ”) sự đáng tin cậy hệ thống điện của Tổ hợp Điện
lực Vùng Trung-Lục địa (MAPP) mà công ty tôi là hội viên. Là chủ tịch
TBTĐ, tôi xếp đặt chương trình nghị sự, chọn địa điểm họp (trụ sở MAPP hay
khách sạn), và đề nghị thực đơn ăn trưa. Tôi thích ăn đồ ngọt, nhất là
bánh ngọt Mỹ, và nhân cơ hội “sổng chuồng” không có Quỳnh Châu, đòi thực đơn phải
có hai món bánh tráng miệng. Tôi ăn tráng miệng trước, còn bụng mới ăn
các thứ khác. Do đó, trong giới MAPP, tôi được mệnh danh
“Two-Desert Ba Hoa.”
Nhân viên MAPP ngồi vào những ủy ban của MAPP với tư cách
“thư ký” không có quyền biểu quyết. Thư ký có nhiệm vụ lo logistics
(đại khái như việc ăn ở cho người dự hội nghị), ghi chép và lập biên bản buổi họp,
và thi hành quyết định của ủy ban. Thư ký chính thức của TBTĐ là Dale, giám đốc
kỹ thuật của MAPP, nhưng anh thường bận rộn nên giao nhiệm vụ cho Renée, một
nhà nữ toán học người Miên trạc tuổi tôi.
Renée có dáng người tầm thước của đàn bà Á Đông và làn da
“trắng” như người Việt. Nàng xinh xắn, hoạt bát, và nói tiếng Anh pha một
thoáng giọng Pháp, dư âm của thời du học Paris. Cùng với hai đứa con, một
trai một gái nay tới tuổi vào đại học, nàng đến Hoa kỳ tỵ nạn Cộng sản năm 1975
và định cư ở Grand Forks thuộc tiểu bang North Dakota, cách nơi tôi ở chừng 250
dặm Anh. Trở lại đại học và sau khi tốt nghiệp cao học toán chuyên về thống
kê, nàng dọn về Minneapolis làm việc cho MAPP.
Vì công việc TBTĐ, tôi và Renée liên lạc thường xuyên với
nhau, mỗi tuần nói chuyện điện thoại đôi ba lần. Buổi tối ở Minneapolis
sau buổi họp TBTĐ, tôi thường mời nàng đi ăn tối cùng với các thành viên.
Tôi đi họp thì chi phí ăn ở được công ty hoàn trả, khi về nhà điền và nộp expense
report (tờ ghi công tác phí), và luôn luôn làm kẻ cả bao giàn phần
ăn của nàng. Dần dần chúng tôi thân nhau hơn; khi thuận tiện, nàng tình
nguyện lái xe đưa tôi ra phi trường. Ghé lại tiệm Mekong cho tôi lấy
thùng đồ ăn Việt nam, nàng mua phẩm vật tặng Quỳnh Châu đưa cho tôi mang về.
Khi chia tay, nàng khẽ nói “Au revoir!” và tự nhiên chìa má cho tôi hôn.
* * *
Buổi họp tháng Mười năm 1989 của TBTĐ có một điều khác thường:
Cả Dale và Renée đều hiện diện suốt buổi, và Dale cắm cúi ghi chép, trong khi
Renée ngồi không và thỉnh thoảng nhìn tôi cười duyên. Phiên họp bế mạc
khoảng ba giờ chiều. Biết tôi còn ở lại Minneapolis vì ngày hôm sau cần dự
một buổi họp khác, Dale mời tôi dự tiệc chia tay với Renée. Hôm nay là
ngày làm việc cuối cùng của nàng. Tôi hiểu ra tại sao Dale trở lại làm
thư ký buổi họp. Trong diễn từ từ giã, Dale chúc nàng “may mắn trong việc
theo đuổi nỗ lực tương lai,” một câu nói văn vẻ khi không biết người sắp thôi
việc sẽ làm gì. Tôi được mời trao quà chia tay cho nàng. Nàng nhận
quà, ôm tôi theo thói tục người Mỹ, và ghé tai tôi nói nhỏ,
“Món quà này em sẽ tặng lại Quỳnh Châu. Đêm nay anh đi chơi với em nghen.”
Người tôi rúng động như bị điện giật. Renée dùng tiếng
Việt nói với tôi – lần đầu tiên. Bằng giọng Nam ôn tồn và âu yếm.
Nàng lại rủ tôi đi chơi, date (hẹn hò) kiểu Mỹ. Máu “anh hùng”
bùng lên, tôi cười mũi trả lời bằng tiếng Việt,
“Đi thì đi, sợ gì? Chỉ sợ nửa chừng có người sợ rồi đòi về.”
“Anh nói thì phải giữ lời đó nghen. Đây là lần cuối cùng trong đời,
nhỏ Renée này được gần anh,” nàng mừng rỡ.
Từ lúc đó, chúng tôi nói tiếng Việt với nhau. Renée
đưa tôi đến tiệm ăn Pháp sang trọng nhất của thành phố và nói tiếng Pháp gọi
món ăn và rượu vang, lịch thiệp và cao sang như một mệnh phụ người Pháp trong
phim xi-nê. Nàng cười khúc khích,
“Hôm nay em bao, anh khỏi phải ăn gian khi điền expense report. Em
giàu lắm, làm việc cho MAPP chờ thời chớ không phải để kiếm sống.”
“Mình làm việc với nhau ba, bốn năm nay mà anh hoàn toàn mù tịt không biết gì về
em,” tôi sửng sốt thú nhận.
“Anh ăn đi đã. Coi em ‘đi chợ’ có giỏi không?” nàng nâng ly rượu vang
chúc sức khỏe, “Em sinh ra trong gia đình hoàng gia, từ nhỏ được gởi về Sài gòn
học trường Marie Curie với tên Pháp Renée và mỗi năm chỉ về nhà mấy tháng
hè. Thành ra con nhỏ mê xí muội như con gái Việt nam chính hiệu con
Nai chớ không khoái mắm bò hóc của người Miên. Sau khi đậu Bac II [Tú
tài II Pháp], em sang Paris học toán ở Sorbonne. Nhưng khi gần xong cử
nhân, em bị phụ hoàng gọi về gả chồng. Chồng em lớn hơn em mười tuổi, ảnh
là vị tướng trẻ nhất quân đội Hoàng gia Khmer và thống lãnh một trong ba quân
khu của Cam Bốt. Sau đó, hai đứa con em ra đời. Làm gì mà ngó em dữ
dzậy? Từ từ, em nói cho nghe, đêm còn sớm mà!”
Thì ra Renée là công chúa con “Ông Hoàng Đi Dây” Norodom
Sihanouk, báo chí Sài gòn dạo ấy gọi ông như thế. Ông là con một của công
chúa Kossamak con vua Monivong và phò mã Suramarit. Thời Pháp thuộc, giống
như ở Việt nam, vua Cam Bốt ngồi làm vì, mọi việc quan trọng đều do vị toàn quyền
người Pháp cai quản toàn cõi Đông dương quyết định. Vua Monivong băng hà
năm 1941, và mặc dù vua đã lập thái tử kế vị, Pháp đưa Sihanouk là cháu ngoại của
vua, nhỏ tuổi hơn thái tử, lên nối ngôi cho dễ bề sai khiến.
Sihanouk không ngồi trên ngai vàng liên tục mà theo biến
chuyển chính trị, đảm nhiệm nhiều vai trò cầm quyền khác nhau. Sau thời kỳ
Nhật thuộc trong Đệ nhị Thế chiến, năm 1953 Cam Bốt tuyên bố độc lập. Năm
1955, Sihanouk thoái vị, truyền ngôi lại cho cha là phò mã Suramarit, và thành
lập đảng chính trị duy nhất của Cam Bốt. Đảng toàn thắng trong cuộc tổng
tuyển cử, và Sihanouk làm thủ tướng. Năm 1960, vua Suramarit băng;
Sihanouk kiêm nhiệm chức vụ quốc trưởng, chức vụ tương đương với vua mới lập
ra. Trong khi cuộc chiến diễn ra tại Việt nam, ông tuyên bố Cam Bốt là quốc
gia trung lập, “đi dây” giữa hai phe Tự do và Cộng sản, nhưng thực sự là thân
Cộng. Ông cho phép Việt Cộng (“VC”) chuyển võ khí vào nam Việt nam qua hải
cảng Sihanoukville và lập chiến khu ở biên giới Việt - Miên phía trong Cam Bốt.
Ông cũng để Khmer Đỏ (Khmer Rouge, đảng Cộng sản Cam Bốt) tự do chiêu mộ cán bộ
và thành lập quân đội võ trang.
Lúc uống cà-phê ăn tráng miệng – hai thứ bánh ngọt Pháp, tôi
hỏi thăm thân thế nàng,
“Công chúa Renée, anh nghe nói cha em có sáu bà vợ và 14 người con. Em là
con bà nào và con thứ mấy”
“Ban đầu phụ hoàng lấy một diễn viên trong đoàn Kịch Múa Hoàng gia, nhưng bà
không được hoàng gia chấp nhận nên hai năm sau ly dị. Bà vợ thứ hai kết
hôn cùng năm với bà trước là má em, Công chúa Sanmoni con vua Monivong mà phụ hoàng kế vị. Em là con thứ tư
trong số bốn trai và ba gái của má, nhưng nay chỉ còn hai anh trai còn sống.”
“Vậy mẹ em là em cùng cha khác mẹ với mẹ của cha em, ông phải gọi mẹ em bằng
‘dì.’ Em gọi ông bằng ‘cha’ hay bằng ‘anh’?” tôi hỏi cắc cớ.
“Người Miên em dễ dãi về chuyện đa thê và kết hôn với họ hàng hơn người Việt.
Bà thứ ba và bà thứ năm của phụ hoàng cũng là công chúa
con vua Monivong như má em.”
Ăn xong chúng tôi đi hộp đêm có ca sĩ khá nổi tiếng trình diễn.
Tôi tiếp tục thắc mắc,
“Tại sao mệnh phụ phu nhân của một tướng lãnh quyền cao chức trọng lại trôi giạt
qua Hoa kỳ một mình với hai đứa con?”
“Năm 1970, khi phụ hoàng sang Pháp chữa bệnh, Tướng Lon Nol đảo chánh, lập ra Cộng
hòa Khmer, làm tổng thống, và được Mỹ và Việt nam Cộng hòa giúp đánh Khmer Đỏ.
Chồng em theo phe đảo chánh, được thăng chức lớn hơn và trọng dụng. Khi
đó em khám phá ra ảnh đã bí mật có gia đình với người khác và có hai con
với cổ. Em giận ảnh ôm hai đứa con về nhà mình, dinh công
chúa phụ hoàng xây riêng cho em.”
Renée rủ tôi ra sàn nhảy. Tôi nhận lời nhưng, “Em phải
đưa anh đi, anh nhà quê không biết nhảy đâu.” Nàng dựa đầu lên vai tôi thủ
thỉ,
“Sau cú đảo chánh, nội chiến bùng nổ giữa Cộng hòa Khmer của Lon Nol và Khmer Đỏ
của Pol Pot như bên Việt nam. Năm năm sau, phe Lon Nol thua to, và ngày 1
tháng Tư năm 1975 ông từ chức và trốn sang Mỹ. Ngày 12, Mỹ đem trực thăng
di tản nhân viên các tòa đại sứ và các nhân vật quan trọng của chính phủ Cộng
hòa Khmer. Em nghe tin liền đem hai đứa con chạy đến địa điểm trực thăng
‘bốc’ là sân vận động gần tòa Đại sứ Mỹ và di tản sang căn cứ Không quân
U-Tapao ở Thái Lan. Rồi được đưa sang đảo Guam và sau đó sang Mỹ tỵ nạn
như anh. Chồng em và nhiều nhân vật chính phủ khác bị Khmer Đỏ hành quyết
ngay sau khi tụi nó vào Nam Vang ngày 17.”
“Mười ba ngày sau, Sài gòn của anh cũng thất thủ!” tôi bồi hồi nhớ lại.
“Anh biết không, em vừa ra khỏi nhà thì chồng em đưa cô vợ
và hai đứa con kia về ở trong nhà em và dùng áo quần, đồ trang sức, và mọi thứ
khác của mẹ con em. Không may cho họ, Khmer Đỏ vào tưởng họ là mẹ con em
và bắt đi thủ tiêu. Có người thế mạng, em chính thức bị liệt kê ‘mất tích
dưới chế độ Khmer Đỏ’ nên đúng ra công chúa Renée này không
hiện hữu trên đời.”
“Em nói hôm nay là lần cuối cùng, tại sao?”
“Em đã gởi gắm hai con cho ông anh lớn ở Connecticut. Mọi việc thu xếp
xong xuôi, chỉ chờ gặp anh để vĩnh biệt. Chiều mai em lên máy bay về Cam
Bốt qua ngả Paris,” nàng cười trong nước mắt, “Phụ hoàng được thần dân thương
yêu và tôn thờ như thần thánh mà phải bôn ba xứ người gần 20 năm nay. Nay
bên nhà sắp có tổng tuyển cử, em về nước để phụ với các anh chỉnh đốn đảng
chính trị của người, vận động dân chúng bỏ phiếu tái lập nền quân chủ lập hiến
cho Cam Bốt, và giúp người trở lại ngôi vua cầm đầu quốc gia.”
Sau khi bị Lon Nol lật đổ, Sihanouk trốn sang Bắc Kinh và
Bình Nhưỡng (Bắc Hàn), lập chính phủ lưu vong và lực lượng kháng chiến, kêu gọi
dân chúng nổi dậy chống lại chính quyền Lon Nol, và ủng hộ Khmer Đỏ trong cuộc
nội chiến. Khmer Đỏ thắng trận, ông trở về, được phong làm quốc trưởng bù
nhìn, và chứng kiến Pol Pot tàn sát hơn ba triệu người; Cam Bốt lúc ấy vỏn vẹn
có tám triệu dân. Ông từ chức quốc trưởng nhưng bị giam lỏng trong cung
điện đến năm 1979, khi quân đội VC xâm lăng Cam Bốt, dẹp bỏ chế độ Khmer Đỏ, và
lập ra Cộng hòa Nhân dân Cam Bốt. Ông lưu vong trở lại, cầm đầu chính phủ
liên hiệp gồm nhiều đảng phái, chống lại chính phủ do VC dựng lên, và được Liên
hiệp quốc công nhận là quốc trưởng hợp pháp của Cam Bốt. Cuối thập niên
1980, hai phe lâm chiến thảo luận tìm giải pháp hòa bình và đề nghị Liên hiệp
quốc đứng ra tổ chức tổng tuyển cử.
Chúng tôi ra khỏi hộp đêm sau nửa đêm. Renée cười cười
nói như đùa,
“Tối nay anh hỏi em bao nhiêu là câu hỏi. Giờ em chỉ hỏi một câu thôi:
Tối nay em về khách sạn với anh làm đêm không ngủ nghen?”
“Không biết nữa,” tôi lưỡng lự, “Nhưng có lẽ không tiện đâu em.”
“Bộ anh sợ em dính bầu hả?” nàng vẫn cười.
“Chắc cũng đâu đó. Em còn sứ mạng cực kỳ quan trọng trước mặt,” giọng tôi
nghiêm trang hơn.
“Tội nghiệp anh! Mất đi một dịp thưởng thức bông hoa xứ Chùa Tháp thơm
như múi sầu riêng,” nụ cười của nàng đẹp lạ lùng, xuýt nữa tôi đổi ý.
Không hiểu vì sao tôi không nhận lời. Hay là múi sầu
riêng lá ngọc cành vàng đó chỉ để tâm phục và ước ao?
Nguyễn Ngọc
Hoa
9 tháng Tám, 2023
Truyện ngắn "Đôi Bạn Đôi Đường" - Nguyễn Ngọc Hoa
Bạn tôi Cao văn Chung, nhân vật chính trong truyện ngắn
"Đôi Bạn Đôi Đường" dưới đây, ra đi hôm 12 tháng Mười, 2023 vừa qua ở
Dallas, Texas. Nó vừa được hỏa thiêu hôm qua. Xin được post lên
truyện ngắn viết từ năm 2014 này để khóc một người bạn thân thiết nhất đời
trong 62 năm qua. Vĩnh biệt mày, Chung ơi!
---------------------------------------------------------
Đôi Bạn Đôi Đường
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa
Giữa tháng
Mười, thời tiết North
Dakota chớm vào cuối thu và buổi sáng se lạnh. Đã đến lúc vợ chồng tôi về Texas tạm trú qua mùa đông.
Tôi háo hức vì sắp gặp người bạn thân là Công ở Dallas nằm trên đường di chuyển
Bắc-Nam. Tôi gọi Công trên điện thoại di động,
“Mày đang ở đâu? Tuần sau tao ghé Dallas, gặp nhau được không?”
“Tau đang ở Wichita Falls, cách nhà chừng ba tiếng đồng hồ,” Công
điềm đạm trả lời, khác hẳn giọng nói hấp ta hấp tấp của tôi.
“Khi nào về nhà?”
“Không biết, nhưng chắc còn lâu lắm,” vẫn cái giọng trầm đều, không
cảm xúc.
“Mày làm gì ở đó?”
“Tau đang ở chùa... ” Công ngập ngừng.
“Không lẽ mày đi tu?”
“Đúng vậy, tau đã xuất gia... bốn tháng trước.”
Tôi không ngạc
nhiên mà chỉ ngỡ ngàng trước cái tin đột ngột. Như đọc được ý
nghĩ của tôi, Công nửa
đùa nửa thật,
“Giờ mi phải gọi tau bằng ‘thầy’ xưng ‘con’ đàng hoàng đó
nghen.”
“Mày tu chứ tao có tu đâu mà ‘thầy’ với ‘bà’!”
“Nhưng ‘mày tau’ với sư là không kính trọng Tam Bảo,” lần này
Công nói thật, cương quyết như trong bao lần tranh luận trước đây.
Tôi lúng túng
nhưng không chịu thua,
“Năm mươi mốt năm nay, tao chỉ biết mỗi một cách xưng hô với mày.”
“Nhưng chừ mi nói chuyện với sư!”
“Thôi chúc mày... mau thành chánh quả. Hẹn gặp sau,” tôi cúp
điện thoại mà không biết mình buồn hay vui.
***
Đầu niên khóa
1962-63, tôi và Công được xếp
ngồi cạnh nhau ở dãy bàn đầu lớp đệ tam B3 trường Quốc Học Huế. Biết tiếng nhau từ trước vì cùng
đứng đầu bảng trong kỳ thi Trung học đệ nhất cấp, chúng tôi thân nhau
từ ngày đầu tiên. Tôi lên từ trường (trung học đệ nhất cấp) Hàm Nghi trong Thành Nội, trong lúc
Công từ lớp đệ tứ cuối cùng ở Quốc Học sau đó chỉ còn đệ nhị cấp
(đệ tam trở lên). Trong số mười ba lớp đệ tam
ban B (Khoa học Toán), B1 đến B6 là lớp Pháp văn sinh ngữ chính, B7 đến B13 Anh văn sinh ngữ chính.
Công gầy mà
chắc chắn, khuôn mặt khắc khổ, giọng Huế trầm và chậm rãi mà cương
quyết. Kém Công một tuổi, tôi mang khuôn mặt “búng ra sữa,” láu
táu và ồn ào, cãi với ai thì nhất định cãi đến kỳ cùng. Công quê ở Phú Lộc gần núi Túy Vân,
sống ở Huế từ lúc sinh ra, và được nung đúc thành một phật tử thuần thành; cha làm công
chức, rất gần gủi với con. Tôi sinh ở ngoài vĩ tuyến 17 di cư vào Nam, học tiểu học ở
trường công giáo khi gia đình di chuyển
khắp miền Trung, và rất ít khi sống gần cha là một sĩ quan cao cấp
đang đóng đồn ở Ban Mê Thuột. Buổi chiều sau giờ học, tôi thường
theo Công lên chùa học đạo với thầy; Công say mê nghiên cứu Phật pháp,
và tôi hay chất vấn thầy làm sao đạo Phật áp dụng vào đời.
Hai đứa đều
học giỏi, giỏi toán hết chỗ chê. Giờ ra chơi, chúng tôi dắt nhau
đi quanh sân trường “luận anh hùng.” Những học sinh đệ tam có
tiếng học giỏi như thằng Đình cùng lớp B3, thằng Thiện B7, thằng Kim B9, v.v. đều được xếp vào “cao thủ hạng ba,”
nhưng không có hạng nhất hay hạng nhì. Vì hai đứa chúng tôi không
biết ai giỏi hơn!
Đệ tam là lớp
“ăn chơi” vì không phải năm thi và chương trình học không liên quan trực
tiếp đến lớp thi là đệ nhị và đệ nhất. Tuy nhiên, tôi và Công
ngày đêm thi nhau học “gạo”... chết bỏ, cố gắng hơn bạn để tự xem là
“cao thủ hạng nhất,” mà
ngoài mặt làm bộ nhởn nhơ ta đây không thèm học.
***
Biến cố Phật
giáo năm 1963 đã đưa cuộc
đời tôi sang một ngõ rẽ khác. “Luông tuồng và lóc lách” (lời của mẹ), tôi tham dự các hoạt động của tập thể phật
tử Huế và chứng kiến mọi diễn biến trong ngày Phật Đản ấy.
Vì những điều tai nghe mắt thấy không phù hợp với những điều “mấy
thầy” tuyên bố hay chính phủ thông tin, trong những ngày kế tiếp tôi
gân cổ cãi nhau với người lớn về những sự kiện thực sự xảy ra và
nhiều lần bị đe dọa. Lo sợ cho sự an toàn của thằng bé, mẹ đi
tới một quyết định quyết liệt: đưa gia đình vào Ban Mê Thuột ở
với cha.
Xa mặt nhưng
không cách lòng, tôi và Công viết thư cho nhau hàng tuần, thiết tha như
đôi tình nhân. Mở đầu thư bằng tiếng gọi trìu mến,“Công thương,”
tôi thường thuật những chuyến thám hiểm vào rừng núi Ban Mê Thuột
buồn muôn thuở bụi mù trời; những sinh hoạt trong lớp nam nữ học
chung, điều mà ở Huế không có; và các bạn cùng lớp mới, lớn tuổi
hơn mến chuộng anh học trò “thông minh nhất nam tử” nói tiếng Huế trọ
trẹ khó nghe. Ngoài những lời lẽ nhớ bạn, Công kể những lần
về làng đưa cô “bồ” ra đụn cát ngồi bên nhau trò chuyện và ngắm trăng,
hay lên chùa Túy Vân thọ giáo và xin thầy cho quy y nhưng thầy không
đồng ý khuyên nên sống ngoài đời phục vụ thế gian.
Tuy nhiên, phần
chính của những bức thư dày cộm với chữ nhỏ lăn tăn trên hơn một
chục tờ giấy mỏng là đề toán đưa ra để đố bạn và bài giải cho các
bài toán đố trước, như các nhà toán học Âu Châu đầu thế kỷ 18
thách thức nhau chứng minh những
bài toán nan giải.
Để theo kịp
bạn, tôi xin cha cho người về Sài gòn tìm mua tất cả sách toán, cả
sách giáo khoa lẫn sách bài giải, bày bán trong nhà sách. Tôi
làm hết toán, lựa ra những bài khó nhất, thay đổi cho phức tạp hơn,
loại bỏ các câu hỏi trung gian tác giả dùng để hướng dẫn cách giải,
và chỉ chừa lại câu hỏi cuối cùng làm thành đề toán gửi về Huế
cho Công.
Sách bán trên
thị trường không có nhiều toán khó, tôi nhờ đến “tàng lâu các” là
kho sách cổ bằng tiếng Pháp thừa hưởng từ các chú bác họ học thời
Quốc Học còn là trường Khải Định. Ngoài một số sách thông
dụng, “bí kíp võ học” của tôi là bộ sách giáo khoa của François
Brachet và Jean-Auguste Dumarqué, gọi tắt là “cuốn Brachet,” ấn bản 1932.
Ông chú tặng tôi bộ sách
mà dặn đi dặn lại,
“Toán Brachet khó điếc lỗ tai; mi đừng phí thì giờ nhiều, không
có lợi mô!”
Chú tôi nhầm –
bộ sách Brachet rồi cũng hết toán khó! Cuối cùng viện đến “độc chiêu” là
cuốn bài giải xưa thật là xưa, mất bìa và mấy trang đầu tiên nên
không biết tên tác giả và năm ấn hành; chỉ biết là toán khó cả họ
không ai dám rớ tới. Anh tôi học trên hai lớp, thấy tôi nghiền
ngẫm cuốn sách này, le lưỡi phục lăn,
“Tau mà hiểu được bài toán mô trong nớ thì tau ‘xế’
liền!” (“Xế” tiếng lóng nghĩa là “chết.”)
Cuộc tranh tài
kéo dài suốt hai năm đệ nhị và đệ nhất; tôi học bài và làm toán
hầu như 24 tiếng đồng hồ
mỗi ngày. Khi chưa giải được bài toán, tôi ghi hay vẽ lại trên
tờ giấy, xếp bỏ túi; rảnh rỗi mở ra xem, và nhiều khi cách giải
hiện lên trong giấc ngủ.
Trong lúc tôi
sống an bình và yên tâm học tập ở Cao nguyên, Công bị xáo trộn bởi những cuộc biến động chính trị ở
miền Trung, học sinh sinh viên xuống đường bãi khóa liên miên.
Trong kỳ thi tú tài ở Nha Trang (Ban Mê Thuột tỉnh nhỏ không có hội đồng thi) tôi đậu tối ưu mà ở Huế Công đậu bình thứ,
kết quả khiêm nhường nhưng chứng tỏ khả năng của Công không thua kém
ai.
***
Cuối năm đệ
nhất, Công viết,
“... Tau thấy trong các ngành học, kỹ sư điện là ngành dùng
toán cao nhất...”
Đó là ngành
Công lựa chọn, và tôi không có lựa chọn nào khác. Tôi xin cha
nhờ người về Sài gòn nộp đơn thi vào trường Cao đẳng Điện học.
Mẹ thắc mắc,
“Răng con không nộp đơn thi vô các trường khác?”
“Dạ như trường mô?” tôi bực bội hỏi mẹ.
“Trường Y khoa hay Nông lâm súc chẳng hạn.”
“Con không thích học mấy ngành nớ.”
“Nhưng lỡ con
thi vô trường nớ không đậu thì răng?”
“Răng mà rớt được?”
“Biết mô đó, học tài thi phận mà con!”
“Nếu không vô được trường Điện, con ghi danh học toán ớ Đại học Khoa
học; trường nớ không thi tuyển,” tôi bướng bỉnh như mọi khi.
Trong số 25
học sinh được chọn vào vào ban kỹ sư Điện, tôi xếp
hàng thứ ba. Tôi tức mình ấm ức cho đến khi biết hai người đứng
trên đã học mấy chứng chỉ Toán và Toán Lý Hóa trong chương trình cử
nhân. Công đậu hạng mười, thấp hơn tôi vì bài thi có môn Vật lý
là sở trường của tôi. Ngạc nhiên nhất là tên hai thằng đệ tam B3 khác cũng xuất hiện trên “bảng vàng”:
Đình đậu hạng 18 và Phan (ngày trước không xếp vào hàng “cao thủ”)
đậu chót; ngoài ra không còn ai
ở Huế. Chắc hẳn nhờ sự thi đua học hành với Công mà hai đứa
này trúng tuyển.
Bọn sinh viên
chân ướt chân ráo chúng tôi mong chờ buổi học Giải tích, môn toán
chính, đầu tiên với giáo sư Thế. Ông là trưởng ban Khoa học Cơ
bản có nhiệm vụ giảng dạy kiến thức tổng quát mà sinh viên kỹ sư
ngành Điện, Công Chánh, và Công nghệ đều học chung. Dạy luyện
thi tú tài nổi tiếng khắp Sài gòn và là tác giả sách toán trung
học bán chạy, ông được sinh viên ngưỡng mộ và xưng tụng là “cây đại
thụ của ngành toán học áp dụng Việt nam.”
Còn bỡ ngỡ
với giảng đường đại học, tôi lật lướt qua tập cua (cours, tức là bài giảng) in ronéo (một kỹ thuật in bằng cách đánh máy trên giấy sáp gọi là stencil,
ráp lên máy quay ronéo, và dùng mực in thành nhiều bản) và lơ đãng nghe giáo sư giảng
bài. Chương Dẫn nhập gồm những ý niệm cơ bản đặt nền tảng cho
môn học – dễ òm!
Bài giảng kết thúc, sinh viên mừng rỡ vì sắp được ra về sớm.
Bất ngờ, Công lễ phép đưa tay lên hỏi,
“Thưa thầy, con thấy những ý niệm trong chương này không đồng nhất... ”
Ban đầu tươi
cười nghe Công trình bày lập luận của mình, mặt giáo sư dần dần đổi
sang màu đỏ ửng. Công vừa dứt lời, ông chỉ mặt lớn tiếng,
“Anh đọc những sách nhảm nhí về các tà thuyết toán học. Lập
luận của anh là do mấy nhà toán học Đức đi sai đường vào cuối thế
kỷ 19 đưa ra… “
Giáo sư mắng
một tràng dài; Công ấp úng không nên lời thì thằng bạn rắn đầu nhảy
vào “cứu bồ.” Tôi đưa tay xin phát biểu,
“Thưa thầy, em biết chắc nó chỉ học bài của thầy chứ không hề đọc sách vở nào
khác. Thầy mắng mà không giải thích nó sai ở chỗ nào.”
Có tiếng xầm
xì biểu đồng tình của Đình và Phan (đệ tam B3 ủng hộ “phe ta”!) cùng
vài sinh viên khác ngồi sau lưng tôi. Giáo sư nổi giận, chĩa mũi
dùi sang chàng anh hùng rơm điếc không sợ súng,
“Anh tên gì, học ngành nào?”
Giáo sư ghi tên
tôi và ra lệnh,
“Ngồi xuống, không được
hỗn láo!”
Nói xong, ông
xếp sách vở vào cặp, lẳng lặng bước ra. Giảng đường gần chín
mươi sinh viên im phăng phắc. Tôi biết những ngày khó khăn của
mình bắt đầu.
Thực vậy, vào
giờ Hỏi bài (hàng tuần
sinh viên được chia thành những nhóm nhỏ, mỗi nhóm được một vị giáo
sư hay giảng viên sát hạch khả năng) tôi được giáo sư chiếu cố tận tình với những bài toán khó nhất,
thường không có trong tập cua cho sẵn.
Học đại học
mà bị thầy “trù” là kể như... tiêu đời! Tôi biết vậy nên cậy vào chiến lược cũ: lùng kiếm trong nhà
sách Khai Trí trên đường Lê Lợi, Xuân Thu đường Tự Do, và American
Bookstore đường Nguyễn Huệ mua hết sách toán đại học bằng tiếng
Việt, Pháp, hay Anh. Sách Sài gòn không có nhiều nhưng đủ cho tôi
bận rộn trong tháng đầu tiên.
Mặt khác, tôi
xin cha đánh điện sang Paris nhờ ông chú họ kỹ sư vào Khu La-tinh vét
sạch sách bài giải toán, mới lẫn cũ, dành cho lớp Toán Cao đẳng (Mathématiques Supérieures, gọi tắt là
Maths sup.) và lớp Toán
Đặc biệt (Mathématiques
Spéciales, gọi tắt là Maths spé.) là hai lớp chuyên dạy toán cho sinh viên luyện thi vào các trường
lớn của Pháp như Trường Bách Khoa, Trường Cao đẳng Sư phạm, Trường
Cầu Cống, Trường Cao đắng Điện học, v.v. Trình độ toán của hai
lớp này ngang hàng với hai năm đầu trường kỹ sư.
Nhờ hai năm khổ
luyện ngày đêm, học mờ người, và làm hết toán trong đống sách tiếng
Pháp, bị giáo sư “quay”... đến nơi đến chốn mà chưa lần nào tôi bị
bí. Công nhàn nhã học Giải tích như đùa bỡn; thỉnh thoảng chất
vấn khiến giáo sư bối rối và hẹn lần sau giải đáp, có khi... quên
mất luôn.
Giáo sư đã biên
soạn và ấn hành Giải tích Đệ nhị Niên, cuốn sách Việt ngữ
duy nhất về toán áp dụng cao cấp và là niềm hãnh diện sâu xa của
ông. Cuối năm học thứ hai, khi chúng tôi sắp rời ban Khoa học Cơ
bản về trường ĐIện học chuyên môn, ông gặp riêng Công,
“Tôi định tái bản cuốn Giải tích nếu hè này anh giúp tôi hiệu
đính; chúng mình đứng tên chung.”
“Cám ơn thầy cho con cộng tác, nhưng con đang bận rộn nghiên cứu Phật
pháp,” Công trả lời không do dự.
***
Sau khi tốt
nghiệp, Công đi Hoa kỳ học cao học Điện toán, một ngành tương đối mới
mẻ, và tôi ở trong nước dạy học và sửa soạn luận án tiến sĩ kỹ sư
về truyền sóng. Xa nhau nửa vòng trái đất và nghiên cứu hai
lãnh vực khác biệt nhưng... ngựa quen đường cũ, chúng tôi trao đổi toán đố như trước.
Tôi phát biểu các hiện tượng
truyền sóng thành bài toán, và Công thách tìm các công thức lập lại
trong khoa Giải tích Số trị để thảo chương vào máy điện toán và
tính kết quả bằng số.
Tháng Tư năm 1975 bỏ nước ra đi, tôi trôi dạt về North
Dakota làm kỹ sư kế hoạch cho công ty tiện ích; Công đã ở Dallas từ
mấy năm trước, vừa học tiến sĩ vừa làm việc trong Nha Nghiên cứu Điện toán của hãng Texas
Instruments, một hãng điện tử lớn bậc nhất thế giới. Chúng tôi
nói chuyện qua điện thoại viễn liên hàng tuần, và mỗi kỳ nghỉ hè
tôi lái xe xuống Texas thăm bạn.
Công làm việc
mà hàng ngày tà tà xách cặp đi học, cuối tháng vào sở lãnh
lương. Qua các tạp chí kỹ thuật, tôi biết Công đang hoàn tất lý
thuyết nền tảng cho phương pháp thảo chương mới mà nhờ đó máy điện
toán “Dòng Dữ kiện” (“Dataflow” computer, tên do Công đặt ra) có thể thực hiện được. Các nhà
nghiên cứu bấy giờ gọi phát minh này – chính là hệ thống điều hành
của máy siêu điện toán ngày nay – là “Máy Điện toán Công” (“Công’s Computer”).
Một đêm hè năm 1978, xuống thăm Công tôi giúp bạn duyệt
lãm bài thuyết trình hôm sau Công trình bày với Hội đồng Quản trị
Texas Instruments. Tối hôm sau, không nghe Công đề cập tới cuộc họp
ban ngày, tôi dọ hỏi,
“Hôm nay thuyết trình ra sao?
“Cũng được...” Công miễn cưỡng trả lời.
“Sao mày được vinh hạnh mời ra Hội đồng Quản trị?”
“Bọn hắn trả tiền cho tau đi học PhD cốt để dùng kết
quả công trình nghiên cứu đó,” Công uể oải nói.
“Dĩ nhiên. Mình làm công, ăn cơm chúa múa tối ngày mà!”
“Bọn hắn cần biết dự án máy điện toán Dòng Dữ kiện có khả
thi hay không trước khi chấp thuận ngân sách chế tạo và đưa ra thị
trường.”
“Rồi mày nói sao?”
“Dự án thực hiện được, nhưng hiện tại tau bận chuyện riêng nên
không có thì giờ nghiên cứu thêm.”
“Sao bỏ qua cơ hội bằng vàng như vậy?”
“Mi thấy đó, tau đang nghiên cứu viết sách chứng tỏ Phật
giáo không những là tôn giáo dân chủ hoàn hảo mà còn là triết lý vô
cùng khoa học. Thì giờ mô mà lo chuyện bao đồng!”
Lặng người
nhưng tôi cố vớt vát,
“Hay là mày để ra vài tuần viết ra dự án nghiên cứu đó cho tao?”
“Để làm chi?”
“Tao thuê luật sư lấy bằng sáng chế. Cầm bằng sáng chế trong tay
là mình giàu to, thằng IBM không mua thì thằng khác cũng
giành mua. Nó không chế để bán thì cũng mua cất giữ cho thằng
khác khỏi chế. Sau đó, mày không cần đi làm, dành thì giờ
nghiên cứu đạo Phật.”
“Đừng xúi tau vướng vào Tam Chướng – Tham Sân Si, ba điều trở
ngại cho việc cởi bỏ oan nghiệt.”
Tôi nổi giận
lớn tiếng,
“Chính mày mới là Sân Si – giận và ngu tối. Riêng về Tham thì
đây không phải là tham lam lấy của người, kéo nhà người khác về làm
chuồng heo mình, mà là ‘tối đa hóa lợi nhuận’ theo thuyết kinh tế
của Adam Smith.”
“Kinh tế tư bản khiến người giàu càng giàu hơn, kẻ nghèo càng nghèo
thêm?” Công cười mỉa.
“Mày lầm rồi! Khi
mọi người được phép hưởng lợi nhuận do công sức của mình làm ra,
cái ‘Tham’ ấy là động lực khiến họ làm việc hăng say, cố gắng phát
minh sản phẩm tân kỳ và hữu ích, và không ngừng cải tiến phương cách
làm việc để có hiệu quả hơn và sản phẩm tốt và rẻ hơn. Nhờ cái ‘Tham’ Adam Smith, người
nghèo cũng được hưởng lợi ích mà mức sống cao hơn.”
Trở về đề
nghị của mình, tôi cố gắng một lần nữa,
“Bỏ qua chuyện lợi danh, hoàn tất dự án nghiên cứu là mày đóng góp kiến thức mới cho nhân
loại và giúp việc cải thiện đời sống của mọi người, giàu cũng như
nghèo.”
“Tau không màng thế sự; mi là phật tử lầm đường, đừng
ép tau tơ vương vào cõi trần tục,” Công nói chắc như đinh đóng
cột.
***
Hai tuần trước
khi tôi lên đường, trận bão tuyết đầu mùa đến sớm bất chợt, đi kèm
với cơn lạnh giá chưa từng có trong hơn ba mươi năm qua. Các tiểu
bang miền Trung-Lục địa chuyên về nông nghiệp và chăn nuôi bị ảnh
hưởng và chịu thiệt hại nặng nề. Hàng chục ngàn con bò bị
chết cóng, và hoa màu vụ mùa thu hư hại hoàn toàn.
Cảnh vật tiêu
điều khiến con đường Bắc-Nam quen thuộc trở nên dài lê thê. Qua
khỏi South Dakota đến Nebraska, những cánh đồng bắp chết khô thành rơm
rạ xám xịt liên tiếp nối đuôi nhau ở hai bên hàng trăm dặm
đường. Cuối ngày thứ hai, đến chặng cuối của đồng bằng trồng
bắp ở Kansas, tôi ngừng xe bước xuống ruộng, rưng rưng nước mắt nhìn
những trái bắp dài mang những hạt bắp đầy đặn nám đen nằm lẫn trong
lá và thân cây cháy khô.
Tôi không xót xa
cho các nông gia Mỹ vì họ được chính phủ trợ cấp, được mùa hay mất
mùa thì lợi tức vẫn ngần ấy. Năm được mùa, thị trường thặng
dư mà không bán được bắp thì chính phủ thu mua giữ trong kho dự trữ
và sau đó mang viện trợ cho các xứ nghèo. Năm mất mùa, không
những không có thực phẩm viện trợ mà giá thực phẩm tăng lên khắp
toàn cầu khiến cho các xứ nghèo càng không đủ tiền mua. Hậu
quả của trận thiên tai vừa qua là năm tới sẽ có thêm nhiều ngàn
người ở các nước Phi Châu chết đói vì thiếu ăn.
Trên quãng
đường còn lại, tôi chợt nhận ra sự khác biệt giữa Công và tôi, hai
Phật tử với hai lối suy tư khác biệt. Bạn tôi “kính trọng Tam
Bảo” – Phật, Pháp, và Tăng, tôi nghĩ đến “chúng sinh” – tất cả sinh
vật. Đối với tôi, Tam Bảo mà không phục vụ chúng sinh thì tôi
thà làm kẻ lầm đường.
Nguyễn Ngọc Hoa
16
Tháng Giêng, 2014
Đăng nhận xét