TRANG TƯỞNG NIỆM NHÀ VĂN VĂN QUANG VỪA RA ĐI
TRANG TƯỞNG NIỆM NHÀ VĂN VĂN QUANG VỪA RA ĐI
Hôm Nay: Nhà Văn Văn Quang Vừa Tử Giã Chúng Ta!
LÊ VĂN HẢI
LVHải
Tin Buồn Tháng 3!
Tin từ một thân hữu cho hay, Nhà văn Văn Quang, đã qua đời
lúc 10 giờ 20 phút, ngày hôm nay! Thứ Ba, 15 tháng 3 năm 2022, tại tư gia, đường
Nguyễn Thiện Thuật, thành phố Sài Gòn, Hưởng thọ 90 tuổi.
Tuy Nhà văn Văn Quang ở Sài Gòn từ sau ngày mất nước, nhưng
những bài viết của Ông, xuất hiện thường xuyên trên khắp các báo chí Hải ngoại,
từ cuối thập niên 90, cho tới khoảng năm 2017. Cuối cùng với bài viết, giã từ bạn
đọc, sau bài này, Ông “gác bút” vì không còn sức mang “nắng mưa Sài Gòn” đến với
“những người muôn năm cũ!”
Ông được coi như “tai mắt” tường trình mọi biến chuyển, thay
đổi về thành phố thương yêu, của một thời “Sài Gòn, đẹp lắm, Sài Gòn ơi!” trước
75.
Ông là nhà văn duy nhất ở trong nước, mà lại có tình thân
thiết nhất với rất nhiều người đọc tiếng Việt bên kia vòng trái đất.
Sự ra đi của Ông, làm biết bao người thương nhớ, nuối tiếc! một Nhà văn thân yêu của Miền Nam
Nhà Văn Văn Quang Và Tôi
Trước 75, tôi chỉ là người Lính, với cấp bậc vào hàng “củ lũ
nhí” nhất, thì làm sao có cơ hội quen biết đến hàng sĩ quan cấp tá, lại mang chức
Giám Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội như Ông.
Nhưng tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm của Ông, văn ông nhẹ
nhàng, trong sáng, đầy tính nhân bản. Mang nỗi u uẩn, đau thương người dân, người
trai, khi đất nước trong thời chinh chiến.
Khi tác phẩm Chân Trời Tím dựng thành phim, do Đạo diễn Quốc Phong và Liên Ảnh sản xuất. Tôi đã là những người đầu tiên, đứng xếp hàng trước rạp Văn Hoa Dakao để chờ xem. Thổn thức với Hùng Cường, Kim Vui của mối tình trong cuộc chiến. Lòng quặn thắt với Nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau, sáng tác của Trần Thiện Thanh, dành riêng cho phim này, qua tiếng hát vút cao của Thái Thanh...
Sau Tháng Tư Đen tan tác,
Khoảng cuối thập niên 90, lúc đó tôi đã giữ một tờ tuần báo,
một cây viết của tờ báo, cũng là nhân viên tòa soạn, bút hiệu “Điền Tuấn” Cũng
là người bạn thân thiết với Nhà văn Văn Quang, đã đưa ra một đề nghị với tôi:
-“Có một nhóm văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, vừa mới từ cải tạo về,
muốn viết bài cho tờ báo mình, để có chút tiền cà phê, cà pháo, anh em có cơ hội
gặp mặt cho vui”
Tôi đồng ý ngay, chỉ thắc mắc:
-“Nhưng trả tiền nhuận bút bằng cách nào? Có ảnh hưởng gì đến
người trong nước không?”
-“Dừng lo, chúng tôi có đường dây!”
Từ đó, tờ báo tôi, xuất hiện rất nhiều bài báo, từ những cây
viết trong nước, nhưng nhiều nhất, vẫn là những bài của Nhà văn Văn Quang!
Thời gian này, người Việt Hải ngoại, mang thân phận của một
kẻ lưu đầy, chưa bang giao, nên nghĩ vĩnh viễn không có đường về quê hương! Những
bài viết kể chuyện nắng mưa Sài Gòn, nơi chôn bao nỗi nhớ, là những bài “ăn
khách” nhất của tờ báo.
Khi Nhà văn Tô Ngọc qua Mỹ, Ông đến tòa soạn ngay ngày hôm
sau, thông báo với tôi: “Anh em gởi lời cám ơn, “bịch thuốc bổ,” gởi về mỗi
tháng, để Anh em mới có cơ hội gặp nhau vui lắm, chưa kể giúp được những trường
hợp khó nghèo!”
Tôi rất vui mừng, không ngờ chuyện nhỏ, mà có kết quả quá
vui, thật to lớn như thế! Từ đó, tôi có cơ hội thăm hỏi Ông qua thư từ.
Sau này, mừng cho Nhà văn Văn Quang, vì đã cộng tác với rất nhiều tờ báo của Hải ngoại. Có vẻ từ đó, đời sống Ông cũng dễ thở hơn chăng.
Vài Dòng Tiểu Sử”
Nhà văn Văn Quang tên thật là Nguyễn Quang Tuyến, sinh năm
1932 tại Thái Bình.
Năm 1953, ông gia nhập Quân Đội Quốc Gia, phục vụ trong nhiều
đơn vị tác chiến tại miền Bắc trước hiệp định Geneve năm 1954.
Từ năm 1957, Văn Quang chuyển sang ngành Tâm lý chiến, với
nhiệm vụ Trưởng phòng Báo chí Quân Đội thuộc Cục Tâm lý chiến, Tổng cục Chiến
tranh Chính trị QLVNCH. Cũng là Trưởng ban biên tập của các tờ báo Quân Đội
VNCH.
Tác phẩm đầu tay của Văn Quang là “Tiếng Tơ Lòng” được đăng
trên nhật báo Thanh Dân, Hà Nội. Cuối năm 1953, tác phẩm thứ nhì ra đời, là tập
truyện ngắn Thùy Dương Trang, do Lạc Việt xuất bản tại Sài Gòn năm 1957.
Từ đó cho đến 30 Tháng Tư 1975, Văn Quang cộng tác thường
xuyên với rất nhiều nhật báo, tuần báo, tạp chí tại Sài Gòn.
Văn Quang có hơn 28 tác phẩm được xuất bản. Các tác phẩm của
ông hầu hết là truyện dài, trong số có những tác phẩm, gây được nhiều tiếng
vang như: “Nét Môi Cuồng Vọng”, “Nguyệt Áo Đỏ”, “Người yêu Của Lính” Ông đã có
bốn tác phẩm được chuyển thành phim: “Ngàn Năm Mây Bay”, “Chân Trời Tím”, “Đời
Chưa Trang Điểm”, “Tiếng Hát Học Trò”.
Sau 75, Ông trải qua 13 năm rưỡi đi tù cải tạo. Khi ra tù,
Văn Quang trở về Sài Gòn, sau đó từ chối ra đi theo diện HO, quyết định tiếp tục
ở lại Việt Nam, Nhà văn duy nhất cộng tác với rất nhiều báo chí Việt ngữ tại hải
ngoại.
Trong bài chia tay với độc giả, với tâm tình thật cảm động:
“Hơn 60 năm cầm bút, tôi không có gì đáng tự hào, bởi chỉ như người Lính khi ra
trận, không biết mình đã bắn được bao nhiêu viên đạn! Tất cả chỉ vì ba lời thề
“TỔ QUỐC – DANH DỰ- TRÁCH NHIỆM!”
Thương tiếc Nhà Văn thân thương vừa rời bỏ chúng ta, xin mời cùng thưởng thức một bài Tạp Ghi của Ông, như nén hương tưởng nhớ, để “nhắm mắt cho tôi tìm!” thấy… Ông!
Văn Quang
I.
Tôi không nhớ rõ năm đó là năm thứ mấy chúng tôi “học tập cải
tạo”, chỉ biết rằng đã có những người “quen” với những ngày tháng cực khổ, dài
lê thê trong những căn nhà giam được “xây dựng” bằng đủ thứ kiểu giữa những
vùng rừng núi âm u. Ở Sơn La thì “trại” được làm trên những nhà tù từ thời xa
xưa, chỉ còn lại những cái nền nhà lỗ chỗ, người ta dựng vách đất trộn rơm, mái
lợp bằng các kiểu lá rừng, miễn sao che kín được khung trời.
Nơi này xưa kia, Pháp dùng để giam giữ tù chính trị, rồi một
thời gian sau, VN giam những người tù Thái Lan và trong chiến tranh đã có khi
người ta dùng làm “công binh xưởng” chế tạo lựu đạn. Vì thế nên thỉnh thoảng
chúng tôi nhặt được một cái vỏ lựu đạn ở đâu đó quanh khu vực này. Ở Vĩnh Phú
thì nhà tranh vách đất, ngoại trừ một khu người ta gọi là khu “biệt kích” gồm
vài căn nhà “xây dựng kiên cố” bằng gạch lợp tôn xi măng. Chúng tôi “được học tập
cải tạo” trong dãy nhà này. Cũng nghe người ta nói lại
là khu này trước kia dùng để giam giữ những người lính biệt
kích đã từng nhảy dù ra Bắc rồi bị bắt giam ở những khu đặc biệt đó. Muốn vào
khu này phải qua hai lần cổng có tường gạch bao quanh. Nhưng có lẽ khi giam giữ
biệt kích thì khác, còn khi chúng tôi “được giam” ở đây có vẻ như “cởi mở” hơn
vì những cánh cổng thường không đóng bao giờ. Họ để cho chúng tôi đi lao động
hàng ngày cho khỏi phải mở ra mở vào.
Cuộc sống dù cực khổ đến đâu, sống mãi rồi người ta cũng phải
quen. Nhịp sống hàng ngày cứ thế trôi đi dù là trong đói rét, thiếu thốn và
trong những cấm đoán vô cùng khe khắt. Nhà tù nào chẳng thế, nó có những quy luật
và quy định riêng. Những ngày đầu người ta cấm luôn cả trà, cà phê, thậm chí cấm
cả đeo kính cận. Nhưng sau này nới dần, những thứ như thế không bị cấm nữa. Chỉ
còn những thứ đã thành “luật” thì luôn bị cấm và cấm ở bất cứ đâu. Cấm “mua bán
đổi chác linh tinh”, cấm dùng thức ăn lâu ngày bằng bột, cấm tỏi và cấm tất cả
những dụng cụ sinh hoạt bằng sắt như dao, kéo, muỗng nĩa… Tuy vậy có anh tù nào
lại ngây thơ ngoan ngoãn đến nỗi tuân theo hoàn toàn những quy định ấy. Mua bán
đổi chác linh tinh vẫn cứ diễn ra, dao kéo vẫn cứ được lén lút xử dụng hàng
ngày nhưng đó là những thứ đã được “cải biên” thành dao kéo mini nhỏ nhắn cho dễ
cất giấu. Nó là những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày, dù có bị bắt thì
cũng chỉ bị tịch thu chứ không đến nỗi bị cùm một hoặc hai chân –tùy theo tội–
đưa vào “thiên lao” tức là thứ phòng giam đặc biệt trong trại tù.
II.
Ngày qua ngày, cái “không khí êm ả” của trại giam trở nên phẳng
lặng nhưng dĩ nhiên là không thể nào nói rằng đó là thứ “an tâm, hồ hởi phấn khởi”
mà bất kỳ anh “trại viên” nào cũng cứ phải viết khi phải làm những “bản kiểm điểm”,
mặc dù kể cả người viết và người đọc đều chẳng ai tin.
Nhưng cái không khí ấy đôi khi bỗng nhiên bị xáo trộn. Vào một
buổi sáng tinh mơ, khi chúng tôi đang ngồi ở cái sân đất giữa trại, chuẩn bị gọi
tên từng đội đi lao động để “một ngày lại vinh quang như mọi ngày” thì bỗng đâu
toán lính gác trại tù sồng sộc chạy vào. Họ chạy rầm rập như ra trận, súng ống
chĩa về phía “quân thù”, mặt mũi “khẩn trương” rõ rệt. Họ sộc thẳng vào phòng
giam trống hốc cứ làm như có địch ẩn nấp đâu trong đó.
Chúng tôi ngẩn ngơ đứng nhìn, không hiểu họ giở trò gì. Có
những khuôn mặt lo lắng, một nỗi lo bâng quơ. Chuyển trại hay có một ai đó trốn
trại? Chưa biết. Toán lính lục tung hết mọi thứ đồ đạc ít ỏi mà mỗi người tù có
được trong gói hành trang của riêng mình. Sau đó chừng nửa giờ, một vài gói đồ
bị tịch thu được vác lên “phòng thi đua”. Lúc đó thì chúng tôi mới hiểu rằng đó
chỉ là một kiểu khám phòng để tìm ra những thứ đồ “quốc cấm” của trại đã quy định.
Thật ra, đó cũng là cái cung cách mà ở những “trại cải tạo”
thường dùng để khuấy động cái không khí trầm lặng dễ phát sinh ra những “tiêu cực”.
Bởi trong cái sự yên bình của một trại giam, người tù có thể liên kết với nhau
làm một chuyện gì đó như tổ chức trốn trại hoặc có thể có những vụ xúi giục
“tuyệt thực”, bàn bạc chống đối… Và nếu nói đến sự chống đối thì có hàng trăm
thứ để có thể chống đối được. Thí dụ sự ăn đói, sự đối xử bất công, sự oan ức vô
lý, sự trù dập của một vài anh “quản giáo”, sự hỗn hào của mấy anh lính võ
trang. Chuyện gì cũng có thể chống đối được. Vì thế thỉnh thoảng họ phải làm
cho cái không khí đó mất hẳn cái vẻ trầm lặng để chứng tỏ lúc nào họ cũng đề
phòng, lúc nào họ cũng “đề cao cảnh giác”, lúc nào họ cũng sẵn sàng đối phó với
mọi “mưu đồ”.
Các anh tù đừng có tưởng bở, chẳng bao giờ yên đâu. Cứ sau mỗi
lần như thế, chắc chắn thế nào họ chẳng vớ được một anh nào đó giấu những thứ vớ
vẩn như dao kéo, thư từ, sách vở tiếng nước ngoài, tiền bạc, đồ dùng ngoài quy
định. Tất nhiên sẽ có những cuộc “kiểm điểm, phê bình” mà chúng tôi gọi là những
“buổi tối ngồi đồng” để từ đó hy vọng lòi ra một vài cái “tội”. Đội nào khôn
ngoan thì cứ ngồi im, ai “phê” thì cứ mặc, còn cãi là còn “ngồi đồng”. Đi làm
suốt một ngày mệt mỏi đến thở không ra, tối về còn ngồi đồng, còn “phê bình”
còn “kiểm thảo” thì chịu sao nổi. Nay “làm chưa xong” thì mai lại ngồi tiếp, ngồi
cho đến khi nào tìm ra tội mới thôi. Tội nặng, tội nhẹ tùy theo tình hình của từng
thời điểm.
Thời điểm “căng” thì vào nhà kỷ luật đặc biệt nằm “treo một
chân”, thời điểm nhẹ nhàng thì cảnh cáo, ghi tội vào biên bản. Và họ sẽ có những
biện pháp an toàn như chuyển đổi năm bẩy anh từ đội này sang đội khác để phòng tránh
những chuyện thông đồng, những tổ chức, những phe nhóm có thể gây nguy hại đến
an ninh của trại tù.
Chung quy đó chỉ là một cách đào xới tung cái tinh thần “tưởng
rằng yên ổn” của mấy anh “trại viên” còn tỏ ra cứng đầu, còn có mưu toan lôi
kéo người này người kia vào trong phe mình để từ đó có những yêu sách hoặc toan
tính bất lợi cho trại tù. Quả là mỗi lần như thế trại tù cũng rối tung lên và
làm cho những anh yếu bóng vía thường phải sống dựa vào tinh thần bè bạn càng
thêm rụt rè, chẳng biết tin vào ai được nữa. Nhưng riết rồi trò gì cũng thành
quen và đối với một số người “chẳng có gì để mất” thì họ trơ như đá, muốn làm
gì thì làm, chỉ có cái thân tù đói này thôi, sống cũng được mà chết cũng chẳng
sao.
Có lẽ tôi cũng đã học tập được cái tinh thần ấy của những
anh bạn trẻ, bởi tôi cũng chẳng có gì để mất. Vợ con nhà cửa đều đã mất tất cả
rồi, chẳng có gì phải lo. Đôi khi tôi sống tưng tưng, ông anh rể ở Sàigòn gửi
cho cái gì thì nhận cái nấy. Và một sự thật không thể quên là nếu không có ông
anh rể tốt bụng đó thì tôi cũng đã trở thành một thứ “caritas” như một số anh
em ở trong trại tù rồi. Tức là những người chẳng có ai thăm nuôi.
Những bà vợ đau khổ với những gia đình đói rách lầm than, họ
lo cho chính họ còn không xong thì lấy gì đi “thăm nuôi” người ở trong tù mà lại
tù ở tuốt tận miền Bắc xa tít mù tắp. Thậm chí có người còn vui mừng khi thấy vợ
mình bước đi bước nữa với một anh nào đó đưa các con ra được nước ngoài. Tôi
nói thế để chứng minh rằng không nên trách cứ bất kỳ một ai trong hoàn cảnh cay
nghiệt này. Theo tôi thì những anh “mồ côi” không ai thăm nuôi trong trại tù mới
chính là những anh hưởng trọn vẹn được cái “thú đau thương”.
III.
Trở lại chuyện buổi sáng tinh mơ, khi toán lính chạy sồng sộc
vào trại. Đó là một buổi sáng cuối mùa đông, trước Tết âm lịch chừng vài ngày.
Đây cũng là biện pháp an ninh thông thường của các trại tù trước những ngày lễ
tết lớn. Tôi thảnh thơi theo đội đi làm ở ngoài đồng. Tôi vẫn cứ yên trí rằng
chẳng có gì để mất, chẳng có gì quan trọng.
Vào mùa đông cái thứ quan trọng nhất chỉ là rau. Mùa này thiếu
rau đến… khô quắt cả dạ dày, rau muống bầu bí không trồng được, chỉ còn rau cải
và trồng cải thì lâu ăn và năng suất không cao, cho nên có được tí rau là hạnh
phúc nhất. Tôi ngồi lê la trước mấy luống su hào, đó là thứ “thực phẩm cao cấp”
nhất trong khu vườn rau của toàn đội. Những củ su hào bắt đầu to hơn nắm tay nằm
tròn trĩnh dưới những tàu lá xanh mượt mà, tôi trông coi chúng vì cái công sức
tôi bỏ ra hơn một tháng trời. Tôi coi chúng cũng như một tác phẩm nào đó mà tôi
đã từng viết ra, ở đây không có gì để coi như tác phẩm thì coi nó là tác phẩm vậy,
để có cái mà thú vị và để có cái mà quên đi những thứ quanh mình.
Cứ như thế tôi tha hồ đặt tên từng luống su hào, có khi là một
cái tên nghe có vẻ “lả lướt” như tôi đã gặp ở phòng trà tiệm khiêu vũ, có khi
là một cái tên rất dung tục. Âu cũng là một trò “nghịch ngầm” giữa vùng rừng
núi âm u, hầu như không có mặt trời mùa đông này. Nhưng tôi biết rằng trò chơi
của tôi sẽ phải chấm dứt trong một hai ngày nữa. Bởi Tết đã đến, dù 12 luống su
hào còn non chưa đến ngày “thu hoạch” nhưng cần thức ăn trong ba ngày Tết nên họ
sẽ nhổ. Nếu tù không ăn thì cai tù ăn, chứ không đời nào họ chịu để đến mùa
xuân. Nhưng vui chơi được giờ nào hay giờ ấy trong cuộc sống phù du này.
Buổi trưa về đến trại, trong khi bạn bè xung quanh đang xôn
xao, kẻ bị tịch thu cái này, người bị mất cái kia thì tôi vẫn nhởn nhơ vì tôi
chẳng có gì để mất. Tôi xách tô đi lấy cơm, gọi là phần cơm, nhưng thật ra chỉ
có đúng một bát bo bo tương đối khá đầy đặn. Tôi ăn thì tạm lưng lửng, nhưng những
người bạn tôi thì không bao giờ đủ. Họ thường nói “Vừa ăn xong mà vẫn cứ tưởng
như mình chưa ăn”. Cái đói cứ lửng lơ mãi ngày này qua ngày khác, thế mới là
khó chịu. Có những ông bạn tôi ăn theo cái kiểu câu dầm, tức là lấy cái muỗng
tre nhỏ xíu, hoặc một cái gì đó lớn hơn cái đầu đũa, múc từng muỗng ăn rả rích
suốt ngày để có cảm tưởng lúc nào cũng được ăn, nó làm lu mờ cái cảm giác đói,
đó là cách tự đánh lừa mình.
Tôi cũng “ăn dè hà tiện” nhưng tôi ăn bằng muỗng. Cái muỗng
rất đặc biệt bằng inox hẳn hoi, có chạm trổ tinh vi và luôn được chùi rửa sáng
bóng. Nhưng sáng nay, được chia hai củ khoai lang ăn sáng nên tôi để cái muỗng ở
nhà. Tôi thường cất nó vào trong chiếc lon Guigoz – một loại vỏ hộp sữa được chế
biến thành đồ dùng rất thông dụng và nhiều lợi ích của hầu hết những anh tù, nó
có thể dùng “trăm công ngàn việc” từ đựng các loại thức ăn, thức uống đến đun nấu,
câu móc, đựng mắm muối, chứa đồ để dành, tắm rửa đánh răng, rửa mặt. Nhưng hôm
nay thì cái muỗng biến mất, tất nhiên là nó đã bị tịch thu trong buổi khám xét
trại sáng nay.
Đây là thứ “gia bảo” tôi đã cất giấu nó suốt mấy năm nay
chưa hề lơi lỏng. Nó luôn nằm sát bên tôi, lúc đi lao động cũng như khi nằm ngủ.
Có thể ví như cái nạng của một anh què, cái gậy của ông lão chín mươi, một thứ
đã thành thói quen bám vào cuộc sống.
Sau một buổi trưa mưu toan tính kế, chiều hôm đó tôi quyết định
đến gặp Dực, anh chàng trưởng ban thi đua của trại. Dực cũng chỉ là một “trại
viên”, nhưng trước đây anh ta là cán bộ, “thoái hóa tiêu cực” sao đó nên bị đi
tù. Những anh cán bộ và quân nhân trong trại tù thường được gọi là “phạm binh
phạm cán” tức là tội phạm thuộc binh sĩ hoặc cán bộ cũ. Họ có một chế độ đãi ngộ
riêng và thường được dùng vào trong các công việc cần đến sự tin cậy của giám
thị.
Bữa khai lý lịch, thấy tôi khai là dân huyện Quỳnh Côi, tỉnh
Thái Bình, Dực liền hỏi quê quán và nhận là người cùng quê. Một lần Dực dẫn
chúng tôi đi lấy quần áo ngoài trại chính, qua khoảng đồi núi quanh co, anh ta
chỉ tay lên mảng cây cối thưa thớt, nói với tôi rằng “cậu huyện Nhụ nằm ở đó”.
Tôi hỏi anh có họ hàng thế nào với ông Huyện Nhụ, anh ta nói
là cháu gọi ông Nhụ bằng cậu, nhưng gia đình cụ Nhụ vào Nam còn gia đình anh vốn
là nông dân nên ở lại miền Bắc.
Cụ Nguyễn Mạnh Nhụ trước năm 75 làm chánh án ở tòa án Sài
Gòn và tôi nghe nói là cũng có họ hàng với gia đình tôi, nhưng là họ xa. Cụ làm
tri huyện từ khi còn rất trẻ. Sau này tôi có gặp cụ vài lần. Tôi kể cho Dực
nghe đôi ba chuyện về cuộc sống của cụ huyện Nhụ khi còn ở Sài Gòn. Sau này đi
“cải tạo” cụ mất ở trại này. Dực nói là trước khi cụ chết, cụ chỉ thèm được ăn
một cái bánh dò. Dực nhắn người nhà ở Thái Bình khi đi thăm nuôi thì ghé qua Hà
Nội mua lên vài cái, nhưng khi bánh dò mang lên thì cụ mất rồi.
Từ đó, đối với tôi, Dực có phần dễ chịu hơn. Nhưng dĩ nhiên
cái khoảng cách giữa một bên là “ngụy” một bên là “cán” thì khó mà san lấp được…
Nhưng hôm nay thì tôi cần đến hắn. Suốt buổi trưa tôi không
gặp được Dực. Cho đến hai hôm sau, khi trại đã xôn xao chuẩn bị cho những ngày
Tết tôi mới gặp được Dực. Trong khi đó tôi dò hỏi mấy tay làm văn hóa xem những
thứ bị tịch thu còn để trong phòng thi đua không. Họ nói còn để trong kho lẫn lộn
với những thứ đồ dùng khác. Tôi mang cho Dực một ít thuốc đau dạ dày của ông
anh tôi gửi vào. Rất may cho tôi là hắn cũng bị đau dạ dày. Mà cái thứ thuốc trị
bệnh dạ dày ở miền Bắc hồi đó chỉ là tí mật ong trộn với nghệ nên không công hiệu.
Tôi có thứ thuốc “cao cấp” hơn là Maalox, uống vào là cơn đau dịu xuống ngay.
Thuốc Mỹ đàng hoàng, người ta ghét Mỹ nhưng thuốc của nó tốt thì cứ thích, có
sao đâu.
Tôi gạ chuyện để xin lại cái muỗng. Dực trợn mắt:
– “Anh làm cái gì mà cần cái muỗng đến thế? Bây giờ để trong
kho, chui vào đấy mà trực trại nó biết thì tôi vào nhà đá.”
Tôi nằn nì:
– “Đấy là đồ gia bảo của tôi đấy. Anh biết không, tôi mất
nhiều thứ lắm, một cái bằng lái xe ba dấu, một cuốn tự điển.Nhưng tôi không cần,
chỉ cần cái muỗng thôi.”
Dực nhìn tôi nghi ngại:
– “Hay là mày giấu tiền trong đó?”
Dực hơn tôi hai tuổi nên hắn có gọi tôi bằng mày tôi cũng
không tự ái, mà dù hắn có kém tôi vài ba tuổi mà lúc đó gọi tôi bằng mày tôi
cũng cho qua luôn.
– “Cái muỗng đặc và nhỏ như thế làm sao giấu tiền được?”
Dực nửa đùa nửa thật:
– “Bọn mày thì lắm trò lắm, cái gì chúng mày chẳng làm được.
Chưa biết chừng mày giấu cả cái máy quay phim trong đó cũng nên. Tao nghe nói
mày có sách làm phim phải không?”
– “Đúng, nhưng là tôi viết truyện rồi người ta lấy làm phim
chứ tôi biết cái cóc khô gì.”
– “Vậy sao mày chỉ đòi lấy cái muỗng, mày mua chuộc tao bằng
hai vỉ thuốc đau dạ dầy, không bõ. Khéo không chết cả đám. Tao không chơi.”
Tôi thất bại, nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc. Chiều hôm đó, Dực
lại được lệnh phải làm một cái phòng đọc sách vào dịp Tết. Tôi đang loay hoay
dán mấy cành hoa đào lên tấm phông trên hội trường thì Dực kéo tôi xuống. Nó bảo
tôi đi khuân sách trên thư viện về hội trường, kê bàn ghế, trang trí thành khu
đọc sách báo trong ba ngày Tết cho ra vẻ “có văn hóa”. Nhưng nếu coi thư viện
thì không được ăn tết ở phòng mà phải ngồi trực ở hội trường. Tôi nhận lời ngay
dù biết rằng sẽ mất cái thú dự những ngày Tết với anh em trong phòng và mất cái
thú ngồi đánh mạt chược bằng những con bài gỗ do chúng tôi tự làm lấy.
Thế là tôi lại có dịp lân la nói chuyện với Dực về cái muỗng
của tôi. Dực vẫn nghi ngờ rằng tôi có cái gì giấu trong đó. Tôi đành kể cho Dực
nghe:
– “Buổi sáng hôm tôi phải đi “học tập cải tạo”, vợ tôi chuẩn
bị một số đồ dùng hàng ngày đưa vào túi xách. Đứa con gái của tôi, khi đó mới
hơn ba tuổi, thấy mẹ nó bỏ vào túi xách nào là quần áo, khăn mặt, thuốc men… nó
đang ăn sáng, cũng bỏ vào xách tay của tôi cái muỗng nó đang ăn và dặn: “con
cho bố mượn, khi nào bố về, phải trả lại cho con đấy”.
Tôi ôm con gái gật đầu hứa khi về bố sẽ trả. Nhưng quả thật
tôi vẫn nghĩ chẳng bao giờ tôi trả lại được cho nó. Lần chia tay này có thể là
vĩnh viễn… Chúng tôi ngậm ngùi chia tay, không thể hẹn được ngày về vì có biết
ngày nào về đâu mà hẹn!
Thế là từ đó, cái muỗng theo tôi suốt trong những bữa ăn, suốt
trong những giấc ngủ. Hình ảnh con gái và gia đình tôi hiện lên qua cái muỗng
đó. Tôi vẫn đánh lừa tôi rằng tôi đang được ăn bên con gái, bên những người
thân. Dù tôi biết rất rõ sự lừa dối ấy là một niềm ước vọng không bao giờ thành
hiện thực, nhưng vậy mà đôi lúc tôi cũng thấy ấm lòng.
Nghe câu chuyện ấy, Dực tỏ ra chần chừ, nhưng hắn vỗ vai
tôi:
– “Thôi được, nếu đã là như thế thì tôi giúp cậu. Tối nay,
khi ngồi coi phòng đọc sách, tôi sẽ giữ phần bánh chưng lại cho cậu, tôi sẽ gọi
cậu xuống phòng thi đua cho cậu ngồi ăn ở đó, trong khi tôi gọi ban thi đua lên
phòng hội thì tôi giả vờ để quên chìa khóa kho. Cậu mở cửa vào lấy, có gì thì cậu
chịu trách nhiệm. Nó mà vớ được thì ‘kỷ luật’ suốt cái Tết này đấy, chưa biết
chừng suốt mùa xuân.”
Chẳng còn cách nào khác, tôi đành làm theo cách “ăn trộm”
này. Tối đó tôi mở khóa mò vào gian nhà kho. Ánh điện từ nhà ngoài hắt vào, vừa
đủ soi sáng cái đống hầm bà làng đủ thứ đồ dùng lặt vặt vừa bị thu mấy hôm trước.
Tôi sục ngay vào cái đống linh tinh đó, quả là những anh bạn tù của tôi có lắm
trò chơi thật.
Thôi thì đủ thứ, cái điếu cày được làm bằng những ống hỏa
châu hoặc những cáng băng ca được cắt ngắn, chạm trổ rồng phượng, khắc gọt rất
tinh vi. Những cái trâm cài đầu, những cái lược cho con gái hay cho người yêu,
làm bằng nhôm được khắc những cái tên “Hồng Hoa, Bích Phượng, Thúy Hường…” nghe
nao cả lòng. Những con dao nhỏ xíu, những cái muỗng gò bằng tôn cũng có hoa lá
cành xinh xắn. Tất cả những cái gì bằng sắt đều nằm gọn ở đó.
Sách vở tiếng Anh tiếng Pháp và đủ thứ giấy tờ lộn xộn. Cái
mà tôi kiếm được trước tiên lại là cái bằng lái xe của tôi. Tôi không dại gì mà
không đút vào túi, dù chẳng biết để làm gì. Tôi lại hì hục lục tiếp, vừa hồi hộp
vừa phải thật nhanh tay, tôi đâm ra lính quýnh. Dù chỉ một tiếng động nhỏ cũng
khiến tôi giật mình. Cái muỗng của tôi vẫn chưa tìm thấy. Ruột nóng như lửa đốt,
tôi bới tung hết cả cái đống ấy và đâm hốt hoảng nếu cái muỗng không còn ở đó nữa.
Nhưng may quá, cái muỗng kia rồi, nó nằm dưới cuốn sách dày cộm của “thằng chết
tiệt” nào đó. Nó chỉ thò ra có mỗi cái đuôi, tôi cũng nhận ra nó ngay. Lúc đó
tôi có cảm tưởng như “con có ở xa hàng cây số thì bố cũng cứ nhận ra con như
thường”.
Tôi vồ lấy nó như sợ bị người ta giật mất. Tôi nhìn cái hoa
văn chạy dọc theo cán muỗng mà tôi đã quá thân thuộc như chính cái nét mặt con
gái tôi khi nó “nhí nhảnh” đưa cái muỗng vào trong túi xách. Nó vẫn cứ tưởng là
một chuyện vui, bố đi chơi rồi mai bố về. Ừ thì vui. Tôi cười trong nụ cười mếu
máo của mẹ nó và trong nụ cười hồn nhiên của nó. Không hiểu sao trong lúc gay cấn
như thế mà hình ảnh xưa lại hiện lên rất nhanh như một ánh chớp. Tôi vọt ra khỏi
phòng khóa cửa lại, biến nhanh vào bóng tối trên con đường về “khu biệt kích”.
Thoát nạn! Cái Tết ấy tôi lại được vui chơi với cái muỗng của tôi, dù tôi đã phải
hy sinh suốt ba ngày, trong khi mọi người được nghỉ ngơi thì tôi cứ phải quanh
quẩn trong cái “phòng đọc sách” chẳng có ma nào thèm ngó đến ấy.
Những dịp nghỉ ngơi như thế cũng hiếm hoi như chuyện được ăn
một bữa cơm đúng là cơm chứ không phải khoai sắn hay bo bo. Nhưng quả là tôi thấy
hạnh phúc dù ngồi thui thủi một mình. Tôi có cái muỗng rồi, còn cần gì vui chơi
nữa. Đó chính là mùa xuân của tôi.
Nhưng không phải đó là một lần duy nhất tôi phải “cứu lấy”
cái vật gia bảo của mình. Hai lần sau cũng tương tự, cũng bị tịch thu rồi cứu lại
được cứ như sắp ra pháp trường rồi lại được cứu. Chỉ tiếc rằng người cứu tôi
không phải là người bạn đồng minh đã từng chiến đấu với các đồng ngũ của tôi
trong những năm qua, người đồng minh đó đã “gan dạ” cuốn cờ chạy nhanh và chạy
xa quá rồi. Thôi thì tôi tự cứu lấy cái muỗng của tôi vậy.
Một lần khác, tôi lội qua con suối sau cơn mưa lớn. Chỗ
chúng tôi làm phải đi qua một con suối, gọi là suối lạnh. Bình thường nó cạn,
dòng nước trong vắt dịu dàng trôi lờ lững trên những tảng đá xanh. Chúng tôi
thường dùng nơi này làm bến tắm. Nhưng cứ có một cơn mưa lớn là nước từ những
triền đồi vây quanh bốn hướng ào ạt đổ xuống, chỉ cần nửa giờ sau là con suối
trở nên hung hãn, nước chảy cuồn cuộn và mang theo những cành cây, những khúc gỗ
lao băng băng. Chúng tôi phải gấp rút lội qua con suối trở về trước khi con suối
trở thành hung dữ. Sang gần tới bờ bên kia, tôi loạng chọang làm đổ cái túi đồ
đựng những thứ lặt vặt trong đó có cái muỗng. Ở đây tôi thuộc từng khe đá nên
tôi không ngần ngại nhoài người xuống mò. Anh bạn nhảy dù, la lên:
– “Bộ ông điên sao?”
Tôi điên thật, hy vọng mình mò được. Nhưng nước chảy xiết
quá tôi lại thua. Anh bạn nhảy dù trẻ, què một tay vì bị thương ngoài chiến trường,
rất hiểu tôi nên anh đi xa hơn một chút và khom người xuống, thò một tay ra cái
khe hòn đá là tìm được lại cho tôi được cái muỗng. Đôi mắt anh rất tinh, anh mỉm
cười:
– “Tôi biết ông mất cái gì rồi.”
IV.
Chuyện trớ trêu là hơn 12 năm sau, tôi đã trở về, nhưng chưa
trả lại cái muỗng cho con tôi được vì mẹ con nó đã vượt biên, định cư ở nước
ngoài. Hơn hai mươi năm, tôi chưa hề gặp lại con gái tôi. Tính đến năm nay là
27 năm, con gái tôi đã 30 tuổi. Ngày 29 tháng 9-2002 vừa qua, cháu đã lập gia
đình ở Miami Florida.
Nhận được thiệp báo tin, tôi không biết mình vui hay buồn.
Hình như không phải là vui hay buồn mà là một thứ cảm giác kỳ lạ cứ lơ lơ lửng
lửng lẫn lộn. Chú thím nó và các anh chị nó ở Mỹ đều hẹn nhau đi dự đám cưới.
Tôi thì không, chẳng hẹn hò được điều gì cả và chẳng làm được cái gì cả. Tôi có
cảm giác như mình thừa. Rất may là trước ngày đám cưới, cô chú nó về Sàigòn,
chính tay tôi gửi được tấm thiệp mừng con gái. Tôi gửi theo cái muỗng trả lại
cho con gái tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự có mặt của
tôi không? Tôi không biết. Nhưng tôi chỉ nghĩ rằng gửi cho cháu để cháu hiểu rằng
lúc nào tôi cũng coi như cháu còn nhỏ lắm, như mới hôm qua hai bố con còn ở bên
nhau. Tôi đi chơi đâu đó và hôm nay trở về. Nhưng cháu đã đi xa và tôi còn ở lại
Sàigòn, nơi nó đã sinh ra. Cháu sẽ nghĩ gì, tôi không biết.
Nhưng vài hôm sau thì có một điều tôi biết rất rõ là từ khi
cái muỗng được gửi đi, tôi cảm thấy trống trải như mất mát một cái gì, xa vắng
một cái gì thân thiết hàng ngày ở bên mình. Tôi cho rằng nó cũng giống như cái
cảm giác của những ông bố bà mẹ khi cho con gái mình đi lấy chồng xa. Nỗi buồn
lâng lâng bay chập chờn khắp nơi. Nhưng đó chính là sợi dây vô hình nối liền
mãi mãi tình thương yêu dù ở bất kỳ nơi nào trên hành tinh này. Cuối cùng người
ta chỉ còn lại cái tình. Cái tình ấy dù gửi đi tới đâu cũng vẫn còn lại, đôi
khi lại mạnh mẽ và sâu sắc hơn, chỉ khi nào người ta tự đánh mất nó thì nó mới
mất mãi mãi. Tôi chắc chẳng ai dại gì làm mất cái thứ báu vật đó trên đời không
gì có thể so sánh được.
Lẽ ra chuyện này tôi đã viết ngay từ tháng 9/2002 nhân dịp
cháu lập gia đình. Nhưng tôi ngồi mãi trước computer, không gõ được chữ nào, đầu
óc lung tung. Dường như khi cảm xúc quá đầy, người ta không thể làm gì được
ngoài việc cứ để cho nó tuôn trào lênh láng như ngồi dưới cơn mưa. Không nghĩ
ngợi gì cả, không làm gì cả, cứ ngửa mặt lên cho mưa đầy mặt, thế thôi! Đúng là
chuyện của người thì nhanh mà chuyện của mình thì nghẹn. Mãi đến hôm nay tôi mới
ghi lại được những dòng chữ này, nhưng tôi cho rằng chẳng bao giờ muộn vì nó là
thứ chuyện của cả một đời hay là của muôn đời.
Văn Quang
Đăng nhận xét