KÍNH GIỚI THIỆU TRANG TRUYỆN NGẮN NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA & LÊ THỊ NHỊ
KÍNH GIỚI THIỆU TRANG TRUYỆN NGẮN NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA & LÊ THỊ NHỊ
Truyện ngắn mới: "Nụ Hôn Vĩnh Biệt" (Tháng Năm 2024) -- Nguyễn Ngọc Hoa
Mời đọc truyện
ngắn thứ tám
của
loạt truyện "Cố
Quốc Tha Hương," hay Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa XI.
Xin đọc bản text
dưới đây hay bản .pdf đính kèm.
https://dconnect.co.jp/friend/tacbut/nv-hoa/TruyenNgan_NNHoa/index.html
https://dconnect.co.jp/friend/
Xin chúc quý thân hữu
và quý quyến một cuối tuần vui vẻ và thân tâm thường an lạc.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa
“Thằng Ba Hoa ni đi
mô mà cau có như nhà khó hết ăn rứa?”
“Ngày anh con đi
dạy, học trò kêu là ‘Ông Ba Bông Héo,’ mẹ không biết sao?” Bình cô em gái duy
nhất bước tới ôm chào tôi và đỡ lời mẹ.
“Hồi đó tụi học trò
con gái phá như quỷ khiến tao sợ sốt vó phải làm bộ lập nghiêm thôi,” tôi cười
dã lã.
“Ba Hoa là một
cây nhát gái, có chị làm chứng nì,” giọng phụ nữ nói tiếng Huế vang
lên.
Tôi giật mình la lớn
khi thấy người đàn bà có tuổi xinh đẹp, “Chị Quyên!” Tôi
ôm chào chị và rỉ tai câu nói đã hơn một lần xuất hiện trong giấc ngủ
mộng mị của thời niên thiếu,
“Chị biết không, người
yêu đầu đời của tôi là cái cô đẹp đẹp lớn hơn tôi đến sáu tuổi, làm quả phụ đến
lần thứ ba mà còn trinh bạch, và thương tôi như chị vậy.”
Bình giải thích sự hiện
diện của Quyên,
“Mẹ gặp chị Quyên
tháng trước, khi lên chùa Linh Bảo làm công quả. Chị nhận ra mẹ và nhắc lại
ngày đó mẹ cầm đầu phái đoàn Ủy lạo Gia đình Tử sĩ đến điếu tang và chia buồn
khi chồng chị là anh Hoàng bị Việt Cộng sát hại; anh là trung úy dưới quyền cha
ở Trung đoàn XX.”
“Nghe nói Ba Hoa
về Austin, chị không thể bỏ quá dịp gặp lại em,” Quyên rưng rưng tiếp lời Bình.
* * *d
Ba mươi năm trước,
tôi học đệ nhất (lớp 12) ở Ban Mê Thuột (“BMT”) và tối cuối tuần hay la cà
ngoài phố với Dương, bạn thân của ông chú họ tôi ngoài Huế. Anh là thiếu
úy tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia khóa 19 và phục vụ tại bộ Tư lệnh Sư đoàn
YY Bộ binh. Anh đưa tôi đi ăn và đi quanh quẩn trong phố rồi vào ngồi
quán cà-phê Trúc trên đường Quang Trung. Quán bán cả bia rượu, có sàn nhảy
để khiêu vũ, và cuối tuần có nhạc sống. Tôi nhỏ tuổi nhất trong số khách
đến quán nên chịu phép ngồi yên uống Coca-Cola và nghe lóm chuyện người lớn.
Đến khuya, chúng tôi đi bộ dăm bảy phút về phía sau nhà tôi, vạch hàng rào kẽm
gai chui qua, và leo lên gác ngủ. Căn gác có lối đi lên riêng, chúng tôi
đi về không ai hay.
Khoảng gần Tết, Hoàng
về BMT. Có một thời anh đính hôn với bà cô họ tôi ngoài Huế, nhưng không
biết vì lý do gì nhà gái thối hôn. Anh thi rớt Tú tài I, tình nguyện nhập
ngũ vào Liên trường Võ khoa Thủ Đức khóa 13, và ra trường phục vụ ở Phan Thiết
vài năm trước khi được thăng trung úy và đổi về Trung đoàn XX Bộ binh của
cha. Anh uống rượu như hũ chìm, hành sự bốc đồng, và không chín chắn điềm
đạm như Dương.
Một tối Chủ Nhật, tôi
và Dương vào quán Trúc nhập bọn với Hoàng và nhóm sĩ quan đồng ngũ của
anh. Khoe khoang về một cô gái mới quen, anh xuýt xoa,
“Người chi mà
đẹp lạ đẹp lùng! Vẻ mặt xinh xắn, thân hình hoàn hảo, và dáng đi yêu kiều.
Tui mà lấy được hắn một ngày rồi bữa sau ngủm củ lèo cũng
thỏa dạ!”
Đại úy Cân thượng cấp
của anh ngồi trong bàn rượu cho biết người đẹp là Tôn nữ Lệ Quyên, giáo sư trường
Sư phạm Cao nguyên đào tạo giáo viên người Thượng, bị đồn đãi là có số sát phu
rất nặng; ông nói,
“Năm ngoái thằng
trung úy An đại đội trưởng của tao đi hỏi nó, được hai tuần thì bị bắn chết khi
đi hành quân ở Buôn Hô. Đầu năm nay, thằng trung úy Bình từ Pleiku đổi về
thay thằng An, điếc không sợ súng, mê sắc đẹp hồ ly, và đính hôn với nó đúng ba
tuần rồi cũng tiêu tùng.”
Bị tiếng sét ái tình
đánh gục nên Hoàng bất chấp lời đồn đãi và một tháng sau, nhờ ông Cân đứng làm
chủ hôn đám cưới của anh và Quyên. Chỉ được hai tuần, một buổi tối giữa
tuần Dương đến căn gác của tôi. Thấy nét mặt anh buồn dàu dàu, tôi đoán
ra,
“Anh Hoàng chết rồi,
phải không?”
“Đêm qua nó cầm đèn
pin đi xem xét giao thông hào phòng thủ, vô ý để đèn pin rọi hướng ra ngoài, và
bị bắn sẻ chết. Tau được lệnh ‘ông già’ nói chuyện với mi
và giao công tác cho mi.” “Ông già” anh nói là cha.
“Học trò quèn như tui
mà làm được chi?” Nhưng lệnh cha không thể không làm.
Để thi hành công tác,
tôi tháp tùng mẹ và các phu nhân trong phái đoàn Ủy lạo đến nhà Quyên. Chị
nhân tiện mời tôi trở lại lấy sách mà Hoàng đã gửi mua ở Sài gòn cho tôi.
Buổi tối đến chị lấy sách, tôi vừa xem sách vừa nói chuyện trong khi chị nấu
chè đậu xanh đánh – món ăn khoái khẩu của tôi – cho tôi ăn. Dần dần tôi
quen thân với chị, đến chị tối thứ Sáu (trước ngày gặp Dương để báo cáo công
tác), và được chị chiều chuộng như em trai cưng. Chị không bao giờ đề cập
tới tin tức liên hệ tới cha hay Trung đoàn XX nên công tác dò xét của tôi không
có kết quả. Chị thố lộ,
“Lễ cưới vừa xong,
anh Hoàng bị gọi vô đơn vị cắm trại 100 phần trăm. Rồi anh đi! Qua
ba đời chồng mà chị còn trong trắng như thời học Đại học Khoa học Huế.”
Quyên tận tình chỉ dẫn
tôi tìm hiểu các ngành học ở đại học và cân nhắc sở trường của mình. Nhờ
đó, tôi nộp đơn thi vào trường Cao đẳng Điện học, về Sài gòn thi, và trúng tuyển.
Tôi đến chị báo tin thi đậu và từ giã trước khi về Sài gòn học. Chị gượng
cười, nhưng mặt buồn rười rượi,
“Chúc mừng ông kỹ sư
tương lai! Cha chị đau nặng có lẽ không qua khỏi, chị phải về Huế liền.”
“Mai mốt chị có trở lại
không?”
“Chị đã xin nghỉ dạy.
Em đi rồi, chị còn ai thân thiết ở thành phố Buồn Muôn Thuở ni?”
Trời đổ mưa tầm tã
khi tôi ra về. Chị gọi xích lô và đi cùng với tôi, nói để trả tiền
xe. Mưa lộp độp trên tấm bạt che át tiếng nói, chúng tôi phải kề mặt thật
sát nhau mới nghe rõ. Trong khoang xích lô chật hẹp, hai thân hình tựa
khít vào nhau. Hơi ấm từ cơ thể chị khiến người tôi nóng ran và tim đập
thình thịch. Chị thì thầm, hơi thở thơm tho quyến rủ,
“Chị còn con gái, em
nhớ không?”
“Ư ư . . .,” tôi bấn
đầu bấn óc.
“Chị sẵn lòng cho em
hết. Tới sân nhà rồi, cho chị lên gác với em.”
“Không chị ơi,” tôi
choàng tỉnh, nhảy ra ngoài xe, và thở hổn hển chạy ào lên gác.
Ba hôm sau, lòng còn
vương vấn nỗi buồn xa Quyên, tôi theo Dương đến quán Trúc dự tiệc “rửa lon” của
ông Cân, ông vừa được thăng chức thiếu tá. Khoảng chín giờ tối, tôi uống
đến chai Coca-Cola thứ ba, và Dương vừa từ sàn nhảy trở lại, Quyên chợt xuất hiện
kéo tay tôi,
“Mau theo chị, chạy
mau . . .”
Tôi theo Quyên như
cái máy; Dương cũng theo bén gót. Ba phút sau, khi đã chạy ra ngoài khá
xa, chúng tôi nghe hai tiếng nổ lớn từ trong quán phát ra. Chợt
hiểu ra, anh chộp hai tay chị khóa chặt,
“Mi . . . cô
là đặc công Việt Cộng! Cô đã chỉ điểm đồng bọn ám toán ba người sĩ quan
bên tôi; chừ khủng bố giết người.”
“Buông tay cho tôi ngồi,
tôi sẽ khai,” được Dương cho ngồi bên vệ đường, chị chậm rãi nói, “Biết các anh
gài Ba Hoa giao tiếp với tôi để thám thính, phía chúng tôi án binh bất động
nên các anh không tìm ra manh mối về chuyện ba anh chồng hờ của tôi bị chỉ điểm
và phục kích bắn tỉa. Tôi được lệnh bắt cóc Ba Hoa đưa vào mật khu
làm con tin trước ngày em đi Sài gòn, nhưng nhất định không chịu nên bị họ nhốt
ở chỗ ẩn náu bí mật dưới suối Đốc Học.”
Quyên tha thiết nhìn
tôi,
“Chị không thể nào hại
em! Chị nghe lén kế hoạch đánh quán Trúc: Cán bộ cảm tử hai tay cầm
hai quả lựu đạn vào tận bên trong mới rút chốt để cùng chết chung. Chị
tìm cách thoát thân và tìm đến vừa đúng lúc để cứu em.”
* * *
Kỷ niệm xưa bàng bạc
trong tâm tư, trưa thứ Bảy tôi đến nhà Quyên ở Pflugerville, thành phố lân cận
với Austin. Chúng tôi đứng trong nhà bếp, chị vừa thuật lại chuyện đời chị
sau đêm lựu đạn nổ vừa nấu nồi bún bò và soong chè đậu xanh đánh đãi tôi, giống
như ngày tôi đến nhà chị “do thám.”
Sau khi tôi sợ hãi chạy
một mạch về nhà, Dương quyết định thả Quyên đi, thay vì giải chị giao cho An
ninh Quân đội. Chị về Huế sống với gia đình và để giữ trọn lời hứa với
anh sẽ cải tà quy chánh, dùng giấy tờ của cô em Lệ Hoa nhỏ hơn chị một tuổi và
giống hệt như chị để trở lại học Đại học Khoa học Huế.
Hằng ngày Lệ Hoa (tên
mới của Quyên) đến thăm hỏi và săn sóc mẹ Dương. Anh là con một, cha mất
sớm, mẹ buôn tảo bán tần nuôi ăn học đến khi anh vào trường Võ bị. Bà mẹ
thương mến chị và giục giã anh cưới chị, nhưng anh cứ lần lữa – có lẽ chưa quên
chuyện cũ. Mãi đến khi bà mẹ lâm bệnh nặng chờ chết, anh mới chịu cưới chạy
tang; nhưng chị đợi sau khi lấy bằng Cử nhân Khoa học Ứng dụng về tạo tác thủy
lợi mới dọn lên BMT sống với anh. Anh được thăng chức nhanh, làm trung tá
trưởng Phòng Tư (ban Tiếp liệu) của Sư đoàn YY, và năm 1974 tử nạn khi bay trực
thăng thị sát chiến trường, trực thăng trúng hỏa tiễn B-40 của Việt Cộng rồi bốc
cháy. Lúc đó, chị vừa sinh cô con gái thứ hai.
Lệ Hoa đưa con về Sài
gòn sinh sống. Giữa cơn hấp hối của Sài gòn cuối tháng Tư năm 1975, biết
Việt Cộng sẽ không bao giờ tha “kẻ phản bội” như mình, chị nhờ Phấn,
thiếu tá Hải quân độc thân và bạn thân đồng khóa Võ bị của Dương, dàn xếp cho mẹ
con chị di tản bằng tàu Hải quân với gia đình ông ta gồm mẹ và cô em
gái. Sang đến đảo Guam, mỗi gia đình đi một ngả: Phấn sang trại tỵ
nạn Đồn Indiantown Gap ở tiểu bang Pennsylvania, và chị sang trại Đồn Chaffee ở
Arkansas. Từ trại Đồn Chaffee, chị được bảo trợ ra định cư ở Austin và
làm kỹ sư thủy lợi cho sở Điện lực Thành phố Austin.
Phấn định cư ở
Chicago, Illinois làm phụ thợ máy. Hai năm sau, mẹ ông mất và cô em gái lấy
chồng và ra riêng, ông gọi điện thoại nhờ Lệ Hoa sắp xếp để dời về Austin làm
việc trong xưởng hàn điện tử. Hai người ở gần nhau, ông ghé thăm chị hằng
ngày, chăm sóc con chị, và sau cùng xin lập gia đình với chị. Nhân bị xưởng
hàn điện tử sa thải, ông học làm nail, một nghề đang bộc phát mạnh
mẽ ở Hoa kỳ. Ông khéo tay và chiều khách, dần dần sang lại tiệm làm chủ,
và mở thêm tiệm thứ hai rồi tiệm thứ ba. Ông làm giàu nhanh chóng, và chị
sinh cho ông một cô con gái.
Trong tay đã sẵn đồng
tiền, Phấn hay trở chứng bay về Sài gòn du hí với các “em” trẻ đẹp
chiều chuộng ông hết mình. Sau một chuyến áo gấm về làng, ông trở
về kiếm cớ ly dị Lệ Hoa rồi đưa cô vợ mới mới hai mươi tuổi sang Hoa kỳ.
Người đẹp của ông là cô gái Sóc Trăng nhà quê học chưa hết lớp 6 và hoàn toàn lạc
lõng ở xứ này vì không biết một chữ tiếng Anh, không biết sử dụng dụng cụ trong
nhà, và không biết nấu ăn. Cùng kế, ông lạy lục chị đến chỉ dạy cô vợ mới
làm chuyện nhà, nhưng chỉ hoài công. Rồi đứa con gái của cô ta ra đời,
ông lại cậy chị nuôi dạy. Chị không nỡ lòng từ chối, và bé gọi chị là “Má
Hai.” Ngày bé lên ba, ông bị liệt tim lăn đùng ra chết. Chị lo
ma chay trọn vẹn cho ông rồi đưa vợ ông – mẹ bé – về nuôi, gánh thêm một “cô
con gái.”
Chiều lại, đến giờ
tôi hẹn ăn tối với mẹ và Bình, tôi và Lệ Hoa nắm tay nhau đi ra cửa, hai bàn
tay không muốn rời nhau. Chị mơ màng nói qua nước mắt,
“Trong đời chị, hạnh
phúc thần tiên nhất là đêm mưa gió ngồi kề bên em trong khoang xích lô trên xứ bùn
đỏ bụi hồng.”
Tôi xúc động tận cùng
và không thể kềm lòng, đắm đuối hôn lên môi Lệ Hoa. Nụ hôn đầu tiên
và cũng là nụ hôn vĩnh biệt. Vì chúng tôi không thể gặp lại
nhau.
Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày 29 tháng Năm, 2024
NGƯỜI TÌNH CHU VĂN AN
Ngày
5 thắng 9 năm 2024
*****
Bài
Email kể lại Truyện tình một Chàng trai Chu văn An của Saigon
ngày xưa.
Cá
nhân tôi không được như thế.,Những năm hoc tại Chu văn An, cắm đầu vào
học,
hoc
và hoc,mải tới năm 1959,đi hoc tại Khoa Hoc, trên đường nhìn vào Trường
Nguyễn Bá Tòng và nghĩ hoc sinh Nguyễn Bá Tòng,là lạ và vui
thật, giá như được làm quen.
Bỉnh
Khiêm, nhưng chưa biết, làm sao để đến ,, Tôi, vốn Nông dân , và
nhà quê thật.
Có
lẽ,măc cảm là sinh viên nghèo ,đi Xe đạp và Xe Mobilette màu vàng.
Bây
giờ có thời gian đi coi Olympic 2024 Paris cũng có thể được ,nhưng
làm sao đi.
Mong
có nhiều emails nói về những ngày thân yêu ấy Vui là chánh.
Cám
ơn tác giả Email này ,tôi forward . NND 24 BBTD
On Thursday, September 5, 2024 at 07:55:45 AM PDT, 'Dinh Hung Ngo' via CVA60s <cva60s@googlegroups.com> wrote:
Người Tình Chu Văn An
Mối
tình của chúng tôi không nồng cháy, ngang trái, lâm ly bi đát,
tràn đầy nước mắt như một số những cuộc tình khác. Tình của chúng
tôi nhẹ nhàng như cánh bướm non, tươi vui như buổi sáng mùa Xuân với
nắng vàng, gió nhẹ, chim hót líu lo trên cành.
Anh
là anh của bạn tôi, hơn tôi hai tuổi. Anh đẹp trai, học giỏi, con nhà
giầu. Anh có lối nói chuyện và tán gái ấm ớ như bao nhiêu
chàng trai Chu Văn An khác.
Lâu lâu, có tiền, chúng tôi học làm sang, rủ nhau phóng xe Velo Solex ra xa lộ, đi Thủ Đức ăn nem hoặc đi Biên Hòa ăn đầu cá hấp-
Di tản sang Mỹ, Anh ở miền Tây, tôi ở miền Đông. Chúng tôi vẫn liên lạc thường xuyên qua điện thoại. Nói chuyện với nhau, lâu dần trở thành một nhu cầu của chúng tôi. Nhất là những khi chúng tôi có chuyện vui buồn, cần có người để chia sẻ.
- Anh đang ở khách sạn, gần nhà cô. Một tiếng nữa, cô đến
anh, mình đi ăn trưa. Anh đã lên Net, tìm được nhà hàng rất lý
tưởng! Anh sẽ không đưa cô đi ăn tiệm Việt Nam đâu! Lý do rất dễ
hiểu, anh không muốn chúng mình gặp bạn bè bà con. Anh chỉ dành thời giờ cho cô
thôi!
Anh
đón tôi dưới phòng khách của khách sạn với nụ cười và giọng nói ấm áp:
- Cô vẫn thế! Không thay đổi nhiều.
Tôi
đùa:
- Anh có cần mượn kính lão của em không? Có đến mười mấy
năm rồi mình mới gặp nhau mà anh bảo em vẫn thế! Không thay đổi nhiều.
Anh
nheo mắt:
- Thì anh nói cho cô vui mà! Chứ thật ra, chúng mình là lão
ông, lão bà cả rồi! Cô xem này, tóc anh …đi chơi hết rồi!
Tôi
cũng cười:
- Anh thấy da em nhăn giống quả táo tàu không?
Anh
và tôi cười xòa, cùng bước vào thang máy để lên phòng anh ở.
Ra
khỏi thang máy, chúng tôi nắm tay nhau đi trên lối hành lang nhỏ, có
trải thảm màu đỏ thẫm. Anh nhìn tôi mỉm cười hóm hỉnh:
- Cô muốn anh đưa cô đi ăn hay muốn gì khác?
Tôi
cũng cười:
- Ghé phòng anh một chút thôi, rồi mình
đi ăn ngay. Phòng anh…có chuột đấy! Em sợ lắm!
Anh
nheo mắt nhìn tôi cười:
- Anh nhớ là cô sợ chuột và sợ cả anh nữa, đúng
không? Nhưng anh hứa với cô, anh sẽ không lộn xộn, lôi thôi gì
hết. Anh biết cô vẫn thích anh ăn mặc vét tông, cà vạt đàng hoàng mà!
Trong
năm ngày anh đến thăm tôi, ngày nào chúng tôi cũng đi thăm các thắng cảnh,
đi ăn trưa, ăn tối ở những nhà hàng rất sang, rất đặc biệt hoặc lái xe
vòng vòng trên khắp các con đường rợp bóng cây cao. Anh bảo:
“ Anh mê cây xanh ở tiểu bang này! Nơi anh ở, ít cây cối lắm! Khi
đi làm, nhiều khi anh phải đi qua những vùng sa mạc, nắng chang chang
và nóng như lửa!
Không một lần đã nói. Có nói cũng không cùng”, “ Gióthổi mùa Thu hương cốm mới.Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em”. Rồi anh hỏi tôi có nhớ tên tác giả những bài hát, bài thơ đó không?
Tôi nghĩ rằng, ở một nơi nào đó, những người bạn gái năm xưa của tôi, cũng có được niềm hạnh phúc như tôi, và có khi, hơn cả tôi, vì họ thực sự có nhau trong cuộc sống. Còn tôi, suốt đời: “ Tôi chỉ là người em gái thôi…” của một chàng Chu Văn An có lối nói chuyện và tán gái…ấm ớ như bao nhiêu chàng trai Chu Văn An khác.
Đăng nhận xét