TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU THI TẬP THƠ XƯỚNG HỌA CAO MỴ NHÂN & TRỊNH CƠ
TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU THI TẬP THƠ XƯỚNG HỌA CAO MỴ NHÂN & TRỊNH CƠ
KÍNH MỜI ĐỌC BÀI GIỚI THIỆU THI TẬP THƠ XƯỚNG
HỌA
Kính mời quý vị ghé vào đọc bài giới thiệu
THI TẬP THƠ XƯỚNG HỌA CAO MỴ NHÂN & TRỊNH CƠ. Nữ thi sĩ lão thành, rừng
thơ của chị vang tiếng khắp nơi, Cao Mỵ Nhân cũng đã từng RMS ở VTLV.
VTLV
P.Hoa
GIỚI THIỆU: Thi Tập Thơ Xướng Họa Cao Mỵ
Nhân & Trịnh Cơ -Phương Hoa
May 12, 2021
Thi Tập Thơ Xướng Họa Cao Mỵ Nhân & Trịnh Cơ
Phương Hoa
Tôi quen biết nhị vị thi sĩ Cao Mỵ Nhân
(Hoa Kỳ) và Trịnh Cơ (Pháp Quốc) cũng đã được mấy năm, khởi đầu từ trên những
diễn đàn Đường Thi xướng họa. Tôi rất quý mến và ngưỡng mộ họ, và tôi cũng biết,
cả hai đều từng là quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, là anh kiệt và anh thư phục vụ
nước nhà từ trước 1975 cho đến ngày tan đàn xẻ nghé.
Nhà thơ đàn chị Cao Mỵ Nhân thì tôi đã
có dịp gặp mặt về sau tại Văn Thơ Lạc Việt, San Jose, Hoa Kỳ. Chị nhìn hiền
hoà, rất trang nhã, nhưng ít nói, nét mặt có chút nghiêm nghị và hơi… kỳ bí, kỳ
bí như những vần thơ du dương nhưng đầy ẩn ý ẩn tình của chị. Tôi thích
mê sự kỳ bí ấy, cũng thích mê sự phong phú về chữ nghĩa của nhà thơ, và niềm mê
thích này đã làm cho tôi đôi khi xúc động tận tâm can chỉ vì đọc được một vài
câu độc đáo trong các bài thơ của chị. Mỗi lần đọc thơ Cao Mỵ Nhân tôi thường
hay nghiền ngẫm, tìm tòi, để nhận chân và thưởng thức cho kỳ hết những tinh tuý
của bài thơ trước khi đặt bút đáp họa.
Riêng về thi sĩ Trịnh Cơ thì tôi chỉ gặp
anh qua… bóng. Trong tấm hình, có một chiếc bóng nhìn từ phía sau lưng, dáng
người dong dỏng cao với mái tóc hoa râm đang bước độc hành trên con đường dài
hun hút tận bên trời Paris, Pháp Quốc. Dù với dáng vẻ cô đơn lẻ loi ấy,
nhưng tâm hồn Trịnh Cơ lại chất chứa ngập tràn những búp nụ, những mầm thơ mượt
mà, ngào ngạt hương thơm. Dù chưa bao giờ diện kiến, nhưng tôi luôn thích
đọc thơ của thi sĩ và cố gắng họa lại bài xướng của anh mỗi khi chúng xuất hiện
trên các diễn đàn nếu tôi có thời gian.
Trên các diễn đàn, hai nhà thơ nổi trội
Cao Mỵ Nhân và Trịnh Cơ vẫn thường xuyên xướng họa cùng chúng tôi trong vẻ vô
tư. Nhưng tôi thật bất ngờ, bất ngờ đến giật cả mình, khi hôm nay nhận được tập
thơ mà hai vị đang chuẩn bị in chung. Bao ý nghĩ ngộ nghĩnh chợt nảy ra trong đầu
tôi, như có lẽ họ đã từng là một cặp “thanh mai trúc mã” ngày xưa, từng bị cách
chia kẻ chân trời người góc bể vì quê hương loạn lạc bây giờ gặp lại, có lẽ vì
sự trắc trở ấy đã khiến cho hai tâm hồn xao động nên ý thơ mới ngùn ngụt, hồn
thơ mới dạt dào, và tình thơ mới lai láng đến thế. Lòng rộn ràng với những
ý nghĩ tò mò đầy thú vị đó, tôi vội buông bỏ tất cả mọi thứ bận rộn đời thường
để mở tập thơ ra mà nghiền ngẫm, mà thưởng thức một cách… “triệt để.”
Thấy bài thơ đầu tiên “ANH VÀ 2019” là của
thi sĩ Cao Mỵ Nhân, tôi cười thầm trong thích thú. Nhà thơ Trịnh Cơ hiện đang sống
ở phương Tây nên thực hiện đúng cái câu “Lady’s First,” phụ nữ luôn ưu tiên số
một, để nhường nữ thi sĩ “ra tay trình làng” trước, chứ không phải như phong tục
Á Đông mình, đã xem thường thân phận cánh quần thoa, lại còn cho là “Phụ nhân
nan hóa,” phụ nữ không dễ gì dạy dỗ, cảm hóa được, và mỗi khi ra đường, người
đàn bà thường phải đi phía sau để cho phù hợp với câu “Núp bóng tùng quân” cổ hủ.
Bài đầu tiên trong thi tập, “ANH VÀ
2019,” là bài thơ Lục Bát Cao Mỵ Nhân viết lúc đón Giao Thừa, khi thi sĩ đang
ngồi cùng “người ấy” (hay tưởng tượng có người ấy ngồi cùng) nhìn TV chờ đếm
phút quả cầu Chào Mừng Năm Mới vỡ tung, nhưng trong lòng không có chút hơi hướm
mừng vui hạnh phúc vì được đón Giao Thừa, mà lại chứa đựng ngập tràn tâm tư sầu
nhớ. Hình ảnh sống động nhất tác giả cho thấy trong bài thơ, là nữ thi sĩ
đưa tay chặn lên trái tim lúc trái cầu sắp vỡ và nhìn vào TV thấy trời đêm rõ
ràng nhưng lại không thấy cố quốc nơi đâu. Nỗi niềm thương nhớ về quê Mẹ Việt
Nam trong thời điểm giao Xuân của người con ly hương đã gói trọn vào mấy câu
thơ làm xao động lòng người:
“Ở đây không có… Việt Nam
Quả cầu quê mẹ cơ hàn héo khô
Trái tim thất nhịp mơ hồ
Đêm đen đổ xuống nấm mồ giao xuân…” (Anh
Và 2019 – CMN – tr. 12)
Người ta nói, thơ Lục Bát dễ làm nhưng
làm rất khó hay, và họa thơ Lục Bát thì lại càng không dễ. Chữ nghĩa cần phải
lưu loát mượt mà, ý tứ phải sâu xa, và vần điệu phải phù hợp mới là một bài họa
hấp dẫn khiến độc giả chăm chú thưởng thức; và quan trọng nhất là, phải tránh
tình trạng làm thơ Lục Bát đọc lên nghe như…ca dao, khiến người ta chỉ lướt phớt
qua rồi đánh giá bài họa có đúng vần đúng luật hay chăng. Ở đây chúng ta
có thể thấy nữ thi sĩ Cao Mỵ Nhân gặp phải “Kỳ phùng địch thủ.” Nhà thơ Trịnh
Cơ đã gom được đủ các yêu cầu ấy trong bài họa “2019 ĐỐI MẶT.” Chưa kể đến
những đối đáp xướng họa khá lý thú trong khổ thơ đầu về chuyện cả hai mơ ước
cùng ngồi bên nhau, cùng đưa tay đặt lên tim khi nhìn TV trong giờ Giao Thừa chỉ
thấy bầu trời đêm, và đôi bên người thì “xin còn mãi nhau,” kẻ hứa “sẽ còn với
nhau,” xin mời quý vị cùng thưởng thức vế họa tuyệt vời của thi sĩ Trịnh Cơ,
cũng bày tỏ cái tâm trạng đau buồn vì mất quê hương trong giờ Trừ Tịch cùng với
thi nhân:
“Nhìn kỹ… đâu có Việt Nam
Đêm đông lạnh lẽo nỗi hàn lạnh khô
Cây kim đếm nhịp đồng hồ
Như là đưa tiễn đến mồ ngày Xuân” (2019
Đối Mặt – TC- tr. 13)
Tiếp theo, trải dài, xuyên suốt hơn phân
nửa tập thơ là phần xướng họa “Cao Mỵ Nhân & Trịnh Cơ. Hai thi nhân với
hồn thơ lai láng cứ thế mà thoải mái vung bút trải vần, xướng họa với nhau, chữ
nghĩa giao duyên, ý tình hòa điệu, phát họa lên những đường nét sống động, bừng
sáng từng chữ từng câu trên từng trang sách gọi mời, khiến cho người đọc mãi mê
theo tiếp hết bài này sang bài khác, không thể dừng lại. Mời bạn hãy xem,
bài Lục Bát 4 câu rất mượt mà “Bên Đó” của Cao Mỵ Nhân với những lời than làm
nhói lòng người:
“Sao mưa lại lạnh trời thu
Khiến người bên đó thương ru bên này
Mưa đêm thấm ướt hồn say
Người bên đó ngó mưa bay thẫn thờ…” (Bên
Đó – CMN – tr. 14)
Thì tiếp theo ngay, bài họa “Bên Này” của
Trịnh Cơ cũng làm cho trái tim ai trật nhịp:
“Giọt mưa rỉ rả đêm Thu
Nhớ người bên đó lời ru luống này
Mơ màng trong giấc mộng say
Nửa đêm nghe tiếng lá bay ơ thờ.” (Bên
Này – TC – tr 15)
Thơ Lục Bát đã hay đến vậy, đọc những
bài Đường Thi xướng họa của hai nhà thơ lão thành càng khiến tôi như bị lạc vào
“mê hồn trận.” Đọc một hồi những bài thơ kế tiếp, tôi đột nhiên…nín thở, khi mắt
chạm vào bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú “Mảnh Trăng Thơ” của thi sĩ Cao Mỵ
Nhân. Chỉ hai câu mở đầu thôi đã có thể nói là tuyệt tác, và tôi bị chấn
động tận tâm can, “Từ lâu, để mực đọng nghiên vàng/Bút cũng âm thầm ngại điểm
trang.” Một sự ví von tuyệt hảo! Lời lẽ tuy đơn giản nhẹ nhàng nhưng thật thâm
thúy, làm cho người đọc cảm nhận được đây là những tiếng than xé lòng của kẻ cô
đơn. Mực đã bị bỏ đọng bơ vơ ở nghiên vàng, thì bút còn điểm trang để làm gì cơ
chứ! Hai cặp đối cũng thật tuyệt vời, nhưng tôi phải giữ lại để cho độc giả tự
mình thưởng thức mới là thú vị. Chỉ xin chia sẻ cùng quý vị nơi đây hai
câu kết, vì hai câu này đã làm tăng thêm phần đặt sắc cho bài thơ. Bơ vơ thì mặc
bơ vơ, tác giả tự nhủ, ta cứ vui cứ đối bóng với thơ, để rồi còn tìm cách bay
theo trăng để đi xé nửa cái thiên đàng đã mất. Tự cổ chí kim, chỉ mới có Thi
Tiên Lý Bạch đời Đường bên Tàu nhảy xuống sông để vớt trăng lên, giờ đây lại có
thi nữ Việt là Cao Mỵ Nhân đòi theo trăng đi xé nửa cái thiên đàng. Những điều
kỳ thú ngoạn mục như vậy chỉ có những nhà thơ “siêu việt” mới tính làm, hoặc
nghĩ ra!
“Thì cứ cùng thơ vui đối bóng
Theo trăng đi xé nửa thiên đàng.” (Mảnh
Trăng Thơ – CMN – tr. 73)
Riêng bài họa của nhà thơ Trịnh Cơ “Nhớ
Cảnh Trường Xưa” trong trường hợp này, tuy không đáp ứng với ý nghĩa của bài xướng,
mà chỉ là họa nương vận, nhưng cũng phải kể là một bài họa hay. Trong khi
bài xướng của Cao Mỵ Nhân chứa đầy lãng mạn về tình yêu nam nữ, than thở với
bút nghiên, với trăng và thơ, thương mây khóc gió cho sự bơ vơ…, thì bài họa của
Trịnh Cơ cũng tràn ngập sự nhớ nhung tiếc nuối, nhưng mà là nhớ về tình yêu đất
nước, về một thời được đào tạo dưới mái trường quân đội với những bước chân “ắc
ê” gọn gàng, và những chuyến hải hành bảo vệ quê hương. Để rồi cuối cùng thi sĩ
thốt lên tiếng than:
“Nước non xả tắc thời vi diệu
Nay chẳng còn đâu chốn địa đàng.” (Nhớ Cảnh
Trường Xưa – TC – tr. 74)
Bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt vận trắc “Nỗi
Buồn Vô Cớ” của thi nữ Cao Mỵ Nhân dưới đây cũng đưa người yêu thơ vào một
khung trời đầy mộng ảo, “Có những nỗi buồn vô cớ lắm/Mà sao thổn thức đến trăm
năm.” Đã làm người thì ít nhiều gì ai cũng có những tâm sự thầm kín. Chắc độc
giả sẽ đồng cảm khi được nhà thơ “nói giùm” giải bày giùm cho những băng khoăn,
những nỗi buồn âm ỷ đang giấu giếm trong lòng, và sau cùng thì …xúi người ta thổ
lộ:
“Thì cứ tự nhiên ngồi thổ lộ
Tỏ bày như chẳng có chi ngăn
Tỏ bày tình tiết sầu thương đó
Khổ luỵ trong tim nức nở thầm…” (Nỗi Buồn
Vô Cớ – CMN – tr. 93)
Và để đáp lại nỗi niềm của thi nhân, Trịnh
Cơ đã họa bài “Buồn…Cũng Vậy Thôi” thật duyên dáng trữ tình, để bày tỏ với đối
phương, rằng thì là bên nớ chỉ có những nỗi buồn, nhưng bên ni là cả vạn điều
buồn, chúng cứ mãi đong đưa trên hố thẳm, rồi “Khi sầu khi chán lại như câm” mà
thi nhân không thố lộ nên nào ai hay biết,“Ta giữ trong tim không hé lộ/Ai nào
có biết để can ngăn…”(Buồn…Cũng Vậy Thôi – TC) Đây quả thật đúng là tri kỷ.
Đặc biệt, bài thơ thể tự do Ngũ Ngôn “Viết
Sau 10:00 PM” của Cao Mỵ Nhân cũng làm tôi xao xuyến. Nhà thơ đã trải lòng,
trút cạn nhớ nhung vào thơ lúc 10 giờ khuya, cùng tâm sự với những con chim biển
cũng đang cô đơn giữa màn đêm, và nghe được chúng thốt lên những tiếng kêu thầm
hò hẹn trong tuyệt vọng.
“Em cũng như chim biển
Cô đơn giữa thế gian
Chim kêu thầm hò hẹn
Nỗi u tình chứa chan…” (Viết Sau 10:00
PM – CMN – tr. 125)
Người ta nói “Thần giao cách cảm” có lẽ
chính xác nhất để dùng trong trường hợp này. Thì ra từ chốn xa xăm chàng
thi nhân kia cũng đâu có ngủ được lúc 10 giờ đêm. Ta hãy nghe Trịnh Cơ tâm sự
cùng nàng thơ nơi viễn xứ trong bài họa “Đêm Về”, “Tiếng chuông gõ 10 giờ/Sao cứ
còn thương nhớ,” và “trần tình” rằng vì thi sĩ vẫn còn yêu biển, yêu nguồn vui
thế gian, nên đã quên lời hẹn ước, tuy vậy tình yêu say đắm thì vẫn mãi chan
hòa:
“Ta vẫn còn yêu biển,
Nguồn vui giữa nhân gian,
Cứ quên lời ước hẹn.
Tình yêu vẫn hòa chan…” (Đêm Về – TC –
tr. 127)
Qua nhiều năm cùng theo đòi xướng họa
trong các diễn đàn thơ, tôi đã thưởng thức đủ các thể loại mà nhà thơ Cao Mỵ
Nhân đã sáng tác. Bài thơ 8 chữ “Trái Tim Lửa” này cũng là một trong các bài
thơ tự do đặc sắc của thi nữ. Lúc này trái tim yêu của thi nhân hừng hực bốc
cháy vì tình, cho nên mặc kệ những chông gai, mặc kệ bao trở ngại, nàng thơ chỉ
thấy “Xuân sẽ đến bốn mùa đều tươi thắm/Đẹp hồn ta đang bốc cháy hoang sơ.”
Thông điệp gửi đi cho người trong mộng thật dạt dào, chất chứa ngập lụt say mê,
chờ đợi chỉ cần một tiếng hót khẽ của loài chim quý là sẽ được cả trái tim
nàng:
“Nhưng Chim Quí một lần thôi hót
khẽ
Ta tặng người nguyên vẹn trái tim
thơ…”(Trái Tim Lửa – CMN – tr 136)
Đáp lại khối tình “bốc lửa bốc khói”
này, chàng thi sĩ cũng đâu có kém. Bài họa “Về Nghe Cô Đơn” của Trịnh Cơ càng
chất chứa lắm nỗi niềm. Chàng còn “bạo gan” nhắc lại chuyện xưa, cái thuở cùng
nhau bàn tính “Chuyện ngày ấy bàn về ăn trái cấm/Ở Thiên Đường cây đẹp, lá
nghiêng chờ.” Nhưng cuối cùng rồi mấy lời trách cứ cũng được trao lại cho ai
kia:
Nhìn xuống dưới, âm thầm rơi giọt lệ
Lụy trần ai khiến ta phải ơ thờ
Quay trở lại hầu nghe lời kể lể
Tình bay xa, còn lại mấy câu thơ… (Về
Nghe Cô Đơn – TC – tr.137)
Sự sắp xếp trong thi tập này thật là thú
vị, quá bán trong phần đầu là những bài thơ Cao Mỵ Nhân xướng – Trịnh Cơ họa.
Đọc một hơi, thưởng thức hết phần đầu thì tiếp theo phần sau đổi ngược lại Trịnh
Cơ xướng – Cao Mỵ Nhân họa. Dòng thơ trữ tình, mượt mà, nhưng lại chất chứa
nhiều nỗi niềm riêng của thi sĩ Trịnh Cơ lâu nay cũng rất được các nhóm xướng họa
bạn bè chúng tôi yêu thích, không kém gì nữ sĩ Cao Mỵ Nhân. Thi sĩ Trịnh Cơ rất
“có duyên” với thơ tứ tuyệt, lời thơ giản dị không gút mắc, nhưng ý tứ rất
phong phú, làm xúc động người đọc, cho nên thơ của anh cũng đã được nhiều người
đáp họa. Bài thơ “Biết Đâu” đong đầy cảm xúc của Trịnh Cơ sau đây khiến những
người đang yêu phải chạnh lòng xót xa. Chàng cùng người ấy lâu lâu mới gặp một
lần, nhưng có nỗi đau nào hơn khi “Nụ hôn vừa dứt rồi ly biệt/Ở cuối chân trời
giấc mộng tan.” Sự xa cách như thế đã khiến cho nhà thơ e ngại. Chúng ta hãy đọc
những lời lo âu khắc khoải của chàng, “Đâu biết lần này sẽ gặp nhau/Còn yêu tha
thiết tựa ban đầu?” và:
“Hay là hờ hững như người lạ
Để lại cho anh cả mối sầu!” (Biết Đâu –
TC – tr. 155)
Và thú vị vô cùng, nàng thơ Cao Mỵ Nhân
đã vội vàng đáp lại bài họa ngọt ngào, “Đành Thôi” với những lời cảm thông, trần
tình, vỗ về “ai kia,” bỡi vì không hợp mới tan, “Kẻ ở người đi ôi giã biệt/Bởi
không hợp được mới đành tan.” Và:
“Hoàng hôn cũng nguội theo tình lạ
Tuổi tác đầy thêm mộng mị sầu…” (Đành
Thôi – CMN – tr. 156)
Bài thơ “Có Ai” của thi sĩ Trịnh Cơ tiếp
theo đây nói lên nỗi niềm cô độc làm cho người ta phải xót xa. Một người có cuộc
sống mà muốn “Nói chuyện… tâm tình chẳng có ai/Đêm đêm trằn trọc suốt canh dài”
thì quả là buồn vô kể. Lời thơ như nức nở, ý thơ như trách móc ai đó sao nỡ
đành “bỏ ta một mình,” và một chút ước mơ được có người bên cạnh:
“Bởi ta đang sống đời hiu quạnh
Thiếu vắng ai bên cạnh, đỡ sầu.” (Có Ai
– TC – tr. 157)
Tuyệt thay, đàng này bài “Có Ai” của Trịnh
Cơ than thở bị bỏ cô đơn, thì đàng kia, Cao Mỵ Nhân đã trải lòng cảm thông thay
cho “ai đó” của nhà thơ, bằng bài họa “Vẫn Ông” rất duyên dáng, thêm chút dí dỏm,
nhưng có thể thấy trong lời thơ ẩn hiện chút …hờn ghen nhè nhẹ rất dễ thương. Bởi
vì ngày xưa bay bướm quá, đa đoan quá, có cả chục giai nhân quanh mình, cho nên
bây giờ…ráng chịu chứ than thở mà làm chi:
“Giờ thì đầu bạc trắng hơn xưa
Cả chục giai nhân bỗng ngó hờ
Bởi lẽ đa đoan nên khổ luỵ
Đâu còn thanh thản mà làm ngơ”(Vẫn Ông –
CMN – tr. 158)
Thi sĩ Trịnh Cơ từng là một sĩ quan Hải
Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Bài thơ “Lời Cuối” của anh tôi đọc mà rưng
rưng cảm phục. “Tôi chết đi… xin chớ phủ cờ.” Đây là lời di chúc, dặn lại khi
thi sĩ mất đi thì không nên phủ cờ Quốc Gia như bao người vẫn làm lâu nay nơi hải
ngoại. Dù vận nước đảo điên là do thế cuộc tạo nên, chứ quân dân cán
chính Việt Nam Cộng Hòa chúng ta thuở ấy vẫn một lòng chiến đấu rất anh dũng,
thi sĩ vẫn cho rằng mình không làm tròn viêc giữ nước nên không xứng đáng, mà
chỉ có những người vị quốc vong thân mới xúng đáng được phủ cờ:
“Phủ cờ cho kẻ đáng tôn vinh
Ngã gục thân trai, hiến phận mình
Bỏ mạng sa trường cho đất nước
Đã bao cay đắng lúc đăng trình…” (Lời Cuối
– TC – tr. 169)
Nhà thơ Cao Mỵ Nhân cũng từng là một sĩ
quan QLVNCH. Cho nên bài họa “Vàng Sắc Nhớ” của chị là một đồng cảm, kiêm ý
trách móc những kẻ đã bỏ lại thành xưa bóng cờ tổ quốc, nhưng rồi lại quên bẳng
đi, để mãi lơ ngơ với dáng vẻ phạc phờ của người không biết đâu là quê hương.
Dù ai có quên, nhưng nhà thơ thì vẫn nhớ,
vẫn giữ lại vuông cờ khi giã từ trận
mạc:
“Giã từ trận mạc giữ vuông cờ
Hiu hắt vàng hong nắng nhuộm tơ
Bạn hỏi buồn thương xa đất tổ
Chứa chan tình nghĩa chẳng phai mờ…”
(Vàng Sắc Nhớ – CMN – tr.170)
Bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú của
nhà thơ Trịnh Cơ “Tàn Đông” là một bài thơ buồn, nhưng chữ nghĩa lại xôn xao
tràn đầy cảm xúc. Đó là nỗi u buồn bất chợt, chính thi sĩ cũng “Không biết vì
đâu cảm thấy buồn.” Hai câu thực đã làm cho hồn tôi xao xuyến. Cái hình ảnh sống
động trước mắt với đàn chim rét mướt bay vật vờ về tổ, và con suối thì chênh
chao khi nhớ lại cội nguồn, diễn tả một tâm trạng đau thương khiến cho những kẻ
ly hương, tan tác vì mất nước như tôi càng thêm nhói cả cõi lòng:
“Đàn chim rét mướt bay về tổ
Con suối chênh chao nhớ lại nguồn”(Tàn
Đông – TC – tr. 185)
May mắn thay, nhà thơ Cao Mỵ Nhân đã…cứu
bồ bằng bài họa “Paris Buồn” giúp tôi có thêm “sinh khí,” tươi tắn lên một chút
để tôi khỏi “đổ thừa” thi sĩ Trịnh Cơ đã làm cho lòng tôi héo úa khi sắp kết
thúc bài viết này. Cao Mỵ Nhân đã an ủi “người ta” là tại vì Paris quá
lãng mạn mới khiến cho buồn, chứ thực ra thì mùa đông đã tàn, tuyết cũng tan chờ
Xuân đến:
“Chim én mừng xuân tươi sắc cội
Tao nhân đón khách lộng thơ nguồn..”
(Paris Buồn – CMN – tr. 186)
Tới đây thì tôi xin phép được tạm dừng
vì bài viết đã khá dài. Thực ra thì còn nhiều, nhiều lắm những bài tình thơ có
thể nói là tuyệt tác trong thi phẩm “Xướng Họa” của nhị vị Cao Mỵ Nhân và Trịnh
Cơ. Điều tôi muốn nói ở đây là “cặp bài trùng” này quá ư tuyệt vời trong
các thể thơ xướng họa. Họ đã quá hoà hợp, quá “nhập vai,” nhâp vai trong việc
trải lòng như là tâm sự của chính một đôi trai tài gái sắc từng yêu nhau, bị trắc
trở, và rồi khi gặp lại thì đã muộn màng nhưng hồn thơ vẫn còn réo rắc, chứa đựng
ngập tràn nỗi nhớ, niềm thương. Cho nên xuyên suốt thời gian từng bước đọc thơ
và ghi lại cảm nhận của mình, Phương Hoa tôi cũng đã “nhập vai” trong cái cảm
xúc họ là “một đôi” thật sự. Nếu sự thật hai người trước đây chưa từng yêu
nhau, chưa bao giờ quen biết nhau, mà đây chỉ là “bình thủy tương phùng” trên những
dòng thơ xướng họa nơi hải ngoại rồi trở thành bạn thiết, thì quả là thi tài của
họ đã lên đến đỉnh cao, nguồn tình thơ quá lai láng dạt dào.
Cuối cùng, thi tập “XƯỚNG HỌA” của hai
nhà thơ Cao Mỵ Nhân và Trịnh Cơ là một tác phẩm văn học có giá trị, chẳng những
rất đáng đọc, mà cần phải đọc thật kỹ mới thưởng thức hết những cái hay cái đẹp
cái ý cái tình của mỗi một bài thơ. Tôi tin rằng quý vị sẽ thích thú với sự
phong phú chữ nghĩa của những bài thơ tình thật ngọt ngào, thật lãng mạn, trong
tập thơ này.
Xin trân trọng kính giới thiệu cùng với
quý độc giả thi tập “XƯỚNG HỌA” của Cao Mỵ Nhân & Trịnh Cơ.
Muốn mua sách Xin Liên lạc Tác giả:
Trịnh cơ – Cao Mỵ Nhân
trinhco@gmail.com
caomynhan91@yahoo.com
Liên lạc Nhà xuất bản:
Nhân Ảnh
han.le3359@gmail.com
(408) 722-5626
Phương Hoa – Miền Bắc California
https://vantholacviet.com/gioi-thieu-thi-tap-tho-xuong-hoa-cao-my-nhan-trinh-co-phuong-hoa/
Đăng nhận xét