Nguyễn Mạnh Trinh
(10/01/1949 -
24/08/2021)
Có lẽ không có một
thành phố nào như Pleiku được nhắc nhở nhiều đến như vậy trong văn học Việt
Nam. Những thi văn sĩ, đã sống và thở ở không gian đó, đã trải qua những ngày
tháng tao loạn chiến tranh, nên tác phẩm của họ đã biểu hiện sinh động được tâm
cảm của những người lính thú hay những nàng chinh phụ của một thời đại chiến
tranh.
Với tôi, phố núi Pleiku
gợi lại cho tôi rất nhiều vần thơ. Có thể là của riêng tôi mà cũng là của
rất nhiều thi sĩ đã gần gũi với thành phố ấy. Thêm vào nữa, Pleiku còn là cả một
kho tàng kỷ niệm của riêng tôi..
Ngay ngày đầu tiên đến
Pleiku, tôi đã cảm thấy như mình là một dòng sông đang đến một khúc quanh.
Năm tôi lên nơi chốn
ấy, tôi vừa đến cái tuổi đôi mươi. Hai mươi tuổi, tâm hồn lúc ấy trắng bong,
tràn đầy mơ với mộng. Chưa có kinh nghiệm trường đời nên thường phản ứng trước
những điều mà mình thấy không vừa lòng. Tuổi trẻ lại hay thích thoải mái không
ưa sự gò bó nên dù ở Nha Trang phong cảnh sơn thủy cũng hữu tình lắm nên khoái
chuyện giang hồ lang thang. Ở đâu cũng xa nhà nên tôi tình nguyện đi biệt đội
Pleiku mút mùa lệ thủy và khi lập không đoàn thì cũng là một trong những sĩ
quan thuộc hàng khai sơn phá thạch của đơn vị kỹ thuật ở đây...
Thời gian ở thành phố
biên trấn này chỉ hơn hai năm mà sao tràn đầy kỷ niệm. Có những lúc, cơm xấy đồ
hộp ngày này qua tháng khác mà vẫn vui. Lãnh lương xong, chỉ một vài ngày là sạch
nhẵn, thế mà tối nào cũng lang thang ở phố đến nửa đêm mới mò về phi trường. Ở
đây, biết bao nhiêu đứa bạn, buổi sáng còn đùa giỡn chọc ghẹo nhau mà vài tiếng
đống hồ sau thân xác đã thành sương khói cho những phi vụ không về. Ở đây có
sáng mù sương, thấy đời mỏi mệt như chiếc xe dodge của biệt đội ì ạch leo lên đầu
dốc. Dù rằng lúc ấy tôi chỉ vừa hai mươi tuổi…
Cảm giác đầu tiên của
tôi khi đến Pleiku thật là lạ lùng.
Ngày đầu tiên khi
tôi từ Nha Trang xuống phi trường Cù Hanh là một ngày mưa u ám. Phi cơ trực
thăng khi bay qua Khánh Dương bị bắn và tôi hiểu chiến tranh đã đón chào tên
lính trẻ làm thân lính thú đồn xa như thế. Mưa sủi bọt trên mặt nhựa phi đạo và
bầu trời nặng nề u ám mầu mây đen. Gió ào ạt lồng lộng ngoài kia khiến cho tôi
thấy mình quá nhỏ nhoi trong cái buồn mênh mang của đất trời. Lúc ấy, tôi thấy
những câu thơ vẩn vơ trong óc. của Kim Tuấn, Vũ Hữu Định, Nguyễn Bắc Sơn,… Thơ
tự nhiên thành một phần của một ngày, một tháng, một năm,… của riêng tôi. Thơ để
quên đi hiện tại. Những giọt mưa quất vào mặt, buốt rát. Những ngọn gió thốc
vào ngực. Nặng tê… Tự nhiên tôi thấy mình thật gần gũi thân thiết với những
vần thơ biết là bao nhiêu. Có lúc, tôi nghĩ thi ca là một phần đời sống mình…
Thi sĩ làm thơ cho
Pleiku thì rất đông đảo. Và thơ hay cũng nhiều lắm, mỗi bài có ý vị riêng, có
phong thái riêng. Tôi bắt đầu với nhà thơ Vũ Hữu Định…
Nếu nói bài thơ “Còn
Một Chút Gì Để Nhớ” của thi sĩ họ Vũ đã làm cho Pleiku trở thành một nơi chốn cực
kỳ lãng mạn và thơ mộng của thi ca Việt Nam thì cũng chẳng phải là ngoa ngôn,
những câu thơ dễ thương của một vài con phố nhỏ heo hút của vùng cao nguyên, với
hình tượng của “Em,” của thời tiết lạnh lạnh để má em thắm để môi em hồng. Có
ai hỏi là những nhân dáng này có thật trong đời sống của người làm thơ không
thì nhà thơ họ Vũ đã trả lời rằng đó chỉ là hình tượng tổng hợp từ nhiều hình ảnh
trong thực tế để tổng hợp thành một hình tượng tuyệt diệu của tưởng tượng, của
hư cấu. Và trong cái không gian của một phố núi nhỏ nhoi, con người thi sĩ và cảnh
vật cũng như thiên nhiên ở đây hình như thở chung một nhịp đập của trái tim
tràn cảm xúc. Con phố hoang sơ lạnh lùng nhưng dường như có một tâm hồn mà người
thơ cảm thông được, hiểu được từ nỗi cô đơn mà trời riêng dành cho người là
thơ.
Bài thơ ấy gồm chỉ
mười hai câu thơ thôi mà chuyên chở rất nhiều tình, ý. Thơ có thiên nhiên hòa hợp
với con người. Thơ làm đời sống có nhiều chất thơ hơn để quên đi những ám ảnh của
chiến tranh:
“Phố núi cao phố núi
đầy sương
phố núi cây xanh trời
thấp thật gần
anh khách lạ đi lên
đi xuống
may mà có em đời còn
dễ thương
phố núi cao phố núi
trời gần
phố xá không xa nên
phố tình thân
đi dăm phút đã về chốn
cũ
một buổi chiều nao
lòng bỗng bâng khuâng
em Pkeiku má đỏ môi
hồng
ở đây buổi chiều
quanh năm mùa đông
nên mắt em ướt và
tóc em ướt
da em mềm như mây
chiều trong
xin cảm ơn thành phố
có em
xin cảm ơn một mái
tóc mềm
mai xa lắc trên đồn
biên giới
còn một chút gì để
nhớ để quên.”
Hình như về sau này,
khi Cộng Sản chiếm miền Nam, thì trong các tuyển tập thơ có trích đăng bài này.
Bài thơ này hình như vượt qua được giới tuyến của chiến tranh để trở thành một
tài sãn văn hóa của dân tộc…
Bài thơ này được
trích đăng hoặc in trong nhiều tuyển tập thơ xuất bản ở trong nước, nhưng không
phải là nguyên văn bài thơ. Thí dụ như hai câu thơ cuối thì nguyên bản là “mai
xa lắc trên đồn biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“ Thì sửa lại là “mai
xa lắc trên đồi biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“. Chỉ sửa có một chữ
mà ý tưởng đã khác nhau nhiều!
Tôi không rõ Vũ Hữu
Định viết bài thơ này trong thời gian nào nhưng theo nhà thơ Luân Hoán một người
bạn thân cùng quê với anh đã tả chân dung nhà thơ ấy như sau:
Với chiều cao khoảng
một thước sáu nhưng có bề ngang, cộng với dáng đi chữ bát, cộng thêm lối ăn vận
lè phè nhà thơ Vũ Hữu Định trông gần như hơi thấp. Anh không có khuôn mặt đẹp
trai nhưng nhìn rất bắt mắt. Nụ cười xuề xòa luôn luôn đi trước giọng nói dí dỏm
bộc trực đã thắp sáng khuôn mặt ngả màu nâu sậm của anh thơ miền Trung ra đời
vào thập niên 40 này. Năm 1970, năm tôi không may mắn phải giã từ rừng
núi và phố chợ Quảng Ngãi để trở về Đà Nẵng tôi đã gặp và quen thân với Vũ Hữu
Định. Lúc đó hình như anh đang mặc áo cán bộ xây dựng nông thôn. Địa bàn công
tác của anh lòng vòng ven rìa thành phố Đà Nẵng như Thanh Khê, Hà Khê, An Hải,
Sôn Trà,... Anh chợt đi, chợt về. Đặc biệt anh lúc nào cũng có vẻ thong
dong giàu có thời giờ phất phơ phố xá. Anh làm thơ nhiều trong giai đoạn này.
Thơ của anh hầu hết được đăng trên các tạp chí văn chương tại thủ đô Sài Gòn. Vũ
Hữu Định có đời sống vật chất không mấy khả quan, quen biết nhau khá lâu nhưng
anh từ chối không thuận cho tôi đến nhà chơi. Cũng không hề đề cập đến gia đình
của anh. Biết anh có vợ có con nhưng mãi về sau này tôi mới tình cờ được gặp
trong một hoàn cảnh thật buồn!
Ông mất năm 1981 ở
Đà Nẵng và có nhiều dư luận về cái chết của ông. Như ông đến nhà một người bạn
văn chơi ở An Hải và vì nhậu qúa say trong lúc tìm chỗ đi tiểu thì bị té từ căn
gác lửng xuống và chết. Một dư luận khác thì nói rằng trong cuộc nhậu ấy, ông bị
một vài người cố tình từ trên gác xô xuống và bị ngã chết. Những người bạn ông
thì nửa tin nửa ngờ và cũng hiểu rằng ở thời thế ấy thì chết vì bị cố tình mưu
hại hay vì say mà té ngã cũng đều như thế, chính quyền không quan tâm và chỉ
đau xót cho gia đình, bạn bè và những người yêu thơ ông…
Thi sĩ viết về
Pleiku như thế thì rất nhiều nhưng tôi cũng muốn nói về một thi sĩ mà tôi rất
mê thơ của ông. Đó là Nguyễn Bắc Sơn…
Nguyễn Bắc Sơn, một
chứng nhân của cuộc chiến, làm thơ như một cách thế sống, đã coi công việc viết
như một phần của đời người. Sống ở Pleiku và viết những bài thơ để gửi Pleiku.
Thơ ông, có chút cảm khái ngậm ngùi của thời tao loạn nhưng cũng có những xúc động
bềnh bồng của tâm tư lãng mạn hay đùa cợt với cuộc đời. Thơ, phảng phất vóc
dáng một chàng cuồng sĩ…
Đọc bài thơ “Hoa Quì
Vàng Lạnh Pleiku,” tự nhiên tôi như người trở về thời gian ấy, không gian ấy.
Trở về những ngày tuổi trẻ, của những giây phút bốc đồng coi mọi việc như cuộc
đùa chơi. Cái lạnh, chưa hẳn là lạnh lẽo mùa đông, mà còn chứa đựng một chút nồng
ấm nào đó của mùa hạ. Lạnh ở bên ngoài nhưng rần rần nóng hồi ở tim óc bên
trong. Sương mù ban đêm trên đỉnh cao nhìn về phố buồn, tâm thức cũng ào ạt như
sóng theo tầm nhìn vời vợi…
“Đứng trên núi thấy
hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh
mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất
lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa
hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một
người thiếu nữ
Đã nhìn mình rất ấm
một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng
tiếp ngày mưa
nhưng vĩnh cửu chút
mơ màng thuở đó…”
Đọc bài thơ dài của
Nguyễn Bắc Sơn tôi chỉ thấy có hai câu nói về mầu hoa quì vàng. Thế mà cái mầu
sắc hoa man dã ấy chỉ một nét thoáng qua nhưng lại gợi nhiều dư âm. Mầu vàng,
có khi là mầu vàng lạnh, nhưng có khi là mầu nóng chói chang của nắng:
“Phố núi kia ơi, một
đời phố lạnh.
Lạnh hoa vàng, núi đỏ,
thác đèo cao.”
Hoa quì vàng? Một
loài hoa có lẽ chỉ có ở Pleiku. Hoa quì vàng, một loài hoa nhỏ, cây từa tựa giống
như hoa cúc, tôi đã nhìn thấy miên man mầu vàng khi trên phi cơ nhìn xuống. Mầu
vàng, mênh mang trên những ngọn đồi loang lổ mầu xám của đá và mầu đỏ của đất.
Hoa quì, lẻ loi một cánh trên tay thú thực cũng chẳng hấp dẫn lắm nhưng nếu bạt
ngàn dưới cánh phi cơ, rào rạt trong nắng trong gió sẽ trở thành một ấn tượng
khó quên cho cảm xúc. Ơi hoa quì, mầu vàng không phải kiêu sa như mầu hoàng cúc
của áo tôn nữ mà có sự gần gũi với tà áo vàng của dân dã, của thiên nhiên. Hèn
chi, cũng có nhiều nhà thơ vấn vương với hoa quì vàng, như Nguyễn Xuân Thiệp,
như Kim Tuấn,…?
Người thơ kể chuyện
của mình, một câu chuyện có lẽ rất quen tai của những người lính thú. Cũng đi
xuống, đi lên, cũng loay hoay bồn chồn như những chàng gà trống,..
“Đời lang bạt của một
người lính thú
Sáng hôm qua tôi là
người thiếp ngủ
Đi một mình lên xuống
phố mù sương
Phố núi kia ơi, phố
có con đường
Lên xuống dốc tìm
không ra bạn hữu
Không có bạn tôi làm
sao uống rượu
Tôi làm sao sống nổi
một ngày đây
Phố núi kia ơi, kẻ lạ
đông đầy
Nhìn gã lính không
khác gì gã lính…”
Không có bạn tôi làm
sao uống rượu. Tôi làm sao sống nổi một ngày đây. Nghe như một câu nói thường
ngày, không có chất thơ mà sao nghe tràn đầy thi tứ. Chắc lúc ấy, sự cảm khái của
người thơ đã lên cao độ, và, nỗi lạnh lùng thiên cổ như bám vào da vào thịt. Có
nỗi nhớ mong, có niềm tiếc nuối. Người em, bây giờ lưu lạc ở đâu?
“… Tôi vận rủi làm một
người lãng đãng
ngó mông hoài khuất
bóng của người em
sáng hôm nay đời sống
thật bình yên
sao phố lại đuổi đi
người yểu điệu
vườn đá tảng bàn
chân em huyền diệu
in gót hồng lên lớp
bụi đời tôi
là từ khi tôi hạnh
phúc rong chơi
và quên lãng con thú
mù phẫn nộ
Ôi phố núi đêm nay
là cổ mộ
Một hàng đèn sáng lạnh
cõi bi hoang…”
Nguyễn Bắc Sơn làm
thơ với tâm trạng u uất của thời đại trong một cuộc chiến kéo dài suốt gần hai
chục năm. Ông có người cha là một cán bộ quân sự cao cấp của Cộng sản nên trong
thời kỳ ông đi lính VNCH cũng bị ảnh hưởng. Cơ quan An Ninh Quân Đội bắt ông
thuyên chuyển đơn vị và theo dõi. Sau đó ông đào ngũ và bị bắt lính lại và phục
vụ tại một đơn vị địa phương quân ở Phan Thiết. Sau năm 1975, người cha trở về
và là một viên chức cao cấp sau về hưu và bị chết một cách bất thường vì bị tai
nạn giao thông. Có dư luận cho là bị mưu sát…
Đời sống của ông đã
tạo cho thơ ông niềm đau xót của những người bị kẹt giữa hai giới tuyến. Thơ của
ông hào sảng có nét chân thực thô nhám của đời lính trận có những câu như:
”Mai ta đụng trận
may còn sống
Về ghé Sông Mao phá
phách chơi
Chia sớt nỗi sầu
cùng gái điếm
đốt tiền mua vội một
ngày vui…”
Có người phê phán những
bài thơ có chất phản đối chiến tranh của Nguyễn Bắc Sơn, nhưng họ phải công nhận
ý thơ và tứ thơ mạnh mẽ của ông, một kỹ thuật làm thơ với ngôn ngữ tuy bình dị
gần gũi đời thường nhưng đầy chất sáng tạo…
Có một nhà thơ nữ
cũng nổi tiếng với một bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành nhạc khúc “Tưởng
như còn người yêu.” Đó là nhà thơ Lê Thị Ý và bài thơ “Thương ca 1.”
Trả lời một câu phỏng
vấn của Đinh Quang Anh Thái, tác gỉa Lê Thị Ý phát biểu:
“Lúc đó là năm 1970,
tôi sống tại Pleiku. Thành phố nhỏ bé này vào giai đoạn chiến tranh khốc liệt
chỉ thấy lính, vợ lính, xe tăng, xe jeep; hầu như không thấy gì khác nữa. Nhà
tôi ở gần nhà xác của quân đội. Tôi chứng kiến cảnh biết bao các bà đi nhận xác
chồng. Tôi thấy đàn bà con nít đến lật cái poncho quấn xác để nhìn rõ mặt người
thân, cảnh đó khiến tôi đau đớn không chịu nổi. Rõ ràng nỗi đau của những người
có chồng chết trận là nỗi đau của chính mình. Thành thật tôi vô cùng xúc động
và chính tôi sống bằng hình ảnh những người vợ lính, vợ sĩ quan khóc bên xác chồng.
Nỗi buồn đau đó là nỗi đau của mình.”
Khi trả lời câu hỏi
khi thơ phổ thành ca khúc thì có người chê là phản chiến, nhà thơ Lê Thị Ý nói:
”Khi tôi làm bài thơ
tôi xúc cảm thế nào thì tôi viết ra như thế. Thế thôi. Tôi không nghĩ gì khác cả.
Bài thơ được phổ biến cũng là một sự ngẫu nhiên. Một người bạn của anh Vương Đức
Lệ tôi đến nhà chơi thấy bài thơ bèn đưa cho cụ Nguyện Đức Quỳnh người trụ trì
sinh hoạt Đàm Trường Viễn Kiến ở nhà cụ ỏ Sài Gòn quy tụ rất nhiều văn nghệ sĩ,
trí thức, nhà văn, nhà báo – Cụ Quỳnh đọc thấy hay bèn đưa cho ông Phạm Duy phổ
nhạc. Cho nên bài thơ của tôi được mọi người thưởng thức hoặc cho là phản chiến
thì cũng là việc tình cờ thôi chứ tôi không chú ý trước việc phổ biến bài thơ…”
Bài thơ rất cảm động,
nguyên văn là;
“Ngày mai đi nhận
xác chồng
say đi để thấy mình
không là mình
say đi cho rõ người
tình
cuồng si độ ấy hiển
linh bây giờ
cao nguyên hoang lạnh
ơ hờ
như môi thiếu phụ nhạt
mờ dấu son
tình ta không thể
vuông tròn
say đi mà tưởng như
còn người yêu
phi cơ đáp xuống một
chiều
khung mây bàng bạc
mang nhiều xót xa
dài hơi hát khúc
thương ca
thân côi khép kín
trong tà áo đen
chao ơi thèm nụ hôn
quen
đêm đêm hẹn sẽ chong
đèn chờ nhau
chiếc quan tài phủ cờ
màu
hằn lên ba vạch đỏ
au phũ phàng
em không thấy được
xác chàng
ai thêm lon giữa hai
hàng nến chong?
Mùi hương cứ tưởng
hơi chồng
Nghĩa trang mà ngỡ
như phòng riêng ai”
Nếu hồi trước bản nhạc
về phố núi của Phạm Duy phổ nhạc từ thơ Vũ Hữu Định thì về sau này những người
yêu thương Pleiku cũng hay ngâm nga hoặc thích lắng nghe bản nhạc Phố Xưa của
thi sĩ, nhạc sĩ Hoàng Khai Nhan. Bản nhạc với ca từ như “Chiều mờ trên phố cao
/ Đón em về từ khi có nhau / những con đường tình vui biết bao / kết hoa ngày
nào / chiều vào đêm rất mau / quán trong phi trường đèn đêm thắp sao...” đã
thành một bài hát đáng yêu của những người lính trấn ải miền ba biên giới.
PHỐ XƯA (Hoàng Khai
Nhan)
Tiếng hát Mỹ
Tâm
https://youtu.be/WWvQSwgVWXQ
Bản nhạc thật hay và
lãng mạn như trời đất của vùng biên trấn ấy. Nhạc sĩ Hoàng Khai Nhan còn là một
thi sĩ và làm khá nhiều thơ về Pleiku.
Anh viết với cảm xúc
của người lính, lên đường làm nhiệm vụ của người tuổi trẻ thời chiến tranh. Có
một bài thơ anh làm để bắt đầu cho một cuộc lên đường, để làm người lính thú
hôm nay. Thơ như chia sẻ với đồng đội của anh những nhiệt thành vào cuộc, với
thân phận giống như bầy ngựa chiến đập móng đợi khởi sự vòng đua nhân sinh
trong thời đại khói lửa mịt mù trên quê hương.
Đó là một bài lục
bát, gửi tặng những người bạn chờ buổi lên đướng lên phố núi;
“một con ngựa đã lên
đồi
hai con ngựa đứng bồi
hồi ngó theo
ba con ngựa sải qua
đèo
bốn con ngựa hí buồn
thiu trong tàu
Năm con ngựa nối
đuôi nhau
Sáu con ngựa đợi hôm
sau lên đường.”
Những cuộc lên đường
của những người lính trẻ. Bắt đầu một cuộc đua của những con tuấn mã chạy vòng
trong cuộc chiến tranh. Hoàng Khai Nhan đã ví von ông và những đồng đội cùng mặc
áo lính thú khởi sự hiểu được những bất toàn của cuộc đời nhưng hùng khí lúc
nào cũng hừng hực như thuở đợi lúc lên đường.
Bây giờ là mùa thu
nhưng nghe bản nhạc Anh Cho Em Mùa Xuân của nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ từ thơ Kim
Tuấn thì thấy trời đất vẫn dễ thương vô cùng. Thi sĩ Kim Tuấn cũng là người làm
thơ về Pleiku độc đáo và trước năm 1975 đã có một thời cư ngụ lâu dài ở Pleiku.
Với Pleiku, anh là một người cố cựu và đã sống đã thở với phố núi này với tâm
tình của một người chọn lựa một quê hương thứ hai. Với riêng tôi thì thơ của
ông có nhiều nét rất gần gũi với cuộc sống mình cũng đã một thời ở đó.
Chúng ta hãy thử đọc
bài thơ “Buổi chiều ở Pleiku“:
“Buổi chiều ở Pleiku
có cà phê và có bạn hiền
Có biển hồ nước
trong, có lúc buồn soi mặt
Ôi mặt mình sao bỗng
gớm ghê
Ôi đời mình sao nhìn
muốn khóc
Ta với ta xa lạ vô
cùng
Buổi chiếu ở Pleiku
có gì lạ đâu hở em
Có nỗi cô đơn trong
cõi sương mù
Có phố buồn hiu có đêm
giấu mặt
Có giấc sầu dài
trong cõi thiên thu
Có bức tường vôi ghi
dấu đạn thù
Có cuộc đời ta chìm
trong khói lửa
Kiếp người sao đã
lãng du
Buổi chiều ở Pleiku
Buổi chiều nghe mưa
bay trên đầu ngọn núi
Buổi chiều như mọi
buổi chiều
Tiếng phi cơ, tiếng
xe và tiếng súng
Anh còn tiếng nào để
nói yêu em.”
Những buổi chiều ở
Pleiku, với “tiếng phi cơ, tiếng xe và tiếng súng,” đúng là tình cảnh
chúng tôi nhưng khác với thi sĩ là chúng tôi vẫn còn nhiều lời yêu em chứ không
phải ”anh còn tiếng nào để nói yêu em”.
Kim Tuấn làm thơ về
Pleiku với nhiều nỗi niềm trăn trở quá. Nhưng thơ của “Nụ hoa Vàng Cho Em” phổ
nhạc thành “Anh cho em mùa xuân“ hay “Kỷ Niệm” phổ thành “Những bước chân âm thầm”
lại có nhiều yêu đương tình tự và lãng mạn của những người cảm thông được với
thiên nhiên với thời tiết những vẻ đẹp của đất trời.
Thơ của ông cũng có
nhiều bài rất lãng mạn thơ mộng chứ không phải chỉ có trăn trở suy tư. Có khi
là thơ của tuổi học trò, của tuổi mười bảy mười tám mộng mơ…
Như bài “Ngày Em Còn
Thắt Bím” chẳng hạn:
“tóc bím nghĩa là
tóc dễ thương
tóc bâng khuâng lá rụng
bên đường
tóc chia đường gió
chia thương nhớ
chia nỗi buồn cho ai
vấn vương
Tóc bím nghĩa là tóc
mộng mơ
Để ai thương nhớ để
ai chờ
Để ai ngơ ngẩn giờ
tan học
Em vẫn vô tình vẫn
giả lơ
Tóc bím nghĩa là tóc
ngẩn ngơ
Tình ta xanh biếc mộng
ơ hờ
Chiều xanh áo trắng
mùa mây trắng
Em ngọt ngào và em
ngây thơ.”
Có rất nhiều thi sĩ
viết về Pleiku với tâm trạng của những người tham dự một cuộc chiến tranh mà ở
đó sự sống chết nhục vinh gần cận nhau đến gần như không biên giới. Những người
lính trước khi hành quân còn vui tươi chọc ghẹo nhau nhưng biết đâu chỉ trong
giây phút đã thành những người đã rời xa cuộc sống.
Hay, thành phố
Pleiku này đầy kỷ niệm dễ thương cũng có lúc trở thành địa ngục mà ở đó những
người dân và những người lính cuống cuồng trong vòng lửa hun của tàn phá chiến
tranh của những ngày tháng ba chẳng thể nào quên của cuộc di tản đẫm máu về
phía duyên hải qua con đường số 7 la liệt xác người…
Chiến tranh lại rõ
nét hơn với nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp. Bài “Pleiku, tháng ba 1975”. Ba mươi năm
trôi qua, nhưng ngày tháng đó vẫn còn sinh động. Thơ, không ghi chép lại nhật
ký ngày tháng mà sao đầy dấu viết của một quãng đời. Ngày ấy, lửa cháy đỏ. Ngày
ấy, là ngày thành phố cao nguyên quặn mình rồi gục ngã.
Người thi sĩ kể chuyện
một mình. Đâu cần ai hiểu, chỉ để nỗi niềm loang vào sương đêm thành nỗi nhớ mịt
mùng.
“cầm bút viết, tháng
ba rực cháy
hàng dầu cao trong
bình minh
cơn sốt của trái
chín và cánh đồng
trận gió hung trưa
ngày ấy
cầm bút viết, đồi
hoa quỳ vàng
tháng ba xuống khu rừng.
Bóng quạ
rung những nhánh cây
màu tàn lửa
tiếng thét hư không.
Chiều rượt qua ngàn…”
Tháng 3 năm 1975, có
phải là thời điểm mà cao nguyên di tản và là một nỗi kinh hoàng còn ám ảnh mãi
đến bây giờ. Nhà thơ hình như đã mang cả tâm tình của một người yêu Peiku vào
thơ qua những hình ảnh thật là đặc biệt.
Những hình ảnh đan
vào nhau với những liên tưởng tiếp nối. Ảnh tượng có khi như không liên quan
nhau, chỉ là những nét phác sơ lược nhưng lại làm nổi bật được một không gian đầy
biến động. Đồi hoa quỳ vàng, khu rừng, bóng quạ, nhánh cây màu tàn lửa, tất cả
như chìm đắm trong nỗi bàng hoàng của thế thời. Cơn bão lửa dậy lên từ hoang
vu:
“tháng ba, chân trời
chớp tía
Những chuyến xe lên
đường, cơn mưa chợt đến
Rào qua mái nhà,
bàng hoàng. Mưa ngưng bặt
Đêm. Những căn nhà gỗ
sáng đèn.
Tháng ba. Trên đồi
vông nở
Tôi trở về thị trấn
tháng ba
Những sợi dây trời cắt
đau trí nhớ
Cườm tay em nhỏ máu
hè xưa…”
Thơ như của lời chia
biệt, như người đánh mất tất cả. Pleiku cũng như cả nước phải khoác khăn tang.
Nhà Thơ Nguyễn Xuân Thiệp như đã viết lời trăn trối của một thành phố miền cao
đầy lãng mạn dễ thương. Xa rồi những ngày thơ mộng. Gần lắm rồi những nỗi kinh
hoàng. Cái linh cảm của một cuộc địa chấn là cái linh cảm chung của những người
như những con chuột đang cuống cuồng trong rọ. Thị trấn sẽ thành biển lửa, nay
mai. Sẽ đầy những cuộc chia ly đầy nước mát. Thảm họa xụp xuống, như cơn hồng
thủy đến.
“… vò nát chiếc khăn
và đừng khóc
chiều nay. Chớp bể
mưa nguồn
chia tay nhau. Sương
phụ
người đi râu bám bụi
đường
tháng ba. Em. Những
căn nhà gỗ
ánh đèn khuya. Vệt
máu hè xưa
đừng tiếc chiếc khăn
tay ngày ấy
sẽ bay trong lửa
hoàng hôn
tháng ba. Cơn giông
rền mặt đất.”
Đọc xong hai bài
thơ, tôi như ngươì hụt hơi. Đời sống, như một hơi khói nhẹ, loãng bay vào hư
không. Tự nhiên, thấy lòng mình chùng xuống những kỷ niệm. Những bài thơ. Thuở
đã xa. Ngày còn trẻ. Và hoa quì vàng, cái màu vàng loang sắc nắng của buổi nào,
bây giờ có còn vương trên núi đồi không? Cái sắc màu hỏa hoàng trong những buổi
chiều nhạt nắng ấy sao nhức nhối ký ức…
Lại chiến tranh, và
lại chiến tranh. Nhiều tác giả viết về Pleiku khói lửa với tâm cảm của người
trong cuộc, của những người đã đổ mồ hôi và đổ máu cho đất tây nguyên. Có một
nhà thơ đã viết những câu thơ để đời như:
“Chư Pao ai oán hờn
trong gió
Mỗi một khăn tang một
tấc đường”
.Chư pao là một đỉnh
núi khống chế con đường tiếp vận quốc lộ 14 từ Pleiku đi Kontum và chính nơi
đây cả ngàn tử sĩ của hai bên đã nằm xuống trong những trận chiến ác liệt thời
mùa hè đỏ lửa. Người thi sĩ ấy là Lâm Hảo Dũng, một pháo thủ đã có một thời
gian chiến đấu ở tây nguyên. Ông làm thơ về tuổi thanh xuân chiến tranh của
mình với những địa danh mà ông không thể nào quên trong trí nhớ…
Trong những tập thơ
của Lâm Hảo Dũng có nhiều bài thơ ông đã viết về vùng tây nguyên như ”Ngày về
Ban Het”, ”Miền Ba Biên giới”, ”Ba năm làm lính về Dakto”… Có một bài thơ mà
tôi thích là bài “Chiều Hàm Rồng”. Hàm Rồng là một ngọn búi mà bất cứ ai đã sống
ở Pleiku đều biết vì cái hình dạng độc đáo gợi cảm nhớ đến hình dạng của người
thiếu nữ. Nhất là các chàng phi công, khi bay từ phía Ban mê Thuật về Pleiku mà
nhìn thấy núi Hàm Rồng thì biết là đã gần đến phi trường Cù Hanh rồi. Cái hình
dạng giống cái mu rùa ấy sao gợi hình lạ.
Lại những buổi chiều.
Hình như cái thời khắc của cuối ngày ấy thường gợi trong lòng những người lính
xa nhà những cảm giác bâng khuâng khó quên. Bài thơ ấy chỉ có 3 đoạn mười hai
câu:
”con đường ấy vẫn
hoen mầu bụi đỏ
Gió lơ thơ nghe nắng
mới ngập ngừng
Anh sống thở trong
tâm hồn trai trẻ
Nghe nỗi buồn đâu đó
đến bâng khuâng
Hoa cúc dại thắm
trên đường xa tắp
Và quê hương tha thướt
lá xanh trà
Em có thả những chòm
mây nhung nhớ
Cho rừng hoang im lắng
tiếng chim ca
Đời viễn khách mơ hồ
không biết được
Bước chân vang rộn
rã buổi quay về
Em mắt biếc hồn
nhiên bên cánh cửa
Gửi hương nồng quay
quắt bóng người đi.”
Thơ Lâm Hảo Dũng đầy
cảm khái. Nhưng hình như ở bên trong người lính vẫn còn hình bóng của cậu học
trò mắt biếc với môi tươi…
Thơ ông lãng mạn
nhưng vẫn lạc quan:
”nên ta cố sống dù
câm điếc
Dù có xuôi tay mắt
có mù
Để thấy em ngày vui
áo biếc
Để ta buồn suốt một
đời thu
Lắm khi gái thượng
mà duyên dáng
Đi tắm hò reo đêm
sáng trăng
Ta muốn buông mình
con thú dữ
Bắt đầu trong suốt
kiếp cô đơn
Có không ngày của
thanh bình đến
Ta nhớ vườn xưa nhớ
mẹ già
Còn hái mồng tơi
ngoài dậu cũ
Lệ buồn năm tháng có
phôi pha?”
Các nhà thơ Không
quân ở Pleiku cũng có nhiều bài thơ độc đáo. Nói về thơ từ Pleiku mà không có
những bài thơ này là một điều thiếu sót lớn theo cảm nhận của nhiều người. Nếu
gọi tên những thi sĩ Không Quân thì không thể nhắc đến những tên tuổi như Lê Bá
Định, như Hoàng Khai Nhan, như Lê Văn Trước, Võ Ý.
Ông Võ Ý là một phi
công, phi đoàn trưởng phi đoàn quan sát 118 Bắc Đẩu. Ông cũng là người đã tình
nguyện lên phố núi ”nhận nơi này làm quê hương dẫu cho khó thương” và làm thơ với
cả tấm lòng của mình, một người bay ở trên cao để thấy thiên nhiên tươi đẹp biết
bao, để thấy cuộc sống vẫn còn nét mơ mộng hào hoa và với ông những nơi chốn những
địa danh của phố núi như ngập tràn nỗi nhớ…
Thơ của những người
lướt gió đè mây có lúc lãng mạn hào hùng nhưng cũng có lúc thiết tha nhẹ nhàng
của những tháng ngày đầy kỷ niệm như bài thơ “Xưa Trên Đó”
“Xưa trên đó sương
nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước
xuống vô biên
mê cho lắm cho tay
dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng
tới ưu phiền
mưa thì sình bụi mù
thay nắng gió
gặp là vui cam khổ
cũng cam đành
vui cho quên đâu bằng
xưa trên đó
áo bay bay mờ ảo dấu
Phượng Hoàng
quên được thì quên
nhớ ai thì nhớ
quên cho rồi quyên gọi
quốc từ đây
nhớ đâu đâu lạ lùng
trăng đêm đó
tượng đá thần linh
sao ta tỉnh say.
Một dạo bay qua nhìn
qua trên đó
Đồi như vương cây
như vấn chân nàng
Phố cũng xưa và tim
thì đau nhói
Quạt nồng đâu qua đó
để cơ hàn…”
Có người đọc câu “áo
ai bay mờ ảo dấu Phượng Hoàng“ tưởng là chàng phi công nghĩ đến cánh chim thần
truyền kỳ nào đó. Nhưng thực tế thì không phải. Phượng Hoàng chỉ là một khiên
vũ trường của Pleiku mà các tay chơi mặc quần áo lính “đốt tiền mua vội một
ngày vui”…
Với tôi thì một phần
đời sống của mình ở đó mà không làm thơ cho được. Ngày lên Pleiku, có một bài
thơ tôi đã làm như tiên đoán được cái không gian của biên tái, của những câu
thơ như Lương Châu Từ của Vương Hạn thời Thịnh Đường xa xưa. Pleiku có khác nào
Lương Châu, cũng là quan ải để trấn giữ biên cương. Ngày xưa thì ngăn giặc Hồ,
giặc Mông. Ngày nay, thì canh chừng ba biên giới, với những trận đánh ác liệt
mùa khô hàng năm tiếp diễn… Bài thơ ấy, làm vào một đêm trước khi sáng mai lên
trực thăng vào phố núi:
“Ừ mai tao lên
Pleiku
đêm căm hơi đá ngày
mù núi xanh
uống say quên mộng
quẩn quanh
về nơi gió cát cũng
đành cuộc chơi
Ừ mai cánh vỗ ngang
trời
ngóng thiên thu một
cõi đời tịnh yên
máu xương mãi chuyện
ưu phiền
còn đâu tiếng gọi
cho em miệt mài
Ừ mai súng khoác lên
vai
Ngẩn ngơ phố núi những
ngày đao binh
Chắc đâu rượu uống một
mình
Trong thân phiêu bạc
nhục vinh nửa vời
Ừ mai thương bóng
trăng trôi
Chim quên vẫy mỏi cuối
trời chiến tranh
Uống đi mai hát quân
hành
Nghe trong hơi bốc
long lanh mắt người…”
Tuổi trẻ, ngây thơ
và bốc đồng. Tưởng rằng, mình như một hiệp sĩ thời xưa đi vào nơi gió cát. Thơ
cũng nghênh ngang kiểu “túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ
nhân hồi”. Tuổi trẻ, ơi những giấc mơ của ngày chân không chấm đất cật chẳng đến
giời. Có phải là giấc mơ chung của những người lính trẻ chúng tôi…
Nguyễn Mạnh Trinh
04/01/2012
Đăng nhận xét