NGUYỄN GIỤ HÙNG Những Chiếc Bánh Trong Đời
NGUYỄN GIỤ HÙNG Những Chiếc Bánh Trong Đời
Lúc yêu nhau thì muốn ăn bánh Hỏi.
Lấy nhau về có bánh Phu Thê (người Bắc phát âm là
Xu Xê)
Tình nghĩa vợ chồng luôn có bánh Khoái.
Đem lòng nghi kỵ thì có bánh Canh.
Chi ly từng đồng đành nhai bánh Bèo.
Ra vào đụng mặt đã có bánh Gai.
Cãi nhau hoài chán có thêm bánh Đập.
Đập cho bầm giập rồi ăn bánh Tét.
Đánh cho tơi tả đã có bánh Phồng.
Nhừ tử xong rồi nếm bánh Da lợn.
Gọi Công an đến có ngay bánh Còng.
Sức khỏe kém rồi đành ăn bánh Ít.
Đi đứng loạng choạng chỉ còn bánh Bò .
Cuối một quãng đời
thì là bánh Tiêu.
Thế này nhé, khi đi mổ mắt về, ta có nhiều điều vui và cũng lắm điều buồn. Vui vì ta được nhìn thấy rõ và ta cũng buồn vì bị nhìn thấy rõ những sự việc xẩy ra quanh ta. Như tôi nhìn cô hàng xóm, trước khi mổ mắt thì thấy cô ấy "đèm đẹp" theo cái nhìn "mờ mờ nhân ảnh" của mình, và sau khi mổ mắt thì nhận ra cô ta có những cái đẹp lên nhưng cũng có cái xấu đi theo cái "tinh tường" của đôi mắt ấy.
Trong cuộc sống hàng ngày, đôi khi không cần phải đi mổ mắt
mà vẫn được "sáng mắt ra" vì những nghịch cảnh luôn luôn xảy ra cho
chính mình hay cho những người chung quanh. Tóm lại, ôi thôi, có đủ thứ làm ta “sáng
mắt sáng lòng”.
Nay tôi chỉ xin nói
chuyện với các anh về vài điều liên quan tới "mắt" qua ca dao
tục ngữ, tiếng nói tinh tế và chân chất của người Việt Nam ta.
- Con gì trên
lông dưới lông, tối lồng làm một?
- Đó là con
mắt.
- Đúng!
Trước hết tôi xin nói
về TÊN CỦA MẮT.
Vì mắt được ví
von “mắt là cửa sổ của tâm hồn”, và ta cũng có thể ví “mắt là cửa
chính của tâm hồn” tức là muốn đi vào tâm hồn của ai thì ta phải đi qua cái
cửa ấy. Mắt là “cửa tâm hồn”, dù là cửa sổ hay cửa chính, nên mắt cũng có nhiều
dáng kiểu và kích thước khác nhau như cửa nhà vậy và tên gọi của chúng cũng
khác nhau theo đúng tinh thần “nhìn mắt đặt tên” (chứ không phải “nhìn mặt đặt
tên”)
Khi đặt tên cho mắt,
người ta thường dùng theo hình dáng của vật thể hay của sinh vật
nào đó mà gán ghép cho chúng: Mắt to và lộ ra ngoài thì gọi là mắt lồi, mắt
ốc nhồi hay mắt cá vàng; mắt nhỏ và dài như lá tre hay lá
rau răm thì gọi là mắt lá răm. Mắt tròn và đen nháy như mắt chim bồ
câu thì gọi là mắt bồ câu . . . Và cứ như thế ta có một số tên
gọi của mắt như nào là (ti hí) Mắt lươn, Mắt (bé
như) hạt đậu, Mắt cú vọ, Mắt diều hâu, Mắt dơi (mày
chuột), (giương như) Mắt ếch, Mắt lợn luộc, Mắt rắn ráo, Mắt
sắc (như dao cau), Mắt thánh (tai hiền), (lừ lừ) Mắt
voi, (mày ngài) Mắt phượng. . .
Thấy em nhỏ thó lại
có hồng nhan, chân mày loan con mắt lộ
Anh đi giáp lục tỉnh
này, không ai ngộ bằng em.
Ngoài hình dáng ra, mắt
còn có tên theo màu sắc như mắt đen, mắt nâu, mắt xanh, mắt
long lanh, mắt thủy tinh, mắt đỏ, mắt trắng (môi thâm) . . .
Cầu đây có gái bán
hàng
Có đôi rùa đá có nàng
bán cau
Mắt xanh tươi
thắm môi trầu,
Miệng cười núm má cho
cầu thêm xinh.
Người khôn con mắt
đen sì,
Người dại con mắt
nửa chì nửa than.
Hò ơ . . . Phù sa nước
đục khó dòm,
Nhớ anh em khóc... (ờ)
Hò ơ... nhớ anh em
khóc đỏ lòm con ngươi.
Mắt không phải chỉ được
phân biệt bằng cái tên qua hình dáng, màu sắc không
thôi mà mắt còn được áp đặt vào chúng bằng những cảm quan, nhận thức, sinh hoạt,
triết lý . . . tùy theo tình huống của những cái "nhìn mắt đặt tên"
và "xấu đẹp tùy người đối diện" của mỗi người. Nghĩa là tên của mắt
còn được đặt để vào đó một linh hồn vô cùng sống động.
Người khôn con mắt
dịu hiền,
Người dại con mắt
láo liên nhìn trời!
Một thương tóc bỏ
đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn
mà có duyên.
. . .
Chín thương em ngủ một
mình,
Mười thương con mắt
hữu tình cho ai.
Chém cha con mắt
đa đoan,
Càng lắm nhân ngãi
càng mang tiếng thù.
Con mắt trừng
trừng,
Thầy vơ cả đĩa.
Chồng em rỗ sứt rỗ
sì,
Chân đi chữ
bát, mắt thì ngưỡng thiên.
Hai nách cô thơm như ổ
chuột chù,
Mắt thì dán nhấm,
lại gù lưng tôm.
Chả tham nhà ngói anh
đâu,
Tham vì con mắt
bồ câu liếc người.
Rạng ngày
mai con mắt lim dim,
Chân đi thất thểu như
chim tha mồi.
Những người con mắt
lá răm,
Lông mày lá liễu đáng
trăm quan tiền.
Ông già ổng chết đã
lâu,
Con mắt thao
láo hàm râu vẫn còn.
Rồi như:
Mắt tinh đời, Ăn
phùng má trợn mắt, Mắt la mày lét, Mắt hau háu như quạ thấy gà con, Có mắt
không ngươi, Con mắt to hơn cái bụng, Đổ đom đóm mắt, Đổ mồ hôi sôi nước mắt,
Giàu hai con mắt khó hai bàn tay, Hai mắt đổ dồn lại một, Mắt lá răm kiêu căng
có tiếng, Mắt lơ mày láo, Bé người to mắt, Rậm râu sâu mắt, Che mắt thế gian, Cắn
răng chằng mắt, Chết không nhắm mắt, Mắt hau háu như quạ thấy gà con, Chớp mắt
bỏ qua, Coi người bằng nửa con mắt, Mắt thấy tai nghe, Mắt tròn mắt dẹt, Mắt trợn
trừng, Mắt trước mắt sau, Mắt xanh mỏ đỏ, Lấy vải thưa che mắt thánh, Lựa được
con dâu sâu con mắt, Lúa bông vang thì vàng con mắt, Mong đỏ con mắt, Móc mắt
moi mề, Múa rìu qua mắt thợ, Ngang tai trái mắt, Nghe tận tai nhìn tận mắt, Người
trần mắt thịt, Nhắm mắt đưa chân, Nhắm mắt làm ngơ, Nhắm mắt xuôi tay, No bụng
đói con mắt, Quạ chẳng mổ mắt quạ, Thấy của tối mắt, Tai nghe không bằng mắt thấy,
Trêu cò cò mổ mắt, Trời cao có mắt, Tuần chay nào cũng có nước mắt, Thứ nhất
đau mắt thứ nhì nhức răng, Tiếc rỏ máu mắt, Tối mắt tối mũi, Trái tai gai mắt,
Vừa mắt ta ra mắt người, Yêu gà gà mổ mắt yêu chó chó liếm mặt, Ngủ ngày quen mắt,
Chướng tai gai mắt, . . . Gái một con trông mòn con mắt.
Cũng từ những cảm
quan, nhận thức kể trên mà tên gọi của mắt cũng dựa vào những sự phê phán khen
chê được diễn dịch qua tướng số hay kinh nghiệm. Tất nhiên
chúng ta không thể hoàn toàn tin vào sự khả tín của những lời
phê phán có tính cảm quan này:
Con lợn mắt trắng thì
nuôi,
Những người mắt
trắng đánh rồi đuổi đi.
Máy mắt ăn xôi,
Máy môi ăn thịt,
Máy đít phải đòn.
Mắt ốc bươu làm
cho ai sợ,
Miệng hỏa lò ăn vỡ
nghiệp cơ.
Người khôn con mắt
đen sì,
Người dại con mắt nửa
chì nửa than.
Những người ti
hí mắt lươn,
Trai thì trộm cướp,
gái buôn chồng người.
Rèm xưa ba bức mành
mành,
Mắt cô thế
ấy tu hành được đâu.
Người khôn con mắt
dịu hiền,
Người dại con mắt
láo liên nhìn trời!
Kéo dài chi kiếp sống
thừa,
Cho cay mắt thấy,
cho chua lòng sầu.
Mắt dùng để NHÌN, để ngó, để trông, để ngắm, để dòm, để liếc . ..Và để diễn tả những tình cảm vui buồn, tức giận, nghi ngờ, thất vọng hay là những thông điệp của tình thương yêu dùng thay cho lời nói. Nói tóm lại mắt còn có đủ khả năng diễn tả đầy đủ sự "hỷ nộ ái ố" của con người.
Anh thương em không
biết để đâu,
Để trong túi áo lâu
lâu lại nhìn (dòm).
Chiều chiều ra chợ
Đông Ba,
Ngó về
hàng Bột trông ra hàng Đường.
Nhìn mai, ngắm liễu, xem hường,
Cô nào đẹp nhất xin
nhường cho tôi.
Ra đường con mắt ngó
nghiêng,
Về nhà chui chốn buồng
riêng vê mồng.
Tóc em như lông con
chó xồm,
Xức dầu thì xức, ai
thèm dòm, bớ em Hai.
Em là con gái cửa
dinh,
Qua dinh cụ lớn, cụ rình cụ nom.
Của em chẳng để
ai dòm,
Cáo già hết ngóm, mèo
non cũng chừa.
Mẹ em tham thúng xôi
rền,
Tham con lợn béo,
tham tiền Cảnh Hưng.
Em đã bảo mẹ rằng đừng,
Mẹ lườm mẹ nguýt mẹ
bưng ngay (xôi) vào.
Bây giờ chồng thấp vợ
cao,
Như đôi đũa lệch so
sao cho bằng.
Ngó lên
chữ ứ,
Ngó xuống
chữ ư.
Anh thương em thủng
thẳng em ừ,
Anh đừng thương vội,
phụ mẫu từ nghĩa em.
Bất bình cũng cứ dửng
dưng,
Cũng đừng liếc
xéo, cũng đừng cười khinh.
Dao cau rọc lá trầu
vàng,
Mắt anh anh liếc,
mắt nàng nàng đưa.
Ô kìa con cái nhà ai,
Cái váy thì dài, áo
ngắn ngang hông!
Thấy ai dương
mắt ra trông,
Nghề nghiệp chẳng có,
chổng mông kêu trời!
Ngoài những cái “nhìn”
của thế gian, ta còn có cái “nhìn của đạo Phật”. Mắt là một
trong sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), nó là nguyên nhân của vui sướng
hoặc khổ đau trong nhận thức u minh về xấu đẹp khi ta tiếp xúc với những hình ảnh
bên ngoài. Muốn tránh khổ đau ta phải "quán chiếu" để thấy được cái
"thực tánh" của mắt và nhìn, nghĩa là, nói theo một vị Thiền sư thì
những người đạt đạo, họ vẫn thấy cái đẹp và cái xấu nhưng họ không bị khống chế,
lôi cuốn bởi những cái xấu đẹp ấy vì họ thấy được trong cái đẹp có sự góp phần
của cái xấu và trong cái xấu có sự góp phần của cái đẹp. Cái nhìn ấy
được chuyển thành lòng từ bi với tâm giải thoát. Đó chính là
cái nhìn của trí tuệ bát nhã trong đạo Phật vậy.
Nói đến mắt ta không
thể không nhắc đến KHÓC: Khóc oà, Khóc thét, Khóc gào, Khóc nức nở,
Khóc thầm, Khóc thút thít, Khóc vụng trộm, Khóc ti tỉ, Khóc tỉ tê, Khóc nỉ non,
Khóc mùi, Khóc như ri, Khóc như mưa, Khóc như cha chết, Khóc đứng khóc ngồi . .
. Khóc là để diễn tả một trạng thái tự nhiên của xúc cảm, có thể do vui và cũng
có thể do buồn một cách cao độ, trừ khi khóc "vờ", hoặc
để làm "vũ khí" tác động vào lòng thương của người
khác, hoặc để "vòi vĩnh":
Cha đời con gái mười
ba,
Đêm nằm với mẹ khóc
la đòi chồng.
Mẹ giận mẹ phát ngang
hông,
Đồ con "chết chủ"
đòi chồng thâu đêm.
Chuối non giú ép chát
ngầm,
Trai tơ đòi vợ, khóc
thầm thâu đêm.
Khóc rồi bị má đánh
thêm,
Tiền đâu cưới vợ nửa
đêm cho mày?
Anh ở làm sao cho vợ
anh thôi,
Bây giờ khóc
đứng, than ngồi với ai?
Con cò lặn lội bờ
sông,
Gánh gạo đưa chồng, tiếng
khóc nỉ non.
Nàng về nuôi cái cùng
con,
Để anh đi trẩy nước
non Cao Bằng.
Đã khóc thì không thể thiếu NƯỚC MẮT: Khóc hết nước mắt, Đổ mồ hôi sôi nước mắt, Khóc không ráo nước mắt, Mau nước mắt, Mồ hôi nước mắt, Nước mắt cá sấu, Nước mắt chảy xuôi, Nước mắt lưng tròng, Nước mắt nước mũi, Tuần chay nào cũng có nước mắt, Trai khôn lắm nước đái gái khôn lắm nước mắt, Cười ra nước mắt . . .
Ai ơi đừng rơi
nước mắt ớt,
Đừng rớt nước
mắt gừng,
Nhân duyên trời định
nửa chừng mà thôi.
Tay chùi nước
mắt ướt nhem,
Tại anh chậm bước nên
em lấy chồng.
Thôi thôi đừng nhỏ nước
mắt hồng,
Đừng pha tiếng ngọc
mà cầm duyên em.
Đừng vợ đừng chồng, đừng
gì hết thảy,
Anh có nơi rồi rún rẩy
duyên em.
Năm bảy tháng trước
còn bưng, còn bợ,
Năm bảy tháng sau lỡ
bợ, lỡ bưng.
Trực nhìn nước
mắt rưng rưng,
Khai hoa nở nhụy, khổ
quá chừng anh ơi!
Ớ chị em ơi!
Cho tôi xin tí nước
mắt thừa,
Tôi về tôi khóc tiễn
đưa mẹ chồng.
Anh về em chẳng dám
đưa,
Hai hàng nước
mắt như mưa tháng mười.
Hoan hô các cụ trồng
cây,
Mười cây chết chín, một
cây gật gù!
Các cháu có mắt
như mù,
Mười cây chết tiệt gật
gù ở đâu?
Trăm lạy ông trời chớ
điếc, đừng đui,
Để hai con mắt coi
người thế gian.
Đã có mắt thì xem
đàng,
Có phải cận
thị ngó quàng ngó xiên.
Thôi tôi biết vợ anh
rồi,
Vợ anh toét mắt bán
xôi chợ chùa.
Do mắt có thể có khuyết
tật hay bệnh nên mắt cần được chăn sóc và bảo vệ vì "thứ nhất đau
mắt, thứ nhì dắt răng".
Ngày nay, với nền văn
minh tân tiến, mắt còn được những nhà giải phẫu thay hình đổi dạng theo như ý
muốn. Mắt đôi khi còn được trang điểm bằng những cặp lông mi dài, tô thêm quầng
mắt, lông mày hay bằng những cặp kính gọng đắt tiền.
Phì phà thuốc điếu kẹp
tay,
Mắt đeo kiếng mát xem
ai ra gì.
Tóm lại, cặp mắt là
bộ phận vô cùng quý giá và đa dụng của con người. Thật là bất hạnh cho chúng ta
biết bao nếu thiếu đi cặp mắt hay bị giảm đi một phần khả năng của nó. Có lẽ
cũng chính vì cái quý giá và đa dụng của mắt nên mới có nhiều từ ngữ để nói về
mắt và những gì liên quan tới mắt trong ca dao, tục ngữ mà trong giới hạn bài
này tôi chỉ có thể liệt kê được một phần rất nhỏ trong cái muôn vàn từ ngữ hoặc
tình huống liên quan đến mắt trong kho tàng ngôn ngữ dân gian phong
phú của dân ta mà thôi.
Và cũng qua đây, tôi
xin được nói thêm, ta phải thấy vô cùng hãnh diện về sự giầu có và tinh tế của
ngôn ngữ dân ta, đặc biệt được thể hiện trong văn chương bình dân truyền khẩu của
ông cha để lại qua tục ngữ ca dao. Bổn phận của chúng ta phải gìn
giữ và phát triển ngôn ngữ ấy, nhất là thế hệ con cháu sống nơi hải ngoại.
Kết luận:
Hãy gìn giữ ngôn
ngữ nước ta như ta đang gìn giữ con mắt của chính mình vậy.
Đăng nhận xét