Cuộc Di Tản đầy Máu và Nước Mắt
Đại Tá Trịnh Tiếu
Không phải mãi hai ngày sau người Mỹ mới biết lý do đằng sau
vụ di tản rút quân bỏ miền Trung. Vào buổi tối ngày 17.3.1975, tại bữa cơm đãi
một số Viên Chức cao cấp Mỹ và Việt Nam tại nhà ông Thomas Polgar, Trưởng CIA, ở
Sài Gòn, Tướng Ðặng Văn Quang Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Thiệu, đã lật trang
sử khi giải thích quyết định của ông Thiệu. Rất giống người Nga tiêu diệt đội
quân của Nã Phá Luân vào năm 1812 bằng cách bỏ đất để câu giờ hầu chấn chỉnh tổ
chức quật ngược thế cờ, Tướng Quang cho rằng quyết định của ông Thiệu đi theo
chiến lược đó sẽ đánh bại quân Bắc Việt. Tướng Quang nói ‘’Có thể mùa mưa sẽ
giúp chúng tôi như thể Ðại Tướng mùa Đông đã giúp người Nga’’.
Tại Cao Nguyên Trung Phần, dân chúng không chờ giải thích. Họ
thấy rõ quá rồi nên tự lo lấy. Khi quân Bắc Việt pháo kích Kontum, con đường dẫn
xuống Pleiku tràn ngập dân di tản chạy trốn pháo kích. Trong khi các Ðơn Vị
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu rời các vị trí ở Pleiku và các phi cơ vận tải
bay lên bay xuống phi trường suốt ngày đêm, người dân biết ngay đến lúc chạy
theo Quân Ðội.
Vào đêm Chủ Nhật, một đoàn xe vận tải dài thòng âm thầm rời
khỏi Pleiku từng cái một đèn sáng choang. Phóng viên Nguyễn Tư nghĩ nó "giống
như một đoàn xe đi chơi cuối tuần trở về nhà’’. Phía sau, những tiếng nổ lớn
phát ra từ các kho đạn bị phá và bầu trời đen nghịt khói từ các bồn xăng đốt
cháy.
Trong khi đoàn xe tiến về hướng Nam tung lên những đám bụi đỏ
mờ mịt, từng đoàn người dân đi bộ dài như rắn bò hai bên Ðường Quốc Lộ song
song với đoàn quân xa. Một vị Nữ Tu Công Giáo nhớ lại "trẻ thơ và trẻ em
được chất lên xe bò và người kéo đi. Mọi người đều hoảng hốt. Người ta cố thuê
mướn xe bằng mọi giá’’. Trong ba ngày 16, 17, 18, tháng ba, cuộc di tản di chuyển
êm thắm khỏi Pleiku và giữa các đoàn quân xa là hàng trăm dân sự đi theo cuộc
di tản. Và cũng từ đó bắt đầu một đoàn công voa di tản đầy máu và nước mắt.
Ði được nửa đường tiến ra Duyên Hải, đoàn xe bị khựng lại để
cho Công Binh Quân Ðoàn II cố làm xong chiếc cầu nổi ngang qua sông Ea Pa cách
đèo Cheo Reo (Phú bổn) vài cây số. Tướng Phạm Văn Phú tiên liệu hai ngày sẽ sửa
xong con Ðường số 7 nhưng mãi ba ngày vẫn chưa sửa xong cây cầu. Ðến chiều tối
ngày 18.3, xe cộ và lính tráng đã đi được ba ngày và một đám dân tỵ nạn khổng lồ
bị khựng lại dọc theo con đường và dồn cục tạm nghỉ ở chung quanh châu thành Tỉnh
Phú Bổn. Cái châu thành nhỏ bé cheo leo này làm sao cung cấp đủ nhu cầu cho
đoàn di tản này, nhiều người bỏ nhà ra đi chỉ có bộ đồ trên người.
Vì hoảng sợ, địch đe dọa phía sau, đói khát và có những băng
lính không còn Cấp Chỉ Huy nữa sanh đạo tặc, đoàn người đòi cứ tiến đi không cần
biết hậu quả ra sao. Trước tình thế hỗn quân hỗn quan này, các giới chức lãnh đạo
không thể nào thuyết phục dân chúng và điều động xe cộ vũ khí thành một phòng
tuyến phòng thủ. Và y như xảy ra khi quân Ðức bao vây khóa chặt Paris năm 1940,
dân châu thành cũng chạy trốn, làm tắc nghẽn mọi con đường, Quân Ðội không thể
nào di chuyển để bảo vệ họ trước kẻ địch. Tình hình đe dọa hỗn loạn. Cần phải
có những bàn tay tổ chức. Nhưng Tướng Phạm Duy Tất vẫn còn ở Pleiku với
đoàn hậu vệ Biệt Ðộng Quân, trong khi Ðại Tá Lý bị kẹt ở giữa đoàn xe, đã phải
bỏ xe đi bộ đến Bộ Chỉ Huy ở Cheo Reo.
Khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu di chuyển xuống Quốc
Lộ số 7, Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng cũng đã bị đánh lừa theo kế hoạch của Tướng
Phú. Trước khi khởi sự chiến dịch 275, Dũng đã chỉ vẽ nhiều lần cho tư lệnh sư
đoàn 320 về những con Ðường Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không thể nào dùng nó
như là lối thoát sau cùng. Tuy nhiên, sau khi nghe tin Tây Phương nói dân chúng
đang bỏ Pleiku, các chuyến bay từ Pleiku về Nha Trang tấp nập và Hà Nội đánh
tín hiệu ngày 16.3 báo cho biết Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II đã di tản về Nha Trang,
Dũng mới bắt đầu nghĩ lại xem có con đường nào khác cho địch quân rút được
không.
Ðến 4 giờ chiều cùng ngày, công điện của Hà Nội đến báo,
tình báo Bắc Việt báo một đoàn xe dài từ Pleiku tiến về phía Nam xuống Ban Mê
Thuột. Tin này làm cho Tướng cộng sản bối rối. Phải chăng Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa phản công hay là chạy trốn? Tình báo của Dũng cho ông ta câu trả lời ngay
sau đó, đúng như tình hình diễn biến ở trên. Ðến lúc này bộ chỉ huy cộng sản mới
dở bản đồ ra, chiếu đèn pin và dùng kiếng phóng đại dò tìm địch quân. Kiểm điểm
lại, Tướng Dũng và Tướng Kim Tuấn, tư lệnh sư đoàn 320, mới biết bị Tướng Phú lừa
ngay trước mắt, Tướng Dũng khiển trách Tướng Kim Tuấn, đồng thời phối trí các
đơn vị di chuyển về tụ điểm Quốc Lộ 7 để tiêu diệt đoàn công voa di tản về Tuy
Hòa.
Ðoàn xe Quân Dân miền Nam cầu mong sao cho thời gian chậm lại
để đi kịp về miền biển không bị cộng sản tấn công. Nhưng không kịp nữa, khi màn
đêm buông xuống ngày 18.3 lúc đoàn xe kẹt ở Cheo Reo, quân cộng sản bắt đầu
pháo kích vào đám đông dân di tản. Họ hết còn bí mật nữa và kẻ thù ở trong tầm
tay. Ðêm ngày 18.3, những đơn vị tiền phong của sư đoàn 302 đụng độ với đoàn xe
Quân Ðoàn II ở Cheo Reo. Cùng lúc các đơn vị khác đụng độ với Ðoàn Quân hậu bị
Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân ở Thị Trấn Thành An ngã tư Quốc Lộ 14 và Quốc Lộ 7.
Ðại Tá Lý đi bộ mãi rồi cũng tới Bộ Chỉ Huy Cheo Reo kịp lúc để giúp điều động
Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vào vị trí phòng thủ chống các cuộc xung phong của
quân Bắc Việt ở lối vào Thị Trấn phía Tây. Ðồng thời, pháo binh Bắc Việt rót
vào. Ðoàn xe cái đầu ở Cheo Reo nhưng cái đuôi vẫn còn ở Pleiku. Việt cộng tha
hồ pháo kích. Sáng hôm sau, xác chết và xác bị thương lính tráng và dân nằm la
liệt trên Ðường Phố Cheo Reo (Phú Bổn) cùng với hàng trăm xe cộ bị phá hủy hoặc
bỏ rơi. Một phi công trực thăng Không Quân Việt Nam báo cá ‘’Khi tôi bay thấp,
tôi có thể nhìn thấy hàng trăm xác chết nằm rải rác dọc theo con đường cạnh các
xe còn cháy’’.
Mặc dù lực lượng cộng sản đã chiếm được Phi Trường Phú Bổn,
Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vẫn còn giữ được lối vào châu thành và cây cầu phía
Nam sửa xong. Ðây là một cú cải tử hoàn sinh, Ðại Tá Lý và các Cấp Chỉ Huy của
ông có cơ hội ra lệnh cho đoàn xe lên đường trở lại với 2.000 xe nổ máy ầm ầm
lăn bánh. Nhưng đoàn xe di chuyển không bao lâu, Tướng Phú cho trực thăng đến
đón Ðại Tá Lý ra khỏi Cheo Reo. Thế là đầu không còn ai Chỉ Huy chỉ có Tướng Tất
Chỉ Huy ở phía sau. Từ ngày 19 trở đi, Chỉ Huy đầu đoàn công voa là những Ðơn Vị
Trưởng cấp Tiểu Ðoàn, Ðại Ðội mạnh ai lấy ra lệnh.
Bất kể hỏa lực của cộng sản, trực thăng của Không Quân Việt
Nam bắt đầu đáp xuống bốc những người Lính và dân bị thương dọc theo con đường.
Khi những người di tản được trực thăng chở đến Phi Trường Tuy Hòa, họ kể những
chuyện khủng khiếp xảy ra cho họ. Ngày 19.3, đầu đoàn xe đã đến Sông Côn chỉ
còn cách Tuy Hòa 40 km. Nhưng ở đoạn đuôi nửa đường giữa Cheo Reo và Sông Côn,
quân Bắc Việt lại đánh ngang hông đoàn xe, lần này ở khoảng Thị Trấn Phú Túc.
Không Quân Việt Nam được gọi đến oanh kích chặn tiến quân của địch nhưng đã nhầm
lẫn bỏ bom xuống Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân (Làm tổn thất gần 1 Tiểu Ðoàn).
Nhưng Liên Ðoàn này vẫn tiếp tục chiến đấu giữ cho con đường mở.
Ðoàn xe chạy qua Cheo Reo cho đến ngày 21.3 thì quân Bắc Việt
chọc thủng các vị trí cố thủ của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân, vượt qua chiếm
châu thành và cắt đứt con đường. Trong số khoảng 160.000 người của đoàn xe di tản,
nhiều người dân bị cô lập với Lính của Ba Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân. Theo lệnh
Tướng Phú, Tướng Tất, vẫn còn ở phía sau đoàn xe, phải bỏ mọi vũ khí và quân
trang nặng để chạy khỏi Phú Bổn càng nhanh càng tốt. Hàng ngàn người chạy vào rừng.
Lính tráng với vợ con bên cạnh bị rượt bắt và tấn công nhiều lần. Một số ít giơ
cờ lên được trực thăng đáp xuống bốc. Nhưng đa số cầm chắc bị đói và bị bắt.
Những người may mắn, các bà mẹ trẻ dính máu, các cụ già và
phụ nữ người mặc áo dính bùn, và những người lính gào khóc, chân không, bước xuống
trực thăng trước khi các phóng viên bủa ra hỏi thăm tin tức tại phi đạo Tuy
Hòa. Các trực thăng bắt đầu chở thực phẩm và nước cho đoàn xe vẫn còn dài thòng
di chuyển như con rắn vì đã có nhiều người đói.
Trong khi ở đuôi đoàn xe bị tấn công dữ dội và Tướng Tất
cùng các Ðơn Vị còn lại cố chống trả bọc hậu, các Ðơn Vị đầu đoàn xe đã tiến
vào ranh giới Tuy Hòa, trên con Sông Ba, cách Thị Trấn 20 cây số. Chiếc cầu nổi
mà Tướng Cao Văn Viên hứa cũng đến kịp lúc, nhưng không kịp với lực lượng cộng
sản đã đắp mô các ngã đường nằm giữa Sông và Tuy Hòa. Chiếc cầu không thể nào
chở xe nổi đến chỗ Bắc nên phải mượn 4 phi cơ C-47 của Quân Ðoàn IV chở từng
khúc đến.
Ngày 22.3, đúng một tuần sau khi đoàn xe di tản đầy máu và
nước mắt rời Pleiku, chiếc cầu được bắc xong, đầu đoàn xe vội vã vượt qua con
sông quá nặng làm chiếc cầu phao lật, người trong xe cộ phải lội sông. Nhưng đến
cuối ngày, đoàn xe vẫn tiếp tục vượt qua khi chiếc cầu được sửa lật lại. Ngay cả
đến thời tiết cũng tiếp tay cho cộng sản để làm cho đoạn cuối đoàn xe đến Tuy
Hòa chưa hết nạn.
Trời nắng đột nhiên trở thành mưa gió lạnh lẽo cho người di
tản. Không những thời thiết thay đổi xấu gây ra bệnh tật mà nó còn làm cho phi
cơ quân sự không bay lên yểm trợ, chống trả những cuộc tấn công dưới đất của việt
cộng. Từ ngày 22.3, Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân bị kẹt đánh trong một trận đánh
bọc hậu vừa đánh vừa lui trước nỗ lực rượt theo rất rát của quân cộng sản. Liên
Ðoàn Biệt Ðộng Quân đã thu góp xe tăng và pháo binh để bảo vệ con đường ở khúc
quẹo thung lũng gần cầu nổi. Họ đánh câu giờ để cho người di tản và Lính kịp vượt
qua sông.
Ðồng thời, những Ðơn Vị đi đầu đã vượt qua Sông Ba rồi phải
phá mô việt cộng để tiến vào Tuy Hòa. Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân chỉ còn ít
quân sống sót đã gom góp được hơn chục thiết giáp M-113 vừa đánh vừa ủi các mô
tiêu diệt các vị trí cộng sản. Ðến ngày 25.3, vị trí cuối cùng của quân Bắc Việt
bị tiêu diệt nốt, Biệt Ðộng Quân bắt tay được với Lực Lượng Ðịa Phương Quân ở
phía Ðông Tuy Hòa.
Ðoàn xe khập khễnh tiến vào Tuy Hòa như một đoàn xe ma. Xấp
xỉ 60.000 người dân đến đích, hai phần ba hay hơn 100.000 người bị bỏ lại dọc
đường, chết sống không ai biết. Về phía Quân Ðội, 20.000 quân tiếp vận và yểm
trợ, chỉ còn 5.000 người đến nơi. Sáu Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân 7.000 người, chỉ
còn 900 đến Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn II ở Nha Trang và đóng chốt bảo
vệ Thành Phố. Một vị Tướng ở Bộ Tham Mưu đã buồn bã nói: "70% lực lượng
tác chiến của Quân Ðoàn II gồm Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, Biệt Ðộng Quân, Pháo Binh,
Thiết Giáp, Công Binh Chiến Ðấu và các Ðơn Vị Truyền Tin đã bị tan rã từ ngày
10 đến 25.3’’. Vì thế chuyện phản công tái chiếm Ban Mê Thuột không thể giao
phó cho Quân Ðoàn II.
Canh bạc Tướng Phú chọn Quốc Lộ 7 có thể đã an toàn nếu các
cầu nổi được bắc kịp thời và Tướng Viên đổ lỗi cho vị Tư Lệnh Quân Ðoàn II. Tướng
Viên tin rằng Tướng Phú phải hoãn cuộc di tản ít ngày để cho các Kỹ Sư Công
Binh kịp bắc cầu. Tướng Viên cũng tin rằng hoãn lại cho phép điều động sắp xếp
kỹ hơn nhất là kiểm soát dân chúng. Theo một vị Tướng Mỹ thông thạo các Sĩ Quan
cao cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lỗi lầm không những ở kế hoạch di tản của
Tướng Phú mà ở ngay chính Tướng Phú và lỗi lầm đầu tiên và quan trọng nhất là để
mất Ban Mê Thuột. Một vị Tư Lệnh Quân Ðoàn cương quyết hơn không cần phải rút
quân như vậy. Một Sĩ Quan Tùy Viên Mỹ tuyên bố: "Một vị Tư Lệnh mạnh như
Tướng Toàn (Trước đó là Tư Lệnh Quân Ðoàn II) có thể phản công tái chiếm Ban Mê
Thuột, sử dụng toàn bộ Hải, Lục, Không Quân có trong tay đã có thể kềm hãm quân
Bắc Việt, cố thủ thêm một năm nữa’’.
Nhưng ngày 25.3.1975, không còn cơ hội đó. Cuộc di tản tự
làm cho mình thất bại đau đớn, như lời Tướng Viên mô tả, hoàn tất, gây một cơn
ác mộng tâm lý và chính trị to lớn cho ông Thiệu, cho Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa và cho dân chúng Việt Nam Cộng Hòa. Một dư luận đồn thổi khắp nước và cả ở
những viên chức dân sự và quân sự cao cấp nói rằng: Tổng Thống Thiệu và người Mỹ,
trong một thỏa hiệp mật của Hiệp Định Paris, đã cố kết với nhau cho cộng sản
chiếm một phần lớn lãnh thổ Nam Việt Nam. Tại sao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã
chiến đấu can trường suốt hai mươi năm không thua đột nhiên bị ra lệnh rút khỏi
Cao Nguyên, bỏ Pleiku và Kontum không một tiếng súng giao tranh?
Tinh thần đổ vỡ vì mất bốn Tỉnh trong ba tháng và Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh nặng và vô ích không tái chiếm nổi Ban Mê Thuột đã
làm cho dân chúng Nam Việt Nam hết còn tin tưởng Tổng Thống Thiệu có thể bảo vệ
họ. Vậy ai khác có thể làm được? Phe đối lập ông Thiệu vô tổ chức, đứng ngoài
chờ thời cơ và người Mỹ tiếp tục làm ngơ. Chỉ có ông Thiệu là người phải tìm ra
cách nào để lấy lại tinh thần cho Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng trước khi ông tìm ra
hướng đi hợp tình thế thì tin xấu từ Quân Ðoàn I bay về. Cũng lại di tản và cuộc
di tản Quân Ðoàn I bi thảm không kém để kết thúc ngày 30.4.1975.
Đại Tá Trịnh Tiếu
Đăng nhận xét