KIM THANH: ĐÊM TRÊN SÔNG CẦN GIUỘC
ĐÊM TRÊN SÔNG CẦN GIUỘC
kim thanh
1. Tháng mười 1983. Đúng hẹn, mẹ tôi, Bội Trân, và tôi đáp xe lửa đêm, vào “trình diện” bà mối vượt biên chợ Vườn Chuối. Một tháng trước, bà này đã tổ chức thành công chuyến đi đến Indonesia cho Trọng và Tú, em và cháu tôi, nên mẹ thấy phấn khởi, và tin tưởng lắm. Trước đó, để đối phó với trường hợp bị bắt ngoài địa phương Nha Trang, mà tên tuổi, hồ sơ của tôi có trong sổ phong thần của tụi công an phường khóm, tôi đã thảo ra, và học thuộc, một lý lịch giả, theo đó, nhờ để râu, tôi tự hóa phép thành một lão gia trên dưới sáu bó, tên Trần Hồng, một vợ ba con, làm rẫy tại Trảng Bom –nơi tôi chưa hề đặt chân đến, nhưng mượn đại địa chỉ một ông bạn đồng hương với ba tôi.
2. Mười hai giờ đêm. Một anh tuổi sồn sồn, da rám nắng, đến “rước” tôi. Trời tối đen, không trăng sao. Anh dẫn tôi loanh quanh qua những con hẽm không đèn, không tên. Trên người tôi mặc một quần jeans xanh và áo sơ-mi xám, vai khoác chiếc jacket đồng màu và cùng loại vải với quần –mà Huệ Trân, em gái lớn, chuyên lo tìm mối vượt biên cho cả nhà, đã dặn kỹ, “anh đừng làm mất vì trong một đường viền em có khâu luồn một trăm đô cuộn tròn”.
Cuối cùng, anh ta đưa tôi xuống dưới chân Cầu Chữ Y, nơi có một chiếc taxi (ghe nhỏ), đang đậu. Mở hé tấm phên gỗ mỏng che khoang ghe, để tôi chui xuống. Khoang tối om và quá chật, vừa đủ nhét hai người trọng lượng trung bình. Ghe nổ máy liền, trực chỉ cửa biển, vì, anh ta nói, phải ráp cho kịp với cá mập (ghe lớn) vào đúng bốn giờ sáng. Loay hoay, mò mẫm trong bóng tối một hồi, rồi tôi cũng tìm được một chỗ trống nhỏ xíu, nằm ép sát bên một người lạ, không thấy mặt vì màn đêm che khuất và vì cả hai phải quay ngược chiều nhau, mới thở nổi, theo yêu cầu của chủ ghe. Im lìm, bất động như hai thây ma. Sau năm phút, ghe dừng lại trạm gác Cầu Chữ Y, trình giấy tờ. Công an rọi đèn pin lên khoang, và cho ghe chạy đi. Gió sông Sài Gòn mát rượi, cộng với tiếng ca vọng cổ nho nhỏ nghe buồn não nuột của chủ ghe kiêm tài công khiến tôi thiếp đi, khi nào không hay. Một lúc sau, chập chờn nửa tỉnh nửa mê, tôi cảm thấy một đùi của mình bị cái đầu, và đùi kia bị cánh tay, của thây ma láng giềng, bấy giờ chuyển qua tư thế nằm nghiêng, đè lên, ngủ ngon lành. Nhưng mệt quá, tôi mặc kệ, sau khi co hai giò, nhẹ nhàng hất cái đầu và cánh tay xuống, trả về vị trí cũ.
3. Bốn giờ sáng rồi, mà không hiểu sao taxi vẫn còn lướt đâu đó trên sông Sài Gòn, nghĩa là đã trễ hẹn với cá mập. Hơn bốn giờ rưỡi, sắp sửa đến bót Cần Giuộc, trạm kiểm soát cuối cùng trước khi ghe ra biển, thì hừng đông ló dạng, những tia nắng đầu tiên đỏ rực từ phía chân trời xa. Chủ ghe hốt hoảng chỉ tay về phía bót gác:
-
Chết rồi! Giờ này không qua bót đặng nữa. Tui phải thả hai người xuống đây, rồi
liệu mà chạy trốn đi, chớ không tui cũng bị bắt luôn đó đa.
Nói
xong, anh ta ngừng lại, bắt cả hai nhảy xuống, và ghe tiếp tục chạy. Bờ cát trắng
trải dài ngút mắt. Bấy giờ “hai người”, tức hai thây ma đêm qua, mới nhìn rõ mặt
nhau, và ngượng ngùng chào nhau. Té ra thủ phạm gác đầu và cánh tay lên hai đùi
tôi ngủ là một cô gái trẻ, đẹp, có vẻ nữ sinh, thông minh, dáng thon thả, tóc vấn
cao, mặc bộ bà ba đen, làm nước da thêm trắng hồng. Vậy mà, tôi tự trách, mũi
tôi, vốn tự hào rất thính mùi đàn bà, còn hơn ăng-ten radar, sao suốt đêm qua lại điếc đặc, không phát giác ra được mùi của
cô, mặc dù cả hai nằm sát rạt cạnh nhau như hai con cá mòi, vậy cà? Nhưng
thực tại nguy hiểm không cho tôi thắc mắc, hay tiếc rẻ, thêm nữa: phải thoát
ngay chỗ này, bằng mọi giá, sau khi thầm chửi thằng chủ ghe khốn nạn, nghi nó
là đặc công của công an.
Chỗ
chúng tôi đứng là một vùng cây xanh um, tàn lá bung ra hình cây dù rộng, che
kín thân người, dưới chân là vũng bùn lầy lội. Tôi đặt đại tên “cây dù nước”.
Hai đứa chui vào núp, quan sát phương hướng. Tôi tháo bi-đông nước đeo bên hông
đưa cho cô gái: “Cô uống đi!” Cô cầm lấy, uống mấy hớp và kín đáo súc miệng, rồi
trả lại cho tôi. Tôi cũng làm như vậy. Sau đó, cô lục trong bóp, lấy cho tôi và
cô mỗi đứa một miếng chewing gum,
và không nói gì.
Nhìn
qua phía bên kia sông, tôi hỏi:
-
Bên kia là đâu vậy cô?
Cô
gái đáp, giọng Bắc kỳ chín nút, lai âm hưởng Sài Gòn:
-
Cần Đước!
-
Tôi sẽ lội qua sông, trốn tại Cần Đước. Chỗ này bị lộ rồi.
Vừa
nói tôi vừa toan bước ra. Cô vội níu cánh tay tôi, năn nỉ:
-
Đừng, anh đừng bỏ em. Em không lội theo anh được. Vả lại, Cần Giuộc hay Cần Đước
gì cũng là đất lạ như nhau. Qua đó, không chừng anh cũng sẽ bị bắt thôi mà.
Mình đi với nhau thì cùng về với nhau. Sáu tháng trước, em cũng bị bể mánh gần
vùng này, đã men theo ruộng ra quốc lộ, leo xe đò về Sài Gòn, dễ ợt. Ủa, mà anh
là sĩ quan cải tạo hả?
Tôi lắc đầu, chối bay và trả bài, như cái
máy:
- Không, tôi 60 tuổi rồi, làm rẫy tại Trảng
Bom, gần Hố Nai, một vợ ba con...
Cô cười:
- Một vợ ba con thì dám lắm. Nhưng tướng
anh đâu phải là nông dân, lại già 60 tuổi nữa, bộ em khờ lắm sao? Em trông anh
khôi ngô và ngầu như sĩ quan mình trước kia. Ba em, các anh của em toàn là sĩ
quan ngụy, và người yêu của em là một thiếu úy Thiết Giáp chết trận An Lộc, nên
em biết. Nhưng
thôi, anh giấu, thì em không hỏi nữa…
Nghe
cô nóí, tôi giật mình, và suy nghĩ lung lắm. Một cô gái bình thường mà còn nghi
ngờ, thì làm sao một thằng công an cáo già thẩm vấn chuyên nghiệp có thể tin
vào cái lý lịch dựng lên khá vụng của tôi? Nhưng lỡ rồi, tới đâu hay đó. Sực nhớ,
và cười thầm, về bài “mưu sinh thoát hiểm” học được của một anh bạn –hai
lần bị vợ nghi có bồ– trong đó có một câu nghe như châm ngôn, sống để bụng
chết mang theo: “Vợ cũng như Việt Cộng. Ta chớ bao giờ cúi đầu nhận tội, xin
tha. Cứ chối, chối và chối, kể cả khi bị nó (vợ, VC) nắm tay bắt quả
tang”.
Sau
vài giây, cô gái nói tiếp:
-
Bây giờ, em đề nghị như thế này nhé: mình giả làm vợ chồng đi ăn cưới tại Cần
Giuộc, rồi dọc theo đường ruộng băng ra quốc lộ trên kia kìa. Độ một cây số nữa
là an toàn.
Đề
nghị này lại càng vụng hơn, nhưng quá mệt mỏi, và tình hình “khẩn trương” lắm,
tôi không muốn cãi và đành phó mặc cho may rủi. Đi ăn cưới gì mà cả hai mang
dép cao su, “chồng” mặc quần bò, “vợ” quần bà ba đen, ống xắn lên quá mắt cá,
chân bê bết sình, mà lại vào lúc năm giờ sáng, như thế này, hả trời?
Cô
gái dẫn tôi len lỏi qua những ruộng lúa, rồi lên những con đường làng nhỏ hẹp,
còn vắng bóng người. Cả hai hối hả bước đi. Lát sau, vài nông dân trong làng ra
thăm ruộng sớm, trông thấy, bèn gật đầu, mỉm cười thông cảm. Có bà hỏi thẳng
cô: “Vượt biên bị bể phải hôn cưng?” Hỏi đây là đâu thì được họ cho biết, ấp
Long Giêng, xã Phước Hậu, thuộc quận lỵ Cần Giuộc. Tám giờ sáng, cả làng bắt đầu
sinh hoạt nhộn nhịp. Tôi hơi lo, chân muốn khựng lại. Cô dặn: “Anh cứ bình
tĩnh. Để em đối phó cho”.
Mấy phút sau, chúng tôi tình cờ đi ngang
một căn nhà ngói, treo cờ đỏ sao vàng, trước cửa lố nhố một đám người, thì từ
bên trong, cách con lộ trống trải chừng năm thước, có tiếng hét vọng ra:
- Ê, hai đứa bây, đứng lại!
Một
người còn trẻ mặc quân phục, không đeo cấp bậc, mập lùn, một tay cầm
súng lục, tay kia cầm ly
cà-phê sữa đá, vẻ mặt rất hung ác, chạy ra. Chúng tôi
dừng lại. Hắn hầm hầm sấn tới,
hỏi, đặc giọng địa phương:
- Tụi bây vượt biên phải hôn?
Cô gái bình tĩnh đáp:
-
Đâu có! Vợ chồng tôi ở Sài Gòn xuống đây ăn cưới bị lạc đường…
Hắn
cười gằn, tát vào mặt cô một cái, và quát:
-
Tụi bây nói láo. ĐM, vượt biên, chớ cưới hỏi cái đ… gì giờ này, mà ăn cưới tại
nhà ai?
Thấy
nó đánh cô, và chửi thề quá lỗ mãng, tôi nóng tiết, máu nhà binh giang hồ nổi
lên đùng đùng không còn cản nổi, và điếc không sợ súng, tôi lớn tiếng cự hắn và
đám lâu la chung quanh:
-
Anh đã biết chúng tôi vượt biên rồi thì cứ việc bắt giam, hoặc bắn bỏ, còn hỏi
lôi thôi làm gì? Nhưng Bác Hồ và nhà nước nói rõ là cán bộ, công an không được
phép chửi dân và đánh dân, nhất là đánh chửi đàn bà, con gái…
Bị
quê độ, hắn quắc mắt nhìn tôi, như muốn nhai tươi nuốt sống, và tôi chưa kịp dứt
câu, hắn vung tay ném mạnh ly cà-phê vào người tôi. Tôi né kịp, cái ly rơi xuống
đường, vỡ tan, và nước cà-phê vãi tung toé lên quần áo tôi. Hắn lên đạn rắc rắc,
quơ quơ cây súng, bắn thị uy một phát lên trời. Rồi bảo thuộc hạ trói tay tôi,
và dẫn cả hai vào căn nhà đối diện. Hắn bước theo sau, và lượm ở đâu một khúc củi
lớn, vụt ngang sống lưng tôi một cái đau điếng như trời giáng, miệng thét: “Đi
mau lên!”. Tôi ngã quỵ, mắt nảy đom đóm. Đang đi phía trước, cô gái quay đầu lại,
thấy vậy, chạy đến, bật khóc, ôm tôi đỡ dậy, và có lẽ còn tức vì cái tát của hắn
khi nãy, cô nhìn hắn trừng trừng, quên cả sợ, và mắng, trước đám dân hiếu kỳ:
“Đàn ông gì mà hèn vậy? Đã đánh đàn bà, bây giờ còn đánh lén người bị trói,
không biết nhục sao?” Lần đầu tiên, và duy nhất, trong đời, kể cả tám năm tù cải
tạo, tôi bị Việt Cộng đánh. Cú đòn thù quá mạnh, vết thương trên lưng vì không
được chữa trị kịp thời, lâu ngày, đã biến chứng, thành một cục u không bao giờ
tan, dây thần kinh bên trong chắc bị tổn hại, gây đau nhức triền miên cho mãi đến
ngày hôm nay.
Vào
căn nhà, thấy ngồi sẵn ở bàn một thằng công an khác, mặc thường phục, bệ vệ như
một xếp lớn, vẻ trầm tĩnh hơn, còn thằng đánh lén biến đâu mất. Thằng xếp lớn bảo
lính cởi trói cho tôi và bắt đầu tra khảo lý lịch. Nhớ lại lời khuyên của một đại
úy bạn đã vượt biên bị tóm mấy bận, “rủi bị bắt, tuyệt đối đừng bao giờ dại dột
khai mình là sĩ quan cải tạo, ở tù mút chỉ đó cha”, tôi đáp, mà như đọc, cái lý
lịch dởm viết sẵn ở nhà. Hắn không tin, và dọa: “Anh nói anh làm rẫy ở Trảng
Bom, tôi sẽ nhờ các đồng chí công an trên đó đến địa chỉ để kiểm tra. Khai láo,
anh sẽ biết tay tôi”. Tôi nhìn hắn, như thách thức, vì biết, thời ấy, làm gì có
phương tiện (điện thoại) để liên lạc. Suốt một tiếng đồng hồ, hắn cứ lặp đi lặp
lại những câu hỏi liên quan đến vượt biên, như: ai tổ chức, tên gì, ở đâu, mánh
nào, số người đi, tốn bao nhiêu cây, dự tính đi đến đâu v.v… –mà tôi đoán cốt để
moi vàng. Tôi đều trả lời, không biết, vì dĩ nhiên, tôi không biết thật. Chán nản,
hắn quyết định giải ngay hai chúng tôi lên “huyện” Cần Giuộc, cách nơi bị bắt
mười cây số.
Nghe chữ “huyện” Cần Giuộc, tôi sực nhớ đến một quyển sách của cụ Hồ Biểu
Chánh, đầu thế kỷ XX, lúc Nam kỳ còn thuộc Pháp, Ngọn Cỏ Gió Đùa, mà bối cảnh là Cần Giuộc và Cần Đước (gọi là “huyện”
trong sách, “quận” dưới thời VNCH, rồi lại “huyện” trong ngôn từ Việt Cộng) với
những thôn làng vắng vẻ, đồng lúa mênh mông, và nông dân đều là tá điền nghèo
khổ, làm thuê làm mướn, bị hà hiếp, bỏ tù oan ức bởi một thiểu số điền chủ gian
ác, giàu nứt đất nẻ đai. Sở dĩ tôi nhớ quyển này là vì những cảnh bất công xã hội
ở thôn quê Việt Nam trong sách của Hồ Biểu Chánh, cũng như ở thành thị của những
nhà văn hiện thực, chẳng hạn Émile Zola, về đời sống cơ cực của thợ thuyền Pháp
vào thế kỷ XIX, đã bị Karl Marx và Lénine lợi dụng triệt để, hô hào một cuộc
cách mạng vô sản, lập nên chủ thuyết Cộng sản, còn tệ hại gấp trăm lần hơn mọi
chế độ –như được ám chỉ trong Animal
Farm của George Orwell, và chứng minh qua thực tế thê thảm tại Việt
Nam Cộng Sản hiện nay. Ngoài ra, về mặt văn chương, nội dung Ngọn Cỏ Gió Đùa dựa trên Les Misérables của Victor Hugo,
trong đó nhân vật chính, Lê Văn Đó, là một Jean Valjean made in Cần Giuộc.
Trở lại với thằng công an chấp cung. Hắn ra lệnh trói tay tôi vào tay cô gái, bằng
một sợi dây điện phế thải và gọi một chiếc xe Lam, bắt chở lên trại tạm giam của
quận, với một tên lính mang súng AK hộ tống, tuổi độ 18, hiền khô, gọi hai đứa
tôi “anh chị”, và xưng “em”. Trên xe, cô gái khẽ hỏi
tôi:
-
Anh còn đau lắm không? Tội nghiệp, em thương anh quá, vì em mà anh…
Tôi
ngắt lời cô:
-
Không sao đâu cô. Cũng tại tôi không biết nhịn. Nhưng thôi, chuyện qua rồi, hãy
quên để còn suy tính về tương lai. Tôi không sợ ở tù, mà sợ ở tù sẽ phí phạm thời
gian cho những chuyến đi tiếp theo…
Suốt
quãng đường, qua cô, tôi nghĩ đến Bội Trân, và thầm cảm ơn Chúa đã cho em bất
ngờ bị bệnh. Nếu không, làm sao em có thể chịu đựng hết khổ nhục thể xác và
tinh thần này? Trước sự đau đớn, gian nan của một cô gái đồng hành mới quen mà
tôi còn thấy xót xa đến thế, huống chi là của cô em gái kiều diễm, đức hạnh, mà
tôi hiểu và thương nhất, ngoài Trọng ra –bởi em đã trải qua
bao nhiêu đắng cay, cơ cực, cũng như hàng triệu phụ nữ trẻ Miền Nam khác, từ
sau 1975. Rồi miên man tôi nghĩ đến những thuyền nhân vô tội, như tôi, trên đường
liều mình trốn chạy tìm Tự Do, đã bị bắt, bị tù, bị hãm hiếp hay đã vùi thây
trong lòng đại dương. Tôi nghĩ đến thân phận của toàn dân Việt Nam trên
khắp ba miền đất nước đang rên siết trong nanh vuốt của loài quỷ đỏ bạo tàn.
Tôi lắc đầu, thở dài. Chúa ơi, khổ nạn này Chúa chỉ dành riêng cho dân tộc bất
hạnh của chúng con hay sao?
4. Trại tạm giam những người
vượt biên tại Cần Giuộc nằm bên kia cây cầu bắc ngang một con sông cạn nước. Xe
chạy tới đầu cầu, tên lính bảo ngừng, để thả nó và hai đứa tôi xuống, đi bộ qua
cầu. Khách đi đường thấy chúng tôi, liền quay mặt, thản nhiên dường như đã quá
quen cảnh thuyền nhân bị áp tải lên quận, hoặc thông cảm cho những người vượt
biên thiếu may mắn, hoặc cả hai lý do. Có người lén dúi vào tay mỗi đứa một nắm
xôi, và một bịch kẹo.
Cây cầu
cao, dài, và hẹp, làm bằng những thanh sắt ráp nối với nhau, trơ trụi, không có
hàng rào vịn, ở trên lót những tấm gỗ thưa, đóng bằng đinh, cách nhau độ một
bàn chân, lâu ngày có chỗ bị mục rớt ra thành những lỗ hổng lớn, nhìn xuống dưới
sông đầy đá nhọn lởm chởm, thấy ớn, người yếu tim, không dám bước qua. Trường hợp
hai đứa tôi, tay bị trói vào nhau, lại còn ớn hơn, vì bước đi lạng quạng, mất
thăng bằng. Cô gái nói lớn: “Em lính bảo vệ ơi, cởi trói giùm, anh chị mới bước
qua cầu được.” Nó bèn đến tháo sợi dây điện, vứt xuống cầu. Đi mấy bước, cô thấy
chóng mặt, bèn đứng lại, tủi thân, khóc thút thít, tôi phải ôm vai cô, dìu đi,
từng bước chậm rãi, thận trọng.
Qua khỏi cầu,
phải đi một đoạn xa nữa mới đến trại tạm giam, xây dọc theo một con sông nhỏ. Gọi
là “trại”, nhưng thực ra chỉ là hai căn phòng khá rộng, cách nhau bởi một lối
đi hẹp, hai cửa lớn mở song song về phía mặt tiền và hai cửa sổ bên hông đối diện
nhau. Một phòng nhốt tù nam, phòng kia nhốt tù nữ.
Trước
cửa, cô gái và tôi chia tay, phòng ai nấy vào. Cô xin thằng lính mở cửa cho
phép “vợ chồng chúng tôi” nói lời từ giã nhau. Nó gật đầu: “Được. Ba phút
thôi!”. Cô bỗng đưa hai cánh tay ôm tôi, hôn lên môi, lên má, áp đầu vào vai.
Tôi mủi lòng, vuốt nhẹ mái tóc mềm. Cô nói thật nhỏ, thật
nhanh:
-
Trong cảnh tù đày, và dòng đời nghiệt ngã, em không hy vọng được gặp lại anh.
Thôi, hẹn kiếp sau, hai đứa mình sẽ hoàn toàn tự do, muốn đi đâu thì đi, không
bị ai theo bắt, trói, đánh đập, và mình sẽ là vợ chồng thật, sẽ xuống Cần Giuộc
ăn cưới thật, sẽ về Trảng Bom sống đời nông dân, làm rẫy thật, nhé anh! Thôi,
em vào phòng đây.
Từ đó, tôi
không bao giờ gặp lại cô, và tiếc mãi đã không nhớ hỏi cô tên, địa chỉ, và thân
thế. Tôi hy vọng rằng với quyết tâm và bền chí cô cũng sẽ đi nữa và biết đâu,
cũng như tôi, đang ở một nơi nào đó trên thế giới Tự Do, không có Long Giêng,
Phước Hậu, Cần Giuộc, hay Trảng Bom, và giấc mơ tương phùng sẽ không còn là mộng
ảo. Ngay trong kiếp này.
Tôi
lò dò bước vô phòng giam, chân còn lấm sình, trước sự hồ hởi phấn khởi, và vồn
vã hỏi han của đám tù cũ –chẳng phải họ yêu thương gì, mà bởi
trong tiềm thức được thấy thêm một thằng đi không được, như mình. Tôi đếm có mười
tám người tất cả, đủ mọi thành phần, và tuổi tác. Về sau mới biết có cả bác sĩ,
giáo sư, và thầy bói (ông này bói cho người trúng phóc, bói cho mình đi trật lất).
Có hai đứa nhỏ chín, mười tuổi bị giam theo bố. Cả đám đang ngồi đấu hót với
nhau, uống nước, hoặc đánh cờ, hoặc ngáp vặt. Trời về chiều, mà vẫn nóng như
thiêu. Phòng giam như cái hỏa lò, ai nấy nhễ nhãi mồ hôi, chỉ mặc quần đùi.
Phía bên kia cũng vậy. Lợi dụng lúc cán bộ cho phép mở cửa sổ, vì sợ tù chết ngộp,
một số các bà các cô chịu chơi, cởi hết trừ quần lót, đi qua đi lại uốn éo, cho
mát, dĩ nhiên, nhưng, tôi đoán, cũng cố tình cho các “anh giai” đang đứng nuốt
nước bọt bên song cửa nhìn sang, rửa mắt, dù chỉ mấy phút phù du, trước những bộ
ngực để trần đủ cỡ, đủ dạng, đủ màu.
Theo qui định
bất thành văn, tù nhân mới nhất phải nằm sát cầu tiêu lộ thiên, chờ đến khi nào
có tên tù chót nhất vô thay thế mới được xuống chức. May quá, tôi nằm bên cầu
tiêu mới có hai tiếng, lưng chưa kịp nóng, cái mũi rất nhậy bén chưa có dịp
hành nghề, thì từ cửa anh chủ ghe taxi buổi
sáng lù lù dẫn xác vào, mặt nhăn nhúm như cái mền rách. Tôi nhìn anh, ngạc
nhiên tột độ. Đêm đó, nằm cạnh tôi, anh cho biết tên anh là Bảy (chắc cũng tên
giả), mời tôi “quá giang” nằm chung cái mùng rộng thênh thang mà anh luôn đem
theo trong ghe, và thì thầm kể:
- Thả hai
người xuống, tui cho ghe chạy tiếp. Mười lăm phút sau, vừa tới bót, thì trời
sáng bét, và tụi công an đã chực sẵn, chận lại, lục lọi người tui, rồi xuống
ghe tìm vàng. Không thấy gì, chúng tức tối, đấm đá tui túi bụi, tịch thu chiếc
ghe và trói tui dẫn về trụ sở ấp Long Giêng, chỗ hai người bị bắt, rồi đưa lên
đây. Tụi nó nói với tui, tui bị bắt vì đồn canh tụi nó được báo động, sau khi một
ghe lớn, chắc là chiếc đợi tụi mình, bị chận ngoài cửa biển, và gần ba trăm người,
có cả thằng cha chủ ghe và vợ con, bị giải về Cần Đước… Tôi im lặng, lòng ngổn ngang trăm mối. Như vậy,
tôi đã nghi oan cho anh ta. Một lúc sau, tôi hỏi:
-
Cô gái nằm chung khoang ghe và bị bắt với tôi, anh có biết tên gì, làm gì, gốc
gác ra sao không?
Bảy
lắc đầu:
-
Tui có biết cái gì đâu. Tui không thấy rõ mặt của cổ nữa cà. Tui chỉ được bà
trung gian mướn chở cổ và anh ra ghe lớn. Dzậy thôi.
Gần nửa đêm, lục tục kéo vô một tốp nữa gồm một người lớn tuổi và hai thanh
niên, dường như ba cha con, quần áo ướt nhẹp, đẹp trai và lịch sự như dân trí
thức Sài Gòn ngày xưa. Tôi và Bảy lại tụt xuống nữa, nhường cầu tiêu cho ba tân
khách, và cùng lúc nghe tiếng mở cửa và léo nhéo ở phòng bên, chắc cũng đón
thêm nữ tù mới. Một trong hai thanh niên nói với tôi: “Má và chị gái của em
cũng vừa bị nhốt ở bên đó. Gia đình em năm người bị bắt tại bót Cần Giuộc.”
Trong giấc ngủ lơ mơ, tôi bỗng thấy cô gái vô danh Cầu Chữ Y đến nằm sát bên,
như đêm trên sông Cần Giuộc, nhưng lần này cô âu yếm úp đầu lên ngực tôi, không
phải lên đùi.
Sáng hôm sau,
đám tù mới, trong số có tôi, lần lượt lên văn phòng “làm việc”. Lại phải thấy lại
những bộ mặt hắc ám, nham hiểm, khó đăm đăm như bị táo bón kinh niên. Lại phải
nghe lại những câu hỏi và lời đe dọa, vô nghĩa và quen thuộc đến nhàm chán. Mà
vẫn phải ngồi đó chịu trận ít nhất trong một giờ. Chính những thằng công an
hung dữ kia, đang đập bàn, hò hét, mạt sát tù nhân, và xa hơn, tập đoàn lãnh đạo
xảo quyệt, sau này, khi gió đổi chiều, và đám người vượt biên –mà tên thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã miệt thị là đồ “ma cô đĩ điếm”– được định cư trên xứ người,
ăn nên làm ra, đỏ da thắm thịt, bèn quên đi những lần chúng nó bắt bớ, đánh đập,
sỉ vả họ, và giở thói gạ gẫm, dụ dỗ họ mang tiền và chất xám về, ôm hôn thắm
thiêt và cầm ống đu đủ thổi lên mây xanh, gọi họ nào là “những khúc ruột ngoài
ngàn dặm”, nào là “bộ phận không thể tách rời của dân tộc” v.v... Nhổ rồi lại
liếm là nghề chuyên môn của quân cướp Việt Cộng.
Một ngày
trôi qua chầm chậm, buồn nản. Như mọi ngày. Cho mọi người. Ăn, ngủ, thở dài,
gãi ghẻ, hay nằm nhìn trần nhà, giết thời gian và ruồi muỗi, và nghe những tiếng
cười hô hố của đám tù già tụ họp đánh cờ. Hay những chuyện tiếu lâm nặng
mùi sex bởi đám tù trẻ bị dồn
nén sinh lý, nhất là sau khi, nhờ trời nóng, được các em tù nữ chịu chơi lâu
lâu đãi cho một chầu rửa mắt. Cuối cùng, sau hai tuần lễ, một số chúng tôi được
lệnh chuyển lên trại giam Long An. Và nhân dịp này, tù nam được phép tắm, lần đầu
tiên, vì nước được phát hạn chế, từng ngày, từ cái giếng cạnh nhà bếp, chỉ vừa
đủ dội cầu, và đánh răng, rửa mặt, lau sơ mình mẩy. Tù nữ được ưu đãi, nước nôi
đầy đủ, tắm ngay trong phòng.
Tất cả tù
nam tập họp, xếp hàng trong sân trại, được lính bảo vệ dẫn ra sông. Trời nóng,
và nước mát, gió hiu hiu thổi, thấy sảng khoái vô cùng. Tôi đang ngụp lặn thì bỗng
một đồng tù la lớn: “Mấy cha coi kìa!”, và chỉ tay về phía đầu sông, gần bờ, có
cái chòi cao và rộng, chia nhiều ngăn, trên đó thấy thấp thoáng vài bóng người
đàn ông và đàn bà đang “xử lý” bầu tâm sự, mà phía dưới không có ao cá tra, nên
phế phẩm theo dòng nước trôi lềnh bềnh đến tận chỗ tù đang tắm, cùng với đám lục
bình. Từ hồi nào đến giờ, tôi chưa hề thấy cảnh này, kể cả thời gian cải tạo tắm
suối ngoài Bắc. Hoảng kinh, tôi chạy lên bờ, vừa lau mình vừa nôn oẹ. Vừa vẩn
vơ nghĩ đến thân phận con người, nếu không có tư tưởng, và tính lãng mạn, thì
dù là anh hùng hay mỹ nhân cũng sẽ không khá gì hơn mọi sinh vật vô tri khác –bị
sai khiến bởi nhu cầu thân xác phàm tục, hạ cấp. Và vì vậy, dân gian và thi sĩ
mới mơ chuyện Thiên Thai và triết gia Pascal mới ví con người với một cây sậy
biết suy nghĩ, nghĩa là thanh cao, bởi cây sậy và tiên nga không bao giờ bước
lên cái chòi trên sông kia. Về phòng, tôi lén xối lên mình một lớp nước sạch,
và cho Bảy phần ăn chiều.
5. Một
chiếc xe đò chở số tù nam lên Long An. Tù nữ đã đi hôm qua, nên tôi hết hy vọng
gặp cô gái. Sau gần hai tiếng, xe tới trại giam, nằm khuất trên một thửa đất hẻo
lánh, yên tĩnh của thành phố. Trại xây theo hình vuông, rộng lớn, trông rất qui
mô, “hiện đại”. Có hai khu nam nữ, riêng biệt, mỗi khu có độ mười phòng, chưa kể
nhà bếp, nhốt đủ mọi thứ tội phạm, hình sự và chính trị, không riêng vượt biên.
Tôi nghe nói, bên dãy nữ, còn có một phòng chứa các “chị em ta” đang được “cải
tạo, phục hồi nhân phẩm”.
Tôi vừa bước vào thì bị một thằng tù giơ tay chận lại. Mặt hắn có hai vết thẹo
lớn, trông rất cô hồn, hàm răng ám khói, mặc xà lỏn, lưng và ngực xăm đầy rồng
rắn và hình một cô gái trần truồng đang múa lèo. Hắn lè nhè tự khai, hay tự
khoe, là “phòng trưởng”, tên Ba Hổ, bị bắt vì tội “du đãng say rượu chém người”.
Hắn yêu cầu tôi giới thiệu tên tuổi, và tội gì. Tôi còn phân vân thì bắt gặp
trong số tù nhân đang ngồi chung quanh một người đứng tuổi gật gật đầu, ngụ ý bảo
cứ làm theo lời hắn. Tôi bèn mở máy, lặp lại điệp khúc cũ, đã mòn tai: “Trần
Hồng, 60 tuổi, làm rẫy, can tội vượt biên hụt…” Cả bọn cười ồ, kể cả thằng
phòng trưởng: “Ông đi hụt mới bị bắt, chớ nếu đi được thì ông đã làm cha tụi
này rồi”, một đứa nói. Một đứa khác: “Già rồi, lại còn làm rẫy nữa, mà ham vượt
biên chi cho nó cực tấm thân, ông ơi. Qua Mỹ ông cũng làm cu li thôi.” Một đứa
khác nữa: “Già cái gì mà già. Thằng chả giả dại qua ải đó thôi!” Vài người
không chịu lời nhận xét đó, lớn tiếng phản đối, vô tình gây ra một vụ tranh cãi
ồn ào. Dĩ nhiên, tôi không cười, không trả lời. Lên
Long An, tôi lạc mất Bảy, được ở phòng khác. Còn cô gái thì biệt tăm
hơi.
Theo qui định,
tôi phải nằm sát bên cầu tiêu, như dưới Cần Giuộc. Cầu tiêu trống trơn, không
có màn che. Lại nhớ đến cái chòi cao trên sông, cây sậy của Pascal và những
nàng tiên nữ trong cổ tích. Cũng may, phòng rộng, nhưng chỉ chứa mười hai người
tối đa, nên mũi tôi đỡ phải làm việc liên tục. Theo lệnh Ba Hổ, trong lúc cả
phòng ăn cơm, không ai được lên bàn cầu. Thêm nữa, nước trong phòng dư dã, tắm
rửa thoải mái. Mỗi ngày hai lần, trong vòng nửa tiếng, nước được mở cho chảy
vào phòng giam, từ một cái bồn chứa bên ngoài, qua một ống tre đục vô tường, và
tù nhân, luân phiên trực nước, chỉ có việc hứng đầy ba cái lu sành bự. Bị “quản
lý” ngang xương cái cầu tiêu, tôi tình nguyện cứ mỗi hai giờ, lấy nước trong lu
dội sạch bong, chỉ vì thương cho “cái mũi vô duyên”, như trong thơ Cao Bá Quát.
Chờ mãi đến tuần sau, mới thấy một chàng vô nạp mình. Đó là một anh tù mới, hiền
lành, ít nói, trạc tuổi (thật) của tôi. Mấy đêm sau, quen nhau hơn, anh bắt đầu
tâm sự:
- Tôi là Trung úy Truyền Tin Tiểu khu Long
An, tên Tân, cải tạo mới về, ai cũng biết tông tích, nên không chối được. Sĩ
quan vượt biên bị bắt sẽ phải lao động dài dài, không có ngày về. Mấy tháng nữa,
tôi sẽ bị đưa lên Mộc Hóa cải tạo. Còn anh Trần Hồng, có thật anh là nông dân
Trảng Bom không?
Tôi lờ câu
hỏi, chỉ nói:
- Xui cho anh quá. Mà anh bị bắt ở đâu?
- Ở cửa Cần Đước. Ghe lớn tràn người can-me (đi chui), không đề-pa nổi, mắc cạn,
bị giang thuyền công an vũ trang đến hốt hết.
Hay là chiếc ghe lớn mà Bảy đã nói đến? Nếu đúng, tôi tự an ủi, không bị bắt
trước thì cũng bị bắt sau, cái số nó như vậy. Lý luận kiểu huề vốn. Nhưng từ
đó, tôi an lòng, “vô tư” ăn ngủ, chẳng muốn lo nghĩ gì nữa, chờ định mệnh đến nắm
tay dắt đi, đâu cũng được.
Cửa phòng có gắn một ô vuông bằng kính trong, bên ngoài che kín bởi một tấm vải
đen, dành cho cán bộ tuần tra, khi cần, kéo lên, để dòm vào kiểm soát phía
trong dễ dàng. Mỗi sáng sớm đám tù phải tập họp, nghe phòng trưởng tự phong Ba
Hổ, thi hành lệnh cán bộ, đọc, và học thuộc lòng, bản nội qui trại. Xong, tan hàng,
làm vệ sinh cá nhân, lãnh phần ăn trưa, rồi ăn tối, chờ đến lượt bị gọi lên
“làm việc” với cán bộ. Nhất nhật tại tù trôi qua quá chậm, quá dài,
quá rỗng. Như chính cuộc đời, nếu trống không, trần trụi, không có gì để lấp đầy.
Trong ba tháng, tôi bị thẩm vấn bốn lần.
Lần đầu,
gã công an, còn trẻ, nhìn tôi chằm chặp:
- Anh là Trần Hồng, có bà con dòng họ gì với gian thương Trần Thành, vua xì dầu,
và Trần Phước, vua sòng bạc, ở Chợ Lớn thời ngụy không? Khi đi vượt biên, anh
mang theo mấy cây? Chủ ghe tên gì? Già rồi, anh còn đi vượt biên làm gì? Theo bọn
phục quốc, đánh phá Cách mạng chớ gì?
Những câu
hỏi dính dáng tới chuyến đi, tôi đã quá quen thuộc, từ ngày ở Long Giêng, Cần
Giuộc, và có thể nhắm mắt trả lời, sao y bản chánh, không sót một chữ. Nhưng
câu hỏi về cái tên Trần Hồng thì mới lạ, khiến tôi phải kinh sợ cách điều tra
chắc ăn “thà giết lầm còn hơn bỏ sót” của Việt Cộng. Khi thảo lý lịch giả, tôi
đâu để ý đến cái tên gây rắc rối ấy, chỉ nghĩ một cách đơn giản là tên các nông
dân Miền Trung thường ngắn, không có chữ lót, còn họ Trần thì lượm đại từ trí
nhớ. Tôi trả lời gã:
- Tên thật trên khai sanh của tôi là Trần Hồng. Tôi không phải gốc Tàu, cũng
như ông tướng cách mạng Trần Độ không phải gốc Tàu, không bà con thân thích gì
với gian thương Chợ Lớn Trần Thành hay Trần Phước.
Ba lần sau, cũng gặp lại gã công an ấy, nhưng biết không khai thác được gì
thêm, gã hỏi cho qua chuyện, lấy lệ, và tỏ vẻ dễ dãi hơn lần đầu –điều mà sau
này tôi mới rõ lý do.
6. Một buổi sáng, đến kỳ
thăm nuôi, cả trại rộn rịp hẳn lên, vui như Tết. Trong phòng, tôi là người duy
nhất được gọi tên. Không có khu, hay nhà, thăm nuôi riêng biệt, như những trại
cải tạo sĩ quan. Tù nhân bên trong và thân nhân bên ngoài đứng nói chuyện, giữa
trời, ngăn cách bởi một hàng rào kẽm tương đối thấp, đủ để những cánh tay với
trao và nhận quà một cách dễ dàng. Tôi bước ra sân, mắt dáo dác kiếm tìm bóng
dáng người thân, thì nghe có tiếng ai gọi lớn: “Anh Hai!” Quay lại thấy Huyền
Trân, em út, đang vẫy tay, đứng kế bên là Bội Trân, và vợ ông bác bà con,
đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn –nơi mà Trọng và tôi đã trọ học nhiều năm. Tôi chạy
bay đến, ba người nắm bắt tay tôi, qua lỗ hàng rào, siết chặt, mừng rỡ. Huyền
Trân nhanh nhảu kể, hai chị em từ Nha Trang vô thăm tôi, ở tạm nhà ông
bác, sau khi ghé qua gặp bà mối chợ Vườn Chuối để hỏi tin tức. Còn Bội Trân
nhìn tôi đăm đăm, rơm rớm nước mắt:
- Thương
anh Hai quá đỗi. Ông thầy Chàm có lẽ nói đúng: con ma nam nó theo phá anh đó...
(cf. “Những chuyến ghe đời mong manh”, 4/2016).
Tôi cười, an ủi:
- Anh ở tù quen rồi mà em. Cũng giống như toàn dân bây giờ, bởi cả nước là
một trại tù khổng lồ, em quên sao?
Em bảo nhỏ vào tai tôi:
- Bà mối chợ Vườn Chuối báo cho em hay là bả lấy cây vàng mẹ đã đặt cọc để chạy
cho anh ra. Bả đã mua đứt công an Long An. Chủ ghe lớn bị bắt ở Cần Đước, được
thả ngay về Sài Gòn hôm ấy. Bả nói, tên công an buổi sáng thẩm vấn anh xong, buổi
chiều lên Sài Gòn báo cáo kết quả cho bà mối và nhậu bia với chủ ghe. Nó than
phiền là anh cứng đầu, cãi nó hoài, lôi cả ông tướng Trần Độ nào đó ra mà
nói móc. Nếu anh là người khác, nó đã đề nghị cho lên Mộc Hóa lao động cải tạo
mấy năm cho bõ ghét. Nó biết rõ anh là sĩ quan cải tạo mới về, nhưng nó cũng nể
anh là bị dọa thế nào anh cũng nhất quyết không thú nhận, bởi thú nhận là hết gỡ.
Nó còn nói, anh không biết đóng kịch gì hết: nông dân làm rẫy gì mà nói năng
ngang tàng quá… Nhưng anh an tâm, nó ăn tiền rồi, không dám làm gì được anh
đâu. Chắc tháng sau anh sẽ được thả.
Bà bác đưa
qua hàng rào một giỏ đồ ăn khô mà, bác nói, “thím Ba”, tức mẹ tôi, gửi tiền vô
nhờ bác mua giúp. Đủ cho một tháng.
7. Tôi được thả hai tuần sớm
hơn dự trù, nhân một dịp lễ vớ vẩn nào đó của Việt Cộng. Trưởng trại bắt tù tập
họp trong sân, và lên lớp, nhắc nhở tất cả hãy học tập tốt, chấp hành nội qui tốt,
và nhất là không trốn trại. Rồi hắn đọc tên ba mươi tù nhân, đa số là nữ, được
thả vì “đã học tập cải tạo tiến bộ”. Trong số có tôi. Tôi không biết cô gái đồng
hành vô danh kia có được về cùng đợt không, vì không thấy cô đâu cả. Nhưng tin
chắc cô cũng đã được bà mối “chuộc” rồi.
Về phòng,
tôi ôm từ giã Tân, tặng anh hết phần quà còn lại, và nói nhỏ:
- Bây giờ tôi trả lời cho câu hỏi trước đây của anh. Tôi là Kim Thanh, đại
úy CTCT, quê Nha Trang, cải tạo tám năm ngoài Bắc mới về mấy tháng. Thôi, chúc
anh ở lại bình an, và hy vọng gặp lại nhau tại một nơi nào khác tốt đẹp hơn đất
nước này.
Anh xúc động, vỗ vỗ lưng tôi, không nói gì, nhưng tôi thấy trên khoé mắt anh
long lanh hai giọt lệ. Tính ra, tôi ở tù vượt biên đúng sáu tháng mười ba ngày.
Tôi đi xe đò về Sài Gòn và đến nhà bà bác vào lúc xế trưa. Tá túc tại đó hai
ngày, rồi đi xe lửa về Nha Trang, với đầy đủ giấy tờ ra trại, nghĩa là rất hợp
pháp. Cả nhà không ngạc nhiên lắm, vì mẹ đã tốn một cây vàng để chuộc tôi, và
được bà mối thông báo rồi. Nhưng nỗi vui tràn ngập, trong mắt mẹ và các em.
Suốt thời gian dưỡng sức, và chờ mánh khác,
tôi nằm lì ở nhà, đọc sách, không xuất hiện. Nửa tháng sau, ông cha xứ họ đạo,
là bạn học hồi nhỏ của Trọng, xuống nhà đánh cờ tướng, uống bia, và ăn
trưa, xem tôi như anh cả. Sau khi lừa chém chết con xe, mà ông rình lâu lắm,
của tôi, ông khoái chí, ngừng tay, và hỏi nhỏ:
- Sao, có muốn đi nữa không?
Tôi hiểu “đi” trong nghĩa vượt biên, dĩ nhiên. Mắt sáng rỡ, tôi đáp liền:
- Đi chứ! Pourquoi pas? Ghiền lắm rồi. Cha có mánh nào
không?
- Dĩ nhiên là có. Để em nói chuyện với Huệ
Trân. Còn hai chỗ. Em biết, bà muốn cho anh và Bội Trân đi trước, đúng
không?
Về chuyến
đi thứ ba này, tôi đã kể trong một bài khác, “Marita, mây bay ngàn năm”, được
phổ biến năm 2010. Trong khi Huệ Trân thương lượng với chủ ghe mới, do cha xứ
giới thiệu, mẹ đi tìm người cúng con ma nam đã theo tôi trong lần đi Cần Giuộc,
khiến tôi bị bắt. Thư, em rể tôi, đề nghị nhờ Trứ, chủ ghe cũ, cúng giùm, vì
anh ta quen gia đình Cường và biết rõ mộ phần của em nằm ở đâu.
Portland, 30/4/2020
Kim Thanh
Đăng nhận xét