Hồi ký của tùy viên Tướng Trần Thiện Khiêm -Nguyễn Tấn Phận
Hồi ký của tùy viên Tướng Trần Thiện Khiêm
*NGUYỄN TẤN PHẬN
* Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ Tướng Khiêm ở Sài Gòn
LTG: Mấy lúc gần đây báo chí Việt Nam, các đài phát
thanh có chương trình Việt ngữ ở khắp nơi vẫn còn đề cập đến chuyến ra đi của Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu do người ngoại cuộc kể. Chúng ta thấy có nhiều bức tranh
vẽ khác nhau về chuyến đi này tùy theo người kể và cũng tùy ở người viết.
Để có bức tranh trung thực hơn, lần này diễn tiến chuyến đi do chính người
trong cuộc kể lại; câu chuyện cũng đã được phối kiểm, đối chiếu qua nhiều tài
liệu, hồi ký, tường thuật của những nhân vật Việt nam và Hoa Kỳ có mặt trong
chuyến đi cũng như có trách nhiệm và liên hệ trực tiếp trong thời điểm lịch sử ấy.
Nhơn lúc nhàn rỗi, giở lại chồng giấy cũ úa màu, tình cờ tìm thấy bản tin của
báo San Jose Mercury News (San Jose, California) nói về chuyến di tản của Tổng
Thống Marcos gợi cho tôi nhớ lại chuyến đi của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cách
đây hơn ba mươi năm.
Báo San Jose Mercury News đề ngày 26 tháng 2 năm 1986 đăng tin Tổng Thống
Ferdinand Marcos cùng đoàn tùy tùng được Không Lực Hoa Kỳ di tản ra khỏi dinh Tổng
Thống ở Manila một cách an toàn sau một thời gian có nhiều xáo trộn chính trị.
Nguyên văn bản tin viết như sau:
“Marcos từ Guam đến Hawaii ngày 26 tháng 2 năm 1986. Sau 13 tiếng đồng hồ dừng
lại ở đảo Guam, chiếc C141 của Không Lực Hoa Kỳ chở ông Marcos và đoàn tùy tùng
đã rời căn cứ quân sự Anderson Air Base lúc 5:54 giờ PST trong cơn mưa to và đã
đến Hawaii sau 8 giờ bay. Cùng tháp tùng Tổng Thống Marcos có vợ ông là bà
Imelda; tướng Fabian Ver, một cộng sự viên đắc lực và cũng là tướng Tư Lệnh
quân đội Phi và vợ ông ta. Tướng Gary Strasbourg, phụ tá trưởng phòng giao tế
dân sự của căn cứ không quân, cũng cho biết thêm phái đoàn này có tất cả 89 người.
Hoa Kỳ đã cung cấp 4 trực thăng và 2 máy bay để đưa Marcos, vợ ông và những
người thân cận từ dinh Tổng Thống ở Manila đến căn cứ không Quân Clark Air
Base, rồi từ đó đến Guam.”
Việc can thiệp của Hoa Kỳ vào nội tình chánh trị Phi Luật Tân đã buộc nhà độc
tài này rời bỏ đất nước, xảy ra 11 năm sau chuyến ra đi của Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu. Nếu đem hoàn cảnh của Phi Luật Tân, một đất nước không có chiến
tranh, không bị lệ thuộc nhiều vào Hoa Kỳ, so với Việt Nam Cộng Hòa vào năm
1975 thì việc di tản nhà lãnh đạo xứ này một lần nữa cho ta thêm cơ hội suy gẫm
về số phận các nước nhỏ bé nằm trong quyền lợi của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Miền Nam Việt Nam hoàn toàn bị khống chế nặng nề bởi Hoa Kỳ về mọi lãnh vực
trong suốt thời gian dài chiến tranh. Bởi hậu quả của cuộc chiến mà tất cả
chúng ta, nhân dân miền Nam Việt Nam, ai ai cũng đã chuốc lấy biết bao mất mát
đau thương; nên việc ra đi của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trước hiểm họa đất
nước suy vong đã làm dư luận búa rìu khắt khe kết án là điều không tránh khỏi.
Tính cho đến nay cũng đã hơn ba thập niên, chúng ta đã có đủ thời giờ để chiêm
nghiệm về số phận đau thương của một đất nước nhỏ bé trong suốt mấy chặng đường
dài tang thương của lịch sử dân tộc Việt. Tổ tiên, ông cha chúng ta đã từng sống
nhục nhã dưới “một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây.” Đồng
bào trong nước nay phải oằn vai gánh nặng những hệ luỵ của một chủ thuyết ngoại
lai trong hơn 30 năm qua; cho nên với những ngày dài lưu vong và những đau
thương của đất nước, liệu đã đến lúc “ những gì của César trả lại cho César ”
chưa, những gì của lịch sử đã trả lại cho lịch sử chưa. Và với thế hệ trẻ cũng
như nhà cầm quyền Việt Nam đương thời qua đó sẽ rút tỉa được những bài học gì
cho tương lai của dân tộc, đất nước.
Sức ép
Tôi về trình diện Phủ Thủ tướng vào đầu tháng Tư năm 1975, chưa nhận nhiệm sở mới
thì Đại tướng Trần Thiện Khiêm từ chức Thủ tướng Chánh phủ. Tôi được chuyển qua
làm việc tại văn phòng Cố vấn Quân sự của Tổng thống Trần Văn Hương. Tân Tổng
Thống Trần Văn Hương ngay sau khi nhậm chức đã ký Sắc lệnh bổ nhiệm Đại tướng
Trần Thiện Khiêm làm Cố vấn Quân sự cho ông.
Nhiệm vụ của tôi là lo về an ninh cho Đại tướng và bà Trần Thiện Khiêm. Vào
giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này công việc rất là bề bộn. Phần lớn thời giờ tôi
làm việc cho Đại tướng. Thỉnh thoảng bà Trần Thiện Khiêm chỉ thị tôi tháp tùng
bà đi thăm viếng, cúng dường các chùa chiền ở vùng Thủ Đức và vài chùa ở ven đô
Sài-gòn. Bà là người có đức tin tôn giáo mạnh mẽ và dường như bà hoàn toàn đặt
số mệnh của mình vào sự phò trợ của Đấng Thế tôn. Có lẽ nhờ vậy mà làm dịu đi
tánh năng động, tinh thần bà cũng bớt căng thẳng đối với sự lo âu của bà về
tình hình lúc đó.
Nhưng chúng tôi cũng không thể ngờ, một vị Sư trụ trì một trong các ngôi chùa ở
đây đã lợi dụng ảnh hưởng của bà để hoạt động tình báo cho Cộng sản.
Có sự khác biệt giữa bà và bà Nguyễn Văn Thiệu là bà biết nhiều về việc công của
Đại tướng hơn là bà Nguyễn Văn Thiệu biết về việc công của Tổng thống Thiệu.
Trước kia khi còn làm việc tại Phủ Tổng thống, tôi luôn luôn giữ lòng quý mến đối
với Tổng thống Phu nhân. Bà lúc nào cũng giữ nếp sống bình dị của người đàn bà
phúc hậu, bao dung của sông nước vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đối với tôi, bà
Thiệu là hình ảnh một người mẹ, một người vợ hiền đảm đang hơn là một vị Đệ nhất
Phu nhân sống trong tột đỉnh của quyền thế và nhung lụa giàu sang. Bà là điển
hình của mẫu người phụ nữ lớn lên trong gia đình được hấp thụ trọn vẹn một nền
giáo dục Khổng Mạnh mà chúng ta thường thấy trong xã hội miền Nam trong thập
niên 40.
Ở bà Thiệu luôn luôn tỏa ra sự trong sáng và vui tươi. Bà không bao giờ câu nệ
về cách ứng xử của nhân viên thuộc cấp; bà luôn luôn lên tiếng hỏi thăm sức khỏe
chúng tôi trước mỗi khi gặp mặt, không kịp để chúng tôi chào bà.
Điều đặc biệt là bà không bao giờ đề cập đến bất cứ chuyện gì có liên hệ đến việc
làm của Tổng thống Thiệu với chúng tôi. Trong suốt thời gian làm việc tại đây,
chỉ có một lần duy nhất tôi nghe bà than phiền với Tổng thống Thiệu về một nhân
vật có đầy quyền thế tại Phủ Tổng thống trong lúc tôi đang đứng bên cạnh.
Bà Trần Thiện Khiêm thì trái lại, năng động hơn. Về mặt giao tế, bà Khiêm là biểu
tượng cho mẫu người đàn bà sang trọng với vẻ đẹp quý phái của một mệnh phụ phu
nhân trong xã hội thượng lưu và quyền thế của Sài-gòn. Nếu chỉ quan sát bề
ngoài, người đời nghĩ là bà có đời sống hưởng thụ vật chất với tiệc tùng linh
đình như các bà trọc phú đương thời khác.
Thực tế hoàn toàn khác hẳn. Trong gia đình, tất cả mọi người,
anh chị em con cháu đều bị ràng buộc chặt chẽ vào khuôn khổ lễ giáo có truyền
thống Á đông. Có thể nói bà kiểm soát tất cả mọi sinh hoạt của đại gia đình khá
khắt khe; bà cũng rất khắt khe với chính bản thân bà và sống nép mình vào khuôn
khổ đó. Có lẽ do ở bản tính hướng thiện và thủ cựu nên bà thường hay đi chùa và
hay giúp đỡ người nghèo khó thế cô. Mọi nhân viên làm việc xung quanh đều được
bà tận tình hỏi han giúp đỡ.
Điểm đặc biệt là, trong một chừng mực nào đó, bà có chia sẻ với Đại tướng về một
số sự việc; cho nên thỉnh thoảng bà phát biểu công khai với chúng tôi và một số
người tín cẩn trong gia đình, những cảm nghĩ của bà về vài vấn đề của thời cuộc.
Mấy lúc sau này, đã có vài lần bà biểu lộ sự chống đối mạnh mẽ đối với Tổng thống
Thiệu. Có một hôm bà bảo tôi theo bà vào dinh Độc Lập để yêu cầu Tổng thống Thiệu
từ chức! Cũng may là chúng tôi chỉ được Tổng thống Phu nhân tiếp, nếu không thì
số phận tôi không biết đã đi về đâu!
Ngoài tính năng động ra, trong vài trường hợp cấp thiết, bà là người chủ động.
Do đó mà vào trung tuần tháng Tư, mấy ngày sau khi Thủ tướng từ chức, bà Trần
Thiện Khiêm cho người đến nhà tìm tướng Charles Timmes. Bà cho tôi biết Tướng
Timmes có viết cho bà lời nhắn trên một tấm thiệp nhỏ là xin đừng gọi điện thoại
vì nhà không có điện thoại (?!).
Trung tướng hồi hưu Charles Timmes là sĩ quan chỉ huy toán cố vấn Mỹ đầu tiên
có mặt ở Việt Nam từ năm 1961. Ông đã từng nhảy dù trong trận đổ bộ Normandie hồi
đệ II thế chiến. Sau một thời gian ở Việt Nam ông được tuyển dụng và trở thành
một viên chức cao cấp với nhiều thế lực của cơ quan tình báo Mỹ ở Sài Gòn. Tướng
Timmes quen biết và tiếp cận với hầu hết các tướng lãnh kể cả Đại tướng Dương Văn
Minh, Tướng Nguyễn Cao Kỳ... Nhiệm vụ của ông là “gần gũi và tìm hiểu tinh thần
các tướng lãnh, nên ai cũng là bạn của ông ta” theo như nhận xét của Đại tướng
Trần Thiện Khiêm cho tôi biết sau này.
Sau lần tiếp xúc đó, bà Trần Thiện Khiêm lại cho người đi mời Tướng Timmes đến
nhà dùng cơm tối vào ngày 17 tháng Tư. Khi Đại tướng đi làm về biết được chuyện
này, tôi nhận thấy ông có vẻ không hài lòng. Trong bữa ăn hôm đó, từ phòng ăn
gia đình gần nhà bếp tôi để ý thấy bà Khiêm có biểu lộ sự xúc động nhưng không
có điều gì phải òa lên khóc như Frank Snepp, một chuyên viên phân tách tình báo
cao cấp của cơ quan tình báo Hoa kỳ, đã diễn tả trong sách của ông ta, cuốn
Decent Interval, trang 377.
Cũng theo Frank Snepp thì nhân cơ hội hiếm có này, Tướng Timmes muốn thăm dò Đại
tướng Khiêm về việc từ chức của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Vào thời gian có quá nhiều xáo trộn chánh trị dồn dập của tháng Tư năm 1975,
tin tức hàng đầu vẫn là câu hỏi bao giờ Tổng thống Thiệu từ chức. Những người
quan tâm đến thời cuộc đều biết vào lúc đó Tòa Đại sứ và cơ quan tình báo Hoa Kỳ
đang tìm mọi cách để loại Tổng thống Thiệu hầu dựng lên một khuôn mặt ôn hòa
hơn. Đại tướng Dương Văn Minh là người hùng của cuộc Cách mạng 1 tháng 11, một
nhân vật được nhiều cảm tình của một số đông dân chúng miền Nam, có chủ trương
mềm dẻo đối với những đòi hỏi của Cộng sản, đang được tòa Đại sứ Mỹ đánh giá là
một ứng cử viên của tình thế mới.
Buổi trưa ngày 21 tháng Tư, Đại tướng Khiêm được Tổng thống Thiệu triệu tập vào
dinh Độc Lập họp cùng với Phó Tổng thống Trần Văn Hương trong gần một giờ đồng
hồ. Tôi theo Đại tướng vào dinh Độc Lập cho tới lúc ra về. Tôi biết đây là một
buổi họp rất quan trọng nhưng hoàn toàn không đoán ra chuyện gì. Mãi khi về tới
nhà, Đại tướng Khiêm bước xuống xe tại bậc tam cấp, ông không đi thẳng vào nhà
mà dừng lại chờ tôi bước tới rồi nói với nét mặt vui hơn mọi khi: “Chiều
nay mặc đồ đẹp, vào dinh Độc Lập nghe Tổng thống Thiệu đọc diễn văn từ chức!”.
Đó là vào khoảng gần 1 giờ trưa ngày 21 tháng Tư, tôi là người đầu tiên nhận được
nguồn tin vô cùng quan trọng mà “cả thế giới” đang chờ đợi.
Mẫu tin quan trọng này sẽ có giá trị rất lớn trong sự thăng tiến nghề nghiệp
truyền thông của một phóng viên quốc tế nếu họ nhận được tin đó trước vài tiếng
đồng hồ. Một thoáng suy nghĩ giữa lợi lộc và chữ tín, nhưng cũng vì lương tâm
chức nghiệp nên nguồn tin đã được giữ kín cho đến 7 giờ 30 tối hôm đó.
Sau này khi đọc các tài liệu và sách vở thì người đầu tiên biết được tin từ chức
không phải là tôi. Tòa Đại sứ Mỹ đã biết trước tôi! Trong lúc Tổng thống Thiệu
thông báo việc từ chức của ông cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương và Đại tướng
Trần Thiện Khiêm thì tại tòa Đại sứ Mỹ, hệ thống điện tử đã ghi âm rõ những gì
Tổng thống Thiệu nói như Frank Snepp đã ghi trong sách của ông, trang 394. Chuyện
nghe lén này dư luận cũng đặt ra nhiều giả thiết là người Mỹ bắt đầu nghe lén từ
lúc nào và bằng cách nào, đặt máy ở đâu. Đó là câu hỏi không nằm trong bài viết
này.
Tôi có mặt tại phòng Khánh Tiết trong dinh Độc Lập vào lúc Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu đọc diễn văn từ chức trước một cử tọa rất đông đảo gồm các nhà lập
pháp của hai viện Quốc hội với đầy đủ các viên chức Chánh phủ và các cơ quan
truyền thông. Ngay hôm đó Tổng thống Thiệu tuyên bố bàn giao chức vụ Tổng thống
Việt Nam Cộng Hòa lại cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương theo như Hiến Pháp đã
quy định…
Ngay sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, Ngoại trưởng Kissinger liền gởi cho ông
Graham Martin, Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài-gòn một điện văn. Tiến sĩ Kissinger yêu cầu
ông đại sứ chuyển lời bày tỏ lòng “kính trọng” của ông đối với
vị cựu Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa và đề nghị muốn giúp Tổng thống Thiệu rời
khỏi Việt Nam. (Decent Interval trang 396)
Cũng trong chiều hướng đó, sáng sớm hôm sau là ngày 22 tháng Tư, tướng Charles
Timmes vội vã đến tư dinh Đại tướng Khiêm xin được tiếp kiến. Đại tướng đã tiếp
ông hơn nửa tiếng đồng hồ. Rồi ngay chiều hôm đó Đại tướng Khiêm vào dinh Độc Lập
gặp Tổng thống Thiệu.
Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu,phải, Phó TT Nguyễn Cao
Kỳ, trái, trong một cuộc họp báo tại Dinh Độc Lập năm 1970. Photo Time
Life magazine
Chúng ta khó biết Đại tướng Khiêm nói gì với cựu Tổng thống Thiệu nhưng sẽ
không loại bỏ những gì Tướng Timmes muốn đề nghị lên ông Thiệu là nên ra đi khỏi
nước.
Sau này ở hải ngoại Đại tướng Trần Thiện Khiêm có cho tôi biết là ngay sau khi
Tổng thống Thiệu từ chức “cụ Hương muốn Tổng thống Thiệu và dượng Tư” đi
đường biển qua Singapore. Tiết lộ này trùng hợp với việc Thủ tướng Lý Quang Diệu
đã yêu cầu ông Hoàng Đức Nhã qua Singapore gặp ông để thông báo là giới chức Mỹ
muốn Tổng thống Thiệu phải đi lưu vong ở Singapore hoặc một thủ đô nào của các
quốc gia vùng Đông Nam Á. (Decent Interval trang 383)
Tuy đã từ chức xong cựu Tổng thống Thiệu vẫn còn ở trong dinh Độc Lập và còn áp
đặt nhiều ảnh hưởng khiến cho Tân Tổng thống Trần Văn Hương gặp nhiều khó khăn
trong đường lối thương nghị với Cộng sản theo như Oliver Todd ghi lại trong cuốn
sách Cruel April trang 327.
Để thấy ảnh hưởng của cựu Tổng thống Thiệu đối với Tân Tổng thống Trần Văn
Hương, tôi ghi ra đây giờ giấc làm việc của hai vị cựu và tân Tổng thống với sự
có mặt của Đại tướng Khiêm. Đây là ghi nhận từ phía văn phòng Đại tướng Khiêm.
Phần thời gian làm việc riêng giữa cựu Tổng thống Thiệu với Tổng thống Hương
thì có lẽ các quý vị sĩ quan tùy viên của cựu Tổng thống Thiệu xác nhận và bổ
túc thêm. Các vị ấy là Chánh tùy viên Đại tá Nguyễn Văn Đức, các sĩ quan tùy
viên: Đại úy Nguyễn Xuân Tám, Hải quân Đại úy Trần Anh Tuấn.
Chương trình này tôi có ghi vào sổ tay như sau:
· Ngày 22 tháng Tư, Đại tướng Khiêm:
16:00 giờ vào dinh Độc Lập gặp cựu Tổng thống Thiệu.
18:00 giờ qua cánh phải, tại văn phòng của Tổng Thống, gặp Tổng thống Hương.
· Ngày 23 tháng Tư, Đại tướng Khiêm:
16:30 giờ vào dinh Độc Lập gặp Tổng thống Hương khoảng 20 phút rồi qua cánh
trái dinh Độc Lập gặp cựu Tổng thống Thiệu. Sau đó Tổng thống Hương, cựu Tổng
thống Thiệu và Đại tướng họp cho đến 20:00 giờ.
· Ngày 24 tháng Tư, Đại tướng Khiêm:
Lúc 15:00 giờ vào dinh Độc Lập gặp cựu Tổng thống Thiệu, sau đó qua văn phòng Tổng
thống Hương, rồi cùng họp với cựu Tổng thống Thiệu và Tổng thống Hương.
Ngày 25 tháng Tư, Đại tướng Khiêm Lúc: 09:00 giờ sáng vào dinh gặp Tổng thống
Hương, cựu Tổng thống Thiệu và Đại sứ Pháp Jean-Marie Mérillon của nước Pháp.
Ngoài ra theo Frank Snepp, Đại tướng Dương Văn Minh (lúc này Đại Tướng Minh
chưa có vai trò gì trong chánh quyền) cũng đã góp một phần lớn vào sức ép buộc
cựu Tổng thống Thiệu phải rời khỏi nước. Tướng Minh cho rằng sự có mặt của ông
Thiệu làm cản trở tiến trình hòa bình do ông chủ trương nên ông yêu cầu tướng
Timmes phải bằng mọi cách thúc bách cựu Tổng thống Thiệu sớm ra đi.
Khi biết được điều này, Đại sứ Martin rất lấy làm phấn khởi;
trước hết ông không muốn bị mang tai tiếng về việc ra đi của ông Thiệu, ông muốn
cho dư luận tin rằng đó là sức ép từ các thế lực địa phương – không phải từ
phía tòa Đại sứ Mỹ. (Decent Interval, trang 434)
Một tiết lộ khác của Oliver Todd, trong cuốn Cruel April, là cuối cùng Tổng thống
Trần Văn Hương phải quyết định triệu hồi Đại sứ Martin vào dinh Độc Lập. Cụ
Hương nêu ra nhiều lý do và nhấn mạnh với ông Martin là nếu còn có sự hiện diện
của ông Thiệu ở Sài Gòn thì chánh quyền do ông lãnh đạo khó tiến hành các cuộc
hòa đàm với phía bên kia. Tổng Thống Hương yêu cầu nước Mỹ nhận ông Thiệu sang
sống lưu vong. Ông Đại sứ hứa là chánh quyền Mỹ sẵn sàng chấp nhận ông Thiệu
sang sinh sống ở Hoa Kỳ.
Nay nhìn lại các hoạt động của tướng Timmes và dựa vào các văn kiện của các Bộ
Ngoại giao và Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, chúng ta thấy rõ ràng đã có áp lực mạnh mẽ từ
Hoa Thịnh Đốn buộc ông Thiệu phải đi ra khỏi nước theo kế hoạch của họ ngay sau
khi ông từ chức.
Văn kiện đầu tiên được gởi đi từ Hoa Thịnh Đốn, đúng 12 tiếng đồng hồ sau khi Tổng
thống Thiệu từ chức, là:
Buổi sáng ngày 22 tháng 4, năm 1975, thừa lệnh Tổng thống Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ,
Bộ Tư pháp của chánh phủ này đã gởi điện văn ủy quyền cho tòa Đại sứ Mỹ tại Việt
Nam cấp một số parole documents (giấy tạm cư) cho phái đoàn cựu Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu. (Cruel April, trang 327)
Giấy tạm cư này có phát cho chúng tôi; ngày phái đoàn rời Việt Nam là ngày 25
tháng 4, 1975 mà trên parole documents do tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn cấp, lại đề
ngày April 22, 1975
Chuẩn bị ra đi Tại tư dinh Đại tướng Trần Thiện Khiêm. Buổi sáng ngày 25 tháng
Tư, tôi thức dậy trễ vì đêm rồi Đại úy Mùi, sĩ quan tùy viên của Đại tướng và
tôi xem tivi, nói chuyện rất khuya. Ăn mặc vội vàng rồi như thường lệ tôi đến
phòng trực của Sĩ quan Tùy viên. Đây là một phòng nhỏ, chỉ kê có một bàn viết
ngay cửa ra vào tư dinh của Đại tướng. Trung tá Đặng Văn Châu là Chánh Văn
phòng đã có mặt tại đó. Ông vừa được chỉ định thay thế Đại tá Nguyễn Trọng Hồng.
Tôi quan sát thấy ông có vẻ bận rộn hơn những ngày thường.
Lúc này vào khoảng 8 giờ rưởi. Bên ngoài trời có nắng đẹp.
Tiếng người hối thúc nhau và tiếng ồn ào của đủ loại xe cộ chạy trên đường Võ
Tánh trước cửa tư dinh Đại tướng trong thời gian gần đây càng dồn dập, hối thúc
hơn. Từ khi tiễn bà Trần Thiện Khiêm đi Đài Bắc, sau giờ làm việc tôi không về
nhà bên vợ như thường lệ, theo lời dặn của bà là phải dành ưu tiên lo an ninh
cho Đại tướng; do đó không lúc nào tôi rời ông trong bất cứ hoàn cảnh nào, lúc
đi ra ngoài cũng như lúc ở nhà.
Ngay khi ngủ ban đêm, để bảo đảm an ninh tối đa cho Đại tướng,
Đại úy Mùi và tôi quyết định trải chiếu ngủ tại phòng ăn, ngay dưới chân cầu
thang dẫn lên phòng ngủ của Đại tướng ở trên lầu. Phòng làm việc của Đại tướng
cũng ở trên đó, đặt cạnh phòng ngủ. Trung tá Châu cho biết là chỉ thị của Đại
tướng muốn tôi ra ngân hàng quốc gia đổi 3 triệu đồng bạc Việt Nam để lấy tiền
Mỹ kim bằng bạc mặt (cash). Trung tá Châu còn lo xa và muốn cho việc đổi tiền
được mau lẹ nên đã gọi điện thoại đến các cơ quan liên hệ trước vì tôi là người
lạ mới về làm việc tại tư dinh chỉ mới hơn ba tuần lễ.
Tài xế đưa tôi đến thẳng văn phòng ông Bộ trưởng Phủ Thủ tướng.
Người đầu tiên tôi gặp là ông Nguyễn văn Thân, bí thư của ông Bộ trưởng. Anh
Thân hiện định cư ở thành phố San Jose, miền bắc California. Cũng may anh Thân
và tôi đã quen nhau từ trước. Anh là người vui tánh, lanh lẹ và cởi mở. Tôi cho
anh biết ngay là Đại tướng Cố vấn cần mỹ kim, bằng tiền mặt, để dùng cho công
tác đặc biệt. Anh bảo tôi chờ để anh trình lên ông Bộ trưởng. Anh và tôi ngồi
nói chuyện thời sự khoảng 20 phút thì văn thư làm xong.
Tôi cám ơn anh Thân rồi xuống phòng phía dưới lầu gặp ông Phạm
Văn Phàng, Chánh sự vụ Sở Công văn, để lấy văn thư đến Bộ Tài chánh. Trong văn
thư ông Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Nguyễn Long Châu gởi ông Tổng Trưởng Tài chánh
yêu cầu thỏa mãn nhu cầu của Đại Tướng. Bản văn nầy mang số 899 P Th T/HCPC/5,
hiện tôi còn giữ. Lúc đó vào khoảng 10 giờ hơn. Tôi vội vã rời Phủ Thủ tướng đến
thẳng Bộ Tài chánh. Khi đến Bộ Tài chánh thì được giới chức tại đó cho biết là
ông Tổng trưởng đang họp và buổi họp sẽ kéo dài lâu lắm.
Tôi hơi thắc mắc về câu nói “buổi họp sẽ kéo dài lâu lắm”
nhưng tôi vẫn cứ chờ. Sau đó tôi có nhắc đây là yêu cầu của Đại tướng và có ai
có thẩm quyền ở đây không ngoài ông Tổng trưởng. Họ trả lời không dứt khoát và
yêu cầu tôi cứ chờ. Chờ mãi đến giờ trưa vì đói nên tôi cùng tài xế và anh hiệu
thính viên truyền tin ra chợ cũ, đến tiệm Thanh Xuân ăn hủ tiếu. Tôi không ngờ
đó là bữa ăn cuối cùng mà mãi cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ hương vị hủ tiếu
Thanh Xuân của khu chợ cũ năm nào.
Sau khi ăn xong, chúng tôi trở lại Bộ Tài Chánh. Ông Tổng
trưởng vẫn còn đang họp! Lúc đó thì đã xế trưa. Tổng trưởng Tài chánh lúc bấy
giờ là ông Lê Quang Trường thuộc Nội các Nguyễn Bá Cẩn. Tôi đành phải kiên nhẫn
chờ mặc dầu tôi nghi ngờ về việc “họp” của ông Tổng trưởng.
Tôi có ý nghĩ không tốt về vị Tổng trưởng này lúc đó. Về sau, được biết sau
tháng 4/1975, Tổng trưởng Lê Quang Trường cũng bị bắt và bị đưa đi “học
tập cải tạo” như bao người khác. Tôi hối hận vì đã nghi oan cho ông.
Trong lúc tôi vắng mặt tại tư dinh, Đại tướng Trần Thiện Khiêm
đã tiếp tướng Timmes lúc 11 giờ 50 trưa và sau đó tiếp ông Polgar vào lúc 1 giờ.
Ông Thomas Polgar là Trưởng chi nhánh tình báo Hoa Kỳ tại Sài-gòn. Ông chỉ huy
và điều hành một cơ quan tình báo rất hùng hậu gồm hàng ngàn nhân viên. Ngoài
hoạt động điều nghiên, thu thập tin tức địch, họ còn có mặt ở mọi nơi, len lỏi
vào mọi ngành, mọi cấp của chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa. Polgar là một nhân vật
có ảnh hưởng rất lớn trong mọi sinh hoạt chánh trị và quân sự ở Sài Gòn. Tôi vừa
về tới thì thấy ông này vừa ra về.
Lúc đang chờ tại văn phòng ông Tổng trưởng Tài chánh thì anh tài xế bất chợt xô
cửa bước vào, cho biết lịnh của Đại tướng là phải trở về nhà gấp.
Trước khi trở về bộ Tổng Tham mưu, tôi cho xe chạy vòng qua chợ Trương Minh Giảng,
về nhà đứa em thứ Tám của tôi ở trong một đường hẻm nhỏ. Má tôi cũng ở đó. Tôi
không gặp được ai ngoài anh Chứ, người anh thứ Tư của tôi. Tôi cho anh biết một
số sự việc và báo là tôi có thể sẽ đi một mình thôi, không đem ai theo được.
Các anh em còn lại chỉ còn có con đường duy nhất là hãy xuống phi trường Trà
Nóc ở Cần Thơ nhờ Hưng lo liệu. Hưng là em trai kế của tôi, đại úy phi công lái
Cessna. Tôi căn dặn thêm là nói với Hưng, chỉ có con đường cuối cùng là lái phi
cơ thẳng qua phi trường Utapao, Thái Lan.
Trên đường về tư dinh Đại tướng Khiêm, theo thói quen, tài xế thường chạy xe
qua đường Trương Quốc Dung – con đường dẫn vào cổng số 5 Bộ Tổng Tham mưu là
con đường nhỏ nối liền đại lộ Cách Mạng 1 tháng 11 và đường Võ Tánh. Khi chạy
ngang qua nhà anh Nguyễn Thanh Vân thì tôi thấy anh đang đứng ngay trước cổng
nhà có vẻ như trông chờ ai. Tôi cho xe dừng lại và cũng vì chỗ thân tình, tôi
khuyên là “các anh em” có phương tiện gì thì cứ đi đi. Các anh
em mà tôi nhắn ở đây là những bạn học cũ ở trường Petrus Ký trước kia, một số
là sĩ quan Hải quân và một số bạn dân sự khác gồm có anh Trần Khánh Vân.
Lúc đó Vân đang là Tổng cục Trưởng Tổng cục Gia cư. Tôi
không biết là vào lúc đó, trong số họ, nhiều người đã đi rồi! Mặc dầu không nói
ra nhưng khi Đại tướng Khiêm muốn tôi đích thân đi đổi tiền cũng là một cách
gián tiếp cho tôi biết là phải “sẵn sàng để đi”. Có một việc bất ngờ
xảy ra trước đó hai hôm cũng cho tôi thấy Đại tướng có ngầm ý cho tôi biết
là “phải chuẩn bị”. Thông thường Đại Tướng Khiêm ăn trưa xong
là đi thẳng lên lầu nghỉ trưa, ít khi đi dạo phía sau vườn. Trưa ngày 23 tháng
Tư, vừa ăn xong, Đại tướng không lên lầu mà lại đi ra phía sau nhà.
Tôi đi theo sau ông. Đại tướng vừa bước ra khỏi cửa sau thì
bỗng có chiếc xe Mazda từ ngoài chạy vào. Tài xế thấy ông, giật mình dừng xe lại.
Liền sau đó vợ tôi bước xuống. Cô nầy vừa khoanh tay khom mình chưa kịp thưa
thì ông đã nạt lớn: “Sao không đi đi, còn ở đây làm gì!”. Nhà tôi sợ
quá, vội vàng leo lên xe. Trong khi xe đang quay đầu chưa kịp chạy thì Đại tướng
lại la tiếp: “Đi liền đi, còn chờ gì nữa!”. Bà xã tôi và tôi chưa kịp
nói với nhau lời nào. Ngày hôm sau, gia đình bên vợ tôi lên máy bay Air Việt
Nam đi Pháp. Ba vợ tôi là ông Đinh Văn Re còn ở lại nên tôi mới có dịp gọi điện
thoại cho ông vào phút chót, lúc Đại tướng Khiêm sắp sửa lên đường.
Khi tôi về đến tư dinh thì thấy mọi người đều lăng xăng trong bầu không khí
khác thường. Thiếu tá Đinh Sơn Thông là em bà Khiêm và cũng là Bí thư của Đại
tướng nói với tôi là hãy đi nghỉ ngơi rồi ăn mặc chỉnh tề để chuẩn bị tiếp
khách theo lệnh của thượng cấp. Đến đây thì tôi thấy chắc chắn hôm nay là ngày
lên đường, nhưng cá nhân tôi thì vẫn chưa có quyết định.
Nghỉ ngơi trong chốc lát rồi tắm rửa thay thường phục xong, tôi chưa vội khoác
áo ngoài. Theo thông lệ tôi đi một vòng quanh nhà để kiểm soát các quân nhân
canh gác và toán cận vệ rồi trở vào bằng cửa sau.
Trước hết phải đi qua nhà bếp. Các anh làm bếp đang bận rộn nấu ăn, khuôn mặt
người nào cũng có vẻ ưu tư, lo lắng; chốc chốc người nọ nhìn người kia như để gạ
hỏi điều gì. Họ thấy tôi ăn mặc khác thường nên càng xầm xì nhiều hơn vì trong
suốt thời gian làm việc tại tư dinh Đại tướng tôi chỉ mặc quân phục. Đặc biệt
hôm nay tôi lại thay quần áo thường phục. Để tránh sự tò mò, tôi nói giả lả vài
câu chuyện rồi bước lên nhà trên.
Nhìn qua phòng khách tôi thấy bàn ăn đang đặt tại đó. Tôi nghĩ bụng, đáng lẽ ra
phải dọn tiệc tại phòng ăn, ai lại dọn lên phòng khách. Phòng ăn rộng rãi và
khang trang hơn. Dĩ nhiên đây là dấu hiệu bất thường. Rồi tôi đi về phía trước
nhà.
Đến phòng trực của sĩ quan tùy viên, tôi thấy Thiếu tá Lưu là sĩ quan tùy viên
lên ca, thay thế Đại úy Mùi làm việc ngày hôm trước. Anh đang xem xét giấy tờ
và bận rộn lo giải quyết công việc thường nhật một cách bình thản coi như không
có chuyện gì xảy ra. Hình ảnh anh Lưu để lại trong tôi một ấn tượng thật tốt đẹp.
Sự tận tụy và tinh thần phục vụ của anh trong giây phút này thật là đáng quý.
Tôi tin anh đã biết rõ mọi chuyện vì anh là người có họ hàng với gia đình Đại
tướng.
Một lúc sau ông Trần Thiện Phương là anh ruột của Đại tướng đến. Ông đi thẳng
lên lầu gặp Đại tướng trong vòng vài phút rồi vội vã ra về. Sau đó Thiếu tá
Đinh Sơn Tuyền là em bà Đại tướng cũng tới. Tôi đến chào ông Tuyền đang ngồi tại
hành lang trước nhà với vẻ mặt trầm tư. Tôi trao số tiền 3 triệu đồng bạc lại
cho ông. Sau đó Thiếu tá Tuyền chỉ vào thưa chuyện với Đại tướng trong vòng vài
phút rồi cũng vội vã ra về.
Gần xế thì có lịnh từ Sở An ninh hoàn trả Đại úy Vân và toán cận vệ của anh về
phủ Thủ tướng. Toán quân nhân gác nhà cũng được trả về Liên đoàn An ninh Danh dự.
Kể từ giờ phút này nhà Đại tướng Khiêm coi như bỏ ngỏ. Tôi bắt đầu lo lắng.
Lúc này cũng đã hơn 6 giờ chiều.
Vì thấy tôi có vẻ đăm chiêu Trung tá Châu cho biết là chiều nay Đại tướng muốn
chánh thức mời Tổng thống Thiệu, vài nhân vật trong nội các và ngoại giao đoàn
đến dự tiệc để ông chào giã biệt vì từ ngày từ chức Thủ tướng đến nay chưa có dịp
tổ chức. Tôi biết đó chỉ là lối ngụy trang cho chuyến đi. Tôi chỉ thắc mắc tại
sao lại có Tổng thống Thiệu, tôi nghĩ Tổng thống Thiệu đã có kế hoạch ra đi
riêng của ông.
Trời vừa chập choạng tối thì các món ăn cũng được dọn lên. Hôm đó có chả giò,
nem nướng; mấy dĩa chả giò cuốn nhỏ, chiên giòn được bày ra trông rất đẹp mắt.
Cách trình bày cũng làm cho thực khách cảm thấy món ăn ngon miệng hơn, nhưng
lúc này lòng dạ trăm thứ ngổn ngang thì bụng nào thấy đói.
Gói quà đặc biệt Tại tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ...
Tòa Đại sứ Mỹ nằm trên đường Thống Nhất, cách dinh Độc Lập vài khoảng đường, “từ
đó có thể nhìn thấy các sinh hoạt của dinh Độc Lập”. “Vào lúc 5 giờ
Thomas Polgar gọi chúng tôi bốn người gồm có tướng Timmes, anh Joe Kingsley và
một nhân viên khác rồi hỏi chúng tôi là các ông có rành đường phố Sài-Gòn ban
đêm không. Chúng tôi đều gật đầu. Thế thì tốt, Polgar tiếp, tôi muốn các ông
giúp tôi đưa Thiệu và cựu Thủ tướng Khiêm đi Đài Loan tối nay …”
NTP
Đăng nhận xét