Hồi Ký Của Một Bác Sĩ
( ảnh minh họa)
Một bác-sĩ “cách-mạng” từ Bắc vào, hăm-hở đến tiếp-thu bệnh-viện
Vĩnh-long sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã thốt ra câu nói đầu tiên với chúng
tôi :
"Các anh là kẽ thù của nhân-dân, đáng tội chết..."
Tuy mới mấy ngày sau khi "giải-phóng" nhưng tai
chúng tôi cũng đã quen với câu nói đó, chỉ có khác là lần này được phát ra từ
miệng một bác-sĩ mà chúng tôi chờ đợi để hy-vọng thấy được một nụ cười hay một
chút thông-cảm trong tình đồng-nghiệp. Chẳng khác gì những cán-bộ khác, bác-sĩ
cũng tuông ra câu học thuộc lòng:
"Nhưng Đảng và Nhà-nước khoan-hồng tha tội chết cho các
anh..."
May thay, chúng tôi được tha tội chết, nhưng thay vào đó, phải
lảnh cái án "dở sống dở chết " kéo dài năm này qua năm nọ trong các
nhà tù, nhường sự-nghiệp lại cho các đồng-nghiệp mới, huênh-hoang trong cái độc-quyền
nhân-đạo với các bảng hiệu « Lương Y như Từ-mẫu » treo nhan nhản khắp xó xỉnh
trong bệnh-viện.
Có lẽ Cụ Hippocrate ở dưới suối vàng cũng không khỏi phẫn-nộ
khi các môn-đệ ở Miền Bắc không chịu học lời thề Cụ dạy trước khi ra trường:
"Tôi thề sẽ giúp đở các đồng- nghiệp và gia-đình họ
trong cơn ngặt nghèo, tôi sẽ mất hết danh-dự và bị khinh-bỉ nếu tôi không giữ lời
thề đó".
Trước mặt thì đồng-nghiệp gọi chúng tôi bằng
"anh", nhưng quay lưng lại là "thằng", là "chúng
nó" ngay, không hiểu là vì thói quen, vì văn-hóa, vì mặc-cảm hay vì
chính-sách.
Ngày đầu tiên mới đặt chân lên đất Bắc trên con đường lưu
đày, khi mà tầm mắt đang còn ngỡ-ngàng với rừng sâu núi thẳm, khi mà thể xác và
tinh-thần chưa lai tỉnh qua cuộc hành trình định-mệnh kinh-hoàng, thì chúng tôi
được đón tiếp vồn-vã bởi một đồng-nghiệp. Vồn-vã không phải để thăm hỏi sức khỏe
hoặc để an-ủi một lời nào, mà để tịch-thu thuốc men và dung cụ y-khoa mà
chúng tôi mang theo, nhất là để tò mò tìm hiểu những điều mới lạ trong cuộc sống
"phồn-vinh giã-tạo" ở trong Nam.
Câu nói đầu tiên và gần như là câu chào hỏi ở cửa miệng mỗi
khi gặp nhau: "Anh ăn mấy lạng ?" (gạo mỗi ngày), làm chúng tôi bở ngở
không biết đâu mà trả lời. Thì ra cái quan-tâm hàng đầu của nền y-khoa miền
Bắc là cái bao-tử, và xã-hội được chia ra làm nhiều loại bao-tử khác nhau tùy
theo đẳng-cấp và sự trung-thành với Đảng: 120 lạng ,150 lạng, 170 lạng....
cái hàn-thử-biểu để đo vị-trí mình trong xã-hội. Kế đó là thắc mắc về những phần
thịt đươc bồi-dưỡng trong những ngày lể, ngày Tết…
Thấy chúng tôi không ở cùng một tần-số trong cái hội-chứng
đường ruột đó, bác-sĩ bèn lên mặt chỉ-đạo: "Chớ có trốn trại nghe, không
thoát đâu ". Quả-nhiên lời khuyên có chấp-chứa ít nhiều tình thật đó lại
là không sai. Chỉ có vài ngày sau khi đặt chân đến cái nơi núi rừng chằng chịt
mang tên Sơn La đó, khi chưa xác định được vị-trí trong cái bản-đồ mênh-mông của
miền Thượng-du Bắc Việt, thì một số anh em đã lần lượt trốn trại rồi lần lượt bị
bắt lại để gánh chịu những hình phạt ghê gớm đang chờ sẵn. Trong số đó phải kể
đến hai đồng-nghiệp, một Thiếu-tá Y-sĩ- trưởng Trung-tâm Hồi-lực ở Sài-gòn và một
Y-sĩ Đại-úy Thủy-quân Lục-chiến, đã thoát khỏi lao tù vì đã trốn qua "bên
kia thế -giới" sau khi không thành-công trong cuộc tổ-chức trốn qua
"bên kia biên-giới".
Sau một thời gian xáo trộn, chúng tôi gồm có 8 bác-sĩ, 1
nha-sĩ, 2 dược-sĩ được tập-trung lại để thành-lập một "trạm-xá " có
nhiệm-vu săn sóc sức khỏe cho anh em tù trong vùng. Bằng những phương-tiện của
thời-đại đồ...tre, với kỹ thuật từ thời Hoa-đà, chúng tôi cũng được an-ủi bằng
một số thành-công trong nhiệm-vụ chửa trị, và đã lưu lại cho chúng tôi nhiều kỹ
niệm khó quên. Anh T. bị bệnh phung cùi, bọn cai tù ghê sợ, biệt giam trong một
cái chòi giữa rừng, thường ngày chúng tôi đến thăm viếng, theo dỏi bệnh tình,
chia nhau từng củ sắn củ khoai, khích lệ cho nhau cho đến ngày về. Anh H. bị mất
trí vì trúng độc khi ăn phải trái cây rừng, suốt ngày la hét, phải cách ly
trong một túp lều ở giữa rừng, chúng tôi chia phiên nhau túc trực ngày đêm bên
cạnh để canh chừng, nhưng cuối cùng anh cũng qua đời.
Phải kể đến những trường hợp giải-phẩu theo kiểu...rừng, với
tất cả liều lỉnh rủi may. Trang-bị bằng một bộ trung-phẩu dã-chiến của Trung quốc
và một lò hấp ướt (autoclave), với mấy bình ê-te (ether) và cái masque
Ombredane là dụng cụ đánh thuốc mê hở (circuit ouvert) cổ lổ sĩ dùng trước thế
chiến 1914-1918. Trong những "bloc" được ngăn cách bởi những tấm phên
tre và tấm vải mùng, muổi mòng tha hồ bay lượn, dưới ngọn đèn dầu và đèn pin,
mà nhờ trời chúng tôi cũng thành-công được trong nhiều trường hợp, những chấn-thương
vì tai-nạn lao-động, hay trường hợp anh N. bị tắc nghẻn ruột, phải giải-phẩu để
tái tạo một hậu-môn tạm thời, phải theo dỏi và săn sóc từ A đến Z trong nhiều
tháng với sự tận-tình của mọi người nên kết quả rất khả-quan, vân vân và vân
vân.
Chúng tôi đã đóng tất cả các vai trò trong việc điều trị, từ
lao-công, y-tá, phụ mổ, gây mê, cầm dao, rồi hậu-phẩu, vệ-sinh, giặt giủ v...v...bù
lại khỏi phải đi lao-động đốn vầu, đốn nứa, đẩy xe trong những lúc đó.
Một sự tình cờ khiến chúng tôi phải giải-phẩu cấp cứu
thành-công cho một tên cán bộ bị viêm ruột thừa cấp-tính mà không biết chở đi
đâu. Mấy tháng sau, nhân dịp Tết Nguyên-đán 1978, có mấy cán-bộ trong ban chỉ-huy
trại đến cám ơn chúng tôi, và tưởng-thưởng bằng một tấm hình chụp chung mấy anh
em chuyên-môn trong bệnh-xá, một kỹ-niệm độc nhất vô nhị của những ngày tù ở
Sơn La. Tiếng đồn lên tới Bộ chỉ huy Đoàn. Một số cán-bộ có thiện tâm muốn mở tầm
hoạt động của chúng tôi cho dân chúng trong vùng Mường Thải, huyện Phù-yên, nơi
mà xưa nay dân chúng chưa hề thấy đươc cục xà bông chớ đùng nói chi đến viên
thuốc tây. Thế rồi dân chúng đến xin chửa trị mỗi ngày một đông, tuy thuốc men
chẳng có gì nhiều nhưng cũng giúp ích được một số lớn trường hợp và ít ra cũng
giúp họ làm quen với y-khoa ngày nay thay vì phải uống lá rừng suốt đời. Khi đặt
ống nghe vào ngực, có người đã huênh-hoang khoe rằng là được... rọi điện.
Đông nhất là phần chửa răng. Ngậm một cái răng sâu năm này
qua tháng nọ như một cái đinh đóng vào óc, nay được nha-sĩ nhẹ nhàng xoi xỉa với
một cái máy quay đạp bằng chân, hoặc nhổ đi mà không đau đớn gì, thật là một điều
mà dân Mường ở đó không bao giờ mơ tới.
Một đêm nọ, đang lúc giữa khuya, một cán bộ VC cầm cây đèn bảo
xăm xăm bước vào phòng giam chúng tôi, bảo rằng một người đàn bà trong bảng Mường
đang nguy kịch vì đẻ không ra đã hai ngày nay. Anh Thức, chuyên môn về phụ-khoa
được cử đi cấp-cứu. Trong môt gian nhà sàn rộng rải không có vách ngăn, ở giữa
là cái bếp lửa cháy suốt ngày đêm, dăm ba người đàn ông ngồi quanh nói chuyện ồn
ào tỏ vẻ lo lắng, ở trong góc một người đàn bà đang quằn quại rên la một cách
tuyệt-vọng. Trong khi mọi người bu quanh chăm chú và nghiêm-nghị nhìn anh Thức
khám bệnh như nhìn một phù thủy đang làm phép, anh Thức bình tỉnh khám thấy rằng
đó là một trường hợp song thai, hai đứa bé ôm quàng lấy nhau mà lại nằm ngang,
không đẻ ra bằng đường tự-nhiên được. Phải chở đi bệnh-viện để mổ lấy con ra,
nhưng anh Thức quên rằng chuyện đó không thể có được ở đây. Không làm gì hơn được,
anh bèn tạm thời dẹp sách vở qua một bên mà cố gắng xoay một đứa cho cái đầu ở
vị trí thuận-lợi để ra trước, rồi đến đứa kia, cuối cùng được mẹ tròn con
vuông, trong sự rối rít cám ơn của mọi người mà trước đó đã được học tập để coi
chúng tôi như những kẽ ác ôn, lúc nào cũng sẳn sàng "cho một mũi tên độc".
Từ đó các cô gái Mường trong bản cũng tự -nhiên hơn, cưới
đùa mỗi khi tắm suối mà có chúng tôi đi lao động ngang qua, có khi còn chọc ghẹo
nửa. Có anh trong phút chốc bốc đồng đã quên mình là tù đang đói rách, cũng gồng
mình nhảy xuống tắm theo, chỉ tiếc là không có sẵn cục xà bông để tặng mấy cô
Mường, lúc đó hẳn là muôn phần quý giá hơn cả viên kim cương đem tặng đào ở
Sài–gòn nửa. Về sau mỗi cô gái Mường lại đươc đặt cho cái tên của một ca sĩ nổi
tiếng, nào là Mai-Lệ-Huyền, Phương-Dung, Giao-linh, Phương-Hồng-Quế v…v…, để rồi
lúc chiều về, trong khi ngậm-ngùi nhai từng hột bo bo, thường kể cho nhau nghe
rằng hôm nay đi rừng gặp được ca-sĩ nào, ai nghe tưởng như mới đi phòng trà về
mà tạm quên trong giây lát cái cảnh nước sông công tù mình đang sống.
Một hôm, một cô giáo hớt ha hớt hãi tìm tới chúng tôi, vì chồng
cô, một bộ đội công-tác ở trong Nam được về nghỉ phép, bổng nhiên thấy mình mẩy
nổi mề-đay lên đỏ rần, ngứa khắp cả người. Chúng tôi đoán là bị dị-ứng với trứng
gà, vì thường ngày đi lao-động ngang qua trường học, thấy cô giáo cứ o bế mấy
con gà để chờ ngày chàng về mà bồi-dưởng. Chúng tôi bèn lục lạo đươc mấy viên
thuốc Phénergan đưa hết cho cô.
Mấy hôm sau đi lao-động gặp lại, chúng tôi hỏi : "Sao
? Anh nhà đã đở chưa ?" Cô vui vẻ trả lời : "Thuốc các anh cho
hay quá, khỏi ngay". Chưa kịp hỏi thêm thì bổng thấy cô cúi mặt e thẹn, ấp
úng nói thêm như không muốn cho chúng tôi nghe: " Nhưng ngủ li bì, về phép
có năm ngày mà ngủ như chết suốt cả năm ngày" .Chúng tôi hối hận vì đã cho
thuốc ngủ mà không dặn trước, làm cho cô phải bỏ lở một cơ-hội bằng vàng !
Thế rồi trạm-xá càng ngày càng đông khách, dân chúng từ xa
cũng nghe đồn kéo lại để cho trạm-xá được hoạt-động đúng với danh-nghĩa y tế của
nó. Thiện-cảm và uy -tín càng tăng thì, ngược đời thay, cấp chỉ-huy Trại càng
lo lắng. Cuối cùng, Uỷ-viên Chính-trị trên Đoàn lập tức ra lệnh không được khám
bệnh cho dân nửa, vì trái với chính-sách, và ný-nuận rằng từ mấy ngàn năm nay họ
đã chửa trị bằng lá rừng thì đã sao đâu !
Chúng tôi trở lại lao-động, cũng đốn vầu đốn nứa như những
anh khác.
Phải cái tội cao giò, tôi thường được chọn đi công tác gánh
hàng ở xa, để gánh luôn tất cả tủi nhục của kiếp làm… tôi mọi. Buổi sáng ra đi
thì còn dể chịu, trời mát, gánh nhẹ. Nhưng buổi trưa lúc trở về, trời nắng gắt
miền núi như đốt cháy da, lại phải leo đèo, mồ hôi chảy giọt, bụng đói cồn cào,
cái đầu nặng trỉu, chiếc đòn gánh đè nặng trên vai đang nghiền nát da thịt như
những con dao. Người cán-bộ đi theo cũng không quên máng thêm vào chiếc nón cối,
cái áo trấn-thủ mà hồi sáng mang trong người vì trời lạnh, nay không cần nửa
thì tội gì mà không để cho rảnh tay, vì tay đang bận cầm cây roi, một thứ thời
trang của cán-bộ quản-giáo khi đi bên cạnh tù. Đã thế mà khi gặp một bạn đồng-hành,
cán-bộ cũng không quên niềm-nỡ mời :"Đồng-chí có mang gì không, đưa cho nó
gánh luôn". Tôi nghe mà rụng-rời, mắt hoa lên mà không dám nhắm lại vì sợ
ngả sẽ không bao giờ dậy lại được, cũng không dám nhìn xa hơn mấy đầu ngón chân
vì sợ không đủ can-đảm để bước thêm...
Một hôm vì nhu-cầu cấp-cứu một bệnh-nhân tù đang nguy kịch,
tôi được cử theo một cán-bộ đến bệnh-viện Phù-yên để xin mấy chai nước biển. Đã
lâu bị giam hãm giữa bốn bức tường núi, nay được dịp thấy lại làng mạc với cảnh
sinh-hoạt của nhân-dân, lòng cũng không khỏi thích-thú vì tầm mắt đươc hé rộng
ra một chút và thỏa -mãn thêm tánh tò mò nghề-nghiệp muốn biết tổ-chức y-tế miền
Bắc ra sao mà các "đồng-nghiệp " đề cao như là đúng hàng đầu trên thế-giới.
Huyện Phù-yên thuộc tỉnh Sơn La, nằm giữa một thung-lũng nhỏ,
bốn bề là núi nhưng rất nên thơ. Từ trại tới huyện phải đi qua ngọn đèo Bang
xinh xinh, có con đường mòn uốn quanh, có hoa rừng thơm ngát. Từ trên nhìn xuống
gần giống như một bức tranh Tàu, mờ mờ ảo ảo., rải rát nơi nơi là nhũng túp lều
lụp xụp bám theo sườn núi.. Bước vào huyện phải qua một con suối lớn, mùa khô
thì chỉ là một suối đá hiền-hòa thơ-mộng, nhưng khi mưa xuống thì trở nên một
thác lũ kinh-hoàng. Bắt ngang qua suối là một cây cầu treo, gió thổỉ đu đưa, mà
lại được anh em tù gán cho cái tên rất hấp-dẩn để cho trí tưởng-tượng được nâng
cao là cầu Golden Gate. Mỗi khi gánh hàng qua Golden Gate, tôi có cảm-tưởng như
mình đang là một nghệ-sĩ đu giây trong một đoàn xiệc mà có thể hụt tay bất cứ
lúc nào..
Bên kia cầu là một túp lều không vách, gió lộng bốn phía, đó
là trường học với dăm bảy em bé ốm tong teo, bụng ỏng thề lề, mỗi đứa cầm một
que củi đang cháy quơ qua quơ lại trước người cho đở lạnh trong những bộ áo Mường
mỏng manh. Trong khi các em nghêu ngao hát bài "Hôm qua em mơ thấy Bác Hồ...."
thì cô giáo đang chăm chú ngồi vá áo, mắt đăm chiêu, hình như cũng đang mơ thấy
những chuyện mà dĩ-nhiên khác hơn là thấy Bác Hồ. Hình ảnh đó làm cho tôi có cảm
tưởng rằng Cụ Cao-Bá-Quát đã đi ngang qua đây để cảm-hứng mấy câu thơ:
"Một thầy một cô một chó cái,
Nửa người nửa ngợm nửa đười ươi."
Bên cạnh trường là một cái "cối giả gạo" có lẽ đã
được sáng chế từ đời vua Thần Nông. Nước từ con suối nhỏ đươc dẩn qua một máng
xối đục từ một thân cây, chảy xuống một thân cây dài khác, một đầu là cái chày,
đầu kia đục thành một máng chứa nước. Hể máng đầy nước thì cái chày tự -động
ngóc lên, rồi nước bị đổ ra ngoài để cho chày giả xuống cái cối ở đằng trước. Cứ
thế mà tiếp-tục, cối cứ giả ngày giả đêm, tạo nên một tiếng đập nhịp nhàng khô
khan để đánh thức cô giáo và lủ học trò khỏi ngủ gật.. Năm thì mười họa, một
năm vài lần cối mới có gạo để giả, vì dân phải đóng cho nhà nước hết ba phần tư
số thu hoạch, vốn đã nghèo nàn trên những mãnh ruộng bằng bàn tay xếp thành từng
tầng trên sườn núi.
Khi đến cổng bệnh-viện, tôi được chứng-kiến một cảnh tấp-nập
khác thường, nghỉ bụng rằng chương-trình y-tế ở đây đã thành-công vì được
dân-chúng hưởng-ứng đông đảo. Mọi người bu quanh một tấm bảng, hình như để theo
dỏi một thông-báo gì quan-trọng của bệnh-viện về một biện-pháp y-tế nào đó
chăng. Lại gần, tôi thấy rõ thông-báo như sau "Hôm nay bệnh-viện có mổ lợn,
bán theo giá chính-thức. Đồng-bào nào muốn mua xin ghi tên ở phòng ngoại-chẩn".
Tôi suýt té ngửa vì sau bao nhiêu năm hoạt động trong ngành y- tế tôi vẫn chưa
biết được rằng cung-cấp thực-phẩm cho dân chúng cũng là một khía cạnh trong
chương-trình y-tế.
Trái với cảnh xôn-xao ngoài cổng, trong bệnh viện lại vắng
tanh. Tìm cho ra người thủ-kho để xin thuốc thì được biết cô gái Mường này bận
đi hái bông lau về làm nệm để tặng một cô bạn gái sắp về nhà chồng, một tục-lệ
không thể bỏ được của người Mường. Lân la mãi mới gặp được bác-sĩ trực, vị này
không mấy niềm-nỡ vì đang bận cải-hoạt (có nghĩa là cải-tiến sinh-hoạt để cho đời
sống vui tươi hơn) bằng cách ngốn nghiến mấy củ khoai. Bác-sĩ trực cho biết
"Chỉ có bác-sĩ thủ-trưởng mới có quyền quyết-định, nhưng bác-sĩ đang bận mổ."
Tôi thất-vọng chán chường, nghỉ đến bệnh-nhân ở trại đang hấp-hối
mong chờ mấy giọt nước hồi-sinh, nghỉ đến con đường về vừa nắng gắt vừa phải
leo giốc, nghỉ đến cái dạ-dày đang cồn-cào vì sáng nay không may đọc được mấy
chữ "thịt lợn" trên bảng thông-cáo mà nước bọt cứ chảy dài (chẳng lẽ
tôi lại biến thành con chó của Pavlov, hể nghe tiếng chuông là dịch tiêu -hóa cứ
tuôn chảy, rồi hay sao?) Tôi buồn rầu thất vọng, không biết bao giờ bác-sĩ trưởng
mới mổ xong, vã lại áo quần lem-luốc thế này làm sao gặp được bác-sĩ ở khu giải
-phẩu. Tôi đánh bạo tìm đến bác-sĩ trực hỏi : "Thế tôi có thể gặp bác-sĩ
thủ -trưởng được không ?"
Lần này vị y-sĩ trực vui vẻ trả lời (vì đã ngốn xong mấy củ
khoai): " Được chứ, có gì đâu, anh ấy đang bận mổ lợn dưới ao đấy
mà". Tôi như từ cung trăng rơi xuống !
Quả nhiên, cách đó không xa, cạnh bờ ao, năm ba người đang
bao quanh một con lợn đã cạo lông trắng nõn nằm trên một tấm thớt lớn. Trong
khi đó, bác-sĩ thủ-trưởng bệnh-viện, mình trần, quần xắn tới bẹn, áo bờ-lu vắt ở
hàng rào, đang nhanh nhẹn ra tay mổ bộ đồ lòng với tất cả sự nhanh nhẹn và khéo
léo của một...đại giải -phẩu gia.
Lẽ tất nhiên tôi phải chờ cho ông bạn đồng-nghiệp thanh toán
xong con lợn để giải -quyết cho mấy chai nước biển rồi mới hân-hoan ra về. Ra tới
cổng, tôi gặp lại đám dân-chúng cũng đang hân hoan thở phào nhẹ nhõm như tôi
khi được tin bác-sĩ đã mổ xong.... lợn.
Trên đường về, lần này chiếc đòn gánh đè nặng lên vai không
còn cho tôi cảm-giác đau đớn như trước nửa, vì đầu óc tôi đang bị ám-ảnh bởi một
ý-tưởng muôn phần nặng-nề hơn, vì tôi đã nhìn thấy được sự thật, đã chứng-kiến
tận mắt một hiện-tượng sinh-hoạt phản-ảnh lối sống của những "đồng-nghiêp"
bên kia bức màn tư-tưởng.
Phương-vũ VÕ Tam-Anh.
Đăng nhận xét