Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa Sẽ Không Lớn Nổi Thành Người
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa
Khi thời hạn hoãn dịch vì lý do học vấn chấm dứt, thằng
Kim nhập ngũ, vào trường Bộ binh Thủ Đức huấn luyện quân sự, và khi ra trường,
được biệt phái về dạy lại. Trong chín
tháng quân trường, dù thể xác và tinh thần bị thử thách cam go, nó vẫn dành thì
giờ và đầu óc làm luận án cao học. Đêm đi
trực gác nằm dưới giao thông hào, nó trùm poncho bật đèn pin làm
toán. Sáu tháng sau khi “đi lính” về, nó
đậu bằng Cao học Toán.
Hai năm sau ngày ra trường, tôi
về trường Điện dạy lại, làm giảng nghiệm
viên trong ban Điện như thằng Kim, và có
dịp biết rõ về nó hơn. Cha mất sớm, nhà
nghèo lại đông em, nó là con lớn phải giúp mẹ nuôi em ăn học. Tôi cố gắng giúp nó có chuyện làm thêm lợi tức: Là trưởng phòng Máy Điện của Đại học Khoa học
Kỹ thuật Minh Đức, tôi giúp thiết lập chương trình giảng dạy của trường và mời thằng
Kim dạy các giảng khóa sở trường của nó.
Đồng thời, một đại học tư khác là viện Đại học Vạn Hạnh mở thêm phân
khoa Khoa học Ứng dụng đào tạo kỹ sư và mời tôi dạy, tôi lấy cớ bận rộn giới
thiệu nó thế chỗ. Ngoài ra, một người bạn
tôi mở trường dạy luyện thi vào các trường chuyên khoa như kỹ sư, y khoa, và kiến
trúc và đặt tôi viết sách toán luyện thi.
Tôi thu góp các đề thi toán đã ra trước đó, giao cho thằng Kim viết phần
bài giải, và chia đôi tác quyền.
Bạn cần tăng gia nỗ lực gửi tiền về để cấp cho học bổng cho sinh viên,
giúp trường mua dụng cụ, và giúp nhà nước kiến thiết quốc gia . . .
Đồng thời, hầu hết những người Việt tỵ nạn Cộng sản trên thế giới đều nhận
được thư xin tiền của thân nhân và bạn bè bên nhà với giọng điệu như nhau. Ở Hoa kỳ, tại những nơi có đông người Việt, văn
phòng nhận chuyển tiền về Việt nam mọc lên, và tiệm bán hàng hóa trưng bài ba
thùng đồ – thùng “A,” thùng “B,” và thùng “C” – nhận gửi về Việt nam. Mỗi loại thùng chứa một số thuốc men và hàng
hóa nhất định với giá 100 đô la, cộng thêm cước phí 20 phần trăm. Ở Sài gòn, Việt Cộng (“VC”) cũng có những
thùng đồ y hệt như thế, phát cho người nhận tại trạm nhận đồ Phạm Đăng Lưu (con
đường trước là đại lộ Chi Lăng Phú Nhuận), và cho cán bộ đón ở cửa ra, mua lại thùng
đồ, trả bằng tiền Hồ Chí Minh, và bưng lại vào bên trong chờ người nhận mới.
Trong một báo cáo hàng năm với WHO, Cơ
quan Y tế Thế giới của Liên hiệp quốc, Hà nội muối mặt phúc trình trẻ sơ sinh Việt
nam nay chỉ dài 21 phân rưỡi, ngắn đi một phân từ 22 phân rưỡi, nhục nhã thú nhận
chế độ kinh tế “bao cấp” kiểu Cộng sản thất bại cùng tận khiến các bà mẹ thiếu ăn
lúc mang thai. Mặt khác, văn công Hà nội
đẩy mạnh ra ngoại quốc khí cụ chính yếu của kế hoạch moi tiền “Việt kiều” (nay
mang nghĩa mới nghe khá chướng tai là người Việt sống ở hải ngoại): bài hát “Quê Hương” phổ nhạc từ bài thơ “Bài
Học Đầu Cho Con” của Đỗ Trung Quân. Theo
lời thi sĩ, bài thơ được sáng tác để tặng con gái một người bạn vừa lên một và không
hề có câu cuối như trong bài hát,
Quê hương là chùm khế ngọt
cho con trèo hái mỗi ngày
quê hương là đường đi học
con về rợp bướm vàng bay.
. . .
Quê hương mỗi người chỉ một
như là chỉ một Mẹ thôi
quê hương nếu ai không nhớ
sẽ không lớn nổi thành
người.
VC ước lượng có 2.7 triệu Việt kiều, trong đó
80 phần trăm sống sung túc ở các quốc gia tự do, và xem họ là những con bò sữa
béo bở tha hồ vắt ra tiền. Với câu hát cuối,
VC chỉ trỏ hăm he, “Nếu không nhớ gửi tiền về thì sẽ không lớn nổi thành người.”
* * *
Đầu năm 2005, tôi và Quỳnh Châu có việc về Việt nam và gặp lại thằng Kim trong buổi họp mặt bạn bè tại một nhà hàng ở bến tàu Sài gòn. Nó vẫn dạy trường Điện và cho biết sáng hôm sau, Chủ Nhật, trường có buổi lễ phát học bổng cho sinh viên. Quỳnh Châu quyết định chúng tôi sẽ dậy sớm vào trường Điện dự lễ và tặng học bổng mới cho sinh viên.
Sau ba mươi năm xa cách, tôi bồi hồi trở lại ngôi trường thân yêu và đến địa điểm làm lễ là Giảng đường Lambert, giảng đường xưa kia tôi hay dùng dạy các cua lý thuyết. Trên bục giảng dùng làm sân khấu, một cán bộ trạc ba mươi lăm, ba mươi sáu tuổi, có lẽ là “hiệu trưởng” trường, đứng điều khiển chương trình. Không có thằng Kim hay giáo sư nào khác tham dự. Quan khách chỉ có vợ chồng tôi và vợ chồng anh Lương, và vì vậy dù chúng tôi đến dự không báo trước, Quỳnh Châu cũng được sinh viên trao tặng một bó hoa tươi dành cho quan khách.
Tôi biết anh Lương từ đầu thập niên 1970. Lớn hơn tôi một con giáp, anh sinh ở miền Bắc
và năm 1954 theo gia đình di cư vào Nam.
Anh đậu thủ khoa kỳ thi tuyển vào trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ của
Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật mà trường Điện là một phần, nhưng không học hết năm
đầu vì được học bổng của chính phủ Nhật Bản sang Nhật học điện tử tại Học viện
Kỹ thuật Đông Kinh, viện đại học lớn nhất của Nhật. Tốt nghiệp tiến sĩ điện tử, anh làm chuyên
viên nghiên cứu cho công ty Điện Kỹ nghệ Matsushita mà ở tây phương người ta biết
đến qua thương hiệu “Panasonic” và được báo chí Nhật xếp vào 100 nhà bác học giỏi
nhất nước Nhật.
Trong thời gian đi học, anh Lương quen và yêu thương
cô bạn cùng trường Sachiko con một giáo sư dạy trong trường, cô cũng yêu anh thắm
thiết, và hai người thề non hẹn biển sẽ nên duyên vợ chồng. Khổ thay, Nhật là một xã hội thủ cựu, và người
Nhật khư khư theo truyền thống cổ xưa, tự hào mình là dân Nippon là xứ mặt trời
mọc, và không chấp nhận hôn nhân dị chủng.
Phương chi anh là dân xứ nhược tiểu đắm chìm trong chiến tranh mà trong
thế chiến thứ hai Nhật có thời chiếm đóng.
Dĩ nhiên, cha cô không chấp thuận cuộc hôn nhân của hai người.
Cùng kế anh Lương mới phải nhờ ân sư Yachi đến cầu
hôn. Là người đỡ đầu luận án tiến sĩ của
anh, giáo sư Yachi mến tài và yêu thương anh như con. Với truyền thống kính trọng thể diện của người
Nhật, cha Sachiko không thể từ chối lời thỉnh cầu của vị giáo sư đồng nghiệp và
cũng là bạn thân của ông. Ông chấp thuận
cho hai người thành hôn nhưng, “Sau đám cưới, tôi sẽ từ Sachiko và xem như không
hề sinh ra đứa con gái ngỗ nghịch.” Thế
là cô gạt lệ vĩnh biệt gia đình và đất nước theo chồng về Việt nam xây lâu đài
hạnh phúc.
Về Sài gòn, anh Lương được bổ nhiệm làm giáo sư dạy
ban Điện tử của Đại học Khoa học Sài gòn, nơi tôi làm luận án tiến sĩ kỹ sư nên
dù anh không dạy tôi, theo tôn ty trật tự tôi gọi anh bằng “thầy.” Tháng Tư năm 1975 miền Nam đổi chủ, anh Lương
vẫn giữ chân giáo sư như cũ, nhưng cuộc sống của anh chị và hai đứa con trai trở
nên khổ sở cùng cực. Năm sau, nhờ chị
Sachiko là công dân Nhật, gia đình anh về Nhật, và anh trở lại làm việc cho Matsushita
trước khi được mời làm giáo sư tại Đại học Hosei ở Đông Kinh, một đại học tư nổi
tiếng về hai ngành luật và chính trị học.
Công việc giảng dạy và nghiên cứu của anh thành đạt, gia đình anh hạnh
phúc, và chị Sachiko theo bổn phận của đàn bà Nhật rất mực thương yêu chiều chuộng
chồng và chăm lo dạy dỗ con cái. Cho đến
khi anh trở thành nạn nhân của chính sách bòn rúc Việt kiều của VC.
Anh Lương bị bọn du học sinh VC ở Nhật dụ dỗ đi quyên
tiền của các trường đại học, quỹ tài chánh, và nhà hảo tâm để gửi về VIệt nam với
danh nghĩa giúp các trường đại học – tương tự như lời lẽ trong thư thằng Kim. Để chắc ăn, Hà nội chỉ định cô du học sinh Ánh
Thu theo “làm việc” sát cánh với anh, và chẳng bao lâu nhà khoa học tăm tiếng bị
tuổi trẻ và nhan sắc của cô mê hoặc và trở thành một thứ VC nằm vùng. Tiếp theo, anh lìa bỏ người vợ hiền đã vì anh
hy sinh gia đình và tổ quốc, đưa anh thoát khỏi địa ngục đỏ, và nuôi dạy con
anh nên người, để chung sống với cô gái không đáng tuổi con anh.
Mùa hè năm 2003, anh Lương về hưu trở về Việt nam sinh
sống, mua một căn nhà nhỏ ở Gò Vấp, nhà có khoảnh vườn phía trước khoảng 20 mét
vuông, và được chính quyền VC mời ra “vinh danh” tới tấp. “Vinh danh” là chữ mới, đặt ra với sự kém hiểu
biết về ngữ pháp, dùng chỉ việc tôn vinh “những người Việt nam ở nước ngoài có
nhiều thành tích trong sự nghiệp và có nhiều đóng góp cho đất nước.” Anh được trao tặng bằng khen của ủy ban nhân
dân thành phố, huy chương của hội khoa học kỹ thuật, giải thưởng Vinh danh
Nước Việt, v.v. Mỗi lần vinh danh
anh và mấy chục con cừu non ngây thơ ở ngoại quốc được mời về Sài gòn, VC chỉ tốn
một tờ giấy làm bằng khen, nhưng thổi phồng lên thành biến cố nức lòng trọng đại
để dụ hoặc Việt kiều gửi tiền về, hay mang tiền về Việt nam du lịch.
Thời kỳ vinh danh đi qua, trái chanh đã vắt hết
nước, và anh Lương va chạm với sự thực phũ phàng khi anh muốn sửa nhà để sân
trước có hòn non bộ và chiếc cầu nhỏ bắc ngang tương tự như nhà Nhật Bản. Trong một lần đi lãnh bằng khen, anh đã đề cập
chuyện này với cán bộ chóp bu của thành phố và được ông ta ừ à qua loa. Tưởng thế là yên chuyện, anh đi mua một đống vật
liệu gỗ đá chở về nhà và gọi thợ đến xây.
Không ngờ, công an phường đến hỏi giấy phép xây cất. Không có.
Anh nói gì thì nói, công an sai người dỡ xuống và phạt tiền rất nặng. Như từ trên trời rớt xuống đất, anh đau như
hoạn mà không biết than van với ai nên viết thư kể công và phàn nàn gửi tới các
báo. Lời kêu ca của anh chẳng khác gì tiếng
kêu trong sa mạc, không ai đoái hoài tới, ngoài một người bạn tôi; anh bạn đó scan
bài báo và post lên mạng cho thiên hạ xem chơi.
* * *
Trong căn văn phòng nhỏ là một phần của
phòng Học vụ ngày xưa, Quỳnh Châu làm thủ tục tặng mười học bổng, mỗi học bổng 100
đô la, cho sinh viên trường Điện. Chúng
tôi định dùng khoản tiền đó đi xem Hà nội và vịnh Hạ Long, nhưng đêm qua quyết
định không đi. Trong lúc chờ nàng, tôi
miễn cưỡng nói chuyện với vợ chồng anh Lương.
Vị cựu giáo sư 70 tuổi nhắc đi nhắc lại thành tích đậu đầu vào trường
Công nghệ gần nửa thế kỷ trước – và chỉ có thế. Ánh Thu vợ anh chưa tới tứ tuần, dáng người
hơi đẫy đà, và ăn nói hỗn hào trịch thượng khiến tôi bực bội. Dù nhỏ hơn tôi gần 20 tuổi, chị ta nói gần
như ra lệnh,
“Anh
gọi anh Lương bằng ‘thầy’ thì theo đúng phép tắc phải gọi tôi bằng ‘cô.’”
“Dạ
chị nói đúng, vợ thầy thì phải gọi bằng ‘cô.’
Nhưng tôi đã có cô Sachiko rồi, sorry!”
ân tình kia nếu ai không nhớ
sẽ không lớn nổi thành
người.
Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày 17 tháng Tám, 2022
***
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa
Tháng Bảy, Bắc Mỹ vào giữa mùa hè, tôi được cử đi cuộc
dự hội thảo về một chương trình điện toán tinh vi gọi là Mô hình Hệ thống Điện
(viết tắt là PSS/E) dùng để khảo sát các hệ thống điện lớn. Công ty cố vấn tạo lập PSS/E cấp môn bài thương
mại cho các công ty điện lực sử dụng và hàng năm tổ chức cuộc họp mặt để người
sử dụng và chuyên viên viết PSS/E trao đổi ý kiến với nhau. Năm nay (1985), cuộc hội thảo diễn ra trong hai
ngày tại khách sạn Holiday Inn gần phi trường Quốc tế Pearson ở ngoại ô Toronto,
Gia Nã Đại.
Vài năm trước, có lần tôi tình cờ đi qua Gia Nã Đại
khi đi thăm vườn Hòa bình Quốc tế nằm giữa biên giới Hoa kỳ - Gia Nã Đại, gặp một
nhóm người Việt tỵ nạn định cư ở Brandon thuộc tỉnh Manitoba, và ham vui đi theo
họ sang Brandon ăn nhậu và ngủ lại một đêm.
Việc đi lại giữa hai nước rất dễ dàng.
Đến biên giới, dù bằng đường bộ hay đường hàng không, du khách chỉ cần
xuất trình bằng lái xe hay giấy khai sinh để chứng tỏ mình cư ngụ ở Hoa kỳ hay
Gia Nã Đại. Nhưng du khách vào Gia Nã Đại
thường bị hỏi là có mang theo rượu và thuốc lá trên mức cho phép hay không. Gia Nã Đại đánh thuế rất cao vào hai món này,
gọi là “sin tax” tức là thuế đánh vào các món hàng “tội lỗi,” và sự chênh lệch giá
cả đáng kể giữa hai nước khiến bọn con buôn mang lén từ Hoa kỳ sang bán lấy lời.
Toronto mùa hè đẹp yên bình, người ta trồng
và trưng bài hoa khắp nơi, và dân chúng thì hiền hòa thân thiện. Vào phòng hội khách sạn dùng làm nơi hội thảo,
tôi ngạc nhiên khi gặp anh Phương đại diện cho hãng Houston Lighting &
Power cung cấp điện độc quyền cho vùng đô thị Houston thuộc tiểu bang Texas; đây
là lần đầu tiên tôi gặp người đồng hương trong một hội nghị về điện. Trông lớn hơn tôi vài ba tuổi, dáng người nhỏ
bé, anh rụt rè không bắt chuyện với ai, trong khi tôi ba hoa với mấy người bạn
Mỹ quen biết. Cả ngày hôm đó, anh cắm
cúi ghi chép và không phát biểu lời nào, nhưng tôi bị lôi cuốn vào cuộc bàn cãi
về phương pháp giải mạch điện của PSS/E.
Đến cuối ngày, tôi mới có dịp hỏi thăm anh,
“Anh
học kỹ sư ở đâu và có về Việt nam làm việc không?”
“Tôi
du học Tân Tây Lan rồi về nước làm cho Điện lực Việt nam hơn ba năm. Năm 1975 mất nước, gia đình tôi di tản bằng xà
lan và tàu Hải quân Mỹ và ban đầu định cư ở Tulsa thuộc tiểu bang Oklahoma. Tôi về Houston làm cho công ty điện lực hiện tại
được ba năm nay,” anh có vẻ bằng lòng với công việc.
“Anh
đã có cháu nào chưa?” tôi thấy tay trái anh đeo nhẫn.
“Tôi lập gia đình với cô bạn
quen thân hồi Sài gòn, mất tin nhau khi hai gia đình thoát ra khỏi nước riêng rẽ,
liên lạc lại được khi ở trong trại tỵ nạn, và cuối cùng tái ngộ ở Oklahoma. Chúng tôi có một cháu trai lên ba.”
Tôi và anh Phương ngồi ở lobby (căn
phòng lớn dùng làm phòng khách của khách sạn), anh đợi bà con đến đón về nhà
thăm viếng, và tôi chờ đến giờ hẹn ăn tối với mấy người bạn Mỹ. Một thanh niên có lẽ nhỏ hơn tôi một hay hai
tuổi, thân hình vạm vỡ, dáng đi mạnh dạn, và vẻ mặt nhân hậu bước vào nháo nhác
nhìn quanh. Anh Phương đứng dậy chào và
giới thiệu,
“Anh
Ba Hoa bên Mỹ sang đây họp như tôi, còn đây là anh Hiền anh chú bác của
vợ tôi. Anh Hiền trước là Không quân và
năm 1979 vượt biên tới Gia Nã Đại.”
“Cả
nhà đang nóng lòng coi mặt dượng. Phải giỏi
giắn lắm mới lọt vô được mắt xanh kén chọn của cô em nhà chú tui!” Hiền
cười với anh Phương rồi quay sang tôi, “Tui nghe tiếng anh lâu rồi! Anh Bảo nói tới anh luôn; ảnh nói hồi
đi học anh học giỏi không ai bằng, mà ba gai chỉ thua Tôn Ngộ Không trong Tây
Du Ký.”
Thuở học trường kỹ sư, tôi và Bảo chơi với nhau rất
thân. Bảo học công chánh, tôi học điện,
và năm đầu hai thằng học chung các lớp khoa học cơ bản. Tôi ở trọ nhà người bà con của Bảo, nhà ở
trong một ngõ hẻm ngắn, và ngôi nhà đồ sộ của Bảo nằm ngay đầu hẻm ngoài đường. Buổi sáng, Bảo đứng trên sân thượng nhà chàng
khum hai bàn tay làm loa gọi tôi dậy rồi lấy xe Lambretta chở tôi đi ăn sáng ở
tiệm phở Tàu Bay trên đường Lý Thái Tổ trước khi hai thằng cùng nhau đến trường. Ông cụ Bảo là bác Vân, một nhà giáo đức
độ và nhà soạn sách giáo khoa nổi tiếng, xem tôi như người trong nhà. Mỗi dịp giỗ tết, bác đều gọi tôi đến dự,
ngay cả sau khi Bảo tốt nghiệp, đi du học Nhật Bản, và học cao học ở Học viện
Kỹ thuật Đông Kinh là viện đại học lớn nhất của Nhật.
Trong thời gian đi du học, Bảo nghỉ hè về Việt nam
thăm nhà và thành hôn với Hạnh Tuyết, đám cưới tôi làm phù rể, và sau đó nàng
theo chồng sang Nhật. Sau tháng Tư năm
1975, vợ chồng Bảo xin nhập cư Gia Nã Đại và đến Toronto đoàn tụ với hai bác
Vân và anh chị em trong gia đình. Từ đó,
tôi hầu như viết thư hàng tuần cho Bảo và bác Vân.
Tôi hỏi Hiền,
“Hiền
hay gặp Bảo lắm hay sao?”
“Đúng
vậy. Nhóm bạn trẻ chống Cộng ở Toronto tụi
tui ấn hành nguyệt san Xxxx Việt, một tạp chí đấu tranh văn học nghệ thuật,
và dùng tờ báo làm phương tiện hoạt động cộng đồng. Anh Bảo làm chủ nhiệm lo giao dịch bên ngoài;
tui lo phần trị sự, bao thầu mọi chuyện lớn nhỏ trong tòa soạn,” Hiền
hãnh diện.
“Bảo
hăng say hoạt động từ thời sinh viên ở Việt nam, sang Nhật cũng vậy, và giờ tiếp
tục chí hướng ở Gia Nã Đại,” tôi thán phục bạn mình.
“Tối
nay anh Bảo bận công chuyện cho tờ báo nên chưa gặp anh được. Tứ hải giai huynh đệ, tiện đây mời anh
tới nhà tui dùng cơm cho tui được tiếp đãi khách phương xa.”
Sự niềm nở của người bạn mới gặp khiến tôi
cảm động, nhưng nén lòng tham ăn từ chối,
“Cám
ơn Hiền, tối nay tôi có việc quan trọng phải làm. Hẹn một dịp khác.”
“Không
sao đâu anh Ba Hoa. Có duyên sẽ gặp
lại, không nên miễn cưỡng,” Hiền cười hiền khô.
Tôi không nhận lời ăn cơm khách nhà Hiền
vì sau khi ăn cơm tối với bạn Mỹ, tôi cần về phòng khách sạn gọi điện thoại cho
Quỳnh Châu. Không những mỗi đêm đi công
tác xa tôi đều gọi cho nàng và bé Mạc, Mạc đợi nói chuyện với tôi rồi mới đi ngủ,
mà hôm nay là kỷ niệm 20 năm ngày tôi gặp nàng lần đầu, thuở nàng là cô bé ngây
thơ 13 tuổi như trong thơ Nguyên Sa,
Trời hôm ấy mười lăm hay mười tám?
Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ
mười ba.
Tôi đã đặt hàng hoa giao đến tận nhà tặng nàng bó hồng
nhung, loại hoa nàng ưa thích. Nhưng lời
cảm kích từ miệng tôi thì không thể thiếu.
* * *
Sáng ngày họp thứ hai, hầu hết mọi người
đều trả phòng khách sạn và mang hành lý vào phòng hội để khi cuộc hội thảo gần kết
thúc hay kết thúc, sẽ lật đật chạy ra phi trường bay về nhà. Tôi ở lại thêm một đêm, vì nếu rời Toronto
chiều hôm ấy, dừng lại hai nơi, và qua ba chặng đường bay, không thể về đến nhà
cùng ngày mà phải ngủ đêm dọc đường. Buổi
chiều đi làm về, Bảo lái xe đến đón tôi tới nhà Bảo thăm hai bác Vân rồi cùng với
Hạnh Tuyết đưa tôi đi ăn tối ở tiệm Tam Ngư trên đường Spadina ở phố Tàu
Toronto. Chúng tôi nói chuyện vui như
pháo tết, lâu lắm tôi mới thấy lòng mình thanh thản như thế. Đợi ăn tráng miệng xong, Bảo nghiêm nghị cho
tôi biết,
“Thằng
Kiệt bị ung thư gan vừa mất ở Montréal, để lại chị Hà và hai cô con gái nhỏ. Tôi gửi vòng hoa điếu tang và ghi thêm tên
ông.”
“’Kiệt
Cổ’ học cùng lớp công chánh với Bảo ấy à?
Từ ngày tôi quen với Bảo, lúc nào cũng thấy nó kè kè sau lưng Bảo như
cái đuôi. Bảo làm gì nó cũng làm y hệt
như thế, và ngay cả việc đi du học Nhật Bản và sang Gia Nã Đại định cư nó cũng copy
nguyên con. Sao mấy năm gần đây
tôi ít nghe Bảo nói đến nó?”
“Một
thời gian sau khi đến Nhật, tôi và nó dần dần xa nhau,” Bảo xúc động nhớ lại
người bạn vừa qua đời.
Như gia đình Bảo, năm 1954 gia đình Kiệt từ ngoài Bắc
di cư vào Nam. Bác Vân theo đuổi nghiệp
nhà giáo, và ông cụ Kiệt làm công chức lên đến chánh sự vụ một sở của bộ Thông
tin thời Đệ nhất Cộng hòa. Năm 1960, vừa
nghe tin Đại tá Nguyễn Chánh Thi đứng lên đảo chánh lật đổ Tổng thống Diệm, ông
vui mừng gỡ tấm hình ông Diệm treo trên tường xuống. Cuộc đảo chánh thất bại, ông bị thất sủng và chỉ
được giao các công tác vặt vãnh như đi treo cờ và giăng biểu ngữ ca ngợi chính
sách của Việt nam Cộng hòa (“VNCH”) ngoài đường phố.
Kiệt có người anh lớn tên Triệu. Triệu học giỏi và đậu vào trường Đại học Sư phạm,
nhưng lại thân Cộng, chuyên đi biểu tình chống chính phủ, và ban đêm cùng đồng
bọn đi gỡ biểu ngữ xuống để phá rối.
“Ban ngày cha giăng lên, ban đêm con gỡ xuống. Cha làm thầy, con đốt sách,” tôi hay cười
mỉa Kiệt. Tết Mậu Thân (1968), Triệu
theo Việt Cộng ra bưng rồi bị quân VNCH đi tảo thanh bắn chết. Gia đình Kiệt oán hận VNCH từ đó.
Bảo và Kiệt cùng sang Nhật du học. Đông Kinh đầy dẫy bọn sinh viên ăn cơm Quốc
gia thờ ma Cộng sản, chúng múa gậy vườn hoang tuyên truyền nịnh bợ cho
Việt Cộng mà chính phủ Nhật cố tình làm ngơ.
Bảo tổ chức nhóm sinh viên chống Cộng, đi biểu tình, ra bản tin liên lạc,
và hợp tác với Tòa Đại sứ VNCH để phản công lũ Việt Cộng nằm vùng. Kiệt đâm ra xốn xang bất mãn, bắt đầu rời xa
Bảo, và không còn nấp bóng dưới nách bạn như trước. Chơ vơ lạc lõng, Kiệt rơi vào vòng tay êm ái
của chị Hà. Chị là con một của một gia
đình giàu có ở Sài gòn, sang Nhật học cắm hoa đã gần 10 năm, và đang nóng lòng chờ
duyên. Chị lớn hơn Kiệt ít nhất là một
con giáp,
Nghe kể đến đây, tôi cười xều xào nói với
Hạnh Tuyết vợ Bảo,
“Nghe
tin cuộc tao ngộ đôi đũa lệch đó, tôi tức cảnh sinh tình đặt cho nó cái
tên Kiệt Cổ, tức là Kiệt chuộng đồ cổ.
Nó xa quê hương nhớ mẹ hiền, níu áo chị Hà cho đỡ nhớ mẹ già
như chuối bà hương!”
“Ông
Ba Hoa này thật khéo ví von!” Bảo cười khà rồi quay sang nói với vợ, “Phần
còn lại thì em biết rồi, mình đã dự đám cưới thằng Kiệt ở Đông Kinh. Theo ca dao thì nó là kẻ may mắn,
Có phúc lấy được vợ già,
Sạch cửa, sạch nhà lại ngọt
cơm canh.”
Tối hôm đó, trước khi chia tay, Bảo hẹn
hôm sau đến ăn sáng với tôi ở khách sạn rồi đưa tôi ra phi trường; tôi sẽ rời
Toronto bằng chuyến bay 11 giờ sáng. Cuối
bữa ăn sáng, Bảo lấy ra mấy số báo Xxxx Việt đã phát hành đưa cho tôi,
“Ông
có tài viết hơn tôi. Ngày đi học, ông từng
làm báo sinh viên; lúc đi dạy, ông viết cua (bài giảng) viết sách; và
lúc đi làm, ông viết bài khảo cứu. Chúng
tôi đơn độc và cần thêm những bàn tay góp lửa đấu tranh. Ông là bạn tôi, ông phải viết cho tờ báo.”
Trên đường về, trong thời gian chờ đợi ở
phi trường và ngồi trên máy bay, tôi viết một bài ngắn gồm một số câu đố vui
khoa học kèm theo lời phi lộ,
Nhân dịp
ghé thăm Toronto vì công việc, tôi gặp lại bạn thân là Yyyy Bảo, chủ nhiệm báo
Xxxx Việt. Hơn mười năm nay mới gặp lại
nhau, vui mừng kể sao cho xiết. Sau những
giờ phút hàn huyên tâm sự, Bảo đề nghị tôi viết bài cho Xxxx Việt. Trong lúc vui mừng tràn ngập, một phần vì nể
bạn, tôi hứng chí nhận lời. . . .
Thôi thì một liều ba bảy cũng liều, đành đem mớ kiến
thức học hỏi được trong mấy mươi năm qua để độc giả Xxxx Việt mua vui chốc
lát. . . .
Về đến nhà, tôi gửi ngay bài viết cho Bảo. Chàng vẽ hình cho câu đố vui, chạy vào số Xxxx Việt sớm nhất, và đặt tên và khai trương một mục mới: “Đố Vui Để Chọc” do Ba Hoa phụ trách. Có lẽ Bảo lấy ý từ chương trình truyền hình “Đố Vui Để Học” do trung tâm Học liệu bộ Quốc gia Giáo dục thực hiện và phát hình hàng tuần cuối thập niên 1960.
Thế là tôi bước vào nghiệp viết báo. Hãnh diện đóng góp vào tiếng nói người Việt
chống Cộng ở hải ngoại. Cho đến mười năm
sau, khi Xxxx Việt đình bản.
Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày 24 tháng Tám, 2022
Đăng nhận xét