SỐ ĐẶC BIỆT THÁNG 1-2025 TẾT ẤT TỴ KÍNH GIỚI THIỆU TRANG TRUYỆN NGẮN NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA
SỐ ĐẶC BIỆT THÁNG 1-2025 TẾT ẤT TỴ KÍNH GIỚI THIỆU TRANG TRUYỆN NGẮN NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA
Truyện ngắn mới:
"Vuốt Râu Hùm" (Tháng Giêng 2025) -- Nguyễn Ngọc Hoa
Mời đọc truyện
ngắn thứ mười bảy
trong loạt truyện "Cố Quốc Tha Hương," hay Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa XI.
Xin đọc bản text
dưới đây hay bản .pdf đính kèm.
Để đọc các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa đã phổ biến trước đây, mời quý thân hữu vào trang "Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa" ở trong Trang Nhà "Thân hữu Điện lực":
https://dconnect.co.jp/friend/tacbut/nv-hoa/TruyenNgan_NNHoa/index.html
https://dconnect.co.jp/friend/
Trước thềm năm mới, xin
chúc quý thân hữu và quý quyến một năm Ất Tỵ (2025) dồi dào sức
khỏe, nhiều may mắn, và thịnh vượng.
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa
Bismarck, North
Dakota là cái nôi của đời tôi ở xứ Mỹ. Nơi đây, gia đình tôi được đón nhận
và tận tình giúp đỡ với tấm lòng nhân ái và nhất là được đối xử bình đẳng như mọi người Mỹ khác. Suốt thời
gian đi tìm việc và rồi làm việc cho Công ty Tiện
ích Montana-Dakota (MDU), tôi không bị ai đòi phải xuất trình bằng cấp hay giấy
tờ chứng minh. Nhưng hầu hết các bạn người Việt ở Mỹ đều băn khoăn hỏi
tôi, “Làm sao bằng kỹ sư của mày được chấp nhận?” hay, “Mày thi lấy bằng tương
đương như thế nào?”
Cuối tháng Tám năm
1975, tôi gặp Charlie kỹ sư điện của MDU khi đưa hai em Lâm và Trọng đi ghi
danh học trường trung học Bismarck. Charlie đến trường đón vợ là Judy
giáo sư Anh văn của trường trong lúc nàng đang hỏi chuyện tôi, và vợ chồng anh trở thành hai người bạn đầu tiên của
tôi ở Bismarck. Giữa tháng Chín, tôi được MDU nhận vào làm, tôi và Charlie làm việc gần nhau ở tầng bốn của trụ sở, và chúng tôi
thường cùng xuống câu lạc bộ ở tầng hai nghỉ giải lao. Một hôm tôi nghe
anh và vài người bạn khác thảo luận về một bài toán điện, và mặc dù tiếng Anh
chưa đủ giỏi để hiểu rõ câu chuyện nhiều người đồng loạt đối đáp, tôi ngứa tay
ghi lời giải bài toán trên tờ giấy lau miệng và đưa ra khiến họ ồ lên ngạc
nhiên.
Hai ngày sau, Charlie
và các bạn thuộc lứa kỹ sư điện
tốt nghiệp bốn, năm năm trước ngỏ ý nhờ “ông giáo sư” dạy họ luyện thi PE tức là Professional Engineer
(Kỹ sư Chuyên nghiệp). Ở Hoa kỳ, bằng kỹ sư được gọi là bachelor
như những bằng cử nhân khác; thí dụ, bằng kỹ sư điện là Cử nhân Khoa học về Kỹ
thuật điện. Tốt nghiệp kỹ sư, làm việc trong ngành ít nhất là bốn năm, và
hội đủ một số điều kiện khác, người ta thi PE do hội đồng ghi danh kỹ sư của tiểu
bang khảo thí. PE không phải là một văn bằng; nó chỉ chứng nhận đương sự
“ghi danh với tiểu bang với tư cách Kỹ sư Chuyên nghiệp” và thường không chỉ
riêng ngành kỹ thuật nào. PE được cấp con dấu để đóng vào các văn kiện cần
ký và có quyền dùng danh hiệu PE sau tên mình; thí dụ, “Ba Hoa Nguyen,
PE.”
Tôi hân hoan nhận lời
dạy và nhờ cô thư ký Charlotte giữ trước phòng hội của tầng bốn mỗi chiều thứ
Năm để dùng cho lớp luyện thi. Tôi soạn bài kỹ và hết lòng chỉ dẫn, các bạn
cố gắng học hỏi, và lớp học thành công mỹ mãn – các bạn tôi đậu PE 100 phần
trăm. Tôi mừng cho bạn, nhưng nhận ra mình cũng cần có “bằng” PE lận lưng
vì trên người hiện không có một mảnh giấy bằng Anh ngữ nào cho thấy học lực và
khả năng của mình.
Hỏi thủ tục thi PE,
tôi được cho biết trước hết phải đậu EIT tức là Engineer-in-Training (Kỹ sư Tập
Việc), một kỳ thi trắc nghiệm (abc khoanh) về kiến thức khoa học và kỹ
thuật căn bản mà Charlie và các bạn anh thi trước khi tốt nghiệp kỹ sư.
Tôi nộp đơn xin thi EIT và đậu dễ dàng. Nhưng khi xin thi PE thì gặp trở
ngại vì luật tiểu bang đòi hỏi thí sinh phải tốt nghiệp tại một đại học “được
thừa nhận” (accredited), nghĩa là được Hội đồng Thừa nhận Ngành Kỹ sư và Kỹ thuật
(ABET) Hoa kỳ chứng thực có đầy
đủ khả năng và phương tiện đào tạo kỹ sư. Trường Cao đẳng Điện học Sài
gòn không nằm trong danh sách ABET thừa nhận.
Hội đồng Ghi Danh Kỹ
sư North Dakota đòi tôi đến
điều trần để xét đơn xin thi. Ông sếp tôi ở MDU yêu cầu luật sư của
nha Pháp lý MDU theo hỗ trợ tôi về mặt luật pháp. Sau các thủ tục cần thiết,
ông chủ tịch hội đồng mở đầu,
“Ông Nguyễn, ông là kỹ
sư tốt nghiệp tại Việt nam đầu tiên xin thi PE trên toàn cõi Hoa kỳ – chúng tôi
đã kiểm chứng với hội đồng
ghi danh của các tiểu bang khác – và do đó chưa có tiền lệ nên chúng tôi cần
ông cung cấp lý do tại sao điều khoản ‘được ABET thừa nhận’ phải được miễn trừ.”
“Trường kỹ sư tôi tốt
nghiệp rập khuôn theo trường Cao đẳng Điện học Paris (hay ESE Paris) là một trong mười grandes écoles
[‘trường lớn’] thượng đẳng của Pháp,” tôi đã soạn sẵn câu trả lời, “Trường tôi
được xem ngang hàng với ESE Paris về chương trình đào tạo kỹ sư điện, nhưng lại
trội hơn ở điểm chọn lọc sinh viên gắt gao hơn nhiều. Niên khóa 1974-75
trước đây, trường mở cuộc thi tuyển 50 sinh viên cho hai ban Điện và Điện tử mà
có đến hơn 19 ngàn thí sinh. Một tỉ lệ tuyển chọn khắt khe đến khó tin!”
“Ở Việt nam, ông Nguyễn
là một nhà giáo dục kỹ thuật, không những là kỹ sư mà là thầy của kỹ sư,” vị luật
sư MDU nói thêm, “Ngay tại MDU, ông cũng dạy bạn đồng sự thi PE, và tất cả học
viên đều đậu ngay lần đầu. Ông không cần đặc ân của hội đồng mà chỉ xin
có cơ hội chứng tỏ khả năng của mình.”
Hội đồng chấp thuận
cho tôi thi PE. Sau đó, tôi dạy lớp luyện thi PE thứ hai, vừa học thi vừa
giúp bạn. Không như EIT, thi PE phải giải nguyên cả bài toán và viết lời giải hẳn hoi.
Kỳ thi gồm hai buổi sáng và chiều, mỗi buổi bốn tiếng đồng hồ trong đó thí sinh
phải làm bốn bài toán được
quyền lựa chọn trong tập đề thi bao gồm nhiều ngành kỹ thuật khác nhau như điện,
cơ khí, công chánh, canh nông, v.v.
Thí sinh được tự do sử dụng sách vở và tài liệu mang theo – open book!
Tôi vào phòng thi với
chiếc xách tay lớn đựng đầy sách
giáo khoa và cuốn . . . tự điển Anh-Việt cỡ lớn. Bắt đầu mỗi buổi
thi, tôi để ra chừng 15 phút lướt qua tất cả các đề thi, chọn bốn bài toán dễ
nhất, và tuần tự làm bài. Với các bài toán cho bằng hệ thống Anh (inch,
feet, mile, pound, v.v.), tôi đổi giả thiết sang hệ thống mét (cm, m, km, kg,
v.v.), giải toán bằng các công thức đã học ở Việt nam, và sau cùng đổi kết quả
trở lại hệ thống Anh để trả lời. Mỗi buổi, tôi làm bài không tới hai tiếng đồng hồ và nộp bài
ra sớm.
Sáu tuần sau, hội đồng ghi danh gửi thư thông báo kết quả
cho tôi về địa chỉ sở.
Ngoài việc báo tin tôi đậu PE, ông chủ tịch nhiệt liệt khen ngợi,
Thay mặt Hội đồng
Ghi Danh, tôi thành thực ngợi khen ông đã đạt được điểm số cao nhất trong
lịch sử thi PE của North Dakota.
Tôi khoái chí cầm lá
thư khoe với ông sếp. Ông khoái chí cầm lá thư chạy đi khoe với
ông phó tổng giám đốc và các giám đốc cao cấp khác. Vì việc ghi danh PE
được xem là hữu ích cho công ty, MDU hoàn trả lệ phí nộp đơn thi và niên liễm ghi
danh hằng năm. Theo lời Charlie xúi biểu, tôi thừa thắng xông lên xin ghi
danh PE ở Montana, South Dakota, và Wyoming là ba tiểu bang khác trong khu vực
phục vụ của công ty, và được hoàn trả chi phí. Một khi là PE của một tiểu
bang, người ta có thể ghi danh PE ở các tiểu bang khác do một thủ tục gọi là “reciprocity”
(hỗ tương).
Ghi danh PE phải được
gia hạn hằng năm hay mỗi hai năm, tùy tiểu bang. Khi xin gia hạn, PE phải
tính và kê ra số “đơn vị tiếp tục học hỏi” (CEU) chứng tỏ mình tiếp tục học hỏi
và phát triển nghề nghiệp. Thường thường, tiểu bang đòi hỏi tối thiểu 15
CEU mỗi năm; mỗi CEU là một giờ học (hay nghe giảng) về kỹ thuật, khoa học, quản
trị, hay nguyên tắc xử thế (ethics); và nếu PE là người dạy (hay thuyết trình)
thì mỗi giờ dạy tính ba CEU.
Nhiều kỹ sư điện ở
vùng Trung-Tây Hoa kỳ thỏa mãn điều kiện đòi hỏi này bằng cách dự Hội nghị
Minnesota về Hệ thống Điện (gọi là MIPSYCON) tổ chức hằng năm vào trung tuần
tháng Mười Một tại Saint Paul, Minnesota do chi hội Twin Cities (Thành phố Sinh
Đôi) của hội IEEE (Hội Kỹ sư Điện và Điện tử thế giới) phối hợp với Đại học
Minnesota tổ chức. Hai thành phố “sinh đôi” nằm hai bên bờ sông
Mississippi là Minneapolis, thành phố lớn nhất trong vùng, và Saint Paul, thủ
phủ của Minnesota.
Trong ba ngày hội nghị, các diễn giả trình bày những nghiên cứu mới về sự điều hành hệ thống điện, và MIPSYCON có thêm đôi ba khóa học ngắn hạn cho người muốn học.
Tôi thường bận rộn và
có thừa thãi CEU nên ít khi dự MIPSYCON, nhưng tháng Mười Một năm 1998 phải dự
để trình bày bài khảo cứu về phương pháp thừa nhận (accredit) công suất nhà máy
phát điện mà tôi soạn chung với bạn
là Allen làm giám đốc
nha Sản xuất MDU. Hội nghị được tổ chức vào tuần lễ sau ngày thứ Ba tổng tuyển cử của Hoa kỳ.
MDU gửi 15 kỹ sư đi dự; họ phải
chia thành năm nhóm di chuyển bằng phương tiện riêng rẽ để nếu vạn nhất tai nạn
máy bay hay xe cộ xảy ra,
công ty sẽ không nhất thời mất
đi nhiều khả năng kỹ thuật.
Tôi và hai bạn Charlie và
Allen đi cùng một nhóm, và sau
buổi họp MIPSYCON cuối cùng, ra phố Saint Paul ăn cơm Việt nam rồi ra phi trường
bay về bằng chuyến bay cuối ngày khởi hành khoảng mười giờ đêm.
Chuyến bay trễ ít
khách của hãng Hàng không Delta dùng loại phi cơ Bombardier có 50 chỗ ngồi
do Ba Tây chế tạo. Phi cơ nhỏ, và mỗi hàng ghế hành khách có bốn ghế nằm
hai bên lối đi, mỗi bên hai ghế. Khoang chứa đồ trên đầu hành khách hẹp
và chỉ đủ chỗ cho những thứ như măng-tô (“manteau” tiếng Pháp là áo
khoác dài mặc ngoài về mùa đông), cặp da, và ví tay phụ nữ. Hành lý xách
tay lớn hơn phải để lại trên jetway (cây cầu nhỏ che kín được di chuyển
tới sát cửa phi cơ làm lối ra vào) rồi
được nhân viên hãng máy bay lấy đem giữ dưới bụng phi cơ, và hành khách sẽ nhận lại khi tới nơi và
ra cửa.
Tôi và hai bạn ngồi cùng một hàng ghế. Hai người đàn ông ở hàng ghế trước nói chuyện lớn tiếng và trịnh
trọng, dường như muốn mọi người biết mình đang làm việc công và vừa trải qua một
ngày dài vất vả. Họ rời
Bismarck bằng chuyến bay sớm khởi hành lúc năm giờ sáng, bay đến Hoa Thịnh Đốn, họp với những nhân vật quan
trọng nào đó, vội vã ra phi trường bay về, và cuối cùng lên
chuyến bay này.
Hai người đó thực sự là kẻ tai to mặt lớn.
Người trạc tuổi tôi to lớn như hộ pháp, mặt béo phệ xấu xí, và nói năng rổn rảng
là Jack, phó thống đốc North Dakota. Trẻ hơn Jack dăm bảy tuổi và dáng
người mảnh khảnh là Drew, bộ trưởng bộ tư pháp tiểu bang. Cả hai sắp được
thăng chức dễ dàng hơn bình
thường. Thống đốc tiểu bang hiện nhiệm đang ở giữa nhiệm kỳ bốn năm và trong kỳ bầu cử tuần trước có một
ghế thượng nghị sĩ khuyết, ra ứng cử và đắc cử. Tháng tới ông sẽ từ chức
thống đốc để làm thượng nghị sĩ, và theo hiến pháp tiểu bang, Jack sẽ kế vị. Tiếp
đó, Jack đề cử Drew kế vị ông làm phó thống đốc; điều này đã được nghị viện tiểu
bang biểu quyết chấp thuận.
Phi cơ vừa dừng lại
trước phi trạm, Jack đã vội
vàng tháo dây nịt an toàn đứng dậy. Ông vươn vai sải dài tay để
giãn gân cốt khiến cho hành khách hai hàng ghế chung quanh phải ngồi yên, không
thể đứng dậy. Đoạn, ông bước ra mở tung các khoang chứa đồ, lục
lạo tìm áo măng-tô, xòe rộng cánh tay mang áo vào như ở chỗ không người,
và đứng chần vần choán cả lối đi. Cửa phi cơ vừa mở, ông liền
kéo tay Drew đi trước mọi người – không để chậm một giây.
Tôi không thể cầm lòng bèn đưa ngón tay gí
nhẹ vào lưng Jack và chỉ vào một bà lão và một thiếu phụ trung niên ngồi ở hàng
ghế trước, “Thưa quý ông, tôi nghĩ đàn ông lịch sự phải nhường cho hai bà kia đi trước.” Lỡ bộ, ông
quay lại nhìn tôi với đôi mắt khinh thị và hiên ngang bước đi. Mười phút
sau, tôi và bạn ra khỏi phi cơ. Thấy Jack và Drew đứng ở jetway chờ
lấy hành lý xách tay, tôi không buông
tha,
“Mẹ các ông không dạy
các ông nhường bước cho phụ nữ và người lớn tuổi hay sao? Chen lấn rồi
các ông cũng chờ như mọi người – có về sớm được phút nào đâu?”
Trên đường xuống khu nhận hành lý ký gửi, Allen hỏi tôi,
“Anh có biết hai ông
hồi nãy là ai không mà nói mạnh miệng như vậy?”
“Ba Hoa là con
ma xó,” Charlie xen vào, “Ai mà hắn ta không biết. Hai ông kẹ kia bị mắng
là đáng lắm, chỉ có anh và tôi rụt cổ không dám lên tiếng mà thôi.”
“Không chừng họ cho
lính tới bắt anh bỏ tù đó,” Allen nhìn tôi cười hì hì.
Tôi vuốt râu hùm,
nhưng sợ không bị bắt bỏ tù như bạn tôi đùa. Ở xứ sở tự do này, “hùm dữ”
cũng không động tới được chàng ngông nói chuyện . . . tầm phải.
Nguyễn Ngọc Hoa
Ngà
y 8 tháng Giêng, 2025
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa
Từ một hãng điện lực
nhỏ thành lập năm 1924 phục vụ vài thị trấn thôn dã dọc theo ranh giới Montana -
North Dakota, Công ty Tiện ích Montana-Dakota (MDU) bành trướng về hướng tây phía
Montana và hướng đông phía North Dakota và South Dakota bằng cách mua lại các hãng
cung cấp điện và hơi đốt thiên nhiên cho những thành phố trong vùng.
Đầu thập niên 1970,
MDU cung cấp điện và hơi đốt cho hơn 270 thành phố ở Montana, North Dakota,
South Dakota, và Wyoming, rải rác trong một khu vực rộng lớn bao phủ tới 5.5 phần
trăm lục địa Hoa kỳ. Số thành phố phục vụ
rất lớn, nhưng hầu hết ở vùng thôn quê, có nơi chỉ vài trăm dân, nên lượng điện
và hơi đốt bán được hằng năm kém xa những công ty ở thành phố lớn như Chicago
hay New York. Do đó, MDU chú trọng về thực
hành hơn lý thuyết, nhân viên kỹ thuật ở các ty địa phương chú trọng đến công
tác cung cấp điện và hơi đốt cho khách hàng, kỹ sư tham mưu ở trung ương thiết
kế và trông coi các công trình xây cất, và khi gặp
khó khăn kỹ thuật, công ty thuê hãng cố vấn bên ngoài giải quyết.
Sự khủng hoảng năng
lượng đầu thập niên 1970 đã thúc đẩy các nhà
đầu tư Hoa kỳ gia tăng nỗ lực khai thác mỏ dầu Bakken khổng lồ ở tây bắc North
Dakota khám phá từ thập niên 1950, nhưng dầu khó lấy lên. Đồng
thời, các công ty điện lực trong vùng thi nhau xây cất nhà máy phát điện chạy than
non (lignite)
đầy dẫy ở North Dakota để xuất cảng điện sang
tiểu bang khác. Để theo kịp sự tiến triển
của kỹ nghệ điện lực, MDU bắt đầu tích lũy kiến thức
kỹ thuật in-house (“trong nhà”) bằng cách thuê Dennis, kỹ sư MDU có bằng
cao học đầu tiên, làm việc cho nha Điều hành Hệ thống Điện (“ĐHHTĐ”). Anh có nhiệm vụ thiết trí và sử dụng một số chương
trình điện toán dùng cho hệ thống điện.
Số Trời dun rủi khiến
năm 1975, MDU nhận tôi, chàng kỹ sư tỵ nạn bụng đầy lý thuyết kỹ thuật và toán
học mà kinh nghiệm về điện lực chẳng có bao nhiêu, vào làm. Sau
sáu tháng tập sự ở sở Truyền Điện, tôi chọn làm cho nha ĐHHTĐ với Dennis. May mắn cho MDU là ông sếp Howard vốn
là kỹ sư xây cất trạm biến điện hơn 30 năm nên mù tịt không biết tôi có thể làm
được gì. Ông để tôi tự do học hỏi, phối
hợp công việc với Dennis và một đồng nghiệp khác là Gerri, và chọn làm công tác
nào thấy hữu ích. Mặt khác, ông nhiệt
thành chấp thuận những dự án tôi đề nghị và hết lòng giúp đỡ tôi săn tìm dữ kiện
kỹ thuật cần thiết.
Tôi hăng say học sử dụng
máy điện toán, học thảo chương FORTRAN (ngôn ngữ điện toán thông dụng cho các
áp dụng khoa học và kỹ thuật), viết chương trình điện toán để giải các bài toán
về hệ thống điện lớn, và lập kho chứa dữ kiện đường dây tải điện của MDU. Một cựu giảng viên đại học quen làm việc một
mình một núi, tôi ra công nghiên cứu và thâu thập khả năng chuyên môn trong một
lãnh vực MDU chưa từng đặt chân tới – thực hiện chương
trình hoạch định hệ thống dây tải điện và hằng năm ấn hành phúc trình trình bày
kế hoạch dài
hạn cho 10 năm tới.
Tôi chia hệ thống dây
tải điện thành nhiều vùng, lần lượt khảo sát từng vùng một, và đến ty địa
phương trong mỗi vùng họp với quản đốc kỹ thuật và các kỹ sư của ty. Tôi trình bày kế hoạch đang thành hình, tìm
hiểu những điều họ quan tâm, và khi khảo sát, thông báo kết quả sơ khởi để họ
theo dõi. Cách thức truyền đạt này – chưa
ai thực hiện ở MDU – không những bắc nhịp
cầu nối giai đoạn hoạch định của tôi và giai đoạn điều hành về sau của nhân
viên địa phương, mà còn giúp tôi bù đắp khuyết điểm lớn nhất là thiếu field
experience (kinh nghiệm đương trường, “đương trường” là ngay tại chỗ xảy ra
sự việc).
Nhờ sự hợp tác đó, tôi
gặp Dave (gọi gọn của tên David), một kỹ sư điện trẻ, nhỏ hơn tôi khoảng
mười tuổi tại Ty Dickinson cách xa trụ sở trung ương khoảng 100 dặm Anh về hướng
tây. Anh thường đưa ra những câu hỏi khiến
tôi phải suy luận ngoài phạm vi kết quả bằng số của máy điện toán để trả lời. Dù mới làm việc cho MDU vài năm nay, anh tỏ
ra là một kỹ sư thông tuệ có khả năng thấy xa nhìn rộng.
* * *
Năm 1981, Howard về
hưu, Gerri lên thay làm giám đốc nha ĐHHTĐ và tiếp tục để tôi tự do khai phát tới
các lãnh vực mới như trước. Nhờ đó tôi lại trở thành chuyên gia về kiểu mẫu toán học tiên đoán mức
dùng điện của khách hàng và chương trình hoạch định hệ thống phát điện tương
lai. Trong thời gian này, tôi trở lại
trường, học lớp tối trường Kinh doanh Đại học North Dakota, mỗi tuần hai buổi tối,
và sau gần hai năm, đậu bằng Cao học Quản trị Xí nghiệp (MBA).
Ngày đầu năm 1985,
công ty chuyển qua cơ cấu tổ chức mới: lập công ty mẹ lấy tên là MDU Resources Group (MDUR) và
bành trướng bằng cách mua các hãng khác để sáp nhập vào empire của mình. “Empire” nghĩa thông thường là “đế quốc,”
nhưng trong ngôn ngữ kinh doanh chỉ tập đoàn gồm công ty mẹ và những công ty
nhánh. Có một thời, MDUR có 66 công ty nhánh
lớn nhỏ hoạt động ở cả 50 tiểu bang Hoa kỳ.
Công ty tiện ích MDU của tôI trở thành một phân bộ của
MDUR, nhưng cấu trúc nội bộ không bị ảnh
hưởng do sự thành lập công ty mẹ.
Dave được thăng chức,
thuyên chuyển qua hầu hết các ty địa phương lớn của MDU, và cuối thập niên
1980, về trụ sở trung ương cầm đầu trung tâm Phối trí Điện năng của nha ĐHHTĐ
dưới quyền Gerri. Nhờ vậy, tôi gặp Dave hằng
ngày. Vừa mến tài anh vừa muốn quảng bá
chương trình MBA của Đại học North Dakota, tôi khuyến khích anh ghi tên học MBA
và tặng anh các sách học tôi đã dùng. Anh ghi danh học MBA, nhưng mỗi lần chỉ học một
môn nên cần năm năm mới hoàn tất.
Môn học MBA tôi thích
nhất và thấy hữu ích cho nghề nghiệp nhất là strategic planning (hoạch định
có kế sách). Suốt cả lục cá nguyệt, giáo
sư không ngừng nhấn mạnh, khi đánh giá một dự án tương lai, nhà quản trị xí
nghiệp phải xem xét dự án trong càng nhiều scenario (bố cảnh) khác nhau
càng tốt. Thí dụ, khi hoạch định hệ thống
phát điện tương lai, tôi xét tới ít nhất là ba bối cảnh khác nhau: (1) bố cảnh “có lẽ đúng” (probable) dựa theo
điều kiện kinh tế và tài chánh hiện tại, (2) bố cảnh “dùng điện thấp” giả sử mức
tiêu thụ điện của khách hàng xuống thấp vì kinh tế suy thoái, và (3) bố cảnh
“dùng điện cao” giả sử mức tiêu thụ điện của khách hàng lên cao nhờ kinh tế
phát triển mạnh mẽ. Để quyết định, không
thể nhắm mắt nhìn vào kết quả tính toán mà phải liên kết chặt chẽ kết quả đó với
xác suất (probability) – bao nhiêu phần trăm – bố cảnh có thể xảy ra. Ai biết chắc ngày mai sẽ ra sao?
* * *
Tôi nghe phong thanh
Dave được un đúc thành một nhà lãnh đạo MDU. Chức vụ trưởng Trung tâm Phối trí Điện năng, giống
như những chức vụ trước ở các ty địa phương, chỉ tạm thời cốt để anh thu lượm
kiến thức trọn
vẹn về mọi hoạt động của công ty.
Tuy giữ chức vụ kỹ thuật, anh thường dính líu tới những dự án quản trị
nhân viên. Thí dụ, có lần anh được chỉ định
đứng điều khiển ủy ban đặc nhiệm phụ trách “re-engineering” (“tái bố
trí”) trụ sở trung ương.
Trong hoàn cảnh kinh
tế suy thoái bấy giờ, các công ty Hoa kỳ tìm mọi cách hợp lý và hợp pháp để cắt
giảm nhân công. Họ chế ra danh từ “re-engineering”
mơ hồ và dối trá để chỉ cách thức sau đây:
Thành viên của ủy ban đặc nhiệm chất vấn cặn kẽ từng nhân viên, tính sát
nút thời gian cần thiết để hoàn tất các công việc trong bản kê khai nhiệm vụ của
người đó, và cố gắng chứng minh người đó có nhiều thì giờ ngồi không và đáng bị
cho thôi việc. Ủy ban làm việc (đúng ra
là “tra tấn” nhân viên, khiến một số bất mãn tự ý thôi làm) suốt một năm rồi đề
nghị sa thải hơn một chục người. Người ta
xầm xì đồn các sếp lớn tập Dave làm hatchet man để chuẩn bị làm
chủ hãng. “Hatchet” là cái rìu nhỏ, và
“hatchet man” (kẻ cầm rìu) là tiếng lóng chỉ người bị sai sử làm chuyện ác đức
như đuổi người hay cắt bớt lương.
Trong khi tôi nằm lì ở
chức vụ kỹ thuật tại nha ĐHHTĐ, Dave được thăng chức phó tổng giám đốc, thuyên
chuyển đi làm tổng giám đốc một công ty nhánh của MDUR ở Seattle, Washington,
và cuối cùng về lại Bismarck, North Dakota làm chủ tịch tổng giám đốc hay CEO
(chief executive officer) của công ty mẹ, cai quản gần 30 ngàn nhân viên.
Đầu năm 2012, tôi về
hưu. MDU tổ chức tiếp tân để nhân viên
có cơ hội từ giã, và Dave đến dự và nhắc nhở những ngày anh làm việc với tôi mấy
mươi năm trước. Tin tưởng tài năng và
kinh nghiệm của anh sẽ đưa cổ phần MDUR càng ngày càng tăng giá, tôi giữ phần lớn
quỹ hưu, tiền để dành để sống đến cuối đời trong những ngày hưu trí, dưới dạng
cổ phần công ty.
Hai năm
sau, tôi tình cờ gặp lại người bạn học cùng lớp MBA tên Doug (gọi gọn của tên Douglas)
đi bộ tập thể dục trong thương xá. Anh trạc
tuổi Dave và làm tổng thủ quỹ của MDUR dưới quyền Dave với nhiệm vụ đi vay tiền
hay phát hành cổ phần mới khi cần vốn đầu tư vào dự án mới. Tôi cười cười hỏi,
“Ê Doug,
giờ làm việc mà sao anh lại đi lang bang giống kẻ thất nghiệp như tôi?”
“Tôi bị ‘họ’
thúc bách về hưu một năm nay rồi,” anh chua chát trả lời; “họ” ở đây còn ai
khác hơn Dave?
“Sao vậy? Tôi tưởng anh và Dave là bồ tèo làm việc
ăn ý với nhau,” tôi ngạc nhiên.
“Tôi cũng tưởng vậy. Tại cái nhà máy Tinh chế Dakota Prairie lọc diesel
mà ra!”
Nhà máy
Tinh chế Dakota Prairie là dự án chung vốn đầu tư $600 triệu của MDUR và một
công ty khác, mỗi partner bỏ vốn ra $300 triệu. Đó là nhà máy lọc dầu đầu tiên được xây cất ở
Hoa kỳ sau năm 1976. Nằm gần Dickinson,
North Dakota, nhà máy sẽ hoạt động đầu năm 2015 và có khả năng sản xuất 20 ngàn
thùng diesel mỗi ngày bằng cách lọc dầu thô do xe vận tải chở tới từ mỏ
dầu Bakken ở tây bắc North Dakota. Doug giải
thích,
“Cuộc nghiên
cứu tính thực hiện được [feasibility study] cho thấy nhà máy rất đáng đầu tư: Nhu cầu dùng diesel rất lớn, và giá diesel
đang lên cao trên thị trường. Theo dữ kiện
của chính phủ liên bang, từ năm 2011 đến 2014, giá diesel luôn luôn nằm
trên mức $3 một gallon. Chuyên viên tài
chánh dự phóng giá diesel giữ mức $3.25 một gallon và sẽ tăng theo tỉ lệ
lạm phát. Dave sung sướng với kết quả tính
toán, và tất cả giám đốc đều ký tên đồng ý và đề nghị đầu tư vào nhà máy.”
“Và anh là
người duy nhất không a dua theo?” tôi đoán chừng.
“Dave cũng như tôi đều
biết rằng ta không thể đánh liều quyết định dựa trên kết quả của một bố cảnh duy
nhất, ‘giá diesel $3.25.’ Tôi đòi
phải khảo sát thêm bố cảnh giá diesel giảm xuống còn $2 và $1 một gallon,
và bị Dave cho là bất tuân thượng lệnh rồi đẩy về hưu.”
“Phép toán” của Dave trật
đường rầy, trái ngược với nguyên tắc căn bản dạy ở trường kinh doanh. Không cần biết lý do tại sao anh làm như thế,
tôi gọi văn phòng cố vấn tài chánh trông nom quỹ hưu
và ra lệnh bán hết cổ phần MDUR của tôi một khi thấy được giá. Tôi trở tay kịp thời vì, giống như một bố cảnh
mà Doug yêu cầu khảo sát, sau khi nhà máy hoạt động, giá diesel tụt xuống
còn khoảng $1 một gallon. Năm đầu tiên MDUR
lỗ nặng, cổ phần bắt đầu sụt giá, và công ty rao bán phần hùn trong nhà máy lọc
dầu.
Trên thương trường,
khi muốn mua một cơ sở kinh doanh, người mua sẽ xem xét kỹ lưỡng sổ sách và
phương cách điều hành của cơ sở đó. Không cần biết người bán đã bỏ ra bao nhiêu vốn đầu tư, người mua ước tính mức thu nhập,
chi phí, và lời lỗ ở mỗi năm trong suốt “đời sống” (life) của cơ sở rồi tính
giá trị hiện tại của những số tiền lời hay lỗ ấy. Nếu có lời thì tổng số là số tiền người mua phải trả. Ngược lại, nếu lỗ thì tổng số là số tiền người
bán phải cắn răng các cho người mua. Giữa
năm 2016, một công ty dầu hỏa mua phần hùn và được MDUR trả $70 triệu.
Người Việt có thành
ngữ “sai con toán, bán con trâu.”
“Con trâu” trị giá sơ sơ có . . . $370 triệu nên năm sau, Dave bị cho về hưu, từ
giã công việc CEO trả lương và quyền lợi hơn $6 triệu một năm.
Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày 9 tháng Mười, 2024
******
Đăng nhận xét