Thư phản ứng của các Đồng đội về “Nhà Văn Phan Nhật Nam”
Thư phản ứng của các Đồng đội về “Nhà Văn Phan Nhật Nam”
Đồ Ngu
Theo như sự kính trọng sẵn có, câu đầu tiên tôi phải gửi người nhận bằng 2 chữ Niên trưởng PNN, nhưng từ khi đọc bài của ông đăng trên báo Người Việt. Tôi đã xoá hẳn 2 chữ ấy trong đầu và chắc chắn mai hậu, khi có ai đó nhắc đến tên ông, tôi sẽ liên tưởng đến đó là một tên... vô lại đường phố..
Từ khi bài ông đăng lại trên Hải Ngoại Phiếm Đàm, chúng tôi nhận được không ít
những phản ứng nóng bỏng của các Đại Niên trưởng anh em đồng đội, họ không
vào Bàn Ra Tán Vào mà gửi các phẫn nộ ấy bằng những cú phone... (Có một số đông
ở tuổi 70 và trên nưã không quen dùng phương tiện khác)
Tôi xin ghi lại những thái độ “Bức xúc” này để tất cả chúng
ta cùng (ngao ngán) suy nghĩ về tình đời, tình đồng đội:
- NT ĐĐĐ (K.4 phụ): Tôi và Trần Quốc Lịch cùng khoá, lại sống nghèo trong 1 chung cư CXTD. Tôi viết rất rõ. Đó là một Sĩ quan đảm lược, một ác mộng của kẻ thù trên khắp mặt trận của cuộc chiến tranh giữ nước. “Nó” đã vượt và đứng ngang với các đồng khóa và Khoả 4 (Thủ Đức) đã thành danh...
- NT (Cựu Tư Lệnh, Cựu Tỉnh trưởng): Vụ án Tham nhũng áp đặt vào Trần Quốc Lịch thật ra đó là một đòn chính trị để thỏa mãn sự đòi hỏi của Cha Cố (như LM Trần Hữu Thanh...)
- NT PVH (Khoá 4, San Jose): Nếu không nhìn tên tác giả Phan Nhật Nam thì tôi lại
nghĩ đến những “thằng” Sĩ quan quen chụp mũ ở Hải ngoại , những bọn văn công nằm
vùng chuyên biạ chuyện bôi đen sĩ quan VNCH, viết bài đó...
- NT Hùng S. (SanJose, Nhẩy dù): Địt mẹ cái thằng Phan Nhật Nam, nó thù ông Lịch
khi Ông ấy là Chiến Đoàn Truởng CĐ 2.. Ông Lịch chỉ huy rất nghiêm khắc... Thằng
này (PNN) lại là thằng Sĩ quan vô hạnh, vô kỷ luật... bây giờ lợi dụng sự nổi
tiếng để trả thù... Hèn hèn...
- NT NBH (K 8 Đà Lạt, San Diego): Trong đời tôi, đã lăn lộn khắp chiến trường 4
vùng Chiến thuật tôi chưa thấy ai đánh giặc giỏi như Tướng Trần Quốc Lịch...
- NT N Ch.H (K 16 Đà Lạt, Cựu TĐT/Nhẩy Dù. Cựu Trung Đoàn Trưỏng): Cứ theo thời
sự mà suy, bọn phóng viên ngoại quốc, bọn quen chụp mũ luôn mở miệng ra là nói
VNCH tham nhũng, chúng ta, nếu có chỉ là hạt cát, 1 vài hạt cát so với mênh
mông cát tham nhũng của VC, cái nhà của ông Thiệu so ra chưa bằng cái nhà của 1
trưởng khóm VC...
- Nhà Văn NT Đ. Đ. Bảo (Đà Lạt): Phan Nhật Nam đâu có phải Nhẩy Dù, nó bị đuổi
ra từ năm nó là Trung Uý. Nhẩy Dù đuổi nó về Địa Phương Quân, thằng “thày” chữ
nghĩa của nó là VNC (Ng.V) Pháo đội trưởng Nhẩy Dù... Chúng nó chỉ biết đánh võ
miệng, nhậu nhẹt la cà ở các nhà hàng nghe các sĩ quan cùng trường kể lại chuyện
chiến trường rồi cứ thế phóng bút...
Còn khoảng muời mấy ý kiến nưã. Đồ Ngu tôi đang “nghiên cúu” tiếp tục...
Riêng đối với Ông Phan Nhật Nam ông đã tự vất bỏ tình thầy
trò, đồng đội để hiện nguyên hình một tên “Đồ tể” văn hoá nhỏ nhen ti tiện...
Ông viết là Ông cũng là người vắng mặt trong Đại Hội mới đây của Nhẩy Dù..
Thật ra, ông đã thật sự không còn có mặt trong hàng ngủ
các Thiên thần Mũ Đỏ khi bị tống cổ khỏi Sư Đoàn Thiện Chiến số 1 của QLVNCH rồi.
Đồ Ngu sao chép
************
Cập nhật: (Phần này được ghi lại từ các Thành viên
khác)
Chuẩn tướng Trần Quốc Lịch làm TL SĐ5BB dưới quyền của Trung tướng Nguyễn Văn
Toàn TL QĐ III. Tướng Lịch bị gán tội tham nhũng nhưng sau khi bị bắt
vì tham nhũng, tướng Lịch vẫn chỉ có một căn nhà trong cư xá Tự Do từ thời ông
làm TDT/TD3ND, không có xe hơi riêng, miếng đất được BTL/SD dù cấp trước
TD2ND vẫn còn là miếng đất trống, Thử hỏi tiền bạc ông tham nhũng để ở đâu
hết!!!! trong lúc cấp trên của ông là tướng Toàn TLQD III từng vang danh
Quế Tướng Công vẫn an nhiên tự tại trên giàu sang phú quý.????
- Phan nhật Nam đã viết là khi về Lữ đoàn 2ND thì làm “sĩ quan hành
quân tiếp liệu”, đúng là bố láo, trong QLVNCH không có chức vụ ”sĩ
quan hành quân tiếp liệu”. Sự thật là khi còn ở TĐ 9ND Phan Nhật Nam là một
trung đội trưởng vô kỷ luật, thường xuyên vắng mặt những
lúc chuẩn bị hành quân, bị Th/tá Nguyễn thế Nhã TĐ trưởng trả
về cho BTL/SD. và Nam được thuyên chuyển đến LD2 ND ở Long Bình
cho Đ/ tá Trần Quốc Lịch và tạm thời cho làm nhân viên Ban 4 (tiếp liệu)
do Th/tá Tước làm trưởng ban. Chứng nào tật náy, PNN vẫn luôn lè phè và trốn trại
nên bị Lữ đoàn Trưởng Trần Quốc Lịch cho ra khỏi binh chủng
ND. Đây chính là nguyên do mà PNN có mối thù truyền kiếp với tướng
Trần Quốc Lịch cho đến ngày nay. Nói chung PNN là một SQ hèn nhát, luôn
tìm cách trốn tránh hành quân, vô kỷ luật, ... bị loại ra khỏi binh
chủng ND khi còn trung úy.
- Ông Phan Nhật Nam viết cuốn ký sự chiến trường “Mùa hè Đỏ Lửa” 72 và những
ký sự về trận hạ Lào LS 719. thật ra ông chỉ nghe bạn bè kể lại rồi viết
'ký sự” chứ thật ra ông ta không hề có tham gia HQ Lam sơn 719 /1971
cũnh như HQ tái chiếm Quảng trị 1972. Thời gian nầy ông đang ở Địa
phương quân tiểu khu Long An, làm trưởng toán gác cầu Bến lức nhưng lại
luôn có mặt ăn nhậu phê pháo khu Catinat (Tự Do). do đó những ký sự
của PNN đa phần là chế biến cường điệu làm cho độc giả cảm thấy thích
thú như đọc tiểu thuyết... nhưng... rất nhiều điều không đúng sự
thật.
- Bạn Nhẩy Dù Cố Gắng: Phan Nhật Nam chọn báo Người Việt cũng là 1 thái độ đối
với Cộng đồng... Một tờ báo luôn đánh phá sự tranh đấu của Đồng Hương... Than
ôi niên trưởng Phan Nhật Nam ...
- TN L.B.A (Đà lạt): Tạo sự căm phẫn đối với Cô Nhi Quả Phụ bằng cách viết ra rằng
Tướng Trần Quốc Lịch sát quân là võ đoán, quy chụp có ác tâm...Những cô nhi quả
phụ của QLVNCH họ chỉ phẫn nộ và quy tội cho Cộng quân vì sự tử trận của thân
nhân họ mà thôi...
- NXY (Cưu ĐUý TĐ 9 ND(Phan Nhật Nam ở TD 9 quậy phá, Bị trả về BTL Nhẩy
dù. Tướng Dư Quốc Dống biết chỉ có Trần Quốc Lịch có thể “ trị” được PNN nên
chuyển Nam xuống Lữ Đoàn 2 ND, nơi đây cho Nam về Ban 4 Tiếp liệu làm nhân viên
dưới quyền của TT Tước. Nam vẫn rượu chè quậy phá...Bị Tướng Lịch đích thân yêu
cầu BTL đuổi Nam ra khỏi Binh Chủng...Nam ôm mối hận ấy.
https://haingoaiphiemdam.com/p124a23573/tuong-tran-quoc-lich-ngay-n-cua-lu-doan-2-nhay-du
Tướng Trần Quốc Lịch, Ngày N Của Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù
* Lữ đoàn trưởng Trần Quốc Lịch và 5 tiểu đoàn Nhảy Dù tại mặt trận Quảng Trị Hè 1972
Như VB đã trình bày trong bài viết về cuộc chiến Mùa Hè 1972 tại Quảng Trị, vào
đầu tháng 5/1972, trước áp lực nặng nề của 3 sư đoàn Cộng quân, lực lượng bộ
chiến VNCH tại phòng tuyến Quảng Trị đã triệt thoái khỏi thị xã tỉnh lỵ để bảo
toàn lực lượng. Ngay sau đó, Lữ đoàn 368 Thủy quân Lục chiến đã lập phòng tuyến
tại bờ Nam sông Mỹ Chánh nhằm chận đứng cuộc tiến quân của CSBV. Ngày 8 tháng
5/1972, bộ Tổng tham mưu QL/VNCH đã điều động 5 tiểu đoàn Nhảy Dù thống thuộc
quyền điều động của đại tá Trần Quốc Lịch, lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù
tăng viện cho lực lượng phòng thủ tuyến bờ Nam sông Mỹ Chánh mà cầu chính bắc
ngang sông này nằm trên Quốc lộ 1 cách thị xã Quảng Trị khoảng 20 km đường bộ về
hướng Nam của tỉnh lỵ này. Trước khi tiếp ứng cho mặt trận Trị-Thiên, lữ đoàn 2
Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của đại tá Trần Quốc Lịch đã tham chiến tại chiến
trường Bắc Kontum từ giữa tháng 3/1972 đến ngày 20 tháng 4/1972, sau đó về Sài
Gòn để tái chỉnh trang, chuẩn bị hành quân ra phía Bắc Quân khu 1.
Đại tá Trần Quốc Thân xuất thân khóa 4 phụ Sĩ quan Trừ bị Thủ
Đức, phục vụ tại binh chủng Nhảy Dù từ khi mới ra trường, lần lượt giữ các chức
vụ chỉ huy cấp đại đội, tiểu đoàn (tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù), lữ
đoàn. Tháng 9/1972, đại tá Trần Quốc Lịch được bổ nhiệm giữ chức vụ tư lệnh Sư
đoàn 5 Bộ binh, được thăng chuẩn tướng vào đầu tháng 11/1972, tiếp tục giữ chức
vụ nói trên đến tháng 11/1973. Sau đây là bài viết về trận chiến của 5 tiểu
đoàn Nhảy Dù tại quận Hải Lăng, Quảng Trị, do lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù
Trần Quốc Lịch chỉ huy. Phần này dựa theo chiến sử của Sư đoàn Nhảy Dù, bài viết
của cựu trung tướng Ngô Quang Trưởng dành cho Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ,
tài liệu của tác giả Trương Dưỡng, một số bài viết trong KBC và tài liệu riêng
của VB.
Ch/Tướng Trần Quốc Lịch (ảnh của vnchtoday)
* Phòng tuyến của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù
Sau khi đến Huế, toàn bộ Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đã được giao trách nhiệm phòng ngự
hướng Tây của bờ Nam sông Mỹ Chánh. Vào giữa tháng 5/1972, Cộng quân đã mở nhiều
đợt tấn công bằng chiến xa và bộ binh vào tuyến phòng thủ của đại đội 111 thuộc
Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù nhưng đã bị thảm bại: nguyên 1 tiểu đoàn chiến xa và 1 tiểu
đoàn chủ lực của CQ bị loại ra khỏi trận chiến.
Đầu tháng 6/1972, Cộng quân lại mở trận trận tấn công vào cụm
tuyến phòng thủ của toàn Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù bằng chiến xa và bộ binh. Sở dĩ
các chiến xa của CQ qua sông dễ dàng là vì công binh địch quân đã làm một cầu
ngầm, nước chỉ sâu đến cổ chân, với độ dốc bờ sông khoảng 30 độ. Cộng quân núp
sau các chiến xa xe T 54, PT 76 và thủy xa BRT-85 cố tiến về tuyến phòng thủ của
Nhảy Dù. Ngay trong đợt đầu, binh sĩ Nhảy Dù đã hạ ngay 2 chiếc T 54 bằng súng
chống chiến xa M 72 và XM 202 bốn nòng.
Để triệt hạ hỏa lực chiến xa của CQ, thiếu tá Lê Văn Mễ, tiểu
đoàn trưởng 11 Nhảy Dù đã yêu cầu Pháo binh tác xạ đầu đạn chạm nổ, từ trên
không chụp xuống, với phương thức hỏa yểm này, có thêm 2 chiến xa CQ bị bắn
cháy, thành phần CQ tùng thiết phải rút về hướng bờ sông. Đoàn chiến xa còn lại
của CQ cũng tháo chạy trong hỗn loạn, đã đâm húc vào nhau, nhiều chiếc bị lật
trên sông. Thấy đối phương hốt hoảng lui binh, tiểu đoàn trưởng 11 Nhảy Dù cho
lệnh binh sĩ rượt theo truy kích. Các chiến binh Nhảy Dù phóng nhanh ra khỏi
các hố chiến đấu, đuổi theo địch quân qua khỏi bờ sông phía Bắc mới quay trở lại.
Trong trận đánh này, trên 100 Cộng quân bị hạ, 5 bị bắt tại trận. Theo cung từ, những tù binh này thuộc trung đoàn 66 CSBV. Về chiến xa CQ có 4 bị bắn cháy, 7 chiếc bị bỏ lại sau khi các tổ Cộng quân trên xe đã nhảy xuống chạy về hướng sông, 9 chiến xa bị lật nghiêng ở gần bờ. Chỉ trong vòng 16 ngày, tiểu đoàn 11 Nhảy Dù đã bắn cháy 46 chiến xa (số chiến xa trang bị cho hơn 2 tiểu đoàn thiết giáp CQ), riêng trong trận chiến giữa tháng 5/1972, tiểu đoàn này đã bắn cháy 26 chiến xa T54. Về phía lực lượng Nhảy Dù, tiểu đoàn 11 bị tổn thất 20 chiến binh, trong đó có thiếu úy Trần Văn Lý. Sau đó, bộ chỉ huy tiểu đoàn đã đặt tên anh cho ngọn đồi vừa xảy ra trận đánh.
* Ngày N của cuộc phản công
Ngày 28 tháng 6/1972, trong kế hoạch phản công tái chiếm Quảng Trị, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù điều động 5 tiểu đoàn tiến quân ở phía trái của Quốc lộ 1 về hướng Tây, (Thủy quân Lục chiến ở phía phải về hướng Đông). Theo kế hoạch, đúng 5 giờ sáng ngày nói trên, tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 Nhảy Dù đã vượt sông Mỹ Chánh. Bị tấn công bất ngờ, Cộng quân ở bờ sông phía Bắc đã kháng cự yếu ớt và sau đó tháo chạy về tuyến sau, bỏ lại nhiều vũ khí nặng, trong đó có cả các giàn pháo phòng không trang bị đại bác 57 ly có ghế ngồi cho xạ thủ quay vòng để bắn. Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù do thiếu tá La Tịnh Tường chỉ huy, đã tịch thu được 14 xe phòng không và nhiều vũ khí cá nhân và cộng đồng khác, bắt tại trận 5 tù binh.
Cánh quân của tiểu đoàn 2 Nhảy Dù do thiếu tá Nguyễn Đình Ngọc
chỉ huy, vượt sông ở phía trái đã tấn công ngay vào bộ chỉ huy của trung đoàn
203 chiến xa CSBV. Trận đánh diễn ra lúc trời tờ mờ sáng, toán gác tiền đồn của
CQ vừa đổi phiên thì bị một tiểu đội Nhảy Dù tấn công chớp nhoáng, cả toán tháo
chạy. Cùng lúc đó, hai đại đội của tiểu đoàn 2 Nhảy Dù đánh thẳng vào tuyến
phòng thủ của đơn vị CQ bảo vệ bộ chỉ huy. Vừa tràn vào mục tiêu, chiến binh Nhảy
Dù xung phong triệt hạ các cụm kháng cự chính. Bị tấn kích bất ngờ, toàn cụm
tuyến phòng ngự của địch quân bị vỡ, cả đơn vị bảo vệ và thành phần chỉ huy hốt
hoảng chạy về tuyến sau, bỏ lại 3 chiến xa T 54 máy vẫn đang nổ và đèn còn chiếu
sáng. Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù này đã tịch thu được hơn 10 khẩu súng cối 61 và 82 ly
còn đang để nguyên tại vị trí trên tuyến bố phòng của địch quân. Hai ngày sau,
các chiến xa này được binh sĩ Nhảy Dù lái đưa về căn cứ Quyết Thắng (bộ tư lệnh
hành quân Sư đoàn Nhảy Dù) ở cây số 17 trên đoạn từ Huế ra Quảng Trị.
Ngày 1 tháng 7/1972, cuộc hành quân của lữ đoàn 2 Nhảy Dù bước
vào giai đoạn 2. Tiểu đoàn 9 và tiểu đoàn 11 Nhảy Dù được trực thăng vận đổ
quân xuống phía Bắc sông Nhung, con sông nhỏ này chạy qua Trường Phước, Mai Đằng,
Thượng Xá để vào sông Thạch Hãn (sông chính đi ngang thị xã Quảng Trị). Trong
cuộc tiến quân này, tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tiến quân ở phía phải, tiểu đoàn 9 ở
phía phía trái. Sau đó, tiểu đoàn 7 Nhảy Dù cũng nhập trận để cùng với đơn vị bạn
triệt hạ các cụm tuyến phòng ngự của CQ bên bờ sông Nhung.
Trong 3 ngày liên tiếp kể từ khi xuất quân, các cánh quân Nhảy
Dù ở phía Tây quận Hải Lăng đã đụng độ với các đơn vị Cộng quân cơ động sư đoàn
304 CSBV. Do nhiều khu vực trọng yếu của quận Hải Lăng bị Cộng quân chiếm giữ từ
ngày 2 tháng 5/1972 sau khi Quảng Trị thất thủ, nên đối phương đã bố trí quân
trấn đóng ở các xã gần quốc lộ 1, đoạn từ Trường Sanh ra Diên Sanh, với hệ thống
công sự kiên cố và giao thông hào liên hoàn quanh vòng đai Diên Sanh, quận lỵ
quận Hải Lăng. Tại nhiều vị trí, chiến binh Dù đã đánh cận chiến với binh lính
CSBV để chiếm mục tiêu. Không quân đã yểm trợ mạnh cho các đơn vị Dù trong các
trận giao tranh quyết liệt với Cộng quân từ sáng đến tối. Tuy nhiên, hệ thống
phòng không của Cộng quân dày dặc, khiến việc tiếp tế tải thương của các các
phi đội trực thăng VNCH gặp nhiều khó khăn.
Mục tiêu trọng điểm đầu tiên của lữ đoàn 2 Nhảy Dù là tái chiếm quận lỵ Hải
Lăng, quận cực Nam của tỉnh Quảng Trị. Từ đó, theo lệnh của lữ đoàn trưởng Trần
Quốc Lịch, các đơn vị Nhảy Dù tiến về thị xã Quảng Trị theo kế hoạch tấn công
như sau: một đơn vị sẽ tái chiếm khu vực La Vang ở phía Tây, một cánh quân thứ
hai sẽ tiến vào ngã ba Long Hưng gần thị xã, để tái chiếm quận lỵ Mai Lĩnh.
Riêng mục tiêu ở phía Tây, nỗ lực chính là Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù. Đơn vị này được
lệnh phải tái chiếm La Vang, cách thị xã Quảng Trị khoảng 5 km về phía Tây.
Ngày 1 tháng 7/1972, các đơn vị Dù còn cách thị trấn Diên Sanh (quận lỵ quận Hải Lăng) khoảng 3 km. Để tiến vào Diên Sanh, lữ đoàn 2 Dù phải triệt 2 trung đoàn Cộng quân đang bố trí trên một phòng tuyến có chiều ngang hơn 4 km. Để cản bước tiến của Nhảy Dù, Cộng quân đã pháo liên tục vào lộ trình tiến quân. Khi các đơn vị Dù dừng lại bố trí, thì súng cối của Cộng quân từ các vị trí ở tuyến sau bắn dồn dập, làm thành một hàng rào pháo chận phía trước. Đồng thời Cộng quân đã điều động 1 tiểu đoàn đặc công tổ chức các cụm chốt chận cách Diên Sanh khoảng 2 km về hướng Nam quận lỵ. Cứ thế trận chiến kéo dài đến suốt ngày 1 tháng 7/1972. Với kinh nghiệm trận địa chiến và được sự yểm trợ của Pháo binh và Không lực Việt-Mỹ, lữ đoàn Nhảy Dù đã phá được một số vị trí tiền tiêu của Cộng quân.
Đến tối ngày 1 tháng 7/1972, một đơn vị của lữ đoàn 2 Nhảy Dù đã chiếm được một số công sự phòng ngự của địch. Tuy nhiên các ngõ yết hầu trọng điểm tiến vào quận lỵ vẫn còn bị CQ tổ chức chốt chận cố thủ. Cộng quân tiếp tục pháo súng cối vào khu vực bố trí quân của các đại đội Nhảy Dù. Để giành thế chủ động, lực lượng Nhảy Dù đã mở cuộc tấn kích đêm. Giao tranh đã diễn ra ác liệt dưới ánh hỏa châu soi sáng của Không quân Việt-Mỹ. Ngày 2 tháng 7, lực lượng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đã làm chủ chiến trường.
Đăng nhận xét