TRANG TRUYỆN NGẮN QUÝ NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA & TẠ QUANG KHÔI
Không Ai Động Đến Được
Truyện ngắn mới:
"Không Ai Động Đến Được" (Tháng Tám 2024) -- Nguyễn Ngọc Hoa
Mời đọc truyện
ngắn thứ mười ba
trong
loạt truyện "Cố
Quốc Tha Hương," hay Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa XI.
Xin đọc bản text
dưới đây hay bản .pdf đính kèm.
https://dconnect.co.jp/friend/tacbut/nv-hoa/TruyenNgan_NNHoa/index.html
https://dconnect.co.jp/friend/
Xin chúc quý thân hữu
và quý quyến một cuối tuần vui vẻ và thân tâm thường an lạc.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa
Không có bé út Diễm Lệ
kén ăn và khó tính khó nết nhất nhà, chúng tôi chọn nơi ăn tối khá dễ dàng:
steak house (tiệm ăn mà món đặc biệt là thịt bít-tết) Quỳnh Châu
ưng ý nhất. Ăn tối dưới đèn mờ và trong ánh nến lung linh, vẽ vời những ước
mơ tương lai cho các con, và nhắc lại kỷ niệm của những ngày tháng yêu nhau xa
xưa – điều không mấy khi chúng tôi dám nói lộ liễu trước mặt con cái.
Ăn xong, chúng tôi đi
xem xi-nê. Tôi thích xem phim hành động, và Quỳnh Châu thiên về phim tình
cảm nhẹ nhàng, nhưng nàng đã đọc báo và chọn xem phim Desperado (Tay bạt
mạng) do hai tài tử Antonio Banderas người Tây Ban Nha và Salma Hayek người Mỹ
gốc Mễ Tây Cơ đóng vai chính. Phim hành động, trong đó lồng vào mối tình
say đắm của hai nhân vật chính. Chúng tôi. . . ra về thơ thới hân hoan
(mượn lời của các rạp chiếu bóng Sài gòn xưa).
Ra khỏi rạp chiếu
bóng thấy còn sớm, chúng tôi rủ nhau đi ăn bánh ngọt ở café (quán ăn
bình dân) mở cửa suốt đêm gần đó. Mỗi người chúng tôi gọi một miếng
bánh phó-mát nướng (cheesecake) ăn với dâu tây, Quỳnh Châu uống sữa sô-cô-la
nóng, và tôi uống cà-phê. Khách đi ăn khuya rì rầm trò chuyện, và Quỳnh
Châu nhắc tôi chương trình ngoài giờ học tuần tới của con: Hai đứa đi học
bơi, Diễm Lệ tập thể dục thẩm mỹ, Ân học đàn vĩ cầm và buổi chiều sau giờ học ở
lại trường tập chạy đua, v.v. Đột nhiên, nàng dừng lại và nhìn thẳng vào
mắt tôi,
“Chồng ơi, hai ba tuần
nay em thấy anh lo âu và trăn trở cả đêm. Em cầm lòng không đậu; phải chi
anh chia cho em một nửa để đồng vợ đồng chồng cùng nhau lo lắng.”
“Số là bạn anh trong
mấy tiểu bang quanh đây dự định hùn vốn mở công ty cố vấn về điện toán và kế hoạch
điện lực. Họ mến tài anh, mời anh tham dự, và đồng ý cho anh không phải bỏ
vốn mà cũng có phần đồng đều như những người kia,” tôi giải thích.
“Em biết Việt nam
mình có câu ‘phi thương bất phú,’ không mua bán thì không giàu, trong
lúc ở Mỹ nếu không làm chủ mà đi làm công ba cọc ba đồng hoài thì suốt đời chỉ
làng nhàng, khó mà giàu được,” nàng nôn nóng góp ý.
“Anh day trở giữa cái
bệnh thích ăn chắc mặc bền, ăn ít no lâu, của ‘người An nam ta’ và tinh
thần ‘có gan làm giàu,’ chấp nhận thương đau nếu thất bại, của người Mỹ.
Nhưng anh đã quyết định không dự phần vì hoàn cảnh gia đình mình không cho phép
anh mạo hiểm. Lý do là công ty mới mở, sáu tháng đến một năm sau mới có lợi
tức; trong thời gian đó anh sẽ làm việc không có lương. Ngoài ra, theo thống
kê thì có đến 80 phần trăm các công ty mới mở sẽ thất bại trong hai năm đầu
tiên; nếu gặp xui xẻo công ty sập tiệm, gia đình mình làm sao sống?”
Trước sự ngạc nhiên của
tôi, Quỳnh Châu thở phào nhẹ nhõm và reo nhẹ,
“Hú hồn, vậy mà em tưởng
chồng lo mất việc ở MDU.” “MDU” là tên gọi tắt của Công ty Tiện ích
Montana-Dakota của tôi.
“Té ra vì vậy
mà em phải ra công dàn trận cho vụ ‘hẹn hò’ hôm nay để hỏi cho
ra lẽ,” tôi cười khà khà khiến khách các bàn chung quanh quay lại nhìn.
“Chồng nhớ bà Jane
trong họ đạo nhà thờ Ba Ngôi Lutheran dạy chung với em trên trường đại học cộng
đồng không? Chồng bả có người em làm lớn trong MDU; ông đó nói anh
xuýt tí nữa bị ông Bruce tổng giám đốc đuổi. Đúng dzậy không?”
Nhà thờ Ba ngôi Lutheran năm 1975 đã bảo trợ gia đình tôi.
“Lời đồn đại thường có
ít xít ra nhiều; để anh kể sự tình cho em nghe.”
Chuyện Quỳnh Châu
nghe nói xảy ra tuần trước trong buổi họp do Bruce chủ tọa. Anh sinh cùng
năm với tôi, tốt nghiệp kỹ sư cơ khí cùng năm tôi tốt nghiệp kỹ sư điện, và sau
khi tốt nghiệp, làm việc cho nha Sản xuất Điện MDU là nha điều hành các nhà máy
phát điện. Sau đó, anh lần lượt được thăng lên chức trưởng
nhà máy điện, giám đốc nha Sản xuất Điện, phó tổng giám đốc, và cuối cùng tổng
giám đốc.
Tôi dự buổi họp cấp
giám đốc cao cấp với tư cách người đứng đầu nhóm hoạch định hệ thống phát điện
tương lai. Buổi họp bàn về dự án xây thêm một nhà máy phát điện chạy bằng
than non (lignite) lớn trị giá gần một tỉ đô la. Dự án được Bruce đề nghị
do áp lực của thống đốc tiểu bang North Dakota, bạn thân của anh. Ông thống
đốc muốn MDU xây nhà máy để giúp phát triển kỹ nghệ than non của tiểu
bang nhà; đó là một trong những điều ông hứa hẹn với cử tri khi ra tranh cử
chức vụ thống đốc năm trước. Nhưng theo sự tính toán kỹ càng của tôi, nhà
máy không thực hiện được về phương diện kinh tế (economically infeasible) và sẽ
rất khó lòng được các ủy ban tiện ích tiểu bang chấp thuận, cấp giấy phép, và
cho phép tính tiền khách hàng; MDU phục vụ khách hàng trong bốn tiểu bang.
Giống như mọi công ty
tư khác ở Hoa kỳ, MDU là at-will employer (“chủ nhân mặc ý”) có quyền sa
thải hay đuổi nhân viên mà không cần lý do. (Tuy nhiên, nếu cho đi
vì một lý do nào đó thì lý do ấy phải hợp pháp và chính đáng.) Vì vậy,
nói hay làm ngược ý sếp lớn là điều tối kỵ, mất việc như
chơi. Sau khi Bruce trình bày những “điểm lợi” của nhà máy mới, không khí
buổi họp căng thẳng, không ai dám phát biểu điều gì, và giám đốc sếp của
tôi là Gerri và ông phó tổng giám đốc sếp của anh nhìn nhau lo lắng.
Nhưng anh kỹ sư điếc
không sợ súng không thể ngậm miệng, tôi lên tiếng, lần lượt bác bỏ những điểm
Bruce nêu lên, và thấy mặt anh dần dần đỏ bừng vì giận. Khi tôi dứt lời,
anh mím môi cố dằn lòng đến nỗi các đường gân máu nổi hằn trên cổ. Mọi
người nín thở chờ đợi điều sẽ xảy ra: Anh sẽ đứng dậy, bước tới cửa
phòng, và một tay mở cửa và tay kia ra hiệu cho tôi đi ra. Show the
door (“chỉ cánh cửa”) là lối đuổi khéo của các tay chủ hãng, không cần nói
thêm lời nào. Nhưng không. Anh đứng dậy bước tới cuối phòng, rót
thêm cà-phê vào chiếc mug (cốc vại), trở về chỗ ngồi ở đầu bàn, và lấy lại
bình tỉnh,
“Giờ chúng ta bàn tiết
mục kế tiếp [của chương trình nghị sự]!”
Nghe xong chuyện, Quỳnh
Châu cuống quýt đánh nhẹ vào tay tôi, giọng hờn giỗi,
“Ôông dôông
này thiệt quá quắt! Vậy mà không thèm mở miệng nói với mụ vợ dễ
thương này một tiếng.”
“Anh biết chắc 100 phần
trăm Bruce sẽ không đuổi anh. Đường đường là tổng giám đốc dưới tay gần
hai ngàn nhân viên, hắn ta không thể đuổi anh trước mặt bá quan văn võ chỉ vì
anh phân tích phải trái lợi hại cho công ty, dù trái ngược với ý hắn. Hơn
nữa với đồng lương MDU trả cho anh, hắn ta biết sẽ không bao giờ thuê được tên
kỹ sư nào giỏi và làm việc tận tụy bằng anh.”
“Em biết chồng giỏi số
một rồi! Xưa nay em vẫn chịu ngài. Nhưng em chồng bà Jane
nói ông Bruce không đuổi anh vì nể mặt ông Martin là sao? nàng chưa an
tâm.
“Bruce là kỹ sư, làm
việc rất réc-lô. Nếu hắn ta muốn đuổi anh thì mười ông Martin cũng
không làm được gì,” tôi cười nhẹ; “réc-lô” do tiếng Pháp “réglo” là theo đúng
quy tắc.
Martin là chủ tịch tổng
giám đốc hay CEO (chief executive officer) của công ty mẹ của MDU – MDU
Resources Group (MDUR) – và là sếp của Bruce. Kể cả MDU, MDUR gồm 66 công ty nhánh lớn nhỏ với gần 30
ngàn nhân viên hoạt động ở cả 50 tiểu bang Hoa kỳ. Tuổi trên ngũ tuần,
ông vốn là nhà toán học và ngoài giờ làm việc ở văn phòng, là giáo sư thỉnh giảng
dạy toán giải tích cho lớp đêm của trường đại học cộng đồng thành phố; lớp này
sửa soạn sinh viên tiếp tục theo học chương trình kỹ sư ở các đại học lớn.
Tôi cũng là giáo sư thỉnh giảng tại cùng trường đại học và dạy giải tích mạch
điện cho cùng lớp đó. Vì hai môn liên hệ mật thiết với nhau, thỉnh thoảng
tôi nói chuyện với ông để phối hợp chương trình giảng dạy. Ông mến tài giải
toán của tôi và mỗi khi tìm được cuốn sách toán thú vị, gửi tặng tôi qua hệ thống
thư tín nội bộ công ty. Nhân viên thấy vậy bèn kháo nhau tôi là bạn của sếp
lớn.
* * *
Nhà đầu tư mua cổ phần
của một công ty luôn luôn mong muốn công ty đó bành trướng nhanh để giá cổ phần
là trị giá vốn đầu tư tăng nhanh; nếu không sẽ đổi sang cổ phần công ty
khác. Do đó, để thu hút vốn đầu tư, mọi công ty đều phải cố gắng tăng tiến.
Nếu thị trường hoạt động đã bảo hòa hay gia tăng chậm, như trường hợp công ty
tiện ích MDU bán điện và hơi đốt, công ty mẹ “phát triển” bằng cách mua thêm
công ty mới để sáp nhập vào empire (nghĩa thông thường là “đế quốc,”
nhưng trong ngôn ngữ kinh doanh chỉ tập đoàn gồm công ty mẹ và những công ty
nhánh) của mình.
MDUR định mua Cơ quan
Điện lực Bắc California (NCPA), một công ty nhỏ làm chủ đường dây dẫn điện 115
kV (kilovolt, tức là 1,000 volt) chừng 100 dặm Anh chạy trong vùng núi phía bắc
California và tải điện “thuê” cho các công ty điện lực. Ở bước đầu, MDUR
cử vài chuyên gia tài chánh và luật pháp đến trụ sở NCPA xem xét sổ sách và
phương cách hoạt động, và khảo sát sơ khởi cho thấy dấu hiệu lạc quan.
Martin cho thành lập ủy
ban lâm thời gồm 12 giám đốc chuyên môn, mỗi người xem xét một khía cạnh để xác
định tính thực hiện được (feasibility) của dự án “phát triển” này. Thông
thường nếu liên quan đến hệ thống điện, Gerri sếp tôi sẽ tham dự, nhưng
lần này anh nghỉ bệnh ba tháng nên tôi bị cử ngồi vào ủy ban thay anh.
Trong ba tuần lễ ủy ban họp ráo riết, tôi đòi thêm dữ kiện và chất vấn cặn kẽ về
đường dây dẫn điện. Biết Martin ưa chuộng dự án này, 11 thành
viên kia đề nghị mua NCPA và hăng hái ký tên vào danh sách ưng thuận. Còn
lại anh kỹ sư cứng đầu cứng cổ, tôi không đồng ý và không ký.
Muốn dự án “go,”
mọi thành viên ủy ban phải đồng lòng tán thành; nếu không, hội đồng quản trị
công ty sẽ khó lòng chấp thuận. Bị kỳ đà cản mũi, Martin cho gọi
tôi lên trụ sở MDUR ở phía bắc thành phố và cách nơi tôi làm việc chừng năm dặm
Anh. Ông gặp tôi ở phòng hội, thay vì tại văn phòng ông, như thể để tránh
tiếng chính thức hội họp. Căn phòng lớn chỉ có ông và tôi; ông lạnh lùng
mở đầu,
“Anh có gì muốn nói
thì cứ nói.”
“Các giám đốc tài
chánh của ông chỉ biết con số trong sổ cái mà mù tịt về tình trạng thực sự của
đường dây dẫn điện, tài sản chính của NCPA. Đường dây xây vào cuối thập
niên 1930 sau cuộc khủng hoảng kinh tế với nhân công rất rẻ, và người ta dùng lừa
để kéo vật liệu lên núi. Ngày nay, hơn 55 năm sau, các trụ điện bằng gỗ
thông đã quá thời hạn hữu ích và có thể đổ xuống bất cứ lúc nào. Nếu muốn
sửa chữa, ta sẽ phải thuê một đội phi cơ trực thăng rất mắt tiền.”
“Anh nói tiếp đi,”
ông vẫn không nêu tên NCPA.
“Dây dẫn điện họ dùng
là loại dây đồng mạ thép cổ lỗ ngày nay không còn ai dùng. Năm
1975, khi tôi mới vào làm MDU, công ty có một đoạn đường dây chừng 20 dặm Anh
dùng loại dây dẫn điện đó mà ông sếp tôi ngày nào cũng than van, tranh đấu
để thay cho bằng được. Tóm lại, nếu ông muốn mua NCPA, tôi sẽ nghiên cứu
nguy cơ đường dây sụp đổ, ước tính chi phí thay thế và bảo trì trong 20 năm tới,
và đề nghị con số mà họ sẽ phải trả cho mình để ‘bán’ đường dây.”
Không nói không rằng,
Martin đứng dậy mở cửa đi ra. Sau biến cố này, trong công ty người ta thì
thầm với nhau gọi tôi là “the untouchable guy” – anh chàng không ai động
đến được.
Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày 28 tháng Tám, 2024
Đoạn Kết Một Chuyện Tình
Tạ Quang Khôi
Cận nhìn qua cửa sổ. Bên ngoài tuyết mỗi lúc một dày. Về chiều, gió thổi mạnh, làm những bông tuyết như những cánh mai trắng bay tơi tả. Những ngày đầu tiên vừa đặt chân lên đất Mỹ, Cận rất thích ngắm cảnh tuyết rơi. Tất cả chỉ một màu trắng xóa ! Thật đẹp ! Mùa đông đầu tiên khi mới lưu lạc sang xứ người, chàng náo nức chờ tuyết rơi. Bây giờ thì tuyết không còn hấp dẫn nữa. Tuyết rơi thì đẹp, nhưng lúc tuyết tan thật dơ bẩn !
Cận
buồn bã nhìn đồng hồ. Đã gần năm giờ ! Tuyết vẫn rơi, mỗi lúc một dày hơn. Nhìn
nhịp độ tuyết rơi, chàng biết chàng sẽ phải về trễ. Chàng rất sợ lái xe trên
đường đầy tuyết. Thật ra, về trễ đối với chàng không phải là một chuyện bất
thường. Nhiều hôm, vì mải làm việc, chàng rời tòa báo vào lúc sáu giờ tối. Về
đến nhà chàng cũng chỉ ngồi xem tivi một mình vì các con thường đi làm về muộn.
Căn nhà trống rỗng lạnh lẽo càng làm chàng nhớ đến Hằng, người vợ thân yêu đã
qua đời. Bảy năm rồi, chàng vẫn không nguôi thương nhớ. Hằng ra đi vào dịp Tết
năm Mão. Ba tháng sau, chàng phải lếch thếch dắt các con chạy trốn khỏi Việt
Nam. Chàng và các con làm cái giỗ đầu tiên của Hằng trên đất Mỹ.
Thời
gian qua mau, nhưng vết thương lòng của chàng vẫn còn nguyên vẹn. Chàng yêu
Hằng khi nàng mới mười lăm, tóc còn kết bím sau lưng và còn đánh truyền, đánh
chắt với bạn trên hè phố. Hồi đó, chàng tương đối trải đời, từng theo kháng
chiến chống Pháp, hơn nàng đúng mười tuổi. Vì nàng, chàng đã bỏ hết, cắt đứt
mọi liên lạc với dĩ vãng để chiều theo ý gia đình nàng. Chàng đi học lại để tạo
dựng một tương lai tốt đẹp. Bốn năm sau, hai người làm đám cưới khi nàng vừa
mười chín. Sau ngày cưới ít lâu, hai vợ chồng trẻ đã phải dắt díu nhau vào Nam.
Cuộc sống của họ thật hạnh phúc, nhưng chỉ được có hai chục năm trời ! Kỷ niệm
nàng để lại cho chàng là hai đứa con, một gái một trai. Đứa con gái giống mẹ
như đúc, từ đôi mắt, miệng cười đến tiếng nói, dáng dấp. Vì thế, chàng có ý
thiên vị, chiều chuộng nó hơn thằng em. Con bé cũng biết thế, nên rất thương
cha. Đã hai mươi bốn, hai mươi lăm tuổi mà vẫn chưa chịu lấy chồng, dù có nhiều
bạn trai. Nó thường nói :
“Con
đi lấy chồng, rồi ai lo cho ba ? Khi đã có chồng, con phải lo tròn bổn
phận một người vợ, rồi bổn phận làm mẹ khi có con.”
Chàng
cảm động, mỉm cười hỏi lại :
“Bộ
con định ở giá luôn sao ? Rồi khi ba già, ba chết, ai săn sóc con ?”
Nó
lắc đầu :
“Con
chẳng cần ai lo hết. Ở cái đất Mỹ này, sống độc thân là sướng nhất.”
Chàng
đùa :
“Khi
Chương nó lấy vợ, ba sẽ có con dâu lo cho ba.”
Nó
trề môi :
“Ba
ở Mỹ lâu mà còn nghĩ như vậy là ba không thực tế. Ba có thấy con dâu nào ở Mỹ,
dù là người Việt Nam, lo cho bố chồng chưa ?”
“Con
đừng bi quan quá. Việt Nam cũng có nhiều người giữ được lề thói cũ hay đẹp. Với
lại con cũng phải nghĩ tới tương lai của con. Ba tự lo lấy được hết.”
Cảnh
gia đình của ba cha con Cận thật ấm cúng. Điều mà chàng mừng nhất là hai con
chàng chưa bị Mỹ hóa.
Bên
ngoài, tuyết vẫn rơi. Nhìn những bông tuyết rơi rào rạt, Cận biết gió thổi mỗi
lúc một mạnh hơn. Đinh ninh mình sẽ phải về muộn, chàng chán nản ngó chồng bài
cao ngất trước mặt. Đó là những bài do độc giả khắp nơi gửi về và được xếp theo
thứ tự ngày tháng nhận. Chàng hờ hững nhón lấy xấp trên cùng. Chàng liếc qua
tên truyện và tên tác giả :”Người chiến sĩ không tên của Trần Lữ”. Truyện viết
tay, tuồng chữ đàn bà. Chàng hơi ngạc nhiên về tuồng chữ vì tên tác giả rõ ràng
là tên đàn ông. Chàng chợt có một ý nghĩ ngộ nghĩnh cho rằng tác giả là một anh
chàng lại cái nên mới có tuồng chữ đàn bà. Chàng tò mò thử đọc xem “anh chàng
lại cái” viết gì. Nhưng chỉ mới đọc hết đoạn đầu, chàng ngạc nhiên và có vẻ chú
ý hơn. Chàng không khỏi thắc mắc về sự trùng hợp kỳ lạ.
Truyện “Người chiến sĩ không tên” là truyện chàng viết gần bốn chục năm về trước. Trần Lữ cũng chính là bút hiệu của chàng hồi đó. Chàng vội vàng xem tên thật người gửi : Nguyễn thị Nam Ngọc. Cái tên hoàn toàn xa lạ. Tìm đến địa chỉ, chàng càng ngạc nhiên hơn, vì không quen ai ở tiểu bang Connecticut. West Hartford, Connecti-cut ! Lần đầu tiên chàng biết đến địa danh này.
Cận
đọc lại một lần nữa truyện “Người chiến sĩ không tên”. Vẫn những non nớt, vụng
về của một người mới chập chững bước chân vào nghề cầm bút. Nó là truyện ngắn
đầu tay của chính chàng cách đây khoảng ba mươi lăm, ba mươi sáu năm, khi chàng
tham gia kháng chiến chống Pháp. Những ngày xa xưa đó bỗng trở về với chàng...
Sau
một thời gian đánh nhau với lính Tây trong thành phố Hà Nội, trung đoàn Thủ đô
rút ra hậu phương. Cận được chuyển về công tác trong ban tình báo của bộ tham
mưu liên khu 3. Tại đây, người ta giao cho chàng và một họa sĩ trẻ phụ trách
xuất bản một tờ nội san viết tay :”Chiến sĩ vô danh”. Trong số đầu tiên, chàng
đã viết truyện “Người chiến sĩ không tên” để ca tụng các tình báo viên hoạt
động âm thầm trong bóng tối. Đó là truyện đầu tay của chàng nên ý tưởng còn thô
sơ, lời văn còn vụng về, non nớt. Thế mà “Người chiến sĩ không tên” cũng được
nhiều người trong cơ quan ưa thích.
Đã
ngót bốn chục năm trôi qua, biết bao nhiêu lần “bãi bể biến thành nương dâu”,
Cận cũng đã quên truyện đó. Nay bỗng thấy nó xuất hiện, chàng không ngạc nhiên
sao được. Cái tên Nguyễn thị Nam Ngọc cũng hoàn toàn xa lạ với chàng. Càng nghĩ
chàng càng thắc mắc. Trước khi xếp truyện “Người chiến sĩ không tên” sang một
bên, Cận lấy bút đỏ ghi đậm hai chữ “Không đăng”.
Nửa
tháng đã trôi qua mà Cận cũng không sao giải đáp được thắc mắc đó. Lúc nào nó
cũng canh cánh bên lòng. Rồi chàng lại nhận được bản chụp của truyện “Người
chiến sĩ không tên”. Chàng ngạc nhiên và tự hỏi :”Thế này là làm sao ?
Người gửi có dụng ý gì ?” Vẫn Nguyễn thị Nam Ngọc ! Vẫn địa chỉ ở West
Hartford, tiểu bang Connecti-cut ! Sau khi suy nghĩ kỹ, chàng quyết
định viết cho người đàn bà mang tên Nguyễn thị Nam-Ngọc một bức thư riêng.
Chàng vắn tắt cho biết đã nhận được truyện và đã trả lời trên báo là không đăng
được, xin đừng gửi thêm nữa. Một tuần sau, chàng nhận được thư trả lời :
“Anh
Cận,
“Anh
còn nhớ cố nhân không ? Nếu anh chưa quên, hoặc anh lên gặp em hoặc cho
phép em xuống thăm anh. Rất mong thư anh.
Em,
Lần
này, Cận bị xúc động mạnh, ngẩn ngơ nhìn lá thư ngắn ngủi, không biết đáng tin
hay đáng ngờ. Thật hay mơ ? Chuyện xảy ra ngoài trí tưởng tượng của
chàng. Lê Thị Bích Anh đúng là một cố nhân. Nàng là mối tình đầu của chàng và
đã hơn ba chục năm không gặp lại.
Khi
Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội, những người được chuyển công tác về bộ tham
mưu liên khu 3 có cả Bích Anh, một nữ cứu thương xinh xắn, duyên dáng. Nàng vốn
là một nữ sinh trường Đồng Khánh, Hà Nội. Cận yêu nàng ngay lúc mới gặp và mối
tình đầu của chàng đã được nàng đáp lại. Hai người quấn quít bên nhau được một
thời gian ngắn, cho đến ngày Cận được gửi vào Hà Nội để hoạt động, sau một khóa
huấn luyện cấp tốc về tình báo. Chàng đi và không bao giờ trở lại vì chàng đã
gặp Hằng và yêu Hằng. Chàng rũ bỏ hết dĩ vãng và bỏ giở công tác được giao phó
để được sống vĩnh viễn bên cạnh Hằng. Đôi khi chàng cũng chợt nhớ tới Bích Anh,
nhưng chỉ coi đó là một mối tình bồng bột của tuổi trẻ. Trước khi cưới Hằng,
chàng cũng nghe tin Bích Anh đã lấy người chỉ huy trực tiếp của nàng.
Nay
Bích Anh bỗng xuất hiện, sau ngót bốn chục năm không liên lạc. Tại sao nàng lại
ở Mỹ ?
Cận
đọc lại bức thư ngắn nhiều lần nữa mà cũng không tìm ra lý do Bích Anh muốn gặp
chàng. Vì thế, chàng phân vân không biết có nên gặp lại người xưa không. Cả một
tuần suy nghĩ chàng cũng không quyết định được. Chàng không thể lên thăm nàng,
một phần vì công việc bề bộn, phần khác chàng sợ cái lạnh của miền Bắc về mùa
đông. Mà để nàng xuống thăm thì cũng có nhiều bất tiện. Cho đến nay, dù
đã ngót bốn chục năm trôi qua, chàng vẫn chưa dứt bỏ được cái mặc cảm bạc tình
đối với nàng.
Vào
một buổi sáng của tuần lễ thứ hai, kể từ ngày nhận được thư Bích Anh, một người
đàn bà bỗng gọi điện thoại cho Cận. Câu đầu tiên, bà ta hỏi ngay :
“Anh
có nhận ra tiếng em không ?”
Dù
đã mấy chục năm không gặp, Cận vẫn chưa quên giọng nói của người yêu cũ, rụt rè
hỏi lại :
“Thưa...có
phải là....Bích Anh không ?”
Tiếng
cười dòn vang trong điện thoại làm Cận bàng hoàng. Vẫn là tiếng cười trong trẻo
của người nữ cứu thương ngót bốn chục năm về trước.
“Anh
có biết bây giờ em đang ở đâu không ?”
“Ở
trên Connecticut”, chàng đoán.
“Không
đâu ! Em chỉ cách anh có năm phút lái xe thôi.”
Cận
ngạc nhiên :
“Bích
Anh xuống đây hồi nào ?”
Lại
có tiếng cười dòn :
“Hình
như anh không muốn gặp em nên không vui khi biết em đang ở gần anh.”
Cận
ngập ngừng :
“Anh
sẽ biết ý định của em khi mình gặp nhau tối nay.”
Cận
lúng túng :
“Nhưng...Nhưng...”
Bích
Anh ngắt :
“Không
nhưng gì hết. Mình sẽ gặp nhau tối nay. Em sẽ đến thăm anh và các cháu nếu anh
cho em biết địa chỉ nhà anh...Hay anh muốn em đến tòa báo cũng được, em sẽ đến
ngay bây giờ.”
“Vậy...tôi
xin mời Bích Anh đến nhà...”
Rồi
chàng đành cho nàng biết địa chỉ của chàng. Ngừng một chút, chàng tiếp :
“Nhưng...hôm
nay có thể tôi sẽ về hơi trễ...”
Bích
Anh đáp ngay :
“Em
sẽ ngồi nói chuyện với các cháu chờ anh.”
“Chúng
nó còn về trễ hơn tôi.”
Bích
Anh nói dỗi :
“Thì
em cứ đứng ở ngoài cửa.”
Rồi
bỗng nàng đổi giọng, nửa đùa nửa thật :
“Anh
Cận, em báo trước cho anh hay là lần này anh đừng hòng chạy thoát. Đã ngót bốn
chục năm đuổi bắt anh, em không thể để mất anh lần nữa.”
Cận
nghe lòng xao xuyến. Dù sao Bích Anh cũng là người yêu đầu tiên của chàng. Sau
này, chàng yêu Hằng trong tình nghĩa vợ chồng, nhưng bóng hình Bích Anh không
hoàn toàn phai nhòa trong tâm tưởng chàng, thỉnh thoảng vẫn còn phảng phất hiện
ra mờ mờ nhạt nhạt.
Lại
có tiếng Bích Anh :
“Chị
bạn em cho biết từ nhà chị đến nhà anh rất gần, đi bộ chỉ vài phút thôi. Vậy
chiều nay mình gặp nhau nhé...Đừng trốn tránh em lần nữa, tội nghiệp !”
Câu
cuối cùng nàng nói bằng một giọng năn nỉ, ngọt ngào khiến Cận không khỏi cảm
động. Từ phút đó chàng bâng khuâng, suy nghĩ vẩn vơ, trở về với dĩ vãng xa xưa.
Suốt ngày chàng không làm được việc gì nên hồn. Chàng cứ thắc mắc tự hỏi Bích
Anh sang Mỹ làm gì ? Chồng con ra sao ? Cuộc sống hiện tại của nàng
thế nào ? ...Và cả trăm câu hỏi khác nữa mà không sao giải đáp nổi.
Buổi
chiều, Cận về sớm hơn thường lệ nửa giờ.
*
Cận
đứng lặng yên ngắm người đàn bà trước mặt. Đúng là Bích Anh của chàng ngót bốn
chục năm xưa, một Bích Anh già nua tuy vẫn còn những nét quen thuộc cũ. Nếu
tình cờ gặp nàng ở ngoài đường chàng không chắc đã nhận ra. Nàng cũng im lặng
ngắm chàng, rồi lên tiếng trước :
“Trông
anh già hơn tuổi.”
Cận
gật đầu :
“Vâng,
tôi cũng biết như vậy. Khi buồn và vất vả người ta chóng già.”
Bích
Anh bỗng vui vẻ hỏi :
“Nhưng
mà sao anh không cho khách vào nhà ?”
Nói
xong, nàng bước luôn vào, không chờ đợi mời mọc, rồi suýt xoa :
“Đứng
ngoài lâu lạnh quá.”
Cận
ngượng ngùng xin lỗi về sự vô ý của mình.Khi
hai người đã ngồi đối diện trong phòng khách, Bích Anh hỏi :
“Sao
anh không nhuộm tóc đi cho đỡ già ? Để đầu bạc phơ như thế thì có lợi gì
?”
Cận
nhún vai :
“Chẳng
lợi mà cũng chẳng hại. Tôi không cần phải giấu diếm ai hết. Tóc Bích Anh chắc
có nhuộm ?”
“Vâng.
Nhưng tóc em chưa bạc như tóc anh đâu, chỉ mới có ít sợi trắng thôi. Em lại
nghĩ rằng việc gì mình phải khoe cái già của mình cho nó...ảm đạm cuộc đời, có
ảnh hưởng đến tinh thần. Nhuộm tóc đi mình sẽ thấy mình trẻ lại và yêu đời
hơn...”
“Mà
Bích Anh có yêu đời thật không ?”
“Đời
người ta có lúc nổi lúc chìm, nổi thì yêu đời, chìm thì chán đời. Đã có lúc em
chán đời vô cùng, chỉ muốn chết cho xong...Nhưng bây giờ thì em đang yêu đời.”
Cận
giữ im lặng, chỉ nhìn nàng đăm đăm. Nàng bỗng hỏi sang chuyện khác :
“Các
cháu thường về lúc mấy giờ ?”
“Con
Hương, con gái lớn của tôi, bao giờ cũng về khoảng bảy giờ, còn thằng Chương,
em nó, thì không chừng.”Sau
khi hỏi qua loa về những chuyện lặt vặt vẩn vơ, Bích Anh nhìn thẳng mặt chàng
nói :
“Em
biết anh đang có nhiều thắc mắc về em. Nào, bây giờ anh muốn hỏi gì em xin trả
lời.”
Cận
ngập ngừng rồi im lặng. Bích Anh lại nói :
“Nhìn
vẻ rụt rè, e ngại của anh là em biết anh có nhiều thắc mắc lắm. Ngót bốn chục
năm không có tin tức của nhau mà khi gặp lại em, anh cũng không mừng... Dù chỉ
là hai người bạn không thân lắm, xa nhau lâu, tình cờ gặp lại nơi xứ lạ quê
người, cũng mừng mừng tủi tủi, vì ‘tha hương ngộ cố tri’ mà. Trong khi đó, anh
với em chả gì trước kia...trước kia...”
Nàng
bỗng nghẹn ngào không sao nói tiếp. Cận cúi mặt im lặng. Nhưng chỉ vài phút
sau, nàng đã lấy lại bình tĩnh :
“Tính
cho đến ngày hôm nay chúng ta xa nhau...băm nhăm năm, tám tháng và mười bảy
ngày.”
Cận
thốt kêu :
“Khiếp
! Làm gì mà tính kỹ quá vậy ?”
Nàng
đáp :
“Em
đếm từng ngày, từng giờ, anh ạ.””
“Thế
còn chồng con Bích Anh bây giờ ra sao ?”Im
lặng một lát, nàng khẽ thở dài :
“Bây
giờ em xin kể từ đầu...Hơi dài dòng một chút, nhưng có thế anh mới hiểu hết
được.”
Cận
im lặng chờ đợi. Nhưng nàng không kể ngay, lại hỏi :
“Hình
như anh quên không mời khách uống nước thì phải?”
Cận
giật mình, vội tìm cách tự bào chữa :
“Gặp
lại Bích Anh, tôi quên hết ! Nào Bích Anh uống gì ? Nhà có nước ngọt,
nước cam...”
Nàng
gạt đi :
“Xin
anh cho em một cốc nước lạnh, em không quen uống nước ngọt. Thôi, anh cứ ngồi
đi, để em vào tìm nước lấy.”
“Nhưng
Bích Anh có biết ly để đâu mà lấy.”
“Thì
em cứ lục tung lên là phải thấy chứ gì.”
Nàng
vẫn có giọng tinh nghịch hồi trẻ. Chính cái tinh nghịch duyên dáng đó mà Cận mê
nàng. Thoáng trong một giây, chàng cảm thấy vui được gặp lại nàng.Bích
Anh vào bếp không đầy nửa phút đã trở ra với ly nước lạnh. Sau khi đặt ly nước
lên bàn, nàng nhìn chàng,vui vẻ :
“Nào,
bây giờ mình bắt đầu phiêu lưu trở về dĩ vãng.”
Rồi
nàng cười lớn :
“Nói
chuyện với nhà văn, nhà báo thì cũng phải văn chương chữ nghĩa chứ. Đừng cười
em nhé.”
Cận
chỉ im lặng nhìn nàng, nhưng lòng rộn lên một niềm vui khác thường. Nàng hỏi :
“Theo
anh, mình nên bắt đầu từ đâu?”
“Tùy
Bích Anh, vì tôi đâu có biết Bích Anh định nói những gì.”
Nàng
ngập ngừng :
“Hay
là... anh hỏi để em trả lời...như “làm việc” với công an. Có khi như vậy lại
chóng giải đáp được những thắc mắc của anh.”
Cận
phì cười :
“Bích
Anh vẫn lém lỉnh, đùa nghịch như ngày xưa. Tôi không tin là Bích Anh đã ngoài năm chục, có
thể có cháu nội, cháu ngoại rồi.”Bích
Anh công nhận :
“Vâng,
em đã có cả cháu nội lẫn cháu ngoại. Cảm ơn Anh đã...tưởng em còn trẻ.
Thế mới biết nhà văn các anh khéo nói thật. Mà em xin thú thật với anh là em
chỉ mới trẻ lại khi...nắm được áo anh thôi. Lần này thì em nắm thật chắc. Trước
đó, em cũng héo hắt, sầu muộn lắm. Tìm anh còn khó hơn tìm chim đấy. Nửa vòng
trái đất, chứ có gần gì cho cam. Một phần cũng tại anh không lấy lại bút hiệu
cũ ở Việt Nam, phần khác anh lại ít giao du, nên chẳng biết đâu mà hỏi nữa.
Nhưng rồi cũng tìm ra. Hết chạy trốn rồi nhé.”
“Bích
Anh tìm tôi để làm gì ?”
Nàng
ngó chàng đăm đăm, ngạc nhiên :
“Anh
hỏi thật hay đùa thế ? Để làm gì ? Ô hay, em tìm anh suốt cuộc đời em để
làm gì nhỉ ? Anh là nhà văn mà cũng có thể hỏi một câu...ngớ ngẩn như thế sao
? Tuy nhiên, em cũng xin trả lời một cách nghiêm chỉnh rằng em tìm anh
để...đòi nợ !”
Cận có vẻ hơi ngượng, ngồi chết lặng. Bích Anh tiếp :
“Nợ
tình chưa trả mà anh.”
Chợt
nàng trầm hẳn giọng :
“Anh
cũng thừa biết rằng lúc nào em cũng chỉ yêu có anh.”
Cận
ngó đi chỗ khác như muốn trốn tránh một sự thật.
“Vâng,
nàng tiếp, em chỉ yêu có anh trong suốt cuộc đời em...dù em vẫn biết anh không
còn mảy may thương yêu em.”
Cận
lúng túng, ngập ngừng :
“Tôi...tôi
không ngờ...”
“Anh
không ngờ cái gì ? Phải chăng anh không ngờ em vẫn yêu anh, yêu như hồi chúng
mình còn ở trong rừng Lương Sơn tỉnh Hòa Bình ? Hay anh không ngờ em có
thể sang đến tận Mỹ để tìm anh ?”
Cận
lại bị Bích Anh dồn vào cái thế không biết nói năng làm sao. Ngay khi còn ở
Việt Nam, chàng cũng chưa bao giờ nghĩ tới chuyện nàng tìm gặp chàng, huống chi
nay đã ở Mỹ.
Bích
Anh buồn buồn tiếp :
“Nhắc
đến rừng Lương Sơn em lại...lại giận anh. Em không ngờ anh lại chóng quên lời
thề như vậy. Em biết chắc hồi đó anh cũng yêu em...không thua gì em yêu anh...”
Cận thầm công nhận chàng đã yêu Bích Anh tha thiết và đã từng thề thốt với nàng.
“Ngày
đó, anh biết không ? Khi nghe tin anh say mê một cô gái Hà Nội, bỏ cả
hoạt động, cắt đứt liên lạc với tổ chức, em lồng lộn muốn vào thành tìm anh ngay.
Nhưng anh Kim đã tìm cách ngăn cản, cho người canh chừng em từng bước, vì
anh ấy yêu em, biết rằng nếu để em đi, chắc chắn là mất luôn cả em.”
Cận
chỉ ngó Bích Anh và vẫn im lặng. Bích Anh có giọng tha thiết :
“Sau
khi mất liên lạc với anh, em bị bệnh nặng, vừa suy nhược tinh thần vừa sốt rét
ngã nước, tưởng đã chết mất xác ở trong rừng. Nhờ anh Kim hết lòng săn sóc và
lo lắng cho em nên em mới qua khỏi. Khi anh ấy ngỏ lời xin cưới em thì em bằng
lòng ngay. Hồi đó, em nghĩ rằng mất anh rồi thì...lấy ai cũng thế
thôi...Người ta lấy em là lấy một cái xác, còn hồn em lúc nào cũng ở bên anh,
dù bị anh hắt hủi.”
Ngừng
một chút, Bích Anh lại nói :
“Kim
hơn em những mười lăm tuổi, lại là người Tày ở vùng Cao Bằng, làm sao em có thể
yêu được. Nhưng lúc đó, em không còn một chút hy vọng nào được gặp lại anh, nên
cũng liều...”
Mỗi
lời nói của nàng như một nhát dao chém vào tim Cận. Nỗi đau khổ của nàng càng
lớn bao nhiêu thì niềm hối hận của chàng càng ray rứt bấy nhiêu.
“Anh
Kim cũng biết như thế, nhưng anh ấy nghĩ rằng sự chiều chuộng, sự săn sóc tận
tình của anh ấy sẽ có thể làm em quên được anh. Rồi khi nghe tin anh cưới vợ,
bỏ đi Nam, em hoàn toàn tuyệt vọng. Của đáng tội, những năm sống với anh ấy
cũng là những năm sung sướng.”
Cận
nói :
“Thế
cũng là có hạnh phúc rồi.”
Bích
Anh gật đầu :
“Vâng,
nếu chỉ cần chồng yêu, chồng chiều là hạnh phúc thì em có hạnh phúc với anh
Kim.”
Ngừng
một chút, nàng lại nói :
“Em
không phải là gỗ đá, cũng không phải người vô tình. Người ta đối với mình như
bát nước đầy, mình cũng phải đáp lại phần nào. Em đã tròn nghĩa vợ chồng với
anh ấy.”
“Bích
Anh có mấy con ?”
“Ba,
nhưng anh ấy chỉ nhận có hai thôi.”
Cận
trố mắt nhìn nàng :
“Thế
là thế nào, tôi không hiểu.”
“Vì...vì...đứa
thứ ba anh ấy không nhận.”
Cận
lắc đầu :
“Quả
thật tôi vẫn không hiểu. Tại sao lại không nhận ? Hay...”
Bích Anh bỗng phì cười :
“Anh
lại nghi xấu cho em rồi. Em không phải là hạng người như vậy đâu. Với lại,
người có thể đưa em vào con đường...tội lỗi thì đã bỏ em mà đi mất tăm mất tích
lâu rồi.”
Ngừng
một chút, Bích Anh giải thích :
“Sở
dĩ anh Kim không nhận đứa thứ ba là vì anh ấy nghi là con... của anh.”
Cận
dẫy nẩy :
“Con
tôi ? Sao lại kỳ cục như vậy được ?”
“Đứa
thứ ba em đẻ vào năm 1976, sau ngày giải phóng miền Nam. Năm nay cháu mới 7
tuổi và đang ở với em...Ngay giữa tháng 5 năm 75, dựa vào thế lực của chồng, em
xin giấy vào Nam thăm họ hàng. Thật ra, em chẳng có họ hàng, thân thích nào ở
trong Nam. Em chỉ vào để tìm anh thôi. Trước khi đi, em đã hỏi được địa chỉ của
anh. Vào đến nơi em mới biết anh đã kịp chạy thoát ra nước ngoài và chị cũng
mới qua đời...Tình cờ em gặp một người bạn học cũ từ thời thơ ấu, trước ở cùng
phố với em, nên lắng đắng trong Saigon hơn một tháng mới về Bắc. Thấy em ở
trong Nam lâu, anh Kim nghi em đã gặp anh..”
“Sao
Bích Anh không nói cho anh ấy biết là tôi đã chạy ra nước ngoài ?”
“Sao
lại không ! Nhưng anh ấy không tin. Rồi khi em sinh con bé Nam Ngọc, anh ấy
không nhận nó là con. Có điều rất lạ là...cháu có nét giống...anh. Chính em
cũng không hiểu tại sao.”
Cận
lắc đầu :
“Tôi
không tin là Kim nghi Bích Anh có con với tôi. Việc kiểm chứng có khó khăn gì
đâu mà phải nghi bậy nghi bạ như vậy. Có thể còn có chuyện gì bí ẩn bên trong.”
Bích
Anh công nhận :
“Vâng,
bí ẩn đó là chính anh ấy ngoại tình. Từ lâu anh ấy lén lút đi lại với một cô
cán bộ trẻ dưới quyền. Bây giờ kiếm cớ muốn bỏ em để chính thức lấy cô ta. Mới
đầu em còn muốn gỡ lại danh dự bằng cách không chịu ly dị. Sau em nghĩ rằng
danh dự cũng chả làm cái quái gì, tốt nhất là làm sao tìm được anh. Em hỏi dò
biết anh đang ở Mỹ, em tính chuyện vượt biên. Thế là em bán đồ bán đạc, vay cào
vay cấu được ít tiền, em ôm con vào Nam...Rồi bây giờ em đã mãn nguyện vì được
gặp lại anh sau mấy chục năm trời xa cách. Và còn điều này đáng mừng nữa...Cả
anh lẫn em đều tự do...Em muốn cho anh biết một chuyện, nhưng anh không được
giận em, em mới dám nói.”
Cận
dè dặt :
“Điều
đó có hại gì cho tôi không ?”
“Không,
chắc chắn là không hại gì đến ai, kể cả anh.”
“Vậy
thì Bích Anh cứ nói.”
“Chính...chính
cái tin chị đã qua đời thúc đẩy em tìm lại anh. Nếu chị còn sống, em cũng chả
dại gì mà ôm con nhỏ lao đầu ra bể đâu. Anh không vượt biên nên anh không biết
cái nguy hiểm của bể cả, mười phần thì chắc chết đến chín.”
Cận
chợt khẽ thở dài. Chàng không ngờ Bích Anh lại liều lĩnh như vậy.
“Nhưng
anh biết không ? Lúc đó, nếu hai mẹ con em có phải làm mồi cho cá, em
cũng bằng lòng vì em đã chết cho tình yêu...May là em đã tới bờ được bình an.
Bây giờ nghĩ lại, em vẫn thấy sợ.”
Nói
xong, nàng khẽ rùng mình. Cận gật đầu :
“Kể
Bích Anh cũng liều thật. Bích Anh chết cho tình yêu đã đành, còn cháu bé chết
vì sự liều lĩnh của mẹ. Bích Anh có nghĩ tới điều đó không ?”
“Em
cũng có nghĩ, cháu còn nhỏ, bắt buộc em phải mang cháu theo. Nhưng Trời Phật đã
thương em, không những hai mẹ con sống sót mà em còn tìm ra anh. Thế là em mãn
nguyện rồi. Đó không phải là lý do em trẻ lại và yêu đời sao ?”
Câu
chuyện liều lĩnh của nàng đã khiến Cận rất cảm động. Để che giấu sự cảm động
đó, chàng hỏi lảng :
“Còn
hai cháu lớn thì sao ?”
“Chúng
nó có vợ, có chồng và con cái cả rồi.”
“Thế
là Bích Anh đã lên chức bà nội, bà ngoại.”
Nàng
cười :
“Thì
cũng phải thôi. Tuổi anh và tuổi em nếu có cháu cũng chả sớm sủa gì.”
Cận
cố lấy giọng vui đùa :
“Thì
ra mình già cả rồi...Thế mà mình vẫn còn lãng mạn quá. Nghe chuyện Bích Anh,
tôi cứ ngỡ tôi đang đọc một truyện tình rất lâm ly.”
Bích
Anh cười :
“Truyện
giữa anh và em còn lãng mạn và hấp dẫn hơn bất cứ một tiểu thuyết tình
nào khác.”
Cận
nói tiếp :
“Và
đang đi đến hồi kết cục.”
“Chắc
là vui lắm nhỉ. Có phải người Mỹ gọi thế là ‘happy ending’ không, anh ?”
Cận
gật đầu, cười :
“Chúng
ta thì gọi là chuyện có...hậu.”
Bích
Anh vui vẻ nói ngay :
“Thế
là anh hứa rồi nhé. Dù đã trễ, quá trễ, mà vẫn có hậu thì cũng là chuyện hay,
anh nhỉ.”
Cận
biết Bích Anh khéo léo buộc chàng vào, nhưng cũng không biết nên nói gì. Thật
ra, trong thâm tâm, chàng cũng không khỏi cảm động trước mối chân tình của
nàng. Chàng nhớ lại ngày hai người mới gặp nhau.
Hồi
đó, vào đầu năm 1947, Pháp đã mở rộng vùng tạm chiếm và bộ tham mưu liên khu 3
phải rút vào một khu rừng già thuộc châu Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Chàng yêu
Bích Anh ngay khi mới gặp. Nàng có vẻ đẹp Tây phương. Đôi mắt to và nâu, lông
mi dài và cong. Mũi cao dọc dừa. Miệng cười duyên dáng, quyến rũ vì một chiếc
răng khểnh. Vào những buổi chiều tà, hai người thường sánh vai đi dạo trên con
đường mòn ven suối. Có đêm trời sáng trăng vằng vặc họ ngồi bên nhau trên một
khối thạch bàn bên bờ suối. Chàng đàn, nàng hát nho nhỏ bài “Suối mơ” của Văn
Cao, chỉ đủ để hai người nghe. Mối tình của họ càng ngày càng thắm thiết và ai
cũng tin rằng thế nào họ cũng sẽ tiến tới hôn nhân. Cả Cận lẫn Bích Anh cũng
tin như vậy. Rồi Cận được lệnh tham dự một khóa đặc biệt về tình báo ở một bản
cách xa cơ quan chính khoảng bốn chục cây số đường rừng. Khóa học kéo dài ba
tháng, nhưng đến giữa tháng thứ hai chàng bị bệnh. Cơn sốt làm chàng mê man,
không ăn không uống gì được. Thuốc men thiếu thốn, bác sĩ không có, các cô nữ
cứu thương của bệnh xá đều bó tay. Ai cũng nghĩ rằng chàng không thể qua khỏi,
thậm chí người ta đã tìm cây nhờ người Mường khoét thành một cái áo quan dành
cho chàng.
Bỗng, vào một đêm đã khuya, Bích Anh cưỡi ngựa băng rừng đến thăm chàng. Thấy nàng xuất hiện bất ngờ, mọi người đều ngạc nhiên. Khu rừng chung quanh lớp huấn luyện, về đêm, vẫn nổi tiếng có nhiều hổ. Thế mà Bích-Anh dám một mình một ngựa, tay không, đi trong đêm tối. Vừa thấy chàng trên giường bệnh, nàng bật khóc. Nàng không ngờ hai người mới chỉ xa nhau có ít ngày mà chàng trông đã thảm thương, tiều tụy đến như thế.. Nàng lấy trong túi dết ra một gói nhỏ, trao cho cô nữ cứu thương trực, dặn dò :
“Đây
là thuốc sốt rét loại tốt nhất bây giờ. Gia đình tôi vừa từ Hà Nội gửi ra cho
tôi. Xin cho anh ấy uống ngay, mỗi ngày ba viên.”
Rồi
nàng tự tay cho Cận uống viên thuốc đầu tiên. Đến sáng, chàng đã hơi tỉnh,
nhưng đôi mắt còn lờ đờ mất thần nên không nhận ra nàng. Không thể ở lại săn
sóc người yêu, nàng phải trở về cơ quan lúc gần trưa. Nhờ thuốc của Bích Anh,
bệnh Cận thuyên giảm nhanh chóng, dần dần chỉ còn là những cơn sốt cách nhật và
ngắn.
Khi khóa huấn luyện chấm dứt, chàng trở về cơ quan và nghỉ ngơi được một tuần. Trong thời gian nghỉ ngơi này, Cận và Bích Anh càng hiểu nhau càng yêu nhau hơn. Rồi ngày lên đường nhận công tác cũng tới. Trong giây phút chia tay, họ không ngờ mãi ngót bốn chục năm sau mới lại gặp nhau.
Cận
khẽ thở dài, nói :
“Tôi
vẫn đinh ninh chả bao giờ mình còn được gặp nhau nữa...Ai ngờ...”
“Em
cũng nghĩ như anh...Hiệp định đình chiến mới ký kết, em đã hấp tấp vào ngay Hà
Nội với hy vọng được gặp anh. Nhưng nghe tin anh chị đã bỏ đi Nam.”
Cận
hỏi đùa :
“Lúc
đó, Bích Anh còn giận tôi không ?”
Bích
Anh thành thật đáp :
“Giận
anh thì lúc nào cũng giận...cho mãi đến lúc này...Mà yêu thì không bao giờ hết
yêu...Vì thế, hồi đó, nếu có được gặp anh, em sẽ khuyên anh nên đi Nam. Anh mà
ở lại thì rất nguy hiểm. Không chừng em cũng theo anh chị vào Nam luôn.”
“Lúc
đó, Bích Anh đã có con chưa ?”
“Chưa.
Ở ngoài hậu phương khổ lắm, không dám có con. Mãi năm 56, em mới có con đầu
lòng, lúc đó em đã là giáo viên cấp 2.”
“Thì
ra Bích Anh là cô giáo.”
“Mỗi
lần dạy học trò tới đoạn Kiều “Tái sinh chưa dứt
hương thề, Làm thân trâu,
ngựa đền nghì trúc mai ” là em nhớ tới anh...Nhưng anh ơi, em chả có lỗi gì
để phải làm thân trâu, ngựa...”
Cận
phì cười, nói ngay :
“Kiếp
sau mới phải làm trâu, ngựa, vậy kiếp này tôi làm gì ?”
Bích
Anh nhìn chàng bằng đôi mắt trìu mến :
“Làm
gì thì anh tự biết lấy. Nhưng em cũng xin cảnh cáo là lần này em không để
anh...chạy thoát đâu. Hết đường trốn rồi, anh ạ.”
Trầm
ngâm một lát, Cận nói :
“Hoàn
cảnh bây giờ đã đổi khác. Chúng ta đều có con lớn...”
Bích
Anh gạt đi ngay :
“Con
cái không phải là trở ngại. Các cháu ở Mỹ lâu rồi, tinh thần cởi mở phóng
khoáng chứ không hẹp hòi như còn ở Việt Nam.”
“Thế
còn con của Bích Anh thì sao ?”
“Hai
đứa nhớn ở Việt Nam không kể làm gì., con nhỏ đang ở với em, mới bảy tuổi. Cháu
tên là Nam Ngọc.”
“Nam
Ngọc ! Không phải tên con trai cũng không ra tên con gái.”
“Hồi
cuối bảy nhăm, em đi Nam về thì có thai cháu. Em coi cháu như viên ngọc của
miền Nam nên mới đặt cháu là Nam Ngọc.”
Cận
cười :
“Mấy
thầy cô giáo hay bày vẽ thật. Con gái tôi là Hương vì mẹ nó là Hằng, con
trai là Chương vì tôi là Cận. Chẳng cầu kỳ gì hết.”
“Ấy
vì cái tên Nam Ngọc và vì cháu hao hao giống anh...”
Cận
cắt ngang :
“Giống
tôi ? Bích Anh nói gì mà lạ vậy ? Làm sao mà giống tôi được !”
“Em
cũng chả biết giải thích làm sao...Có lẽ hồi có thai cháu, em nghĩ nhiều đến
anh. Bố cháu ghen ầm ĩ và không nhận cháu...”
“Càng
vô lý nữa ! Bây giờ cháu ở đâu ? Cháu có theo Bích Anh xuống đây không ?”
“Có
ạ. Chỉ có hai mẹ con, đi đâu em cũng tha cháu theo.”
“Bắt
cháu phải nghỉ học ?”
“Không,
cháu đang nghỉ mùa đông.”
Bỗng
Bích Anh nhìn đồng hồ, rồi nói :
“Gần
bảy giờ rồi, em phải về để đưa cháu đi ăn.”
Cận
nhìn nàng đăm đăm, dịu dàng :
“Bích
Anh vẫn như ngày xưa.”
“Sao
lại vẫn như ngày xưa được. Em thay đổi nhiều lắm. Hồi đó, khi gặp anh, em là
một cô gái mới lớn. Bây giờ em là một bà già, có cháu nội, cháu ngoại rồi.”
“Nhưng
dáng dấp, cách ăn nói của Bích Anh vẫn như ngày xưa...Vẫn duyên dáng, quyến
rũ...”
Bích
Anh tủm tỉm cười, nhìn người yêu bằng đôi mắt tinh nghịch hỏi :
“Anh
học thói... nịnh đầm từ bao giờ thế ?”
Cận
đáp một cách thản nhiên :
“Từ
lúc gặp lại... em.”
Tiếng
“em” chàng buông nhẹ và rất trìu mến khiến Bích Anh đỏ ửng mặt vì sung sướng,
không thốt nên lời.
Hai
người im lặng nhìn nhau một lúc khá lâu, rồi Bích Anh lên tiếng trước :
“Thôi,
em phải về kẻo cháu mong....”
Cận
ngập ngừng :
“Em
đợi anh viết cho các cháu mấy chữ, rồi anh đi với em...Anh muốn dành cả buổi
tối nay cho em và cháu...”
Bích
Anh hỏi lại ngay :
“Chỉ
buổi tối nay thôi sao ?”
Cận
nắm chặt tay nàng, tha thiết :
“Tất
cả quãng đời còn lại của anh sẽ dành hết cho em...”
Bích
Anh nghẹn ngào không nói nên lời, đôi mắt rưng rưng...
TẠ
Quang Khôi
Đăng nhận xét