CAO XUÂN HUY THÁNG BA GÃY SÚNG
THÁNG BA GÃY SÚNG
Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính,
lính tác chiến đúng nghĩa của
danh từ, và những
điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một
câu chuyện, câu chuyện thật một
trăm phần trăm được kể lại
bằng chữ.
Tôi viết những điều mà những thằng
lính chúng tôi đã trực tiếp tham dự nhưng
không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những chuyện chiến trường thì hình như chẳng
có ai dự.
Trong lứa tuổi của tôi, lứa tuổi dưới
mười khi theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam, ngoại trừ những người có
thân nhân ruột thịt bị giết bởi việt cộng, còn hầu hết, có bao nhiêu người thực sự căm thù việt cộng đâu,
vì rõ rệt một điều là từ lứa tuổi tôi trở
xuống, có đứa nào biết việt cộng
là cái gì đâu.
Cũng y như lứa tuổi dưới mười khi theo cha mẹ qua Mỹ từ năm 1975
ở đây bây giờ. Cũng thù ghét việt cộng vậy, nhưng chỉ là cái thù gia truyền, cha mẹ thù
ghét thì mình cũng thù ghét theo thế thôi, chứ chẳng có gì là sâu đậm cả. Cho đến
khi lớn lên, đầu óc đã tạm
đủ để suy xét thì khổ một nỗi, hệ thống tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa lại có giá trị
phản tuyên truyền nhiều hơn là tuyên truyền. Cho nên
khi vào quân đội, tôi tình nguyện vào đơn vị tác chiến thứ thiệt vì căm thù kẻ địch
thì ít mà vì cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, vì bị kích
thích bởi những cảm giác mạnh
của chiến trường thì nhiều.
Tuy nhiên, vì ở một đơn vị thường xuyên tác chiến, cùng gian nguy, cùng sống chết với nhau nên tôi đã gắn
bó với bạn bè, đồng đội
trong đơn vị như với anh em ruột thịt. Tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi. Tôi bình thản chấp nhận mọi thói hư tật xấu của
thượng cấp và thuộc cấp, và chính tôi cũng có quá nhiều
thói hư tật xấu.
Nhưng, khi hai ông xếp lớn của tôi là Đại Tá Lữ Đoàn
Trưởng và Trung Tá Lữ Đoàn Phó bỏ Lữ Đoàn gồm bốn Tiểu Đoàn tác chiến và các đơn vị
phụ
thuộc tổng cộng vào khoảng trên dưới bốn ngàn người trong cơn quẫn bách để chạy lấy thân
thì lòng căm hận của tôi đột nhiên
bùng dậy. Tôi giết việt cộng
không gớm tay nhưng không bởi lòng
căm
thù vì giữa chúng tôi và việt cộng đã có lằn ranh
rõ rệt, hai bên chiến tuyến hẳn hòi, hễ cứ thấy mặt nhau
là giết, dùng mọi mưu mọi cách để giết nhau. Còn đằng này, vừa
mất niềm tin vừa tủi
nhục vì những người mình vừa kính trọng vừa phải tuân lệnh một cách
tuyệt đối.
Làm Thuyền Trưởng thì phải
sống chết theo tàu, làm Đơn Vị Trưởng thì phải sống chết theo đơn vị. Tôi muốn nói đến tinh thần trách nhiệm của người chỉ
huy. Người có quyền hành mà không có trách nhiệm nào có khác gì kẻ phản bội. Chúng ta thua không phải vì kẻ
địch mạnh mà vì trong hàng ngũ chúng
ta có quá nhiều kẻ phản bội và hèn nhát. Chính vì lòng thù hận sự hèn
nhát và vô trách nhiệm của cấp chỉ huy nên hình
ảnh và diễn tiến
những ngày cuối cùng trước khi cả Lữ Đoàn tan rã và bị bắt bởi khoảng hơn một Đại Đội du kích việt cộng vào nửa cuối tháng Ba năm
1975 đã như một cuốn phim nằm in trong trí nhớ của tôi, chỉ cần một cái ấn nút là được chiếu lại một cách rõ nét với đầy đủ những suy nghĩ và phản ứng của tôi, với
từng diễn tiến nhỏ mà tôi đã trải
qua.
Tôi ôm cái kỷ niệm đau đớn và
tủi nhục này cả chục năm nay, qua những năm tù đày, qua những ngày tháng lang thang ở trại tỵ nạn, qua đến Mỹ, tôi đọc được lời
tuyên bố của một ông tướng
cũ nào đó trên báo đại khái
‘’Để mất nước là tội chung của
mọi người, làm lớn thì tội lớn, làm bé thì tội bé’’.
Tôi nghĩ ngay đến một điều là những thằng đâm sau lưng chiến sĩ có tội, và
những thằng chiến sĩ đưa
lưng cho xếp của mình đâm cũng có tội luôn. Điều này đã là cái ấn nút để tôi kể lại
câu chuyện này.
Điều tôi muốn
nói trong quyển sách này là không ai là không quay lại nhìn chỗ mình
vừa ngã, và cũng không ai là không
quay lại nhìn đống phân mình vừa thải. Ngã là lỗi
của chính mình, và phân có thối cũng là phân của mình, vậy mà tại sao cả
chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay nhìn
lại cái lỗi đã làm cho
mình ngã lên ngay trên đống phân của mình, mà chỉ có toàn những lời chửi bới và đổ lỗi cho người khác, can đảm lắm cũng chỉ dám nhận một cái lỗi chung chung ‘’lớn lỗi
lớn, bé lỗi
bé’’ đúng theo cái kiểu ‘’quốc gia hưng vong thất phu hữu trách’’.
Thằng thất phu còn có lỗi thì còn ai mà
không có lỗi, tôi cũng đành có lỗi vậy.
Tôi không nhớ câu này của ai: ‘’Cái đám quân thần của triều đinh cũ chẳng có gì phải ngại cả, vì khi có quân có quyền trong tay họ còn chẳng làm được trò trống gì, thì bây giờ, chỉ còn trơ lại có mỗi cái thân giá áo túi cơm, hỏi rằng họ sẽ làm được gì hơn ngoài cái giá và cái túi’’.
Đâu phải đất nước ta là một bàn cờ để hễ đánh thua ván này, xóa đi xếp quân làm
lại bàn khác mà tướng vẫn là tướng, quân
vẫn là quân. Đâu phải những con xe,
con mã, con chốt đã chết đi đều có thể
dựng đầu dậy để làm lại
một trận mới.
Trí đã không mà dũng cũng không, chỉ có mỗi cái tài dở
dở ương ương là sử dụng một cách bừa bãi cái dũng của người khác đến
nỗi phải bỏ cả đất nước mà chạy, đánh lừa để bỏ hàng triệu thằng dám chiến đấu tới cùng vào trong những trại
tù đỏ, vậy mà vẫn còn dám chường mặt ra đoi tiếp tục làm cha mẹ dân thì quả là quá lắm lắm. Cái dĩ
vãng
thối tha và hèn nhát thì dù cho người đương thời có thể bỏ qua, nhưng lịch sử đâu có tha thứ. Vẫn
cái chính danh là chống cộng nhưng cái ngôn của các ông trước kia làm xếp lớn đã không thuận rồi, bây giờ phải để cho lớp người
mới. Với tư thế
mới,
họ mới là những người thuận ngôn. Danh chính ngôn
thuận mới có thể thắng được việt cộng, khôi phục lại được đất nước. Những con chốt thấp cổ
bé miệng, những thằng
bị đè đầu sai khiến ngày xưa và những người
mới lớn bây giờ mới
có quyền nói và mới là người có tư cách làm.
Quyển sách
này không hề là một tiểu thuyết mà là một hồi ký. Bởi
vì tôi chưa từng là một người cầm bút và tôi cũng không biết cách sắp xếp
câu chuyện như thế nào. Tháng
Ba thì mọi người đã rõ, còn Gãy Súng,
tôi muốn nói lên một điều đau lòng cho những thằng lính cầm súng, khẩu súng mà không có đạn thì giá trị không bằng một khúc củi mục, chính tôi đã dẫn Đại Đội xung phong lên chiếm mục tiêu
mà chỉ bắn bằng mồm. Súng của chúng tôi có phải là đã bị bẻ gãy không khi mà vẫn có thể tiếp tế đạn cho chúng tôi để chúng tôi chiến đấu? Ai đã bẻ gãy súng của chúng tôi ? Tôi đặt chữ Gãy Súng cho
quyển sách này là như vậy.
Và tôi gọi Tháng Ba Gãy Súng là hồi ký vì tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về
những điều tôi viết, tất cả
những địa danh, những tên người, tên đơn
vị, tất cả những diễn tiến
đều là thật, thật một trăm phần trăm. Tôi không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào, chắc chắn là tôi đã quên khá nhiều chi
tiết, và với cấp bậc và chức vụ thấp kém của
tôi, chắc chắn là có rất nhiều dữ kiện
mà tôi đã không được biết. Tôi
viết lại hoàn toàn sự thật những
điều mắt thấy, tai nghe, những điều
tôi đã nhận lệnh và đã thi hành.
Nếu Tháng Ba Gãy Súng là tiểu thuyết thì tôi lại phải thêm một câu màu mè
đại khái ‘’những nhân vật và những sự việc đều do sự
tưởng tượng của tác giả, mọi sự trùng
hợp chỉ là ngẫu nhiên ngoài ý muốn...’’,
trong khi tôi chỉ có
một điều ngoài ý muốn là tôi đã không đủ khả năng để viết tất cả những điều
tôi phải viết.
Cao
Xuân Huy
***
Tôi và thằng bạn lang thang khắp các quán nhậu, quán bia ôm trong thời
gian Thành Phố đang xôn xao về chuyện mất Ban Mê Thuột. Vừa
mới xong vụ Phước Long thương
khó, bây giờ lại đến Ban Mê Thuột ‘’khó thương’’.
Không biết lần này những nơi ăn chơi của trai thanh
gái lịch Sài Gòn có bị
đóng cửa ba ngày như lần trước không ? Nhưng cả
chuyện mất Ban Mê Thuột lẫn
chuyện đóng cửa những nơi du hí chẳng
ăn nhậu gì đến bọn tôi cả.
Cho dù tất cả những quán bia ôm bị đóng cửa,
bọn tôi vẫn có thể lê la những quán
cóc lề đường. Hơn nữa, lúc này đã vào nửa cuối tháng lương mà ngày vui chắc chắn sẽ còn rất dài
nên chuyện ngồi quán cóc lại
là điều hợp lý và hợp tiền.
Thành ra với bọn tôi, nhậu cái gì cũng là nhậu. Chúng tôi cần nhậu và sau đó xuống xóm tìm chị
em ta, thật giản dị và dễ
tính. Quán cóc và các xóm chị em ta bảo đảm là
không bị ảnh hưởng một tí gì về chuyện
Thành Phố phải để
tang cho một địa danh nào đó vừa mất. Tôi cũng vậy. Phước Long mất, Ban Mê Thuột
mất, Pleiku, Kontum đang chuẩn bị mất
tôi xem như ‘’nơ-pa’’, bởi vì tôi sống và lớn lên ở Sài Gòn nên tôi đã thừa hưởng trọn vẹn cái thói thản nhiên, cái tính phớt tỉnh Ăng-lê hơn người Ăng-
lê của dân Sài Gòn. Thành thử một địa danh nào đó dù lớn dù nhỏ, vừa mất đi hay
vừa chiếm lại được nếu
không ăn nhậu gì đến chuyện làm ăn
của
mình, chuyện mất mát người thân của mình hay ảnh hưởng đến chuyện ăn chơi của mình thì dĩ
nhiên không phải là chuyện của mình. Tiếng súng ở ngoài tầm tai của mọi người mà. ‘’Tôi vẫn sống,
tôi vẫn ăn và tôi vẫn thở...’’.
Tôi đã trú đóng một thời
gian
ở Ban Mê Thuột, cũng có một
ít kỷ niệm lăng nhăng về tình cảm ở Ban Mê Thuột. Nhưng
tôi không có tài sản, tôi không có thân nhân đang ở hay đang đánh đấm ở Ban Mê Thuột, và những nơi ăn chơi của tôi ở Sài Gòn không bị ảnh hưởng bởi chuyện mất Ban Mê Thuột, nên một năm mười hai
tháng, chỉ có mấy ngày là được ăn nhậu thoải
mái, không phải lo bất cứ
chuyện gì, vậy thì tại sao tôi phải bận tâm về những chuyện
không phải của mình ? Mất hay
không mất Ban Mê Thuột thì đã sao?
La cà ở các quán nhậu và sau đó xuống xóm đã là một chương trình bất di bất
dịch trong những lần phép ở
Sài Gòn. Đã có lần tôi viết thư cho một
người bạn kể về những lần phép và
những ngày phép của
tôi: ‘’Ở Sài Gòn, suốt ngày tao chỉ ngồi và
nằm, ngồi với rượu và nằm với gái, vì
cả năm sau đó tao không còn được ngồi và nằm thoải mái nữa, và chưa chắc tao đã có thêm được một lần
phép kế tiếp. Lý do thật giản dị
là mỗi buổi sáng mở mắt ra mới biết là mình đã sống thêm
được một ngày’’.
Thời gian này tôi chỉ tiếc
một điều là Rex vừa chiếu một xuất đặc
biệt phim Exorcist để lấy tiền giúp
đồng bào chạy loạn; giá vé thật đắt nhưng
đã hết nhẵn từ chiều, kể
cả vé chợ đen đắt gấp ba bốn lần giá vé chính thức. Tôi
đến trễ nên không mua được vé. Không
hiểu cả năm nữa tôi mới được về, chắc gì đã đúng vào dịp phim
này được chiếu lại. Tôi tiếc không phải vì tôi đã không được đóng góp chút
đỉnh tiền theo kiểu trước mua vui sau làm việc nghĩa để cứu giúp đồng bào mình, mà vì phim này được quảng cáo hấp
dẫn quá, tôi muốn được xem đã từ lâu rồi. Thôi thì
lại nhậu.
Đến ngày hết hạn trên giấy phép
tôi ra trình diện hậu cứ ở Vũng Tàu để gia hạn, vì tôi đã lên máy bay rời Huế chậm hơn ngày ghi
trong giấy phép.
Đường Sài Gòn-Vũng
Tàu lúc này hơi mất an ninh nên những chuyến liên lạc
giữa hậu cứ Tiểu Đoàn với Bộ Tư Lệnh ở Sài Gòn thưa hơn trước. Trong
khi chờ đợi quyết định của Tiểu Đoàn Trưởng ở hành quân, tôi la cà ở
Bãi Trước để tránh phải nghe chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu nhau của những bà vợ sĩ quan ở khu gia
binh của hậu cứ.
Ăn nhậu ở đây quá phí tiền nên không đợi Tiểu Đoàn Trưởng gia hạn giấy
phép, tôi biết chắc chắn là tôi
sẽ không được gia hạn và cũng không
đợi để
đi theo chuyến liên lạc, tôi tự động coi như mình đã
hợp lệ
chuyện kéo dài ngày phép, tôi lên
xe đo về Sài Gòn sau một chầu nhậu say mèm với
bọn đệ tử ở hậu cứ. Thủ hai
quả lựu đạn trong túi quần cho chắc ăn, nhưng vừa bước chân lên xe tôi đã ngủ như
chết. Về đến Sài Gòn tên lơ
xe còn phải lay một hồi lâu tôi mới tỉnh.
Tôi lại liên miên sáng xỉn chiều say tối nằm quay với gái, mặc dầu đã hết cả
những ngày phép tự gia hạn. Nhưng nhằm nhò gì, tôi vẫn còn những ngày phép tự ký nữa vì tôi là một thằng có biệt tài trễ phép. Tùy cơ ứng
biến, tôi có trăm phương nghìn kế để trễ
phép mà không bị phạt. Tôi đã từng đi
hai mươi tám ngày trong khi phép chỉ có bốn ngày, ra
đơn vị cũng chỉ cười trừ.
Lần đi phép này, tôi đã không định trễ, nhưng vì tôi đã bị Tiểu Đoàn Trưởng giữ lại
đơn
vị đến qua Tết ta trong khi giấy phép của tôi
đã được gửi về hậu trạm trước Noel, nên không lý do gì mà tôi không trễ phép để bù lại sự thiệt thòi vô lý đó.
Suốt bảy năm lính tôi chỉ được ăn Tết lén ở Sài Gòn một lần vào đầu năm 70 vì tôi tình nguyện đi học khóa Rừng Núi Sình Lầy ở Dục Mỹ để câu giờ kiếm cái Tết.
Để trả thù vì bị
mất khơi
khơi một cái Tết huy hoàng
ở Sài
Gòn tôi tính phải trễ phép một
tháng tức là phải ở Sài Gòn một tháng rưỡi mới hả dạ. Tôi được phép thưởng đặc biệt mười lăm ngày,
cho nên đã hết những ngày phép tự gia hạn, tôi còn đến
một tháng phép tự ký nữa. Thiếu một thằng sĩ
quan tại một Đại Đội lúc nào cũng có
sẵn hai, ba thằng sĩ quan dự bị thì đâu có nhằm nhò gì, mợ
đi lấy chồng thì chợ vẫn vui
mà.
Nhưng chợ đã
không vui.
Chiều 15 tháng Ba, tôi gặp
Thiếu Úy Bé Quân Cảnh vừa từ
Bộ
Tư Lệnh hành quân về, cho biết Tiểu Đoàn tôi đang đụng lớn. Tiểu Đoàn tôi nằm ở
cây
số 23 về phía Bắc trên Quốc Lộ 1 tính
từ Huế. Khu vực
trách nhiệm của Tiểu Đoàn từ bờ Bắc
sông An Lỗ ra đến căn cứ Hòa Mỹ. Sát sông An Lỗ là hai làng Cổ Bi và Hiền
Sĩ, nơi đã xảy ra những trận đánh lớn sát Quốc Lộ, và hiện nay vẫn
đang bị đặc công và du
kích quấy phá, nhưng chỉ là quấy phá chứ không có gì đáng ngại. Sát căn cứ Hòa
Mỹ là làng Đồng Lâm, một cái làng mà hầu như từ trưởng
ấp trở xuống đều là
việt cộng. Phía đông là bãi cát mênh mông, có một ít dân
Quảng Trị chạy loạn về tạm cư
lập
thành một vài xóm nhỏ, tương đối an toàn. Còn về phía Tây của vùng trách nhiệm, nơi đối diện thực sự với Việt cộng, nơi
mặt đối mặt, có chạm tuyến,
có điểm
đóng quân, nơi phía tây này có một trọng điểm là Đồi 51. Từ Đồi
51, chúng tôi có thể quan sát được những
cuộc chuyển quân, kiểm soát được những hoạt động tại các vị trí của việt cộng, và cũng
từ
Đồi 51, việt cộng có thể kiểm soát được các vị trí đóng quân của chúng tôi, kể cả một đoạn Quốc Lộ 1. Việt cộng có thể dễ dàng
liên lạc với bọn du kích nằm trong làng Đồng
Lâm, nằm ngay sát Quốc Lộ và ngay
bên cạnh căn cứ Hòa Mỹ.
Nếu Tiểu Đoàn
tôi đụng lớn, chắc chắn là đụng
tại Đồi 51. Tính theo vòng thay
đổi điểm đóng quân trong Tiểu Đoàn thì
Đại Đội tôi đang nằm ở
Đồi 51.
Ban Mê Thuột mất không ăn nhậu gì đến tôi. Người ta đang bỏ Pleiku, Kontum cũng chẳng nhằm nhò gì
đến tôi. Nhưng Đồi 51, một ngọn
đồi nhỏ không có tên, chúng tôi phải lấy cao độ của
nó để đặt cho nó một cái tên cho dễ gọi, nơi mà
không một người Sài Gòn nào nghe nói đến, nơi mà dù có mất nó cũng không đáng để cho người ta
xê
dịch cái kim hay đổi màu bút chì mỡ trên bản đồ chiến sự
trong những báo cáo hằng ngày, nơi mà bản
tin chiến sự hằng ngày của Đài Phát Thanh Quân Đội
cũng
không buồn đọc, nơi mà báo chí hằng
ngày cũng coi như không đáng đăng bằng tin xe cán chó, thì chính nó, cái đồi trọc lóc, nhỏ
xíu và lùn tịt nằm ở
cực Bắc Việt Nam Cộng Hòa, lại là điều rất
quan trọng đối với tôi, đã làm tôi bỏ
ăn bỏ nhậu, đã làm tôi đang phè phỡn phải tìm
mọi cách ra đến nơi càng sớm
càng tốt. Nó mạnh hơn những ngày phép
trả thù của tôi, nó hạ đo ván tất cả
những lý do, những cái mánh tôi đang sắp
xếp để qua mặt Tiểu
Đoàn Trưởng, vì đó là ngọn
đồi
mà Đại Đội tôi đang trấn đóng, nơi mà anh em bè bạn, thầy
trò của tôi không biết thằng sống
thằng chết ra sao.
Sáng 16 tháng Ba, tôi lên trình diện
Bộ Tư Lệnh, phòng Tư cho biết ít ra phải cả tuần
nữa mới có được tên trong danh sách của chuyến
bay ra Đà Nẵng, Phi Trường Phú Bài đã không sử dụng được
vì nằm trong tầm pháo của việt cộng.
Lúc ăn điểm tâm tại Thị Nghè sáng ngày 17 tôi đã năn nỉ Thượng Sĩ Tuấn,
người phụ trách lập danh sách cho các chuyến bay của Sư Đoàn để được có tên trong chuyến bay ngày
18.
Chiều 17 tháng Ba, tôi chào gia đinh để đi. Bà ngoại
ôm tôi khóc. Mẹ tôi không muốn tôi đi. Và cậu tôi tuy là em của mẹ tôi nhưng
ông mới chính là bố tôi vì ông đã nuôi
tôi từ ngày còn đỏ hỏn cho đến khi tôi bước chân vào đời khuyên tôi nên đào ngũ
vì tình hình theo ông biết là Mỹ sẽ bỏ rơi
Việt Nam. Ông nói:
- Tình hình lúc này không còn được như trước
nữa đâu con ạ! Những người
Mỹ cậu quen đã lục tục về
nước gần hết, chỉ còn ít người
ở lại để thu xếp công việc,
cậu chắc là rồi họ cũng sẽ
đi nay mai gì đó thôi. Tốt nhất là con nên ở nhà để còn lo
liệu cho gia đinh. Nhà mình chỉ có cậu với con là đàn ông thôi.
Tôi tin là ông nói thật. Dĩ nhiên là ông không nói hết những điều ông biết nhưng ông cho tôi một lời khuyên
gói trọn tất cả những điều ông cần nói. Sự quen biết của ông đủ để bảo đảm những điều ông nói nên tôi tin là ông thực sự
muốn tôi đào ngũ ở nhà
để tránh phải húc đầu vào những trận
đánh vô ích. Nhưng tôi không nghe lời ông. Chắc chắn là Mỹ
không bỏ Việt Nam, bao
nhiêu xương máu và của cải của
Mỹ đã đổ xuống đây
rồi. Và hiện giờ
Mỹ chỉ
không tăng viện trợ chứ
Mỹ đâu có cắt hết viện
trợ. Chúng tôi đã chẳng phải
chiến đấu theo kiểu nhà nghèo từ sau
ngày ngưng bắn rồi ư. Còn một điều nữa
là bạn tôi, anh Phát làm ở Hạ Viện, cho biết là sẽ cắt đất hoặc ở
An Lỗ hoặc ở
Lăng Cô.
Hơn nữa, còn đồng
đội tôi, còn đàn em tôi, còn
danh dự tôi. Tôi sẽ ăn nói thế nào với
họ khi mà tôi, thằng Huy Râu của
Tiểu Đoàn 4 đào ngũ khi đơn vị đụng trận.
Riêng chuyện trễ phép trong khi Đại Đội bị
tấn công ở Đồi 51 đã không
đủ nhục hay sao, không lẽ bây giờ tôi lại bỏ mặc tụi nó, đào ngũ để lo cho thân mình vì chuyện
khó tin chưa xảy ra. Không, cậu tôi nói thật nhưng chỉ là điều ông căn
cứ vào những tin tức từ bạn bè, người quen của ông, còn tôi, tôi không thể nghe lời ông vì tôi
không muốn là một thằng
hèn. Tôi nói với ông:
- Sống chết sướng khổ gì cũng có số hết cậu ạ. Cháu
không muốn phải ngượng mỗi lần gặp lại
bạn bè, đồng đội.
Tôi không phải là một người
hùng, nhưng tôi cũng không phải là một người hèn. Tôi chỉ là một người lính. Lính của
một binh chủng chuyên môn đánh trận và chỉ nhận những người
tình nguyện, tôi phải xứng
đáng với màu mũ tôi đang đội, màu áo tôi đang mặc, và hơi cá nhân một chút, tôi phải xứng đáng với cặp lon tôi đang
đeo...Nhưng tôi cũng không phải là một người
lính gương mẫu, đúc khuôn theo những điều được huấn
luyện trong quân trường, thi hành đúng 8 điều, 10 điều tâm
niệm của mấy ông Chiến Tranh Chính Trị đẻ
ra mà chính mấy ông ấy lại không bao giờ thi hành. Tôi là một thằng lính ba gai, cờ bạc, rượu chè, trai gái đủ cả nhưng đánh giặc cũng rất tận tình.
Chưa một ai, thượng
cấp cũng như thuộc cấp, phải than
phiền về tôi trong những trận đánh.
Trưa 18 tháng Ba, ra đến Đà Nẵng,
tôi phải ngủ lại một đêm vì không có
xe ra Huế. Bộ Tư Lệnh Hành Quân đang chuyển từ Hương Điền Huế
vào Căn Cứ Non Nước Đà Nẵng. Xe cộ đang dành ưu tiên để chuyển các Tiểu Đoàn của Lữ Đoàn
258 và 369 vào Đà
Nẵng thay cho các Tiểu Đoàn
Dù rút về Sài Gòn.
Ngoại trừ Phi Trường Đà Nẵng rất đang chộn rộn về những đống quan tài phủ
cờ được đưa về Sài Gòn và những người dân
Pleiku, Kontum được di tản bằng máy bay đến, nhịp sống của những người dân trong Thành
Phố hình như không có gì thay
đổi. Tôi và mấy người lính cùng Tiểu Đoàn lại lang thang trong Thành Phố để tìm
các quán nhậu và xóm chị
em ta. Cà phê, xi
nê,
vũ trường vẫn đông đảo tấp nập. Buổi
tối chúng tôi còn kéo nhau đến xem hội chợ tại một Trường Nữ
Trung Học nhân dịp
lễ kỷ niệm một nữ anh hùng nào đó trong lịch sử mà tôi không nhớ. Người ta vẫn ăn diện, người ta vẫn chơi bời, người ta vẫn vui vẻ thoải
mái, đường xá vẫn rất nhộn nhịp. Sinh hoạt bình thường này
đã làm yên lòng những người
dân vừa từ Quảng Trị và Huế chạy vào.
Căn cứ chuyển vận vẫn tối tăm, hôi hám và bẩn thỉu như thuở nào, vẫn
nhộn nhịp và ồn ào vì chưa bao giờ được yên tĩnh. Những ông già mệt mỏi và những người
đàn
bà xốc xếch
đang vật vã khóc quanh những quan tài phủ cờ được mang để
ở đây không biết từ lúc nào, và cũng không biết đến bao giờ mới được mang đi.
Máy bay đã không còn chỗ cho
những chiếc quan tài này, và đường thủy
cũng chỉ nhận mỗi ngày một số rất hạn chế. Có cả xác của những người lính của Tiểu Đoàn
tôi đã nằm đợi ở đây bốn, năm ngày. Và thân nhân của họ ở đâu
miệt Lục Tỉnh cũng đã ra đến, xác của họ phải được
mang đi gấp vì họ chết ít ra cũng đã hơn một tuần,
không hiểu thứ tự
ưu tiên của căn cứ được sắp xếp thế nào mà xác họ vẫn còn để đây.
Và điều này cũng làm tôi thắc mắc
là từ ngày Sư Đoàn tôi ra Quảng Trị, chúng tôi vẫn có những chuyến bay riêng để tiếp
tế,
tải thương, tải xác...tại sao bây giờ
chúng tôi lại phải tải xác qua hệ thống chuyển vận của căn cứ này ? Tôi được yêu
cầu đứng ra can thiệp nhưng chẳng đi đến đâu
cả, chỉ nhận được những lời hứa, mà lời
hứa thì giá trị khỉ gì trong lúc này!
Chúng tôi lại kéo nhau ra cái
quán nằm xế cổng căn cứ nhậu tiếp.
Lại nhậu, mặc dầu mấy thằng chỉ
còn một cây thuốc Capstan đem theo để đổi rượu.
Tại quán nhậu, tôi gặp mấy người lính Lôi Hổ đóng
tại Đà
Nẵng, họ cho biết nửa khuya
này họ phải nhảy vào Ban Mê Thuột. Tôi nghĩ
bụng, quả là chó má khi cố
tình giết thêm một ít người nếu đúng như họ phải nhảy vào Ban Mê Thuột. Hy vọng điều này không đúng với sự thật. Quyết định thí quân hay quyết định sai lầm của một cấp chỉ huy
có thể giết chết hàng đơn vị lớn cũng không đáng trách,
nhưng quyết định thảy một
toán lính vào một nơi mà hàng Sư Đoàn không
chống giữ nổi, kéo theo cả một
Quân Đoàn phải rút chạy thì cái chết của họ phí quá. Ai là người chịu trách nhiệm về
những cái chết kỳ cục vô
ích này ? Lính cũng là người
chứ đâu phải đồ chơi cho những
ông xếp lớn!
Trưa 19 tháng Ba, tôi ra đến Huế. Sinh hoạt ở đây rất vội vã, vội
vã chứ không ồn ào. Hình như người
dân ở đây đã quá quen với những
lần
phải bỏ nhà bỏ cửa
chạy lấy người, và hình như những người chuyên gây ra chuyện ồn ào đã bỏ chạy từ trước rồi. Những người nhà giàu đã vào Đà Nẵng hoặc Sài Gòn, những
người trung lưu cũng đã vào Đà Nẵng trú thân, cái vội vã chỉ xảy ra ở những người buôn bán
nhỏ, hoặc ở những người còn cố nán lại ở Thành Phố để kiếm thêm chút
‘’cháo’’.
Tôi cũng vội vã không kém. Tôi phải mua ít đồ lặt vặt
để đi gấp ra Tiểu Đoàn trong buổi chiều để còn kịp về đến Đại Đội trước khi trời tối. Tôi không
thể đợi đến ngày hôm sau đi theo chuyến tiếp tế
vì Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh tôi phải ra hành
quân ngay trong ngày bằng mọi giá. Vả lại, tôi cũng không thích nhìn Thành Phố
Huế đang trên đà giãy chết này nên ra hành quân cho êm chuyện.
Xuống xe tại sân Tiểu Đoàn, tôi gặp một
Thiếu Tá rất lạ
mặt đang đứng với Tiểu Đoàn Trưởng
ở cửa lều Ban Ba. Tôi trình diện.
Ông Thiếu Tá lạ hoắc đó tên là
Thành cũng mang bảng tên màu đỏ của Tiểu Đoàn. Ông bắt tay tôi và hỏi Tiểu
Đoàn Trưởng:
- Ông sĩ quan này đây hả ?
Nghe câu này, tôi biết chắc là hai người đã nói chuyện về tôi, và dĩ nhiên không phải là nói tốt. Nhằm nhò gì! Tiểu Đoàn Trưởng không trả lời, quay sang nói
với tôi:
- Đụ
mẹ, ông về Đại Đội liền
bây giờ.
- Đại
Đội tôi nằm đâu, Thiếu Tá ?
- Đụ
mẹ, không biết, ông đi cho khuất mắt tôi đi!
Tiếng chửi thề của ông rất nhỏ nhưng tôi biết ông chửi thề vì thấy môi ông mấp
máy trước khi nói. Tôi chào và quay đi với một chút thích thú, đâu phải thằng nào cũng làm cho ‘’Hitler’’ chửi
thề
được, dù chỉ chửi
lẩm
bẩm trong miệng. Ông đuổi tôi
đi ngay lập tức, tức là tôi không phải trả lời ông về lý do trễ phép, dĩ nhiên như
vậy tôi đâu có bị phạt. Ra đến Huế, hậu trạm đã cho tôi biết Đại Đội bị ‘’banh ta lông’’
ở Đồi 51 không phải là Đại
Đội tôi,
như vậy, cái gánh nặng trong người tôi đã được
trút bỏ, chỉ còn mỗi cái
gánh nhè nhẹ là bị phạt này bây giờ
cũng được tháo bỏ nốt.
Trung Úy Xuân
Đại Đội Trưởng Đại Đội
chỉ huy cho tôi biết là Thiếu Tá Thành
sẽ thay thế Thiếu Tá Toàn làm Tiểu Đoàn Trưởng, hẳn là hai ông đã bàn giao cả cái ba gai của tôi. Đại Úy Phó đang tập
sự làm Trưởng Ban Ba để đi với Thiếu
Tá Toàn qua Tiểu Đoàn 18, Đại Đội 3 của Đại Úy Hiếu đã qua Tiểu Đoàn 14 trước, còn Đại
Đội mới thành lập của
Đại Úy Chiêu
nay trở thành Đại Đội
3 đã
‘’banh’’ mất nửa Đại Đội
tại
Đồi 51, Thiếu Úy Sáng Đại Đội Phó chết cùng với
lính, trong số chết có thằng
Hiếu, tên cao bồi ruột của tôi.
Khi thành lập Đại Đội mới,
tôi chắc mẫm là qua làm Đại Đội Trưởng nên đã đưa Hiếu qua trước để khi tôi qua khỏi bị rắc rối giấy tờ, nhưng cuối cùng Đại Úy
Chiêu làm Đại Đội Trưởng và Thiếu Úy Sáng làm Đại Đội
Phó,
tôi gửi Sáng thằng Hiếu, đâu ngờ
tôi đã gửi thằng Hiếu cho cái chết.
Tôi cũng được biết đáng lẽ Đại Đội 4 tôi lên nằm Đồi 51 theo đúng vòng luân phiên nhưng vì thiếu Đại Đội Phó là tôi nên Đại Đội 3 đã lên thay. Như vậy, chuyến
đi phép của tôi đã cứu tôi và
cứu nửa Đại Đội của
tôi, nhưng chuyến đi phép của tôi đã làm chết oan Sáng và nửa Đại Đội
của Sáng. Đồi 51 đã được
Đại Đội 2 lấy lại
sau đó một ngày, giải thoát được một Tiểu Đội còn bám lại và lấy lại toàn bộ vũ khí bị
mất, chỉ thiếu có bộ phận máy nhắm của một khẩu súng cộng đồng, đồng thời tịch
thu được khá nhiều vũ khí. Xác lính thiếu
mấy
cái được kể như mất tích. Xác Thiếu Úy Sáng cởi trần và không có thẻ bài, được nhận diện bằng cái ống quần chật cố hữu và cái khóa thắt lưng đặc biệt, loại chỉ có khung
mà không có mặt. Sáng và tôi ở hai đơn vị khác nhau, học cùng một Khóa ở Rừng Cấm,
Trung Tâm Huấn Luyện của Sư Đoàn, cùng về Đại
Đội một ngày, tuy mỗi thằng chỉ huy
một Trung Đội nhưng thường đi cặp với nhau trong những trận ủi bãi.
Hai thằng tôi còn là một cặp tri kỷ về nhậu. Sáng, tôi và Thiện đã đi đơn vị
khác được mệnh danh là ba cái nắp nhạo. Sáng
đeo lon Chuẩn Úy hơi lâu trên cổ bốn năm mà không vì một lý do nào hết, là một Trung
Đội
Trưởng kỳ cựu nhất Tiểu
Đoàn, hơn ba năm nên vừa lên Thiếu Úy vài tháng đã được làm
Đại
Đội Phó. Cuộc
đời binh nghiệp của Sáng khá lận đận mặc dầu là một người rất
tôn trọng kỷ luật chứ
không thuộc loại mất dạy như tôi. Bây giờ lên lon, lên chức liên tục dù rằng đã trễ,
tưởng rằng sự nghiệp kaki sẽ khá hơn chút đỉnh, nào ngờ lương Thiếu Úy chưa được lãnh, hồ sơ chức vụ Đại
Đội
Phó chưa điều chỉnh xong thì đời Sáng đã xong.
Khi địch tràn ngập vị trí phòng
thủ ở đỉnh đồi, Sáng đã xin Pháo Binh bắn thẳng vào đầu mình, không khóa, không mã, không ngụy, không ám danh đàm thoại gì hết trên hệ thống truyền
tin, tiếng Sáng ngắn gọn sau
một
tiếng chửi thề: ‘’Đụ
mẹ, nó đông quá, chụp lên đầu tao!’’
Pháo đã chụp lên đỉnh đồi và hai chiếc máy bay
cũng nhắm thẳng đỉnh đồi mà dội.
Cái chết thật anh hùng nhưng cái
chết
thật vô danh, đã đành. Cái sống anh hùng của cả một Tiểu Đội
vẫn bám chặt, vẫn
chiến đấu trên ngọn đồi đã bị địch
tràn ngập cho đến khi được giải
cứu,
đã chỉ được nhắc nhở đến như một tin tức bình
thường. Có vô tình quá không, mặc dù ai cũng hiểu một vài điều khích lệ lúc này, một chút cử chỉ quan tâm lúc này còn giá trị hơn một triệu hành động tuyên
truyền chiến tranh chính trị. Tôi thắc mắc không hiểu Tiểu Đội
anh hùng này là người hùng riêng của Tiểu Đoàn 4 hay họ cũng
là anh hùng của cả binh chủng, của cả quân đội. Chắc chỉ
có
những ông xếp lớn chết hoặc sống hơi ‘’ngon’’ một chút mới
đáng là anh hùng, còn những thằng cỡ Thiếu Úy Sáng, cỡ Tiểu Đội cố thủ trên Đồi 51 này thì là
‘’cái mẹ gì’’. Quân Đội không thiếu những anh hùng cỡ là ‘’cái mẹ
gì’’ mà thành ra thiếu anh hùng một cách trầm trọng. Tôi sực nhớ lại một trong những
người là chiến
sĩ xuất sắc thuộc Tiểu Đoàn tôi về dự Đại Hội Chiến Sĩ Xuất Sắc ở Sài Gòn năm 73
là người quanh năm suốt tháng ở hậu cứ, hầu như suốt cuộc đời nhà binh chưa hề
nghe một tiếng súng bắn
ngược.
Hoan hô những người
hùng. Tôi hỏi Trung Úy Xuân:
- Đại
Đội tôi nằm ở đâu ông ?
- Chỗ cũ,
đến đường rầy quẹo
trái.
Tôi ra khỏi chỗ đóng quân của Ban Chỉ Huy Tiểu Đoàn, băng ngang Quốc Lộ đi dọc
lên phía Bắc, qua Chợ
Đông Hòa cũ, mặc dù hôm đi phép tôi còn ngồi ở góc chợ
uống bia chờ xe đò, nhưng
bây giờ chưa đầy một tháng vắng mặt, tôi đã phải gọi là cũ vì nó
chỉ còn trơ ra những cái sạp cháy dở và những tấm vách nằm ngổn ngang đầy những dấu đạn đại bác. Tôi quẹo trái vào con đường đất đỏ
dẫn vào phía núi.
Con đường nhỏ dẫn vào chân núi
này rất quen thuộc với tôi nhưng bây giờ lạ
hẳn. Ngay từ căn nhà đầu tiên, quán nhậu của mẹ con Cô Giáo Hương đã không còn nguyên vẹn, mái tôn đổ
ụp xuống làm văng tung tóe những tấm ván thùng đạn pháo binh được đóng làm vách, căn nhà bên cạnh, tiệm hớt tóc miền quê cũng
không còn cái cọc nào đứng nguyên. Suốt một dọc,
những căn nhà ven chợ này đều
có chung hình dạng tan nát của cái chợ.
Càng vào
sâu, nhà cửa càng tan hoang, dấu vết của những đợt pháo kích khủng khiếp.
Qua hết khu ‘’thị
tứ’’ ven chợ, băng qua một vũng sình lớn, tôi đến
khu trong. Gọi là khu trong vì có đám sình ngăn cách với
khu buôn bán bên ngoài chứ thực ra chỉ có lèo tèo vài căn nhà lụp sụp để ở. Khu trong còn
nguyên vẹn.
Tôi đến gần, một Bà
Sư từ trong nhà đi ra, gọi tôi hỏi:
- Răng
eng đi giờ ni mà đi có một miềng ?
Câu hỏi làm tôi sững người. Mặt trời
đã lặn, tuy còn thấy rõ mặt người nhưng chỉ
là ánh sáng phản chiếu
mà đường vào đến Đại Đội tôi còn xa. Bây giờ tôi mới
chợt để ý là khu này không còn người dân nào, vì nhà cửa cháy hết đã đành, mà
tình hình lúc này không còn phải là
tình hình của những ngày tôi chưa đi phép. Nhìn
xuống
khẩu súng, tôi nổi gai ốc khắp người, súng tôi không có đạn.
Bằng động tác rất tự nhiên, tôi kê khẩu súng lên túi đạn bên hông, dĩ
nhiên túi đạn cũng rỗng đứng nghiêng
người để Bà Sư không thể nhìn thấy chỗ lắp băng đạn
của khẩu M-16 tôi cầm trên tay đang
rỗng
tuếch. Tôi trấn
tĩnh rất nhanh.
- Có lính ra đón tôi. Tại sao bà lại ở đây có một
mình ?
- Tui tu hành mà
eng. Eng đi cho cẩn thận
chứ mấy hắn thường ra giờ ni nớ. Tôi
bước đi, trong đầu không còn nghĩ đến Sáng, không còn nghĩ đến Hiếu,
không còn nghĩ đến Hùng đến hèn gì nữa mà chỉ còn nghĩ
đến
mình. Tôi đã quá cẩu
thả
để không hỏi rõ tình hình, để không lấy vài băng đạn đem theo, để không gọi
máy về Đại Đội gọi lính đi đón. Sự cẩu thả này không
thể chấp nhận được. Cái lỗi này chỉ
cần một chút ‘’xui’’ là không bao giờ còn vấp phải lần thứ hai, vì chắc chắn không
còn lần thứ hai nào nữa để mà vấp
phải. Tôi bước đi, hấp tấp nhưng phải cố làm ra vẻ như mình không
hấp tấp, mắt đảo thật nhanh, láo liên
như một thằng ăn cắp, nhưng lại phải rất kín đáo nhìn lại phía sau, súng không có đạn mà lúc nào cũng phải nắm lấy tay cầm của
khẩu súng trong tư thế sẵn sàng bắn, nhưng dĩ nhiên phải giấu phía gắn băng đạn quay vào người. Cứ trong tư thế mâu thuẫn như vậy tôi đi. Trời
không lạnh mà tôi run, trời
không nóng mà tôi toát mồ hôi. Bàn tay phải đã
ướt nhẹp mà tôi không dám rời tay cầm của khẩu súng để lau. Tôi phải giữ đúng
tư thế
sẵn sàng tác chiến với hy vọng may ra đánh lừa được tên du kích nào lấp ló ở đâu đó chăng. Tôi cố gạt phắt ý nghĩ là nếu thằng du kích nào đó có súng thì cho dù tôi
có ở
tư thế ‘’hiên ngang’’ như thế nào đi nữa thì nó vẫn có thể ‘’tỉa’’ tôi một cách dễ
dàng. Nhưng với tư thế
này của tôi, biết đâu nó có thể nghi rằng đàng sau tôi đang còn một tốp lính nữa mà tôi chỉ là thằng xích hầu, nếu chỉ có một mình chắc chắn
nó sẽ không dám bắn. Một
cú tháu cáy cạn láng mà
tôi chỉ có đôi bạt mặt.
Sự bình
tĩnh gần như chỉ còn là phản ứng
không phải của tôi,
được tăng lên theo sự rút ngắn của đoạn đường, nhưng lại giảm xuống theo sự mất dần
của ánh sáng. Lời nói dối Bà
Sư
khi nãy trở thành niềm hy vọng
to lớn tôi mong chờ, tôi chờ được gặp
tốp lính đang trên đường
đi đón.
Đến đường rầy là ngã ba đường thì cũng
lại là ngã ba đường của tôi, ‘’chỗ
cũ’’ của Đại Đội tôi và ‘’tới đường rầy quẹo trái’’ là hai địa điểm ngược đường
với nhau, quẹo trái thì không thể nào đến chỗ cũ, mà đi băng qua đường rầy thì lại sai với lời chỉ
đường. Tôi chửi thầm Trung Úy Xuân đã
chỉ đường cho tôi một cách bá láp, tôi
chửi thầm tôi đã không kịp nhận định cho
rõ trước khi rời Tiểu Đoàn, tôi cũng chửi thầm luôn
Đại Đội Trưởng đã biết tôi về đến
mà không cho lính đi đón.
Tôi phân vân nhưng không được phép chần
chừ, quyết định chậm phút nào là kéo dài sự nguy hiểm thêm phút nấy. Tôi không dám lên chỗ cao để nhìn cho xa, vì ánh sáng lúc này không đủ cho tôi nhìn
xa và bóng tối lại quá đủ cho thân hình tôi in rõ nét trên nền trời. Chỉ còn chừng ba mươi thước là đến đúng chỗ rẽ, suy tính của tôi không được phép lâu hơn ba mươi bước đôi của một người bước vội. Tôi không còn lựa chọn giữa hai
nơi
‘’chỗ cũ’’ và ‘’đến đường rầy quẹo trái’’ nữa, mà tôi chỉ còn được phép chọn lựa lối đi theo địa thế. Nếu đi băng qua đường rầy tôi sẽ phải đi băng qua mấy cái đồi
trọc nằm thoai thoải, dễ chết quá, tôi sẽ là một mục tiêu rất rõ cho những tay súng nhắm bắn từ sát mặt
đất. Còn nếu quẹo trái, tôi sẽ phải
đi vào
con đường mòn thật nhỏ, quanh co và nhiều bụi rậm, cũng dễ chết lắm vì khu này đã
không được ‘’ổn’’ từ những
ngày tôi chưa đi phép, huống hồ bây giờ.
Tôi quyết định quẹo
trái vì chưa chắc hiện giờ
lối nào ‘’ổn’’
hơn lối
nào. Nếu đi trên đồi, hai bên gặp nhau thì thằng chết chỉ là tôi, nghĩa là kể cả trường hợp tôi thấy địch trước, vì tôi không có lấy một viên
đạn...làm thuốc. Còn nếu quẹo trái, ngộ
nhỡ có đụng đầu nhau, kể cả trường hợp tôi thấy địch sau, tôi vẫn còn
có thể lủi vào bụi rậm
hai bên đường để mà ‘’chẩu’’.
Tôi đi rất cẩn thận, nghe ngóng và
dọ
dẫm ở những khúc quanh và chạy thật
nhanh ở những khúc thẳng. Đến
bụi rậm cuối cùng, tôi dừng lại quan sát ngọn đồi trước mặt. Con
đường lượn lên dốc thoai thoải vòng quanh chân đồi, bên phải trống
trơn, một vài bụi
rậm nhỏ không đủ che giấu cho tôi đi qua được chân đồi vì bên trái con
đường, lên cao một chút trên sườn
đồi đang có lố nhố mấy người đứng
ngồi nhấp nha nhấp nhô. Bằng
mắt
với ánh sáng và khoảng cách lúc này tôi không thể phân biệt được họ là ai, mình hay
địch. Không phân biệt được bằng mắt thì phân biệt
bằng tai vậy, tôi cố gắng lắng nghe họ nói chuyện. Dĩ nhiên
với khoảng cách này thì
chỉ tiếng được tiếng mất, nhưng tôi đâu cần nghe câu chuyện của họ, mà tôi chỉ cần
phân biệt cái giọng của
họ, nếu giọng Nam thì thật
‘’đã đíu’’, mọi chuyện sẽ êm xuôi
tại
đây, còn nếu giọng Bắc nhà quê hoặc giọng trọ trẹ miền Trung thì...đằng sau
quay, và chắc chắn là tôi sẽ có một đêm
ngủ vật vờ trong bụi để làm mồi
cho lũ muỗi rừng và...đợi sáng tính
sau.
Tôi vận
dụng tất cả mọi khả năng, dồn hết sức sống của
tôi vào đôi tai để chờ đợi, nhưng
ngoài tiếng côn trùng và tiếng gió,
tôi không nghe được một
tiếng nói nào của mấy người trên sườn
đồi
kia. Tuy nhiên, tôi bình tĩnh thật lạ lùng, cái bình tĩnh của thằng lính khi ra trận đã biết rõ mục tiêu,
biết rõ từng vị trí của địch,
đã nghe tiếng
súng nổ, không còn sự hồi hộp lo sợ của sự chờ đợi những viên đạn đầu
tiên của địch thay cho lệnh khai hỏa ghim vào thân thể mình trước khi kịp nghe tiếng súng, không còn là chuyện may rủi trời kêu ai nấy dạ của những viên đạn bắn sẻ
nữa, mà là cái bình tĩnh của một sự việc đã được tính toán, đúng thì sống mà sai thì...húp cháo rùa.
- Đù má, lâu dzậy mảy ?
Tiếng nói đột ngột, không đủ
lớn nhưng đủ lọt vào tai tôi. Xong rồi! Tiếng chửi thề
nghe sao dễ thương lạ. Tiếng
chửi thề đã chấm dứt sự
nguy hiểm bao quanh tôi. Bọn này hẳn
phải là lính Đại Đội tôi, đang
gài mìn tại Tiền Đồn cấp Tiểu
Đội.
Tôi ung dung trở ra đường mòn, bằng điệu bộ rất thoải
mái, súng vác vai vừa đi vừa huýt gió ‘’cờ bay cờ bay oai hùng...’’ để
tránh sự bất ngờ có thể gây ra ngộ
nhận. Mấy người lính dừng tay nhìn tôi, và khi đi vòng theo chân đồi không thấy ai
lên tiếng hỏi thăm, chắc là tối quá tụi nó không nhận ra mình, tôi lên tiếng:
- Đứa
nào đó bay ?
Không nghe tiếng trả
lời,
tôi hỏi tiếp:
- Đại
Đội 4 phải không ?
- Đụ
mẹ, đi đâu về trễ vậy cha nội ?
Tôi bực mình, lính
tráng thế này thì hỏng rồi, tôi xẵng giọng:
- Đại
Đội nằm đâu ?
- Ủa, phép ra há mảy, đi tới
là gặp liền. Mà đi lẹ lẹ
nghe cha nội, coi chừng tụi nó gài
‘’đồ chơi’’ rồi đó.
- Có
máy không, báo là tao về
tới, khoan gài.
- Không.
Tiếng không cụt ngủn và có vẻ hơi xẵng. Tôi vừa bực mình vừa buồn cười
liên tưởng đến một chuyện cũ. Năm 72, tôi bị thương, trong khi nằm ở Tiểu Đoàn đợi
trực
thăng tải thương, có một tay cũng bị thương và đợi trực thăng như tôi xin tôi
điếu thuốc và hỏi một câu làm quà:
- Đụ
mẹ, mày cũng bị thương hả ?
Tay lính
này chắc chắn chưa tới hai mươi, mặt mũi
còn non choẹt và điệu bộ đầy vẻ
dê cỏn buồn sừng. Tôi trả lời
ậm ừ. Nó hỏi tiếp:
- Mày Trung Đội mấy ?
- Trung Đội
2.
- Tao cũng
Trung Đội 2, mày Tiểu
Đội mấy ?
- Tao ở PC Trung Đội.
- Đụ
mẹ,
mày tà lọt mà cũng bị thương hả ?
- Ờ, tao Trung Đội Trưởng. Thằng bé bẽn lẽn:
- Ủa, ông thầy, em đâu có biết.
Dĩ nhiên là nó không biết tôi, và cả tôi cũng không biết nó. Nó là một thằng
lính mới tò te, rất tò te vừa được đưa từ Trung Tâm Huấn Luyện Rừng Cấm ra Tiểu Đoàn,
Ban Một Tiểu Đoàn phân phối cho Đại Đội, Thường Vụ Đại Đội chia cho Trung Đội, Trung Đội Phó nhận rồi đưa
ra Tiểu Đội. Trung Đội đang
‘’ủi bãi’’, nó về đến Trung
Đội buổi chiều, buổi tối tôi bị
thương, nó đâu thể biết Trung Đội Trưởng là ai được.
Còn một chuyện nữa, cũng năm 72. Tiểu Đoàn Trưởng
lúc đó là Trung Tá Quang. Trên hệ thống truyền tin ông là Quang Trung, nhưng trên cửa miệng của
những thằng lính chúng tôi thì ông là Quang Bóp Cổ. Nghe tên Quang Bóp Cổ phải hiểu ngay ông là nhân vật như thế nào trong đơn vị. Tiểu
Đoàn nằm ở Thôn Bích La
bên cạnh bờ sông Vĩnh Định, Đại Đội tôi nằm ôm Tiểu Đoàn. Một hôm việt cộng chen vào giữa Đại Đội 2 và Tiểu Đoàn. Sáng hôm sau chúng tôi đánh bật việt cộng
ra ngoài đồng trống, thôi thì lính
tráng tha hồ bắn những cái bia di động. Quang Bóp Cổ cũng lấy M-79 ra bắn loạn xà ngầu. Tụi tôi thấy Quang Bóp Cổ thằng nào cũng né, dạt ra một nơi. Chuẩn Úy Chiếm lúc đó đang đi OJT trong Đại Đội, thấy một
thằng mặc áo thun ba lỗ bắn M-79 dở ẹc, anh chàng đi tới vừa giựt khẩu súng vừa chửi
thề:
- Đụ
mẹ, bắn như cái con cặc mà cũng đòi bắn, đưa đây tao!
Đó là những mẩu
chuyện ngộ nhận, nhưng
trường hợp tôi bây giờ lại
khác. Trong toán lính này ít nhất cũng phải có một thằng biết tôi, không kể thời gian
làm Trung Đội Trưởng, tôi đã làm Đại Đội Phó Đại Đội 4 này ít ra cũng đã hơn hai năm rồi. Tại
sao ngay cả tên chỉ huy cũng
không nhận ra tôi ? Hay là...
Tôi chạy thật nhanh, lần này thì chạy
thật chứ không còn giả vờ gì nữa, để kịp
về đến Đại Đội trước khi mìn và lựu đạn gài chặn lối
đi.
Tôi chạy một mạch
gần hai trăm thước tới
chân đồi Đại Đội, thấy mấy người lính đang từ trên đồi đi xuống, tôi đi
ngược lên. Khi tới ngang họ, tất cả
dừng lại tránh lối cho tôi đi lên, họ
nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên, tôi nhìn họ cũng rất
ngạc nhiên, tất cả những
khuôn mặt đều lạ. Tôi hỏi:
- Đại
4 phải không ?
- Ừa, Đại
4.
Một người lính từ trong lều trên đồi
bước ra hỏi vọng xuống:
- Gì đó bay?
Tôi bỏ toán lính, đi tiếp
lên đồi. Toán lính nhìn nhau rồi
nhìn tôi, rồi lại nhìn nhau. Khi tôi đi qua người lính gác, đi
tới người lính đứng trên đồi, họ mới
tiếp tục đi xuống. Người lính đứng trên đồi hỏi vọng xuống là ông Thượng Sĩ già.
Tôi nhìn kỹ bảng
tên, bảng tên màu hồng. Té ra đây là Đại Đội 4 của Tiểu
Đoàn 7. Rõ chán!
- Thượng Sĩ cho tôi gặp
Đại Đội Trưởng.
Người lính già trố mắt nhìn tôi, chắc chắn là không hiểu gì cả, bảo tôi đứng đợi rồi chui vào cái lều lớn ở giữa sân. Ông ta không hiểu nhưng tôi hiểu là mình đã
đến lầm đơn vị, và việc của tôi ngay lúc này là phải gặp Đại Đội Trưởng ở đây để nhờ
liên lạc với Đại Đội tôi cho người
đến đón. Nguy hiểm có thể đã hết, nhưng mệt thì
còn nhiều. Ông Thượng
Sĩ
trở ra, tay cầm đèn
được thắp bằng pin của máy PRC-
25, một người nữa ra theo, tôi nhận ra người đi sau
là Minh, bạn tôi.
- Ê Minh, cho tao
gặp Đại Đội Trưởng mày.
Ông Thượng Sĩ lại trố mắt
nhìn tôi thêm một lần nữa,
ông ta không thể hiểu tôi là cái giống gì, tôi không đeo lon. Tuy nhiên ông ta không nói tiếng nào, lặng lẽ bỏ đi
khi nghe Minh nói với tôi:
- Đụ mẹ, mày làm cái con
cặc gì mà tới đây giờ này, vô đây phê pháo cái đã, mọi chuyện tính sau.
Tôi theo Minh vào
lều nhưng sốt ruột, lại
hỏi:
- Tao gặp Đại
Đội
Trưởng mày đã, phê pháo mẹ gì.
- Phê pháo đã mà, ổng đang bận.
- Ủa, bộ mọi
chuyện Đại Đội Trưởng mày làm hết hả ?
- Đâu có,
Đại Đội
Phó làm chứ.
- Vậy ổng bận cái gì ?
- Bận tiếp
khách.
- Mẹ kiếp,
té ra mày là Đại Đội Trưởng
à ?
- Chứ còn
thằng con cặc nào vô đây!
Vừa uống cà phê tôi vừa kể cho Minh nghe chuyện vừa qua, Minh nhìn tôi
cười:
- Đụ mẹ,
mật
mày lớn mà mạng mày cũng lớn, lóng
rày tụi nó ra hà rầm.
- Lớn cái con củ cải, tao biết chó đâu đó, đến lúc biết đã ngồi cha nó trên lưng
cọp rồi.
Tôi nhờ Minh liên lạc với Đại Đội
tôi, nhưng vì khác Tiểu Đoàn nên không có
tần số để liên lạc, tôi đành phải xin ít
đạn và mấy quả lựu đạn
để tiếp tục...du lịch.
Minh cho mấy người
lính đi theo tôi. Về đến chỗ cũ của Đại Đội, Đại Đội tôi không
còn đóng ở đấy, thay vào đó là một
Toán Tiền Đồn thuộc Đại Đội
Trinh Sát của Sư Đoàn-Viễn Thám cũ. Tôi cho lính của Minh về và nhờ một người lính Trinh Sát đưa
tôi về gặp Trung Đội Trưởng
của họ.
Người Trung Đội
Trưởng này là một sĩ quan còn rất trẻ mà tôi không
quen nên anh ta nói chuyện với tôi một cách dè dặt. Tôi phải moi tất cả giấy
tờ có trong người như thẻ căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ
và cả tờ giấy phép có chữ ký của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cho anh ta
xem. Tôi chỉ nhờ anh ta mỗi một
điều là báo cáo và cho người
dẫn tôi về gặp Đại Đội Trưởng của anh ta.
Lại muốn gặp
Đại Đội Trưởng!
Tôi nghe rất rõ tiếng ông
Đại Đội Trưởng, tôi biết là Đại Úy Lực, phát ra từ ống liên hợp của máy truyền tin.
- Đụ mẹ, không tin thằng
nào hết, giấy tờ giả thiếu
chó gì. Ông cho tôi biết nó người Bắc hay người
Nam.
Tức cười, lúc nãy tôi đã dùng cách phân biệt Bắc Nam để phán đoán ta hay
địch, bây giờ tôi
lại bị người khác
dùng cùng một cách để đánh giá tôi là ai.
Hỏng bét rồi, tôi là một thằng Bắc Kỳ trăm phần trăm, không sai một ly ông cụ
nào, từ giọng nói đến những tiếng tôi đang dùng đều là Bắc Kỳ đặc.
- Ông này Bắc Kỳ nhưng
trông cũng có vẻ lính mình.
- Ông cho người
mang thằng đó về đây cho tôi.
Mang tôi đi tức là tôi bị tước súng và áp giải như một thằng tù binh. Mẹ kiếp,
thằng này chứ có phải thằng nào khác đâu, đâu có chuyện tước súng tôi một cách
dễ dàng như vậy được. Bỗng nhiên tôi nổi giận:
- Này, đừng
có làm cái trò sỉ
nhục nhau như vậy chứ Thiếu Úy! Anh ta cho một người lính dẫn tôi về Đại
Đội
Trinh Sát.
Đại Úy Lực không tiếp tôi. Ông ta để tôi đứng ngoài sân với người Thượng Sĩ
Thường Vụ, tiếng
ông ta hỏi vọng ra từ trong
lều:
- Anh ở đơn vị nào ?
- Đại
Đội 4 Tiểu Đoàn 4.
- Chức vụ
gì ?
- Đại
Đội Phó.
Tiếng ông
ta dịu lại:
- Đại
Đội Trưởng anh là ai ?
- Tôi không phải là tù binh để phải đứng ngoài trời này khai lý lịch vọng vào lều
cho Đại Úy. Tôi chỉ nhờ
Đại Úy liên lạc với Đại Đội tôi cho lính đến đón tôi về.
- Đụ
mẹ, liên lạc đâu có khó, nhưng
tôi phải biết anh là ai chớ!
- Đại
Đội Trưởng tôi là 369. Đại Úy chỉ cần nói là 520 đang ở chỗ Đại Úy. Chừng hai phút sau, ông ta nói vọng ra không phải với tôi mà với ông Thượng
Sĩ. nhớ).
- Ông cho dẫn người này ra chỗ toán của thằng...
(tên người này tôi không
Thượng Sĩ Thường Vụ đi gọi người. Lúc này Đại Úy Lực mới từ trong lều chui
ra, ông ta tới bắt tay tôi:
- Thằng Gắt, Đại
Đội
Trưởng tôi cho người đi đón
ông lâu rồi, tôi cho người dẫn ông tới đó.
Tôi cám ơn rồi đi theo người lính dẫn đường. Toán lính đi đón đang ngồi đợi tôi ở
ngay chỗ Đại
Đội tôi đóng cũ, vị trí của
Toán Tiền Đồn Trinh Sát, nơi mà tôi và mấy người lính của Minh đã
đến. Phải chi tụi nó đến sớm hơn một chút hoặc phải chi tôi ngồi chơi với Minh lâu hơn một chút thì đâu đến nỗi phải đi lòng vòng và phải khai lý
lịch với bọn ‘’vịt tiềm’’
này.
Trung Sĩ Khang cho tôi biết là họ phải băng ngang làng Đồng Lâm ra đón tôi
ngoài Quốc Lộ, sợ tôi đi qua làng một
mình chắc chắn sẽ bị ’’xé phay’’ liền.
Đợi hoài không thấy, họ phải đi dọc Quốc Lộ về Tiểu Đoàn tìm
tôi, gặp Trung Úy Xuân nói tôi đi về chỗ
Đại Đội đóng cũ, sau đó Đại Đội
Trưởng cũng gọi máy bảo
họ về chỗ này đợi tôi.
- Đại
Đội nằm đâu, mày ?
- Sau làng Đồng Lâm. Mấy hôm nay mình ăn pháo lia chia!
- Có thằng nào bị gì không ?
- Có mỗi một trái lọt vô vị trí,
banh một cái lều còn thì rớt cách mình cả trăm
thước. Có điều ban ngày mình không dám căng lều, sợ tụi
nó thấy.
Bọn tôi đi tắt đường ruộng về đến Đại Đội, lính đổi gác cũng đã đến ca áp
chót.
Đến sáng, tức là ngày 20 tháng Ba, Tiểu Đoàn gọi tôi về
để gắn lon. Tôi mượn
bộ quần áo ‘’ngựa’’ của Trung Sĩ Nhất Đăng, Thường Vụ Đại Đội, may đè tên tôi lên
bảng tên, rồi đi theo toán lính đi lãnh tiếp tế băng qua làng Đồng Lâm ra đến Quốc
Lộ. Tôi lội bộ về Tiểu Đoàn.
Tôi và Thiếu Úy Điểu, Phụ Tá Ban Ba Tiểu Đoàn được
gắn lon cùng một lúc.
Thật khôi hài khi Đại Bàng 816, tức Hitler,
tức Tiểu Đoàn Trưởng, gắn lon Trung Úy lên vai Điểu, ông khích lệ khuyên nhủ đủ điều, lại còn bắt tay và vỗ vai thân mật nữa. Còn
tôi, hình như độc nhất vô nhị trong lịch sử gắn lon của quân đội, ông vừa gắn
lon lên vai tôi vừa chửi. Tôi đứng nghiêm, tay phải
đưa
lên trán trong tư
thế
chào, Hitler vừa gắn lon vào vai tôi vừa
nói:
- Đụ mẹ ông, đồng ý là ông cũng có công nhưng đâu phải công của
mình ông. Ông làm cái gì giờ này mới
ra tới ?
Tiểu Đoàn Trưởng đã cấm tất cả các sĩ quan
trong Tiểu Đoàn khi hết phép
không được ra trình diện hậu cứ ở
Vũng Tàu, vì như vậy là câu thêm giờ ở Sài Gòn.
Ông chỉ chấp nhận cho Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ được câu thêm vài ngày theo kiểu
này, còn sĩ quan bắt buộc phải trình diện thẳng Bộ Tư Lệnh ở Sài Gòn, để ngày hôm
trước hết phép, ngày hôm sau
đã có mặt ở hành quân.
Không ngờ bị hài tội
trong lúc này, bí quá tôi nói đại:
- Tôi ra hỏi vợ ở Bà
Rịa, Thiếu Tá.
- Vợ
con cái con cặc! Đụ mẹ
ông!
Bịa chuyện lấy vợ, tôi nhớ đến lần tôi cũng bịa chuyện lấy vợ để kiếm thêm
một tuần ở Sài Gòn. Năm 72, tôi bị thương được đưa về điều trị tại Bệnh Viện Lê Hữu Sanh ở Thủ Đức. Vì thương binh quá nhiều nên tôi chỉ được nằm ít ngày rồi
cho về nhà tự chữa lấy, mỗi tuần lên tái
khám một lần, gọi là xuất viện tái khám. Lần
tái khám thứ ba, tuy tôi
đã có
thể đi lại được nhưng vẫn còn phải chống nạng. Bác Sĩ
Hạnh, Nguyễn Đỗ Hạnh y sĩ điều trị, đã bắt tôi xuất viện ra hành quân, hình như là ở
đâu đó người ta muốn giảm tỉ lệ sĩ
quan bị thương trên giấy tờ sổ sách. Muốn kiếm
thêm một tuần phè ở Sài Gòn và cũng để đi đứng
được vững chãi hơn trước khi ra hành quân, tôi bèn xuống
nước:
- Bác sĩ cho tôi thêm một tuần nữa, Thứ Tư này tôi lấy vợ. Mọi chuyện đã
chuẩn bị xong xuôi, chỉ còn đợi đến ngày làm đám cưới.
Bác Sĩ Hạnh là một người rất
đẹp trai và có giọng nói rất êm, rất nhẹ
đã phán một câu nghe rất đã lỗ
nhĩ.
- Vác ba lô ra Quảng
Trị mà cưới!
Lần này thì tôi lại bịa chuyện
lấy vợ, nhưng tôi ở thế thượng phong tức là theo đúng kỷ luật nhà binh, thi hành trước khiếu nại sau. Tôi đã thi hành, bây giờ đến lượt Tiểu Đoàn Trưởng
đang...khiếu nại. Ở cái binh chủng ‘’sống khùng
sống dại chẳng sống dai’’ này, khi các quan lớn đã ‘’khiếu nại’’ thì cỡ các bà Chợ Trần Quốc Toản
hay Chợ Cầu Ông Lãnh còn phải đưa đi ‘’hấp’’ thêm nhiều khóa may ra mới theo kịp.
Tôi đã từng được ăn hàng trăm nghìn ‘’của ngon vật lạ’’ rồi nên tôi đứng nghiêm để
thưởng thức mấy ‘’món xoàng’’ của Hitler thì có nhằm nhò gì.
Ăn mà không có nhậu thì
còn gì giá trị của món
ăn nên khi đứng nghiêm để ‘’ăn’’, đầu óc tôi lại đang phân
vân không biết chuyến tiếp
tế này hậu trạm có
mang rượu thuốc Thiên Tường cho tôi theo
lời dặn hay lại cứ mang rượu Vạn Ích, thằng Sáng chết rồi mà thằng Huy mập
lại
nằm xa Đại Đội, lấy ai mà nhậu đây. Kỳ lương này không biết có được thảnh thơi để làm
một bữa rửa lon túy lúy không.
Xong vụ gắn lon lạ đời
nhất Quân Đội, tôi đi theo xe tiếp
tế về Đại Đội. Rượu
thịt ê hề nhưng chưa kịp lai rai ba
sợi, tôi đã nhận lệnh
mang hai Trung Đội tăng
phái cho Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ.
Chúng tôi ngồi dọc Quốc Lộ 1 đợi xe của Thiết Giáp đến
đón. Gặp Ó Lương đi xe Jeep tới, Đại Tá Lương Lữ Đoàn Trưởng 147, Ó Lương cho biết là các đơn vị
nằm phía Bắc đang bỏ chạy, chúng tôi sẽ không được một sự yểm trợ nào hết của
đơn vị gốc, rán mà tự lo liệu
lấy. Tôi hiểu là trong hoàn cảnh
này khó có hy vọng là chúng tôi sẽ trở về. Cuộc đời nhà binh của những thằng ‘’lính rằn’’ chúng tôi thường xuyên
‘’một đi không trở lại’’ nên chuyến đi
này cũng chẳng có gì đáng phải bận tâm. Nhưng dù sao tôi vẫn
không thể nói những điều
này cho lính biết.
Tôi không
nói cho lính biết nhưng không phải là họ không biết. Chuyến đi này thế nào cũng
sẽ rất thê thảm vì một chuyến đi bình thường của một nửa
Đại Đội đâu cần đến Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng xuống dặn
dò, cộng thêm là chúng tôi thấy lác
đác đã có những người lính Bộ Binh chạy về. Một đứa
nói với vẻ bất mãn:
- Đụ mẹ, chỗ nào người ta chịu không nổi thì bắt mình tới hứng. Còn nếu
mình chịu không nổi thì người
ta thây kệ mẹ mình.
Một đứa
khác với giọng giễu cợt:
- Làm trai đâu
sợ gì sương gió, chỉ sợ đời
không có gió sương thôi em! Trung Sĩ Khang quay sang tôi:
- Ông thầy, thằng
này chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Tôi chuyển hướng câu chuyện, chỉ một người lính:
- Thằng này ngon này, không sợ ai hết, anh hùng
mà.
- Ủa, sao vậy ông thầy ?
- Tụi mày biết nó xâm cái gì trên ngực không
?
Đám lính nhao
nhao lên:
- Cái gì ông
thầy ?
- Cái đầu lâu...
- Cái hòm...
- Không phải, tầm bậy hết! Tôi cười cười đọc:
Trên trời có một vì sao.
Dưới đất có một mình tao anh hùng.
Thằng bé có xâm hàng chữ trên ngực cười bẽn lẽn:
- Tại mấy
thằng bạn đè em ra xâm hồi học trong Quân Trường.
Hai chiếc GMC
của Thiết Giáp chở chúng tôi ghé
vào căn cứ Hòa Mỹ một lúc rồi
trở ra đi lên phía Bắc, dọc đường tôi thấy các đơn vị Bộ Binh đang lếch thếch
chạy về phía Nam. Mẹ kiếp! Gà hơn
nhau tiếng gáy, mình đã lỡ gáy
to rồi! Người ta đông thế kia còn phải
bỏ chạy, chúng tôi ít người như thế này mà phải húc đầu vào.
Trời chập choạng tối, chúng tôi
đến Bộ Chỉ Huy
Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ, tôi quên mất tên căn cứ này lính ở nguyên trên xe đậu gần cổng, tôi vào Phòng Hành Quân
để nhận lệnh. Phòng Hành Quân là một cái hầm khá rộng, bày biện rất ngon lành.
Người sĩ quan trực hành quân là một ông Thiếu Tá. Ông ta không biết tí gì về
chuyện chúng tôi tăng phái đến nên bảo tôi ngồi đợi trưởng
phòng. Tôi đề nghị:
- Thiếu Tá giúp cho tôi gặp trưởng
phòng ngay bây giờ, trời tối
rồi mà còn phải
đợi, tôi sợ
trễ.
Ông ta quay điện thoại, chừng
năm phút sau Trưởng Phòng đến. Trưởng Phòng
cũng là Thiếu Tá. Câu đầu tiên của
ông Trưởng Phòng mà tôi nghe
được khi ông ta bước vào.
- Đụ mẹ, anh để cho tôi ăn một miếng chứ, cái con cặc gì cũng kêu tôi, cái thứ
anh đeo Thiếu Tá làm uổng
lon nhà binh.
Người sĩ quan trực cúi đầu nhìn xuống đất, không nói một tiếng. Tôi đứng đấy ngỡ ngàng. Thiếu Tá Trưởng
Phòng quay sang hỏi tôi:
- Bộ
anh không đợi tôi được sao ?
- Không, Thiếu Tá. Thiếu Tá cho tôi biết nhiệm vụ.
Ông ta bảo tôi cùng đi đến chỗ treo bản đồ hành quân, không hiểu nghĩ
sao, ông ta quay lại hỏi tôi:
- Anh có biết bãi đất
trống ở đây lên gần Mỹ Chánh nằm phía bên trái không ?
- Tôi biết, cái chợ, phía bên kia là làng Chánh Môn.
- Rồi,
anh ra đó nằm.
- Thiếu Tá cho tôi biết tình hình, nhiệm vụ
và bản
ám danh đàm thoại.
- Anh cứ
ra đó đi, tôi cho người mang ra sau.
- Tôi không thể ra đó khi tôi chưa nắm được tình hình và chưa biết được nhiệm
vụ.
- Không có mẹ gì đâu, anh cứ ra nằm đêm nay đi.
Tôi quay ra, bực mình không thèm chào, mẹ kiếp, quan liêu,
hống hách và cẩu thả. Không lẽ ông ta giận tôi vì đã phá ngang bữa ăn của ông hay ông vội
vàng với tôi để tiếp tục bữa ăn. Chắc chúng tôi còn phải rất chật vật vì cái kiểu cách chỉ huy của
bọn ‘’con cua’’ này.
Trời tối hẳn khi chúng tôi đến nơi. Dân làng đã
bỏ đi
hết. Một vài con chó
đang xục xạo quanh những cái sạp chợ bỏ chạy khi chúng tôi đến. Thế
là chúng tôi sẽ có những
bữa nhậu ‘’đã đời’’ với mấy con mồi này. Tôi cho lính lục soát thật kỹ trước khi đóng quân quanh chợ và hai
bên Quốc Lộ.
Tôi không biết tí ti gì về
tình hình ta và địch ở đây
nên suy nghĩ rất lâu về vị trí phải đặt các
Toán Tiền Đồn. Cuối cùng, tôi đặt một toán ở Tây Bắc và một toán ở phía Đông.
Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ báo cho tôi biết là tôi được đặt dưới
sự điều động của Chi Đoàn
1. Tôi lại xin bản ngụy nhưng vẫn được trả lời là sẽ
cho người mang ra sau. Không lẽ bọn ‘’con cua’’ này không có bản ám danh
đàm thoại!
Chi Đoàn 1 gọi
tôi:
- Anh cho tôi biết vị
trí chính xác của anh và mấy đứa con.
- Tôi không thể báo cáo cho đến khi tôi có bản ngụy. Anh đã biết đại khái chỗ
tôi nằm chứ ?
- Biết.
- Anh cho tôi biết tình hình quanh tôi.
- Phía Bắc anh không có ai, phía Đông cũng vậy, phía Tây hoặc Nam gì đó của anh là tôi.
Tôi đã đặt tiền
đồn theo đúng tình hình.
Tôi báo
cáo tình hình và vị trí đóng quân về Tiểu Đoàn.
Tôi cũng than phiền về
lề lối làm việc của mấy
ông ‘’bố ghẻ’’ này. Tiểu Đoàn cho tôi biết nếu
có đụng
độ, hãy để một máy liên lạc thường xuyên với Tiểu Đoàn.
Chi Đoàn 1 gọi
lại:
- Anh cho tôi biết vị
trí chính xác của anh để tôi còn
báo cáo.
- Không thể được vì tôi không có bản ngụy. Thôi được, anh biết số nhà riêng của tôi không ?
- Biết.
- Rồi, lấy
cái đó làm alpha. Tôi ở alpha phải 27 lên 16.
- Tôi không tìm
ra.
- Anh không tìm ra cái gì ?
- Alpha.
- Hiện
giờ
tôi đang gặp anh tại số
nhà của anh. Anh biết rõ số
nhà của tôi không ?
- Biết.
- Lấy số đó làm alpha. Hay thế
này vậy, lấy số nhà anh làm alpha. Anh tìm ra alpha chứ ?
- Tôi chịu,
không thể tìm alpha được.
- Đành vậy, tôi không thể cho anh biết vị trí của tôi
được. Tôi bỏ máy. Một lúc sau
Chi Đoàn 1 gọi lại:
- Thôi thế này,
anh lật bản đồ ra.
- Rồi.
- Anh thấy
chữ I của chữ HẢI không ?
- Rồi.
- Lấy đó
làm chuẩn, anh cho tôi biết vị
trí của anh.
- Đâu được anh bạn, anh bạn không sợ việt cộng nó cười cho à ? Hình như
anh không phải là thẩm quyền.
Anh cho tôi gặp thẩm quyền của anh đi.
- Tôi là thẩm quyền đây.
- Ồ, vậy thì xin lỗi thẩm quyền. Thẩm quyền cứ báo cáo đại một điểm nào đó trong cái biết đại khái về tôi, chứ tôi không thể cho thẩm quyền biết chính xác theo kiểu
đề nghị của thẩm quyền được.
Tôi không hiểu ông Chi Đoàn Trưởng
này không có kinh nghiệm hay tại bên Thiết Giáp ngay tự bản thân họ đã ồn ào khi đóng quân, máy nổ ầm ầm nên họ
không cần giữ bí mật
vị trí đóng quân, hay tự họ cảm thấy an toàn trong mấy cái khối
sắt nên không sợ bị pháo kích. Nhưng dù không sợ bị pháo kích thì vẫn
phải đề phòng đặc công chớ.
Sáng hôm sau, 21 tháng Ba, khi tôi và mấy tên lính đang làm vơi dần
chai nước biển đựng
đầy rượu thuốc Thiên Tường cùng
đĩa thịt chó luộc, có một đơn vị Địa Phương Quân kéo từ phía Bắc về
đến chỗ tôi một cách hỗn độn.
Đơn vị kéo về này là một đơn vị lớn nên tôi phải báo cáo cho Bộ Chỉ Huy Lữ
Đoàn 1 Thiết Kỵ, tôi nghe chính giọng của Đại
Tá Lữ Đoàn Trưởng ra lệnh cho tôi:
- Anh chận hết tụi nó lại, đuổi ngược trở lên. Thằng nào vượt qua chỗ anh,
bắn bỏ hết.
Tôi nghĩ bụng, chỉ cần họ đái chúng tôi cũng đủ chết đuối rồi, ở đó mà bắn với
bỏ. Nghĩ vậy nhưng tôi vẫn cho cả hai Trung Đội dàn ngang Quốc Lộ không cho họ
đi sâu hơn nữa về phía nam. Có một Đại Úy trong toán này đến gặp tôi, tự
giới thiệu:
- Tôi là Trưởng Ban Ba Liên Đoàn 913 Địa Phương
Quân. Một chút nữa,
Trung Tá Liên Đoàn Trưởng tôi sẽ tới
gặp Trung Úy. Hiện giờ nhờ Trung Úy giữ đám
quân này ở đây hộ.
- Ngồi làm một ly chơi đợi Trung Tá, Đại Úy. Lúc này rượu thuốc với thịt cầy
đâu phải dễ kiếm, Đại Úy.
Ông ta ngần
ngừ rồi từ chối quay ra.
Tôi ngồi húp bát cháo chó,
‘’ngon như cháo chó’’, tôi chẳng thấy bát cháo chó này ngon tí nào hết, mặc dầu được nấu bởi một tay làm thịt chó được coi là ‘’điêu
luyện’’ gốc Hố Nai, không hiểu tại không đủ gia vị hay tại những điều xảy ra từ chiều hôm qua đến giờ.
Tôi đang gặm miếng
xương chó thì có xe Jeep gắn hai
cần câu chạy tới dừng ngay cạnh đường. Ngồi
ghế trưởng xa là một ông to béo, bộ quân phục ủi hồ còn thẳng
nếp, mắt đeo kính đen, tay cầm can, chân phải gác lên cửa xe để
lộ chiếc giày bóng loáng, không hiểu ông ta giữ như thế nào mà chiếc giày
không dính tí bụi, ít ra cũng phải cả chục con ‘’mồi’’ đã bị ngã trên chiếc giày này. Biết ngay là Trung
Tá Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 913 Địa Phương Quân nhưng tôi không buồn đứng dậy.
Viên Đại Úy lúc này ngồi ở băng sau nhảy xuống
đi lại phía tôi.
Định bụng là tiếp tục
ngồi gặm xương chó chứ tôi không đứng dậy, nhưng tôi chợt có một ý nghĩ
hơi
hèn là lính tụi tôi đụng trận như cơm bữa, chết không nói làm
gì, ngộ nhỡ bị thương, ra khỏi binh chủng chẳng may lại về đơn vị của ông Trung Tá này làm xếp thì hơi phiền, nên tôi vứt miếng xương chó, vừa
chùi tay vào quần vừa đứng dậy đi ra phía xe Jeep. Ông Trung Tá to béo gỡ kính,
bỏ can bước xuống xe.
Tôi chào lấy lệ.
- Trung Úy chỉ
huy ở đây ?
- Vâng, tôi.
- Trung Úy không cho tụi này xuống sâu hơn nữa, thằng nào cứng đầu Trung
Úy bắn hộ tôi.
- Tôi đã nhận lệnh này của Đại
Tá Hường.
- Vậy bây giờ
Trung Úy tập trung chúng lại tại bãi đất này cho tôi.
Nghe thật ứa gan! Sự lo xa mơ hồ một
ngày nào đó là thuộc cấp của ông
Trung Tá to béo này không còn nữa, mà chỉ còn trong tôi sự thương
hại
và một chút khinh miệt.
- Không, Trung Tá, họ là lính của Trung Tá mà. Tôi nhận
lệnh của Đại
Tá Hường
là chận họ lại. Tôi chỉ
là Trung Úy và là Đại
Đội
Phó, tôi không có khả năng tập
trung cả một Liên Đoàn của
Trung Tá.
- Thôi được, tôi về gặp Đại Tá. Đứa nào không nghe lệnh anh cứ bắn cho tôi. Tôi sẽ nằm ở cái lô cốt dưới kia. Vừa
nói ông vừa chỉ về cái lô cốt nằm xa
xa phía
Nam.
Tôi chán nản quay vào, báo cáo chuyện vừa xảy ra cho Tiểu
Đoàn.
Liên Đoàn 913 Địa
Phương Quân này nằm ở bờ Bắc sông Mỹ Chánh, thuộc
Tiểu Khu Quảng Trị,
không hiểu có đánh đấm gì không mà họ lại chạy như thế
này. Đơn vị vẫn còn nguyên vẹn mà Đơn Vị Trưởng
đã không còn chỉ huy được, phải
đi nhờ đến tôi thì còn trời
đất chó gì nữa. Địa Phương Quân Quảng Trị suốt năm 72 đã
sát cánh với chúng tôi, vì rất nhiều lý do họ không thể
có khả năng tác chiến bằng
chúng tôi, nhưng họ cũng đâu phải là những tay ‘’vừa’’ để mà chưa đánh đã chạy, để
mà đã mất chỉ huy khi đơn vị vẫn còn nguyên vẹn.
Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ ra lệnh tôi tập trung Liên Đoàn Địa Phương Quân và bắt họ di chuyển về hướng Tây. Tôi làm xong việc này không khó nhưng
chán nản vô cùng. Một ông Thiếu Úy trẻ hông đeo Colt,
tay cầm bản đồ, bên cạnh là hai thằng
máy trông oai phong lẫm lẫm tâm sự với
tôi.
- Nếu không gặp mấy anh chúng tôi còn chạy nữa. Bọn tôi dừng lại không phải vì lính của anh dàn hàng ngang ở dưới kia đâu. Anh thấy không, bọn tôi dừng lại trước khi anh cho lính ra chận nút mà. Tôi
biết chắc chắn Trung Úy không ra lệnh bắn nếu bọn tôi cứ tiếp tục chạy, phải không ?
Tôi nghĩ bụng, tay này cũng
là một tay ‘’xịn’’ đây. Anh ta nói
tiếp:
- Từ khi Thủy Quân Lục Chiến rút khỏi Quảng Trị, tụi tôi có cảm tưởng mình bị bỏ rơi. Dân
bỏ đi theo các anh, các Cơ Quan Hành Chánh, Tiểu Khu, Chi Khu cũng bỏ đi hết, bọn tôi ở lại để tự sát à ? Tôi là dân Sài Gòn thấy dân chúng bỏ đi còn sốt
ruột huống gì lính tráng,
tụi nó là dân địa phương, gia đình vợ con bỏ chạy, không
đào ngũ là may rồi,
còn nói gì đến đánh đấm.
- Tại sao gặp tụi tôi, mấy anh không
chạy nữa ?
- Tụi tôi nghĩ Thủy Quân Lục Chiến đã về hết Đà Nẵng rồi, như vậy tức là bỏ Quảng
Trị, bỏ Huế, nên chúng tôi chạy.
Bây giờ thấy mấy anh còn đây, tức
là vùng này không bị bỏ, mà đã
không bị bỏ rơi thì chúng tôi đâu có sợ.
Sau khi Liên Đoàn 913 di chuyển hết vào phía núi, tôi nhận lệnh Tiểu Đoàn lên
quan sát Công Binh giựt Cầu Mỹ Chánh.
Cầu xe lửa đã không sử dụng được
từ lâu, cầu đường bộ này cũng đã hỏng từ
trận năm 72, nhưng sau đó đã được sửa
chữa để sử dụng. Tôi báo cáo chính
xác những điều tôi quan sát được.
Cầu bị bung một vài ở giữa, xe cộ không lưu thông được nhưng người đi bộ
vẫn có thể qua lại tuy hơi
khó.
Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ ra lệnh
cho tôi đưa một Trung
Đội
lên nằm chận phía Nam cầu cùng với
hai chiếc M-48, Trung Đội còn lại vào
sâu trong núi đến nằm chung với Chi Đoàn 1.
Gặp Đại Úy Chi Đoàn Trưởng, người thẩm quyền đã yêu cầu tôi cho vị trí chính xác tối hôm qua. Bây giờ tôi mới
hiểu lý do sự bết bát của ông ta. Ông tốt nghiệp Khóa 2 Chiến Tranh Chính Trị
Đà Lạt. Đang từ một chức vụ
chuyên môn là Chiến Tranh Chính Trị của Thiết Giáp, ông đã này nọ để được ra chỉ huy một Chi Đoàn.
Hết ý kiến!
Buổi tối, chúng tôi theo Chi
Đoàn 1 đến vị trí khác đóng
quân đêm. Tôi vừa đặt xong hai chốt tiền đồn thì nhận được lệnh di chuyển.
Lý do di chuyển là Liên Đoàn
913 Địa Phương Quân cảm thấy ‘’lạnh
gáy’’ khi chúng tôi dời đi chỗ khác nên đã báo cáo ẩu lên Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ là họ nghe thấy tiếng
di chuyển của xe xích sắt ở
phía trong núi, yêu cầu được chúng tôi nằm chận
đầu.
Trời đã tối, hai cái chốt của tôi đã gài xong mìn và lựu đạn, bây giờ phải gỡ
hết đâu phải là chuyện dễ, sau đó đến vị trí mới lại phải gài lại. Gài hay gỡ mìn tự
động, lựu đạn là một chuyện
rất nguy hiểm, ban ngày còn
có người
chết, huống hồ là ban đêm. Tôi quyết định không gỡ và khi đến đóng chốt ở vị trí mới cũng không gài, bù lại, lính phải gác theo kiểu
đang đụng trận, nghĩa là cứ hai
người một vọng gác, người thức người ngủ thay phiên nhau.
Ngày 22 tháng Ba, lãnh lương.
Trung Đội 2 của Huy mập
lãnh lương xong, tôi hướng dẫn Ban Quân Lương lên Cầu
Mỹ Chánh phát cho Trung Đội 1. Nhà
cửa
khu đầu Nam cầu Mỹ Chánh
đã tanh banh hết, không
còn dấu vết đang phục hồi sau ngày
ngưng bắn, rất ít căn nhà còn nguyên
vẹn. Lại mất rồi
cái Chợ Mỹ Chánh, lại mất rồi
những tiệm ăn quán nhậu.
Pháo binh vẫn bắn đều từ phía sau qua bờ Bắc. Tại đây cũng vẫn ăn pháo một cách rất ‘’vu vơ’’ từ
bờ Bắc bắn qua không trúng đâu
vào đâu cả nhưng vẫn phải
đề phòng, biết đâu đạn ‘’lạc’’ trúng mình. Với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề ăn
130 ly, hễ việt cộng
pháo mình thường thì trúng chỗ khác,
nhưng nếu nó nhắm bắn vào chỗ khác
thì nên coi chừng, rất dễ ‘’lạc’’ vào chỗ mình vài quả như
chơi. Y hệt như mấy ông Cảnh
Sát và Nhân Dân Tự Vệ ở Thành
Phố, nếu nhắm thẳng mình mà
bắn thì bảo đảm trăm phần trăm là an toàn, vì luôn
luôn trúng người
khác, còn nếu mấy ông ấy mà nhắm người
khác
hoặc bắn chỉ thiên
thì coi chừng, trúng mình là cái chắc!
Trong khi Trung Đội 1 lãnh lương,
tôi ra đầu cầu quan sát qua phía Bắc,
thấy việt cộng xuất hiện
lẻ
tẻ trên đường lộ, tôi cho bắn, vì chúng thập thò nên khó biết được là bắn
có trúng không. Có tiếng loa vọng
sang từ bờ Bắc:
- Đừng bắn nữa, vài hôm nữa Huế cũng còn không giữ nổi nói gì đến Mỹ
Chánh mà bắn cho mệt.
Mẹ kiếp, bọn này lúc nào cũng một tấc đến trời, nhưng lần này tôi nghĩ có lẽ chúng
nói thật, vì nhớ lại lời anh Phát làm
ở Hạ Viện là hoặc cắt đất ở An Lỗ, hoặc ở Lăng Cô, nếu cắt đất ở Lăng Cô thì Huế mất là ‘’cẳng’’ rồi. Hơn nữa, tôi nghe Trung
Sĩ
Nhất Đăng, Thường Vụ Đại Đội nói: ‘’Em nghe BBC nói 12 giờ trưa ngày
25 này là bàn giao Huế’’. BBC không
từng
là đài phát thanh đáng tin cậy nhất từ
xưa
đến giờ hay sao ?
Nhưng mà, mẹ kiếp, như vậy
thì nhục nhã quá, chúng tôi đánh nhau
với việt cộng như người lớn
đánh với con nít, dĩ nhiên
là cũng có chết chóc, nhưng vừa
đánh vừa đùa chúng tôi vẫn chiếm gọn được bất cứ một mục tiêu nào được chỉ định. Khốn nỗi
đã quá nhiều lần chưa đánh mà chỉ toàn nhận lệnh rút, cứ rút loạn xà ngầu đâm ra hỗn
loạn, đâm ra mất
chỉ huy. Lính đã mất chỉ huy sẵn súng trong tay càng gây thêm hỗn loạn. Việt cộng đã hết thập thò và tôi cũng hết hứng chơi trò tập bắn. Tôi về chỗ PC Trung Đội 1 viết vắn tắt mấy chữ nhờ Ban Quân Lương mang về Sài Gòn đưa cho mẹ tôi: ‘’Người ta đánh nhau nhưng ở tận
mãi đâu, chỗ con đang ở mang tiếng là khủng khiếp
nhưng thực sự vẫn còn yên. Ở nhà yên tâm về con’’.
Một ngày trôi qua rất thoải mái với thêm một chai rượu thuốc mà hậu trạm ở
Huế gửi Ban Quân Lương mang ra cho tôi.
Ngày 23 tháng Ba, Tiểu Đoàn cho biết là tôi
hết
nhiệm vụ tăng phái. Chúng tôi trở về Đại Đội nhưng không có xe đến đón, có nghĩa là chúng tôi phải cuốc bộ. Dĩ
nhiên khi người ta cần mình thì bao nhiêu phương tiện di chuyển mà chẳng có, đến
khi không còn cần đến mình nữa thì đừng có hòng.
Tôi hiểu thân phận mình như vậy nên tuy hơi ngán đoạn đường quá xa, nhưng
bù lại, trong suốt thời gian tăng phái, chúng tôi thực sự đã không
phải làm một việc
gì đáng gọi là việc. Tôi chỉ
tức một điều là Thiết Giáp
không có xe đưa trả chúng tôi về đơn vị gốc trong khi Chi Đoàn 1 lại có xe đi Huế mua mía về nhai
với nhau.
Đang tập
trung con cái ra Quốc Lộ 1, chỗ làng Chánh Môn, thì Điểu,
Phụ Tá Ban Ba Tiểu Đoàn gọi máy cho biết là đợi
tại chỗ, chính Điểu
sẽ
hướng dẫn xe lên đón. Gặp
Điểu và hai chiếc GMC không phải là xe và tài xế của
Tiểu Đoàn, khi xe chạy tôi hỏi Điểu:
- Mấy cái xe này ở đâu ra vậy ?
- Tôi cũng không biết là của đơn vị nào, thấy xe không chạy ngang qua Tiểu
Đoàn, tôi chận lại
bắt đi đón mấy ông.
Cám ơn sự cà ngơ của mấy cái xe này.
Đi ngang qua Bộ Chỉ Huy của Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ, nơi này không còn là một
căn cứ quân sự nữa vì đã vắng
tanh vắng ngắt, tôi chỉ
còn thấy mấy đám khói bốc lên, khói của những đám lửa
phá hủy hồ sơ và những thứ không
mang theo được. Thảo nào bọn tôi được trả về đơn
vị gốc, vì còn ai nữa
đâu để mà sử dụng bọn tôi. Tôi sực nhớ là Liên
Đoàn 913 Địa Phương Quân cũng biến
đâu mất tự bao giờ rồi, chỉ còn lại chúng
tôi và Chi Đoàn 1 Thiết Kỵ. Chúng
tôi đi, không hiểu Chi Đoàn
của ông Đại Úy Chiến Tranh Chính Trị làm Chi Đoàn Trưởng
bao giờ thì rút, hay là các ông xếp lờ đi để họ nằm chận hậu vô thời hạn.
Điểu cho hay Thiếu Tá Thành đã làm Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Toàn tức
Hitler và Đại Úy Phó đã đi Đà Nẵng để qua Tiểu
Đoàn 18.
Tôi nhận lệnh vào căn cứ Hòa Mỹ. Căn cứ này rộng mênh mông, ngày trước là doanh trại của Dù và Thiết Giáp, bây giờ trở thành Bộ Chỉ Huy của tôi, một thằng
Trung Úy và hai Trung Đội. Tôi không
biết đường xá và ngõ ngách của căn cứ
mặc dầu trước đây Đại Đội tôi đã có lần tăng phái cho Thiết Giáp nằm trong căn cứ này
cả tháng. Tôi chọn đại một chỗ đóng quân và tổ chức phòng thủ đêm, không phải là
phòng thủ căn cứ mà là phòng thủ trong căn cứ, vì không còn ai trong căn cứ Hòa
Mỹ này ngoài chúng tôi.
Đêm có trăng, tuy không
sáng nhưng cũng đủ hữu tình để chúng tôi nhâm nhi cho hết ít rượu còn lại. Rải tuyến
xong, bữa nhậu nhà binh vừa
được bày biện, chưa kịp lai rai, tôi đã nhận lệnh của Tiểu Đoàn đưa một Trung Đội tăng phái cho Tiểu Đoàn
5 đang đụng ở sông Bồ, phía Tây Nam Cầu An Lỗ. Trung Đội 1 đã nằm giữ
Cầu
Mỹ Chánh một mình, bây giờ đến lượt Trung Đội 2 của Huy mập đi. Thằng nào
đi cứ việc đi, thằng
nào còn lại cứ việc nhậu.
Đang ăn nhậu nửa chừng, tôi lại nhận lệnh. Lần này chúng tôi đi nốt.
Vượt qua hàng rào phòng thủ của
căn cứ, nơi còn sót lại rất
nhiều mìn bẫy, nhưng
may mắn chúng tôi qua an toàn bằng đường mòn mà lúc trước những tên
lính ‘’dù’’ đi chơi khi căn
cứ còn đóng quân. Băng qua thửa ruộng
nhỏ, đi vòng theo bìa làng Đồng Lâm, vào sâu trong núi, chúng tôi có nhiệm vụ làm gạch nối cho Đồi
51 và Quốc Lộ 1. Quá nửa khuya chúng tôi đến được vị trí ấn định, bố trí sơ sơ để
nghỉ ngơi, vì tôi
đoán chắc chúng tôi còn phải di chuyển
trong đêm.
Các Tiểu Đoàn Biệt Động Quân của Liên Đoàn
14 đáng lý phải nằm bắt tay
hàng ngang với chúng tôi để trải dài tuyến phòng thủ bỗng dưng biến mất, chỉ còn trơ
ra mấy Đại Đội của
Tiểu Đoàn tôi nằm lẻ
loi trên vài cái đỉnh đồi.
Khoảng 4 giờ sáng ngày 24 tháng Ba, Đại Đội tôi nhận nhiệm vụ làm gạch nối
ở làng Đồng Lâm
để yểm trợ cho Đại Đội 1 và Đại
Đội
2 rút ra từ phía núi.
Trời sáng rõ khi các Đại
Đội
1 và
2 ra đến Quốc Lộ. Đại Đội 1 nằm lại
để Đại Đội
tôi rút. Dân làng Đồng
Lâm đứng nhìn chúng tôi rút quân, thật
khó để tôi có thể phân biệt được ánh mắt của họ căm thù hay thích thú. Đại Đội tôi về đến đồi Chẻ,
cây số 23 nằm lại khi Đại Đội 1 rút qua mặt chúng
tôi. Có vài tên du kích từ trong làng ra bám chúng tôi từ xa xa. Việt cộng pháo 130 ly ra Quốc
Lộ như mưa để chận đường rút của
chúng tôi nhưng không chính xác nên không có thiệt hại nào.
Đang di chuyển
chúng tôi phải ngừng lại nhường một cánh quân Địa Phương Quân đang kéo từ hướng Đông về Quốc Lộ. Có hai lý do, thứ nhất, chúng tôi là đơn
vị chận hậu nên phải đi sau cùng, thứ hai chúng tôi không muốn bị lộn xộn mất chỉ huy như kinh nghiệm 72, rất dễ bị
trà trộn.
Buổi trưa Đại Đội tôi phối hợp với một Đại Đội
Biệt Động Quân, không hiểu từ đâu hiện ra rải
quân nằm ở bờ Bắc sông An Lỗ,
trong khi tất cả Tiểu Đoàn tôi nằm ở bờ Nam. Nhưng rồi khoảng 2 giờ
trưa, Đại Đội Biệt Động Quân
lại biến
mất.
Họ không báo cho chúng tôi biết và họ cũng không đi qua Cầu An Lỗ. Tôi không đoán nổi là họ đi lối nào và lúc nào. Tôi báo cáo về Tiểu Đoàn.
Chỉ còn Đại
Đội tôi nằm ở bờ Bắc Cầu An Lỗ. Lúc 4 giờ
chiều tôi nhận lệnh
rút về phía Nam cầu. Chúng tôi về nằm dọc bờ
sông ngay chân cầu.
Dân chúng ở đây không chạy hết như tôi nghĩ. Ngay trong khu vực đóng quân của tôi có một ngôi chùa đang tấp
nập dân chúng đi lễ.
Tôi không biết là ngày lễ
gì nhưng quang cảnh quanh ngôi chùa rất thanh bình. Tôi tự cảm thấy thừa thãi khi
xuất hiện tại
đây với đầy đủ vũ khí, trang bị của
một thằng lính ngoài mặt trận. Hình
như người dân ở bờ Nam cầu An Lỗ không biết
hay không cần biết đến những chuyện đang xảy ra sát cạnh họ, ảnh hưởng trực
tiếp
và rất lớn đến cuộc sống của họ.
Tôi thực không thể hiểu vì lẽ gì và tại sao người dân ở đây lại
có thể bình thản đến như vậy.
Súng vẫn nổ liên hồi ở sông Bồ nhưng tôi đã mất liên lạc với Trung Đội 2 của Huy mập từ đêm hôm qua, khi chúng tôi rời bỏ Căn Cứ Hòa Mỹ, không hiểu bọn nó giờ này ra sao.
Tôi lại nhận
lệnh ra quan sát và báo cáo về chuyện Công Binh phá Cầu An Lỗ.
Một người lính gác nói với tôi.
- Vừa có một chiếc
Jeep chạy qua cầu, cũng có một bà già đi qua bên kia, không
hiểu
họ có về kịp không.
Tôi chỉ có nhiệm vụ quan sát và báo cáo chứ tôi đâu có chỉ
huy toán phá cầu, nên tôi đâu có quyền hoãn lại để đợi họ trở lại.
Tôi nói:
- Họ không về kịp là tại cái số của họ phải ở lại với việt cộng. Tao đâu có quyền hoãn chuyện phá cầu.
Kết quả phá cầu không được
như
ý, chỉ có xe là không lưu
thông được, còn người đi bộ vẫn qua lại thoải mái. Không hiểu toán Công Binh này thực
sự không muốn phá cầu hay tại họ
không đủ khả năng. Tôi báo cáo
kết quả này lên Tiểu Đoàn và xin phá thêm một lần
nữa. Tiểu Đoàn trả lời:
- Toán Công Binh không thuộc Thủy Quân Lục Chiến nên không thể ra lịnh trực tiếp cho họ được. Phải xin lên trên, nhưng hiện giờ số thuốc nổ của họ cũng đã hết, nếu xin được chắc cũng không kịp. Muộn
rồi.
Tôi không hiểu
ý nghĩa của tiếng muộn
rồi nên kỳ kèo thêm:
- Ngày hôm nay không kịp thì ngày mai, chứ cái cầu như vậy thì coi như đâu
đã phá.
- Thôi được, để tôi xin, nhưng
chắc chắn với anh là không kịp đâu. Vô ích!
Không hiểu Tiểu Đoàn xin thật hay chỉ
hứa với tôi để tôi khỏi kỳ
kèo. Khoảng 6 giờ chiều Huy mập
gọi:
- 520-272.
- Nói. Tại sao giờ này ông mới chịu lên ‘’mai’’ ?
- Cái ‘’mai’’ của tôi banh rồi 520. Tôi phải mượn của bọn ‘’con cua’’.
- Cho tôi biết tình trạng
của ông ra sao. Khỏi ngụy.
- Tụi
tôi banh hết rồi, còn có mấy mống
thôi, lại sắp phải ủi thêm cú nữa. Tôi cũng bị thương rồi.
- Mấy thằng bị thương ra sao ?
- Tôi xin tải
thương nhưng bọn ‘’Lươn Đen’’
Tiểu Đoàn 5 Hắc Long bắt tự túc.
- Sao ông không
xin thẳng 324 ?
324 là Thiếu Tá Tiền, Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu
Đoàn 5 Hắc Long, tháng trước ông còn là Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 4 tôi, người
nổi
tiếng ‘’ngon lành’’ khi trực tiếp
chỉ huy chúng tôi đánh trận Cửa Việt ngày ngưng bắn.
- 324 biết rồi, ổng còn nói: ‘’Thầy trò mày rán làm cho tao cú nữa, đây là trận
đầu của tao ở bên này’’.
- Thôi được rồi, tôi xin bên
mình lo cho ông. Còn ông gom con cái lại.
Đây
là lịnh của tôi không ủi nữa vì bất
cứ
lý do gì. Ông nghe rõ không ?
- Rõ, 520.
Tôi gọi Đại Đội Trưởng, Đại Đội Trưởng bó tay. Tôi liên lạc với Tiểu Đoàn,
Tiểu Đoàn hứa sẽ can thiệp.
Khoảng 7 giờ tối, tôi liên lạc thêm một lần
nữa với Tiểu Đoàn yêu cầu
lo gấp cho Trung Đội 2. Tiểu Đoàn trả lời
bất lực. Tôi liên lạc với Trung Đội 2 nhưng không được.
8 giờ
tối, khi tôi đang cố gắng liên lạc
với Trung Đội 2, Đại Đội
Trưởng gọi tôi lên họp.
- Ông cho con cái trang bị nhẹ tối đa, bằng mọi giá phải về đến Thuận An trước 6 giờ sáng mai. Ai tới trễ sẽ bị bỏ lại vì chỉ có một chuyến tàu đón mình về Đà
Nẵng thôi.
Bây giờ tôi mới
hiểu tiếng ‘’muộn rồi’’ của Tiểu
Đoàn. Tôi hỏi:
- Còn Trung Đội thằng Huy mập
sao ?
- Bỏ! Đại Đội có một bản đồ thôi, tôi không chia cho ông được, ông về chuẩn
bị khi nào có lệnh của tôi thì đi.
- Sao tiếng bỏ của ông nghe gọn quá vậy 369 ?
- Chứ ông thấy còn cách nào khác không ? Bây giờ chỉ còn mỗi một việc là lo
được cho thằng nào thì lo. Ông về chuẩn
bị đi.
Tôi bước
ra, muốn khóc. Mẹ kiếp,
bạn nhà binh tình nhà thổ, không ai lo cho
bọn nó cả, còn tôi lại không thể nào lo được cho tụi nó. Tiếng súng vẫn nổ dữ dội
phía sông Bồ. Không hiểu nó có nghe lệnh tôi rút ra ngoài
hay lại nổi máu điên mà ủi
tiếp. Ai chứ thằng
Huy mập này thì mê ủi lắm.
Đại Đội tôi trang bị nhẹ. Súng cối mang theo mười quả đạn, đại liên một dây
100 viên, M-79 một dây sáu quả, M-16 một băng; mỗi người lính hai quả lựu đạn, một bao
gạo sấy, một lon thịt hộp, tất cả những thứ bỏ
lại vứt hết xuống sông An Lỗ, quần áo mùng mền cũng vứt.
Tôi cố gắng liên lạc với Huy mập
nhưng vẫn không được. Âu cũng là phần số. Hy vọng nó bám được
theo Tiểu Đoàn 5. 9 giờ tối
tôi nhận lệnh di chuyển,
Đại Đội tôi đi sau cùng của
Tiểu Đoàn. Khi
đi ngang chỗ Đại Đội Trưởng, ông ta đã bỏ
đi từ trước.
Tôi liên lạc một cách nhẫn
nại với Trung Đội 2. Trời
đã không phụ tôi. Trung Sĩ
Khang Trung Đội
Phó
trả lời tôi ở đầu
máy bên kia:
- Tao gặp 272.
- 520
chờ.
- Thôi khỏi, mày nói 272 ngay bây giờ
kéo hết con cái ra Quốc Lộ, ngay bây
giờ, nghe rõ không ?
- Rõ, 520.
- Cố
gắng kéo hết con cái ra Quốc Lộ, theo
dòng người về Huế.
Tôi yên tâm. Với Trung Đội 2 tôi đã cố gắng hết khả năng của tôi. Những thằng bị thương tùy thuộc vào Trung Đội Trưởng và những thằng còn khỏe mạnh
của Trung Đội. Nếu tôi không cố
gắng liên lạc, chưa chắc bọn nó chịu
nằm yên, nhưng cũng chẳng còn ông xếp nào nghĩ đến
cái Trung Đội què quặt đang bị
bỏ rơi.
Bập bùng trước mặt là đám lửa của chiếc M-48 cháy nằm ngay trên Quốc Lộ.
Đó đây trên đường lộ, xác của những người lính bất hạnh nằm
chết đủ kiểu. Đoàn người vẫn đi qua,
chỉ có những cái nhìn ném về
phía những xác chết.
Dòng người càng
lúc càng đông, Đại Đội tôi bị lẫn trong dòng người
đang
di chuyển về phía Nam. Thỉnh thoảng trên
đường chúng tôi di chuyển, bọn
du kích xuất hiện bắn chận chúng tôi, y hệt cái kiểu
năm
72 đã tạo ra Đại
Lộ Kinh Hoàng, nhưng lần này không phải là cuộc rút chạy hỗn loạn
của năm 72. Tuy không dễ chỉ
huy như bình thường nhưng chúng tôi không bị lẫn
lộn với các đơn vị Bộ Binh
hoặc Địa Phương Quân, cũng
không bị lẫn lộn với những
người dân, tuy rằng cũng có những đơn vị khác, cũng có một ít dân chúng cùng chạy với chúng tôi, nhưng vẫn có một
sự khác biệt của một
đơn vị còn chỉ huy nên những cái nút chận của bọn du kích không có khả năng chận được chúng tôi lại. Và cũng nhờ ở sự trật tự này nên nếu
có bọn việt cộng trà trộn vào, cũng không dám dở trò ném trái khói chỉ điểm hay dùng máy truyền tin để điều
chỉnh pháo binh của chúng như hồi
năm 72.
Tuy nhiên tôi là thằng ích kỷ, chỉ biết đến Đại Đội mình nên tôi đã ngầm
khuyến khích lính của tôi
đi càng nhanh càng tốt, tôi đã rất lỏng lẻo trong việc kiểm
soát lính, thậm chí tôi còn lờ đi khi thấy lính tách khỏi hàng đi
vượt
qua mặt tôi. Đại Đội tôi tan dần vào dòng người, cuối cùng chỉ còn tôi và vài người lính thân tín.
Trung Sĩ Khang gọi cho tôi biết là đã gặp Đại Đội chỉ
huy của Tiểu Đoàn, những người
lính bị thương không thể đi
được đã được gửi theo xe cơ hữu của Tiểu
Đoàn. Tôi yên tâm hoàn toàn về Trung Đội.
Tôi đi vượt lên trên, gặp Đại
Đội 1, thật tuyệt hảo!
Đại
Đội 1 vẫn đi
một hàng dọc bên lề đường, các sĩ quan đi ngoài hàng ngang với Trung Đội của mình và
người Đại Đội Trưởng, Đại Úy Tài, tay cầm một khúc cây làm roi đi lên đi xuống theo
Đại Đội, miệng la hét chửi bới và cả quất roi vào đít những tên lính nào bỏ đứt đoạn hay
đi chệch ra khỏi hàng. Đại Đội 1 di chuyển
như đang thực tập bài di hành trong quân trường, chứ không phải đang rút lui gấp cho kịp tàu. Gặp
tôi đi tới, Đại Úy Tài hỏi.
- Đụ
mẹ, Đại
Đội mày đâu ?
- Loạn xà ngầu hết rồi anh Hai. Chúng tôi vẫn gọi Đại Úy Tài là anh Hai, anh
Hai Tài.
Anh Hai Tài cầm roi nhắp
nhắp về phía tôi:
- Đụ
mẹ, năm roi nghe mày!
Tôi cười cười ngượng ngượng:
- Lên tàu
rồi đánh, anh Hai. Em đi trước
nghe.
- Ờ, tới Huế
rán gom Đại Đội lại nghe mày,
thằng láu cá!
Qua ngã ba An Hòa, đã gần 12 giờ
khuya, tôi đi thêm một đoạn nữa,
đến chỗ đèn sáng ngồi nghỉ, đồng thời
để dễ gom lính lại. Khoảng hơn nửa tiếng sau, tôi gom được
gần hai chục mạng chậm
chân hơn tôi, tiếp
tục kéo nhau đi.
Đến Cầu Bạch Hổ, tại chòi gác ở gần cầu, tôi thấy một người
lính Nghĩa Quân quần áo súng đạn rất chỉnh tề đang đứng gác. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Giờ này còn đứng gác cái mẹ gì ở đó, cha nội
?
- Em không
nhận được lệnh gì hết.
- Lệnh cái con cặc, Tiểu Đội Trưởng mày đâu ? Một người lính
già tay xách khẩu súng chạy lại.
- Dạ
tôi.
- Huế bị bỏ rồi, ông còn
gác cái gì nữa. Tôi là Trung Úy ra lệnh tan hàng, về lo mang vợ
con đi gấp nghe không!
- Dạ.
Thật tôi không thể hiểu nổi tại sao mấy ông xếp lại có thể nhẫn tâm bỏ lại lính tráng mà chạy lấy thân như vậy, trong
khi tình hình đâu đến nỗi. Trung Đội 2 của Huy mập đã bị mấy ông xếp bỏ rơi.
Không, Tiểu Đội Nghĩa
Quân này bị lừa ở lại thì đúng hơn. Những loại ông xếp vô liêm sỉ này trong Quân Đội chắc chắn không phải là ít. Không hiểu hiện giờ
ở khắp Quảng Trị Thừa Thiên
này có bao nhiêu đơn
vị nhỏ
còn đang phải thi hành nhiệm vụ nào đó
trong khi các ông xếp của
họ đã ung dung ở Đà Nẵng hoặc Sài Gòn. Xin hãy gắn anh dũng bội
tinh với nhành dương liễu cho
những ông xếp này. Ờ mà hình như cũng chẳng phải xin, vì thường
ra thì huy chương được gắn nhanh và nhiều vào ngực áo của những thằng chẳng bao giờ
biết đánh đấm là gì.
Xin cám ơn những
cái huy chương.
Một bà già đứng ở cửa một túp lều bên vách tường thành Phú Văn Lâu, một tay
cầm đèn dầu, tay còn lại
quẹt nước mắt liên hồi, nhìn
chúng tôi. Tôi hỏi bà cụ:
- Răng
không đi mệ ?
- Mệ không có tiền để đi con ơi!
- Tụi con cho mệ tiền, hay
mệ đi chung với tụi con.
- Chừ hết kịp
rồi con ơi!
Huế đang là một
Thành Phố chết và đang là một Thành Phố bị bỏ ngỏ.
Cả Thành Phố chỉ còn lại vài ba ngọn đèn đường, cái sáng cái tối, đạn pháo việt cộng nã đều vào Cầu Trường Tiền và khách
sạn Hương Giang, đó đây người ta đang đạp xe ba
bánh, xe
xích
lô
đi hôi của.
Đi lối cầu mới thì được an toàn, nhưng tôi sẽ đi lối Cầu
Trường Tiền mặc dù cầu này đang bị pháo. Một chút lãng mạn trong người tôi nổi dậy, chẳng gì cũng chỉ
còn là lần chót. Ngay đầu cầu, một chiếc M-48 nằm chình ình, máy vẫn còn nổ mà không
có người. Lên đến giữa cầu, tôi nói
với mấy thằng lính đệ tử.
- Quay lại nhìn Huế lần chót bay, chắc chắn là mình sẽ không đánh ra tới đây
để lấy lại
đâu.
Một nỗi buồn dâng lên trong tôi, không khóc nhưng
mắt tôi đoanh tròng.
Bao nhiêu gian truân, bao nhiêu xương
máu, bao nhiêu xác người, bao nhiêu
mồ hôi nước mắt của bạn bè, của anh
em đồng đội tôi đã đổ xuống cho cái vùng địa đầu nghiệt ngã này. Bản thân tôi cũng
đã hai lần đổ máu ở nơi này, bây giờ bỗng chốc bỏ đi, hỏi ai là người không tức tưởi. Đù má những thằng chịu trách nhiệm
trong vụ bỏ Huế này, lịch sử sẽ bôi tro trát trấu vào mặt chúng! Những ai đã từng tuyên bố, từng
hô hào tử thủ Huế giờ
này ở đâu ?
Khốn nỗi,
những thằng đánh trận mà luôn luôn đi đàng
sau và luôn luôn bỏ chạy trước lại là những thằng có quyền, có quyền mà hèn nhát, đốn mạt nên bây giờ
bao nhiêu người khốn đốn, rút chạy như một lũ thua trận. Nhưng thực sự chúng tôi
đã đánh nhau đâu để bị gọi là thua! Đồ tiếp liệu trong Thành Mang Cá dư sức cung
cấp cho Lữ Đoàn tôi ít nhất là ba tháng, tại sao không cho
chúng tôi vào Thành Nội ? Ờ mà tử thủ làm chó gì, bao nhiêu thằng xếp cút mẹ nó hết rồi, vợ đẹp con khôn và tiền bạc bao năm ăn bẩn không lẽ lại vứt bỏ. Vậy thì tội chó gì mình lại nghĩ
đến chuyện ở lại đánh nhau để chết oan mạng, cùng lắm được vài giọt nước
mắt cá sấu, một cái huy chương
không giá trị, những lời ca tụng giả
dối, ngoài cửa mồm thôi chứ có mẹ
gì nữa
đâu. Đồ chó má!
Qua hết cầu, tôi gặp Đại Úy Chiêu, Đại
Đội
Trưởng Đại Đội 3, tay cầm chai
rượu chát khổng lồ, túi đút chai rượu mạnh. Thấy tôi ông kêu lớn:
- Ê Huy, nhậu
mày.
Bao nhiêu tủi hờn,
căm hận, buồn bực biến mất nhanh như viên đạn ra khỏi
nòng súng. Bọn tôi ngồi quây tròn giữa ngã tư đầu Nam cầu Trường Tiền nhậu không có mồi, không có nước đá ‘’chữa lửa’’ thì chúng tôi nhậu chay.
Câu chuyện lại vui
như
pháo Tết. Mấy tên lính không biết lấy xe xích lô của ai chở đầy
xe thuốc lá Ruby và bia Quân Tiếp
Vụ đến tiếp tế và nhập
cuộc.
Tôi đập vỡ cổ chai bia rót từ đầu xuống, người ướt đẫm bia thích thú, từ bé đến lớn chưa bao giờ được tắm bằng bia mà. Nhưng
chẳng có cái dại nào giống cái dại nào: Bị ướt bia, người tôi dính nhem nhép khó chịu.
Đang ngồi nhậu, Đại Đội Trưởng
tôi không biết từ đâu tới cho biết điểm hẹn đã thay đổi vì những kho đạn, kho xăng ở
Thuận An đã bị cháy, không biết
vì pháo kích hay vì đặc công. Điểm tập trung mới là bến phà Tân Mỹ.
Mấy ông lính của tôi không biết vác ở đâu ra một lô súng mới tinh, nào là M-
16, nào là M-79,
nào là đại liên M-60, còn có cả máy truyền
tin ANPRC-25 nhưng không
có pin. Tôi bảo lính đi lấy thêm, Đại Đội
Trưởng tôi không chịu:
- Vác nặng thêm chứ được cái gì!
- Nặng
khỉ gì, mình đi tàu đâu
có vác.
- Tôi nói không, giờ này không lo mà đi đi,
còn ở đó mà lo
súng với lo nhậu.
Đi!
Tôi uể oải đứng
dậy. Lệnh đi thì đi chứ thực sự tôi còn muốn ngồi
nhậu, mấy khi còn có dịp ngồi xếp
chân bằng tròn giữa ngã tư mà nhậu thế này. Ung dung ngồi
nhậu nhìn thiên hạ hớt ha hớt hãi thú lắm chứ. Tôi đi qua khách sạn Hương Giang lúc này đã hết bị pháo kích, qua Đập Đá,
đến ngã ba con đường đất đỏ. Ngã
ba này là điểm tụ hội của dòng người đi từ Huế ra và dòng người quá nhanh chân nên phải đi ngược từ Thuận An vào. Tất cả đổ vào con đường đất đỏ để đến bến phà Tân Mỹ.
Đại Đội Trưởng ra lệnh
tôi đợi ở ngã ba để chỉ đường
cho lính ở cả hai phía
tới, còn ông ta nhập
vào dòng người đi trước.
Tôi gặp So, Trung Úy
Đại Đội Trưởng Đại Đội 2. So, Hồ,
Sáng và tôi là bốn thằng cùng về Tiểu Đoàn một ngày. So cũng đứng lại đợi những con nhạn là đà, đứng với nhau cùng ngậm ngùi về chuyện thằng Sáng. Chừng
nửa
tiếng So cũng lại đi trước.
Khoảng gần 3 giờ
sáng, khi dòng người thưa dần tôi mới đi. Đi chừng chưa đầy 20 phút, chúng tôi mất bóng những người đi trước vì bị đứt đoạn. Đến một ngã ba tẽ
ra như hình chữ Y, hai
ngã đường đều lớn như nhau, tôi rất phân vân trong sự lựa chọn. Trong số
người có mặt, tôi là thằng có cấp
bậc cao nhất, tôi lại có máy truyền
tin nên mọi người đều trông vào tôi. Tôi gọi máy cho Đại Đội
Trưởng:
- Tôi gặp ngã ba hình chữ Y, 369
cho biết đi đường nào ?
- Đi thẳng.
Mẹ kiếp, vậy thì hỏi
làm chó gì cho mất công, đường nào cũng
là đường thẳng và đường nào
cũng là đường rẽ.
- Ông cho tôi biết phải đi về hướng nào ?
- Hướng Nam, bộ
ông không đang đi về hướng Nam sao ?
Tôi không muốn hỏi
nữa. Đường bên trái về
hướng Đông Nam, đường bên phải về hướng Tây Nam. Tôi chọn đường bên trái vì chắc chắn đường này
sẽ ra đến Phá Tam Giang. Đi được chừng
hai cây số, có một xe Jeep từ sau chạy tới. Tôi hỏi:
- Phải
đi đường này không mấy anh ?
- Ừ, gần tới phá rồi.
Chắc ăn là mình đã đúng đường, cứ thế chúng tôi đi. Nhưng
khoảng chừng
15 phút sau, chiếc xe Jeep lúc nãy
đi ngược trở lại, không đợi
hỏi, mấy người trên xe
đã nói:
- Tụi tôi ra tới phá rồi, không gặp ai hết, quay lại đi.
Chúng tôi nhìn
nhau thở dài. Tôi liên lạc với Đại
Đội
Trưởng:
- 369-520.
- Nói.
- Tôi đi lạc rồi, bây giờ vòng lại thì xa quá, ông bắn cho tôi ba phát súng để tôi
định hướng.
Im lặng. Tôi gọi lại:
- 369-520.
- Nói.
- Sao ông chưa bắn ?
- Bắn
rồi.
- Tôi không nghe
gì hết, ông bắn lại đi. Lại im lặng.
Tôi lại gọi:
- 369-520.
- Nói đi.
- Ông bắn
chưa ?
- Rồi, cha nội.
- Vậy
thì tôi đi lạc xa quá rồi!
- Ông rán đi làm sao cho kịp thì đi. Giận
quá tôi mỉa:
- Cám ơn 369.
Chúng tôi kéo nhau đi ngược
trở lại, đi theo tôi có đến bốn, năm chục
người nhưng thầy trò tôi chỉ
có ba. Thế là mất toi cả hơn tiếng đồng hồ, bù lại được cái là
tăng thêm mệt nhọc và sự bực
mình.
Về đến ngã ba chữ Y lúc nãy, đương nhiên lần này tôi không còn phân vân
hay phải hỏi đường.
Càng đi đoàn người
phía sau càng đông dần và dần
dần qua mặt chúng tôi.
Có rất nhiều xe đi qua, tôi chận được một xe Jeep không
đến nỗi chật lắm, cả ba thầy trò tôi cùng lên được trên xe. Tôi nghĩ bụng, mệt quá rồi, thôi thì phó mặc cho tài xế. Ngủ.
Tôi ngủ ngon lành
cho đến khi xe đến bến phà Tân Mỹ khoảng
6 giờ sáng. Người đã tập trung ở đây rất đông nhưng phương tiện qua sông lại không có
một cái. Bao nhiêu ghe, gọ nằm hết ở bờ phá bên kia. Tôi chẳng rỗi hơi mà lo
chuyện làm sao để qua phía bên kia
phá, không phải là việc của tôi.
Trong thời gian nghỉ ngơi
để chờ đợi, Thiếu Tá Thành cho tập
họp các sĩ quan của Tiểu
Đoàn lại để tự giới thiệu.
- Tôi là Thiếu
Tá Thành, Đinh Long Thành,
Tiểu Đoàn Trưởng mới của các
anh.
Tàu đã đợi sẵn chúng ta ở bờ biển, các anh kiểm điểm lại quân số. Những
mất mát về vũ khí, trang bị không thành
vấn đề. Chúng ta sẽ được tái trang bị khi vào đến Đà Nẵng.
Kể cũng tức
cười, sau khi chạy vắt giò lên cổ, chạy ướt nhẹp cả quần,
Tiểu Đoàn Trưởng mới được giới thiệu với các sĩ
quan trong Tiểu Đoàn. Quân số Đại Đội tôi thiếu gần chục mạng, tuy nhiên người vẫn tiếp tục đến.
Trung Đội 2 của Huy mập cũng
đã có mặt, kể cả những người bị thương nhẹ, còn những người bị thương nặng tôi không biết họ ở
đâu nhưng chắc là đã được yên ổn, an
toàn.
Khoảng 11 giờ Đại Đội tôi vượt xong Phá Tam Giang.
Nơi mới đến tôi chỉ biết duy nhất có một điều
là bốn bề là nước, phía Bắc là
cửa Thuận An, phía Nam là cửa Tư Hiền, phía Tây là Phá Tam Giang và phía Đông là biển Đông. Một cái túi được bọc
kín chung quanh bằng nước, bề ngang
Đông Tây rất hẹp.
Chúng tôi được chia vào nằm ở những căn
nhà dọc hai bên con đường
đất chính của làng ở ven phá để ăn uống, nghỉ ngơi.
Rải rác có thêm những người lính của Đại Đội tiếp
tục đến, cho biết đã có những đụng độ giữa
việt cộng với những người
đi phía sau.
Hơn 12 giờ trưa, chúng tôi được lệnh di chuyển ra bờ biển. Vừa lên hết đụn cát
cạnh làng tôi đã thấy ngay một chiếc tàu thật lớn mang số HQ-801
thừa sức chứa cả Lữ Đoàn đã đợi sẵn ở gần bờ không biết từ bao giờ. Tôi nghĩ bụng chỉ còn
lên tàu nữa là chấm dứt sự rút chạy, bọn việt cộng
có tới nơi cũng sẽ chỉ được một
phen chưng hửng. Nhưng lên tàu cũng còn có nghĩa
là chấm dứt một cách nhục nhã và
vô lý cuộc chiến đấu khủng khiếp mấy năm trời nay để giữ vùng Quảng Trị và
Huế, và sẽ chẳng bao giờ còn trở lại cái nơi đã in đậm vào tôi những kỷ niệm vui buồn xấu tốt.
Sóng có vẻ cao ở sát bờ nên tàu phải đậu cách bờ có đến khoảng năm mươi mét.
Những người dân chạy loạn và lính tráng của các đơn vị khác tan hàng đã
đứng đầy ở bờ biển. Họ đã chạy theo chúng tôi
từ Quảng Trị, Huế và các vùng phụ cận về đến đây.
Theo lệnh Lữ Đoàn, mỗi
Tiểu
Đoàn tập họp thành một
khối đứng quay lưng ra biển. Đại Đội
tôi mỗi Trung Đội đứng
một
hàng dọc cộng
với một hàng dọc ngắn của
Ban Chỉ Huy Đại Đội.
Trong khi kiểm điểm quân số, Tiểu Đoàn bắt được một tên việt cộng trà trộn.
Tên này cũng mặc quần áo Thủy
Quân Lục Chiến, cũng đeo bảng tên màu
đỏ của Tiểu Đoàn, bị phát giác vì một sự ngờ
nghệch nhỏ. Mỗi bảng tên đều có con số
của từng Đại Đội, tên việt cộng này mang bảng tên không có số tức là thuộc Đại Đội Chỉ
Huy lại đứng vào khu vực của Đại
Đội
2. Bắt được tên việt cộng trong hoàn cảnh này dù có nhân đạo đến đâu cũng không thể giữ làm tù binh, mà chỉ có một cách duy nhất
là tặng chàng cái vé đi tàu suốt.
Buổi sáng
kiểm điểm quân số ở bên kia phá, tôi chỉ nghe báo cáo của các Trung Đội, bây giờ đâm hoảng, tôi phải đích thân đi nhìn mặt từng
người lính trong Đại Đội.
Oái ăm thay ngay trong Trung Đội tôi, tôi làm Trung
Đội Trưởng Trung Đội 4 thay cho Thiếu Úy Sáng từ ngày Sáng qua Đại Đội mới, vì tôi là Đại Đội Phó nên mọi
sinh hoạt của Trung Đội
đều do Trung Sĩ Nhất Ba Trung
Đội
Phó điều động. Tôi hoảng hồn vì trong Trung Đội tôi có mấy
tên mang đúng bảng tên của Đại Đội nhưng
mặt mũi lạ hoắc, có một tên còn dắt theo một cô gái đang lúng ta lúng túng, mặt mũi
tái xanh tái mét. Tôi hỏi:
- Mày Đại Đội nào ?
- Em Đại Đội
4.
- Mày Trung Đội nào ?
- Em Trung
Đội 4.
- Trung Đội
Trưởng mày là ai ?
- Là Trung Úy, vừa
nói người lính vừa chỉ tôi. Trung Sĩ Nhất Ba
đỡ lời:
- Nó là
lính mình đó Trung Úy, anh ta chỉ
thêm mấy người lính nữa, mấy đứa
này cũng lính mình luôn Trung Úy. Tụi
nó về Đại Đội hồi ông đang đi phép, ra tới Đại Đội ông đi Mỹ Chánh
liền nên không biết tụi nó.
Tôi hỏi tiếp:
- Cô gái này là gì của mày ? Cô gái hốt hoảng nói:
- Em là vợ anh ấy.
- Phải không mày ?
Tay lính ngập ngừng,
tiếng dạ lí nhí trong miệng.
- Mày mới Sài Gòn
ra mấy ngày, tại sao đã có vợ Huế ? Cô gái òa lên khóc, thú nhận:
- Em không phải là vợ anh này,
em là người Huế, em học năm thứ hai Văn Khoa,
vừa nói cô gái vừa móc căn cước và thẻ sinh viên đưa cho tôi em không phải
là việt cộng.
Bất thần cô gái sụp xuống lạy tôi như tế sao:
- Trung Úy cho em đi theo với, em không còn cách nào để đi được.
- Mấy cô hoạt động chống chính phủ dữ lắm mà, sao không ở lại đón việt cộng,
chạy theo tụi tôi làm gì.
Hay cô được gài đi theo mấy thằng
lính ‘’mồ côi’’ này.
Cô gái khóc rống
lên một cách thảm thiết,
tay vái tôi lia lịa:
- Gia đinh em đi trước hết rồi, còn mình em ở lại để thu xếp nhà cửa rồi đi sau,
đâu ngờ đã không kịp thu xếp gì hết lại
còn bị kẹt như vầy.
Tôi bảo Trung Sĩ Nhất Ba:
- Anh coi kỹ giấy tờ rồi khám người cô ta xem có gì khả nghi không ?
Tôi không phải là người
dễ xúc động vì những
giọt
nước mắt đàn bà, tôi cũng không
phải là một người cả tin nhưng xét cho cùng, người con gái trong hoàn cảnh loạn lạc này, một thân một mình nếu không bám vào chúng tôi thì còn biết bám vào
ai, kể cả trường hợp nếu cô ta là người của việt cộng gài cũng chẳng có gì đáng ngại vì tôi đâu để cho cô ta đi
lại thoải mái, còn nếu cô ta đích thực chỉ
là một người dân cần chạy
theo chúng tôi mà mình không giúp chẳng
hóa ra mình tiếp tay cho việt cộng
hay sao.
Năm 72, tôi đã chứng kiến
cảnh những người dân Quảng Trị bị kẹt lại
trong vùng của việt cộng, khi chúng tôi đánh chiếm lại vùng thôn Bích La, Triệu Phong, có
những đoàn người đã vượt bao nhiêu nguy hiểm để tìm về với ‘’bộ
đội
miềng’’, có đoàn lúc khởi đầu
khoảng ba trăm người, sau ba bốn
ngày đêm đi ngày trốn,
đến khi gặp được chúng tôi chỉ còn chừng
một trăm. Có đoàn khi đi khoảng một trăm,
sau nhiều ngày trốn tránh đã không bị chết dọc đường, nửa
đêm cuối cùng của đoạn đường
vướng phải mìn tự động của một Trung Đội tiền đồn chết một số, tiếng rên của những người bị thương, tiếng
la của những người hốt hoảng với âm điệu
miền Trung đã lọt vào tai chúng tôi thành những tiếng ‘’xung phong’’,
thế là đạn chúng tôi
bắn ra, lựu đạn chúng tôi ném ra lại giết thêm một số dân không tí kinh nghiệm gì về chiến trường, sáng ra nhận diện được nhau rồi, gom góp lại còn khoảng chưa tới năm mươi người, kể
cả những người bị thương.
Có toán về gặp chúng tôi giữa
ban ngày, có một người đàn ông mừng quá ôm chầm lấy một người lính vừa nhắc bổng lên vừa kêu
‘’gặp lính miềng rồi, gặp lính miềng
rồi,
chết cũng sướng, chết cũng sướng’’, kêu xong ông ta nhảy ùm luôn xuống dòng sông Vĩnh Định, khi chúng tôi
vớt lên được chỉ còn một cách là
đắp cho ông ta một nấm mồ. Hương
hồn
ông chắc chắn là đã ở nơi miền cực
lạc.
Những hình ảnh đó
của
quá khứ đã bắt buộc tôi phải cho cô
gái Huế học Văn Khoa đi theo trong Đại Đội, nhưng dưới sự kiểm soát của hai người lính trong Ban Chỉ
Huy của Đại Đội. Khả
năng và quyền hạn của tôi không thể giúp được cho
tất
cả những người dân đang chờ đợi,
mong ngóng được lên tàu đứng đông nghẹt ngoài kia, nhưng giúp chỉ một cô gái thôi thì tôi có thể
làm được.
Cả Lữ Đoàn tập họp đứng khơi khơi quay lưng ra biển từ hơn 12 giờ
trưa cho đến 4 giờ chiều trong khi chiếc HQ-801 vẫn dập dềnh chờ đợi. Không hiểu để làm gì
và không hiểu tại sao. Điều này chỉ có Ó Lương tức Đại bàng Lâm
Thao biết, hoặc thêm một ít sĩ
quan trong Ban Tham Mưu của Lữ Đoàn biết, còn ngoài ra, chúng tôi,
những thằng lính đang đứng tập họp trong hàng không thể nào biết. Có một số lính vô kỷ luật đã trốn khỏi hàng, lấy mấy chiếc ghe nằm trên bãi biển chèo ra tàu cùng với
những người lính Bộ Binh và một ít dân chúng. Trong số này tôi
thấy
có cả Trung Sĩ Châu, Hạ
Sĩ
Nam lùn và mấy người
lính của Đại Đội. Tôi
nhìn những thuộc cấp đó
hoàn toàn dửng dưng, chẳng còn buồn
nghĩ là họ đúng hay họ sai nữa.
Người lính cuối cùng của Đại Đội
vắng mặt khi tập họp đã
tìm đến, Binh Nhất Tuấn. Tuấn bị bắn nát cánh tay trái, máu nhuộm đỏ cả tay áo, quần áo người ngợm ướt nhẹp, bê bết bùn, nhưng vẫn vác khẩu đại liên
M-60 với còn chừng
nửa dây đạn trên vai phải. Tuấn nói:
- Tụi nó đã kéo tới
đầy
hết bên kia phá rồi. Em bị tụi nó bắn theo khi mới ra khỏi bờ được một khúc. Lính mình bị kẹt bên
kia vẫn còn nhiều, đang đụng.
Chúng tôi được lệnh di chuyển khi y tá đang
băng cánh tay cho Tuấn đại
liên.
Đừng tưởng bở, không phải chúng tôi di chuyển
ra bờ biển để xuống tàu, và cũng không phải chúng tôi di chuyển ra bờ phá để
lập tuyến phòng thủ, mà là di chuyển
một hàng dọc dọc theo bờ biển đi về hướng Nam. Nhưng cũng không phải là
tiếp
tục cuộc rút lui đến một điểm hẹn khác, mà lần lượt các Tiểu Đoàn, các Đại Đội
nối đuôi nhau tà tà mà đi. Tôi xin nhấn mạnh là chúng tôi đi rất tà tà dọc theo bờ biển.
Trong khi đang tà tà dạo mát
như vậy, một chiếc trực thăng từ phía biển bay vào,
quần trên đầu chúng tôi rồi ném chừng một chục
bao cát đựng gạo sấy và thịt hộp. Một sự hỗn loạn đã xảy
ra để tranh giành mấy bao cát đựng lương thực ném xuống
được gọi là tiếp
tế đó. Có một bao rơi trúng đầu làm bất tỉnh
một người lính. Khốn khổ cho những thằng lính chúng tôi, đói thì thực
sự chưa đói, bao nhiêu thứ bỏ lại hết và sắp
sửa đây còn bỏ lại
ngay cả mạng sống của mình, vậy mà đi
tranh nhau một ít lương thực ‘’tiếp
tế’’
kỳ cục đó.
Có tin đồn là chính Tướng Lân ngồi trên chiếc trực thăng tiếp tế này với
mục đích là để thị sát, nhân tiện ném xuống cho một ít lương thực. Tôi không tin điều này vì
hai lý do, thứ nhất theo tôi nghĩ là Tướng Lân không thể ra đây trong tình trạng này, và thứ nhì là nếu Tướng Lân có trên trực thăng, chắc
chắn người anh cả đã ra
lệnh cho chúng tôi xuống tàu bằng mọi giá chứ không phải để chúng tôi cứ tà tà rước đèn như thế này.
Chỉ cần một tay Binh Nhất có nghĩa là chỉ
cần có chừng một năm kinh nghiệm chiến trường,
thằng dốt đặc về quân sự, thằng chưa được học một khóa Tiểu Đội
Trưởng nào, chứ đừng nói đến Hạ Sĩ Nam lùn, Trung Sĩ Châu, cũng đã hiểu là chúng tôi phải xuống tàu càng nhanh càng sớm càng tốt, vì càng
dây dưa bao nhiêu là càng rút ngắn khoảng
cách giữa chúng tôi với việt cộng bấy
nhiêu. Đại bàng Lâm Thao tức Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng chắc chắn là biết điều này, vậy thì vì lý do gì chúng tôi đã không được xuống tàu.
Với đội hình một hàng dọc ngoằn ngoèo như con rắn
ở dọc bờ biển, chúng tôi nhận lệnh ngồi xuống. Chiếc tàu đã ra xa bờ
và ‘’đợi’’ chúng tôi tận ngoài khơi. Dĩ nhiên nó không thể đậu mãi ở
gần bờ để xem chúng tôi đi
dạo
mát, để xem chúng tôi nấn ná không có một hành
động nào chứng tỏ chúng tôi muốn xuống tàu cả. Hai ông xếp lớn của chúng tôi, Đại
Tá Lương
Lữ Đoàn Trưởng và Trung Tá Tống Lữ Đoàn Phó đứng thản nhiên nói chuyện,
cười đùa thân mật với một ông xếp lớn nữa là Trung Tá Tòng (trong những bản in trước,
vì trông gà hóa cuốc, tôi đã viết là Đại Tá Thiệt, biệt danh ‘’Tử Thần’’, xin thành thật tạ
lỗi với ‘’Tử Thần’’) Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân. Không hiểu cả ba ông xếp lớn đang
nghĩ gì trong những cái đầu của họ, đang thú vị gì trong những câu pha trò của họ, đang bàn bạc gì bằng
những cái mồm của họ. Chỉ biết là cả ba
đứng nói chuyện rất thoải
mái và thỉnh thoảng cười ồ lên
hình như vì một câu pha trò đầy ý nhị.
Trung Tá Tòng là người
của đơn vị khác và hơn nữa,
ông ta là Đơn
Vị Trưởng và Trung Tá của
một đơn vị không còn quân, dĩ nhiên ông ta không có quyền hành gì cũng như trách nhiệm
gì đối với chúng tôi. Đối với tôi ông ta không khác gì cô gái
Huế
học Văn Khoa đang bám víu vào chúng
tôi. Trung Tá Tống là Lữ Đoàn Phó
trong khi đang có mặt Lữ Đoàn Trưởng, ông cũng không thể có quyền hành hay
trách nhiệm gì đối với chúng tôi. Nhưng còn Đại
Tá Lương, người có cấp bậc cao
nhất và quyền hạn lớn nhất ở
đây, người có trách nhiệm về cuộc lui quân của chúng tôi, người mà chúng tôi phải
gọi
là đại bàng, ông đã có sẵn một diệu kế
trong đầu chăng, ông đang muốn
noi theo danh tướng thời xưa đang lập một trận Bối Thủy
tân thời chăng.
Tôi rất hoang mang với cái trò dị hợm này, tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách. Chúng tôi đã bỏ Quảng Trị, bỏ Huế, chúng tôi đã bỏ
bớt lương thực,
đạn dược cùng tất cả mọi thứ trang bị cá nhân, đơn vị lủng củng khác để tẩu về đến đây, nhưng
chúng tôi đã không được lệnh lên tàu khi hoàn cảnh còn có thể, để tẩu cho
xong đoạn đường tẩu. Bây giờ chúng tôi tẩu đi
đâu
trong cái túi ‘’lửa’’ bốn bề là nước này. Phương tiện độc nhất
là chiếc tàu thì nó đã ‘’ra khơi thấy
lòng phơi phới’’ rồi, vì trong lòng nó đã trống
rỗng, không có chúng tôi.
Ngập ngừng là
chết, đã không thoái được thì phải tiến, nhưng lấy cái gì để mà tiến, và tiến
đến đâu ? Đạn dược chúng tôi đã hết, lương thực chúng tôi cũng không còn, chúng tôi lại chỉ
ở một bên mép của cù lao này, mà còn ngồi khơi khơi hóng mát chứ không chịu phòng thủ. Thoái đã không
thoái mà tiến lại không chịu tiến, công đã không công mà thủ
lại cũng không thủ.
Có phải đây là một chiến
thuật mới nhất đang được ghi vào quân sử ?
Lính của những đơn vị Bộ Binh đã tan hàng và người dân Huế chậm chân
đang chạy theo chúng tôi chắc chắc chắn là hoang mang hơn chúng tôi nhiều. Họ tụ
tập ở nhiều chỗ nhìn chúng tôi, nơi bám víu sau cùng của họ đang ngồi nhìn trời
ngắm biển, chúng tôi đang làm gì
chúng tôi còn không biết thì người
ngoài làm sao biết được.
Cứ ngồi như vậy cho đến gần 6 giờ chiều chúng tôi mới nhận lệnh tổ
chức phòng thủ đêm. Đại
Đội Trưởng tôi ra lệnh:
- Ông dắt con cái vô trong kia kiếm chỗ đóng
quân tạm. Đợi tôi đi
họp về
rồi tính sau.
Sẵn Đại Đội đang ngồi một hàng dọc dọc theo bờ biển, tôi cho quay phải
thành một hàng ngang, cứ vậy mà đi
vào phía trong.
Đang di chuyển, mấy viên đạn
xé gió bay ngang đầu chúng tôi, bắt nhịp cho dàn đại hòa tấu nhiều loại súng bắn xối xả
vào chúng tôi từ phía những lùm dương trên
đồi cát.
Cả Lữ Đoàn nhốn nháo, người ta dồn cục ùn ùn chạy lên phía Bắc, rồi lại dồn
cục ùn ùn chạy xuống phía Nam, mấy chiếc M-113 chạy lẫn
trong đám quân này bắn tứ tung loạn xà ngầu, không nhắm vào đâu
hết.
Đại Đội tôi đã ở cách đám đông
hỗn loạn đó cả trăm
thước nên không bị cuốn
theo phản ứng loạn xạ của họ.
Sẵn đội hình hàng ngang, tôi dẫn Đại Đội xung phong ngay tức khắc vào mấy lùm dương
phát ra tiếng súng trên các đụn cát, vừa xung phong vừa reo hò tở mở. Kết
quả rất hài lòng, khoảng chừng
một trung đội việt cộng
bị đẩy bật ra khỏi vị trí trước sức tấn công vũ bão ‘’bằng mồm’’ của chúng tôi. Tấn công ‘’bằng mồm’’ đừng
nghĩ
là chúng tôi nấp kín một chỗ bắn loạn lên trời rồi mồm la xung phong, cũng đừng
hiểu tấn công ‘’bằng mồm’’ có nghĩa là tấn công bằng đạn mã tử vừa tiến vừa
la dưới sự kiểm soát của huấn luyện viên chiến thuật trong quân trường.
Tấn công
‘’bằng mồm’’ ở đây có nghĩa là chúng
tôi xung phong
tiến chiếm mục tiêu hẳn hoi, việt cộng bị đẩy bật ra khỏi vị trí nhưng không một tên nào chết hoặc bị thương, vì
khi xung phong chúng tôi đã không bắn một viên đạn, mà chỉ có cái mồm ngoác ra
mà la, mà reo hò.
Bố trí quân xong, tôi đi
một vòng Đại Đội kiểm soát và được biết chính xác số đạn của từng người lính chỉ còn trên dưới mười viên. Chắc chắn là không thể nào giữ nổi một phòng tuyến tuy khá nhỏ so với quân số một Đại Đội nhưng lại quá lớn so với số
đạn dược chúng tôi đang còn, tôi cho thu nhỏ phòng tuyến lại.
Một người lính đã chết khi Đại Đội thu tuyến. Lần đầu tiên trong đơn vị, xác một đồng đội nằm rất
gần mà chúng tôi chịu bó tay, không dám mạo hiểm lấy
xác, lý do rất giản dị là chúng tôi không có đạn
để bắn yểm trợ. Trí thư ký sống khôn chết
thiêng thông cảm cho anh em.
Vì là đồi cát
nên chúng tôi đào hầm hố,
giao thông hào không mấy khó, mọi
chuyện được hoàn tất thật nhanh chóng. Việt cộng lại bám sát chúng tôi. Đại Đội
Trưởng từ Tiểu Đoàn về cho biết phát
súng đầu tiên việt cộng đã bắn chết Đại Úy Chiêu, Tô Thanh Chiêu Đại Đội Trưởng
Đại
Đội
3 và phát súng tiếp ngay sau
đó đã bắn trúng giữa trán Thiếu Tá
Nam, Nguyễn Tri Nam Tiểu Đoàn Phó, trong lúc Thiếu Tá
Nam đang chia tuyến phòng thủ cho các Đại
Đội
Trưởng.
Chiếc tàu đã ra xa, thật xa ngoài khơi, bờ biển đã vắng tanh vắng
ngắt, Lữ Đoàn đã bố trí
thành một đường vòng cung bảo vệ một đoạn
bờ biển, những người
dân và những người lính mất hàng ngũ đã trốn nấp đâu đó. Mặt trời đã khuất, tất cả đều đã biến mất trong ánh sáng cuối ngày, chỉ còn lại là những tiếng súng, những lằn lửa
đan ngang đan dọc trên đầu chúng tôi. Chúng tôi di chuyển thật hạn chế dưới
giao thông hào được đào vội vã để
chuyền cho nhau những viên đạn đi nhặt, đi mót được. Bóng tối xuống rất từ từ.
Một chàng Trung
Úy Biệt Động Quân còn đeo cả khẩu Colt 45 bên hông và cái xẻng sau lưng không biết từ đâu xuất hiện, bò
đến chỗ tôi, giọng trầm:
- Trung Úy cho
tôi đi theo trong Đại Đội vừa
nói anh chàng vừa vỗ vỗ vào
túi quần tôi có hơn trăm ngàn, khi về đến Đà Nẵng mình sẽ
đi nhậu.
- Một trò hối lộ bỉ ổi, tôi sẽ đồng ý cho anh đi theo trong Đại Đội nếu anh có súng
và đạn chứ tôi không cần anh phải có tiền. Tôi nhấn mạnh là súng để đánh
nhau chứ không phải
là súng để làm cảnh như
khẩu Colt này.
- Trung Úy
để tôi đi kiếm.
Anh ta bò ngược trở lại phía biển, khuất dần sau những mô cát phía sau lưng
tôi.
Đạn cối 61 ly của việt cộng nổ rất gần chúng tôi nhưng vì rơi trên cát nên
chẳng hiệu quả gì bao nhiêu,
và sự điều chỉnh không được chính xác vì việt cộng không nắm được vị trí chính xác của chúng tôi. Tuy nhiên những nháng lửa và
những tiếng nổ cũng đủ làm
cho thần kinh chúng tôi căng thẳng. Một vài quả lựu đạn được ném ra từ giao thông hào chỉ có giá trị
níu kéo một chút tinh thần còn sót lại.
Tiếng khóc ư ử của cô gái Huế học Văn Khoa vang lên, thỉnh thoảng còn
được cầm chịch bằng những lời kêu than, van vái. Đàn bà quả thật là vô duyên trong lúc này, vậy mà còn phải nghe
lời
than khóc của cái món vô duyên ấy nữa. Trong trường
hợp này và trong hoàn cảnh này, cô
nàng quả chỉ đáng đem ra xử bắn. Tôi
bảo tên cao bồi:
- Bưởi, mày tới
hỏi con nhỏ bộ muốn chỉ
điểm
mục tiêu cho việt cộng hay sao
mà khóc rùm trời vậy ?
Bưởi bò đi một lúc rồi bò về vừa cười vừa nói:
- Con nhỏ vừa khóc vừa
kêu cha mạ ơi, trời phật ơi, tay vái lia lịa mà đâu
có thấy nó vái trời, chỉ thấy cái mông nó chổng lên trời
thôi, còn tay nó vái đất.
Còn nữa ông thầy,
có thêm một cặp nằm ôm nhau trong tuyến mình.
- Ngon há, sao
mày không tống cổ tụi nó ra ?
- Đâu được ông, lính mình mà.
- Lính mình hả, thằng nào vậy ?
- Không phải Đại
Đội
mình, Đại Đội chỉ huy. Tụi nó đi theo Trung Úy Xuân.
- Ủa, ông Xuân cũng nằm đây à ? Để tao đi coi.
Trung Úy Xuân là Đại Đội Trưởng Đại Đội chỉ huy, nhưng chắc chắn một điều
là Đại Đội chỉ huy không
có mặt ở vị trí của Đại Đội tôi. Tại
sao ông Xuân lại nằm đây
?
Tôi bò dọc theo giao thông hào, nhiều đoạn chạy quanh phía sau ụ cát nên không phải bò. Đi
một vòng để kiểm soát và khích lệ tinh thần lính tráng, tôi đến gặp Trung Úy Xuân:
- Tại sao ông lên nằm đây ?
- Nằm với tụi
mày chắc ăn hơn nằm dưới kia. Tôi không hiểu được ý của
câu trả lời.
- Còn cặp nào nằm đây ?
- Cao bồi
tao, con vợ nó ở Sài Gòn ra bị kẹt lại.
Tôi bò đi. Cô gái Huế học Văn Khoa đã
cố nén tiếng khóc không cho bật ra
ngoài, thỉnh thoảng chỉ còn nấc lên một tiếng. Tình cảnh này thật thương tâm, nhưng không ai giúp được gì cho cô ta trong lúc này, và cũng
chẳng có ai rảnh để mà an ủi cô ta. Có mỗi một cô gái nằm gần bên thì cô này cũng quá sợ, ôm cứng lấy chồng.
Việt cộng
vẫn bắn đều, chúng tôi vẫn đáp lễ cầm chừng.
Đại Đội Trưởng chuyển xuống cho một mũ sắt đạn M-79 và lựu đạn. Chính tôi
đi kiểm soát
để bổ sung cho lính.
Việt cộng mở
đợt tấn công đầu tiên.
Với lối đánh quen thuộc, chúng tôi đã đẩy lui đợt tấn
công mở màn, thăm dò của địch
nhanh chóng và nhẹ nhàng, chúng tôi không có một tổn thất
nào. Tuy nhiên, vấn đề
được đặt ra là chúng tôi sẽ phải
chống đỡ bao nhiêu đợt tấn công trong đêm, và đến đợt tấn công thứ mấy thì chúng tôi hết
nhẵn đạn.
Có lệnh mở
đường máu đi về phía cửa Tư Hiền.
Vô ích phải không Đại Tá Lữ
Đoàn Trưởng ? Phải mở bao nhiêu lâu và con đường máu phải kéo dài bao xa, và
phải cần đến bao nhiêu máu mới mở được con đường đến cửa Tư Hiền, và còn nữa,
phải tốn bao nhiêu xác người
mới đủ để tạo thành cái cầu bắc
qua cửa biển. Và chắc chắn một điều là chúng tôi sẽ không đủ đạn để mở nổi con
đường máu đó. Tại sao không mở rộng
khu vực phòng thủ để bảo đảm an toàn cho tàu vào tiếp tế đạn
dược, lương thực tạo điều kiện
thuận tiện và an toàn hơn cho một bãi bốc
để di chuyển từng đơn vị nhỏ ra biển. Nếu chơi trò này tối
thiểu chúng tôi cũng phải rút
được hai Tiểu Đoàn.
Lệnh mở đường máu về cửa Tư Hiền là một cái lệnh vô lý,
thậm
vô lý, vô ích, thậm vô ích,
chỉ là sự dẫy dụa của một con cá đang
nằm trong lưới.
Trời ơi chúng tôi có còn phải là Thủy Quân Lục Chiến nữa hay không, chúng
tôi có còn phải là những thằng lính thiện
chiến ‘’quân thù phải
khiếp oai danh’’ nữa không,
hay chúng tôi đã trở thành những
cái xác vô tri vô giác được chỉ huy một
cách vô lý. Chúng tôi là những thằng lính không bao giờ sợ chết, chúng
tôi là những thằng luôn luôn tuân lệnh một cách tuyệt đối, nhưng bây giờ có nên tuân theo cái
lệnh này hay không. Đã không cho chúng tôi xuống tàu trong khi còn có thể yên ổn mà xuống chỉ vì vài ba ngọn sóng nhỏ vỗ bờ, đã không
cho chúng tôi lập tuyến
phòng thủ khi còn có quyền
chọn
lựa
địa thế. Chúng tôi
bị đặt vào một thế chiến đấu
cực kỳ bất lợi, với một địa thế thật tênh hênh mà lại nằm gọn trong một cái túi bít kín,
chúng tôi không còn lương thực, chúng tôi không còn đạn dược,
và cũng không còn sức lực, tinh thần chúng tôi đã xuống đến mức
thấp nhất, bây giờ bắt
chúng tôi mở đường máu chỉ có nghĩa là bắt chúng tôi chọn lấy cái chết nhọc nhằn và vất vả hơn
là để chúng tôi nằm yên ở đây đánh
nhau để mà chết.
Còn nỗi bi thảm
nào hơn tình thế chúng tôi trong lúc
này. Có những người tìm cái sống trong cái chết, ít ra họ,
họ còn cái hy vọng tìm thấy
cái sống mặc dù rất nhỏ nhoi, hy vọng nhỏ đến đâu cũng
vẫn làhy vọng, một mảnh ván mục
giữa biển cũng là hy vọng.
Còn chúng tôi, miếng ván mục cũng
không trông thấy, chúng tôi không thất
vọng, chúng tôi không tuyệt vọng mà
chúng tôi vô vọng. Chúng tôi, những thằng thanh niên khỏe mạnh, yêu đời, rất ham sống
đang ngồi mơ được dậm
chân tại chỗ này, đánh nhau
để rồi chết tại đây cho đỡ mệt, chứ không muốn
mở đường máu để chết dần chết mòn dọc
đường, cuối cùng đến được một chỗ
cũng để chết. Cái chết kiểu này quả
tình không hứng thú tí nào hết.
Nghĩ đến
chuyện phải mở đường máu, phải di chuyển
cho mệt rồi cuối cùng cũng chết, nhưng đã có lệnh chuẩn bị
tức là sẽ đến lúc thi hành, quả là ngao ngán. Tôi
không muốn thi hành cái lệnh này, nhưng tôi lại
không thể không thi hành lệnh. Vậy
thì cách giải quyết tốt nhất để không phải thi hành
lệnh là chết trước, chết ngay tại
đây trong lúc này. Tôi không muốn mệt
nhọc hơn nữa để kéo dài cái sống thêm được vài tiếng đồng hồ. Tôi đi một vòng dọc
theo tuyến của Đại Đội
để kiểm soát lính tráng, lần này tôi đi theo đúng nghĩa của
tiếng đi, thẳng lưng mà đi. Cứ thẳng
lưng như vậy tôi đi trong ánh
sáng chập chờn của những trái hỏa châu chiếu đến, kéo dài những bóng đen rung rinh của những lùm dương,
mờ dần rồi đen thui, trời lại sáng
lên, bóng đen của
những lùm dương lại rõ nét, ngắn hơn, lại kéo dài ra mờ dần. Đột nhiên tôi bị hất ngã và không biết gì nữa.
Phản ứng đầu tiên của tôi khi tỉnh dậy là đưa tay sờ lên đầu, chỗ để đội mũ
còn nguyên nhưng cái mũ sắt đã văng đâu mất. Biết chắc là mình còn sống, tôi cố gắng trấn tĩnh nhưng trong người
vẫn thảng thốt làm sao
ấy. Kết
quả của viên đạn làm bay mũ sắt trên đầu tôi đã làm tôi không còn suy nghĩ
gì nữa, ý nghĩ muốn chết
ngay lập tức đã không còn, mở đường máu hay không mở
đường máu không còn là vấn đề. Đầu óc tôi hoàn toàn đờ đẫn, trống rỗng. Giờ này có lẽ cũng một, hai giờ khuya gì rồi. Vấn đề của
tôi lúc này là ngủ. Ngồi dựa
lưng vào vách giao thông hào, tôi ngủ một
giấc. Giấc ngủ dĩ nhiên rất mệt mỏi
và chập chờn trong tiếng súng.
Không rõ tôi ngủ như vậy trong thời gian bao lâu. Bưởi đánh thức tôi dậy:
- Ông thầy, Tiểu
Đoàn 7 lên trám bớt tuyến
cho mình. 369 nói ông thầy rút
ngắn tuyến lại.
Tiểu Đoàn 7 là đơn vị được vận chuyển bằng xe từ Quảng Trị vào
nên đạn dược còn đầy đủ và sức
khỏe chưa bết bát như chúng tôi. Sau khi bắt tay nhau và sắp xếp xong khu vực
phòng thủ, tôi bèn làm một bài ca con cá kiếm chút đạn,
và đồng thời tôi vững tin hơn
rất nhiều vì phòng tuyến không còn quá rộng so với khả năng phòng thủ của chúng tôi trong
lúc này. Tuy nhiên tôi lại bị ám
ảnh trở lại bởi cái lệnh mở
đường máu.
Gần sáng 26. Biển yên gió lặng, trời sáng nhờ nhờ vì sương mù. Tôi nhận
lệnh cho tải thương binh ra
sát bờ biển để đợi tàu vào
bốc. Trung Úy Xuân đã biến mất
cùng tên lính mang máy. Tôi nói với cô gái Huế học Văn Khoa và vợ chồng người lính cao bồi của Trung Úy Xuân
còn nằm lại:
- Có tàu vào tải thương, mấy người ra bờ biển đi theo đám thương binh lên
tàu, trời còn tối, đi từ đây
xuống mé nước không nguy hiểm bao
nhiêu đâu.
Họ dắt nhau chạy băng từ mô cát này đến mô cát khác và biến mất trong màn sương.
Đã thấy bóng dáng đen xì của chiếc tàu vào sát bờ,
tôi đinh ninh là thế nào
cũng được tiếp tế thêm đạn, nhưng chờ đợi vô ích, vì đợi cho đến khi tàu ra tận ngoài khơi đã khá lâu mà vẫn chẳng thấy ai gọi
tôi đi nhận đạn. Hóa ra chúng tôi không được tiếp tế.
Tiếng súng thưa đã lâu, bây giờ lại bắt
đầu dồn dập. Bóng đêm bao che cho những người rút chạy, nhưng chúng tôi đã không lợi dụng bóng đêm nên bây giờ lại
phải đương đầu với những khó khăn, nguy hiểm càng lúc càng tăng.
Sương đã tan, mặt trời
chưa lên nhưng đường chân trời phương Đông đã sáng, đủ để chúng tôi thấy những chiếc tàu nhỏ đang
từ từ di chuyển qua lại ở mãi
ngoài xa.
Đại Đội Trưởng cho người gọi tôi:
- Ông bàn giao nốt tuyến của mình cho Tiểu Đoàn 7.
- Vậy
là không mở đường máu nữa à ?
- Mở cái
con mẹ gì, bộ ông ham lắm hả ?
- Nản thấy mẹ chứ ham gì ông.
- Hủy bỏ rồi.
- Tại sao tàu không vào bốc mình hồi đêm, và tại
sao tàu vào tải thương mà
không tiếp tế gì cho mình ?
- Bộ
ông tưởng tôi biết nhiều
hơn ông sao ?
- Bàn giao tuyến
cho Tiểu Đoàn 7 rồi mình đi đâu
?
- Về đàng sau. Thằng Xuân bỏ đơn vị xuống tàu rồi, thằng So dẫn nguyên
Đại Đội xuống tàu luôn rồi. Tiểu Đoàn kêu ông qua coi Đại Đội 3 thay Đại Úy Chiêu, sau
đó ông mang Đại Đội 3 trám vào tuyến của thằng So.
- Bao giờ tôi qua Đại Đội 3 ?
- Tiểu
Đoàn kêu ông từ hồi khuya, nhưng tôi chưa muốn để ông đi.
- Sao vậy ?
- Đại Đội 3 banh hết rồi, ông qua đó lúc này đâu có làm được cái mẹ gì. Lỡ bị
gì có phải kẹt
không!
Có thật là lỡ bị gì
‘’có phải kẹt không’’ hả Trung Úy Gắt, chắc là không
rồi. Đại Đội 3 mới thành lập, Đại
Đội Phó
chết, Đại Đội
Trưởng chết, mấy Trung Đội Trưởng còn lại chỉ là Chuẩn Úy, các
tay kia là Thiếu Úy lại tinh là những tay ba bứa, cứng đầu, đâu có
ai nói ai nghe. Gần như là một thông lệ, một đơn vị mới được thành lập hầu như được tập hợp bằng những
tay trật búa, những tay bị ‘’đi’’ từ
các đơn vị khác được đơn vị trưởng
‘’ưu ái’’ tống ra khỏi đơn vị. Đại
Đội 3 là Đại Đội
tập trung tất cả những thằng ‘’hết xài’’ của các Đại Đội khác trong Tiểu Đoàn, hiện giờ lại đang là một con rắn mất đầu. Tôi qua
làm Đại Đội Trưởng chỉ là để ổn định lại
Đại
Đội chứ đâu phải để đánh đấm. Rõ rệt là tôi đã có lệnh mang Đại Đội 3 trám vào tuyến Đại Đội
2 của Trung Úy So, tức là nằm ôm mặt
sau của Tiểu Đoàn. Trung Úy Gắt không cho tôi đi chắc chỉ vì Đại Đội
4 tôi chưa có ai được chuẩn bị để làm Đại Đội Phó. Mà thằng
Đại
Đội Phó Thủy Quân Lục Chiến mới là thằng chỉ huy Đại Đội
đánh đấm, ủi bãi.
Ông sợ cho tôi hay ông sợ cho ông. Ông đã làm mất một dịp làm Đại Đội
Trưởng của tôi. Xin thành thật cám ơn ông, ông
Trung Úy Gắt.
Bàn giao tuyến xong, Đại Đội
Trưởng lại gọi tôi đến. Bằng
một giọng giận dữ, Trung Úy Gắt nói:
- Đụ mẹ,
mình bị bỏ rơi rồi!
- Ông nhận
lịnh gì vậy ?
- Lịnh cái con cặc! Ó Lương lên tàu tải thương rồi, đụ mẹ, dắt theo Lữ Đoàn
Phó và thằng cha Trung Tá Tòng.
- Ủa, vậy
rồi ai ra lịnh cho Tiểu Đoàn
7 thế chỗ mình ?
- Thiếu
Tá Cang, Thiếu Tá Cang là Tiểu Đoàn
Trưởng Tiểu Đoàn
7.
Tôi buồn
chứ
không tức giận như Trung
Úy Gắt. Đã đến tình trạng này thì ai mà chẳng muốn chạy thoát lấy thân. Trung Úy So ngon lành nhất, So không chạy
một mình mà dẫn theo cả Đại Đội xuống tàu. Trung Úy Xuân khá hèn, bỏ cả Đại
Đội
chạy một mình, nhưng Xuân chỉ
là một Đại Đội Trưởng, cùng lắm thì tai tiếng chỉ loanh
quanh trong phạm vi nội bộ của Sư Đoàn. Đằng này, cả Lữ Đoàn Trưởng lẫn
Lữ Đoàn Phó bỏ Lữ Đoàn lại mà chạy, trời
đất ơi, Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng, Trung Tá Lữ Đoàn Phó Thủy Quân Lục Chiến đào
ngũ khi đối diện với địch quân. Tôi
không phải là chánh án tòa án quân sự mặt trận, tôi cũng không phải là một sĩ quan thượng cấp
để ra lệnh thi hành bản án tử hình theo quân luật hai ông xếp lớn
này, nhưng tôi là một thằng Thủy Quân Lục Chiến, tôi sẽ nhục nhã như thế nào khi những người của các binh chủng khác nói đến chuyện này. Sĩ quan cao cấp của Thủy Quân Lục Chiến mà lại
hèn đến thế sao ? Buồn thật!
Tôi không muốn nghĩ thêm nữa về vết nhơ này của Binh Chủng. Tôi hỏi Trung
Úy Gắt:
- Mình bàn
giao, rồi làm cái giống gì ở đàng sau ?
- Một chút nữa sẽ lại có tàu vô đón. Tiểu Đoàn mình được lên tàu trước tiên,
kế đến là Tiểu Đoàn 3 rồi đến Tiểu
Đoàn 5. Tiểu Đoàn 7 nằm lại lên sau cùng.
- Ai sắp xếp thứ tự này vậy 369 ?
- Thiếu
Tá Cang.
- Khi nào mình dzọt ?
- Khi nào có tàu vô Tiểu Đoàn 7 sẽ yểm trợ
cho mình chạy xuống mé biển.
Tôi trở về vị trí. Từ đây xuống
đến
mé nước, đoạn đường
độ khoảng trên dưới một trăm thước, cát khô. Tuy gần
nhưng đâu phải là dễ chạy. Tôi ra lệnh
cho cả Đại Đội cởi giày để
chạy trên cát cho dễ.
Tiếng súng thưa dần rồi im bặt. Trời sáng hẳn. Chúng tôi ngồi quay mặt ra
biển chờ đợi. Không còn tí vướng
bận gì về chuyện phòng thủ phía sau lưng.
Những người
lính ở tuyến sát biển
đang thập thò quanh những ụ cát thấp. Những con tàu vẫn từ từ qua lại ở ngoài xa. Sự yên lặng này có làm nặng nề
thêm không khí chiến trường ?
Có nặng nề, ngột ngạt chăng là với những người lính của Tiểu Đoàn
7. Họ có biết không những tính toán của
việt cộng và họ đã biết chưa
cái thứ tự ưu tiên sau cùng của họ ? Những người lính
của một người Tiểu Đoàn Trưởng anh hùng.
Với chúng tôi đoạn đường trăm thước
này được kể như là vũ môn
của những con cá chép. Sống chết dĩ
nhiên cũng tùy thuộc vào sức mạnh của đôi chân, càng
chạy nhanh thì càng rút ngắn được thời gian
điểm danh của thần chết, nhưng
sức mạnh của đôi chân vẫn
chỉ là thứ yếu, mà sống chết phần lớn là tùy thuộc
vào số mạng của từng người. Hãy tập trung tất cả khả năng của mình để chạy chết trên đoạn đường này, nhưng cũng
hãy bình thản để
chấp
nhận số mệnh. Tôi cố gắng làm cho trọn điều tâm niệm đọc được
của Nguyễn Mạnh Côn, ‘’làm cho hết sức mình rồi
bình tâm’’.
Nhưng, rất cố gắng mà
tôi vẫn không thể bình tâm được. Mới có được tí ti hy vọng là sẽ được tàu bốc, tôi đã đâm ra sợ
chết. Nếu tôi cầm súng chiến đấu, cầm
súng xung phong mà chết thì cái chết nó sẽ nhẹ nhàng hơn vì tôi không đang nghĩ đến nó, vì tôi còn đang hăng, vì
máu tôi còn đang nóng.
Còn bây giờ, chúng tôi buông súng,
quay lưng, ùa chạy như một đàn vịt và
chờ đợi một viên đạn ghim vào lưng,
cái chết này quả là nặng
nề, quả là lạnh căm.
Sống chết không còn tùy thuộc vào
khả năng của mình, mà sống chết
tùy thuộc vào may rủi, vào số mạng. Trời
kêu
ai nấy dạ. Trong lúc chờ đợi để thử thách
với trời này, tôi chỉ còn
có thể bám víu vào một đấng
nào đó không thuộc về con người, khốn nỗi tôi lại là một thằng vô thần, không Chúa không Phật, đi nhà thờ chỉ
để tán con chiên, đi chùa chỉ để theo tín nữ, vậy
thì Chúa nào Phật nào chịu giơ
tay cho tôi bám. Tôi bỗng nghĩ
đến ông ngoại tôi, lần đầu
tiên nghĩ đến ông sau khi ông chết đã hơn mười năm. Tôi lẩm nhẩm trong
miệng ‘’ông ơi cứu con! ông ơi cứu
con!’’ Bà ngoại đã chẳng từng dặn rằng ‘’có gì con cứ gọi đến ông, tối nào bà cũng thắp hương cầu ông
phù hộ cho con’’ đó sao.
Mắt tôi bỗng sáng lên khi thấy một
chiếc tàu quay mũi vào bờ. Trống ngực tôi đập thật mạnh, người tôi như lên
cơn sốt trong khi miệng tôi chợt đắng nghét, bụng
tôi thắt quặn lại, cố gắng một cách liên tục, dù hai hàm răng vẫn đập vào nhau, tôi vẫn lẩm bẩm ‘’ông ơi cứu con! ông ơi cứu con!’’
Tiếng súng việt cộng bắt đầu nổ, Tiểu
Đoàn 7 cũng bắt đầu bắn. Tôi nhìn
ngược nhìn xuôi kiểm soát và nhắc nhở con cái lần chót. Miệng tôi bật
ra tiếng hô:
- Dzọt!
Tất cả Đại
Đội ùa chạy.
Súng nổ nhiều hơn, nhiều loại súng nổ hơn, rền hơn, gắt hơn, nhắm
vào những mục tiêu di động là chúng tôi bắn
tới tấp hơn. Tôi cố gắng chạy thật nhanh, miệng không ngớt ‘’ông ơi, ông ơi’’, nhưng hình như người tôi nặng
hơn,
cát dưới chân hình như lún sâu hơn, thân
hình tôi hình như to lớn, dềnh dàng hơn. Mồ
hôi tôi vã ra, tai tôi ù đi,
mắt tôi hoa lên.
Hình như đâu
đó quanh tôi có những tiếng thét thất thanh, hình như đâu đó quanh tôi có những bóng người ngã xuống. Không gian thì ngắn mà sao thời
gian lại quá dài. Hình như thằng Bưởi
vẫn chạy sau lưng để đỡ tôi, hình như thằng Khải mang máy đang
kè kè bên cạnh tôi, và hình như tôi nghe loáng thoáng đâu đó tiếng
của những người lính la lớn ‘’tới rồi, tới
rồi, nhào xuống giao thông hào’’.
Không biết những
bàn tay nào đã hất tôi xuống
giao thông hào, không biết những bàn
tay nào đã đỡ tôi khỏi ngã. Tôi ngồi
phệt
xuống, dựa lưng vào bờ cát, miệng há ra mà thở nhưng
vẫn không mất âm thanh của hai tiếng
‘’ông ơi!’’.
Tiếng súng thưa
dần rồi im hẳn.
Sau khi hoàn hồn,
tôi đứng dậy nhìn lại đoạn đường vừa chạy, xác những người lính của Đại Đội
nằm rải rác đây đó trên bãi cát. Tôi không dám nhìn kỹ để nhận ra những ai, tôi không dám đếm để biết
là bao nhiêu người. Nước mắt tôi trào ra,
không hiểu là mừng vì mình còn sống hay vì thương những thằng em vắn số. Một
cái giá quá đắt trên một đoạn đường quá ngắn, một món nợ quá nặng chúng tôi phải
trả vì mấy ông xếp lớn của chúng tôi vay.
Tại sao chúng tôi chỉ được chạy như thế này vào ban ngày hả trời. Tôi đứng
đấy, mắt nhòa lệ, thẫn thờ.
Bưởi vỗ lưng
làm tôi giật mình:
- Ông thầy, 369 kêu.
- Ông ấy ở đâu
?
- Đằng kia, vừa nói Bưởi vừa lôi tôi đi. Đại Đội mình tập họp đằng sau ụ cát
kia.
Gọi là Đại Đội nhưng quân số chỉ
còn chừng một Trung Đội. Những
người
lính
của tôi còn lại đâu rồi ? Họ
đã nằm hết ở ngoài kia hay còn
đang lẩn quẩn đâu đó mà
tinh thần và thể xác chưa
được phục hồi.
Đại Đội Trưởng tôi, Trung Úy Gắt tuyên bố:
- Tôi không biết tàu có vào nổi để bốc chúng ta hay không, tôi tuyên bố kể từ
giờ phút
này, Đại Đội hết
chỉ huy, mạnh ai nấy lo.
Tôi sững sờ. Trời đất ơi, đụ mẹ, con cặc, tại sao lại tuyên bố một điều vô lý như
vậy được. Lúc này là lúc cần
sự chỉ huy nhất, lính tráng cần
sự hướng dẫn nhất
thì ông lại tuyên bố Đại Đội
mất chỉ huy. Đại Đội
đã tan hàng, Đại
Đội đã tanh banh nhưng Đại Đội vẫn còn tập họp lại được. Dù ít dù nhiều vẫn còn là một Đại Đội. Tại
sao thế này hả Trung Úy Gắt ? Tại sao ông lại đào ngũ một cách hèn nhát và công khai như vậy ? Tại
sao ông tuyên bố Đại Đội
mất chỉ huy mà ông còn gom những
thằng lính thân tín của ông lại ? Âm mưu xé lẻ lúc này có đáng mặt chỉ huy hay không ? Đã vậy mà còn tuyên bố. Tuyên bố
cái con cặc! Tại sao ông không dẫn mấy
thằng đệ tử ruột của
ông trốn cha nó đi từ trước khi tập họp có phải hay hơn không, có phải đỡ nhục hơn không ?
Tuy nhiên không sao, kể từ
giờ
phút này, theo đúng lời ông, ông không còn là
cái thằng con cặc gì ở trong
Đại Đội này nữa.
Đụ mẹ, nghe rõ không, Trung Úy Gắt. Cút cha ông đi!
Tôi nói lớn:
- Đại Đội Trưởng tuyên bố Đại Đội mất chỉ huy. Đứa nào muốn đi đâu thì đi.
Đứa nào muốn theo tao thì theo.
Tất cả
kéo dồn về tôi, không hiểu vì ngượng
hay vì thỏa mãn, Trung Úy Gắt dẫn mấy tên đệ tử
ruột đi ra một nơi khác.
Huy mập tức quá khóc rống lên:
- Đụ mẹ, tôi bị thương, tôi không thèm theo tàu tải thương,
tôi ở lại với lính, sống chết với tụi
nó. Tại sao ông đốn mạt đến
vậy hả ông xếp ơi!
Tàu đã vào gần nhưng chưa tìm
ra được một chỗ an toàn để cặp bờ nên vẫn cứ đi lên đi xuống. Những người dân, những người
lính của các đơn vị khác đã xuất hiện đông kín một khúc bờ cũng chạy lên chạy xuống theo hướng
chiếc tàu di chuyển.
Thiếu
Tá Thành Tiểu Đoàn Trưởng xuất hiện. Tôi có cảm
tình và kính trọng rất nhiều
với người chỉ huy này. Ông mới về Tiểu Đoàn, mặt mũi các sĩ quan thuộc cấp
trong Tiểu Đoàn ông còn chưa biết mặt hết,
gặp hết nói gì đến chuyện ông biết tánh tình và khả năng của họ. Làm Tiểu Đoàn Trưởng
được mấy ngày thì chạy, chết mất
Tiểu Đoàn Phó, chết mất một Đại Đội
Trưởng, banh luôn một Đại
Đội, đào ngũ một Đại Đội Trưởng, và một Đại
Đội
cũng đang lênh đênh trên biển, nằm ngoài sự kiểm soát của ông. Không hiểu Đại Đội
của Đại Úy Tài ra sao, Đại Đội tôi kể như rã đám. Vậy mà ông vẫn
chạy
ngược chạy xuôi cố gắng
tập
trung, gom góp những thằng đeo
bảng tên màu đỏ Tiểu Đoàn 4 để hướng dẫn, để cho biết tin tức, để khích
lệ tinh thần. Ông đã không lợi dụng tình trạng tan rã của Tiểu Đoàn để bỏ trốn
một
mình. Phải chi Quân Đội chỉ có tinh những cấp chỉ huy như Thiếu Tá Cang, Thiếu Tá
Thành.
Ông gọi tôi:
- Anh dẫn đám con cái của anh lên trên kia đợi sẵn, đừng chạy theo đám người
này cho mệt.
Hóa ra chúng tôi
đã được chuẩn bị sẵn một bãi bốc. Tôi chào ông rồi chúng tôi kéo nhau đi.
Tin tức về chỗ tàu sẽ vào bốc tưởng rằng rất kín đáo, rất bí mật, chỉ riêng Thủy Quân Lục Chiến biết, hóa ra đã có quá nhiều người biết. Chuyến
tàu dành riêng cho Tiểu Đoàn
4, nhưng khi chúng tôi đến
nơi, số người đã đứng đợi sẵn cũng có đến cả vài ngàn, xấp
xỉ với số người đang chạy ngược chạy xuôi theo chiếc tàu.
Con tàu khá nhỏ, sức chứa tối đã theo tôi ước lượng chỉ có thể chứa được hơn
ngàn người, đó là đã kể đến
trường hợp nêm người như nêm cối. Vậy
mà số người muốn được lên tàu, cũng theo ước lượng của tôi, có đến trên chục ngàn. Chắc chắn sẽ xảy ra một
cuộc thi tuyển bằng bắp
thịt và giá phải trả bằng máu,
bằng sinh mạng của từng thí
sinh để kiếm được một chỗ trên tàu. Một cuộc thi không có trọng tài, không có giám thị, không có hội đồng
giám khảo, mà cuộc thi chỉ
có những thí sinh là những người đang chạy
cho xa việt cộng, đang liều mạng sống
để khỏi rơi vào tay việt cộng.
Tôi rùng mình, tưởng rằng bàn giao tuyến cho Tiểu Đoàn 7, buông tay súng trở về phía sau là đã an toàn, yên ổn để lên tàu. Bây giờ mới thấy rằng còn quá nhiều cam go, còn quá nhiều nguy hiểm. Chỉ khác lúc trước là thay vì cầm súng
chiến đấu với địch, bây giờ chúng tôi không cầm súng và chiến đấu
với dân, chiến đấu với lính, với đồng đội, bạn bè mình, và cái giá
phải trả cũng không rẻ gì hơn. Chấp
nhận húc đầu vào
tranh giành với người nhà
để lọt được vào con số một phần
mười nếu được thì có một vé trên tàu, nếu thua thì thân xác sẽ trôi nổi bập bềnh
theo sóng nước. Không có một lựa chọn
nào khác nếu không muốn bị sa vào tay việt cộng.
Sẵn súng ống trong tay, chúng tôi chiếm được vị trí hàng
đầu trong đám đông đứng đợi tàu rất dễ dàng,
chẳng ai phản đối, chẳng ai la ó, họ sợ vì chúng tôi có
súng hay họ khinh vì không ai muốn
dây với hủi. Chuyện cùi hủi
gì đó nào còn nghĩa lý gì
trong lúc này. Vấn đề chính của lúc này là lên tàu, phải lên tàu bằng mọi giá. Những chuyện
khác tính sau.
Chiếc tàu từ từ
vào điểm hẹn.
Chúng tôi bị đám
đông phía sau đẩy lấn tới đàng trước. Cả khối người xô đẩy,
chen lấn ùn ùn dồn nhau ra biển. Tôi
bị đẩy ra xa bờ dần. Nước lên đến đầu gối tôi, nước lên đến bụng tôi, nước
lên đến ngực tôi. Nước lên nữa, lên cao nữa.
Sóng nâng đám người
lên cao, sóng đánh bật đám người
rã ra, nhận chìm đám người xuống
đáy, sóng đánh văng nhiều người lên bờ,
sóng kéo nhiều người
ra ngoài xa, sóng lại nâng đám người
lên cao, sóng lại đánh bật đám người rã ra, sóng lại
nhận chìm đám người xuống đáy, sóng lại kéo nhiều người ra ngoài xa. Cứ thế
sóng nhồi, cứ thế liên tục sóng nhồi.
Tôi đã ra xa bờ nhưng cũng phải còn xa tôi mới tới
được chiếc tàu. Nước và sóng
đã không để yên cho tôi bơi ra tàu theo một đường thẳng. Bụng tôi đã chứa khá nhiều nước biển, vậy
mà miệng tôi vẫn cứ tiếp tục
dồn nước biển vào bụng sau mỗi lần bị sóng nhồi, và cứ sau
mỗi lần
bị sóng nhồi, tôi lại ra
xa
bờ và xa chiếc tàu hơn một chút. Tha hồ mà ngụp lặn,
tha hồ mà vẫy vùng. Tiểu Đoàn 4 Kình Ngư nào có sợ gì biển cả. Tôi là một con cá kình đang ‘’nhởn nhơ’’ với biển to, đang ‘’tung tăng
vui đùa’’ cùng sóng dữ trong khi chân tay tôi mỏi nhừ dần, rã rời
dần, trong khi bụng tôi phình to dần vì nước biển. Cái chết đến mỗi lúc một gần tôi hơn. Con
‘’cá dữ’’ đang chờ lúc chết đuối.
Buồn ngủ gặp chiếu manh, tôi vớ được chiếc
ba lô căng phồng không biết của
ai. Tuy cái ba lô đã thấm khá nhiều nước nhưng vẫn có giá trị
của
một cái phao cứu mạng tôi lúc này. Tôi ôm chắc mà
không đeo vào lưng vì cái dây đeo
đã tụt ra khỏi
móc sắt. Tay ôm cứng ba lô, tôi thả nổi cái mạng sống bấp bênh của mình. Tuy đang chờ chết nhưng lần chờ
chết này tôi lại rất bình tĩnh, không hốt hoảng, không run
sợ như lần chờ viên đạn ghim sau lưng lúc nãy. Một chút thèm thuồng nhìn những người đã leo được lên tàu, và một chút hối tiếc nhìn những người còn đang đứng
trên bờ mỗi khi sóng đưa tôi lên cao. Tăng thêm một vài ngụm nước biển vào bụng, mất dần thêm một chút sức
lực
mỗi khi sóng nhận chìm tôi xuống. Tôi không còn ý
niệm về thời gian, nên
không thể nhớ nổi tình trạng
bập bềnh này kéo dài trong bao
nhiêu lâu.
Có một người không biết từ đâu đến,
xuất hiện
cạnh tôi, ối giào, cũng chỉ bình thường
như những người bình thường đang ngụp
lặn
giống tôi và quanh tôi. Nhưng không, anh chàng này không
giống ai hết, nét mặt của anh chàng có một cái vẻ gì đó có thể
gây nguy hiểm đến cho tôi. Linh cảm được điều này, nhưng tôi không làm sao có thể
tránh xa anh ta. Anh chàng nhìn tôi một cách van lơn, nhìn
cái ba lô tôi đang ôm một cách thèm thuồng, anh chàng cố gắng nói thật lớn với tôi, nhưng giọng bị
đứt quãng vì hụt hơi, vì mệt,
vì
gió và vì tiếng sóng:
- Anh đưa em ra tàu với. Em bơi
hết nổi rồi.
Hình như có
một dòng điện cao thế vừa chạm vào người tôi, tôi hốt hoảng, tôi
run lên vì sợ. Anh chàng này đúng
là thần chết đến bắt tôi đi. Trời ơi,
có phải thần chết cũng có khuôn mặt của người,
hay thần chết đang vờn tôi như mèo
vờn chuột. Tôi hấp tấp nói, chỉ sợ anh ta không kịp nghe tôi
nói:
- Tôi không ra tàu đâu, tôi đang quay vào bờ.
Mặc cho tôi không ra tàu, mặc cho tôi đang quay vào bờ, mặc
cho tôi hấp tấp nói, anh ta ôm cứng lấy tôi, biến tôi thành cái phao giống như tôi đang ôm cứng cái ba lô. Mặc cho tôi giẫy giụa, mặc cho tôi đạp, mặc cho tôi lên gối, sức nặng nghìn
cân ôm cứng lấy tôi. Người tôi từ từ
chìm xuống, cái ba lô không chịu nổi hai người
cũng từ từ chìm xuống. Anh chàng vẫn ôm
cứng lấy tôi và càng lúc càng cứng
hơn mặc dầu cả ba anh chàng, tôi và
cái ba lô đã chìm sâu xuống dưới
mặt nước, mặc dầu sóng vẫn nhồi
cả ba lên xuống, ‘’tung tăng’’ trong nước.
Một con sóng mạnh nâng bổng chúng tôi lên cao, thật cao rồi ném mạnh chúng tôi xuống. Anh chàng biến mất, cái ba lô cũng biến mất, chỉ còn lại mình tôi
ngơ ngẩn, nước chỉ còn ngang
ngực, tôi chỉ còn cách bờ hơn chục thước. Con sóng
lớn đã ném tôi vào bờ, con
sóng lớn đã cứu tôi. Không hiểu
anh chàng thần chết có được ném vào bờ như tôi không.
Tôi nương theo những con sóng nhỏ đi lần vào bờ. Cũng đã có rất nhiều
người quay trở lại bờ như tôi, chán nản, tuyệt vọng. Cũng vẫn còn rất nhiều người hăm
hở lội ra tàu.
Tôi đi thất thểu
trên bờ cát, không còn biết mình
phải làm gì, và cũng không quyết định được gì.
Tôi gặp
Thiếu Úy Sĩ, Lâm Chí Sĩ, Tiểu Đoàn
2 Pháo Binh, quần áo còn khô, mái
tóc mềm dài phủ ót bay bay theo gió, nụ cười bẽn lẽn như con gái cố hữu vẫn
nở trên môi, mặt Sĩ đang
phừng phừng vì rượu. Thấy tôi, Sĩ đưa tay vẫy:
- Ê Râu,
làm vài nắp cho ấm, mày.
Tôi sà ngay vào, uống liền tù tì năm, sáu nắp bi đông rượu. Rượu
khá nặng nhưng chỉ đủ làm nóng bụng
chứ không đủ làm ấm người.
- Rượu
đâu ra mà có giờ này vậy ?
Sĩ chỉ một người cũng mặc quần áo của Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh ngồi bên
cạnh.
- Của thằng này, thằng Lộc. Nó làm Phân Chi Khu Trưởng ở Gia Hội mang
theo cả bốn năm lít.
- Sao tụi mày không xuống tàu ? Sĩ cười
lớn
tiếng kiểu hát bội:
- Ha...ha...ha...còn mày sao không xuống tàu ? Tôi cũng cười, lắc đầu:
- Tao suýt chết đuối.
- Tội nghiệp thằng con trai, mày suýt chết đuối rồi cũng lại lên bờ, bố mày ngồi
đây nhậu để
coi những thằng suýt chết đuối như mày, bố mày cũng ở trên bờ.
Tôi gật gù:
- Mẹ kiếp,
cũng có lý.
Tôi ngồi nhậu và trở thành kẻ
bàng quan, ngồi ngắm nhìn thiên hạ. Rất nhiều
người từ biển trở lại bờ, người ngợm quần áo ướt sũng, kẻ khóc vì đã không ra được đến tàu, người cười vì vừa thoát chết, người đi lang thang thất
thểu, kẻ ngồi hoặc nằm vật ra bất
cần mọi chuyện sẽ ra sao.
Những người quần áo còn khô vẫn
nhấp nha nhấp nhổm, nửa
như muốn thử thời vận, nửa như rụt
rè sợ hãi. Chỉ có những người lính Quân Y Thủy Quân Lục Chiến là những người đặc biệt trong số những người quần áo khô. Họ không nhấp
nha nhấp nhổm mà họ hoạt động thực sự. Họ tập họp thành
những toán cấp cứu
đặc biệt, lăng xăng hết tiêm thuốc cho người này, lại hô hấp nhân tạo cho người
khác mới từ biển vào, hết băng
bó cho người này, lại đem
băng ca khiêng người khác. Xin cám
ơn và xin nghiêng mình kính phục những
người lính Quân Y này.
Ngoài xa, chiếc tàu đã đông
người nhưng vẫn còn đậu nguyên một chỗ, hình
như cố tình kéo dài thời
gian để bốc thêm được càng nhiều người càng tốt.
Sức tải không thành vấn đề chỉ có sức chứa của chiếc tàu và tinh thần của thủy
thủ đoàn mới là điều quan trọng.
Những người đã lên được
trên tàu đang cố gắng kéo những người vừa bám vào được thành tàu. Nhiều người không ai kéo đang cố gắng leo lên tàu từ mọi
chỗ có thể bám mà leo. Có người
leo lên được nhưng cũng có người
rơi trở lại xuống biển.
Lại còn có cả người trên tàu ngã xuống biển theo người mình đang cố kéo
lên.
Từ bờ ra đến tàu khoảng cách hơn trăm thước, tôi không còn trông thấy mầu
xanh của nước biển mà chỉ thuần
một mầu đen của đầu người. Đầu của những
người đang cố gắng bơi ra chiếc
tàu.
Trên tàu đã chật người, tỷ lệ
một phần mười hình như đã đủ số, trên bờ đã có khá nhiều người trở lại, dưới nước đã có nhiều người trôi dạt ra xa, nhưng cuộc thi đã chấm dứt hay chưa khi mà số người bơi ra vẫn còn nhiều và số người bám quanh tàu mỗi lúc một đông thêm.
Chiếc tàu bắt đầu
kéo bửng, những người bám vào bửng tàu được nâng lên
cao khỏi mặt nước,
một số người may mắn rơi ngay vào trong lòng tàu, số còn lại
lần lượt rơi xuống biển. Bửng tàu đã được kéo lên hoàn toàn nhưng không khép kín nổi vì
giữa bửng và thành tàu đã kẹp
cứng một thân người.
Người bị kẹp nửa thân trên nằm trong lòng tàu, nửa thân dưới thò ra ngoài,
hai chân giãy giụa, đạp đạp trong không khí được chừng nửa phút rồi ngay
đơ. Hai cái chân của người xấu
số trở thành có ích cho
nhiều người còn ở dưới nước, họ
bám vào đó để tiếp tục leo lên tàu. Lúc đầu hai cái chân còn đủ hai ống quần, dần
dần chẳng còn gì cả và
cuối
cùng, cả hai chân đều bị
gãy. Nhưng gãy thì gãy, người ta vẫn
bám vào đó để leo lên tàu. Ít ra cũng có
đến cả chục người leo được lên tàu nhờ cặp chân đó. Và chắc chắn
sẽ còn được thêm nhiều
người nữa nếu...
Chiếc tàu phụt khói từ từ quay
mũi ra biển. Chân vịt đạp
nước đẩy không biết
bao nhiêu người ra xa tàu, và không biết là đã chém đứt bao nhiêu người.
Thân tàu quay ngang đập vỡ không biết bao nhiêu đầu người, và không biết
đã nhận chìm bao nhiêu người xuống sâu dưới đáy
tàu.
Biết bao
nhiêu người đã chết vì chiếc tàu
quay mũi. Nhưng...
Chiếc tàu đã không ngừng
quay khi cái mũi đã hướng ra biển. Mà, chiếc tàu vẫn tiếp tục quay, mũi
tàu lại từ từ hướng vào
bờ. Chân vịt lại chém thêm không
biết là bao nhiêu người.
Thân tàu lại đập vỡ thêm không biết là bao nhiêu cái
đầu, và lại nhận chìm thêm không biết là bao nhiêu người xuống sâu dưới đáy tàu.
Tại sao chiếc tàu
bỗng dưng quay đúng một vòng tròn để
làm chết biết bao nhiêu là người như vậy ?
Đã có những xác chết trôi nổi
dập
dềnh xen lẫn với những xác sống đang cố bơi ra tàu hoặc đang cố giữ cho mình không trở thành
xác chết. Chiếc tàu lại nằm im như đang
mời gọi.
Chúng tôi ở cách xa vùng mặt trận có đến nửa cây
số, tiếng súng chỉ nghe văng
vẳng, nhưng chết chóc lại
nhiều hơn có đến cả trăm lần.
Ủa, tại
sao lại có người từ trên tàu nhảy xuống biển,
không lẽ mắt tôi đã hoa lên vì rượu. Không phải một người, hai người mà là rất nhiều. Rõ ràng là mắt tôi
trông thấy người ta leo qua lan can tàu, có người còn ngần
ngừ,
có người không ngần ngừ nhảy
xuống
biển. Lại có người lao mình
qua lan can tàu để nhảy
xuống biển.
Không tin nổi
ở mắt mình mặc dầu tôi đã dụi mắt thật nhiều
lần. Tôi hỏi
Sĩ:
- Mày có thấy
người ta nhảy từ trên tàu xuống biển không ? Sĩ cũng ngạc nhiên không kém tôi.
- Đụ
mẹ, kỳ quá mày!
Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, nhưng chúng tôi không có thời giờ để ngạc nhiên.
Hai chiếc M-113 chở đầy người chạy từ hướng mặt trận đã cán bừa lên
những người vừa từ biển lên còn đang nằm vật ra mà thở, và cán luôn cả những người không kịp chạy tránh đường.
Vừa thấy bóng Thiếu Úy Ngô Du, một Trung Đội Trưởng của Đại Đội tôi, từ dưới biển trở lên, đang lảo đảo như muốn ngã gần mé nước, tôi và Sĩ chạy vọt tới đỡ và kéo Du chạy thật nhanh
vừa kịp chiếc M-113 chạy lướt qua
sát người chúng tôi.
Hai chiếc M-113
lội xuống nước để ra chiếc
tàu.
Những cái bánh xích đua nhau cán lên đầu của không biết bao nhiêu là người
đang nhấp nhô từ bờ ra
đến tàu.
Ra đến nơi, chuyển hết người lên tàu xong, hai chiếc xe lội nước quay
đầu lội vào bờ. Lại không biết bao nhiêu là đầu người bị nghiền
nát bởi những cái bánh xích.
Vào đến bờ, hai chiếc M-113
ngừng lại. Từ vị trí tài xế, một cái đầu thò ra, nhìn
quanh rồi la lớn.
- Ai muốn lên tàu thì leo lên tôi chở ra.
Lúc đầu nhiều người
ngần ngại, nghi ngờ, nhưng rồi lác đác cũng có người leo lên. Có đến cả 15 phút mà hai
chiếc M-113 vẫn chưa đầy người.
Cái đầu lại thò ra, nhìn quanh rồi la lớn.
- Leo lên gấp đi
mấy cha, tôi ra chuyến này không trở vô nữa đâu. Lại có thêm vài người leo lên.
Tôi phân vân trong sự
chọn lựa. Nên hay không nên leo lên.
Tôi hỏi Sĩ:
- Lên không mày ?
Sĩ
lắc đầu:
- Tao không muốn chạy thoát bằng cái chết của những
người đang lóp ngóp dưới kia.
Câu nói của
Sĩ
đã cho tôi một quyết định:
- Mẹ kiếp, có mày có tao hay không có mày không có tao thì những người
đang lóp ngóp dưới kia cũng sẽ bị những
cái xích sắt này cán. Đừng có
triết lý ba xu
thằng con trai.
Sĩ cười
bướng:
- Tao có nói
khác gì mày đâu, nhưng
tao không.
- Được rồi, phụ tao đưa thằng Du lên.
Sĩ và tôi đưa Thiếu Úy Du lên thiết vận xa. Trước khi leo lên, tôi nắm chặt vai
Sĩ:
- Hy vọng sẽ
gặp mày ở Đà Nẵng. Sĩ nhìn
tôi cười:
- Đụ
mẹ, đồ cải lương, cút mẹ mày
đi thằng con trai. Hai chiếc M-113
lại lội nước ra tàu.
Lần này tôi mục kích tận mắt những cái xích sắt nghiến nát những đầu người.
Tiếng máy nổ và tiếng nước vỗ đã át đi những tiếng thét tiếng la và có thể, cả tiếng
vỡ của những cái đầu, nhưng không có
gì có thể che lấp được những mảnh quần áo và mầu đỏ của máu cuộn theo chiều quay của xích sắt. Màu đỏ của máu và những mảnh vải cuộn theo chúng tôi suốt cả
lộ trình khoảng một trăm
thước. Màu đỏ của máu và những mảnh quần áo chắc chắn còn dính cả thịt còn trồi lên, trồi
lên xen lẫn với bọt nước
phía sau chúng tôi. Không hiểu tôi có
dã man không, không hiểu tôi có chai đá không, không hiểu tôi
đã trở thành súc vật chưa, hay vì tôi đã nhìn thấy quá nhiều
cái chết từ sáng đến giờ, hay vì tôi đã yên tâm trên đường ra tàu an toàn mà tôi rất
thản nhiên, lòng tôi rất bình thản
khi nhìn những cái chết, quá nhiều cái chết ngay dưới chỗ
mình ngồi, bị chết bằng ngay cái phương tiện mình đang sử dụng. Tôi nhìn những cái chết như một kẻ bàng quan, vô thưởng vô phạt. Không hiểu thằng Sĩ
hèn nhát không dám nhìn cảnh này hay thằng Sĩ quá can đảm chọn lựa ở lại, chấp nhận
bất cứ một điều gì sẽ xảy ra cho nó khi sa vào tay việt cộng. Dù sao thì tao
cũng mong là lần chia tay vừa
rồi chỉ là tạm biệt thôi Sĩ ạ.
Chiếc M-113 cặp sát vào thành tàu.
Người trên tàu phần lớn là Thủy Quân Lục Chiến.
Lính của Tiểu Đoàn 4 tôi cũng khá đông. Tuy khoảng
cách từ mui xe
thiết giáp đến boong tàu khá xa nhưng
được khá nhiều đàn em giúp nên tôi và Du lên tàu không khó khăn gì mấy.
Có điều làm tôi xúc động là trong số người giúp tôi lên tàu có Binh Nhất Vạn, Nguyễn Văn
Vạn. Vạn là dân Vũng Tàu, khi nhỏ phải
đi bán báo chứ không được đi học, lớn một chút làm nghề đánh xe ngựa cho du khách, và nguồn lợi tức
chính là hành nghề mặt rô ở các quán bia ôm, các xóm chị em ta. Vạn là một tay du đang nổi tiếng ở Vũng
Tàu. Cách đây ít lâu, vì vi phạm kỷ luật, tôi đã cho đóng bốn cái cọc trói căng hai
chân hai tay Vạn ra, đánh theo hệ
thống quân giai, bắt đầu từ Tiểu
Đội
Phó là mười roi, đến Tiểu Đội
Trưởng số roi được nhân gấp đôi, và cứ theo cấp số nhân
như vậy mà đánh.
Mỗi lần Vạn xỉu là y tá chích thuốc và tạt nước vào người cho tỉnh dậy để đánh
tiếp. Chưa đến lượt tôi
đánh, Vạn đã xỉu ba lần. Sau trận đòn, chúng tôi phải đưa
Vạn lên bệnh xá của Lữ Đoàn, nằm lại
mười ngày vì bị đái ra máu.
Tôi không sợ chuyện
thù oán của lính tráng,
nhưng không thể ngờ được là
Vạn lại là người
hăng hái, sốt sắng nhất khi kéo tôi lên tàu.
Lên đến trên tàu, không khí
quá nặng nề ngột ngạt. Không phải nặng nề ngột
ngạt vì số người trên tàu quá đông, mà vì cả tàu đang bị bao trùm bằng mùi giết
chóc, căng thẳng.
Huy mập nhét vào
tay tôi khẩu súng ngắn, dặn dò:
- Súng tôi lên đạn
sẵn, ông giữ cẩn thận.
- Còn gì nữa
để mà phải thủ súng lên đạn sẵn
?
- Thì ông cứ giữ đề phòng. Biết đâu có lúc phải xài tới. Chưa
kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng
súng nổ.
Hai người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống
khiêng xác một người lính Bộ
Binh vừa bị bắn chết ném xuống biển. Một người lính Thủy Quân
Lục Chiến khác đang dí súng vào đầu một Trung Úy Bộ
Binh ra lệnh:
- Đụ
mẹ, có
xuống không ?
- Tôi lạy anh, anh cho tôi đi theo với.
- Đụ
mẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xuống
biển tao bắn.
- Tôi lạy
anh mà, tôi đâu có gia đinh ở ngoài này.
- Đụ
mẹ, một.
- Tôi lạy anh mà, anh đừng bắt
tôi ở lại, anh muốn lạy
bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết. Tôi lạy anh,
tôi lạy anh.
- Đụ
mẹ, hai.
- Trời đất, mình đồng đội với nhau mà, anh không thương gì tôi hết. Tôi lạy
anh mà.
- Đụ
mẹ, ba.
Tiếng ba vừa
dứt, tiếng súng nổ.
Người Trung Úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn M-16 chui vào từ đỉnh đầu. Xác của anh ta được hai người lính Thủy
Quân Lục Chiến khác khiêng ném xuống
biển.
Tên lính vừa bắn người thản nhiên tiếp tục chĩa súng vào đầu một Thiếu Tá
Bộ Binh đang sợ hãi nằm mọp
người ở cạnh đó, mặt lạnh
băng đầy sát khí:
- Đụ
mẹ, tới thằng này, mày có
xuống không ?
Ông Thiếu Tá Bộ
Binh này hơi lớn tuổi, mặt cắt
không còn hột máu, run lên cầm cập, năn
nỉ:
- Anh tha cho em,
anh tha cho em.
- Đụ
mẹ, một.
- Thôi, thôi, thôi anh
để em xuống.
Lết ra tới
lan can tàu, ông ta quay lại năn nỉ lần chót:
- Anh tha cho em, anh thương em với.
- Đụ
mẹ, hai.
Biết là không thể năn nỉ, xin xỏ gì được, ông ta vừa khóc vừa nhảy xuống
biển.
Cùng trong thời gian đó, tôi nghe thấy nhiều tiếng súng khác ở nhiều nơi khác
nhau trên tàu.
Huy mập cho biết:
- Tàu chở nặng
quá nên bị mắc cạn. Hồi nãy cố ra thử nhưng không nổi nên
quay đúng một vòng tròn rồi hết nhúc nhích. Ông Thuyền Trưởng cho biết là tàu
dành riêng cho Thủy Quân Lục
Chiến,
nên yêu cầu những ai không phải Thủy Quân Lục Chiến rời tàu. Ông Râu thấy không,
sức mấy mà người ta chịu xuống. Thành ra
ông Thuyền Trưởng yêu cầu Thủy
Quân Lục Chiến giải quyết. Lính mình tụi nó giải quyết bằng súng.
- Vậy thì có nhằm nhò gì đến tôi mà ông bắt tôi phải thủ khẩu súng trong
người.
- Bộ ông tưởng thằng mặc đồ rằn nào cũng là Thủy Quân Lục Chiến sao. Và
bộ ông tưởng thằng Thủy Quân Lục Chiến nào cũng phải biết ông sao.
Trong lúc hỗn quân hỗn quan này, ông không lo thủ lấy thân còn ai lo cho ông
đây.
Tiếng súng vẫn đi
đoành đây đó trên tàu.
Xác người vẫn tiếp tục bị ném xuống
biển. Nhiều người vừa khóc vừa nhảy ra khỏi tàu. Những khẩu súng vẫn được kê vào đầu những người lính Bộ Binh, vẫn đi đoành.
Tình người! Tình chiến hữu!
Tôi đứng nhìn bất lực.
Tôi hoàn toàn bất lực trước cảnh đau xót này.
Thiếu Tá Thành Tiểu Đoàn Trưởng cũng có mặt trên
tàu nhưng tôi tìm không gặp. Chắc Thiếu
Tá Thành cũng chỉ bất lực
như tôi.
Gặp Trung Úy Nghĩa, Hoàng Trung Nghĩa Đại Đội 1, hai đứa rủ nhau ra góc tàu phía sau đài chỉ huy. Nghĩa
nói như một lời nhận tội về sự
bất lực của mình.
- Tụi nó giết người dã man quá. Kiếm chỗ khuất này ngồi may ra còn đánh lừa
được con mắt của mình.
Một người
lính còn mặc mỗi cái quần rằn,
mặt ngơ ngác, mắt
thất thần hai tay
giơ ra phía trước như phân
bua như làm chứng cho lời nói chỉ sợ người nghe không tin.
- Vợ tôi chết rồi, chết dưới biển rồi, thật mà, tôi nói thật mà, vợ tôi chết thật rồi, chết
đuối dưới biển rồi mà!
Một cô gái trần truồng, không còn một tí gì gọi là vải
trên người, hai tay không che hết những
chỗ cần che trên thân thể nên cũng
chẳng buồn che, mặt còn in đủ những cảnh khủng khiếp vừa trải qua, hai con mắt mở
to ráo hoảnh. Còn gì nữa đâu
để mà phải mắc cở, còn gì nữa đâu để mà phải khóc lóc. Cô ta đón nhận một cách hững hờ cái quần của
một người lính và cái áo của một người
lính khác.
Tôi nói với Nghĩa:
- Thôi thì phó mặc, đã leo lên được trên tàu này rồi, sống hay chết, chạy
thoát hay bị bắt nằm ngoài khả năng của mình. Giao hết mọi thứ cho
số mạng.
- Mày cũng đổ cho số mạng cái chết của những người lính Bộ Binh đang bị
bắn kia à ?
Tôi cãi bướng:
- Mỗi người có một số mạng tận cùng nên mới có thành ngữ ‘’tận cùng bằng
số’’.
Số người trên tàu đã vơi đi thật nhiều, chiếc tàu đã nhẹ hơn trước, nhưng
nước thủy triều xuống còn nhanh hơn nên chiếc tàu vẫn bị mắc cạn. Thêm nữa, một máy tàu bị hỏng không biết từ lúc nào, thợ máy cũng bó tay, nên chỉ còn một cách duy nhất là cầu
cứu chiếc tàu khác vào kéo.
Mọi người đều bồn
chồn nóng nảy, thủy thủ đoàn lăng xăng
gọi nhau ơi ới, tiếng súng vẫn tiếp
tục nổ đi đoành đó đây trên tàu, tiếng khóc, tiếng la, tiếng cười, tiếng chửi
thề
cộng chung với nhau tạo thành một thứ âm thanh hỗn độn không thể gọi tên một cách chính xác.
Thuyền Trưởng là một ông Chuẩn Úy già, Chuẩn Úy Tấn cố gắng một cách
liên tục vừa đốc thúc sửa máy vừa liên lạc với những chiếc tàu khác còn đang qua lại
ngoài khơi.
Thời gian chờ
đợi nào cũng dài hơn giờ thực sự của kim đồng hồ. Một chiếc tàu từ ngoài khơi
quay mũi vào bờ để tiếp cứu.
Thủy thủ đoàn, gọi
là thủy thủ đoàn nhưng thực ra
ngoài ông Thuyền Trưởng già đang liên lạc máy và người thợ máy đang cố gắng sửa máy dưới hầm, họ chỉ
còn khoảng chừng ba, bốn người, được sự
tiếp tay của
mấy người Thủy Quân Lục
Chiến còn khỏe
mạnh lo chuẩn bị dây cáp để chuyền
sang chiếc tàu đãng từ ngoài vào.
Nhưng chiếc tàu vào cứu đã không vào được đến nơi,
vì khi còn cách chúng tôi chừng trăm thước, chiếc tàu đã ăn nguyên một quả tàn tàn, tàn tàn là tên chúng
tôi đặt cho loại hỏa tiễn tầm nhiệt AT-3 của việt cộng. Có lẽ chỉ bị hư một
máy nên chiếc tàu đã từ từ quay mũi
và trở ra ngoài khơi. Vị cứu tinh của chúng tôi đã
bỏ đi,
niềm hy vọng của chúng tôi đã chạy mất.
Đến bây giờ mọi người mới sực
nghĩ là mình vẫn còn đang
nằm
trong tầm súng của việt cộng.
Cảm giác hãi hùng truyền đến cho tất cả mọi người trên tàu. Chúng tôi đang là
những con cá đã nằm trên thớt, vậy mà không một ai để ý. Mọi
người chỉ để ý đến một điều là tranh giành nhau, bắn giết nhau để có được một chỗ ‘’ngon lành’’ trên
‘’cái thớt’’. Nhưng đã trót thì phải trét, không lẽ chúng tôi lại chịu
bó tay, còn nước thì còn tát. Ông Thuyền Trưởng già lại liên lạc liên tục để xin tàu khác vào cứu, nhưng hình như hệ thống truyền tin của
Hải
Quân lúc này đang ‘’hỏng’’, hay vì hiệu thính viên của các tàu khác đang ‘’ngủ
gục’’ nên có đến cả gần một
tiếng đồng hồ, ông
Thuyền Trưởng vẫn không liên lạc được với bất cứ một chiếc
tàu khác nào nữa. Giở khóc giở
cười, ông ta nói với Thiếu Tá Thành, Tiểu Đoàn Trưởng tôi.
- Tôi không thể nào liên lạc được với những
chiếc tàu ngoài kia nữa. Chắc chắn là tụi nó có nghe nhưng thằng nào cũng lạnh gáy nên không dám trả lời. Bây
giờ nhờ Thiếu Tá liên lạc qua hệ thống
của Thủy Quân Lục Chiến xem có giúp
giải quyết được gì không ?
Thiếu Tá Thành
vào Đài Chỉ Huy. Chừng nửa giờ sau, ông ra cho biết:
- Sẽ có một chiếc tàu nữa vào kéo, nhưng không vào sát trong này. Mình phải
cho người đem dây cáp ra miết
ngoài xa giao cho nó.
Một chiếc ca nô cấp cứu được hạ xuống biển. Kêu gọi và tuyển lựa
được một tay lính Thủy Quân Lục
Chiến bơi giỏi và khỏe mạnh xuống theo chiếc ca nô, bơi bằng dầm để mang dây
cáp ra ngoài xa đón chiếc tàu sắp
vào.
Nước thủy triều vẫn
đang rút, gió đã ngưng thổi từ
lâu, nhưng không hiểu tại
sao lại có sóng. Mọi người đổ dồn cặp mắt vào chiếc ca nô bị sóng
nhồi, dập dềnh từ từ ra biển. Đã có một chiếc tàu khác quay mũi vào, nhưng với vận tốc của chiếc ca nô thì còn khướt đầu dây cáp mới đưa được lên chiếc
tàu vào cứu.
Ù uỳnh.
Tiếng nổ long trời làm tai tôi ù đi, mắt tôi hoa lên, hai hàm tôi tê dại đi. Sức ép
của tiếng nổ làm tôi khó thở, phải
há miệng ra để hớp không khí.
Một quả đạn đã bắn trúng Đài Chỉ Huy.
Dưới sàn tàu, người
ta dồn nhau về bên này, rồi dồn nhau về bên kia, rồi lại
dồn nhau về bên này tàu. Mọi người đều cố tìm một lối để chạy, nhưng, làm gì có lối nào để mà chạy.
Chắc chắn là có rất nhiều người bị
chèn, bị ép, bị dẫm, bị đạp bởi mỗi một lần
người ta dồn nhau. Nhiều tiếng
la, nhiều tiếng hét, nhiều tiếng gào vang lên. Nhiều tiếng
chửi rủa cũng vang lên.
Trên boong tàu, cảnh chết chóc mới thật là khủng khiếp. Thịt, óc, quần áo,
máu văng tứ tung trên thành
tàu, lên thành đài chỉ huy, máu chảy lênh láng không
còn chỗ nào là không có máu. Những tiếng rên, những tiếng khóc, những tiếng
van vái của những người bị thương hòa lẫn với những tiếng kêu gọi nhau ơi ới của những người còn nguyên vẹn. Tôi không thể nhận ra được trong đám người chết, trong đám người bị thương đang nằm trên vũng máu khổng lồ ai là người mình quen, ai là người trong Đại
Đội mình. Chỉ
trừ
một người tôi nhận ra, Binh Nhất Dũng
mang băng ca kiêm thợ hớt tóc của Đại Đội. Dũng ngồi dựa lưng vào thành tàu, hai
chân duỗi dài, đầu bị chẻ dọc gần
như làm đôi, nửa đầu nhỏ hơn gẫy gập
xuống gần chấm đến vai.
Óc và máu văng dính vào thành tàu. Tôi nhận
ra Dũng nhờ bảng tên không bị đẫm máu và hai bàn tay có những móng tay để
dài hơn móng tay con gái
của Dũng.
Thiếu Tá Thành bị thương vào chân
đang được y tá băng bó. Ông Chuẩn Úy Tấn Thuyền Trưởng già bị thương vào
đầu, đang quấn băng
cá nhân quanh trán, trông như người đang quấn khăn tang.
Tôi hét to cố
át những
tiếng ồn ào để hỏi ông Thuyền
Trưởng già:
- Súng trên tàu còn sử dụng được không ?
Ông Thuyền Trưởng già vừa mấp máy đôi môi vừa gật đầu. Tôi lại gần ông ta, nói cũng
vẫn khá to vì tai tôi vẫn chưa hết bị ù:
- Ông cho súng bắn tập trung vào cái miếu trên bờ kia kìa.
Trên bờ đã vắng tanh vắng ngắt, không một bóng người, xa xa phía trong chừng một vài trăm thước nằm trơ ra độc nhất có một cái
miếu thấp thoáng có bóng
người. Những bụi rậm, những lùm dương còn nằm sâu hơn nữa ở mút phía trong. Khẩu súng đã bắn chúng tôi chắc chắn là phải được đặt trong miếu.
Bây giờ chúng tôi lại mới nhận ra được một điều nữa, sau khi quan sát cái miếu và bờ
biển. Mũi cái tàu mắc cạn
của
chúng tôi chỉ còn
cách mé nước khoảng chưa đầy ba thước. Cả
cái tàu đã nằm phơi gần hết thân trên cát.
Thiếu Tá
Thành ra lệnh cho ông Thuyền
Trưởng và tôi:
- Huy ở trên này cho lính bắn tập
trung vào cái miếu để yểm trợ.
Ông Thuyền Trưởng cho hạ bửng tàu xuống để mọi người lên bờ.
Khi lên bờ xong, Huy cho nhặt súng đạn chuyển lên bờ cho mọi người. Ông Thuyền Trưởng cho gom tất cả những
dụng cụ đựng nước ngọt và thực
phẩm mang lên bờ.
Tiếng súng nhỏ từ trên bờ bắt đầu bắn ra tàu khi cái bửng được từ từ hạ
xuống.
Dưới sàn tàu đã nhốn nháo từ khi bị quả đạn, bây giờ lại càng nhốn nháo hơn vì cái bửng tàu không còn là vật che đạn
cho mọi người nữa.
Bằng cái loa trên
tàu, Thiếu Tá Thành ra lệnh:
- Tất cả mọi người rời khỏi tàu lên bờ. Càng nấn ná trên tàu bao nhiêu càng dễ chết bấy nhiêu.
Súng trên tàu nổ ròn nhưng vẫn không đủ khả năng làm câm họng những khẩu súng bắn từ trên bờ.
Nhiều người ngã
chết ngay trên bửng tàu, nhiều người ngã
chết ngay trong
lòng tàu.
Nhiều
người vẫn tiếp tục nhảy vào bờ.
Bây giờ không còn gọi được là lên bờ
vì bửng tàu đã lên cao hơn mặt cát có đến hơn
một
thước. Vượt qua được cái
‘’ải’’ bửng tàu là đã
được an toàn vì vào sâu
trong bờ chừng chục thước có một bờ
cát cao lên che khuất được đầu người.
Nhiều người không dám vượt qua cái ải bửng tàu, nằm co rúm, nép người
vào thành tàu.
Nhưng không dám vượt qua bửng tàu để vào bờ vẫn không thể được coi là
an toàn. Nhiều quả đạn M-79 đã được bắn
vòng cầu rơi vào nổ ngay trong lòng tàu, nổ ngay trên sàn tàu.
Tôi vẫn cố gắng quan sát vị
trí
của địch để chỉ
điểm mục tiêu cho những khẩu súng trên tàu, nhưng ngoài cái miếu ra, tôi chỉ có thể biết thêm được
là việt cộng còn nằm rải rác đằng sau những mô cát thấp. Bắn thì chúng tôi
cứ bắn chứ kết quả
thì không đáng kể, chỉ đủ làm giảm
bớt tiếng súng của địch một phần
nào gọi là thôi.
Mũi tàu đã được hạ bửng là một mục
tiêu cố định và ngon lành cho những
tay súng của việt cộng tập bắn. Nhưng dù thế nào, số người
vào được trong bờ vẫn mỗi lúc một đông thêm.
Thiếu Tá Thành đã vào bờ trước, ông đang bố trí mọi người
để
lập thành một tuyến
phòng thủ mới.
Khi trên tàu đã
vắng người, khi tiếng súng
đã thưa và khi tại tuyến phòng thủ mới đã có thể bắn cầm chừng, tôi và mấy xạ thủ trên tàu mới nhảy xuống sàn tàu, lại một cảnh chết chóc nữa đập vào mắt tôi. Những người bị dẫm nát không còn hình thù của một con người, thịt
da nhầy nhụa.
Những người bị dồn ép ngộp thở
mà chết trông khá nhất, họ
nằm chết trông như ngủ.
Những người bị đạn bắn chết nằm gục ngang gục ngửa, có người bị trúng
đạn ở đầu, có kẻ
trúng mặt, người trúng ngực, kẻ trúng
bụng.
Họ trúng đạn
đủ chỗ và nằm chết đủ kiểu.
Những người bị thương đang quằn quại,
rên la.
Có người ngồi
gục đầu xuống, máu từ ngực
phụt ra có vòi như vòi nước. Chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện mang những người bị thương vào bờ. Nằm
trên tàu hay khiêng vào bờ nào có khác gì nhau. Có biết đến bao nhiêu người bị thương,
làm sao mà lo cho xuể trong khi chính
những người còn khỏe mạnh lo cho nhau, lo cho mạng sống của mình còn chưa xong. Tôi thấy Trung
Úy Chức Tiểu Đoàn
2 Pháo Binh bị thương không
biết
nặng nhẹ, máu ướt đẫm áo quần, nằm thoi
thóp.
Tôi ngạc nhiên khi thấy cô gái Huế
học
Văn Khoa đang ngồi vái trời vái Phật, miệng ngoác
ra mà khóc. Không hiểu tại
sao cô nàng lại ở trên tàu.
Đúng ra cô ta đã phải ở trên chiếc tàu cùng với Lữ Đoàn Trưởng và Lữ Đoàn
Phó của tôi, đang lênh
đênh ở ngoài khơi kia.
Nhưng tôi cũng chẳng có thời giờ đâu mà thắc mắc. Tôi nói lớn với cô ta:
- Thôi chứ cô nàng,
không lo mà vô bờ đi, còn bày đặt mà ngồi đó vái cái thành tàu.
Bưởi nói với tôi:
- Con nhỏ này là việt cộng đó ông thầy,
nó ngồi trên tàu làm bộ khóc, làm bộ vái trời, chứ thật ra là chỉ điểm cho việt cộng. Ông nhớ không, hồi tối ở tuyến nó
cũng khóc rùm trời.
Tôi phì cười:
- Bộ mày tưởng nó ngồi đó làm hiệu rồi việt cộng tránh không bắn nó, hay mày
tưởng đạn của việt cộng
biết nó cùng một phe nên né nó.
- Chứ sao nó ngồi trên đó mà không
trúng đạn ?
Tôi không thể trả lời và cũng không thể giải thích như thế nào. Mọi
câu trả lời nếu được thỏa đáng
đều phải vịn vào một đấng
vô hình.
Tôi vào bờ cát. Tiếng
súng đã im.
Trời đã về chiều, hình
như là ba hay bốn giờ gì đó. Chúng
tôi đứng một hàng dọc dọc theo
bờ cát.
Mặt trời chiều chiếu thẳng vào mặt.
Sóng vỗ nhè nhẹ
sau lưng.
Tôi nhìn quanh cố tìm những
khuôn mặt quen thuộc trong Đại Đội, chẳng có
bao nhiêu, chừng năm, bảy mạng
gì đó. Đâu rồi Đại Đội Trưởng,
đâu rồi Huy mập, đâu rồi
Ngô Dzu, đâu rồi Khải máy,
Phước râu, đâu rồi Đăng....đâu rồi tụi bay ?
Lòng tôi chùng xuống, nước mắt
trào ra. Bao nhiêu gian lao, bao nhiêu khổ ải từ bao nhiêu năm nay không sao, không lẽ lại rủ nhau cùng chết một cách
đau thương tức tưởi và lãng nhách ở đây hay sao ?
Thiếu Tá Thành
từ phía đầu kia của tuyến đi lại:
- Ông Huy, súng đạn của mình hiện giờ ra sao rồi ?
- Không bao nhiêu hết, Thiếu Tá. Tôi đang
cho người đi nhặt súng đem xuống rửa
dưới biển.
Vừa lúc, một chiếc GMC từ phía Nam đi trờ tới, Thiếu Tá Thành chận xe lại và
nói với tôi:
- Huy ở đây
chỉ huy tuyến
này. Tôi đi kiếm thêm súng
đạn.
Chiếc GMC tiếp tục chạy lên hướng Bắc, trên xe chỉ có Thiếu Tá Thành và người tài xế.
Tôi đi
một vòng dọc tuyến, thấy mấy người lính Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh, tôi nói với họ:
- Tụi
bay lên tàu khiêng Trung Úy Chức xuống.
Điều này gợi tôi quyết định lập một toán khỏe mạnh
lên tàu khiêng những người bị thương xuống. Nhưng dĩ nhiên cũng chỉ khiêng những ai là Thủy Quân Lục
Chiến, còn những người thuộc các Binh Chủng khác thôi thì kệ họ.
Tôi cũng cho người lên tàu kiếm đạn và đồng thời tìm cách chuyển nước
ngọt xuống tiếp tế
cho mọi người.
Tôi hơi
ngạc nhiên khi thấy những người lính này, không phải là tất cả nhưng cũng không phải là ít, lúc nãy khi
còn ở trên tàu, họ hung hăng dữ tợ
bao nhiêu thì bây giờ họ lại hiền
lành ngoan ngoãn bấy nhiêu. Tuyến phòng thủ
cấp thời này được tập hợp bằng
những người lính của khá nhiều
đơn vị khác nhau của Thủy Quân Lục
Chiến, Tiểu Đoàn 3, Tiểu Đoàn 4, Tiểu Đoàn 5, Tiểu Đoàn 7, Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh, lính Vận Tải, Truyền
Tin, lính Quân Y, Viễn Thám...Tôi không phải là cấp chỉ huy trực
tiếp của họ, lúc nãy họ có thể hứng chí tặng
tôi một viên vào đầu sau những tiếng đếm
đụ mẹ một, đụ mẹ
hai, đụ mẹ ba. Nhưng bây
giờ họ tuân lệnh tôi một cách tuyệt đối.
Kỷ luật quả thật là một
yếu tố căn bản để tạo thành sức
mạnh của Quân Đội. Khi đã mất chỉ huy, khi mọi thằng đã bằng nhau thì thằng nào mạnh, thằng
nào có súng thằng ấy nắm quyền sinh sát. Khi tình trạng bằng nhau đã hết, tình trạng
hỗn quân hỗn quan đã hết, khi sự chỉ
huy được tái lập, mọi người lại răm rắp
đâu vào đấy.
Bây giờ đến lượt chính tôi kê súng vào đầu một người lính, tay này to cao như
một thằng Mỹ, cởi trần trùng trục, xâm đầy
hình và chữ trên tay, trên lưng, trên ngực, tay khư khư ôm một
khẩu M-79, đã không dám đứng dậy để chiến
đấu, mà lại cũng không chịu giao súng cho ai. Tôi nói:
- Đụ mẹ, tao đếm tới ba, mày không đứng dậy hoặc không đưa súng cho tao,
đụ mẹ, tao bắn.
- Súng của
em mà Trung Úy.
- Đụ
mẹ, một.
- Em mệt quá rồi Trung Úy, Trung Úy cho em ngồi nghỉ mệt chút rồi
em đứng dậy, Trung Úy.
- Đụ
mẹ, hai.
- Trời ơi, ông giết em thật sao Trung Úy ?
- Đụ
mẹ, ba.
Tiếng
ba chưa dứt, tên lính vội vàng đưa khẩu súng M-79 bằng cả hai tay cho
tôi, miệng lắp bắp:
- Súng đây Trung Úy, súng đây Trung Úy.
Tôi lấy khẩu
súng giao cho một người lính đứng cạnh đó.
Tôi không
cố tâm bắn chết người lính
này, nhưng nếu anh chàng không giao
súng cho tôi hoặc không
đứng dậy để chiến đấu, thôi thì cũng đành vậy. May cho anh
chàng và cũng may cả cho tôi!
Không có bóng dáng một người
lính Bộ Binh nào trong tuyến này.
Khi xuống tàu thì tranh giành cũng ra gì lắm, nhưng
khi cần phải cầm súng đánh nhau với việt
cộng thì chỉ còn chúng tôi. Phải chăng họ hận chúng tôi vì chuyện vừa xảy ra trên tàu hay vì chúng tôi
là những thằng được khoán trắng cho việc đánh trận. Trừ một số người tuy không bị thương nhưng vẫn nhất định nằm lì lại trên tàu, không hiểu họ
còn hy vọng gì nơi cái tàu đã nằm hơn
nửa thân trên cát những người còn lại không biết đã chạy biến
đi đâu mất.
Sự vắng mặt của những người lính Bộ Binh đã làm nhiều người lính Thủy Quân
Lục Chiến càng thêm tin là quả đạn bắn vào Đài Chỉ Huy chiếc tàu lúc nãy là do những người lính của Sư Đoàn 1.
Những lời bàn tán và đồn đai:
- Bọn
Sư Đoàn 1 bị bắn và bị đuổi xuống tàu
đã lấy đại bác 57 ly không giựt bắn vào tàu. Không được ăn thì
đạp đổ!
Tôi không
tin điều này, vì những
người lính Bộ Binh làm gì còn súng 57 ly
trong lúc này. Nhưng những lời đồn và
bàn tán mỗi lúc một nhiều
cũng khiến tôi bắt đầu nghi ngờ
sự suy đoán của mình.
Người tài xế chiếc xe GMC chở Thiếu Tá Thành đi kiếm đạn lúc nãy hớt hơ
hớt hãi chạy bộ
về. Anh ta báo cáo với tôi:
- Thiếu
Tá bị
bắt rồi Trung Úy.
- Tại sao mày lại về được đây ?
- Em chở Thiếu
Tá đi lên cách đây chừng
hai cây số, bị việt cộng chận
lại.
Em khai là Binh Nhì, Thiếu Tá
ổng khai là Hạ Sĩ. Tụi nó tịch thu xe rồi nói
em thay đồ dân sự về Huế mà sống, hình như tụi nó biết Thiếu Tá là sĩ
quan nên bắt đi theo.
Em lừa lừa rồi trốn về đây.
Niềm hy vọng kiếm thêm được súng đạn đã tiêu tan, cấp chỉ huy của tôi đã bị bắt. Súng đạn đi mót nhặt tại chỗ dù đã rỉ sét vẫn không đủ cung cấp cho chúng tôi trong
khi chúng tôi vẫn bắt buộc phải bắn cầm chừng để giữ chân việt cộng. Sau một hồi
bàn bạc với các sĩ quan khác, tôi quyết định bỏ cái tuyến này, rời xa chiếc tàu mắc
cạn, kéo nhau vào tuyến
của Lữ Đoàn còn đang chiến
đấu ở phía Nam, nơi mà chúng tôi đã tách ra hồi sáng để kéo nhau xuống tàu.
Khi về gần đến tuyến của Lữ Đoàn, chúng tôi bị một loạt đạn đại liên từ chiếc
M-113 đậu ngang tuyến của Tiểu Đoàn 5 bắn xẹt trên đầu
chúng tôi.
Mấy người lính Tiểu Đoàn 5 đứng
trên chiếc thiết vận xa khoát khoát tay ra hiệu không cho chúng tôi vào tuyến.
Chúng tôi giơ hai tay lên đầu giống như những kẻ đầu hàng để chứng tỏ chúng
tôi không còn khả năng chiến đấu. Vừa giơ tay chúng
tôi vừa tiếp tục đi tới. Lần này khẩu đại liên trên chiếc M-113 nhắm thẳng chân của những người đi đầu của chúng tôi mà bắn, đồng
thời chúng tôi còn lãnh thêm mấy quả đạn
M-79. Bốn, năm người bị thương ngã lăn ra cát.
Từ sáng đến giờ, thời gian chưa đầy mười tiếng đồng hồ, chúng tôi đã trải
qua không biết bao nhiêu nỗi kinh hoàng. Bao nhiêu người
đã chết, bao nhiêu hy vọng
đã tiêu tan. Bây giờ trở về để nương nhờ những người bạn, những đồng đội
trong cùng Binh Chủng. Nhưng cánh cửa đã khép chặt, chúng tôi bị xua đuổi bằng những
tràng đại liên, bằng những viên đạn
M-79.
Thiếu
Tá Tiền
Tiểu
Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 mới
hôm qua hôm kia đây còn nói
với Huy mập ‘’Thầy trò mày rán làm cho tao cú nữa, đây là trận đầu của tao ở bên này’’, trong khi thầy trò Huy mập đã tanh banh hết. Vậy mà
bây giờ, chính lính
của ông, dĩ nhiên họ làm theo lệnh, vác
đại liên, vác M-79 ra bắn xua đuổi
chúng tôi.
Chúng tôi tấp vào bờ cát, cách tuyến của Tiểu Đoàn 5 chừng bốn, năm chục
thước.
Ngồi đây, ngoài tuyến hay vào trong kia, trong tuyến thực sự đối với tôi chẳng
khác gì nhau. Đạn việt cộng
không chừa một chỗ nào và cũng không
chừa một ai. Trong tuyến mới đúng là
nơi thu hút hỏa lực của địch,
còn chúng tôi nằm ngoài, cảm
thấy
không an tâm chỉ là tâm lý, không an tâm vì mình đã mất khả năng tự vệ và bị từ chối sự bảo vệ của những người mình trông đợi.
Mấy người bị bắn
ngã đã được đưa vào tuyến.
Lính tráng thắc mắc tại sao họ không được cho vào tuyến. Trung Sĩ Nhất
Đăng Thường Vụ Đại Đội
hỏi tôi:
- Ông thầy, mình cũng là Thủy
Quân Lục Chiến chứ đâu phải
là Bộ Binh, tại sao họ không cho mình
vào tuyến?
- Tiểu Đoàn mình tan hàng rồi, mình vào tuyến bây giờ sẽ ảnh hưởng đến
tinh thần chiến đấu của những thằng đang đánh nhau trong đó.
- Ảnh hưởng mẹ gì, ông thầy, mình vô tuyến rồi kiếm chỗ nằm tránh đạn ở mút đàng
sau này chứ mình đâu có lên đàng trước đâu mà làm mất tinh thần của tụi
nó.
- Mày nên nhớ là
họ
chỉ cần nghe tin là tàu không bốc được tụi mình, tinh thần
của họ đã bị nhụt hẳn đi
rồi, cần gì phải đợi mình kể
lại. Mà mày không thấy nằm đây mình
không bị đạn bắn tới, đâu
cần phải tìm chỗ tránh đạn ở trong tuyến
nữa.
Tôi chưa nói dứt
câu, nhiều loạt đạn nhắm thẳng
chúng tôi bay tới. Việt cộng đã về đến chỗ tàu mắc cạn. Thầy trò cha con chúng tôi ùa chạy
vào tuyến, đạn việt cộng bắn vãi sau lưng.
Những người
lính Tiểu Đoàn 5 trên M-113 thản nhiên ngồi chờ cho đến khi chúng
tôi vào hết trong tuyến
mới bắt đầu bắn trả về phía tàu mắc cạn.
Tuyến phòng thủ của
Lữ Đoàn từ chiều hôm qua chỉ bị tấn công một mặt từ
hướng Tây, nơi Tiểu Đoàn 7 bàn giao tuyến
lại
của Tiểu
Đoàn
4 tôi. Bây giờ bị thêm
một mặt tấn công mới từ hướng Bắc.
Xạ trường bằng phẳng, những loại súng bắn thẳng không bị cản trở bởi bất
cứ một chướng ngại nào. Những người lính trên M-113 đã rời xe, xuống những hố
cá nhân đào quanh đấy.
Chúng tôi, những
thằng hết khả năng tác chiến,
moi vội những cái hố ở phía sau những
cái gọ của dân nằm úp đáy trên mặt
cát.
Tiếng súng nhỏ nổ đi đoành trên tàu mắc cạn. Hình như việt cộng
đang bắn những người còn nằm lại trên tàu.
Đây là lần thứ hai tôi
được xem, một cách rất bàng quan, những người lính Thủy Quân Lục Chiến đánh trận. Lần đầu vào ngày 27 tháng Giêng năm 73, buổi chiều
cuối
cùng trước giờ ngưng
bắn có hiệu lực tại Cửa Việt.
Tiểu Đoàn 4 tôi được tăng
cường hai Đại Đội
của Tiểu Đoàn 2 và một đơn
vị Thiết Giáp, tôi không rõ cấp
đơn vị, lập thành lực lượng
đặc nhiệm Tango do chính Đại
Tá Tư Lệnh Phó làm Tư
Lệnh lực lượng. Lực lượng chúng tôi có nhiệm vụ bằng
mọi giá cắm cờ ở Cửa Việt trước 8 giờ sáng ngày 28 tháng Giêng. Trung đoàn việt cộng
48 phòng thủ.
Từ chạm tuyến lên đến mục tiêu khá xa, có đến mấy cây số nên từng nấc dọc
đường được chia thành nhiều mục tiêu phụ, chúng tôi từng Đại Đội một chia nhau
chiếm từng mục tiêu. Điểm xuất phát của Đại
Đội tôi là mục tiêu mà một Đại Đội của
Tiểu Đoàn 2 đánh chiếm. Đại
Đội
tôi di chuyển một cách thoải mái từ phía dưới lên. Đại Đội Trưởng tôi lúc đó là Trung Úy Tước, Dương Tấn Tước gọi tôi lại gần và chỉ:
- Ông có thấy chiếc M-48 đang cháy kia không ?
- Thấy, Sao Mai.
- Rồi, ông dắt con cái vô đó.
Một cái
lệnh hành quân rất nhẹ nhàng và dễ dàng.
Nhưng thực sự, nói vậy mà đâu phải
vậy, M-48 mà cháy thì mục tiêu
đâu phải là nhẹ ký. Tôi vào đến nơi được xem những người lính của Tiểu Đoàn 2 đang chiếm mục
tiêu. Những người lính của
Tiểu Đoàn 2 này không hổ danh với chính cái tên mà việt cộng
đã đặt cho họ, Tiểu Đoàn Trâu Điên. Họ xung phong,
họ xông xáo vào tuyến phòng
thủ của việt cộng như
vào chỗ không người. Có chết chóc đấy, có bị thương đấy nhưng việt cộng không thể nào cản được bước chân
của họ. Có một Trung Đội quá hăng máu, tiến
quá nhanh, vượt qua khỏi mục tiêu tiến quá sâu
vào phần đất dầy đặc việt cộng,
nên đã bị bao vây, không hầm hố, không mô cát
để ẩn nấp, họ trở
thành điểm tập trung tác
xạ của không biết bao nhiêu tay súng việt cộng.
Trung Đội Trâu
Điên này vẫn tả xung hữu
đột, vẫn bình tĩnh chiến đấu như đang thực tập một bài chiến thuật
trong quân trường.
Khi Đại Đội
tôi lên và giải vây cho họ xong, một người
lính nhìn tôi cười nói:
- Đụ
mẹ, đánh giặc đã quá, ông thầy!
Lần này là lần thứ hai, tôi nằm sau một cái gọ lật úp làm nơi ẩn
nấp,
quan sát những người lính của Tiểu Đoàn 5 chiến đấu. Lần này, cái hăng say, cái nhuệ khí
của thế tấn công không có, chúng tôi đang ở cái thế bị bao vây, lương thực chúng tôi hết cạn, đạn dược chúng tôi hết gần sạch banh, đường về chúng tôi không có. Chúng tôi đang ở trong cái thế bi thảm nhất cả về tinh thần lẫn phương tiện chiến đấu.
Vậy mà những người lính của Tiểu Đoàn 5, mấy con ‘’đỉa đói’’ này vẫn vừa đánh giặc vừa cười đùa. Có hai người lính đầu không mũ sắt, mình không áo giáp, chân không giày, một người ôm nòng khẩu
súng cối 60 ly được bọc bằng mấy cái áo giáp cho khỏi nóng, một người
cầm mũ sắt làm bàn tiếp hậu, tay cầm quả đạn, cứ
thế họ đặt súng chỗ này bắn một hai quả, đặt
súng chỗ khác bắn một hai quả. Vừa
bắn vừa cười nói bô bô. Một viên đạn bất ngờ ghim sâu vào ngực người lính cầm
mũ sắt, quả đạn bên tay phải rơi phịch xuống cát, mũ sắt bên tay trái văng ra xa. Một người
lính khác tay cầm mũ sắt, chạy tới nhặt quả đạn tiếp tục bắn. Người lính ôm nòng súng nhìn người bạn
vừa ngã chết, miệng cười tươi như
không có gì xảy
ra:
- Đụ
má, chết sớm dzậy mảy ?
Người xạ thủ thứ hai rướn người lên rồi ngã xuống vì viên đạn trúng vào
bụng.
Người thứ ba cầm mũ sắt chạy ra. Vừa ra đến nơi chưa kịp bắn viên nào thì
cả xạ thủ lẫn người ôm nòng súng ngã vật ra chết.
Nòng khẩu súng cối 60
ly nằm chúi họng xuống cát. Tôi ngồi xem hào hứng đến độ quên luôn rằng cái gọ đang làm vật che đạn cho tôi cũng trúng
khá nhiều đạn, trong khi cái đầu tôi mỗi
lúc một rướn cao lên để xem cho
rõ.
Nắng tắt dần, gió biển mỗi lúc một lạnh hơn.
Tôi thấy gai gai người, mới
sực để ý mình đã cởi áo từ lúc
nào và cũng không thể nghĩ được là tại sao mình đã cởi áo.
Bưởi xuất hiện đột ngột, từ bên
hông một cái gọ nào đó chạy tới. Trên người
mặc có mỗi cái quần lót và cái áo giáp.
Gặp Bưởi lúc này còn hơn bắt được vàng. Bưởi ôm chầm lấy tôi:
- Ông thầy, em kiếm ông
thầy quá trời.
- Mày ở đâu chạy
tới đây ?
- Em đi
kiếm ông thầy quá trời. Ai
moi cho ông thầy cái lỗ này ?
- Tao moi mình
ên. Bưởi cười cười:
- Hèn chi.
Tôi cũng cười cười:
- Hèn chi gì mày
?
- Ông thầy qua chỗ em đi. Em đào
sẵn cái hố cho hai thầy trò mình nằm thoải mái. Nếu lỡ có chết chỉ việc lấp cát là êm. Ông thầy nằm kiểu này nếu chết đúng là
cái lỗ không đủ chôn.
- Đụ
mẹ, trù
ẻo mày.
- Thiệt
mà. Mà bây giờ về em phải
đào cho rộng thêm.
- Sao vậy ?
- Hồi nãy đi kiếm ông thầy, em gặp một
cái ‘’lỗ’’. Em mang ‘’con lỗ’’ về nằm
chung. Ấm lắm ông thầy ơi.
Tôi cười cười, gian ý:
- Coi được không
mày ?
- Trời ơi,
số một mà ông thầy. Mà thời
buổi này ông còn bày đặt kén nữa
hả ?
- Đâu có kén, mà
điều cũng phải đỡ đỡ một chút chứ hôi rùm ai mà chịu nổi.
- Đâu
có hôi, ông thầy, con nhỏ cũng mới
tắm
biển lên mà. Hai thầy trò tôi nháy mắt nhìn nhau cười.
Bưởi cởi áo giáp đưa cho tôi:
- Ông thầy mặc đi rồi mình dzọt. Tôi ngần ngừ:
- Thôi mày mặc đi.
Bưởi nhất định không chịu:
- Ông không thấy đạn bắn quá trời
sao ? Ông chạy đâu có lẹ bằng tôi.
- Mày tưởng chạy
lẹ là không ăn đạn à ?
- Mà bộ ông không thấy lạnh hả ? Người ông nổi gai ốc cùng
mình kìa.
Quả thật, gió biển
mỗi lúc một mạnh hơn, tôi đã rùng mình nổi
da gà sau mỗi lần gió thổi, hai hàm răng tôi
đã bắt đầu đập vào nhau. Người
tôi đã run lên vì lạnh.
Hết
phương từ chối, tôi mặc áo giáp vào rồi
băng mình chạy theo Bưởi.
Chúng tôi chạy từng
quãng ngắn từ cái gọ này sang cái gọ khác.
Đến
cái gọ cuối cùng trước khi đến chỗ Bưởi nằm, tôi gặp
Khải máy và Phước
râu.
Tôi la lên vì
mừng:
- Đụ mẹ,
cả hai thằng mày còn sống
hả ?
Khải máy có cái tên rất lịch sử, Trần Quang Khải ôm chầm lấy
tôi:
- Ba thằng tụi em chia nhau đi kiếm ông thầy. Em với thằng Phước râu mới về
tới đây.
Phước râu bây giờ
mới lên tiếng:
- Tui thấy Trung Úy Gắt ngồi
đằng kia kìa. Đụ mẹ, ổng thủ
nguyên một bao cát
gạo sấy thịt hộp. Thấy tui
ổng ngó lơ. Kệ mẹ ổng chớ,
ai thèm xin.
Nói đến
gạo sấy và thịt hộp, tôi mới thấy đói. Suốt từ trưa hôm qua tới giờ tôi có ăn uống gì đâu. Mà cũng có gì đâu để mà ăn uống.
Ngoại trừ sáng nay ngồi uống rượu với bọn Thiếu Úy Sĩ, tôi lại có tật hễ uống rượu vào là không ăn gì nên tuy có đồ ăn nhưng tôi có nhét được miếng nào vào bụng
đâu. Tuy nhiên, cái đói chỉ
thoáng qua rất nhanh.
Tôi an ủi:
- Đói lúc này đâu có chết tụi
bay. Tao cũng đói. Nhằm nhò gì! Bưởi giục:
- Mình về
bên kia đi ông thầy. Khải máy dặn dò:
- Tụi em nằm đây, khi nào chạy kêu tụi em nghe ông thầy.
Tôi và Bưởi
băng qua một quãng trống ngắn, về đến hố
của Bưởi. Người con gái nằm trong hố, chùm poncho
chỉ thò mỗi cái đầu ra ngoài. Khuôn mặt kể cũng dễ coi.
Vừa xuống hố, Bưởi ra lệnh:
- Ngồi dậy
đi bà nội, lấy chỗ để tôi moi rộng thêm cho ông thầy nằm. Người con gái ngồi
dậy,
vẫn quấn chặt cái poncho.
Bưởi khoét cái hố rộng ra thật nhanh bằng mũ sắt. Tôi cởi áo giáp:
- Trả mày cái áo giáp, lấy trả
tao cái jacket.
- Em vứt dưới biển rồi ông thầy. Tôi tiếc ngẩn ngơ:
- Đụ
mẹ, sao mày vứt của tao đi ?
- Lúc lội ra tàu mọi thứ em bỏ hết, em
đâu dám vứt áo của ông thầy. Em mặc trong người, có điều ở
dưới biển lâu nó ngấm nước, nặng quá trời luôn. Em mà không cởi ra bỏ,
dám em bị chết chìm luôn rồi.
Cả cuộc đời nhà binh bảy năm, gia tài của tôi chỉ có mỗi cái
áo jacket này.
Nó là cái field jacket của Mỹ, áo thật dầy, có cả mũ. Tôi lựa đúng cỡ người, hy sinh một bộ đồ bệt mới
tinh để đắp ra ngoài. Cái áo tôi mơ ước. Tôi mới
có được cách đây chừng
hơn một tháng. Sài Gòn nóng như thế mà khi về phép tôi còn mang theo
để tối tối, trời vừa đủ hơi
man mát là tôi lấy ra mặc.
Mất Quảng Trị, mất Huế tôi không tiếc bằng mất cái jacket này. Nhưng làm
sao bây giờ, mất thì đã
mất rồi, mà lỗi thì không thể đổ lỗi cho Bưởi. Tôi trong trường
hợp nó cũng phải làm như vậy thôi.
Việt cộng ở phía tàu mắc cạn hình như đã đến gần tuyến vì tôi nghe tiếng
súng mỗi lúc một chát chúa
hơn. Tiếng súng phòng thủ của Tiểu Đoàn 5 chỉ
còn là cầm chừng vì mỗi lúc tôi thấy một thưa hơn.
Bưởi vừa mặc áo
giáp vừa nói:
- Ông thầy nằm đắp chung poncho
với con nhỏ này, em đi tìm cho ông thầy
cái áo giáp.
- Thôi Bưởi, nguy hiểm mày.
- Gần ngay đây mà ông thầy.
Nói chưa dứt, Bưởi
đã chạy vụt đi.
Tôi nằm đắp chung poncho với cô gái. Hơi ấm
từ người nàng làm tôi khó chịu, không phải tôi khó chịu cô gái mà tôi khó chịu
tôi. Đời thuở nhà ai, trong hoàn cảnh này,
người ta ai cũng phải lo mà giữ sức khỏe, còn tôi, tôi lại
muốn
phung phí sức khỏe.
Bộ chưa đủ mệt hay sao ?
Bàn tay tầm bậy của tôi mầy mò tứ tung trong poncho.
Cô gái không có thái
độ hoan hô hay đả đảo gì ra mặt, nhưng người
cô ta đang từ âm ấm chuyển dần sang nóng, hơi thở dồn
dập và rõ tiếng hơn.
Đến một lúc thuận tiện, tôi tìm một vị thế
thích hợp. Nhưng vị thế thích hợp đã không
có với
chúng tôi.
Cát dính lung tung lên người chúng tôi, ở dưới hố
thì hố được đào cong vòng như
cái võng, kéo nhau lên trên miệng
hố, đạn việt cộng bay loạn xạ
ở tầm rất thấp.
Rất thèm, nhưng thôi thì
đành chịu, lắc đầu, chép miệng, ‘’ngậm ngùi’’.
Suốt từ lúc tôi về đến
cái hố này, cô gái vẫn không nói
một
tiếng, và tôi cũng không
nói một tiếng nào với cô ta.
Khải máy nói vọng
sang từ cái gọ bên cạnh trong khi tay tôi vẫn đang mầy mò tầm bậy
trong poncho:
- Người ta chạy hết rồi ông thầy ơi.
- Thằng Bưởi chạy đi kiếm áo giáp cho
tao chưa về.
- Chắc nó chạy luôn theo mọi người rồi.
- Chắc không đâu, đợi nó một chút nữa thử coi.
Trời đã tối, tiếng
súng bắn đi đã êm, chỉ còn những tiếng súng việt cộng bắn
chúng tôi. Tiếng chân người chạy mỗi lúc một nhiều
về hướng Nam.
Khải máy và Phước râu chạy
đến chỗ tôi. Khải máy la lên:
- Trời ơi ông thầy, người ta chạy hết rồi,
ông còn nằm đó mà ‘’moi lỗ’’!
- Còn phải đợi
thằng Bưởi nữa chứ.
- Đợi gì nữa mà đợi.
Có thể nó đã chết rồi, cũng có thể nó đã chạy rồi. Tôi quay sang cô
gái:
- Thôi, chạy đi
cô em. Cô gái nhìn tôi, lắc đầu.
Tôi đứng dậy, chạy
theo Khải máy và Phước râu.
Chúng tôi chạy lom khom qua hết những cái gọ nằm rải rác trên bờ, nhập vào dòng người đang chạy sát mé nước.
Chạy thì cứ chạy, không lẽ
mọi
người đã chạy mà mình lại không chạy, nhưng
thực sự tôi không hiểu là chạy để làm gì, và chạy đi đâu,
chạy về hướng Nam tức là chạy về phía cửa Tư Hiền. Tôi
chẳng buồn nghĩ là chạy về
đó rồi sẽ làm gì, và mình có
chạy nổi về đó hay không.
Phước râu đề
nghị:
- Hồi
nãy tụi nó tự tử nhiều
quá, hay là mình tự tử luôn
đi ông thầy. Khải máy góp ý:
- Có lý
đó ông thầy. Mình chạy như
vầy để làm cái gì ?
- Không, tụi mày ngu thấy mẹ. Người ta cắt đất để giao cho việt cộng. Tụi mình
dở nên mình bị kẹt. Nếu bị bắt cũng chừng vài tháng
chứ
mấy, khi nào được
trao trả về, đụ mẹ, đánh lại.
- Làm tù binh của
việt cộng chịu gì nổi
ông thầy.
- Cái gì mà không nổi, tụi mày không thấy tù binh được trao trả hồi ngưng bắn à, người ta
ở tù bao nhiêu năm người ta còn chịu được.
Bộ tụi mày không thấy Thiếu
Úy Bông, Chuẩn Úy Nhường à!
Tiếng súng phía sau lưng đã hết, nhưng dòng người chúng tôi lại bị ăn đạn từ
phía trong bờ mỗi lần chúng tôi chạy ngang một cái chốt
của việt cộng.
Cũng có những tràng súng, cũng có những quả lựu đạn được bắn
trả, được ném trả vào những cái chốt đó. Không biết có giết được mạng
nào không ?
Việt cộng được dịp bắn thả cửa vào chúng tôi. Số người trúng đạn không phải
là ít.
Tôi nói với hai thằng
đệ tử:
- Chạy trên cát thì lẹ nhưng mà nguy hiểm quá, trong khi mình đâu cần chạy
nhanh hay chạy chậm. Chạy dưới nước chậm hơn nhưng an toàn hơn. Đạn bắn ra
chỉ trúng thằng chạy trong thôi.
Phước râu và Khải máy mỗi đứa chạy một bên để đỡ tôi, khi nào mệt tôi
choàng cổ hai đứa để được dìu chạy, khi nào tôi chạy được một mình, Phước râu lại tấp vào phía trong bờ, chạy trên cát.
Tôi ngạc nhiên:
- Mỗi lần
buông tao ra mày chạy trên cát cho đỡ mệt
hả ?
- Tui đâu có mệt ông thầy, chạy phía này lỡ có bị bắn tui còn che được cho ông chớ.
Tôi xúc động ứa nước mắt. Khải máy đã từng về dự Đại Hội Chiến
Sĩ Xuất
Sắc ở Sài Gòn, nhưng vì là gốc quân phạm nên leo mãi leo hoài vẫn không lên nổi
cái lon Hạ Sĩ trong khi đã đeo Binh Nhất từ trước khi về Đại Đội cũng
có đến ba năm. Khải mang máy Đại Đội nên là tay thân tín của
Đại Đội Trưởng, thay vì chạy theo
Đại Đội Trưởng vừa đỡ mệt vừa có cả gạo sấy thịt hộp, Khải máy lại chạy với tôi, lãnh đủ cả đói lẫn mệt.
Phước râu là Hạ Sĩ, đã có một
thời gian năm 72 làm quyền Tiểu
Đội Trưởng khi còn là Binh Bhất, trong khi với Thủy Quân Lục Chiến,
Hạ Sĩ mới hy vọng mon men được đến cái chức Tiểu Đội Phó. Hạ Sĩ Phước là tay đánh giặc có hạng nhưng cũng là tay cứng đầu, nên vừa rồi đã được
Đại Đội Trưởng ‘’trân trọng kính mời’’ ra khỏi Đại
Đội để qua Đại Đội
mới là Đại Đội 3. Là một con cáo già trong những trận đánh, đồng thời Phước râu cũng là một tay kinh nghiệm đầy mình trong những đợt
‘’di tản chiến thuật’’.
Bây giờ Phước râu tự ý lấy thân che đạn cho tôi trong khi tôi không còn là cấp chỉ huy của
anh chàng.
Ba thầy trò tôi chạy dĩ nhiên là chậm so với những người cùng chạy nên cứ
tụt
dần về phía sau. Nhưng dòng người hình như vô tận nên chúng tôi dù có bị tụt dần vẫn không phải là những thằng
sau chót.
Lại rất nhiều người bị bắn ngã từng chặng từng chặng khi chạy qua những cái chốt của việt cộng. Chưa bao giờ bọn
chó má này được bắn sướng tay đến như vậy.
Mỗi tràng đạn ít ra cũng phải trúng vài ba người.
Nhưng ai ngã mặc ai,
những người chạy vẫn cứ chạy.
Lại có rất nhiều người tự tử. Bây giờ
họ không tự tử từng người, từng cá nhân mà
họ tự tử tập thể.
Không rủ, không hẹn và hầu như họ đều không quen biết nhau trước hoặc có quen biết đi nữa, bạn bè đi nữa họ cũng không thể nhận ra nhau trước
khi cùng chết với nhau một lúc. Dòng
người chúng tôi đang chạy, một người tách ra ngồi lại trên cát, một người khác cũng tách dòng người ra ngồi chung, người thứ ba, người thứ tư, người
thứ năm nhập bọn, họ ngồi tụm với nhau thành một
vòng tròn nhỏ, một quả
lựu đạn nổ bung ở giữa.
Dòng người chúng tôi tiếp tục chạy, lại
một người tách ra ngồi trên cát, lại người thứ
hai, người thứ ba, người thứ tư... nhập bọn, lại
tụm
với nhau thành một vòng tròn
nhỏ, lại một quả lựu đạn nổ bung ở giữa.
Dòng người chúng tôi vẫn cứ tiếp tục chạy, lại
một người tách ra ngồi trên cát,
lại người thứ hai, người thứ
ba, người thứ tư...
Tôi không
thể nhớ để mà đếm nổi là đã có bao nhiêu quả lựu đạn đã nổ ở
giữa những vòng tròn
người như vậy. Nhiều, thật
nhiều quả lựu đạn đã nổ.
Chúng tôi vẫn cứ chạy, những người tự tử tập thể vẫn
cứ tụm thành những vòng tròn, quân đội Nhật năm 45 khi đầu hàng cũng không
thể nào hào hùng hơn thế này được. Lịch sử Việt Nam chưa thấy viết một
dòng nào về những cái chết hiên ngang của những thằng tốt đen như vậy, nhưng
họ có đó, vẫn oai hùng khí phách
chấp nhận những cái chết vô danh như vậy.
Chúng tôi vẫn cứ chạy, khi
ngang qua những cái chốt của
việt cộng, những người bị bắn trúng
vẫn cứ ngã, những người tự tử vẫn cứ nổ lựu đạn. Ngoài
biển vẫn có ánh đèn của những chiếc tàu qua lại.
Những người
phía trước chạy chậm dần, chậm
dần rồi ngừng lại.
Trong suốt thời gian chạy tôi
nghe đủ thứ tiếng, tiếng chân, tiếng thở, tiếng sóng, tiếng súng, tiếng lựu đạn nhưng không nghe tiếng
nói. Bây giờ mới bắt đầu ồn
ào tiếng
người.
- Đụ
mẹ, sao không chạy tiếp
?
- Chắc đến
cửa Tư Hiền rồi.
- Cửa
Tư Hiền còn
xa, chắc gặp Tiểu Đoàn 8 lên đón.
- Ông thầy cho em
miếng nước.
- Đụ
mẹ, tao là lính chứ đâu
phải sĩ quan mà kêu tao ông thầy.
- Thì đàn anh cho đệ tử một hớp.
- Hớp
cái con cặc, bộ mày không có bình toong à!
Nghe đến nước, tôi mới thấy là mình cũng đang khát. Tôi liếm môi chịu đựng. Nhìn bình nước trên tay người
vừa chửi thề, thèm thuồng. Cố tưởng tượng rừng me
của Tào Tháo, vô ích, cổ tôi vẫn khô ran,
không có tí nước bọt nào
để mà nuốt.
Phước râu biết ý, ngoại giao.
- Anh cho Trung
Úy tôi một hớp. Người có bi đông nước nhìn tôi.
- Trung Úy thiệt không đó cha ?
- Thiệt mà, ổng là Đại Đội Phó tui. Anh ta đưa bình nước cho tôi.
- Một hớp thôi nghe ông.
Sau khi làm một
ngụm nước, tôi mới có thể nói được.
- Cám ơn bạn.
Việt cộng
xuất hiện, chĩa
súng về phía chúng tôi ra lệnh.
- Đi một hàng dọc lên đàng trước. Một giọng khác có vẻ là cấp chỉ huy.
- Tất cả giơ tay lên! Có tiếng trả lời.
- Bắt thì bắt, không giơ
tay.
- Bọn
này ngoan cố, không hàng, chúng ông bắn
bỏ mẹ. Nhiều tiếng
nói trong chúng tôi vang lên.
- Bị
bắt là tù binh, giơ tay hàng tụi
nó coi mình là hàng binh. Không giơ tay! Nhất loạt chúng tôi không ai giơ tay, chỉ nối đuôi nhau thành một hàng dọc đi
tới. Đang đi một hàng dọc như vậy, một người tách ra khỏi hàng, chạy ào ra ôm
cứng lấy một tên việt cộng. Tiếng lựu
đạn nổ, cả hai ngã vật ra chết.
Một người khác lại chạy ào ra ôm cứng
một
tên việt cộng khác, lại một tiếng
lựu đạn nổ, lại cả hai ngã bật ra chết.
Chúng tôi và việt cộng vẫn còn
đang ở trong thế gờm nhau, chúng tôi
đông nhưng đã mất chỉ huy và không
có vũ
khí, việt cộng tuy
xuất hiện ít nhưng
có súng.
Tôi nghe việt cộng
nói với nhau.
- Bọn lính thủy
đánh bộ này thằng nào cũng ngoan cố. Chắc chắn tụi nó
còn lựu
đạn trong người.
Một tên việt cộng, tên này chắc chắn là du kích nằm vùng vì đang xúng xính
trong áo cà sa, đầu trọc lóc, đúng là một ông sư nhưng thay vì tay cầm mõ cầm
nhang, lại lăm lăm một
khẩu AK, mồm thay vì nói kinh nói Phật, lại
ra lệnh cho chúng tôi.
- Chúng mày còn giấu lựu đạn trong người. Tất cả cởi
hết quần áo ra! Chúng tôi nhìn
nhau, chưa có phản ứng gì, tên sư du kích
quát lên.
- Đứng
lại! Cởi hết quần áo ra! Một người lính buột miệng hỏi.
- Cởi
quần áo ra có bị coi là hàng binh không ?
Cả chúng tôi lẫn Việt cộng đều phì cười. Có lẽ tiếng cười đã làm không khí căng
thẳng dịu lại. Chúng
tôi cởi quần áo ra rồi tiếp tục
đi tới.
Đã có rất nhiều người
bị bắt tập họp thành từng
khối, ngồi quay lưng ra biển. Những người này không bị cởi quần áo như chúng tôi, những thằng bị bắt
sau.
Ba thầy
trò tôi ngồi nối đuôi nhau thành một hàng
dọc
trong khối mới bị bắt. Phước
râu nói với tôi.
- Ông
khai là lính thôi nghe ông thầy.
- Sao vậy ?
- Mình đi chung có gì tui còn lo cho ông được.
- Đâu được
mậy, mình bị bắt cả đơn
vị, tụi nó điều tra thế nào cũng
lòi ra.
- Nhưng ông đâu đủ sức sống một
mình trong tù.
- Nhằm nhò gì, ở tù
ít tháng thôi chứ mấy, mà để coi ra sao đa. Có tiếng
nói từ trong đám tù binh.
- Yêu cầu cho nước uống.
Nhiều tiếng khác vang lên, lúc đầu còn rời rạc, càng lúc càng ăn nhịp dần,
cuối cùng có cả tiếng
vỗ tay bắt nhịp.
- Nước! Nước! Nước!
Cứ như vậy cho đến khi nước uống được hai
ả du
kích cái mang ra. Nhiều
người bu lại uống nước, lúc đầu
còn uống tử tế, đến thùng thứ ba
được mang ra, cũng vẫn nhiều người
bu lại, nhưng chỉ một số
người uống nước, số khác giả
vờ chen lấn giành nước để bóp vú hai ả
du kích.
Nhiều tiếng
chí chóe vang lên. Tên việt cộng đứng ngoài hắng giọng hỏi.
- Cái gì ồn
ào thế ?
Thùng nuớc được hất đổ kèm theo nhiều tiếng
nói.
- Hết nước
rồi, yêu cầu cho thêm. Tên việt cộng
đứng ngoài ra lệnh.
- Đề nghị
hai đồng chí mang thêm nước.
Khi thùng nước kế
tiếp
được mang ra, màn bóp vú lại tái diễn, và khi hai nữ
đồng chí được đề nghị mang thêm nước lần nữa thì trốn luôn.
Không còn nước, không còn đàn bà, mọi người
ngồi
trở lại trong hàng. Một người lính vừa ngồi xuống bên cạnh quay sang nhìn tôi cười.
- Đụ
mẹ, bị bắt mà còn được bóp
vú việt cộng, đã quá!
Sau khi đếm người
xong, việt cộng đưa chúng tôi vào sân của
một Trụ Sở Ấp. Tôi hỏi giờ một người đeo đồng hồ. Đúng 12 giờ khuya ngày 26 rạng 27 tháng
Ba. Nghe đâu làng này có cái
tên rất độc đáo: Làng Cự Lại.
Ngày 26 tháng Ba
là ngày Người Cày Có Ruộng.
Ngày 26 tháng Ba là ngày cả một Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến bị
khoảng một đại đội du kích việt cộng
bắt sống.
Chuyện không bao
giờ tin được đã xảy ra.
Hỏi trời, hỏi đất, hỏi lính,
hỏi quan. Hỏi ai đây, trách nhiệm ai
đây về chuyện ô nhục này của
quân sử ?
Tôi sực nhớ đến câu có vẻ cải lương
nhưng ngẫm thấy cũng có lý: ‘’Làm trai không sợ gì sương gió, chỉ
sợ đời không có gió sương’’. Chúng tôi những thằng lính tình
nguyện về một Binh Chủng thừa mứa gió sương, và bây giờ bị Việt cộng bắt,
chúng tôi sắp sửa được hưởng một cuộc sống chắc chắn là không
thiếu gì sương gió, không hiểu một tên lính nào đó khi xâm hàng chữ này vào người có nghĩ đến
hoặc có tiên đoán đến ngày hôm nay,
ngày 26 tháng Ba này không ?
Phước râu lại dặn dò tôi.
- Ông thầy nhớ
khai là lính nghe.
Lúc trời gần sáng, việt cộng yêu cầu ai là sĩ quan tập họp riêng ở gần cổng trụ
sở ấp.
Lúc đầu còn lác đác nhưng rồi chỗ tập họp riêng cho sĩ quan đông dần, hình
như chẳng còn thiếu ai, ngoại trừ mấy ông cấp Tá.
Tôi gặp Trung Úy Gắt, Thiếu Úy Dzu, Huy mập, Du Hồ. Tôi lại gặp
Sĩ Tiểu
Đoàn 2 Pháo Binh. Tôi còn gặp cả
một thằng bạn cũ cùng học với nhau suốt bậc trung
học ở Trường Nguyễn Trãi, Vũ Đức Giang, khi chúng tôi đang bị trói chung bằng một sợi dây điện dài. Tôi ngạc
nhiên kêu lên.
- Giang, mày làm
gì mà cũng bị bắt ở đây ?
- Ơ Huy, cả chục năm mới gặp
lại mày.
- Tao hỏi mày làm cái giống gì mà cũng bị bắt ở đây ?
- Tao Thủy
Quân Lục Chiến.
- Mẹ kiếp, cậu đếch tin, mày mà cũng dám giết người à ? Mà sao ở Thủy
Quân Lục Chiến,
tao không gặp mày ?
- Tao mới ra
trường về Thủy Quân Lục Chiến khoảng nửa tháng nay.
- Mày Bác Sĩ à ?
- Ừ, tao về
Tiểu Đoàn 7.
- Tội nghiệp thằng bé, mày cũng sợ
đời không có gió sương à ? Giang ngơ ngác.
- Gió sương gì? Cởi trần ngồi suốt đêm ngoài trời thế này mày bảo không bị
sương à ?
Trời sáng rõ.
Mấy tên việt cộng gác chúng
tôi cầm súng đi qua đi lại trước cổng. Một tên đứng gác trên chòi canh. Dân chúng bu sát vào hàng rào tò mò nhìn chúng
tôi. Nhiều người đã cầm sẵn trên tay rổ khoai lang khoai mì
để bán cho chúng tôi.
Những người
bị bắt trước tôi không bị cởi quần
áo nên họ có tiền, và vì là lính nên không bị
trói, ra sát hàng rào mua bán với dân chúng.
Bọn việt cộng cố gắng ngăn cản vụ mua bán nhưng không
nổi, cuối cùng
đành phải ngó lơ.
Nhiều người lính đem khoai sắn
đến đút cho chúng tôi ăn.
Số sĩ quan chúng tôi cũng có đến cả trăm mạng, bị trói
quặt cánh tay ra sau,
nối tiếp nhau bằng sợi dây điện
dài. Một số đã bị trói bằng dây kẽm
vì không đủ dây điện. Lợi dụng
lúc lộn xộn không có hàng ngũ gì, chúng
tôi đã bàn với nhau.
‘’Nếu được đi chung với lính thì thôi, còn nếu bị dắt
đi riêng ra phía biển, tức là
bị đem đi bắn, chúng tôi sẽ cướp súng
bắn lại’’
Đằng nào cũng
chết, cướp súng bắn lại ít ra cũng
giết gỡ được vài mạng. Phước râu, Khải máy, Trung Sĩ Khang cũng bu đến chỗ tôi ngồi.
Tôi nói đủ
cho mấy đứa
nghe.
- Khang đứng lùi ra che mắt mấy thằng gác, thằng Khải xin miếng khoai đút
tao ăn, còn thằng Phước ngồi xuống nới lỏng dây trói cho tao.
Tôi dặn thêm Phước
râu.
- Nới
lỏng vừa đủ để nếu cần, rút tay
ra được. Lỏng quá dễ bị bể.
Bằng cùng một cách này, tất cả dây trói chúng tôi lần lượt đều được
nới lỏng. Những tin
đồn về mấy ông Tiểu Đoàn Trưởng của chúng tôi được
loan truyền.
- Chính mắt thằng A thấy ông Cang bắn súng vào đầu tự tử.
- Chính mắt thằng B thấy ông Tiền tự tử chung với mấy người nữa bằng lựu
đạn.
- Thằng
C đã vuốt mắt cho ông Sử ở
bờ biển sau khi ông ta tự bắn vào đầu.
- Chính
mắt
thằng này...
- Chính tay thằng
nọ...
Những lời đồn đã làm chúng tôi hãnh diện, những lời đồn đã giúp chúng
tôi
thản nhiên ngồi chờ việt cộng
dắt ra bờ biển. Nhưng
rồi, quá nhiều lời đồn không giống
nhau, có khi trái ngược hẳn
nhau dần dần khiến chúng tôi nghi ngờ. Không
lẽ một người mà vừa tự tử bằng súng, vừa tự tử bằng lựu đạn lại vừa trốn vào nhà dân mướn ghe, mướn tài công để chạy ra biển.
Tôi hỏi một người vừa nói với tôi là ông Tiền tự tử.
- Mày có trông thấy ông Tiền cầm súng
bắn vào đầu không ?
- Em không thấy
nhưng thằng A nói chính thằng B trông
thấy. Tôi hỏi một người khác nói về ông Cang.
- Mày có thấy ông Cang tự tử không ?
- Chính thằng tà lọt của
ông Cang nói với em.
Tôi nghĩ bụng, lính đồn nhiều khi rất đúng,
nhưng lúc này thực ra chỉ là để
thỏa
mãn một nhu cầu. Những lời đồn hiện đang được loan truyền chỉ có thưởng
chứ không có phạt trong lúc này.
Khoảng 9 giờ sáng, việt cộng kiểm điểm số sĩ quan chúng tôi rồi bắt đi một
hàng dọc ra khỏi cổng trụ sở
ấp.
Trước khi đi,
chúng tôi đã nhìn nhau ngầm ra hiệu.
Ra khỏi
cổng trụ sở ấp, qua khỏi cổng chùa nằm ngay cạnh Ấp, chúng tôi tập họp lại thành nhiều hàng ngang. Việt cộng ra lệnh ngồi đợi. Đợi cái gì chúng tôi không biết.
Dân chúng vẫn bu quanh
hàng rào để buôn bán. Lính tráng bị giữ trong Trụ Sở Ấp vẫn ồn ào, tôi còn nghe cả tiếng ca hát nữa. Họ quả là những người thật vô tư.
Một người trong hàng chúng tôi lên tiếng.
- Yêu cầu các anh cho lấy trả chúng tôi quần áo. Tên việt cộng
đứng canh chúng tôi hống hách.
- Cái gì của chúng mày, quần áo gì của chúng mày. Tất cả mọi thứ là của nhân dân, chúng mày không có quyền đòi cái gì hết.
Chúng tôi cười
ồ lên, nhiều người tranh nhau nói.
- Té ra người dân nào cũng là Thủy Quân Lục Chiến hết à ?
Không hiểu tên việt cộng
vì không hiểu câu nói hay vì không nghe rõ nên tiếp tục hùng hổ.
- Đến nước này chúng mày còn lôi Thủy Quân Lục Chiến ra dọa nữa hả ? Ông cho chúng mày một tràng đạn xong đời
chúng mày bây giờ.
Trong hàng lại
ào ào lên tiếng.
- Bắn
đi.
- Có giỏi bắn
ngay bây giờ đi.
Trong lúc nói ào ào lên như vậy, mọi người chúng tôi tuy tay vẫn để quặt ra sau
lưng nhưng đã rút ra khỏi
dây trói. Tất cả đều ở tư thế sẵn sàng.
Tên việt cộng mặt mũi còn non choẹt, không biết phải
có thái độ như thế nào trong
hoàn cảnh này nên lính qua lính quýnh, tay nắm thật chặt khẩu súng chĩa
thẳng vào chúng tôi, chân bước giật lùi mấy
bước, mắt ngó dáo dác cầu cứu, mồm lắp
ba lắp bắp.
- À, chúng mày
làm loạn, chúng mày làm loạn.
Một tên việt cộng
khác có lẽ cấp bậc lớn
hơn từ trong chùa đi ra hỏi.
- Cái gì đấy đồng chí
?
- Bọn
này làm loạn.
Tên mới ra này nhìn anh em chúng tôi.
- Yêu cầu anh em giữ trật tự. Anh em cần gì cứ cho chúng tôi biết nhưng không được làm ồn ào.
- Chúng tôi yêu cầu trả
quần áo lại cho chúng tôi.
- Được rồi,
anh em ngồi đợi tôi cho người đi lấy.
Tên này quay vào
chùa, cho thêm mấy tên nữa tăng cường để gác chúng tôi. Những bàn tay đã rút ra khỏi dây trói, được ý tứ đút trở lại. Mấy người dân ôm
từng ôm, từng ôm quần áo của chúng tôi bị vứt bỏ dưới bờ biển tối hôm trước lên để
thành từng đống trước mặt
chúng tôi.
- Yêu cầu cởi trói để chúng tôi mặc quần áo.
Tên việt cộng
hùng hổ lúc nãy lại tiếp tục sừng
sộ.
- Cởi
trói để chúng mày làm loạn à ?
- Không cởi trói
sao mặc quần áo được ?
- Mặc sao được kệ chúng mày.
Chúng tôi lại ào ào lên. Tên việt cộng
có vẻ là cấp chỉ huy lại
từ trong chùa đi ra, trông thấy đống quần
áo.
- Sao chưa phát quần áo cho người ta, quay sang phía chúng tôi, tên này nói tiếp, các anh lại
ồn ào cái gì nữa ?
- Yêu cầu phát quần áo và cởi trói cho chúng tôi để chúng tôi mặc. Tên này đứng suy nghĩ có vẻ lung lắm.
Tôi chờ đợi và suy nghĩ
cũng
không kém. Số phận của chúng tôi đã được
quyết định sẵn, và quyết định như thế
nào chúng tôi có thể đoán được tùy
theo việc của chúng tôi được cởi trói hay không. Nếu không được cởi
trói, chắc chắn chúng tôi sẽ bị
bắn rất sớm. Còn nếu
được
cởi trói, không hẳn
là chúng tôi sẽ không bị thanh toán nhưng thời gian còn hơi lâu, có thể là cuối ngày, có thể
nửa đêm, có thể là phải
đợi cho đến khi nào bọn chúng có đủ phương
tiện mang chúng tôi đi xa, thật xa
những người lính để họ không hay biết gì.
Quần áo cũng đã được
mang vào trong vòng rào trụ sở ấp để phát cho lính. Quần
áo chất đống trước mặt chúng tôi được
ném đến từng người tuy chưa đủ. Như vậy chắc chắn chúng tôi sẽ được
cởi trói, nhưng cũng chẳng ai cấm bọn chúng chỉ cởi trói để chúng tôi mặc quần áo rồi sau đó lại trói lại.
Tôi cười một cách đau
khổ. Nếu cởi trói luôn, mọi
chuyện sẽ tiến triển tốt đẹp, nhưng nếu bị trói lại hóa ra chúng tôi lỗ vốn quá nặng vì hiện giờ trên nguyên tắc là chúng
tôi bị trói nhưng trên thực tế, chúng
tôi muốn rút tay ra lúc nào cũng được. Sau khi mặc quần áo xong, bị trói trở lại, chắc chắn tay chúng tôi sẽ bị
trói
thật chặt. Bị trói chặt cả trên nguyên tắc lẫn thực tế. Nếu bị đem đi bắn, khả năng chống cự của chúng tôi sẽ yếu hẳn đi, chưa chắc
đã giết gỡ được
tên việt cộng
nào.
Tên chỉ huy có khuôn mặt cáo già, sau một
hồi suy nghĩ đã ra lệnh cởi trói cho chúng tôi.
Cũng may, việt cộng cởi
trói cho người ngồi ở đầu mỗi
hàng, rồi sau đó chúng tôi lần lượt cởi trói cho nhau, nên bọn chúng không biết được là
dây trói chúng tôi thực sự đã lỏng
le lỏng lét.
Quần áo được phát sao mặc vậy nên
trông chúng tôi rất tức cười. Tôi, Tiểu Đoàn 4 mặc áo có bảng tên của Tiểu Đoàn 3, thằng
Tiểu Đoàn 3 mặc áo của Tiểu
Đoàn 5, thằng to như trâu nước mặc áo quá nhỏ không thể cài cúc, thằng
nhỏ con mặc áo rộng thùng thình, nếu đứng dậy ai cũng phải nghĩ
là cởi truồng vì cái áo dài
che luôn cả quần lót.
Chúng tôi chẳng
thằng nào buồn đổi áo cho thằng nào, cứ vậy ngồi
nhìn nhau khúc khích cười như
một lũ con nít.
Chúng tôi bị trói trở lại. Quả
thật
là đau, đòi mặc quần áo chỉ là một cái cớ để được cởi trói, bây giờ mặc quần áo rồi, bị trói trở lại, chúng tôi chẳng còn nhờ được ai nới dây trói cả. Nhưng đã dự trù việc này nên lợi dụng lúc mặc áo, chúng tôi đã bứt đứt sợi dây điện
ở nhiều khúc nên khi bị
trói lần thứ nhì này, chúng tôi chỉ còn bị trói chung từng tốp
vài ba mạng, xoay trở chắc chắn dễ dàng
hơn là bị trói chung nhiều người
vào một sợi dây dài.
Thua keo này bày keo khác! Bắt đầu
có người đòi uống nước, đồng thời có người đòi đi đái, có người
đòi đi ỉa.
Chúng tôi có cả một lực
lượng lính hùng hậu không bị
trói ở gần đó đang theo dõi chúng
tôi, nên việt cộng dù có muốn cũng chưa dám hành hạ chúng tôi. Nước được đem ra và chúng phải bưng cho từng người chúng tôi uống. Những người đòi đi đái
đi ỉa được cởi trói dẫn ra
phía bờ biển. Chúng tôi tiếp tục
đòi uống nước, đòi đi đái, đòi đi ỉa loạn xà ngầu lên. Bọn việt cộng phần cho người đi lấy nước, phần phải
bưng nước cho chúng tôi uống, phần phải cởi trói dẫn chúng tôi đi đái đi ỉa, phần
phải trói lại những người đi ỉa đái về,
phần lại còn phải canh gác chúng tôi nhưng vì không đủ người nên nhiều người trong chúng tôi đã
không kịp bị trói lại.
Cuối cùng có quyết định
của tên chỉ huy là cởi hết
dây trói chúng tôi, với điều kiện chúng tôi phải giữ
trật tự, ngồi trong hàng. Muốn gì giơ tay xin từng
người một.
Chúng tôi được cởi trói.
Ông sư bắt chúng tôi tối hôm qua từ trong chùa đi ra, đi dép vỏ xe, mặc áo
lam già, vai khoác AK, đầu trọc lóc không mũ được che bằng cái khăn mù xoa buộc
túm bốn góc, vừa
cười vừa nói với chúng tôi.
- Chào anh em, anh em có khỏe
không ?
- Bị
bắt mà khỏe mẹ gì!
- Anh em đừng nghĩ là mình bị bắt. Anh em phải lấy làm sung sướng vì mình
được nhân dân và cách mạng giải phóng
ra khỏi guồng máy chiến tranh xâm lược
phản dân hại nước của bọn Mỹ Ngụy.
- Ông lầm rồi, chúng tôi chiến đấu để bảo vệ tự do, chúng tôi đâu có xâm lược
ai.
- Anh em không
xâm lược, anh em làm bia đỡ đạn cho bè lũ xâm lược. Tổ
quốc đứng về phía chúng tôi.
Bây giờ anh em về với nhân dân, cách mạng có nhiệm
vụ phải bảo vệ anh em, lo lắng và giúp đỡ anh em. Anh em sẽ được giáo dục để trở về đứng cùng một chiến tuyến với cách mạng, với nhân dân. Anh em hãy theo gương Trung Đoàn 56 của Trung Tá Phạm Văn Đính, cách mạng đã
đối
xử một cách rất khoan hồng, lại
còn cho giữ nguyên quân hàm cũ.
Người ngồi cạnh tôi,
giơ tay lên vừa cười vừa nói.
- Vậy đồng chí cho xin điếu thuốc.
Nhà tu hành đang tươi cười ‘’thuyết pháp’’, chợt sa sầm mặt xuống, chụp
ngay cổ áo người vừa nói, giựt giựt mấy
cái, vừa giựt vừa gằn từng tiếng.
- Ai là đồng chí với mày, mày là kẻ thù của tao. Không có chính sách khoan
hồng của cách mạng thì mày đã toi đời rồi
con ạ.
Chúng tôi ngồi
nháy mắt nhìn nhau cười.
Dân làng gánh những thúng cơm đến phát cho chúng tôi. Mỗi phần ăn được chừng một bát cơm và một miếng cá khô gói trong lá chuối. Phần ăn dù ít cũng
không đủ để phát đều cho tất cả chúng tôi. Lý do khá giản dị là không
ai tưởng tượng nổi con số
chúng tôi bị bắt đông đến như vậy.
Khoảng 2 giờ trưa, bọn việt cộng được tăng cường thêm bộ đội chủ lực đến,
di chuyển tất cả tù binh chúng
tôi ra Phá Tam Giang đợi gọ để đi sâu
vào trong đất liền.
Tại bờ Phá, khi không còn bóng dáng người dân nào, chúng tôi bắt đầu được
nếm mùi thổ phỉ, kẻ bị tước bút, người bị lột đồng hồ, kẻ bị tháo nhẫn, người
bị gỡ
dây chuyền. Nhiều tên du kích mặt mũi non
choẹt, chừng mười lăm, mười bảy
tuổi vác M-16, vác AK la hét, chửi mắng
chúng tôi.
- Thằng này đeo nhiều bút chắc chắn phải là thằng chỉ huy cấp lớn, lột hết bút
nó đi. ra.
- Thằng này để nhiều râu chắc chắn phải là thằng sĩ quan, lột đồng hồ của nó
Thôi thì có quá nhiều lý do ‘’chính đáng’’
để chúng tôi bị lột sạch. Thậm chí
đến sợi dây kim loại để đeo thẻ bài chúng
tôi cũng bị lột với lý do là phương tiện
chiến tranh của Quân Đội Ngụy.
Ưu tiên sĩ quan chúng tôi qua phá trước hết.
Trong khi tập họp đợi tất cả mọi người qua phá, một tên hình như là cán bộ
chính trị đứng
thao thao bất tuyệt với chúng tôi.
- Nào là quân đội nhân dân là quân đội bách chiến bách thắng dưới sự lãnh
đạo sáng suốt của đảng.
- Nào là các anh là những người may mắn đã được nhân dân và cách mạng giải phóng khỏi gông xiềng của Mỹ Ngụy.
- Nào là chính sách khoan hồng
nhân đạo của chính phủ lâm thời
cộng hòa miền Nam Việt Nam đối với tù tàn binh biết ăn năn hối cải.
- Nào là Thành Phố Đà
Nẵng đang bị bao vây mọi mặt,
mọi phía từ đường núi,
đường bộ, đường biển
đến vùng trời.
Một người đứng
lên hỏi.
- Xin anh giải thích cho
chúng tôi một số điều, thứ nhất hành động chôn người tập
thể tại Huế trong trận Tết Mậu Thân và bắn giết bừa bãi những người dân vô tội tại Đại Lộ Kinh Hoàng năm 72, thứ
nhì, tại sao mang tiếng là xâm lược
mà khi chúng tôi rút khỏi Quảng Trị và Huế, dân chúng lại bỏ chạy hết
vào Đà Nẵng và Sài Gòn để tránh nạn cộng sản, thứ
ba, anh giải thích thế nào về hành động quân đội nhân dân của các anh đã và đang cướp bóc ở bên kia Phá, thứ tư, chúng tôi sử dụng súng
đạn của đế quốc Mỹ hay mấy anh sử dụng súng
đạn của
cộng sản Nga, Tàu để tàn sát đồng bào, thứ năm...
Tên cán bộ chính trị
việt
cộng tức giận ngắt
lời và ra lệnh
cho bọn thủ hạ.
- Lôi cổ thằng ngoan
cố này ra ngoài, quay sang chúng
tôi, hắn gằn giọng.
Các anh phải biết đảng và nhân dân chỉ
khoan hồng cho người nào thực sự biết ăn năn hối cải, còn tên nào ngoan cố chỉ
có hại
vào thân thôi.
Nói xong, tên này hầm hầm đi
ra ngoài.
Chúng tôi nghe một tiếng súng nổ ở phía Phá Tam Giang.
Khi mọi
người đã qua phá xong, chúng tôi bị
dẫn đi dọc theo con đường
đất quanh co hướng về phía Quốc Lộ 1.
Lúc nãy, ở bờ phía bên kia Phá, chúng tôi được nếm mùi cướp bóc, thổ phỉ, và bây giờ trên con đường đất
hai bên là ruộng, là lùm, là bụi này, chúng tôi được thưởng thức
món giết người.
Đoàn tù chúng
tôi đi thất thểu trên đường,
đoành một tiếng, một xác người
ngã xuống bờ ruộng, đoành một tiếng, một xác người nữa ngã xuống bờ ruộng.
Một người đi ngay bên cạnh tôi bị bắn vào đầu, máu và óc văng dính cả vào người tôi.
Trò bắn
giết rất kỳ cục
và khó hiểu. Những người bị bắn chết và những
người không bị bắn, hay chưa bị bắn, đều không hiểu tại sao bọn
việt
cộng lại bắn
người này mà không bắn
người kia. Tại sao thằng việt cộng này không bắn người này mà
bắn người nọ ? Chúng tôi rất hoang mang nhưng lúc này không ai có phản ứng
gì, mọi người vẫn cứ lầm lũi, thất thểu đi. Đói, khát, mệt mỏi
và luộm thuộm lếch thếch,
chúng tôi đi, hoang mang không hiểu bao giờ đến lượt mình bị bắn. Số người bị bắn
mỗi lúc dĩ nhiên mỗi nhiều hơn. Tất cả lon lá đã được gỡ ra từ sáng, khi chúng tôi
mới nhận được quần áo mang từ bờ biển vào. Râu ria trên mặt
biểu hiệu cho chức cấp hiểu theo nghĩa việt cộng cũng không phải, vì nhiều người để
râu, trong đó có cả
tôi, không hay chưa bị bắn, nhiều người râu ria nhẵn nhụi đã bị bắn.
Mãi về sau, khi nghe được bọn việt cộng cầm súng đi tìm người
để bắn nói chuyện với nhau
chúng tôi mới vỡ lẽ ra. Những
tên việt cộng nào đã từng bị Tiểu Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến nào đánh cho xất bất xang bang lúc trước, lúc này cứ đi tìm huy
hiệu và bảng tên của Tiểu Đoàn đó mà bắn.
Người mặc áo có gắn phù hiệu của
Tiểu
Đoàn 5 không bị thằng việt cộng này bắn nhưng bị thằng việt cộng khác bắn. Người mặc áo có gắn phù hiệu Tiểu Đoàn 3
bị bắn bởi thằng việt cộng không bắn
người mặc áo của Tiểu Đoàn
4.
Chúng tôi lột hết bảng tên và phù hiệu Tiểu
Đoàn. Cuộc bắn giết thưa
dần rồi chấm dứt.
Chúng tôi bị đưa về Căn Cứ La Sơn nhốt tạm để sau đó, Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ
bị đưa nhốt ở Khe Tre, Nam Đông. Đám Sĩ Quan chúng tôi bị đưa về cây số 23,
gần ngay chỗ Ban Chỉ Huy Tiểu
Đoàn 4 ít ngày trước, đối diện
với làng Đồng Lâm.
Khoảng giữa tháng
Tư, chúng tôi bị đưa về trại tù binh chính
thức nằm phía
Bắc Khe Sanh, sát biên giới Lào, ở
ngay đầu nguồn sông Bến Hải.
Cali 85
Đăng nhận xét