LÊ NGỌC CHÂU Nhân Tết Giáp Thìn 2024, Tản Mạn về RỒNG qua Ca Dao Việt Nam
Nhân Tết Giáp Thìn 2024, Tản Mạn về RỒNG qua Ca Dao Việt Nam
* Lê-Ngọc Châu (M_Ger)
Riêng kho tàng Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam không thiếu những câu nói về Rồng, điển hình:
Người khôn ở với người ngu bực mình.
Trong lãnh vực yêu đương, hãy nghe anh chàng văn hoa ví von
Rồng nằm bể cạn phơi râu
Mấy lời anh nói dấu đầu hở đuôi
Rồng giao đầu, Phụng giao đuôi,
Nay tui hỏi thiệt : Mình thương tui không mình?
Văn chương Việt Nam phong phú nên câu ca dao trả lời cũng rất văn hoa, trữ tình
Nhớ chàng như vợ nhớ chồng
Như chim nhớ tổ, như rồng nhớ mây...
Để
diễn tả cảnh vợ ngóng chồng, ca dao Việt diễn tả
Thế gian được vợ hỏng chồng
Có đâu như rồng mà được cả đôi
Bao giờ cá chép hoá long
Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa
Tình yêu, duyên phận đôi khi rất tình cờ, tình cờ nưng trữ tình như qua câu ca dao
Tình cờ anh gặp mình đây
Như cá gặp nước, như mây gặp rồng
Để rồi nhớ nhung lúc xa nhau cũng rất văn hoa
Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây
Như con chèo bẻo xa cây măng vòi
Có chồng thì phải theo chồng
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo...
Trăm năm ghi tạc chữ đồng
Dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai
Phận gái lấy được chồng khôn
Xem bằng cá vượt vũ môn hóa rồng
Một ngày dựa mạn thuyền rồng
Còn hơn chín tháng nằm trong thuyền chài
....
Rồng đến nhà tôm
Rồng bay phượng múa
hay
Cá chép hóa Rồng
Ngọc ẩn long tu
Xin được mở ngoặc thêm ở đây chút xíu để nói về Rồng (trích dẫn / tóm lược theo internet và mạn phép được diễn đạt theo văn phong học Việt Văn của một cựu học sinh ban Toán (Ban B) trước 1975 thời Việt Nam Cộng Hòa. Mong quý thưác giả hoan hỷ cho mọi sơ sót !).
Suốt quá trình Việt Nam bị đô hộ và sau đó phải "giao
lưu văn hóa với Trung Hoa", khái niệm Rồng của Trung Hoa mới du nhập vào
nước Việt Nam ta. Từ đó, người Việt mới có khái niệm Rồng như là một con vật
linh thiêng, trong hệ thống Tứ Linh: Long, Lân, Quy, Phụng và cũng từ đó, trong
ngôn ngữ, từ long hay Rồng mới gắn liền với cương vị đế vương, vua chúa, hay những
thực thể cao quý. Như một loạt từ sau đây:
Long nhan: mặt vua
Long sàng: giường vua
Long ngai: ngai vua
Long cổn, long bào: áo vua
Long châu, long thuyền: thuyền
vua...
Và hình ảnh tưởng tượng của Rồng cũng
đã chi phối cách mô tả ngoại hình các bậc vua chúa của nhà văn: râu rồng, mũi rồng,
đi nhẹ như nước, ngồi vững như non v.v...
Đó là trong ngôn ngữ và văn chương. Còn trong ngôn ngữ
và văn học dân gian, từ Rồng, hình tượng Rồng được dùng mở rộng hơn và không có
hệ thống. Nên đề cập về hình tượng Rồng, từ rồng trong ngôn ngữ và văn học dân
gian vì thế chỉ có tính chất phiếm luận.
Dấu ấn trong tâm thức người Việt Nam cũng được
diễn tả qua tục ngữ, thành ngữ, ca dao vì con Rồng là một hình tượng có vị trí đặc biệt trong văn hóa, tín
ngưỡng của dân tộc Việt Nam, từng là biểu tượng linh thiêng liên quan đến
truyền thuyết con Rồng cháu Tiên của người Việt. Các vị Vua Việt Nam xăm lên
đùi mình hình ảnh rồng để giữ truyền thống của cư dân ven biển. Đến đời Vua
Trần Anh Tông (1293-1314) mới chấm dứt tục xăm rồng trên đùi. Rồng tượng trưng
cho quyền uy tuyệt đối của các đấng Thiên Tử (bệ rồng, mình rồng). Rồng là hình
tượng của mưa thuận gió hòa, là vật linh thiêng đứng vào hàng bậc nhất trong Tứ
Linh Long, Lân, Quy, Phụng. Đặc biệt, hình tượng con Rồng Việt Nam tương
phản với hình tượng con rồng độc ác, tượng trưng cho cái xấu của các nước
phương Tây.
* Vài nét về hình tượng Rồng qua các
triều đại phong kiến Việt Nam
Hình tượng Rồng từ thời Hùng Vương đã được hình
dung là con vật thân dài, có vẩy như cá sấu, được chạm trên các đồ đồng. Qua
hơn 1000 năm Bắc thuộc, con rồng Việt Nam xuất hiện rõ nét dưới thời Lý. Hình
ảnh Rồng bay lên (Thăng Long) tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc,
được lấy làm tên cho mảnh đất đế đô. Rồng thời Lý tượng trưng cho mơ ước của cư
dân trồng lúa nên xuất hiện trong khung cảnh của nước, của mây cuộn. Rồng thời nhà
Lý mình dài như rắn, thân trơn nếu là con nhỏ, còn con lớn thì thân có vẩy,
lưng có vây. Hình tượng con rồng thời Trần có nhiều biến đổi so với thời Lý.
Rồng xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp sừng và đôi tay. Đầu rồng uy nghi,
đường bệ với chiếc mào lửa ngắn hơn. Thân rồng tròn lẳn, mập mạp, nhỏ dần về
phía đuôi, uốn khúc nhẹ, lưng võng hình yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng, khi
thì đuôi thẳng và nhọn, khi thì xoắn ốc. Các vảy cũng đa dạng. Có vẩy như những
nửa hình hoa tròn, nhiều cánh đều đặn, có vẩy chỉ là những nét cong nhẹ nhàng.
Rồng thời nhà Lê thay đổi hẳn. Rồng không nhất
thiết là một con vật mình dài, uốn lượn đều đặn mà ở nhiều tư thế khác nhau.
Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là cái mũi to.
Thân rồng lượn hai khúc lớn. Chân có năm móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn. Rồng
thời Lê tượng trưng cho quyền uy phong kiến. Cũng chính bắt đầu từ thời đại này
xuất hiện quan niệm tứ linh tượng trưng cho uy quyền của vương triều rồng đứng
đầu trong tứ linh. Ba vật thiêng kia là: Lân (tượng trưng cho sự thái
bình và minh chúa), Quy (tượng trưng sự bền vững của xã tắc) và Phụng
(tượng trưng cho sự thịnh vượng của triều đại).
Rồng thời Trịnh Nguyễn vẫn còn đứng đầu trong bộ
tứ linh nhưng đã được nhân cách hóa, đưa vào đời thường như hình rồng mẹ có bầy
rồng con quây quần, rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh lứa đôi. Con rồng thời
Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng. Rồng được thể
hiện ở nhiều tư thế, ẩn mình trong đám mây, hoặc ngậm chữ thọ, hai rồng chầu
mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ thọ… Phần lớn mình rồng không dài ngoằn mà uốn
lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược ra
sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư tử, miệng há lộ răng nanh. Trên lưng rồng có tia,
phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt chìa ra cân xứng hai
bên. Hình tượng rồng dùng cho vua có năm móng, còn lại là bốn móng.
Hiện nay hình tượng con Rồng tuy không còn tính chất thiêng liêng, tối
thượng nhưng vẫn được đưa vào trang trí cho các công trình kiến trúc, hội họa,
chạm, khắc nghệ thuật…
Trong mọi thời điểm nào, con rồng vẫn là một phần trong cuộc sống văn hóa
của người Việt.
Theo cách tính dân gian của người xưa, trong một
Giáp có 12 năm. Khởi đầu bằng năm con Chuột (Tí) và kết thúc bằng năm con Lợn
(Hợi). Qua thống kê ở một tài liệu khoa học gần đây về 12 con vật này cho thấy đây
là những con vật có tần số xuất hiện khá cao trên tư liệu thành ngữ, tục ngữ,
ca dao. Trong số này, chỉ có tên gọi các con vật như: Khỉ, Dê, có vị thế thấp
hơn, những con vật còn lại đều có tần suất xuất hiện cao.
Trong số 12 con vật được dùng vào hệ 12 Con Giáp
thì Rồng ở vị trí thứ 5. Rồng là con vật tuy chưa ai nhìn thấy diện mạo thật
của nó thế nào nhưng trong lịch sử và nghệ thuật, trong văn học và đời sống của
người Việt, Rồng là con vật xuất hiện nhiều hơn cả, xuất hiện một cách vừa thực
vừa hư, vừa gần, vừa xa, vừa giản dị lại vừa linh thiêng. Có thể nói Rồng là
một con vật huyền thoại. Hình tượng Rồng là một biểu tượng văn hóa, phương Tây
thường đối lập với sức mạnh "chính nghĩa" và cuối cùng bị sức mạnh
chính nghĩa đánh bại.
Con Rồng ở phương Đông nói chung, Việt Nam nói
riêng là hình ảnh đẹp, là biểu tượng của sự cao cả, thiêng liêng và sức sống
vĩnh hằng. Hình tượng con Rồng rất quen thuộc trong tâm thức người Việt. Người
Việt có tục thờ cúng Lạc Long Quân, có tục xăm mình bằng hình Rồng. Mỗi khi nói
đến “Con Rồng Cháu
Tiên”, người Việt Nam ta đều cảm thấy hãnh diện, tự
hào.
Trong suốt chiều dài tháng năm dựng nước và giữ nước, hình tượng Rồng đã
gắn chặt với đất nước Việt Nam, con người Việt Nam từ tên sông, tên núi, tên
đất, tên người. Nào là Vịnh Hạ Long – cảnh quan thiên nhiên được xếp hạng di
sản văn hóa thế giới; thủ đô nước Việt từ năm 1010 đến nay vẫn được gọi là đất
Thăng Long (Rồng bay). Con sông lớn nhất phía Nam đang chuyển tải phù sa, cấp
nước cho vựa lúa Nam Bộ được gọi là Sông Chín Rồng (Cửu Long Giang); có hàng
trăm địa danh gắn với tên Rồng trên khắp đất nước Việt Nam chúng ta.
Trong dân gian, Rồng tượng trưng cho thần linh và điềm lành, Rồng đi mây về
gió, có thể đem lại sự tốt tươi cho cây cối, muôn vật:
Rồng
trắng lấy nước thì mưa?
Vóc
rồng thì để hầu vua
Vải
thô, lụa xấu thì chừa cho dân
Truyền thuyết Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đã đi
vào ý niệm, tiềm thức đã làm cho người dân Việt tự hào mình là “con Rồng cháu Tiên”. Rồng đi vào trong tâm thức của người Việt
từ trò chơi trẻ con: rồng rắn lên mây. Rồng được chạm khắc trên các đình làng,
cổng xóm; trong Tranh Tết Đông Hồ, Hàng Trống mỗi dịp Tết đến Xuân về (theo internet, ngưng trích dẫn).
Rồng
vàng tắm nước ao tù
Người
khôn ở với người ngu bực mình
Tuy nhiên tư duy về Rồng trong thành ngữ, tục
ngữ, ca dao của người Việt cũng khá phức tạp, không phải lúc nào cũng thống nhất
trong các ý kiến về hình tượng đó. Để chỉ người giàu sang đến thăm người nghèo
hèn có thành ngữ: “Rồng đến nhà tôm”, còn khi con người thỏa mãn về mong ước cao
sang nào đó thì lại nói: “như Rồng gặp mây”.
Phê phán những thói ba hoa, dân gian ta cũng mượn Rồng để diễn tả:
Trong
lưng chẳng có một đồng
Lời
nói như rồng chúng chẳng thèm nghe
Từ ngữ trong tiếng Việt, kiểu kết hợp “Rồng – Phượng”
cũng như trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao thường được hiểu theo nghĩa tích cực
(positiv). Giống như người có kiểu
chữ viết phóng khoáng, không gò bó thì ứng với thành ngữ: “rồng bay phượng múa”.
Các kết hợp “rồng – mây”, “rồng – phượng”, “rồng
– vây” trong tiếng Việt đều được hiểu theo nghĩa tích cực, đẹp đẽ, được vận
dụng vào trong những bối cảnh thuận lợi, phát triển. Còn các kết hợp “rồng –
giun”, “rồng – liu điu” lại theo chiều hướng tiêu cực (negativ), hoàn toàn tương phản. Ví dụ nói đến tình cảnh chung đụng vợ
chồng mà một người chẳng ra gì làm mình bực bội lại có ý liên tưởng: “Rồng ở với giun”. Các kết hợp “Rồng – Phượng” có khi vẫn được dân gian dùng với ý nghĩa
phê phán: “chạm rồng trổ phượng” (ngoài
nghĩa đen còn có nghĩa phê phán sự tô điểm rườm rà thái quá !!!).
Nói cho cùng hình ảnh Rồng được người Việt Nam ta sử dụng khá đa
dạng nhằm diễn đạt các quan điểm, nhận thức, tư tưởng phong phú về đời sống:
Ăn như rồng cuốn
Làm
như cà cuống lội sông
Nhân dịp Xuân Giáp Thìn 2024, kính chúc đồng hương mọi chuyện đều hạnh thông như "CÁ GẶP NƯỚC - NHƯ RỒNG GẶP MÂY" (theo internet)!
Dân gian quan niệm, tản mạn về rồng như sau:
Cá gáy hóa rồng
Quan niệm này cũng được Ca Dao Việt Nam đề cập đến :
Mồng bốn cá đi ăn thề.
Mồng tám cá về cá vượt Vũ môn.
Vũ môn, tức cửa Vũ gồm có ba tầng. Ở Việt Nam ta cũng có điểm này và đó là nơi
mà người xưa tưởng là cá trải qua cuộc thi khảo sát về trình độ và năng lực. Nếu
vượt qua ba cấp Vũ môn thì sẽ hóa rồng (!)
Biết bao giờ cá gáy hóa rồng,
Đền công ơn thầy mẹ ẵm bồng ngày xưa
Phận gái lấy được chồng khôn,
Xem bằng cá vượt Vũ môn hóa rồng.
Lấy chồng thì phải theo chồng,
Chồng đi hang rắn, hang rồng, cũng đi.
Người đời nói Rồng nở từ trứng và ở
hang nhưng trong dân gian cũng có một quan niệm khác: rồng cũng sinh sản như rắn:
Trứng rồng thì nở ra rồng,
Hạt thông thì nẩy cây thông rườm rà.
Ngay cả về chuyện ăn cũng có thành ngữ: "ăn như rồng cuốn". Rồng cuốn tức là rồng hút, chỉ hiện tượng vòi
rồng trong tự nhiên, như cách tiên đoán về thời tiết:
Rồng đen uống nước thì nắng,
Rồng trắng uống nước thì mưa.
Về chữ viết, người văn hay chữ tốt thường được ca ngợi như
" Rồng bay Phượng múa ".
và "nói như rồng" là để khen tặng người có tài nói thao thao bất tuyệt:Tuy nhiên trái lại nếu một người mà
Trong lưng chẳng có một đồng,
Lời nói như rồng chúng chẳng thèm
nghe.
thì lời nói trở thanh vô giá trị.
Nhưng nên coi chừng, bao giờ cũng cần nói đúng thực chất, phù hợp với kiến thức
mà mình nếu không dễ trở thành khập khiễng: "nói những lời như rồng như rắn".
Thêm yếu tố rắn ở trên làm chuyển đổi tức khắc giá trị nội dung của câu nói:
Học chẳng biết chữ cua, chữ còng,
Nói những lời như rồng, như rắn!
Riêng trên phương diện giao tế, dân gian Việt Nam dùng thành ngữ: "rồng đến nhà tôm" để vừa bày tỏ sự khiêm tốn, nhún nhường của gia
chủ, vừa gián tiếp ca ngợi người khách quý. Nhưng có khi, đó cũng là cách mai mỉa:
Mấy đời rồng đến nhà tôm.
Tôi đến nhà chị không môn thì bầu.
Âu cũng là một lối giao tế thực dụng. Và quen thuộc nhất là Rồng chỉ thời vận. Thành
đạt Hạnh thông như là "rồng gặp mây".
Thường chỉ người thành đạt khoa cử:
"Như cá gặp nước, như rồng gặp
mây"
Nhưng nếu mất yếu tố thời vận thì chỉ là "Rồng
nằm ở cạn",
không còn vùng vẫy, múa may gì được, mà chỉ còn trơ
hình hài:
Rồng nằm bể cạn giơ râu,
Mấy lời anh nói giấu đầu hở
đuôi.
Rồng vàng tắm nước ao tù,
Người khôn ở với đứa ngu bực
mình.
Dễ thường mấy khi rồng mây được dùng để chỉ lứa đôi, vì những hình tượng khác
quyến rũ hơn, như: mận - đào, loan - phượng, yến - oanh, gió - trăng v.v...
nhưng điều đó cũng có:
Mấy khi Rồng gặp mây đây,
Để Rồng than thở với mây vài lời.
Nữa mai Rồng ngược mây xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời Rồng Mây.
Xa hơn nữa, "lời rồng mây"
cũng là lời hẹn thề, lời nước non hay là lời hứa thủy chung.
Một kiểu nói khác bày tỏ sự ước ao cao sang, biểu hiện một tâm lý hưởng thụ :
Một ngày dựa mạn thuyền Rồng,
Còn hơn chín tháng nằm trong
thuyền chài.
Cách nói trên tất nhiên bị phủ định bằng một suy nghĩ chín chắn hơn và xác thật
hơn:
Chớ tham ngồi mũi thuyền rồng,
Tuy rằng tốt đẹp, nhưng chồng
người ta.
Và quả thật, dân gian chúng ta đã xét
đoán đúng giá trị, nhìn đúng thực chất con người, không lệ thuộc những thứ
trang sức phù hoa trang hoàng sang trọng:
Dù ngồi cửa sổ chạm rồng
Chăn loan gối phượng, không chồng
cũng hư
Nhưng sâu sắc và không kém chua chát là lời cảm thán sau đây:
Khen ai khéo dựng bình phong,
Bên ngoài long phượng, trong
lòng gạch vôi!
Hoặc nhằm để mỉa mai, phê phán lối sống thiếu trách nhiệm, đánh lừa người và đánh lừa cả chính mình ca dao Việt Nam chúng ta cũng không bỏ qua nên có câu:
Nói
những chữ như rồng như rắn
Rồng đã trở thành biểu tượng văn hóa, một biểu
tượng thiêng liêng gắn với tâm thức về cội nguồn dân tộc Việt Nam. Trong thành
ngữ, tục ngữ, ca dao, Rồng lại càng thể hiện độc đáo nhiều ý nghĩa, mang biểu
tượng của sự cao cả, thiêng liêng và tồn tại mãi mãi ...
- Nguồn u.a.: http://www.nuiansongtra.com/index.php?c=article&p=4640
Đăng nhận xét