MINH DI: phê bình cuốn “Lý Thường-Kiệt” của tác giả Hoàng Xuân Hãn.
TẠP CHÍ DÂN VĂN
DANVAN MAGAZINE
Email: danvanmagazin@gmail.com
BẢN TIN CỦA TẠP CHÍ DÂN VĂN
(XIN TIẾP TAY PHỔ BIẾN THẬT
RỘNG RÃI - CHÂN THÀNH CẢM TẠ.)
Từ hơn 32 năm nay, TCDV chủ trương và cổ võ
việc phê bình văn học, học thuật, vì một cuốn sách “viết sai,
dịch sai” sẽ di hại các thế hệ sau. Văn phong phê bình là của người viết, TCDV
tôn trọng người phê bình và người “bị” phê bình, mong rằng người bị phê bình có
tinh thần cầu tiến và phục
thiện để sửa chữa các “sai sót” khi tái bản tác phẩm...
Tạp Chí Dân Văn đã đưa lên Net các bài phê bình “Ông TS Lê Mạnh Thát”,
hôm nay, tác giả Minh Di (Châu Úc), cộng tác viên thường trực của TCDV, có một
bài mới, phê bình cuốn “Lý Thường-Kiệt” của tác giả Hoàng Xuân Hãn.
Vì bài viết xúc tích, dẫn chứng rõ ràng, minh bạch nên khá dài, vì vậy
Toà Soạn xin được chia ra làm nhiều kỳ để gởi lên các Diễn Đàn.
Qúy Độc giả nào cần trọn bài, xin liên lạc với TCDV, chúng tôi sẽ gởi
đến hầu quý vị.
Trân trọng,
Germany, ngày 11.01.2012, đăng lần 2, ngày 06.12.2022 theo yêu cầu của
nhiều độc giả.
-
Chủ Nhiệm TCDV,
-
Điều Hợp Viên Diễn Đàn Ngôn-Ngữ-Việt.
Lý Trung Tín
-----------------------------------------------------
(Qúy Độc giả đã theo dõi và đọc bài phê
bình này, chắc chắn đã có nhận xét, sự di hại của một cuốn sách viết sai, dịch
sai, điển hình là ông Lê Mạnh Thát, có học vị Tiến Sĩ, cứ ”nhắm mắt nhắm mũi”
“chép lại” những gì mà ông Hoàng Xuân Hãn viết, dịch…
Chúng
ta nhìn vào phần Thư Mục, để thấy rằng khi phê bình một cuốn sách, tác giả Minh
Di đã “tra cứu”, “tham khảo” bao nhiêu cuốn sách khác, chứng tỏ tác giả Minh Di
đã làm việc thật cẩn trọng của một “học nhân chân chính”. (TCDV)
Kính thưa Quý
vị
Loạt bài khảo
cứu uyên bác của học giả MNH DI về tác phẩm "Lý Thường Kiệt" của học
giả Hoàng Xuân Hãn, đã chấm dứt, tôi có vài cảm tưởng xin chia sẻ vắn tắt:
Trước đây nghe danh "Hoàng Xuân Hãn" là tôi nhắm mắt tin. Ít nhất học
sinh sinh viên "nợ" ông "Danh từ khoa học". Ở VN tôi có đọc
cuốn "Lý Thường Kiệt", nhưng sức học kém, hiểu sơ đã là may, không đủ
khả năng biện biệt nguồn tra cứu. Bây giờ có một học giả thông hiểu Hán văn, cổ
sử Trung Hoa và Việt Nam như Minh Di, nêu lên những điểm sai trong tác phẩm
LTK, tôi thấy hoang mang, ngỡ ngàng. Chỉ có thể thốt lên câu biển học mênh mông. Cám ơn DAN VAN TAP
CHI đã phổ biến công trình giá trị của Minh Di. Tôi lại thêm ý nghĩ: một công
trình như thế này, không lẽ như tiếng chuông vang lên một lần rồi chìm lắng?
Như vậy, ngoài bài học kinh nghiệm quí báu cho người đọc sách ("phải mở
mắt ra mà đọc"!), bài khảo cứu phê bình không góp phần trực tiếp cải thiện
cuốn "Lý Thường Kiệt". Trong kế hoạch VƠ VÀO, Cộng sản VN, vơ vào Tự
Lực Văn Đoàn (dù họ giết Khái Hưng); vơ vào Hoàng Xuân Hãn... Trong khi Hoàng
Xuân Hãn là bộ trưởng chính phủ Quốc gia (Trần Trọng Kim), từ khi sang Pháp
(1951) ông hoàn toàn làm văn hóa, không thiên về bên nào, dù VC hết sức dụ dỗ.
Nếu chỉ vì những sai sót trong LTK mà chúng ta "truất phế" ông, có
phải là CSVN vơ hết không? Còn "Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải" và
"La Sơn Phu Tử" thì sao? Có thể nào học giả Minh Di cùng với DVTC
nghĩ một cách nào -- nếu luật lệ về bản quyền và xuất bản -- in lại LTK với phụ
bản của Minh Di? Ở đâu tôi không biết, nhưng ở Na-uy một tác phẩm trên 70 năm,
hết bản quyền.
Kính thư
Ngô Thanh Tâm
--------------------------------------------------------
Cuốn “Lý Thường-Kiệt” của Hoàng Xuân Hãn.
(2).
001 – 141 (149).
Trong Bài phê bình trước tôi đã trưng dẫn khá nhiều
cái sai
của ông Hoàng Xuân Hãn trong cuốn “Lý
Thường-Kiệt”, và tôi cũng nói
rằng sai lầm, cũng như thiếu sót của ông tràn lan trong cuốn sách này.
Bài này tôi tiếp tục duyệt qua nhiều
sai sót khác của ông Hoàng Xuân Hãn.
Nếu có trong tay những Sử liệu ông
Hoàng Xuân Hãn “liệt kê” cũng như trích dẫn trong cuốn “Lý Thường-Kiệt” của ông thì một người hiểu biết Hán văn (Cổ văn Trung Quốc) sẽ nhìn ra được ngay
những cái sai (trong nhiều trường hợp rất
nặng) cũng như những cái thiếu sót của ông, không mấy khó!
Gần nửa thế kỷ nay, kể từ lần tái bản
lần 1 (năm 1966) hồ hết những người dạy Sử, và giới nghiên cứu Sử học nói chung
không nhận ra được những thiếu sót, những sai lầm của ông Hoàng Xuân Hãn trong
cuốn “Lý Thường-Kiệt” là vì 2 nguyên
nhân tôi đã nêu trong bài phê bình trước:
(1). Những người không đọc được Hán
văn.
(2). Những người thông hiểu Hán văn
nhưng không có Sử liệu.
Lại nữa, dù thông hiểu Hán văn nhưng nếu không có hứng thú với Cổ sử học thì cũng không tìm đọc sâu xa Sử thư, Địa chí. Như bạn tôi – anh
Lê Hòa Huyền Thanh Lữ, tuy thông thạo
Hán văn nhưng suốt đời anh chỉ chuyên tâm đọc và dịch thơ Đường.
Chẳng hạn trường hợp của tôi, nếu chỉ 5, 10 năm trước đây thôi, nếu
tôi cầm trong tay cuốn “Lý Thường-Kiệt”
thì tôi cũng đành chịu, không sao thấy
được những cái sai, và những cái
thiếu sót của ông Hoàng Xuân Hãn.
Trường hợp thứ (2) có một vấn đề khó là
tìm kiếm Sử liệu, nói chung là tài liệu.
Ngày nay, Cổ văn Trung Quốc rất ít
người chịu khó học, ngay cả ở bản địa -
tức ở các đất của người Hoa, như Trung
Quốc, Đài Loan, Hương Cảng, lượng người chuyên ý theo
học Cổ văn của họ cũng không nhiều. Sự kiện này có thể thấy rất rõ qua số lượng ấn bản
những tác phẩm Cổ điển thuộc đủ mọi lãnh vực Học thuật của họ.
Ở đây chúng ta nói về Lịch sử, Địa lý
nên tôi lấy vài thí dụ trong lãnh vực Sử Địa.
(1). Hợp Hiệu Thủy Kinh Chú.
Thanh. Vương Tiên Khiêm hiệu.
+ Nhà Xuất bản: Trung Hoa Thư Cục
(TQ) 2009 / Sơ.
Bộ này chỉ có 1 Sách (Cuốn).
+ Ấn số: 1 – 1,500 Sách, tức 1,500 Bộ.
Dân Quốc (1911 - 1949). Dương Thủ Kính
(1839 - 1915) và Hùng Hội Trinh (? - ?).
+ Nhà Xuất bản: Giang Tô Cổ Tịch
Xuất Bản Xã 1999 / 2. (1989 / Sơ
bản).
Bộ này gồm 3 Sách (3 Cuốn).
+ Ấn số: 2,001 -
5,000 Sách, tức chỉ có 1,000 Bộ (3,000
/ 3 Sách).
Nhạc Sử (930 - 1007) soạn.
+ Nhà Xuất bản: Trung Hoa Thư
Cục (TQ) 2007 / Sơ
bản.
Bộ này gồm 8 Sách + 1 Sách cho
mục “Sách dẫn” (Index), không kể.
+ Ấn số: 1 – 4,000 Sách, tức chỉ có 500
Bộ (4,000 / 8 Sách).
Tác phẩm này là tác phẩm mở đường, định
lề lối biên soạn Địa lý của Trung Quốc, cho tới Thanh triều (1644 - 1911).
Khi trưng dẫn, giới Sử học thường gọi
tắt Bộ Địa chí này là “Hoàn Vũ Ký”.
Lý Đáo (1115 - 1184) soạn.
Điểm hiệu:
Thượng Hải Sư Phạm Đại Học Cổ Tịch Chỉnh Lý Nghiên Cứu Sở.
Hoa Đông Sư Phạm Đại Học Cổ
Tịch Chỉnh Lý Nghiên Cứu Sở.
+ Nhà Xuất bản: Trung Hoa Thư Cục
(TQ) 2004 / Sơ bản.
Bộ này gồm 20 Sách (Bình trang
bản).
(Bình trang
bản là ấn bản bìa mỏng, đối với Tinh trang
bản, là ấn bản đóng bìa cứng).
+ Ấn số: 1 – 2,000 Sách, tức chỉ có 100
Bộ (2,000 / 20 Sách).
Bộ Sử
thư này được Học giới Trung Hoa gọi tắt là “Trường Biên”, để phân biệt với Bộ Sử thư “Tục Tư Trị Thông Giám” của Sử học gia Tất Nguyên (1730 - 1797).
(5). Quế Hải Ngu Hành Chí. (Tập Phục Bản).
Nam Tống. Phạm Thành Đại.
Khổng Phàm Lễ điểm hiệu.
+ Nhà Xuất bản: Trung Hoa Thư
Cục (TQ) 2004 / 2. (Sơ
bản ấn hành năm 2002).
Bộ này chỉ có 1 Sách (Cuốn).
+ Ấn số: 3,001 – 6,000, tức 3,000 Bộ.
(Tập Bút ký này đã mất vào khoảng giữa Minh triều (1368 - 1644), đời sau đã sưu tập những đoạn, những câu
của tập Bút ký được trích dẫn lại trong các thư tịch, gom lại để phục hồi
nguyên bản. Danh từ chuyên môn gọi loại ấn bản này là “Tập phục bản”.
Thường thì các loại “Tập
phục bản” không được đầy đủ như nguyên
bản).
Nam Tống. Chu Khứ Phi (1135 - 1189)
soạn.
Dương Vũ Tuyền hiệu chú.
+ Nhà Xuất bản: Trung Hoa Thư
Cục (TQ) 2006 / 2. (Sơ
bản ấn hành năm 1999).
Bộ này chỉ có 1 Sách.
+ Ấn số: 3,001 – 5,000 Sách, tức 2,000
Bộ.
Minh. Trương Tiệp (1574 - 1640) soạn.
Tạ Phương điểm hiệu.
+ Nhà Xuất bản: Trung Hoa Thư
Cục (TQ) 2000 / Sơ.
Bộ này chỉ có 1 Sách.
+ Ấn số: 3,001 – 5,000, tức 2,000 Bộ.
Chúng ta cứ tính dân số ở Lục địa (Trung Quốc), rồi dân số ở Đài Loan, và ở các vùng có người Hoa sinh sống trên thế giới thì thấy ngay mức độ phân phối là như thế nào!
Phân ra mỗi “Đồ thư quán” (tiệm
sách) không được bao nhiêu ấn bản,
không may mắn không sao mua được những Sách
muốn tìm. Do đó, không phải thông hiểu Hán văn và ra tiệm tìm những sách
mình cần là có ngay. Cũng đã nhiều lần ở Tiệm không có Sách tôi cần, tôi nhờ
đặt mua ở Lục địa, hay Đài Loan, nhưng
thường là không còn, phải chờ đợt tái bản kế tiếp. Chờ tới chừng nào thì
không biết, và nếu muốn có được Sách mình cần thì rốt cục cứ phải tới lui tiệm
sách thường xuyên!
Vài lời trước khi vào bài.
Bài này tôi viết xong vào ngày đầu mùa
Đông ở Phương Nam xa xôi (01 / 6)
trước đây 2 năm (2012).
Ngày 18 tháng 6 năm đó tôi qua
Đức chơi; 2 tuần sau đó tôi gặp anh
Lý Trung Tín, và tôi hỏi anh có đưa được những hình ảnh trong Bài viết – như Bản
đồ Lịch sử và một số hình ảnh khác
hay không, anh trả lời không được. Cái biết của tôi về Computer thì kém nên tôi
nghĩ tạm để Bài viết đó, không vội
đưa lên diễn đàn, khi nào có cách đưa
được những phụ bản nói trên lên thì đăng cũng không muộn!
Mới đây Tạp
Chí Dân Văn đăng lại một loạt các Bài phê bình từ những năm trước đây của
tôi, trong đó có Bài phê bình cuốn “Lý
Thường Kiệt” của ông Hoàng Xuân Hãn.
Lần này tôi thấy những Bản đồ Lịch sử
trong Bài viết hiện trên trang Net. – Như vậy là Bài phê bình thứ 2 này đã có
thể đưa lên Diễn đàn.
Lịch sử luôn luôn được xác định ở một không gian nào đó, Bản đồ Lịch sử, do đó, là cái không thể thiếu trong một bài viết về
Lịch sử.
Cổ sử ghi chép những sinh hoạt của những
thời đã qua, những vật dụng, đồ dùng, của người muôn năm trước cũng là những
thứ những người muôn năm sau muốn
biết, đây cũng là những hình ảnh không thể thiếu trong một bài viết về Cổ sử.
Bài viết này cũng tạm gọi là đáp ứng
được 2 đòi hỏi trên đây.
(I). Địa lý.
Nói 1 cách tổng quát thì Lịch sử là tổng
thể những biến động xảy ra tại một Không gian nhất định nào đó, tùy phạm vi
nghiên cứu. Không gian đây tức Không gian Địa
lý.
Và nói Không gian tức nói Vị trí,
nói khoảng cách
(xa, gần).
Do đó, trước hết tôi nói về Địa lý.
Về biên giới Giao Chỉ đời Lý và Tống
triều, ông Hoàng Xuân Hãn viết:
Về vùng biên cảnh tiếp giới 2 triều Lý
/ Tống ông Hoàng Xuân Hãn viết:
“Đất Khâm-châu giáp với châu Vĩnh-an (tên cũ là Triều-dương, năm 1023 mới đổi), tức là vùng Hải-ninh, Mông-cái bây
giờ.
Từ đó sang phía tây,
hai nước cách nhau bằng một con sông nhỏ, là sông Kỳ-cùng ngày nay. Các đất, kể từ đông sang tây, gồm năm trại : Thiên-long, Cổ-vạn,
Vĩnh-bình, Thái-bình, Hoành-sơn. Năm trại ấy đều thuộc
Ung-châu.
Trại THIÊN-LONG giáp giới Khâm-châu,
và có lẽ với phần tây châu Vĩnh-an.
Trại CỔ-VẠN gồm đất TƯ-LĂNG và giáp châu
Tô-mậu ở nước ta.
Trại VĨNH-BÌNH gồm phần đất các châu
TƯ-MINH, BẰNG-TƯỜNG, một phần TƯ-LĂNG và phần đất ở bắc-ngạn sông Ô-bì (Kỳ-cùng thuộc Lạng-sơn). Đất gần
sông có châu Tây-Bình (vùng Đồng-đăng và phố Lạng-sơn) và Châu-Lộc (vùng
Lộc-bình ngày nay). Trại Vĩnh-bình tiếp đất với với các châu sau này ở nước ta
: Tô-mậu (vùng Na-dương, Đình-lập,
An-châu), huyện: Quang-lang (vùng
Ôn-châu ngày nay), và châu Văn
(vùng-nam châu Văn-uyên và châu Văn-quan, tức phố Bình-gia trong địa đồ
Đông-dương). Huyện Quang-lang và châu Văn thuộc châu Lạng.
Trại THÁI-BÌNH, địa-phận rộng, gồm có
đất châu An-bình, châu Đống (Thượng-đống và Hạ-đống), châu Long, đều ở phía
đông những đất châu Thất-nguyên, châu
Môn (Đông-khê), châu Tư-lang (Thượng và Hạ-lang) và châu
Quảng-nguyên (Quảng-uyên) thuộc nước ta. Đến đời Lý Nhân-Tông, châu Thất-nguyên
(Thất-khê ngày nay) tuy thuộc quyền nhà Lý nhưng thỉnh-thoảng cũng còn theo
Tống (VII/3).
Trại HOÀNH-SƠN gồm phần đất giữa
biên-thùy Cao-bằng ngày nay và Hữu-giang. Những động giáp châu Quảng-nguyên ở
đất ta là Hạ-lôi, Ôn-nhuận (bây giờ là Hồ-nhuận).”.
(Lý
Thường-Kiệt. CHƯƠNG IV. CHÍNH-SÁCH BẮC-CƯƠNG TRIỀU LÝ.
2. - DÂN VÙNG BIÊN-GIỚI. Tr. 97, 98).
Những cái sai của ông Hoàng Xuân Hãn:
(1). Phương hướng các Trại.
Ông Hoàng Xuân Hãn viết là: “Các đất, kể từ đông sang tây, gồm năm trại : Thiên-long, Cổ-vạn, Vĩnh-bình, Thái-bình,
Hoành-sơn. Năm trại ấy đều thuộc Ung-châu.”.
Nếu đi từ Trại Thiên Long, và
theo thứ tự của ông Hoàng Xuân Hãn, ta sẽ thấy rất rõ:
1). Từ Trại Thiên Long
đi lên phía Đông bắc là Trại Cổ Vạn
-
nằm ở tả ngạn Tả giang.
2). Từ Trại Cổ Vạn
đi xuống Tây nam là Trại Vĩnh Bình
(sát biên giới 2 nước).
3). Tiếp đến, từ Trại Vĩnh Bình
đi ngược lên Đông bắc là Trại Thái Bình.
4). Trại Thái Bình
cũng ở tả ngạn Tả giang, vị trí ở trung điểm
của Vĩnh Bình
/ Cổ Vạn.
5). Từ Trại Thái Bình đi lên
phía Bắc, hơi lệch về hướng Tây 1 chút, độ lệch rất nhỏ, là Trại Hoành Sơn
ở tả ngạn Hữu giang.
[Ở đây nói tả ngạn, hữu
ngạn là nhìn từ nguồn sông (thượng du) xuống].
Như dẫn trên thì chúng ta thấy ngay các Trại “không xếp hàng” “từ đông sang tây” như ông Hoàng Xuân Hãn tự thuật.
Tóm lại là gì? -
Là Hoàng Xuân Hãn không rõ về vị trí Địa
lý các Trại của Tống triều.
Nhìn vào Bản Đồ Lịch Sử (Bản Đồ I) phụ đính ở một đoạn dưới chúng ta
sẽ thấy ngay cái sai của ông Hoàng Xuân Hãn.
Khi nói Trại Thiên Long “giáp
giới Khâm-châu, và có lẽ
với phần tây châu Vĩnh-an” thì ta càng rõ
ông Hoàng Xuân Hãn lơ mơ về Địa lý cổ!
Đất đai, Châu, Động vẫn tại chỗ, các Địa chí chép rõ ràng, vậy “và
có lẽ” là thế nào? Và như vậy, điều “không
có lẽ” ở đây là ông Hoàng Xuân Hãn chưa tra
cứu tới nơi tới chốn về Địa lý!
Trước hết, Thiên
Long Trại không giáp giới Khâm châu.
Từ mặt Đông nam trải qua mặt Tây nam,
Ung châu giáp ranh với Khâm châu. Ở
phần cuối đường phân giới này, ở mạn Tây
nam, là dãy Thập Vạn Đại Sơn
-
hoặc gọi gọn là Thập Vạn Sơn.
Thiên Long Trại ở cách dãy Thập
Vạn Sơn lối 40 cây số (Bản đồ tỷ lệ).
Giáp giới Khâm châu là châu Thượng
Tư.
Tiếp đến, Thiên Long Trại nằm lùi vào
trong nội địa Trung Quốc, ở cách châu
Vĩnh An của An Nam hơn 100 cây số, và ở về phía Bắc của châu Vĩnh An.
Nhìn Bản đồ, ta thấy Trại Thiên Long không phải là đất cận biên. (Xin coi Bản
Đồ I).
Hứa Hồng Bàn (1757 - 1837) viết trong “Phương Dư Khảo Chứng”:
-
“Thập Vạn Sơn. Tại Châu Tây bắc.
Phương Dư Kỷ Yếu.
Tại Châu tây bắc nhất bách nhị thập lý, trùng loan, điệp chướng diên mậu khởi phục,
cao đại giáp ư chúng sơn.
Nhất Thống Chí.
Sơn mạch tự Quảng Tây Thượng tư châu Bà Dương lãnh lai tại Châu tây bắc nhị bách lý, tiếp Thượng Tư châu giới,
Tây để Tây Lăng, khởi phục, uyển diên
hữu tứ bách dư phong, Na Lãng xuất kỳ hạ.
Án: Khâm châu Tây bắc chí Thượng Tư châu giới nhị
bách lý, “Kỷ Yếu” vị tại Tây
bắc bách nhị thập lý, ngộ!
Hựu Vương
quang sơn tại châu tây bắc nhất bách thất thập lý, miên hằng liên vạn
sơn. Hựu Bách lãng sơn, nhất
danh Bắc lãng sơn, tại Châu
đông bắc tam thập lý, mục vọng Hỏa Lãnh, miên hằng chí thử, hình như ba khởi,
lâm tình mậu mật, tiều thái tư yên!”.
/
Phương Dư Khảo Chứng. Qu.
XXIV. Quảng Đông 3. Liêm châu phủ. Sơn xuyên
/.
-
“Thập Vạn sơn. Ở về phía Tây bắc Châu
(Thượng Tư).
Phương Dư Kỷ Yếu:
[Núi] ở cách Châu trị 120 dặm về phía tây bắc, núi non trùng
điệp ngọn cao ngọn thấp trải dài, lan rộng, vượt cao hơn các núi khác.
Nhất Thống Chí:
Sơn mạch khởi xuất từ rặng Bà Dương Lãnh ở châu Thượng Tư,
tỉnh Quảng Tây, cách châu trị 200 dặm
ở mặt Tây bắc, tiếp giới châu Thượng Tư, phía Tây núi chạy quanh co trải dài tới châu Tư Lăng với hơn 400 ngọn
nhấp nhô, sông Na Lãng khởi nguồn từ dưới núi tại đây.
Xét: Từ mặt Tây bắc Khâm châu tới phân
giới châu Thượng Tư là 200 dặm,
(trong khi) sách “Kỷ Yếu” nói núi ở phía Tây bắc (Khâm châu) 120 dặm là
sai!
Và, ở phía Tây bắc Châu 170 dặm có rặng
Vương Quang sơn, với cả vạn
núi liền nhau trải dài vô tận; và phía Đông bắc Châu (Thượng Tư) 30 dặm có dãy Bách Lãng sơn, có một tên nữa là Bắc Lãng sơn, (từ rặng núi này) phóng mắt nhìn tới trước thì thấy hết cả một dãy Hỏa Lãnh trải dài
tới đây, thế như sóng nhấp nhô, với những khu rừng tre dày san sát, là
chỗ tiều phu đến lấy củi!”.
Ngọn chính của Thập Vạn Sơn là ngọn Thời Lương, cao 1,462 thước, nằm về phía Tây huyện Thượng
Tư.
Tiếp đến, ông Hoàng Xuân Hãn viết:
Trại THÁI-BÌNH, địa-phận rộng, gồm có
đất châu An-bình, châu Đống (Thượng-đống và Hạ-đống), châu Long, đều ở phía đông những đất châu Thất-nguyên,
châu Môn (Đông-khê), châu Tư-lang (Thượng và Hạ-lang) và châu
Quảng-nguyên (Quảng-uyên) thuộc nước ta. Đến đời Lý Nhân-Tông, châu Thất-nguyên
(Thất-khê ngày nay) tuy thuộc quyền nhà Lý nhưng thỉnh-thoảng cũng còn theo
Tống (VII/3).
Trại HOÀNH-SƠN gồm phần đất giữa
biên-thùy Cao-bằng ngày nay và Hữu-giang. Những động giáp châu Quảng-nguyên ở
đất ta là Hạ-lôi, Ôn-nhuận (bây giờ là Hồ-nhuận).”.
Đây là chưa nói khi liệt kê các địa khu
của Lý triều, Tống triều ông Hoàng Xuân Hãn đã
tự thuật tùy tiện, không theo một trình tự mạch lạc nào đó, như kể tên các địa khu theo vị trí Địa
lý, hoặc từ Bắc xuống Nam,
hoặc từ Nam lên Bắc
-
hay từ Đông qua Tây,
hay ngược lại,
chẳng hạn, cho dễ hình dung.
Về phía Tống triều, nếu kể từ Bắc
xuống Nam là An Bình, Long châu, Đống châu,
hoặc nếu từ Nam lên Bắc: Đống châu, Long châu, An Bình.
Trong khi đó, ông Hoàng Xuân Hãn khởi từ châu An Bình, tiếp đó xuống Đống châu, và sau đó trở
ngược lên Long châu.
Về phía Lý triều cũng thế, ông bắt đầu
đi từ Thất Nguyên châu
ở giữa xuống Môn châu rồi nhảy ngược lên Quảng Nguyên châu.
Tóm lại, ở đoạn này ông Hoàng Xuân Hãn
đã đọc ở đâu đó rồi cứ thế ông viết lại, hoặc nói rõ hơn là ông không có Bản đồ
chính xác trong tay để sắp xếp lại phần tự thuật cho rõ ràng mạch lạc.
Tiếp đến, khi viết “Trại HOÀNH-SƠN gồm phần đất giữa
biên-thùy Cao-bằng ngày nay và Hữu-giang.” thì càng rõ ra Hoàng Xuân Hãn chẳng
rành địa lý Trung Quốc.
Nhìn lên Bản đồ Lịch sử chúng ta
sẽ thấy rõ 2 Châu của Tống triều tiếp cận
với Châu Quảng Nguyên [Cao Bằng hiện
nay] của Đại Việt là 2 Châu Qui Hóa ở
mặt chính Bắc Quảng Nguyên, và Châu Thuận An ở phía Đông bắc thiên Đông của Quảng Nguyên.
Từ 2 Châu Qui Hóa, Thuận An đi
lên theo hướng Đông bắc có các Châu Luân, Châu Hướng Vũ,
Châu Hầu Đường, Châu Khám, Châu
Thượng Ánh, Châu Đô Khang, Châu Trấn Viễn, Châu
Quả Hóa, tất cả là 8 Châu, và những Châu này
đều nằm trong vùng ở mé hữu ngạn của
Hữu giang.
Tiếp nữa, từ Quảng Nguyên đi lên Hoành
Sơn, đi hết đường bộ, phải đi qua Hữu giang mới tới Hoành Sơn, nói rõ hơn, Trại Hoành Sơn ở bên kia bờ Hữu giang,
tức ở lưu vực tả ngạn của Sông Hữu
giang. Và như vậy thì làm thế nào Trại
Hoành Sơn lại có thể là phần đất nằm giữa biên thùy Cao Bằng
(Quảng Nguyên) và Hữu giang được?
Trên Bản đồ, vị trí của Trại Hoành Sơn
ở về hướng Đông bắc Quảng
Nguyên châu của Đại Việt, cách Quảng Nguyên 117.6 cây số (cs), tính theo tỷ lệ Bản đồ -
và tỷ lệ ở đây là 1¸4,200,000, tức 1 cm trên Bản đồ tương ứng 42
cây số.
Khoảng cách Hoành Sơn – Quảng Nguyên
trên Bản đồ đo được 2.8 cm, vậy:
2.8 cm x 42 cs =
117.6 cây số.
Do đó chúng ta có thể thấy ngay câu “Trại HOÀNH-SƠN gồm phần đất giữa
biên-thùy Cao-bằng ngày nay và Hữu-giang.” của Hoàng Xuân Hãn sai hoàn toàn!
Coi phần tự thuật và Bản đồ Lịch sử (Bản đồ II) về 5 Trại có tính cách chiến lược của Ung châu là Hoành Sơn, Thái Bình,
Cổ Vạn, Vĩnh Bình,
Thiên Long ở một đoạn sau chúng ta sẽ thấy ngay
sự bất thông Địa lý này của Hoàng Xuân Hãn.
Và sau cùng, ông Hoàng Xuân Hãn viết về thời Bắc Tống (960 - 1127) thì ông phải nêu những địa khu trong thời kỳ này. 2 địa khu Hạ Lôi, Ôn Nhuận nằm ở phía Tây bắc của Châu Quảng Nguyên, Ôn Nhuận là danh xưng Hành chánh thời Bắc Tống, trong khi đó Hạ Lôi là danh xưng Hành chánh thời Nam Tống (1127 - 1279). Châu Hạ Lôi dưới triều Bắc Tống tức châu Thuận An. Do đó ở đây phải ghi Thuận An mới chính xác!
Tôi liệt kê lại địa khu của từng bên một, theo những địa khu nêu trên, như sau:
1). Lý triều.
Kể từ Bắc xuống Nam:
+ Quảng Nguyên châu, Thất Nguyên châu,
Môn châu.
Thất Nguyên châu hơi lệch qua phía Đông
đối với Quảng Nguyên.
Môn châu ở phía Đông nam - thiên Nam, đối với Thất Nguyên, tức Môn châu lệch qua phía Đông,
gần phía Trung Quốc.
2). Tống triều.
+ An Bình châu, Long châu [ở phía chính Tây nam của An Bình], Đống châu [ở về phía chính Tây nam của Long châu],
tức nếu từ mốc An Bình đi xuống thì 3 địa khu này hợp thành một trục Tây nam,
hay trục Đông bắc
nếu từ Đống châu đi lên.
+ An Bình châu:
-
Ở phía Đông châu Quảng Nguyên, hơi lệch
xuống Nam một độ rất nhỏ.
-
Ở phía chính Đông bắc
Thất Nguyên châu.
-
Ở phía Đông bắc - thiên Bắc của Môn châu.
-
Ở phía chính Đông nam
của Quảng Nguyên.
-
Ở chính Đông bắc của Thất Nguyên châu.
-
Ở Đông bắc - thiên Bắc của Môn châu.
-
Ở Đông nam - thiên Nam của Quảng Nguyên.
-
Ở chính Đông bắc của Thất Nguyên châu.
-
Ở chính Bắc của Môn châu.
[Bản đồ I]. Các địa khu tiếp giáp của triều Lý và triều Bắc Tống.
(Địa lý Hành chánh năm 1111).
Thời kỳ Bắc Tống
(960 - 1127).
Thời điểm:
BẢN ĐỒ năm Chính Hòa (1111 - 1118) nguyên niên (năm 1111).
~ Bản đồ 34 – 35. Quảng Nam Đông Lộ
/ Quảng Nam Tây Lộ.
+ Chi tiết Bản đồ:
~ Bản đồ có tỷ lệ: 1 / 4,200,000 - mỗi 1 cm trên Bản đồ tương ứng 42
cây số.
Bản đồ trên được phóng lớn > 2.1 lần,
mỗi 1 cm tương ứng khoảng 20 cây số.
~ Địa danh ghi màu đen là địa danh thời cổ, ghi màu nâu là địa danh hiện nay.
~ Trị sở của địa khu thời cổ là những vòng
tròn màu xanh, những vòng tròn màu nâu
là trị sở của các địa khu hiện nay.
Kết luận về phần biên địa Lý triều / Tống triều nói trên ông Hoàng Xuân Hãn viết:
“Đường biên-giới hình một đường-cung,
một phần tư vòng tròn, tâm ở Ung-châu, một bán-kính chỉ xuống phía nam, một bán-kính
chỉ sang phía tây. Cái địa-thế đất ta ôm đất Ung-châu là cái cớ quan-trọng trong việc biên-dân thuộc
ta hay xuống quấy Ung-châu, và giúp thắng-lợi cho cuộc tấn-công vào
thành Ung-châu của Lý Thường-Kiệt sau này”.
(Đã
dẫn, tr. 98).
Những địa khu vùng biên cảnh 2 nước có
tính Chiến lược, ngoài những địa khu kể trên không thể không kể Trại Hoành Sơn.
Hoành Sơn là một địa khu trọng yếu về cả hai phương diện Giao dịch và Chính trị giữa
Tống triều và các sắc dân ở vùng Tây nam Trung Quốc.
Do đó vòng cung Chiến lược -
lấy Ung châu làm tâm điểm - ở đây không chỉ giới hạn ở “một
phần tư vòng tròn” với “một bán-kính chỉ xuống phía nam, một
bán-kính chỉ sang phía tây” mà là một đường xuống Nam, một
đường trịch lên Tây bắc tới Hoành Sơn.
“Cái địa-thế đất ta ôm đất Ung-châu là cái cớ quan-trọng
trong việc biên-dân thuộc ta hay xuống quấy Ung-châu, và giúp thắng-lợi
cho cuộc tấn-công vào thành Ung-châu của Lý Thường-Kiệt sau này”.
Nói “ôm” là khi một cái gì lớn bao quanh, ít nhất là ở 3 mặt, một
cái gì nhỏ hơn, chỉ cần nhìn lên Bản Đồ (dẫn
ở đoạn sau)
chúng ta sẽ thấy ngay sự sai lầm, hoặc nói rõ hơn là kiến thức khiếm khuyết về
Địa lý của Hoàng Xuân Hãn!
Bản đồ 2 nước cho thấy địa thế từ mặt
Đông châu Quảng Nguyên xuống toàn mặt Bắc châu Tô Mậu là nửa vòng tròn, trong nửa vòng tròn này, từ trên lần xuống, là các Châu Long, Châu Đống, Hạ Thạch
Tây, Thượng Thạch Tây, Tư Minh, Tây Bình,
Tư Lăng, và ở cuối nửa vòng tròn là Lộc châu và Trại Vĩnh
Bình.
Sau cùng, vị trí Địa lý của Việt Nam ở mé dưới (Nam) của Trung Quốc (Bắc),
nếu đúng thì phải nói là “hay LÊN quấy Ung-châu”
sao nói là “hay xuống quấy Ung-châu”
được?
Chu Khứ Phi chép:
- “Phàm An Nam quốc cập Lục Chiếu chư man, hữu cương dịch chi sự, tất do Ung dĩ đạt, nhi Kinh Lược An Phủ
chi tư tuân Biên sự dịch duy Ung thị lại!
Triều đình Nam phương Mã chính chuyên
tại Ung, biên phương trân dị đa tụ Ung hĩ!”.
/
Lãnh Ngoại Đại Đáp. Qu. I.
Biên súy Môn.
Ung châu kiêm Quảng Tây lộ An phủ Đô
giám /.
- “Nhìn chung, nước An Nam và các man Lục
Chiếu, mỗi lần có chiến tranh ở vùng biên địa thì chắc chắn sẽ từ ngã Ung châu kéo tới, mà chức
Kinh Lược An Phủ trù liệu việc phòng thủ Biên thùy cũng dựa vào vào Ung châu!
Chính sách nuôi ngựa, chọn giống ngựa,
và việc mua bán, trao đổi ngựa của triều đình ở miền Nam chủ yếu tập trung tại Ung châu, các thứ quí lạ vùng biên
địa đa số tụ hội ở Ung châu!”.
Từ đó mà chúng ta hiểu ngay sự bố trí các Trại chung quanh trọng điểm Ung châu!
Nhìn Bản đồ đã dẫn ở trước:
>>
Hữu giang ở mặt Tây bắc Ung
châu đổ xuống, Tả giang ở Tây Nam
Ung châu chảy ngược lên, 2 sông hội hợp ở mặt Tây Ung châu, cách Châu này lối 30
cây số.
Với hình thế như trên đây, Tả giang,
Hữu giang làm thành một cái gọng kềm,
dọc theo cái gọng kềm này là
các Trại che chắn cho Ung châu ở mặt sau:
~ Trên cánh gọng kềm Hữu giang (hướng Þ
Tây bắc / Đông nam), ở đầu cánh kềm, là Trại Hoành Sơn.
~ Trên cánh gọng kềm Tả giang (hướng Þ
Tây nam / Đông bắc), tại giữa cánh kềm, là Trại Thái Bình;
và từ Thái Bình đi lên, tiến vào trung tâm gọng kềm, là Trại Cổ Vạn,
che chắn Ung châu ở mặt sau, ở về phía
Đông bắc – thiên Đông của Trại này (Thái Bình).
Và riêng 2 trại Vĩnh Bình, Thiên Long
thì nằm ở mé ngoài, ở mé hữu ngạn bên
đây của cánh kềm Tả giang:
~ Trại Vĩnh Bình
ở khoảng đầu ngoài cánh kềm, còn Trại Thiên Long
thì ở khoảng giữa ngoài cánh kềm, tạo thành thế tương ứng hỗ trợ cho 2 Trại
Thái Bình, Cổ Vạn.
(Xin coi Bản đồ phụ đính ở dưới).
Hình thế của 5 Trại Hoành Sơn, Thái Bình, Cổ Vạn, Vĩnh Bình, Thiên Long trên đây cho thấy mức độ quan trọng về mặt chiến lược của các Trại này trong mục đích bảo vệ yếu khu Ung châu.
Thời kỳ Bắc Tống
(960 - 1127).
Thời điểm:
BẢN ĐỒ năm Chính Hòa (1111 - 1118) nguyên niên (năm 1111).
~ Bản đồ 34 – 35. Quảng Nam Đông Lộ
/ Quảng Nam Tây Lộ.
+ Chi tiết Bản đồ:
~ Bản đồ có tỷ lệ: 1 / 4,200,000 - mỗi 1 cm trên Bản đồ tương ứng 42
cây số.
~ Bản đồ trên được phóng lớn gấp 2 lần, mỗi 1 cm tương ứng 21
cây số.
1). Trại Hoành Sơn nằm ở
tả ngạn Hữu giang (ở trên cùng, giữa Bản đồ).
2). Trại Cổ Vạn ở phía
Đông nam Trại Hoành Sơn, ở tả ngạn Tả giang.
3). Trại Thái Bình ở tả
ngạn của Tả giang (giữa Bản đồ), ở phía Tây nam Trại Cổ Vạn.
4). Trại Thiên Long ở phía
Đông nam Trại Trại Thái Bình.
5). Trại Vĩnh Bình ở về
phía Tây nam Trại Thiên Long.
~ Địa danh viết theo Hán tự
giản thể, và đọc hàng ngang, từ TRÁI qua.
-
“Tổ tông phân trí tướng binh, Quảng Tây đắc nhị Tướng yên!
Biên Châu Ung Quản vi thượng, Nghi thứ
chi, Khâm thứ chi, Dung hựu thứ chi……
Ung đồn toàn tướng ngũ thiên nhân dĩ tam
thiên nhân phân thú Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình,
Cổ Vạn tứ trại cập Thiên Long Trấn. Kỳ nhị thiên nhân lưu
Châu canh thú”.
/ Lãnh
Ngoại Đại Đáp. Qu. III. …… Môn. Duyên biên binh /.
-
“Tổ tông bố trí quân tướng tại các vùng thì vùng Quảng Tây được 2 Tướng!
Trong các Châu ở biên địa thì các Châu
thuộc Quản hạt Ung Châu quan trọng nhất, kế đến là Nghi châu, kế đến Khâm châu,
Dung châu lại dưới nữa……
Tổng số (binh) Tướng trú đóng tại Ung
châu là 5,000 người thì lấy 3,000
người phân ra phòng thủ 4 Trại Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ
Vạn, và Thiên Long Trấn.
[Còn] 2,000 người thì giữ tại Châu (Ung) để luân phiên (ra các Trại) phòng
thủ”.
[Phụ chú.
Khởi đi từ năm thứ 7 Niên hiệu Hi Ninh
(1068 - 1077), năm 1074 - cho tới năm thứ 4 Niên hiệu Nguyên
Phong (1078 - 1085), tức năm 1081, Tống Thần tông (1048 - 1085; tại vị:
1067 - 1085) tiến hành việc cải tổ Binh Chế sâu rộng, qui định việc điều động
các Tướng về các địa khu trên toàn quốc, tùy tầm quan trọng của từng địa khu mà số Tướng được điều động đến các nơi
này nhiều hay ít. Đến năm 1081, là năm hoàn tất việc cải tổ, thì toàn quốc có
tất cả 92 Tướng.
Tham khảo:
Tống Sử. Qu. CLXXXVIII. Binh Chí 2.
(Phần Tổng Luận cuối Quyển đã dẫn).
Bộ “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên”
(Qu. CCLXXI) chép là “Thiên Lục Trại”.
Về phương diện Hán tự:
~ Chữ “Thiên” trong tên “Thiên
Long Trại” nghĩa là “dời đi chỗ khác”,
~ Chữ “Long” thì có Sách viết chữ
“LONG” có nghĩa là “Con Rồng”, có Sách ghi chữ “LONG” có
nghĩa là “Cao, thịnh, nhiều”.
Tập “Lãnh Ngoại Đại Đáp” phân từng “Môn” mà tự thuật, mỗi Môn là một hay nhiều đề mục.
Quyển III
dẫn trên gồm 2 Môn:
1). Ngoại quốc Môn -
Hạ.
2). Môn thứ 2 mất tên do đó tôi
chấm, chấm trước chữ “…… Môn” trong phần dẫn Quyển thứ].
Tiếp đến ông Hoàng Xuân Hãn viết:
“Tả-giang, Hữu-giang là hai nguồn
sông Tây-giang ở Lưỡng-Quảng. Hữu-giang phát-nguyên từ Vân-nam, chảy xuống qua
Quảng-tây theo hướng đông-nam. Tả-giang phát-nguyên từ chỗ giáp-giới tỉnh
Cao-bằng và Vân-nam, chảy qua Cao-bằng, rồi theo chiều đông-bắc qua Quảng-tây
và hợp với Hữu-giang ở phía tây thành Ung-châu. Sông Ô-bì (Kỳ-cùng) là một
nhánh của Tả-giang.
Các họ Nùng, Hoàng, Chu, vân vân, ở trong triền hai sông ấy.
Họ Nùng phần lớn ở bốn châu: An-bình,
Vũ-lặc, Tư-lãng, Thất-nguyên thuộc Tả-giang và ở Quảng-nguyên, tức là trên đất
Cao-bằng và phía đông biên-giới Cao-bằng ngày nay. Họ Hoàng ở về phía tây, thuộc Hữu-giang nhất là ở bốn châu An-đức, Qui-lạc, Lộ-thành, Điền-châu, tức
là phía bắc và tây bắc biên giới Cao-bằng. (LNĐĐ và QHNHC)……
Hai đạo Tả-giang và Hữu-giang gồm từ 50 đến 60 động
(TS, QHNHC)”.
(Sđd, Chương đã dẫn trên. CHÍNH-SÁCH
BẮC-CƯƠNG TRIỀU LÝ.
2. - DÂN VÙNG BIÊN-GIỚI. Tr. 99).
+ Những chữ viết tắt “(LNĐĐ)” và “(QHNHC)” ghi trong ngoặc ở cuối đoạn dẫn trên của ông Hoàng Xuân Hãn, “LNĐĐ” tức cuốn “Lãnh Ngoại Đại Đáp” - đã nói ở bài phê bình trước đây, còn “QHNHC” là “Quế Hải Ngu Hành Chí” của Phạm Thành Đại.
Tả giang
có 2 nguồn, đều xuất từ Việt Nam, phân
lưu chảy vào Quảng Tây, còn gọi là Lệ giang. 2 nhánh này hội hợp
ở Long châu thì được gọi là Tả giang. Tả giang chảy về phía Đông bắc tới Ung
Ninh thì hội hợp với Hữu giang.
Hữu giang
xuất nguồn ở mặt Tây huyện Quảng Nam, tỉnh Vân Nam -
cũng được gọi là Tây Dương giang, theo hướng Đông nam nhập Quảng Tây, đổi tên là Hữu giang. Chảy tới
Ung Ninh hội với Tả giang thì có tên Uất
giang. Uất giang ngoặt lên Đông bắc, chảy qua mạn Đông huyện Quế Bình hợp với Kiềm giang thì có tên gọi Tầm
giang - tới đây thông thường người ta gọi Uất
giang là Tả giang, Kiềm giang là Hữu giang.
Ông nói 4 Châu kể trên ở “phía bắc và tây bắc biên giới Cao-bằng”
-
thế nhưng ông đã không cho biết rõ Châu nào
ở phía Bắc, Châu nào ở phía Tây bắc?
Trước hết, Địa lý ở đây là Địa lý cổ
cho nên chính xác hơn hết nên dùng tên cổ.
Như đã nói ở bài phê bình trước, Trị sở của châu Quảng Nguyên thời Lý nằm về phía Đông bắc trị sở Cao Bằng ngày nay.
Cho nên, cho chính xác thì nên đối chiếu vị trí của các Châu, Động với châu
Quảng Nguyên.
Nếu
ông Hoàng Xuân Hãn lấy Cao Bằng
làm chuẩn định hướng thì trừ châu An Đức ở phía Tây bắc Cao Bằng, 3 châu kia không châu nào ở phía Tây của
Cao Bằng hết!
1). Châu An Đức ở về phía Tây bắc trị sở châu Quảng Nguyên.
2). Châu Qui Lạc ở phía Bắc châu
Quảng Nguyên, hơi lệch qua phía Đông.
3). Châu Lộ Thành.
Duyệt Bản đồ Lịch sử thì không thấy châu
Lộ Thành, chỉ thấy châu Tứ Thành -
vị trí ở phía Bắc châu Qui Lạc - tức vị trí cũng ở phía Bắc trị sở châu
Quảng Nguyên, hơi lệch về phía Đông.
4). Điền châu ở phía Đông bắc trị
sở châu Quảng Nguyên.
(Coi Bản đồ Lịch sử phụ đính).
Phạm Thành Đại (1126 - 1193) chép:
-
“Cơ ma Châu, Động.
Lệ Ung châu Tả giang giả vi đa. Cựu hữu
tứ đạo Nùng thị, vị An Bình - Vũ Lặc -
Trung Lãng - Thất Nguyên tứ Châu -
giai Nùng thị.
Hựu hữu tứ đạo Hoàng thị, vị An Đức -
Qui Lạc - Lộ Thành -
Điền châu tứ châu - giai Hoàng tính”.
/ Quế Hải
Ngu Hành Chí. Chí Man I. Cơ ma
Châu động /.
- “Các Châu, Động lệ thuộc.
[Các Châu Động] lệ thuộc Ung châu ở vùng Tả giang nhiều hơn cả! Trước kia
có 4 khu họ Nùng là An Bình - Vũ Lặc - Trung Lãng - Thất Nguyên, 4 Châu - đều là họ Nùng.
Còn có 4 khu họ Hoàng là An Đức - Qui Lạc - Lộ Thành - Điền Châu, 4 Châu - đều là họ Hoàng”.
Cuốn “Lý Thường-Kiệt” viết về thời kỳ Bắc Tống (960 - 1127), cho nên, theo lý thì ông Hoàng Xuân Hãn phải viện dẫn các Châu, Động của Tống trong thời kỳ này; thế nhưng ông lại dẫn Phạm Thành Đại là một nhân vật ở thời Nam Tống (1127 - 1279).
[Bản đồ III]. Vị trí 3 châu An Đức. Điền châu. Qui Lạc. (Địa lý Hành chánh năm 1111). ¸ Dẫn từ: Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Đệ Lục sách. Tống. Liêu. Kim thời kỳ.
Thời kỳ Bắc Tống
(960 - 1127).
Thời điểm:
BẢN ĐỒ năm Chính Hòa (1111 - 1118) nguyên niên (năm 1111).
~ Bản đồ 34 – 35. Quảng Nam Đông Lộ
/ Quảng Nam Tây Lộ.
Thời điểm:
BẢN ĐỒ năm Chính Hòa (1111 - 1118) nguyên niên (1111 niên).
+ Chi tiết Bản đồ:
~ Bản đồ có tỷ lệ: 1 / 4,200,000 - mỗi 1 cm trên Bản đồ tương ứng 42
cây số.
~ Bản đồ trên đây được phóng lớn 2.5 lần -
1 cm ở đây tương ứng 16.8 cây số.
~ Địa danh trên Bản đồ được ghi Hán tự
giản thể, đọc theo hàng ngang từ TRÁI qua.
“Hai đạo Tả-giang và Hữu-giang gồm từ 50 đến 60 động
(TS, QHNHC)”.
Coi “Tống
Sử” (ông Hoàng Xuân Hãn ghi tắt là (TS) ở câu trên) thì không thấy chép về
số động ở 2 đạo Tả giang, Hữu giang như ông Hoàng Xuân Hãn ghi chú.
[Tham khảo:
Tống Sử.
+ Quyển CDLXXXVIII (488). Ngoại quốc 4.
Giao Chỉ
+ Quyển CDXCIII (493). Man di 1. Tây nam
Khê động chư Man - Thượng.
+ Quỵển CDXCIV (494). Man di 2. Tây nam
Khê động chư Man - Hạ.
+ Quyển CDXCV (495). Man di 3.
+ Quyển CDXCVI (496). Man di 4].
Về số Châu và Động
của các sắc dân ở địa vực Tả giang và
Hữu giang vùng Ung châu được ghi lại
trong Tập “Quế Hải Ngu Hành Chí” của
Phạm Thành Đại (1126 - 1193) và Tập “Lãnh
Ngoại Đại Đáp” của Chu Khứ Phi (1135 - 1189):
- “Nùng Trí Cao phản, triều đình thảo bình chi,
nhân kỳ cương vực, tham Đường chế,
phân tích kỳ chủng lạc, đại giả vi châu, tiểu giả vi huyện, hựu tiểu giả vi động,
phàm ngũ thập dư sở”.
/ Quế Hải
Ngu Hành Chí. Chí Man /.
- “Nùng Trí Cao phản, triều đình dẹp yên, rồi
nhân cương vực của Trí Cao, chiếu
theo chế độ thời Đường, phân đất các
Bộ lạc, lớn thì lập Châu, nhỏ thì lập huyện, nhỏ nữa thì lập động,
tất cả hơn 50 nơi”.
Nhưng, nếu thế đi nữa thì ông Hoàng Xuân Hãn vẫn không dẫn chính xác về
con số, vì con số Châu và Động ghi lại trong “Lãnh Ngoại Đại Đáp” là “hơn 60”.
- “Kim Ung thú kiêm bản Lộ An phủ Đô giám, Châu
vi Kiến Vũ Quân tiết độ.
Hữu Tả, Hữu lưỡng giang, Tả giang tại kỳ Nam, ngoại trì An Nam
quốc; Hữu giang tại Tây nam, ngoại để
Lục Chiếu, chư Man. Lưỡng giang chi gian, quản Cơ ma châu động lục thập
dư, dụng vi nội địa phiên”.
/ Lãnh Ngoại Đại Đáp. Qu. I. Biên súy Môn.
Ung
châu kiêm Quảng Tây lộ An phủ Đô giám /.
- “Hiện nay chức trấn thủ Ung châu kiêm chức
An phủ Đô giám của bản Lộ, ở tại Châu thì điều động Kiến Vũ Quân.
Trong Quản hạt có 2 con sông Tả, Hữu, Tả
giang ở phía Nam, ở tận mé ngoài là nước An Nam; Hữu giang ở phía Tây nam, ở ngoài ranh là vùng của dân Lục Chiếu,
và các dân Man khác. Trong vùng 2 sông này (Ung châu) cai quản hơn 60 Cơ
ma châu động được dùng như những rào chắn trong nội địa”.
[Phụ chú.
Châu là 1 đơn vị Địa lý Hành chánh trải các triều đại Trung Hoa.
Riêng dưới 2 triều Đường, Tống thì ở các khu tụ cư của Sắc tộc thiểu số như Quảng Tây, và Quí Châu… triều đình cũng thiết lập Châu, nhưng các Châu này
được gọi dưới một danh xưng đặc biệt là “Cơ ma Châu”. Cũng vậy, các Huyện
của dân thiểu số được gọi là “Cơ ma Huyện”.
~ Chữ “Cơ” nghĩa đen là “vòng dây khớp đầu ngựa”, chữ “Ma” là
“buộc lại, cột lại” - suy rộng ra thì “Cơ ma” có nghĩa là “kiềm chế, không cho
thoát ly”.
~ Về qui chế, “Cơ ma Châu”
cũng y như các Châu của Hán, chỉ khác
là về tổ chức thì giao cho sắc dân bản địa cai trị - đây là Chế
độ gọi là Thổ quan. Thổ quan có
tính cách thế tập, nghĩa là cha truyền con nối. Tổ chức có khác
do đó tên gọi quan chức cũng khác đi. Châu người Hán thì quan đứng đầu Châu
được gọi là Tri châu, nhưng, với
Cơ ma Châu thì quan cai trị Châu được
gọi là Thổ tri châu, còn Huyện
thì gọi Thổ tri huyện].
Kiến Vũ Quân. Thời Triệu Tống (960 - 1279), tổ chức Hành chánh địa phương
như sau:
Đứng đầu là Lộ, kế đến các cấp Phủ, Châu, Quân, Giám, Huyện.
Cao Thừa (? - ?) thời Bắc Tống (960 - 1127) cho biết về cấp Quân như
sau:
- “Tống triều chi chế, địa yếu bất thành Châu
nhi đương tân hội giả tắc vi QUÂN”.
/ Sự Vật
Kỷ Nguyên. Qu. VII. Châu, Quận phương vực Bộ. 35. Trấn /.
- “Theo định chế Tống triều, đất không đủ để
thành Châu mà vị trí ở Bến cảng đông đúc thì lập thành Quân”.
(Đại khái, Quân tương đương Huyện, chỉ khác là ở vị trí ở vùng sông nước).
Thời Tống, ở các vùng có những lò
luyện kim, lò đúc tiền, những khu chăn nuôi ngựa, và những chỗ
sản xuất muối thì thiết lập đơn vị Hành chánh gọi là Giám. Có 2 cấp Giám:
Cấp I ngang với cấp Phủ, Châu, lệ thuộc Lộ, Cấp II ngang cấp Huyện, lệ
thuộc Phủ và Châu.
Cần nói rõ ở đây là tổng số Cơ ma Châu động ở 2 vùng Tả giang,
Hữu giang ghi ở trên là con số Châu
động tính đến thời Chu Khứ Phi, tức thời Nam Tống (1127 - 1279).
Ở đây tự thuật về thời Bắc Tống (960 - 1127), thời trước
thời Chu Khứ Phi, do đó, cho chính xác thì phải nói những Châu động thời kỳ
này.
Các dân thiểu số vùng biên địa Lý
triều / Tống triều lúc ngả bên
này lúc theo bên kia và có lúc muốn tách
riêng một cõi, không theo bên nào, số Cơ ma châu động, do đó, cũng biến thiên
qua các thời kỳ.
+ Tả giang.
Tả châu. Tư Thành. Đàm châu. Độ châu. Lung châu. Thất Nguyên. Tư Minh. (7).
Thạch Tây. Thượng Tư. Tư Lang. Tư Đồng. Ba châu. Viên châu. (6).
+ Hữu giang.
Tư Ân. Kiêm châu. Qui Lạc. Tư Cương. Vũ Nga. Luân châu. Vạn Đức. Phiên
châu. (8). Côn Minh. Lam Phụng. Hầu Đường. Qui Ân. Điền châu. Vạn Thừa. Công
Nhiêu. (7).
Qui Thành. Vũ Long. (2).
(Tham khảo: Thái Bình Hoàn Vũ
Ký. Qu. CLXVI. Lãnh Nam đạo. Quảng Nam Tây lộ).
Đinh Độ (990 - 1053) và Tăng Công Lượng (998 - 1078) cho biết:
- “Quảng quản Tả, Hữu lưỡng giang Cơ ma châu,
huyện động tổng tam thập lục, Nam khống Giao Chỉ trị Giáp động di nhân, Tây chí
Mã Viện đồng trụ Nam man giới tận, Tây nam yếu hại chi địa trí tứ Trại thủ chi,
lệnh tri châu kiêm khê động đô tuần kiểm đề cử”.
/
Vũ Kinh Tổng Yếu. Qu. XXI.
Quảng Nam Tây Lộ. Ung châu /.
- “Số các Cơ ma Châu, huyện, động ở 2 vùng Tả giang, Hữu giang thuộc quản hạt của Quảng Tây có tất cả 36, (các Cơ ma châu động này) mặt Nam khống chế các dân man Giáp động của
Giao Chỉ, phía Tây tận ở địa giới của
Nam man tại Cột đồng Mã Viện, ở những vùng yếu hại mặt Tây nam lập 4 Trại để phòng thủ, cho các Tri châu kiêm chức Đô tuần
kiểm Đề cử vùng khê động”.
Ở một đoạn tiếp sau “Vũ Kinh Tổng
Yếu” liệt kê 30 Cơ ma Châu như sau:
Kiêm châu. Tư Thành. Lộc châu. Vũ Long. Điền
châu. Tư Ân. Tư Lăng. Vạn Thừa. (8).
Tả châu. Đống châu. Lung châu. Ba châu. Tây
Bình. Thượng Đống.
Vũ Nga. (7).
Trung châu. Thạch Tây. Quảng Nguyên.
Thượng Ân. Côn Minh. Qui Ân. Tư Minh. (7).
Qui Lạc. Phiên châu. Vạn Đức. Phú
Lao. Lam Phụng. Công Nhiêu. Thất
Nguyên. (7).
(Sách cho biết 3 châu Phú Lao, Lam
Phụng. Công Nhiêu trước thuộc Điền châu).
Châu Thất Nguyên là đất của Giao Chỉ. Trong khoảng Niên hiệu Thái
Bình Hưng Quốc chủ động đem 10 động theo Tống triều, được phong quan tước và
được thu thuế.
Ngoài ra, “Vũ Kinh Tổng Yếu” lại cho biết:
-
“Động, Châu chi gian hựu hữu thập thất Động”.
-
“Trong khoảng các Châu động lại có 17 Động”.
+ 17 Động này
gồm: ~ Long Anh. Ninh Tất. Đô Khống. Môn Tăng. Tủng Động. Vũ Đức. La Hồi. Vũ
Doanh. Điền Cổ Tăng. Tôn Động. Bằng Tường. Vạn Cổ. Tư Lam. Phục Lữ. Trác Động.
Cổ Tăng. Ủng Nga.
Và như vậy, tổng số Châu, Động là: 30 +
17 = 47.
Con số “Tam thập
lục” không rõ “Vũ Kinh Tổng Yếu” chỉ những Châu, Động nào?
Trở lại 4 TRẠI đề cập trong đoạn văn của “Vũ Kinh Tổng Yếu” đã dẫn ở trên.
4 Trại nói trên là các Trại Thái Bình,
Thiên Long, Vĩnh Bình, Nam Bình Phế Trại.
Về 4 Trại này, liền sau đoạn vừa dẫn
trên, “Vũ Kinh Tổng Yếu” chép:
-
“ Thái Bình Trại.
Tại Tả giang Nam ngạn, Nam khống Tư
Lam man động Hữu giang địa phận.
Đông chí Châu thập nhật trình.
Tây Quảng Nguyên châu nhị nhật trình;
Tây nam Môn châu thủy khẩu.
Nam Tôn động nhất trình.
Tây bắc Tây Bình châu Bắc trại
Tây châu giới.
Thiên Long Trại.
Khống Vũ Doanh động nhất đới Man
giới.
Đông chí Châu tứ nhật trình.
Tây Tư Minh Bắc Giang châu.
Nam chí Tư châu, tiếp Khâm Để Trạo phố, nhập Giao Chỉ Tô châu giới nhất nhật
trình.
Vĩnh Bình Trại.
Đông chí Châu.
Tây nam Giao Chỉ Giáp động, Đơn Ba giới,
Môn châu giới, tịnh nhất nhật trình.
Nam Bình Phế Trại.
Đông chí Châu.
Tây nam Giao Chỉ thập nhị nhật trình.
Tây chí Bình Châu, Tây nam khiếu ngoại
động Man di giới”.
Ở Nam ngạn Tả giang, mặt Nam khống chế
động Tư Lam của dân man thuộc địa phận Hữu giang.
Phía Đông tới trị sở (Ung) Châu, đi mất
10 ngày đường.
Phía Tây tới châu Quảng Nguyên, đi mất
2 ngày - Tây nam là Môn châu, tới Tôn động
ở cửa sông phía Nam của Môn châu đi
mất 1 ngày đường.
Phía Tây bắc là Bắc Trại của châu Tây
Bình ở ranh giới Tây châu.
Thiên Long Trại.
Không chế cả một dải động Vũ Doanh ở
ranh giới dân Man.
Phía Đông tới trị sở (Ung) Châu đi mất
4 ngày đường.
Phía Tây là Giang châu ở phía Bắc châu
Tư Minh.
Phía Nam tới Tư châu, tiếp giới Bến Để
Trạo của Khâm châu, nhập ranh giới
của châu Tô (Mậu) thuộc Giao Chỉ, đi mất 1 ngày đường.
Vĩnh Bình Trại.
Phía Đông là (Ung) Châu.
Từ mặt Tây nam tới Giáp động, tới phân
giới (huyện) Đơn Ba, phân giới Môn châu của Giao Chỉ đều đi mất 1 ngày đường.
Nam Bình Phế Trại.
Phía Đông là trị sở (Ung) Châu.
Phía Tây nam đi Giao Chỉ mất 12 ngày
đường.
Phía Tây tới Bình châu, phía Tây nam
giáp vùng khê động của dân Man di.
Sau, đến năm thứ 5 Niên hiệu Hi Ninh
(1068 - 1077) - năm 1075, vì Địa lý Hành chánh có nhiều thay đổi nên, theo kiến nghị
của Lưu Sư Đán (? - ?), Tống Thần tông lệnh cho Vương Tồn (1023 - 1101), Tăng
Triệu (1047 - 1107), Lý Đức Sô (? - ?), với Vương Tồn đứng chủ biên, biên soạn lại Địa chí.
Đến năm 1080, năm thứ 3 Niên hiệu Nguyên Phong (1078 - 1085), nhóm Biên tập trên hoàn thành bộ “Nguyên Phong Cửu Vực Chí”.
Từ cuối năm 1075 đến cuối năm 1076,
Lý triều và Tống triều xảy ra Chiến tranh ở vùng biên địa 2 nước, thời gian này
rơi vào khoảng thời gian soạn bộ Địa Chí nói trên, do đó những Cơ ma Châu động
chép trong bộ Địa lý này đúng với thực tế Địa lý Hành chánh của Tống triều vào
thời điểm đó. Như vậy, ghi chép về các Châu, Động của Tống triều thời kỳ
2 triều xảy ra chiến tranh bộ “Nguyên
Phong Cửu Vực Chí” xác thực hơn hết!
Lung châu.
Trung châu. Đống châu. Giang châu. Vạn Thừa châu. Tư Lăng châu. (6).
Tả châu.
Tư Thành châu. Đàm châu. Độ châu. Thất Nguyên
châu. Tây Bình châu. (6).
Thượng Tư châu. Lộc châu. Thạch
Tây châu. Tư Lãng châu. Tư Đồng châu. (5).
An Bình châu.
Viên châu. Quảng Nguyên châu. Lặc châu. Nam
Nguyên châu. (5).
Tây Nông châu. Vạn Nhai châu. Phú Lợi
châu. Ôn Lộng châu. (4).
Vũ Lê huyện. La Dương huyện. Đà Lăng
huyện. Vĩnh Khang huyện. (4).
+ Cơ ma Châu động vùng Hữu
giang.
Vũ Nga châu.
Lung Vũ châu. Tư Ân châu. Kiêm châu. Tư Thành châu. Khám châu.
(6).
Qui Lạc châu. Luân châu. Vạn Đức châu.
Phiên châu. Côn Minh châu. (5).
Lam Phụng
châu. Hầu Đường châu. Qui Ân châu. Điền châu. Công
Nhiêu châu. (5).
Qui Thành châu.
(1).
Long Xuyên huyện. (1).
(Tham khảo: Nguyên Phong Cửu Vực Chí. Qu. X. Cơ Ma Châu. Quảng Nam Lộ).
Hữu giang gồm 17 Cơ ma Châu và 1 Cơ ma
Huyện.
Những Châu được gạch ở dưới
là những Châu đã có từ thời “Thái Bình
Hoàn Vũ Ký”.
Vùng Tả giang 14 Châu, Vùng Hữu
giang 09 Châu.
Tức đến thời Nguyên Phong lập thêm 20 Châu.
Địa lý Hành chánh trải các thời, các triều đại, có những
biến thiên, dời đổi mà danh từ Sử học gọi là Địa lý duyên cách:
(1). Sự thành lập / phế bỏ các Châu,
Huyện.
(2). Sự thay đổi danh xưng các địa khu
(3). Sự thay đổi cấp độ Hành chánh, dời
đổi Trị sở……
CÁCH nghĩa là thay đổi.
Duyên cách
chỉ lịch trình phát triển, thay đổi của sự vật, sự việc.
Chẳng hạn:
1). Đổi tên Địa khu.
Quảng Nguyên châu. Đầu năm Đinh Tỵ (tức năm 1077) -
sau khi Giao Chỉ dâng biểu xin hàng Tống, Lý triều và Tống triều bãi binh. Sau
Chiến dịch này Tống triều chiếm lấy các châu
Quảng Nguyên (tức Cao Bằng ngày
nay), Tô Mậu (tức Móng Cáy hiện nay) của Lý triều. Tháng 2 cùng năm, ngày Bính Ngọ -
là ngày 25, Tống Thần tông hạ chiếu đổi tên Quảng Nguyên châu thành Thuận châu.
(Tham khảo
Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên.
Qu. CCLXXX).
Khâm châu. Thời Bắc Tống (960 - 1127) trị sở của Châu này ở huyện Linh Sơn, thuộc tỉnh
Quảng Tây, nằm sâu trong đất liền.
Thời Nam Tống (1127 - 1279), Châu trị
của Khâm châu đã từ huyện Linh Sơn nằm sâu trong nội địa dời xuống huyện An Viễn, ở ngay Cửa sông Khâm giang đổ ra Biển, tức ngày nay gọi là vịnh Khâm châu
(Khâm châu loan). Trị sở sau này nằm
cách Trị sở cũ 90 cây số về phía Tây nam. (Bản đồ Tỷ lệ).
Do đó, khi viết Sử không thể không biết những biến thiên, dời đổi về Địa lý Hành chánh
để tự thuật cho chính xác.
Về vùng khê động phía Giao Chỉ ông
Hoàng Xuân Hãn viết:
“Nội trong các dân khê-động trên đất
Lý, họ Thân chiếm một địa-vị
đặc-biệt. Mục sau (IV/4) sẽ nói rõ. Ấy là dân động Giáp, thuộc Lạng-châu.
Họ Thân ba đời làm phò-mã dưới triều
Lý. Nguyên họ Giáp, sau đổi ra Thân ;
chữ thân khác chữ giáp chỉ có thêm dài nét sổ lên phía trên.
Động Giáp chắc ở phần bắc tỉnh
Bắc-giang ngày nay và phía nam ải Chi-lăng
(Sđd, Chương đã dẫn trên. CHÍNH-SÁCH
BẮC-CƯƠNG TRIỀU LÝ.
2. -
DÂN VÙNG BIÊN-GIỚI. Tr. 101).
Ở câu chú thích ghi số (6) trong đoạn dẫn trên - gồm nửa phần dưới của trang 115 và nguyên trang 116, ông Hoàng Xuân Hãn đi tìm vị trí của Giáp động và đoạn đường từ Động này đến Trại Vĩnh Bình. Trong phần chú thích này ông có đoạn viết như sau:
“Các sách TS và TB chép nhiều lần họ
Thân kéo quân vào đánh trại Vĩnh-bình ở Tống, Vây động Giáp, tức là quê họ Thân
không xa biên giới Vĩnh-bình. Ta lại biết rằng họ Thân từng làm châu-mục
Lạng-châu (VSL: Thân Thiệu-Thái làm châu-mục Lạng-châu năm 1060). Động Giáp
thuộc Lạng-châu. Lạng-châu gồm tỉnh Bắc-giang (Phủ Lạng-thương ngày nay) và
phần nam tỉnh Lạng-sơn. Động Giáp ở về phần nào?”. (Trang 115).
[Ghi chú. TS ở đoạn trên tức “Tống Sử”,
và TB là “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên”].
Vị trí của Giáp động ông Hoàng Xuân Hãn suy đoán không sai, nhưng vẫn mơ hồ; còn khoảng cách giữa Giáp động và Trại Vĩnh Bình ông không nói rõ được.
Nếu có Sử liệu ông sẽ thấy 2 điểm này
rõ ràng hơn!
Phần tự thuật về 4 Trại Thái Bình,
Thiên Long, Vĩnh Bình, Nam Bình
Phế Trại trích dẫn từ Bộ “Vũ Kinh Tổng
Yếu” ở đoạn trước cho biết rằng từ Trại Vĩnh Bình đi theo hướng Tây nam đến
Giáp động cũng như đến địa
giới (huyện) Đơn Ba, địa giới Môn châu của Giao Chỉ đều đi mất 1 ngày đường.
Trên bản đồ, Môn châu ở phía Tây bắc
Trại Vĩnh Bình, và thời
gian đi từ Vĩnh Bình đến Môn châu cũng bằng thời gian đi đến Giáp Động, do
đó có thể biết tương đối chính xác Giáp
động ở chính Nam, hơi lệch qua Tây, Môn châu, và ở phía Tây nam Lượng châu
của Giao Chỉ. Lượng châu tức Lạng Sơn ngày nay.
Bản đồ tôi sử dụng ở đây có tỷ lệ 1 / 4,200,000
-
1 cm trên Bản đồ tương ứng 42 km.
Khoảng cách Vĩnh Bình - Môn châu trên Bản đồ là 8 mm, tức 4.2
km x 8 = 33.6
km.
Vậy đoạn đường Vĩnh Bình – Giáp động
đại khái cũng vào lối trên dưới 40 km.
“Sách MKBĐ chép rõ rằng “Giáp-động là một bộ-lạc lớn . Chủ
động tên là Giáp Thừa-Quí, lấy con Lý Công-Uẩn rồi đổi họ
ra Thân”.
(Sđd,
Chương IV. CHÍNH-SÁCH BẮC-CƯƠNG TRIỀU LÝ. 4. -
PHỦ-DỤ. Tr. 109).
Thẩm Quát chép như sau về Giáp động:
-
“GIÁP Động giả Giao Chỉ đại tụ lạc. Chủ giả Giáp Thừa Quí thú Lý Công Uẩn chi nữ, cải tính
GIÁP thị”.
/ Mộng Khê Bút Đàm. Qu. XXV. Tạp chí 2. Nam phương Biên hoạn /.
-
“GIÁP Động là khu tụ cư lớn (dân thiểu số) ở Giao Chỉ. Chủ động Giáp Thừa Quí lấy con gái Lý Công
Uẩn, (rồi) đổi họ ra họ GIÁP”.
Căn cứ ghi chép ở trên của Thẩm Quát,
hợp lý mà suy thì Giáp Thừa Quí trước đó vốn họ THÂN sau đổi ra họ GIÁP, không như ông Hoàng Xuân Hãn chép
ngược lại!
Đây là chưa nói ông Hoàng Xuân Hãn đã
dịch thiếu 2 chỗ:
1). Nguyên tác chép “Giao Chỉ đại tụ lạc”.
Ông Hoàng Xuân Hãn dịch thiếu chữ “Giao
Chỉ”.
2). Nguyên tác chép “thú
Lý Công Uẩn chi nữ”.
Ông Hoàng Xuân hãn dịch thiếu chữ “nữ”
(con gái).
2 chỗ dịch thiếu kể trên, nói cho cùng,
chẳng hại văn ý lắm nhưng tôi nêu ra
đây chỉ để chứng minh rằng ông Hoàng Xuân Hãn không đọc nguyên tác Hán văn.
Hai câu của “Mộng Khê Bút Đàm” dẫn ở trên ông để trong ngoặc kép “......”, điều
này có nghĩa ông Hoàng Xuân Hãn dịch trực tiếp từ nguyên văn. Có điều là, nếu
dịch thẳng từ nguyên văn thì không thể nào dịch thiếu như đã thấy, chứng cớ
hiển nhiên! Như vậy chỉ có thể là ông đọc 1 bản dịch Pháp văn của Tập “Mộng Khê Bút Đàm”.
Việc ông Hoàng Xuân Hãn không đọc
nguyên tác Hán văn thực ra thì cũng
chẳng mấy quan trọng - và việc ông đọc Bản dịch
cũng không quan trọng. Quan trọng là ông đọc Bản nào thì phải nêu rõ, không
thể đọc bản dịch mà nói mình tham khảo Hán văn -
tức nguyên tác! Về chuyện này thì gần đây tôi cũng đã phê bình một người.
“Sự thật chứa trong bức thư mà
Văn-Thịnh gửi cho Hùng Bản. Thư ấy nói rằng:
“Thành Trạc
đã nói sẽ vạch địa-giới ở phía nam mười tám xứ sau này: Thượng-
điện, Hạ-lôi, Ôn-nhuận, Anh, Dao, Vật-dương, Vật-ác, Kế-thành, Cống, Lục, Tần, Nhậm,
Động,
Cảnh, Tư, Kỳ, Kỷ, Huyện
(11), và nói những xứ ấy đều thuộc
Trung-quốc. Bồi-thần tiểu-tử nầy, chỉ biết nghe mệnh, không giám cãi lại. Nhưng
những đất ấy, mà họ Nùng đã nộp, đều thuộc Quảng-nguyên.
“Nay,
may gặp Thánh-triều ban-bố hàng
vạn chính-lệnh khoan-hồng. Sao lại chuộng miếng đất đầy đá-sỏi,
lam-chướng nầy, mà không cho lại nước tôi, để giúp kẻ ngoại thần.” (TB
349/7b)”.
(Chương XII. KHÔI PHỤC ĐẤT MẤT. 8. –
PHÁI-ĐOÀN LÊ VĂN THỊNH).
Chú thích số (11), ghi trong đoạn trên,
ông Hoàng Xuân Hãn viết:
“(11)
Sách cũ của nước ta và nước Tàu không có chấm câu. Khi nào chép tên nhiều đất
liền nhau như ở đây, rất khó lòng nhận tên đất cho đúng, vì có tên chỉ một chữ,
có tên gồm hai, ba chữ. Nhưng có một vài trường-hợp, ta có thể nhận ra; nhất là
khi trong số đất chép tên, có một vài đất mà mình quên tên trước, và khi nào biết trước số
tên đất chép đó. Hai trường-hợp ấy gặp ở đây. Vậy tôi đã theo nguyên-tắc sau
này để chấm câu : phải chấm câu làm sao cho có đủ 18 tên, mà giữ trọn được
những tên đã biết rồi, như Ôn-nhuận, Vật-ác, Vật-dương, Tần, Nhậm, Cống, hay là
những tên có thể đoán được, như Hạ-lôi, Thượng-điện. Ngoài những tên ấy ra, thì
ở đây phải nhận rằng mỗi tên chỉ có một chữ, mới đủ 18 tên. Đó là trường hợp
đặc biệt. 8.”.
(Trang 368).
[Ghi chú. “quên
tên trước”, chữ “quên”
là chữ “quen”, đánh máy lầm bỏ thêm dấu mũ].
Trước hết là nói về việc trích dịch của
ông Hoàng Xuân Hãn.
1). “Thành Trạc đã nói sẽ vạch địa-giới ở
phía nam”.
Câu này rất sai lạc với ghi chép của “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên”.
(Coi nguyên văn và dịch văn ở sau).
Không rõ ông Hoàng Xuân Hãn lấy đất “Kỳ”
ở đâu ra?
Trong nguyên tác không có địa danh “Kỳ”
này!
Nguyên tác:
“vạn chính canh trương”.
Có thể thấy ngay ông Hoàng Xuân Hãn đã
dịch 2 chữ “canh trương”
là “khoan-hồng”.
Thực không có gì sai hơn!
Canh =
Thay đổi. Trương
=
Phát triển, mở rộng.
Bộ Từ
Nguyên giải nghĩa tiếng “canh trương” như sau:
-
“[Canh trương]. Trùng tân trương thiết”.
-
“[Canh trương]. Làm lại mới, phát triển rộng ra”.
-
“[Canh trương]. Canh cải”.
-
“[Canh trương]. Sửa đổi”.
Nguyên tắc ông Hoàng Xuân Hãn dùng để
chấm câu phân định cho đúng các Địa danh
được liệt kê trong một câu của Sử sách cổ gồm 2 điểm:
1). Chấm câu căn cứ những địa danh đã
biết trước.
Với những địa danh đã biết thì việc
chấm câu không thành vấn đề.
2). Chấm câu dựa theo số lượng địa
danh liệt kê trong câu văn.
Điểm thứ 2 này có những trường hợp dẫn
tới những sai lầm rất nặng!
Chứng cứ là trong đoạn văn dẫn trên của
ông ông đã chấm câu sai tới gần một nửa!
Việc chấm câu sai này tôi sẽ chứng minh
ở một đoạn sau.
Về việc tranh chấp cương giới vùng biên địa giữa
Lý triều và Tống triều đề cập trên đây bộ “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” chép như sau:
-
“Nguyên Phong thất niên……
Đông. Thập nguyệt, Đinh Mão sóc……
Mậu Tý……
Thị tuế Thành Trác, Đặng Tịch nãi
dữ Nam Bình Sứ Lê Văn Thịnh, Nguyễn Bồi
định nghị như thập nguyệt Kỷ Tỵ chiếu thư. Nhi Lê Văn Thịnh ngụ thư Hùng Bản
viết:
~ Thành Trác ngôn: -
Thượng Điện, Hạ Lôi, Ôn, Nhuận, Anh, Dao, Vật Dương, Vật
Ác, Kế, Thành, Cống, Lục, Tần, Nhiệm động, Cảnh
Tư, Hà Kỷ huyện, thập bát xứ [10], tòng Nam hoạch giới, dĩ vi tỉnh
địa ~.
Bồi thần tiểu tử duy mệnh thị thính, bất cảm tranh chấp. Nhiên Nùng thị sở nạp thổ giai Quảng
Nguyên chi thuộc dã. Hạnh ngộ
Thánh triều vạn chính canh trương, hà
ái thử khao hạc chướng lệ chi địa, bất dĩ hồi tứ bản đạo, tồn tỳ ngoại thần?”.
/ Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên. Qu.
CCCXLIX. Thần tông /.
-
“Năm thứ 7 Niên hiệu Nguyên Phong……
Mùa Đông. Tháng 10, ngày Đinh Mão mồng
1……
Ngày Mậu Tý……
Năm này Thành Trác, Đặng Tịch và Lê Văn Thịnh, Nguyễn Bồi của Sứ bộ Nam
Bình thảo luận, đồng ý thi hành theo Chiếu chỉ ngày Kỷ Tỵ tháng 10 (về địa
giới). Thế nhưng Lê Văn Thịnh lại gởi thư cho Hùng Bản nói rằng:
~ Thành Trác nói là: -
Thượng Điện, Hạ Lôi, Ôn, Nhuận,
Anh, Dao, Vật Dương, Vật Ác, Kế, Thành, Cống,
Lục, Tần, Nhiệm động, các huyện Cảnh Tư, Hà Kỷ,
(tất cả) 18 xứ, từ ranh giới phía Nam thuộc Triều đình ~.
Kẻ bồi thần nhỏ bé tôi chỉ biết nghe lệnh (Triều đình), không
dám tranh chấp; có điều là những đất mà họ Nùng
nạp cho triều đình đều thuộc
[châu] Quảng Nguyên! [Bây giờ] may
gặp được Thánh triều với mọi Chính sách đều thay
đổi, lẽ nào lại đi tiếc một vùng đất sỏi đá khô cằn chướng khí và các thứ
bệnh dịch mà không ban ơn trả về cho nước chúng tôi, để tỏ lòng nghĩ nhớ, giúp
đỡ kẻ bề tôi ở ngoài (cõi xa)?”.
-
“Thập bát xứ. Thượng liệt địa danh bất túc thập bát xứ, nghi hữu ngộ”.
-
“18 xứ. Phần liệt kê địa danh ở trên không đủ 18 xứ, ngờ rằng có sai lầm”.
[Phụ chú.
Ngày Mậu Tý. Ngày Đinh Mão là ngày Mồng 1, tính lần
tới, ngày Mậu Tý là ngày 22 tháng 10.
Thành Trác. Là Trại chủ Thái Bình Trại.
(Tham khảo Qu. CCCXLIX. Mục ghi
chép ngày Mậu Tý nói trên).
Nam Bình. Tức Giao Chỉ.
Tống Chân tông (968 - 1022; tức vị: 997
- 1022) tức vị, tiến phong Lê Hoàn là Nam Bình vương.
Năm đầu Niên hiệu Thiên Hi (1017 - 1021)
tiến phong Lý Công Uẩn là Nam Bình vương.
(Tham khảo Tống Sử. Qu.CDLXXXVIII. Ngoại Quốc 4. Giao Chỉ).
Do đó Tống triều cũng gọi xứ Giao Chỉ là
Nam Bình.
Chiếu thư tháng 10 ngày Kỷ Tỵ. Duyệt lại các phần ghi chép vào tháng
10 ở các Quyển trước Quyển CCCXLIX
này, liên quan việc tranh cãi địa giới
giữa Tống triều và Lý triều, thì
không thấy đề cập tờ chiếu thư nào về vấn đề này.
Quyển CCCXLVI (346), mục ghi chép ngày
04 (Nhâm Thân) tháng 6, năm 1084 chép:
-
“Bản thỉnh tứ dĩ Túc, Tang bát Động bất mao chi địa”.
-
“(Hùng) Bản xin lấy 8 Động vùng Túc, Tang đất đai khô cằn ban cho
(Giao Chỉ)”.
Quyển CCCXLVIII (348), mục ghi chép ngày
21 (Mậu Tý) tháng 8 năm 1084, ghi việc Tống triều gởi Lý Nhân tông tờ Sắc chỉ trong đó có câu:
-
“Ải ngoại bát xứ Huyện, Động tứ Giao Chỉ”.
-
“Ban cho Giao Chỉ 8 Huyện, Động ở vùng đất ngoài cửa ải”.
Quyển CCCXLIX (349) ở đoạn dẫn trên nói
“thi hành theo Chiếu thư ngày Kỷ Tỵ tháng 10” có lẽ chỉ tờ Chiếu
thư đề cập trong 2 Quyển CCCXLVI và CCCXLVIII nói trên.
Hùng Bản được bổ nhiệm Tri Quế Châu ngày
07 (Đinh Hợi) tháng 7 năm 1082 (Nhâm Tuất). (Tham khảo:
Qu. CCCXXVIII).
Đến ngày 04 (Nhâm Thân) tháng 6
năm 1084, Hùng Bản đổi về làm Thị lang ở Bộ Lại.
Ngày sau đó, ngày mồng 05, Miêu Thời
Trung được bổ về thay Hùng Bản.
(Tham khảo: Qu. CCCXLVI. Tháng 6,
ngày Nhâm Thân và ngày Quí Dậu).
Ngày 9 (Bính Tý) tháng 8 năm Giáp
Tý (1084) Hùng Bản tuy đã rời chức vụ
ở Quế Châu nhưng được lệnh lưu lại theo dõi việc thương nghị về địa giới giữa
Lý triều và Tống triều, xong việc sẽ về triều tâu lại.
(Tham khảo Qu. CCCXLVIII)].
Việc điểm hiệu
Bộ “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” do
2 nhóm nghiên cứu của Đại học Sư phạm Thượng Hải
và Đại học Sư phạm Hoa Đông thực hiện.
Việc điểm hiệu,
ngoài chấm câu văn còn bao gồm
việc hiệu đính điều chỉnh những chỗ xét thấy sai lầm,
những sai lầm có thể là do ấn loát, có thể là do sao đi, chép lại sai, và có
thể là vị trí của một chữ trong câu không đúng……
-
Thượng Điện. Hạ Lôi. Ôn. Nhuận. Anh. Dao. Vật
Dương. Vật Ác. Kế. Thành. Cống. Lục. Tần. Nhiệm động.
Cảnh Tư. Hà Kỷ.
Tất cả 16 địa danh.
Trong khi đó, ông Hoàng Xuân Hãn chấm
câu thành tất cả 18 địa danh:
-
Thượng- điện, Hạ-lôi, Ôn-nhuận, Anh, Dao, Vật-dương, Vật-ác, Kế-thành, Cống, Lục, Tần, Nhậm,
Động,
Cảnh, Tư, Kỳ, Kỷ, Huyện.
Thư tịch cổ Trung Hoa có những tác phẩm
truyền lại đời sau không còn toàn vẹn, hoặc mất 1 Quyển, vài Quyển, hoặc thiếu
một vài thiên / chương, hoặc ít hơn thì một vài câu trong một thiên, một vài
chữ trong một câu…… chưa kể những câu, những chữ sai.
Câu liệt kê địa danh dẫn trên của Bộ “Trường Biên” nằm trong trường hợp vừa
kể!
Lấy thí dụ 2 tác phẩm nổi tiếng có
những đoạn được trích dẫn trong bài này.
1). Thái
Bình Hoàn Vũ Ký (thường được học giới gọi tắt là Hoàn Vũ Ký).
Bộ Địa chí này có nhiều Bản khắc, có
Bản thiếu 07 Quyển, có Bản thiếu 11 Quyển, các Bản tóm lại không Bản nào đầy đủ. Học giả cận đại đã có nhiều cố
gắng tập lục những tác phẩm có trích dẫn Hoàn
Vũ Ký để tái lập nguyên thư, nhưng Ấn bản hiện hành vẫn thiếu 2 Quyển IV
(04) và Quyển CXIX (119).
2). Tục
Tư Trị Thông Giám Trường Biên (giới Sử học gọi tắt là Trường Biên).
Nguyên thư tất cả 980 Quyển, Bản hiện
lưu hành xuất từ Bộ “Vĩnh Lạc Đại Điển”
cũng chỉ có 520 Quyển. Việc tái lập nguyên mạo còn đang chờ những công trình bổ
túc.
Ông Hoàng Xuân Hãn vì không biết việc
này nên đã chấm câu sai loạn như trên.
1). Kế tức Kế động.
Ông Hoàng Xuân Hãn lại nhập chữ này với chữ Thành liền ở sau để
thành “Kế-thành”.
2). Nhiệm động.
(Nhiệm cũng đọc âm Nhậm).
Hoàng Xuân Hãn lại ngắt ra thành 2 Địa danh
là “Nhậm” và “Động”
mà không biết rằng chữ “động”
ở đây chỉ cấp số hành chánh đi liền với chữ “Nhiệm”.
Về 2 Động “Kế”,
“Nhiệm”, cũng như một số Động khác (và Châu,
Trại) ở vùng biên địa Lý triều / Tống triều, xin coi Bản đồ IV ở một trang sau.
3). Cảnh Tư.
Hoàng Xuân Hãn cũng ngắt ra thành 2 địa
danh “Cảnh”, “Tư”.
4). Hà Kỷ huyện.
Hoàng Xuân Hãn thiếu mất chữ “Hà”.
Chữ huyện đi với tên “Hà
Kỷ” để chỉ cấp số hành chánh, ông
lại cho nó thành địa danh.
Còn địa danh “Kỳ”
thì không rõ Hoàng Xuân Hãn lấy từ đâu ra? Nguyên tác không có!
Những địa danh đã biết và
Số lượng các TÊN mà câu văn cho biết.
Có điều, trường hợp những TÊN không
biết thì sao? Vì ngoài những tên ông biết trước có thể còn những TÊN ông
không biết!
Hoàng Xuân Hãn đã không xét điểm này, để rồi đã làm một việc rất thiếu khoa học và
chẳng có phương pháp chút nào cả, là sau khi trừ ra những địa danh đã biết
còn dư ra bao nhiêu TÊN ông đổ vào “cái rổ số lượng” những TÊN mà câu văn cho biết,
ở đây là con số “18”.
Coi những cái sai ở trên của Hoàng Xuân Hãn ta thấy ngay
rằng ông đã không biết các địa danh “Kế động”,
“Nhiệm động”, “Cảnh Tư”,
“Hà Kỷ”.
Cho nên ông, hoặc “trút” những
địa danh nêu trên vào “Cái rổ Số lượng” mà chẻ ra cho đủ số “18”, hoặc ghép với địa danh khác thành
một địa danh theo cái hiểu của ông!
Vì cứ bám chặt vào mấy chữ “thập
bát xứ” cho nên ông Hoàng Xuân Hãn đã chấm câu
sao cho đủ số 18 mới nghe!
Tóm lại, nguyên tắc, phương pháp chính
xác, theo tôi là: Tra cứu Sách vở!
Nhất thời tra không được thì tạm để đó.
Trái lại, tự đặt ra nguyên tắc, phương pháp mà không đặt trên nền tảng Kiến thức thì hỏng cẳng như ông Hoàng Xuân Hãn ở
đây!
Sau cùng là vấn đề địa danh “Ôn Nhuận”.
2 nhóm nghiên cứu và điểm hiệu của 2
Đại học Sư Phạm Thượng Hải và Hoa Đông đã nói ở trên chấm câu 2 chữ này là 2
địa danh riêng biệt: Ôn và Nhuận.
Trong khi đó ông Hoàng Xuân Hãn coi đây
là 1 địa danh: “Ôn Nhuận”.
Tra bản đồ Lịch sử thời Bắc Tống (960 - 1127) -
thời kỳ nói ở đây, thì thấy có địa
danh gọi là “Ôn Nhuận Trại”
(còn có tên “Ôn Muộn Động”).
Chưa rõ Ôn và Nhuận,
như 2 nhóm nghiên cứu trên ghi, là Châu, là Động hay là Trại?
Cũng chưa rõ có phải đây là lầm lẫn từ
việc ngắt tên “Ôn Nhuận”
Trại làm 2?
+ Trại
Ôn Nhuận vị trí ở phía chính Đông bắc của Trị sở châu Quảng Nguyên,
và cách đường biên giới 2 nước 10 cây số, cách trị sở Quảng Nguyên 32
cây số.
8 địa danh:
Thượng Điện. Anh. Dao. Thành. Cống. Lục.
Cảnh Tư. Hà Kỷ không thấy trên Bản đồ.
+ Những đất này, hoặc là những vùng đất
nhỏ, không quan trọng, hoặc được thành lập trong một thời gian ngắn rồi bị phế
bỏ.
+ Những biến thiên về Địa lý hành chánh trải các triều đại có những
thời kỳ đã xảy ra rất nhanh chóng, rất nhiều, không sao ghi lại hết được! Hậu
thế tái lập Bản đồ cổ do đó không thể nào “phác” lại từng mốc thay đổi ngắn
ngủi, một việc không thể thực hiện!
Có thể tóm tắt sự kiện này trong một
đoạn văn của Sử học gia Đỗ Hựu.
-
“Viên tự Hán đại chí ư hữu Tùy hoặc QUẬN,
QUỐC tham trí, hoặc niên đại đoản
xúc, Châu bộ vô hằng, tăng tỉnh nhi chúng li hợp bất nhất, cương lý nan tường”.
/ Thông
Điển. Qu. CLXXXII. Châu quận 2 /.
-
“Từ đời Hán tới đời Tùy hoặc QUẬN, QUỐC cùng thành lập, hoặc niên đại ngắn
ngủi mà số Châu quận không cố định,
có thời tăng, có thời giảm, do đó lúc li lúc hợp, không nhất định, cương vực
các đất vì vậy khó mà biết cho hết!”.
¸
Dẫn từ: Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập.
Đệ lục sách. Tống. Liêu. Kim thời kỳ.
Thời kỳ Bắc Tống
(960 - 1127).
Thời điểm:
BẢN ĐỒ năm Chính Hòa (1111 - 1118) nguyên niên (năm 1111).
~ Bản đồ 34 – 35: Quảng Nam Đông Lộ /
Quảng Nam Tây Lộ.
+ Chi tiết Bản đồ:
~ Tỷ lệ: 1 / 2,100,000 - 1 cm tương ứng 21 cs. Phóng lớn 1.7 lần, 1
cm = ~ 12.3
cs.
+ Nhiệm động và Kế
động ở chính Bắc Trị sở Quảng Nguyên, ở sát địa giới Giao Chỉ.
+ Tần động ở Đông bắc –
thiên Bắc Trị sở Quảng Nguyên, sát địa giới Giao Chỉ.
+ Trại Ôn Nhuận ở chính
Đông bắc Trị sở Quảng Nguyên.
+ Động Hạ Lôi và Động
Lôi Hỏa thuộc châu Thuận An, ở Đông nam Trại Ôn Nhuận.
Tiếp đó, ở trang 354, ông Hoàng Xuân
Hãn viết:
“Ngày 7 tháng 8 năm ấy (G. Ty 1084),
vua trách rằng : “Đã sai Hùng Bản bảo Thành Trạc bày tỏ những công-điệp và
những điều diện-nghị của Lê Văn-Thịnh. Trong đó không thấy nói đến câu không giám tranh chiếm đất Nùng Tông-Đán nộp.
Thế mà Trạc
lại nói chúng nó đã nghe lời. Thế thì căn-cứ vào đâu để xin giáng
chiếu gia ân.”.
Mười ngày sau, Tống lại tiếp được lời
tâu của Hùng Bản nói : “Thành Trạc thưa rằng trong điệp Lê Văn-Thịnh có nói: “Khê-động nhỏ mọn ấy, nếu Trạc nhận là đất của Tống, thì xin để tôi
bày tỏ với nha kinh-lược, nhờ tâu về triều, và xin triều-đình định đoạt.”.
Chính lúc ấy Văn-Thịnh đưa cho Hùng
Bản bức thư đã thấy trên. Vua Tống nói : “Muốn sai Hùng Bản xét kỹ-càng những
lời Thành Trạc tâu về từ trước. Hoặc là nếu quan kinh-lược mới đã tới, thì hãy
xét tường-tận những công-điệp và lời đối đáp nhau của Văn-Thịnh. Như có chấp-cứ
được, thì vạch rõ ra mà theo; để từ rày về sau, hễ người Giao-Chỉ nhận được
chiếu, thì không thể phản-phúc nữa. Vậy phải trình về cho rõ.”.
Ba ngày sau, là ngày 20 tháng 8, Tống
lại tiếp được một báo-cáo khác của Hùng Bản nói: “Thành Trạc trình rằng : “theo
công điệp của Lê Văn-Thịnh, thì bằng lòng vạch địa-giới ở phía nam các châu
Vật-dương và Thuận-an”. Vậy xin bàn nên phụng chỉ ban chiếu- thư, cấp cho Giao-chỉ
tám xứ ở ngoài ải, và ban cho Lê Văn-Thịnh và Nguyễn Bồi đồ vật.”.
Lại ba ngày sau nữa, Vua Tống nhận
được báo-cáo cuối cùng của ti kinh-lược Quảng-tây gởi về nói : “Trước đây
bản-đạo chưa rõ đầu đuôi việc hai châu Qui-hóa và Thuận-an. Vì thế đã sai
viên-chức ti kinh-lược tới biện chính, và đạt chiếu cho Càn-đức bảo người tới
chia đất. Nay cứ ti kinh-lược Quảng-tây tâu, thì ti đã sai Thành Trạc biện
chính với sai-quan Giao-chỉ là Lê Văn-Thịnh. Bây giờ, đã thấy rõ đầu đuôi. Vậy
xin giáng chiếu.
Vua Tống bèn phê rằng : “Nay An-nam
đã bằng lòng phân-hoạch xong-xuôi, thì hãy đem các đất sáu huyện Bảo-lạc,
Luyện, Miêu, Đinh, Phỏng Cận
và hai động Túc, Tang (12) ở ngoài ải Khấu-nhạc,
giao cho Giao-chỉ thủ lĩnh. Cứ theo đó mà giáng chiếu. Bảo Viện học-sĩ theo đó
mà thảo lời chiếu. Đợi ti kinh-lược Quảng-tây khám xong tên các ải, rồi sẽ viết
chiếu. Còn như bọn Lê Văn-Thịnh, thì ban vải vóc để may áo : cho Lê Văn-Thịnh
200 tấm, và Nguyễn Bồi 100 tấm. (13)”.
Những chi-tiết lời trình của
Quảng-tây và lời chiếu của Tống Thần-tông chép lại trên đây là theo Thời-chính kỷ của viện khu-mật”.
(Chương
XII. KHÔI PHỤC ĐẤT MẤT. 8. – PHÁI-ĐOÀN LÊ VĂN THỊNH).
Nguyên văn của “Mật Viện Thời Chính Kỷ”:
-
“Thất niên, bát nguyệt thất nhật.
Kim lệnh Hùng Bản lặc Thành Trác
đẳng cung tích: Lê Văn Thịnh đẳng
công điệp cập diện nghị tịnh bất tằng ngôn Nùng Tông Đán sở nạp Châu, Động đẳng, cánh bất cảm tranh chiếm.
Kim lai tiện xưng các đắc qui trước liễu đáng, hựu hà chiếu cứ? Cập nhân hà tiện
khất giáng Chiếu tính ân tứ? Cụ nghệ thực văn tấu!
Bát nguyệt
thập thất nhật.
Hùng Bản tấu:
~ Thành Trác thân Lê Văn Thịnh điệp nội
xưng ta tiểu khê động nhược hệ tỉnh địa
thỉnh cung thân Kinh Lược Sứ nha văn tấu Triều đình, duy thính hồi Chiếu chỉ huy
đẳng sự nghĩ định ~.
Dục lệnh Hùng Bản tử tế khán tường Thành Trác
đẳng tiền hậu sở thân hoặc
bản quan dĩ đáo bản Ty, tức đương tư
thẩm vấn, cập tường Lê Văn Thịnh lũy thứ Công điệp tịnh đối đáp từ ý, như hữu khả chấp cứ, ủy thị phân minh Giao nhân tương lai đắc
Chiếu bất trí phản phúc, tức cụ kết trạng bảo minh văn tấu.
Bát nguyệt
nhị thập nhật.
Hùng Bản tấu:
~ Thành Trác đẳng thân Lê Văn Thịnh
tương xuất công trạng ư Câu Dương,
Thuận An đẳng xứ tòng Nam hoạch đoạn địa giới đẳng sự ~.
Đồng phụng chỉ nghĩ định tương ải ngoại bát xứ huyện
động cấp tứ Giao Chỉ Chiếu thư tịnh tứ Lê Văn Thịnh, Nguyễn Bồi
vật sắc Sắc thư tiến trình.
Bát nguyệt
nhị thập tam nhật.
Tạc vị Qui Hóa, Thuận An châu động bản
Đạo vị tất bản mạt nhân y, kim Kinh Lược
Ty sai quan biện chính, cập Chiếu Càn Đức khiển nhân phân hoạch. Kim cứ
Quảng Tây Kinh lược Ty tấu sai Thành Trác dữ GIAO CHỈ sai lai quan Lê
Văn Thịnh đẳng biện tích chỉ dụ dĩ kiến bản mạt, khất giáng Chiếu!
Kim
dĩ An Nam cung thuận, PHÂN HOẠCH
dĩ ĐỊNH, kỳ khiếu binh ải ngoại, BẢO, LẠC, LUYỆN,
MIÊU, ĐINH, PHÓNG, cận lục huyện TÚC, TANG nhị Động -
cộng bát xứ đặc tứ Giao Chỉ chủ lãnh, y thử giáng Chiếu khai dụ đẳng sự.
Đồng Tam Tỉnh phụng chỉ, lệnh học
sĩ Viện y thử thảo từ, hậu Quảng Tây Kinh lược Ty khám hội đáo Ải danh tu tả.
Kỳ LÊ VĂN THỊNH đẳng, tịnh tứ trừu y
trước, VĂN THỊNH nhị bách
thất, NGUYỄN BỒI nhất bách
thất ~”.
(Dẫn lại trong: Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên. Qu. CCCXLIX. Thần tông.
Đoạn này in chữ nhỏ).
-
“Năm thứ 7, mồng 7 tháng 8.
Nay lệnh cho Hùng Bản thống suất nhóm Thành Trác giải thích sự việc: Trong văn
thư cũng như ý kiến của nhóm Lê Văn Thịnh
lúc 2 bên đối mặt thương nghị đều không thấy họ từng nói là những Châu, Động mà Nùng Tông Đán nạp triều đình thì họ không dám tranh chiếm! Bây giờ lại tâu về, nói tất cả
kết thúc thỏa đáng, việc này căn cứ vào đâu? Và dựa vào đâu mà xin ra Chiếu và
ban ơn cho họ? Hãy xem xét đầy đủ mà tâu lên!
Ngày 17 tháng 8.
Hùng Bản tâu:
~ Thành Trác trình bày lại nội dung văn
thư của Lê Văn Thịnh, trong đó nói rằng những vùng khê động nhỏ nếu thuộc triều đình thì xin được trình
cho Cơ quan Kinh Lược Sứ để tâu lên
Triều đình, chờ Chiếu thư trả lời,
chỉ định mọi việc rồi mới thương nghị! ~.
(Triều đình) muốn lệnh cho Hùng Bản duyệt lại kỹ những bản Tường trình trước và sau của nhóm Thành Trác, hoặc
là nếu Quan trấn nhiệm (mới) đã về đến bản Ty thì lập tức tra hỏi cho rõ, cũng
như báo cáo về những văn thư của Lê Văn Thịnh, cùng những ý tứ của lời
lẽ đối đáp trong đó, nếu như điều gì có
thể y cứ, viện dẫn được thì trình bày cho rõ ràng, khúc chiết,
để sau này khi nhận Chiếu thư của triều đình người Giao Chỉ không nói đi nói
lại được, tất cả đúc kết thành 1 tờ trình đầy đủ, rõ ràng, tâu lên ngay.
Ngày 20 tháng 8.
Hùng Bản tâu:
~ Nhóm Thành Trác tường trình về những
văn thư của Lê Văn Thịnh đưa ra
các việc phân định địa giới ở phía Nam các đất Câu Dương, Thuận An ~.
Tất cả cùng tuân sắc chỉ khởi thảo
Chiếu thư lấy 8 nơi Huyện,
Động ở ngoài ải cấp cho Giao Chỉ, và soạn Sắc thư ban cho Lê
Văn Thịnh, Nguyễn Bồi một số phẩm vật.
Ngày 23 tháng 8.
Trước đây vì Địa phương không hiểu hết
nguyên ủy đầu đuôi về việc các châu, động ở
Qui Hóa, Thuận An, nay Ty Kinh Lược
cho quan tới tận nơi biện luận cho chính xác, và gởi Chiếu thư cho Càn Đức sai
người tới phân vạch địa giới. Nay
căn cứ lời tâu của Ty Kinh Lược Quảng Tây nói đã ra lệnh sai Thành Trác biện
luận với nhóm Quan chức Lê Văn Thịnh của GIAO CHỈ sai tới mà biết rõ đầu đuôi
sự việc, xin vua xuống Chiếu!
Nay An Nam đã cung kính nghe theo, việc PHÂN địa giới đã XONG, họ tập quân
ở mé ngoài ải, các Huyện BẢO, LẠC, LUYỆN, MIÊU,
ĐINH, PHÓNG, và 2 Động TÚC, TANG ở gần 6 Huyện -
tất cả 8 nơi đặc biệt ban cho Giao Chỉ chủ lãnh, chiếu theo đây mà ra Chiếu thư
hướng dẫn các việc.
Cả 3 Tỉnh tuân Chiếu chỉ, lệnh cho Viện
Học Sĩ theo đây mà thảo Văn thư, chờ cho Ty Kinh Lược tra xét rõ tên các Ải rồi
sẽ thảo Chiếu thư.
Nhóm Lê Văn Thịnh thì ban vải may áo,
VĂN THỊNH 200 tấm, NGUYỄN BỒI 100 tấm”.
Đối chiếu phần lược dịch của ông Hoàng Xuân Hãn và chính văn đoạn tự thuật của tác giả “Mật Viện Thời Chính Kỷ” thì nhìn chung không sai lắm.
Không sai lắm tức vẫn còn những cái
sai:
Chính văn
ghi: “Nùng Tông Đán sở nạp Châu, Động đẳng”.
Nói “đất”
thì quá tổng quát, chính văn viết rõ những đất Nùng Tông Đán nộp Tống
triều gồm có các Châu, các Động.
Chính văn:
“các đắc qui trước liễu đáng”.
Như đã dịch: “tất cả kết thúc thỏa
đáng” - ý nói mọi vấn đề trong cuộc thương
nghị về địa giới giữa Lý triều và Tống
triều đã kết thúc thỏa đáng!
Chữ “qui” [=
về] ở câu này không có nghĩa
là “qui thuận” - mà ông Hoàng Xuân Hãn đã dịch là “nghe
lời”, mà có nghĩa là “kết cục”,
“chung cục”.
Chính văn:
“tức cụ kết trạng bảo minh văn tấu”.
Nghĩa là: “tất cả đúc kết thành 1 tờ
trình đầy đủ, rõ ràng, tâu lên ngay”.
Thời cổ, văn thư của cấp dưới trình
lên cấp trên gọi là “trạng”.
Và “Kết trạng” là tổng
kết, đúc kết lại trong văn thư để trình lên.
Chính văn:
“kỳ khiếu binh Ải ngoại, BẢO, LẠC, LUYỆN,
MIÊU, ĐINH, PHÓNG, cận Lục huyện, TÚC, TANG nhị Động -
cộng bát xứ đặc tứ Giao Chỉ chủ lãnh”.
Dịch: “họ tập quân ở ngoài Ải, các
huyện BẢO, LẠC, LUYỆN, MIÊU, ĐINH, PHÓNG
và 2 Động TÚC, TANG ở gần 6 Huyện -
tất cả 8 nơi đặc biệt ban cho Giao Chỉ chủ lãnh”.
2 huyện BẢO, LẠC ông Hoàng Xuân Hãn
nhập lại thành 1 huyện. Do đó, chúng ta thấy ông viết là “sáu huyện”
nhưng phần liệt kê chỉ có 5 huyện!
Huyện “Phóng” thì ông nhập chữ “cận”
ở sau thành “Phỏng Cận”.
“Tôi cũng theo nguyên tắc vừa nói
trong chú thích 11, mà định những tên này. Những tên ải thì chắc như thế là
đúng; vì có 8 ải mà có 16 chữ, mỗi tên chắc gồm hai chữ. Vả chăng nếu chấm câu
như vậy, thì những tên sẽ có chữ Canh,
Khâu, Khiếu đứng đầu,
đều là những danh-từ chỉ đèo, núi.
Tên sáu huyện và hai động cũng chắc
là đúng như trên. Vì tên Bảo-lạc nay còn. Huyện Bảo-lạc xưa là vùng phía bắc
tỉnh Hà-giang bây giờ. Nùng Văn-Vân nổi loạn ở đó (1833). Vua Minh-mạnh bèn xóa
tên Bảo-lạc, mà chia đất ra làm hai huyện Để-định và Vĩnh-điện. Huyện-lị đời
xưa đóng ở phố Vân-trung. Cho nên phố ấy cũng có tên Bảo-lạc. Nay, ở trong
bản-đồ sở họa-đồ Đông-dương còn để tên Bảo-lạc vào chỗ ấy”.
(Trang 369).
a). “Những tên ải thì chắc như thế là
đúng; vì có 8 ải mà có 16 chữ, mỗi tên chắc gồm hai chữ. Vả chăng nếu chấm câu
như vậy, thì những tên sẽ có chữ Canh,
Khâu, Khiếu đứng đầu,
đều là những danh-từ chỉ đèo, núi”.
Ý nghĩa các chữ Canh, Khâu, Khiếu
trong Từ điển Từ Nguyên.
+ Chữ Canh có các nghĩa:
1/. Một trong Thập Thiên Can (tức Giáp,
Ất, Bính….). 2/. Đạo lộ. 3/. Tuổi tác (niên linh).
4/. Bồi thường. 5/ Tên họ (Tính).
+ Chữ Khâu có các nghĩa:
1/. Núi đất nhỏ. 2/. Ngôi mộ. 3/. Cái
gò hoang. 4/. Đơn vị canh tác thời cổ bằng 16 tỉnh.
5/. Lớn (đại, cự). 6/. Trống không
(không). 7/. Tên họ.
(16 Tỉnh. “Tỉnh” ở đây là cái
“Giếng”. Thời cổ, Tỉnh chỉ khu ruộng 1 dặm vuông được chia đều thành 9 khoảnh, như hình chữ Tỉnh -
do đó mà được gọi là “Tỉnh điền”. 8 khoảnh chung quanh cấp cho dân là tư điền, khoảnh ở giữa là công điền. 8 gia đình
chung quanh chia nhau cày cấy khoảnh công điền, công sức này được tính như
thuế).
+ Chữ Khiếu có các nghĩa:
1/. Kêu, gọi, lớn tiếng gọi. 2/. Tiếng
chim kêu.
Tóm lại, 3 chữ Canh, Khâu, Khiếu không
có chữ nào là “danh-từ chỉ đèo, núi.”
hết!
b). Về huyện Bảo-lạc
Như Chính văn “Mật Viện Thời Chính Kỷ” dẫn trên thì 6 Huyện / 2
Động kể trên vốn là lãnh thổ của Tống triều, nay đem nhượng cho Lý
triều. Do đó, có thể thấy họ không thể không biết rõ tên đất của họ, không thể
lầm lẫn Bảo và Lạc là 1 huyện được!
Vào thời Lý triều / Tống triều tranh
chấp địa giới, Bảo / Lạc
là 2 huyện riêng rẽ, còn sau đã nhập lãnh thổ của Lý triều
thì có thể 2 huyện này đã được nhập thành
một huyện ở một thời điểm nào đó cần tra
cứu xác thực, nếu muốn nghiên cứu
thêm để biết; có điều việc này
không quan trọng, vì đây là chuyện
sau, chẳng liên quan với chuyện
trước đó lúc 2 bên thương nghị phân định địa
giới!
Cũng chính vì ngắt câu sai, nhập
2 chữ Bảo và Lạc thành một để thành huyện Bảo Lạc
ông Hoàng Xuân Hãn đã không thấy rằng nhập như vậy số huyện chỉ còn 5,
không còn là 6 như ông viết -
tức số huyện
và tên huyện không hợp, đây là vì ông đã lấy việc sau luận việc trước,
lấy sự thay đổi luận việc lúc chưa thay đổi!
Sau hết, ở đây Hoàng Xuân Hãn đã mâu
thuẫn với chính ông về cái phương pháp mà ông đã đưa ra nhằm ngắt
câu phân biệt địa danh ở câu chú thích số (11):
“(11)
Sách cũ của nước ta và nước Tàu không có chấm câu. Khi nào chép tên nhiều đất
liền nhau như ở đây, rất khó lòng nhận tên đất cho đúng, vì có tên chỉ một chữ,
có tên gồm hai, ba chữ. Nhưng có một vài trường-hợp, ta có thể nhận ra; nhất là
khi trong số đất chép tên, có một vài đất mà mình quên tên trước, và khi
nào biết trước số tên đất chép đó”.
Thời Chính Kỷ
không phải là một Cuốn sách mà chỉ là một Bản văn luận Chính sự
vào lúc đó. Mật Viện Thời Chính Kỷ
là Bản văn luận Chính sự lúc đó, tức lúc Bản văn được đọc giữa triều, của Khu
Mật Viện.
Thời cổ, Tể tướng vào triều luận Chính sự thì viết thành một Bản văn - với ấn triện của Tể tướng đóng trên đó. Sau buổi họp Triều - cũng trong ngày này - Bản văn này được đưa cho Sử quan để ghi vào Sử thư, trong Mục gọi là “Nhật Lịch” (tức như nhật ký) của Sử quan. Thời cổ, khi biên soạn “Thực Lục” thì trước hết phải tham khảo “Nhật Lịch”. Bản văn luận Chính sự kể trên được gọi là “Thời Chính Ký” - hay “Thời Chính Kỷ”, như tiếng dùng trong “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên”. Hai chữ “Ký” và “Kỷ” đều có nghĩa là “ghi chép”. “Thời Chính” nghĩa là “Chính sự hiện thời”.
Gọi “Mật
Viện Thời Chính Kỷ” vì do Khu Mật Sứ, trưởng quan của Khu
Mật Viện thảo.
Thời Triệu Tống (960 - 1279) về quyền
lực chính trị Trung Thư Tỉnh và Khu Mật Viện là 2
Cơ quan nắm trọn Guồng máy điều hành Quốc gia. 2 Cơ
quan này được gọi chung là Lưỡng Phủ,
hay Nhị Phủ.
Trung Thư Tỉnh được gọi là Đông Phủ,
là chỗ Tể Tướng và Trung Thư Lệnh làm việc.
Đông Phủ
có trách vụ soạn thảo Chính sách Quốc gia, tuyên bố mệnh lệnh, đưa ra các việc
cải cách, bổ nhiệm quan lại.
Khu Mật Viện được gọi là Tây Phủ,
là chỗ làm việc của Khu Mật Sứ.
Tây Phủ
chủ yếu nắm các sự vụ cơ mật về Quân sự và phòng thủ biên thùy.
2 chức Tể Tướng và Khu Mật Sứ quyền
hành ngang nhau. Có lúc Tể tướng kiêm chức Khu Mật Sứ, trường hợp này Tể Tướng
được gọi là “Khu Tướng”.
Theo
qui định về Văn thư Hành chánh thì chỉ
có Bản văn luận Chính sự của Tể Tướng mới được gọi là “Thời
Chính Kỷ”. Khu Mật Sứ quyền hành ngang Tể Tướng, vì vậy mà Bản văn luận Chính sự của Khu Mật Sứ cũng được gọi là “Thời
Chính Kỷ”.
Do lai của “Thời Chính Ký” khởi đi từ năm thứ 2 Niên hiệu Trường
Thọ (692 - 694), tức năm 693, thời Vũ Tắc Thiên (624 - 705; tại vị: 690 - 705),
theo đề nghị của Diêu Thụ.
Về khởi nguyên của “Nhật
Lịch”, Ngô Tăng (? - ?) thời Nam Tống (1127
- 1279) viết:
-
“Nhật Lịch chi thủy.
Đường Thuận
tông thời tể tướng Vi Chấp nghị giám
tu Quốc sử, tấu thủy lệnh Sử quan soạn Nhật Lịch. Thử
Nhật Lịch chi thủy dã!”.
/
Năng Cải Trai Mạn Lục. Qu. I.
Sự thủy /.
-
“Khởi thủy của Nhật Lịch.
Thời Đường Thuận
tông tể tướng Vi Chấp bàn việc biên
soạn Quốc sử, tâu xin bắt đầu lệnh cho Sử quan soạn Nhật Lịch.
Đây là khởi thủy của Nhật Lịch!”.
[Ghi chú. Đường Thuận tông (761 - 806;
tại vị: 805 - 806).
Từ điển Từ Nguyên ghi lầm đoạn
văn trên đây là ở Quyển II
của “Năng Cải Trai Mạn Lục”].
Ở trang kế tiếp, trang 355, ông Hoàng Xuân Hãn viết:
“Ngày 22 tháng 10, sau khi ti
kinh-lược Quảng-tây đã khám rõ tên các ải, dùng làm cận cho biên-thùy, vua Tống
sắc cho vua Lý lời nghị định sau:
“Sắc cho Giao-chỉ Quận-vương Lý
Càn-đức:
Trẫm đã xét lời ti kinh-lược
Quảng-nam-tây-lộ tâu về nói: “Trước đây, vì An-nam tâu kêu rằng cương-chí các khê-động thuộc
hai châu Vật-ác, Vật-dương
chưa được rõ, đã có triều-mệnh sai
bản-ti, lo liệu. Bản đạo đã sai quan-chức biện-chính. Nay được tin báo An-nam
đã sai bọn Lê Văn-Thịnh tới biên giới, và biện chính đã xong. Vậy xin giáng
chiếu-chỉ để trao cho An-nam theo làm.”.
Trẫm đã xem xét các lời Khanh
trần-tình về phong cương, Trẫm sẽ đặc-biệt
sai biên-thần lo-liệu biện-chính. Khanh vốn được Trẫm yêu-mến.
Giữ một lòng trung-thuận. Khanh đã vâng chiếu-chỉ sai chức thuộc đến
chia cõi các châu, động. Nay đầu đuôi đã được rõ-ràng.
“Về hai động Vật-dương và Vật-ác.
Trẫm đã giáng chỉ lấy tám ải sau này làm giới hạn : Canh liệm,
Khâu-cự, Khiếu-nhạc,
Thông-khoáng, Canh-nham, Đốn-lị, Đa-nhân và Câu-nan. Đất ngoài các ải ấy có sáu huyện là Bảo-lạc, Luyện, Miêu, Đinh, Phóng,
Cân,
và hai động là Túc, Tang. Các đất ấy đều cho Khanh chủ-lĩnh (12)”.
(Chương
XII. KHÔI PHỤC ĐẤT MẤT. 8. – PHÁI-ĐOÀN LÊ VĂN THỊNH).
Về đoạn này “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” chép:
-
“Mậu Tý.
Sắc Giao Chỉ Quận vương Càn Đức tỉnh:
~ Quảng Nam Tây Lộ Kinh Lược Ty tấu:
<
“Tạc chuẩn triều mệnh, An Nam tấu dĩ khê động Vật Ác, Vật Dương đẳng châu, động
Cương chí vị minh, kim Bản Ty kế hội Bản Đạo, sai chức quan biện chính. Kim chuẩn An Nam báo sai Lê Văn
Thịnh đẳng chí, Biên giới dĩ biện chính,
khất giáng Chiếu chỉ phó An Nam tuân thủ. >.
Hướng quan tấu độc trần tự phong cương, đặc
mệnh biên thần kế nghị biện chính.
Khanh bảo ưng sủng lộc thế tái trung
thuần khâm phụng chiếu chỉ thân sức quan thuộc phân hoạch châu, động, bản mạt
dĩ minh.
Vật Ác, Vật
Dương nhị Động dĩ giáng chỉ huy, dĩ Canh
Kiệm, Khâu Củ, Khiếu Nhạc, Thông Khoáng, Canh Nham, Đốn Lợi, Đa Nhân, Câu Nạn bát ải
vi giới, kỳ giới ngoại Bảo, Lạc, Luyện,
Miêu, Đinh, Phóng cận lục huyện
Túc, Tang nhị động tịnh tứ khanh chủ lãnh ~”.
/ Tục Tư
Trị Thông Giám Trường Biên. Qu. CCCXLIX. Thần tông /.
-
“Ngày Mậu Tý.
Lệnh cho Giao Chỉ Quận vương Càn Đức
rõ:
~ Ty Kinh Lược Quảng Nam Tây Lộ tâu:
<
Trước đây, theo lệnh triều đình, An Nam tâu lên nói là Địa giới các châu, động vùng Khê động Vật Ác, Vật Dương chưa được
rõ ràng, nay Bản Ty thảo luận trong
Bản Đạo sai chức quan biện biệt cho
chính xác. Nay, theo An Nam báo cho
biết là đã sai nhóm Lê Văn Thịnh đến (thương nghị), (và đường) biên giới đã biện biệt chính xác, vậy xin giáng Chiếu chỉ cho An Nam để tuân
thủ việc này>.
Trước đây
ta coi bài Tấu trình bày (của khanh) về biên giới, đã đặc biệt ra lệnh cho các
quan chức ở biên cảnh thảo luận, biện biệt cho chính xác.
Khanh nhận ân sủng phước lộc triều đình, trải các đời một lòng trung thành, (và khanh) đã
tuân theo chiếu chỉ, nhiều lần sai sử các thuộc quan đến hoạch định, phân ranh
các châu, động, (bây giờ) đầu đuôi sự việc đã rõ ràng.
Về 2 Động Vật Ác, Vật Dương thì đã
xuống chiếu thư, lấy 8 ải làm đường ranh giới là Canh Kiệm, Khâu Củ, Khiếu Nhạc, Thông Khoáng, Canh Nham, Đốn Lợi, Đa Nhân và Câu Nạn, 6
huyện ở ngoài lằn ranh này là Bảo, Lạc, Luyện,
Miêu, Đinh, Phóng và 2 động Túc, Tang gần 6 huyện, đều ban cho khanh làm chủ ~”.
Ngày Mậu Tý đây là ngày 22 tháng 10 năm
1084 đã nói ở phần Phụ chú trước đây.
Chỉ huy. Danh xưng chỉ chung các loại
Văn thư như Chiếu, Sắc, Mệnh lệnh…., rất thường thấy trong các Công văn dưới 2
triều Đường (618 - 907), Tống (960 - 1279).
Ở đoạn dẫn trên nói “Giáng chỉ huy”
tức nói “Giáng chiếu”.].
¸ Những cái sai sót của ông Hoàng Xuân Hãn trong đoạn trên:
1). “các khê-động thuộc
hai châu Vật-ác, Vật-dương”.
Vật Ác và Vật Dương là 2 Động, không
phải 2 Châu như Hoàng Xuân Hãn viết sai.
Cùng trong tờ Chiếu thư này, ở đầu đoạn
cuối đã ghi rất rõ về Cấp số Hành
chánh của 2 địa khu này: “Vật Ác, Vật Dương nhị Động”.
Ông Hoàng Xuân Hãn lơ đãng nên dịch
trước quên sau!
Câu này ông Hoàng Xuân Hãn dịch không
chính xác.
Nguyên tác:
“kim Bản Ty kế hội Bản Đạo”.
Dịch: “nay Bản Ty thảo luận trong Bản Đạo”.
3). “Trẫm sẽ đặc-biệt sai biên-thần”.
Câu trên tự thuật việc quá khứ, không
phải vị lai, cho nên chính xác phải dịch câu trên là “đã đặc
biệt ra lệnh”. Vì ở đầu câu có chữ “Hướng”,
nghĩa là “trước đây, trước kia”.
Câu này ông Hoàng Xuân Hãn dịch sai
hoàn toàn!
Nguyên tác:
“Khanh
bảo ưng sủng lộc,
thế tái trung thuần”.
Dịch: “Khanh nhận ân sủng phước lộc triều đình, trải các đời một lòng trung thành”.
Câu văn rất rõ ràng, nói đến lòng trung
thành của các đời vua Lý triều, chứ không riêng có vua đương tại vị.
5). Đối chiếu đoạn này, trang 355, và đoạn đã dẫn ở trang 354 độc giả thấy được ngay là cùng một địa danh mà mỗi đoạn ông Hoàng Xuân Hãn viết mỗi khác:
1/. Đoạn trên viết “Phỏng Cận”,
đoạn dưới viết là “Phóng”
và “Cân”.
Chẳng những địa danh 2-chữ ngắt thành 2 chữ riêng rẽ, mỗi
chữ thành 1 địa danh, mà dấu giọng cũng khác: Phóng
/ Phỏng và Cận / Cân.
2/. Đoạn trên viết “Khấu-nhạc”,
đoạn dưới lại viết là “Khiếu-nhạc”.
Nếu đừng
lơ đãng quá người nào cũng nhận ra ngay mấy
điểm trái nghịch nêu trên! Và nếu như 2 đoạn cách nhau 5, 7 chục trang thì có thể chấp nhận được -
đàng này chỉ là trang trước, trang sau!
Và nếu là vì lơ đãng mà để sai, sót như
trên đây, và ở nhiều chỗ khác nữa, thì việc này cho thấy thái độ làm việc thiếu
cẩn thận, thiếu nghiêm chỉnh của ông Hoàng Xuân Hãn.
Cẩn thận, nghiêm chỉnh là các đức tính không thể thiếu của người nghiên cứu -
nhất là nghiên cứu Sử học! Đây là chưa nói ấn bản này là ấn bản được “san định,
bổ sung”!
1/. “Canh liệm”.
Tên đúng là “Canh
Kiệm”, không phải “Canh liệm”.
Chữ “Kiệm”
ở đây tức chữ “Kiệm”
trong tiếng “tiết kiệm”.
Chữ “KIỆM”,
mẫu tự K và mẫu tự L trên bàn gõ nằm sát nhau, có thể gõ lộn.
2/. “Khâu-cự”.
Tên đúng là “Khâu
Củ”, không phải “Khâu-cự”.
Chữ “Củ”
trong địa danh này có nghĩa là “phép tắc”,
như nói “qui củ”.
Chữ “CỦ”,
U có thể lộn thành Ư, nhưng khó có thể đánh thêm dấu NẶNG, thành CỰ.
Có điều là ở phần “BẢNG CHỈ TÊN ĐẤT”
ở cuối Sách - trang 486, gần cuối Cột II, ông Hoàng
Xuân Hãn lại ghi đúng là “Khâu-củ”. Nếu chịu khó tra lại thì có thể tìm
ra được một số địa danh, nhân danh ở chính văn và các “BẢNG” tên đất, tên người
ở cuối sách không khớp! Điều này cho
thấy là ông Hoàng Xuân Hãn đã không
kiểm soát lại cho kỹ bản thảo trước khi đưa in.
6). Sau cùng, chữ “Cân” ông Hoàng Xuân Hãn viết ở trên không phải là địa danh.
Chữ này trong nguyên tác là chữ “CẬN”
nghĩa là “Gần”.
Ở đây ông Hoàng Xuân sai tới 2 tầng,
một là phiên âm sai, hai là nhận lầm chữ này là địa danh!
Tờ Chiếu thư dẫn trên là của Tống Thần tông gởi Lý Nhân tông.
Những cuộc thương thuyết đầu tiên về địa giới ở vùng biên cảnh Lý triều
và Tống triều đã diễn ra dưới thời
Tống Thần tông và Lý Nhân tông.
Ở mấy giòng cuối trang 356 ông
Hoàng Xuân Hãn cho biết ngày tháng
Tống Thần tông qua đời như sau:
“Việc chia địa-giới cũng là việc cuối
cùng Tống Thần-tông làm đối với nước ta. Thần-tông mất ngày Mậu-tuất mồng 5 tháng 3 năm ấy (DL 1-4-1085, TB 353)”.
(CHƯƠNG XII. KHÔI PHỤC ĐẤT MẤT. 9. -
LÝ CỐ NÀI. TỐNG QUYẾT TỪ).
Về ngày chết của Tống Thần tông, “Tục Tư Trị Thông Giám Trương Biên” chép:
- “Nguyên Phong Bát niên……
Tam nguyệt. Ất Vị.…
Mậu Tuất.
THƯỢNG băng vu PHÚC NINH ĐIỆN, Tể thần Vương Khuê độc di Chế. Triết tông tức hoàng đế vị”.
/
Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên.
Qu. CCCLIII. Thần tông /.
- “Năm thứ 8 Niên hiệu Nguyên Phong……
Tháng 3. Mồng 1 ngày Ất Vị
(Mùi)……
Ngày Mậu
Tuất.
VUA băng ở PHÚC NINH ĐIỆN, quan Tể
tướng Vương Khuê tuyên đọc Mệnh lệnh của vua để lại. Triết tông
lên ngôi hoàng đế”.
[Phụ chú.
Chế. Mệnh Lệnh của Hoàng đế được gọi là
Chế].
Như trên ghi, ngày Mồng 1 tháng 3
là ngày Ất Vị (Mùi), tính lần tới thì ngày Mậu
Tuất là ngày Mồng 4 tháng 3,
không phải ngày “5 tháng 3”
như ông Hoàng Xuân Hãn ghi sai!
+ ẤT VỊ mồng 1 -
Bính Thân mồng 2 - Đinh Dậu mồng 3 -
MẬU TUẤT mồng 4.
Về 2 động Vật Dương, Vật Ác, “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” chép
như sau:
- “Nguyên Hựu nguyên niên.
Lục nguyệt Tân Sửu……
Nhâm Tý……
Giao Chỉ Quận vương Lý Càn Đức ngôn:
~ Hạ Ấp
hữu Vật Dương, Vật Ác nhị Động bát
huyện dữ tỉnh nhưỡng tiếp liên, tiền
hậu bị thủ thổ nhân bạn khứ, ủy thân qui minh. Kỳ Vật Dương ư Bính Thìn niên
mông thu nhập tỉnh, Vật Ác ư Nhâm
Tuất niên mông thu thiết Thông Khang Ải. Tuy thử đẳng đạn hoàn chi địa, vưu
thiết thống hoài, thường bất li mộng mị giả, thành dĩ tiên tổ thần bình tích tru cầm
tiếm nghịch, xung gian mạo hiểm, tất mệnh chi sở trí dã!
Kim mạt tháo bất năng tự
thừa, khởi cảm bị số ư phiên viên, thâu sinh ư khoảnh khắc
dã?! Giáp Tý niên, Quảng Tây Kinh Lược Ty thường vi thân tấu tiên triều, dĩ
Túc, Tang nhị Động lục huyện tứ thần chủ lãnh -
Án Túc, Tang đẳng hiện thuộc hạ Ấp, phi kim tư trần thỉnh chi địa, bất cảm bái
mệnh.
Phục ngộ bệ hạ nhất tân vũ nội, cẩn cụ
biểu dĩ văn”.
/ Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên. Qu. CCCLXXX. Triết tông kỷ /.
- “Năm đầu Niên hiệu Nguyên Hựu.
Tháng 6. Mồng 1 ngày Tân Sửu……
Ngày Nhâm Tý……
Giao Chỉ Quận vương Lý Càn Đức nói:
~ Nước
hạ thần có 2 Động Vật Dương, Vật Ác
gồm 8 huyện nằm tiếp giáp địa vực của
bệ hạ, lần lượt bị những kẻ giữ các đất này phản bội lấy đi, theo
về với Bệ hạ. Động Vật Dương vào năm
Bính Thìn bị thu nhập lãnh thổ của
nhà vua, Động Vật Ác thì vào năm Nhâm
Tuất bị thu lấy rồi sau lập thành Ải Thông Khang. Tuy rằng các Động này là
những mảnh đất nhỏ hẹp nhưng các việc
rất đau lòng này thường chẳng lìa giấc mộng của thần, (những đất
này) thật sự vốn do tiên tổ của thần
ngày trước đánh bắt, diệt trừ những kẻ phản
nghịch chiếm cứ không phải lẽ, xông pha gian khổ, trải bao hiểm nguy dốc
hết sức mình, bất kể tính mạng mà có được!
Nay thời suy vong (thần) không nối được sự nghiệp cha ông, lẽ nào lại dám vơ vào cho đủ số đất đai vùng biên giới, sống trái đạo nghĩa trong đời
sống ngắn ngủi này? Năm Giáp Tý,
Ty Kinh Lược Quảng Tây từng tâu lên triều trước, xin lấy 2 Động Túc, Tang 6
huyện ban cho thần làm chủ - Xét ra các Động Túc, Tang hiện nay
thuộc về Nước của hạ thần, không phải là
những đất thần trình bày để xin hiện nay nên không dám nhận.
Gặp lúc bệ hạ mới lên ngôi thần kính
cẩn dâng biểu văn trình bày đầy đủ sự việc”.
Liền sau đoạn dẫn trên là tờ Chiếu thư
trả lời của Tống triều:
-
“Chiếu đáp viết:
~ Nãi giả, biên thần ngôn khanh thủ lĩnh
xâm ngã cương thùy. Tiên hoàng đế vụ tại khoan nhân, thân ban chiếu dụ, tỉ
tòng biện chính, dịch ký nghiệm minh, đặc cát Khang Ải chi khu, dụng thị quân ân chi tứ. Đức
âm như tại, Chiếu mặc do tân, cố
nghi truy thể bao hoang, khác tuân phân hoạch, hà kì lũy tấu, thượng chấp
tiền mê, nhưng chỉ tân giới chi cương cánh vi kỉ vật chi cựu, vô
yếm chí thử sự thượng hề quan? Lượng khanh
ý chi khởi nhiên, đãi nhân ngôn chi trí hoặc! Huống tư Châu, Động cửu vi vương dân, nhất
tạc khắc phục Quảng Nguyên chi thời dĩ chí cấp tứ Thuận
Châu chi nhật, dữ bỉ điền thổ bản vô giao xâm. Khanh kỳ vụ tận chí thành, chi tuần tiên Chiếu, ích
cẩn phủ phong chi thủ, vật tòng sinh sự
chi mưu, miễn phó quyến hoài, vĩnh tuy sủng lộc ~”.
/ Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên. Qu. CCCLXXX. Triết tông /.
-
“Chiếu thư trả lời:
~ Quan
biên cảnh nói là tướng của khanh xâm lấn biên thùy của ta. Vua trước đây
một lòng khoan dung, nhân ái, nhiều lần ban chiếu dụ, sai (đến biên cảnh) biện biệt về địa giới (2 Nước) cho đúng, khi đã xét rõ ràng thì
đặc biệt cắt khu Ải Khang ban cho để tỏ ân huệ của vua. Chiếu thư ân huệ
(ban đất này) như còn trước mắt,
Chiếu thư mực vẫn còn mới, lẽ ra khanh phải nghĩ lại lòng bao dung này mà cung kính tuân theo việc
chia ranh đó, có đâu cứ tâu mãi đòi đất
đai, vẫn chấp sự mê lầm trước đây,
cứ vẫn nghĩ rằng đường phân định cương vực mới vốn là đất cũ của mình,
(với) một sự đòi hỏi không
biết chán như thế thì việc phụng sự người
trên rồi ra sao đây? Ta độ rằng lẽ
nào khanh lại có ý như thế, đại để (đây) là do lời kẻ khác làm cho khanh mê
lầm! Huống chi dân tại các châu, động này là dân của vương triều lâu rồi, những thời gian trước từ lúc khắc
phục được đất Quảng Nguyên cho tới ngày ban cho khanh xứ Thuận Châu dân ở các châu, động này và dân kia vốn không xâm lấn ruộng đất của nhau. Khanh cứ
hết lòng thành, cung kính tuân theo Chiếu thư trước đây, càng cẩn thận giữ gìn
các đất đã được phong cho, chớ có toan tính sinh sự, cố gắng sao
cho xứng đáng với lòng thương tưởng của ta, để sự sủng ái và phước lộc được an
ổn lâu dài ~”.
[Phụ chú.
Dân kia. Chỉ dân Thuận châu. Sau cuộc chiến tiến đánh Giao Chỉ năm Đinh Tỵ (1077), trả đủa trận Bính Thìn (1076), Tống triều chiếm lấy
Châu Quảng Nguyên, và đổi lại tên là Thuận châu ngày 25 tháng 2 cùng năm. Tờ Chiếu thư dẫn trên nói: “ban cho khanh
xứ Thuận châu” là có ý nói trả lại đất
Quảng Nguyên cho Lý triều].
Ông Hoàng Xuân Hãn đã dịch tờ Chiếu thư
trên như sau:
“Ngày 13 tháng 6,
vua Tống trả lời, cương-quyết gạt hẳn lời xin. Thư Tống như sau:
“Vả nay, biên-thần nói: “Thủ-lĩnh thuộc Khanh đã xâm-lấn biên thùy.
Tiên hoàng vốn sẵn lòng nhân, đã ban chiếu-dụ. Cho phép biện-chính,
chứng thực rõ-ràng. Đã đặc-biệt cắt đất
ải Khang (chắc là Thông-Khang), ân tứ cho Khanh. Tiếng ban đức như còn đó, nét mực chiếu vẫn còn
tươi!
Vậy Khanh nên nghĩ đến lượng bao-dung,
mà tuân theo bờ đã định. Cớ sao còn tâu nhắc lại,
vẫn giữ lầm xưa, mà lấy đất mới ban cho làm vật
cũ sẵn có? Không được kiêng-dè đến thế.
Thờ kẻ trên như vậy coi sao được!
Xét ý Khanh không lẽ như vậy; ngờ lời người mách thế là sai. Huống chi dân châu động
ấy là nhà vua đã từ lâu. Từ khi quan-quân đánh lấy
Quảng-nguyên đến lúc Trẫm trả Thuận-châu không hề có tranh-giành ruộng
đất ở đó.
Khanh phải hết lòng thành-thật, tuân
theo chiếu trước. Phải thêm cẩn-thận,
giữ-gìn cương-vực. Chớ đòi
sinh sự lôi-thôi.
Gắng làm cho đáng Trẫm thương, để được đời đời hưởng lộc (Chiếu ngày N. Ty, DL.
7-8-1086)”.
(Chương XII. KHÔI PHỤC ĐẤT MẤT. 8. –
PHÁI-ĐOÀN LÊ VĂN THỊNH. Tr. 359).
Xét đoạn dịch văn của ông Hoàng Xuân
Hãn thì thấy một số sai sót như sau:
1). “Ngày 13 tháng 6”.
Cuối đoạn trên ông Hoàng Xuân Hãn ghi
trong ngoặc đơn “(Chiếu ngày N. Ty)”.
Mấy chữ “N. Ty” là ngày Nhâm
Tý viết tắt.
2 đoạn trong nguyên tác tự thuật việc
Lý triều đòi các động Vật Dương và Vật Ác, cũng như Chiếu thư Tống triều trả
lời, đều được ghi chép trong Mục các
việc tháng 6.
Đã
dẫn ở trên, ngày Mồng 1 tháng 6 là ngày Tân Sửu, tính lần xuống, ngày Nhâm Tý
là ngày 12 tháng 6, không là ngày 13 tháng 6 như ông Hoàng Xuân Hãn ghi sai.
Trước câu này ông Hoàng Xuân Hãn đã
dịch thiếu một chữ quan trong, chữ “thân”.
Nguyên tác:
“thân ban chiếu dụ”.
Từ điển Từ Nguyên giảng chữ “thân”:
- “[Thân]. 2. Trùng phức, nhất tái”,
- “[Thân]. 2. Lập lại, nhiều lần, vài ba
bận”.
[Chữ “thân” này tức chữ “thân”
trong 12 Địa chi Tý, Sửu, Dần… Thân…”.].
3). “Cho phép biện-chính”.
Nguyên tác:
“tỉ tòng biện chính”.
Chữ “tỉ”
ở đây có nghĩa là “sai khiến”.
Trước câu này có nói vua Tống nhiều lần ra Chiếu thư lệnh cho Lý triều
sai người đến để bàn cãi về địa giới.
ông Hoàng Xuân Hãn dịch là “Cho
phép biện-chính” là dịch ẩu!
Lại thêm một chỗ dịch ẩu
nữa của ông Hoàng Xuân Hãn.
Ông Hoàng Xuân Hãn vốn không biết
rằng tiếng “Đức âm”
ở đây là danh xưng dùng để chỉ một loại “Chiếu thư” gia
ân (Ân chiếu) một việc gì đó. Do
tra cứu không ra tiếng này cho nên ông đã dịch từng chữ một sai lạc như trên.
2 thí dụ về loại Ân chiếu gọi là “Đức
âm” này:
- “Dĩ Xuân lệnh giảm giáng tù đồ Đức âm”.
Một tờ Đức âm của Đường Túc tông
(711 - 762; tại vị: 756 - 761) tuyên bố tháng Giêng năm thứ 2 Niên hiệu Thượng
Nguyên (760 - 761), ghi dưới tờ Chiếu.
- “Nguyên miễn tù đồ Đức âm”.
Dưới tờ Chiếu ghi:
Đức âm ngày 20 tháng 4 năm thứ 2 Niên hiệu
Kiến Nguyên (?).
Các hoàng đế Đường triều không có ông
vua nào có Niên hiệu tên Kiến Nguyên,
có lẽ nhà xuất bản in lầm Niên hiệu Thượng Nguyên kể trên thành Kiến Nguyên.
- Đường
Đại Chiếu Lệnh Tập. Qu. LXXXIV. Chính sự. Ân hựu 2.
Tống Mẫn Cầu (1019 - 1079) thời Bắc
Tống soạn.
- “Nguyên Phong tam niên……
Tam nguyệt Ất Sửu……
Mậu Tý. Đức âm giáng Lưỡng Kinh
điện nội, Hà Dương quản nội tử tội
tù, trượng dĩ hạ thích chi. Duyên sơn lăng ứng dân hộ, quyên các thuế hữu
sai”.
/ Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên. Qu. CCCIII. Thần tông /.
- “Năm thứ 3 Niên hiệu Nguyên Phong……
Tháng 3, mồng 1 ngày Ất Sửu……
Ngày Mậu Tý. Đức âm xuống các địa khu thuộc quản hạt Lưỡng Kinh,
quản hạt huyện Hà Dương kẻ tử tội thì (giảm xuống) giam tù, kẻ có tội từ tội bị
phạt đánh gậy trở xuống thì tha. Những gia đình theo lời kêu gọi của triều đình
tới làm ăn sinh sống tại các vùng ven núi thì giảm trừ thuế cho ở một mức độ
nào đó”.
[Phụ chú.
Ngày
Mậu Tý. Mồng 1 tháng 3 là ngày Ất Sửu, tính lần đi, ngày Mậu Tý là ngày 24 tháng 3.
Lưỡng
Kinh. Tức Đông Kinh thuộc quản hạt Phủ
Khai Phong / Tây Kinh thuộc Phủ Hà Nam.
Tây Kinh
ở phía Tây, hơi lệch xuống Nam, cách Đông Kinh 169.05 km,
tính theo Bản đồ tỷ lệ.
Tội
bị đánh gậy. Là 1 trong 5 hình phạt (Ngũ hình) thời cổ: Suy. Trượng. Đồ. Lưu. Tử.
Ngũ Hình đời Tống:
(1). Suy.
Đánh roi.
Có 5 bậc, từ 10 roi tới 50 roi, mỗi bậc
tăng 10 roi.
(2). Trượng.
Đánh gậy.
Có 5 bậc, từ 60 gậy tới 100 gậy, mỗi bậc
tăng 10 gậy.
(3). Đồ.
Giam một nơi và bắt làm lao dịch. Tức như tù khổ sai ngày nay.
Tội Đồ
cũng có 5 bậc: Giam 1 năm. 1 năm rưỡi. 2 năm. 2 năm rưỡi. 3 năm.
(4). Lưu.
Đày đi xa.
Có 3 bậc: Đày 2,000 dặm. 2,500 dặm.
3,000 dặm. 1 dặm thời Tống = 552.96 m (0.55296 km).
Bị đày xa nhất là 3,000 dặm =
3,000 x 0.55296 km = 1,658.88 km).
(5). Tử.
Giết chết.
Có 2 cách hành quyết: Treo cổ / Chém.
(Tham khảo:
- Tống
Hình Thống. Qu. I. Ngũ Hình.
Bắc
Tống. Đậu Nghi. Tô Hiểu.
Hề Dư. Trương Hi Hộ. Trần Quang Nghệ. Phùng Thúc Hướng.
- Lịch
Đại Hình Pháp Khảo. Hình Pháp Tổng Khảo 4. Tống.
Thanh.
Thẩm Gia Bản (1840 - 1913) biên soạn].
Nguyên tác:
“hà kỳ lũy tấu, thượng chấp tiền mê”.
Dịch nghĩa: “có đâu cứ tâu mãi
(đòi đất đai), vẫn chấp sự mê lầm trước đây”.
Câu “lũy tấu”
nghĩa là tâu nhiều lần, tâu mãi, tâu hoài, không phải là “tâu
nhắc lại”.
Chữ “Lũy”
đây có nghĩa “Chồng chất, nhiều lần”, như ta vẫn nói “Tích
lũy”.
6). “lấy đất mới ban cho làm vật cũ sẵn có? Không được kiêng-dè đến thế”.
Nguyên tác:
“nhưng chỉ tân
giới chi cương cánh vi kỉ vật chi cựu,
vô yếm chí thử……”.
Dịch: “cứ vẫn nghĩ rằng đường phân định cương vực mới vốn là đất cũ
của mình, (với) một sự đòi hỏi không
biết chán như thế……”.
Có thể thấy câu này nói tiếp theo câu
trên “vẫn chấp sự mê lầm trước đây” -
2 câu đều diễn cái ý “cố chấp” của vua Lý: “Vẫn chấp sự mê lầm”, “vẫn
nghĩ rằng”……
Tiếp đến, câu “vô
yếm
chí thử”
mà ông Hoàng Xuân Hãn dịch là “Không
được kiêng-dè đến thế” thì phải nói là ông không hiểu 1 câu
Hán văn rất căn bản, rất sơ đẳng đến thế!
Câu này, như đã dịch, là “một sự đòi hỏi không biết chán như thế”; và như đã rõ, đây là sự đòi lại đất
của Lý triều. “Vô yếm” nghĩa
là “không chán”. “Yếm thế”
là “chán đời”.
Nguyên tác:
“Lượng khanh ý chi khởi
nhiên, đãi nhân ngôn chi trí hoặc!”.
Dịch: “Ta độ rằng lẽ nào khanh
lại có ý như vậy, đại để (đây) là bởi lời kẻ khác làm cho khanh mê lầm!”.
Kế đến, câu “Huống
chi dân châu động ấy là nhà vua đã từ lâu”
là một câu dịch rất sai!
Nguyên tác:
“Huống tư Châu, Động
cửu vi vương dân”.
Dịch: “Huống chi dân tại các
Châu, Động này là dân của vương triều lâu rồi”.
Phân tích:
Trong Chiếu thư vua Tống là ngôi thứ
nhất (trẫm, ta), vua Lý là ngôi thứ hai (khanh).
Chữ “vương (dân)”
trong câu trên Hoàng Xuân Hãn dịch là “nhà vua”,
chỉ Vua Lý - tức
đại danh từ ngôi thứ 2 - sai, vì nếu chỉ vua Lý ở đây phải xưng là “khanh”!
Có thể thấy trong Chiếu thư trên, vua Tống không hề gọi vua Lý là “nhà
vua” (vương) cả!
Ai rồi cũng có thể thấy ngay chữ “vương”
này vua Tống chỉ “Vương triều Tống”,
bởi thế tiếng “vương dân”
ở đây phải dịch là “dân của vương triều (ta)” -
(ta), chỉ Tống. Vì rằng nếu Tống nói “dân châu động ấy là nhà vua
đã từ lâu” -
tức của Lý triều đã lâu, thì việc đòi
lại 2 động Vật Dương / Vật Ác là chính đáng, từ đó, Tống triều sẽ không
có lý do để mà không trả lại đất cho Lý triều. Phải là đất Tống triều nhận là của mình
thì chừng đó mới có lý do từ chối không trả lại! Câu này Hoàng Xuân Hãn sai quá sức tưởng tượng!
8). “… tuân theo chiếu trước”.
Trước câu này Hoàng Xuân Hãn dịch thiếu
chữ “chi”, nghĩa là “cung
kính”.
Nguyên tác:
“chi tuần tiên Chiếu”.
Nghĩa là: “cung kính tuân theo Chiếu thư trước đây”.
Sau hết, Hoàng Xuân Hãn nói về vị trí Kinh đô Bắc Tống, tức Thành Khai Phong, hay Biện Kinh, như sau:
“Từ lúc Lý lên ngôi, ta cố giữ lễ
phiên-thần để kết tình hòa-hảo. Hơn hết các triều-đại khác, đời Lý đã luôn luôn
sai phái-bộ đi cống. Không quản đường-sá khó khăn, nhiều lần ta đem cả đàn voi,
tê đến tận kinh-đô Tống, gần Khai-phong,
ở sát sông Hoàng-hà”.
(CHƯƠNG V. BANG-GIAO LÝ TỐNG. 3. -
TU-CỐNG. Tr. 126).
1). Địa lý Hành chánh.
Khi nói rằng Kinh đô của triều Bắc Tống
nằm “gần Khai-phong” thì có khác gì nói rằng Kinh đô
và Phủ Khai Phong là 2 địa khu khác
nhau!
Lẽ nào ông Hoàng Xuân Hãn không rõ là
về Hành chánh Biện Kinh
thuộc quản hạt của Phủ Khai Phong?
và Trị sở Phủ
nằm trong khuôn viên Cung Thành. (Coi sơ đồ ở sau).
2). Vị trí Địa lý.
Khi nói Kinh đô Tống “ở
sát sông Hoàng-hà” thì người nào có đọc Sử Trung Hoa
rồi sẽ nhận ra ngay ông Hoàng Xuân Hãn bất thông vị trí Địa lý!
Biện Kinh nằm trong địa phận tỉnh Hà Nam, ở phía
Nam Hoàng Hà:
~ Nếu từ Khai Phong đi lên hướng Bắc thì phải đi lối 69 cây số mới tới Hoàng hà - và lên phía Tây bắc thì khoảng cách này là 56 cây số. (Khoảng cách theo Bản đồ tỷ lệ).
Với
những khoảng cách giữa Khai Phong và Hoàng hà kể trên thì có thể nào nói
rằng Kinh Đô (Bắc Tống) “ở sát sông Hoàng-hà”
như ông Hoàng Xuân Hãn nói?
Tham khảo:
-
Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Đệ Lục
sách. Tống. Liêu. Kim thời kỳ.
~ Bản đồ 12 – 13: Bắc Tống / Kinh
Điện Lộ. Kinh Tây Nam Lộ. Kinh Tây Bắc Lộ.
Khai Phong từng là đất lập Đô của 7 triều đại:
Thời Chiến Quốc (403 - 221 tr. Cn) là
Kinh đô nước Ngụy (446 -224 tr. Cn); thời kỳ này gọi là Đại Lương.
Thời Ngũ Đại (907 - 960) các triều
Lương (907 - 923), Tấn (936 - 947),
Hán (947 - 950) và Chu (951 - 960)
đều lập Đô tại Khai Phong.
Sau hết, Bắc Tống (960 - 1127) và Kim
triều (1115 - 1234) đều định Đô tại Biện Kinh.
[Bản đồ V]. KHAI PHONG PHỦ. Vị trí Đông Kinh (Biện Kinh) và Hoàng hà.
Phủ KHAI PHONG / các vùng phụ cận. ¸ Dẫn từ: Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Đệ Lục sách. Tống. Liêu. Kim thời kỳ.
Thời kỳ Bắc Tống
(960 - 1127).
Thời điểm:
BẢN ĐỒ năm Chính Hòa (1111 - 1118) nguyên niên (năm 1111).
~ Bản đồ 12 – 13: Kinh Điện Lộ /
Kinh Tây Nam Lộ / Kinh Tây Bắc Lộ.
+ Chi tiết Bản đồ:
~ Bản đồ có tỷ lệ: 1 / 2,450,000 - mỗi 1 cm trên bản đồ tương đương
24.5 cây số.
-
Trên Bản đồ Gốc:
~ Từ Khai Phong lên phía Bắc tới Hoàng
hà đo được 2. 8 cm. 2.8 x 24.5 cs =
68.6 cs.
~ Từ Khai Phong lên Tây bắc tới Hoàng hà
đo được 2.3 cm. 2.3 x 24.5 cs =
56.35 cs.
~ Bản đồ ở đây được phóng lớn khoảng >
2.14 lần, 1 cm =
~ > 11.43
cs.
Mạnh Nguyên Lão (? - ?) đời Nam Tống viết trong tập “Đông Kinh Mộng Hoa Lục”:
-
“Đông Đô ngoại thành phương viên tứ thập dư lý. Thành hào
viết Hộ Long hà, khoát thập dư trượng; Hào chi nội,
ngoại giai thực dương liễu; phấn tường, chu hộ, cấm nhân vãng lai.
THÀNH MÔN giai úng
thành tam tằng khuất khúc khai môn.
Duy Nam Huân Môn, Tân Trịnh Môn, Tân
Tống Môn, Phong Khâu Môn, giai trực môn,
lưỡng trùng -
cái thử hệ tứ Chính Môn, giai lưu ngự lộ cố dã!”.
/ Đông
Kinh Mộng Hoa Lục. Qu. I. Đông Đô ngoại thành /.
-
“Ngoại Thành Đông Đô chu vi hơn 40 dặm. Hào thành được gọi là Hộ Long hà,
rộng hơn 10 Trượng; bờ bên đây, bờ bên kia Hào
thành ven bờ đều trồng dương liễu;
tường
Hào thành quét vôi trắng, nhà sơn màu
đỏ, cấm người qua lại nơi đây.
Trước (mỗi) CỬA THÀNH đều xây thành nhỏ
hình bán nguyệt có 3 tầng, cửa trổ ra ở những khúc quanh co. Chỉ có các
Cổng Nam Huân, Tân Trịnh, Tân Tống,
Phong Khâu (mỗi Cổng) gồm 2 lớp cửa,
và mở ra trên một đường thẳng - đây
là vì 4 Cổng này là 4 Cổng
Chính, Cổng nào cũng phải chừa đường của vua đi!”.
[Ghi chú. 1 Xích đời Tống =
0.3072 m. 10 Xích = 1 Trượng. Vậy 10 Trượng =
30.72 m].
Thành KHAI PHONG trải các Triều được tu bổ, mở rộng nhiều lần, lần cuối cùng trước thời Bắc Tống là vào triều (Hậu) Chu (951 - 960) thời Ngũ Đại (907 - 960).
Triệu Đức Lân (? - ?) thời Bắc Tống cho
biết:
-
“Tân Thành nãi Chu Thế tông Hiển
Đức nhị niên tứ nguyệt Chiếu
biệt trúc tân thành, chu hồi tứ thập bát lý nhị bách tam thập
tam bộ”.
/ Hầu Trinh Lục. Qu. III /.
-
“Tân Thành là phần thành mới xây thêm do Chiếu
lệnh tháng 4 năm thứ 2 Niên hiệu
Hiển Đức đời (Hậu) Chu Thế tông,
chu vi Thành là 48 dặm 233 bộ”.
[Ghi
chú. Chu Thế tông (921 - 959; tại vị: 954 - 959). Năm 2 Hiển Đức (954 -
959) là năm 955].
Dưới triều Tống Thần tông, từ năm thứ 8
Niên hiệu Hi Ninh (1068 - 1077) đến năm đầu Niên hiệu Nguyên Phong (1078 -
1085), tức từ năm 1075 tới năm 1078,
Đông Đô được mở rộng “chu vi thành dài 50 dặm 165 bộ”.
Sau lần tu bổ này Thành có dạng chữ
Nhật, Nam / Bắc dài, Đông / Tây hẹp.
1). Ngoại Thành.
Còn gọi Tân Thành, hoặc La Thành. Chu vi thành dài 50 dặm 165 bộ.
Vòng Ngoại Thành có tất cả 12 Cổng thành.
[1 dặm thời Tống =
552.96 m. Vậy 50 dặm =
50 x 0.55296 km = 27
km và 648 m.
1 Bộ =
5 xích. Xích thời Tống = 0.3072 m. Vậy 165 Bộ =
(165 x 5) x 0.3072 m = 253.44 m].
2). Nội Thành.
Còn gọi Cựu Thành, hay Khuyết Thành. Chu vi thành là 20 dặm 155 bộ.
Có tất cả 10 Cổng thành.
3). Hoàng Thành
(Cung Thành, hay Đại Nội). Chu vi 5 dặm;
mặt day về hướng Nam.
Mặt Nam có 3 Cổng thành, các mặt Đông,
Tây và Bắc mỗi mặt có 1 Cổng thành.
Trong khu Cung Thành ngoài các Cơ quan
Trung ương, các Phủ đệ của Hoàng tộc, và các Đại thần, còn rất nhiều hàng quán,
cửa tiệm buôn bán và nhà cửa của dân chúng.
Thành Khai Phong
có 4 con sông chảy xuyên qua Thành. 4 con sông này là Sinh mệnh
của Thành Khai Phong. Lương thực, hàng hóa, và nguyên liệu thô,…. từ các nơi đổ
về phần lớn đều nhờ vào mấy con sông này.
1). Ở khu Nam Thành là Thái hà, còn gọi Huệ Dân hà,
chảy ngang Ngoại Thành.
Sông này
là đường giao thông chủ yếu cũng như chuyển vận
giữa Thành Khai Phong và các châu Trần, Thái, Nhữ, Dĩnh.
Thái hà mỗi năm
vận chuyển 600,000 Thạch hàng hóa.
2). Mạn Bắc Thái hà là Biện hà,
chảy từ Tây qua Đông, xuyên qua giữa Thành -
ngang qua phần cực Nam Nội Thành.
Biện hà
là con sông quan trọng hơn hết trong 4 con sông chảy vào Khai Phong. Những tài
nguyên, hàng hóa từ các nơi đổ về Khai Phong đều từ sông này mà vào.
Biện hà mỗi năm
chuyển vận 6,000,000 Thạch
hàng hóa. Về sau mỗi năm Biện hà chở tới 7,000,000 Thạch gạo
từ các vùng Giang, Hoài tới Khai Phong.
[Thạch =
120 Cân. 1 Cân thời Tống = 596.82 g. Vậy 1 Thạch =
120 x 596.82 g = 71.6184 kg.
6,000,000 Thạch sẽ là: 6,000,000 x
71.6184 kg = 429,710,400 kg =
429,710 Tấn và 400 kg].
3). Mặt Đông bắc là Ngũ Trượng hà,
còn gọi Quảng Tế hà.
Sông này là đường vận chuyển ở mặt Đông
bắc Kinh Thành, lương thực, hàng hóa, và nguyên liệu, và vật liệu từ các miền
Tây nam tỉnh Hà Bắc, miền Tây bắc tỉnh Sơn Đông đều theo sông này mà vào Khai
Phong.
Ngũ Trượng hà mỗi năm vận chuyển 620,000 Thạch
lương thực.
4). Mặt Tây bắc là Kim Thủy hà, bắt nguồn từ huyện Oanh Dương tỉnh Hà
Nam, và do phía Tây bắc nhập Thành. Nước dùng trong Hoàng Cung lấy từ sông
này.
Sơ đồ Thành Khai Phong thời Bắc Tống. ¸ Dẫn từ: Trung Quốc Lịch Sử Danh Thành. Khai Phong).
+ 3 khu Ngoại Thành. Nội Thành và Hoàng
Thành của Thành Khai Phong.
+ Mặt Bắc, ở Ngoại Thành là Ngũ Trượng
hà.
+ Phía Nam Ngũ Trượng hà là Kim Thủy hà.
+ Chảy xuyên qua giữa Thành, ở khoảng
dưới Nội Thành, là Biện hà.
+ Phía Nam Biện hà là Thái hà.
+ Trên Sơ đồ, ở 1/4 góc trái dưới của
Đại Nội:
Ở trên cùng là Cơ quan Thượng Thư Tỉnh -
tiếp đó, đi xuống là Ngự Sử Đài - tiếp đó xuống nữa là Trị sở Phủ Khai Phong.
(II). Lịch sử.
Phần này duyệt lại một số đoạn Hoàng
Xuân Hãn trích dẫn, lược dịch từ Sư thư TQ.
Về việc Tướng Địch Thanh (1008 - 1057) của Tống triều dẫn binh xuống Lưỡng
Quảng đánh Nùng Trí Cao, ông Hoàng Xuân Hãn có đoạn viết:
“Tháng giêng năm Quí-tị (1053),
Địch-Thanh đến Tân-châu, hội chư tướng. Vì các tướng đều có ý khinh Thanh,
nên Thanh ra lệnh chém Trần-Thự. Ai nấy đều khiếp. Trước đó, Thanh cầm-quân ở vùng Diên-Phu
chống Hạ (vùng Thiểm-tây). Thanh đem nhiều quân kỵ ở vùng ấy theo xuống. Có kẻ bảo Trí-Cao phải chặn ải Côn-lôn, trong núi trên đường
Tân-Ung, đừng để Thanh xuống đồng bằng, vì ở đồng bằng dùng kỵ-binh rất
lợi.
Nhưng Địch-Thanh muốn hành-quân gấp, nên không đợi lương-thực tới, ra
lệnh biện tại chỗ lương thực ăn mười ngày. Trí-Cao tưởng là Thanh còn đóng quân lại
nghỉ, nên không nghe lời bày mưu, lại còn nhân ngày Thượng-nguyên
(rằm tháng giêng) trương đèn đại hội. Thanh cho quân tiến gấp qua ải Côn-lôn, thẳng
tới thành Ung. Đang đêm, Địch-Thanh mặc áo thường, lẩn vào tiền-quân mà vượt ải
(TB 174/2b).
Trí-Cao được tin báo, lật đật đem
quân chặn lại. Hai quân gặp nhau ở phố Qui-nhân. Ấy là ngày 17 tháng giêng (M.
Ng, DL 8-2-1053). Thanh cho bộ-binh
ra trước, dấu kỵ-binh ở sau. Còn Trí-Cao thì, trái lại, cho quân kiêu-dũng cầm trường-thương ra trước,
để quân hèn ốm ở sau. Lúc giáp trận, quân tiền-phong Tống thua. Nhưng
Thanh nghiêm hiệu-lệnh; các tướng-sĩ không dám lùi. Rồi
Thanh trèo lên cồn cao, cầm cờ ngũ sắc, ra hiệu
cho kỵ-binh hai cánh đổ ra, đánh vào sau quân kiêu-dũng của
Trí-Cao. Quân tả tiến sang hữu, quân hữu tiến sang tả. Rồi tả lại về tả, hữu lại về hữu
(TS, TB), cắt quân địch làm hai đoạn. Quân Trí-Cao tan vỡ, chết mất hơn ba nghìn.
Trí-Cao rút quân về thành. Đang đêm,
đốt thành bỏ chạy. Quân Thanh đuổi đến Điền-châu,
nhưng không kịp nữa (TTh)”.
(Chương đã dẫn. 3. – HỌ NÙNG VÀ CHÂU
QUẢNG-NGUYÊN. Tr. 106, 107).
Tên Sử
liệu và Tài liệu tham khảo được viết
tắt và để trong ngoặc đơn (……).
~ Cuối đoạn 1:
Ghi “(TB 174/2b)”. TB tức “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên”/ và 174 là Quyển thứ, 2b là số thứ tự trang.
~ Cuối đoạn 2:
Ghi “(TS, TB)”. TS là “Tống Sử” viết tắt.
~ Cuối đoạn 3:
Ghi “(TTh)”, TTh là “Tộc Thủy Ký Văn” của Tư Mã Quang viết tắt.
¸
Những cái sai của ông Hoàng Xuân Hãn trong đoạn dẫn trên.
Đối chiếu với bộ “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” và “Tống Sử”.
1). “các tướng đều có ý khinh Thanh,
nên Thanh ra lệnh chém Trần-Thự”.
Trong bộ “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” không có đoạn nào nói việc này
cả!
Câu này trong “Tộc Thủy Ký Văn” của Sử gia Tư Mã Quang (1019 - 1086).
Trong bộ “Trường Biên” cũng không có chỗ nào chép câu này!
Việc này chép trong tập “Tộc Thủy Ký Văn” của Tư Mã Quang:
-
“Hoặc thuyết Nùng Trí Cao viết:
~ Kỵ binh lợi bình địa, nghi khiển binh
thủ Côn Luân quan, vật sử độ hiểm, sĩ kỳ binh bì thực tận, kích chi vô bất
thắng dã!
Trí Cao sậu thắng, khinh quan quân, bất dụng kỳ ngôn”.
/ Tộc
Thủy Ký Văn. Qu. XIII. Địch Thanh đại bại Nùng Trí Cao /.
-
“Có kẻ nói với Nùng Trí Cao:
~ Kỵ binh có lợi ở địa thế bằng phẳng,
nên sai quân binh giữ ải Côn Luân, đừng để cho quân binh của chúng vượt chỗ hiểm, chờ quân của chúng mệt mỏi,
lương thực cạn, ta đánh thì không trận nào mà không thắng!
Nùng Trí Cao thắng trận nhiều lần cho
nên coi thường quan quân triều đình,
không làm theo lời nói này!
-
“Địch Thanh ký tru Trần Thự, nãi án
binh bất động, cánh lệnh điệu thập nhật lương, chúng mạc trắc. Tặc triêm
giả hoàn, dĩ vi quân vị tức tiến dã!”.
-
“Giết Trần Thự xong, Địch Thanh án binh bất động, rồi ra lệnh cho trưng thu 10
ngày lương thảo, quân tướng không ai đoán được lý do. Những kẻ (giặc sai) đi dò xét trở về báo cáo cho rằng quân
(ta) chưa tiến ngay!”.
Tư Mã Quang chép:
-
“Ngũ niên. Chinh nguyệt, Thanh chí Tân châu……
Thời quí vận vị chí, Thanh sơ lệnh bị ngũ nhật lương, ký hựu bị
thật nhật lương.
Trí Cao văn chi, do thị giải đọa bất vi
bị, Thượng nguyên trương đăng cao hội”.
/
Tộc Thủy Ký Văn. Qu. XIII.
Địch Thanh đại bại Nùng Trí Cao /.
-
“Năm thứ 5. Tháng Giêng, Địch Thanh tới Tân châu……
Lúc đó lương thảo chưa chuyển vận tới, lúc đầu thì Địch Thanh ra lệnh
chuẩn bị 5 ngày lương thảo, sau đó lại ra lệnh chuẩn bị 10 ngày lương thảo.
Nùng Trí Cao nghe tin này nhưng vẫn cứ
bê trễ không phòng bị, ngày rằm tháng Giêng vẫn cứ tưng bừng treo đèn tổ chức
Lễ hội”.
Ở cuối đoạn 2, chỉ câu “Rồi tả lại
về tả, hữu lại về hữu.” là chép trong “Tống Sử”.
Cái sai của Hoàng Xuân Hãn ở đây là nêu Sử
liệu không chính xác - nói rõ hơn là ông đã lấy “râu
ông này cắm cằm bà” kia!
Về việc Địch Thanh phất cờ, “Trường Biên” chép như sau:
-
“Thanh khởi, tự chấp bạch kỳ, huy phiên lạc kỵ binh”.
-
“(Địch) Thanh tiến lên, tự cầm cờ trắng, phất cờ cho kỵ binh của các bộ lạc”.
Con số này
của “Tộc Thủy Ký Văn”, “Trường Biên”, và “Tống Sử” đều ghi khác!
Bộ “Trường
Biên” chép:
-
“Vương sư truy bôn ngũ thập lý, bô trảm nhị thiên nhị bách cấp”.
-
“Quân triều đình đuổi theo 50 dặm, bắt chém 2,200 thủ cấp”.
Còn
“Tống Sử” thì chép:
-
“...... đại bại tẩu. Hội nhật mộ Trí Cao phục xu Ung châu, dạ phần thành, độn
do Hợp giang khẩu nhập Đại Lý quốc.
Đắc thi ngũ thiên tam bách tứ thập nhất!”.
/
Tống Sử. Qu. CDXCV. Man di 3.
Quảng Nguyên châu /.
-
“...... thua lớn, tháo chạy. Gặp lúc chiều tối Trí Cao lại chạy về Ung châu, và
đến đêm đốt thành chạy trốn, từ cửa sông Hợp giang chạy vào nước Đại Lý. (Quân
ta) thu được 5,341 xác (giặc)!”.
Tư Mã Quang chép:
-
“Ngũ niên. Chinh nguyệt, Thanh chí Tân châu, Dư Tĩnh, Trần Thự giai lại nghinh
yết.
Thời quí vận vị chí, Thanh sơ lệnh bị ngũ nhật lương, ký hựu bị
thập nhật lương.
Trí Cao văn chi, do thị giải đọa bất vi
bị, Thượng nguyên trương đăng cao hội.
Tiên thị, chư tướng thị kỳ Súy như liêu thẩm, vô sở nghiêm đạn, mỗi nghị sự các chấp sở kiến, huyên
tranh bất dụng kỳ mệnh.
Kỷ Dậu. Địch Thanh tất tập tướng tá ư mạc phủ, lập Trần Thự ư đình hạ số kì bại quân
chi tội, tính quân hiệu sổ thập nhân giai trảm chi. Chư tướng cổ lật mạc cảm nghinh
thị.
Dư Tĩnh khởi bái viết:
~ Thự chi thất luật dịch Tĩnh tiết chế
chi tội! ~
Thanh viết:
~ Xá nhân văn thần, quân lữ chi trách,
phi sở nhiệm dã! ~
Ư thị lặc binh nhi tiến, bộ, kỵ
nhị vạn nhân.
Hoặc thuyết Nùng Trí Cao viết:
~ Kỵ binh lợi bình địa, nghi khiển binh
thủ Côn Luân quan, vật sử độ hiểm, sĩ kỳ binh bì thực tận, kích chi vô
bất thắng dã! ~
Trí Cao sậu thắng, khinh quan quân, bất dụng kỳ ngôn.
Thanh bội đạo kiêm hành,
xuất Côn Luân quan, trực xu kỳ thành.
Trí Cao văn chi, lang bối phát
binh xuất chiến.
Mậu Ngọ. Tương ngộ ư Qui Nhân Phố.
Thanh sử bộ tốt cư tiền, nặc kỵ binh ư hậu. Man sử kiêu dũng giả chấp trường thương
cư tiền, luy nhược tất tại kỳ hậu.
Kỳ tiền phong Tôn Tiết chiến bất lợi nhi
tử! Tướng tốt úy Thanh lệnh nghiêm,
lực chiến mạc cảm thoái dã! Thanh đăng cao khâu, chấp ngũ sắc kỳ, huy kỵ binh
vi tả, hữu dực, xuất trường thương chi hậu, ĐOẠN Man quân vi TAM, tuyền nhi kích chi, thương lập như thúc, MAN quân đại bại, sát, hoạch tam
thiên dư nhân, hoạch kỳ Thị lang Hoàng Sư Mật đẳng.
Trí Cao tẩu hoàn thành, quan quân truy
chi, doanh kỳ thành hạ.
Dạ doanh trung kinh hô, Man văn chi dĩ
vi quan quân thả tiến công, khí thành tẩu.
Minh nhật, Thanh nhập thành, khiển tỳ
tướng Vu Chấn truy chi, quá Điền châu bất cập nhi
hoàn. Trí Cao bôn Đại Lý”.
/
Tộc Thủy Ký Văn. Qu. XIII.
Địch Thanh đại bại Nùng Trí Cao /.
Lúc đó lương thảo chưa chuyển vận tới, lúc đầu thì Địch Thanh ra lệnh
chuẩn bị 5 ngày lương thảo, sau đó lại ra lệnh chuẩn bị 10 ngày lương thảo.
Nùng Trí Cao nghe tin này nhưng vẫn cứ
bê trễ không phòng bị, ngày rằm tháng Giêng vẫn cứ tưng bừng treo đèn tổ chức
Lễ hội Hoa đăng.
Lúc đầu, các tướng coi chức Chủ soái
của Địch Thanh như các chức quan khác, do đó không có vẻ nghiêm trang kiêng sợ,
mỗi lần bàn công việc thì người nào cũng giữ lấy ý kiến của mình, ồn ào tranh
cãi, không nghe lệnh Địch Thanh.
Ngày Kỷ Dậu. Địch Thanh họp hết các tướng tá trong trướng quân, để Trần Thự đứng ở mé dưới
chỗ họp, kể tội Trần Thự làm quân thất trận, cùng với quan quân thuộc cấp mấy chục người, đem chém hết! Các
tướng run sợ không dám nhìn lên!
Dư Tĩnh đứng dậy, vái nói:
~ Trần Thự phạm luật cũng là cái tội
của tôi không biết quản thúc! ~
Địch Thanh nói:
~ Chức Xá nhân là quan văn, việc khiển
trách bên Quân đội không thuộc nhiệm
vụ của chức này! ~
Tiếp đó thống suất quân binh lên đường,
bộ binh, kỵ binh tất cả 20,000 quân.
Có kẻ nói với Nùng Trí Cao:
~ Kỵ binh có lợi ở địa thế bằng phẳng,
nên sai quân binh giữ ải Côn Luân, đừng để cho quân binh của chúng vượt chỗ hiểm, chờ quân của chúng mệt mỏi,
lương thực cạn, ta đánh thì không trận nào mà không thắng! ~
Nùng Trí Cao thắng trận nhiều lần cho
nên coi thường quan quân triều đình, không
làm theo lời nói này!
Địch Thanh [thúc quân] đi một
ngày bằng đi hai ngày,
vượt qua ải Côn Luân, tiến thẳng tới thành của Nùng Trí Cao.
Nùng Trí Cao được tin, bè đảng
kéo nhau đưa quân ra khỏi thành giao chiến.
Ngày Mậu Ngọ. Quân 2 bên gặp nhau ở Phố Qui Nhân.
Địch Thanh cho Bộ binh ở mặt trước, đặt kỵ binh
ẩn phục ở mặt sau. Bên Man thì cho
quân uy dũng sử dụng trường thương ở mặt trước, quân ốm yếu thì để hết ở mé
sau!
Chỉ huy đạo quân tiên phong của Địch
Thanh là Tôn Tiết giao chiến yếu thế mà tử trận! Binh, tướng sợ lệnh nghiêm khắc của Địch Thanh, tận
lực chiến đấu, không người nào dám tháo lui! Địch Thanh lên gò cao cầm cờ ngũ
sắc, phất cờ chỉ huy kỵ binh phân làm 2 cánh tả, hữu, tấn công vào mặt sau cánh quân sử dụng trường thương, tách đạo quân Man ra 3 đoạn, chạy vòng quanh
mà tấn công, dáo dựng lên như bó, quân Man
thua to, (quân Địch Thanh) giết, và bắt được hơn 3,000 người, bắt được đám Thị lang Hoàng Sư Mật của giặc.
Nùng Trí Cao chạy trở về thành, quan
quân đuổi theo, lập doanh trại dưới (chân) thành của Trí Cao.
Đến đêm, trong Trại vang lên những
tiếng kêu kinh hoảng, quân Man nghe thì tưởng là quan quân lại tấn công nữa, bỏ
thành mà chạy.
Ngày hôm sau, Địch Thanh nhập Thành,
sai tỳ tướng Vu Chấn truy đuổi giặc, vượt quá địa phận Điền châu, đuổi không
kịp nên trở về. Trí Cao chạy vào nước Đại Lý”.
[Phụ chú.
Năm thứ 5. Tức là năm thứ 5 Niên hiệu
Hoàng Hựu (1034 - 1038), một Niên hiệu của hoàng đế Tống Nhân tông (1010 -
1063; tại vị: 1022 - 1063).
Ngày Kỷ Dậu là ngày mồng 8, ngày Mậu Ngọ
là ngày 17 Giêng, năm Quí Tỵ (năm 1038).
Dáo dựng lên như bó.
Ý nói quân của Nùng Trí Cao chỉ thủ chứ không công được!
Đuổi quá Điền châu. Từ thành Ung châu
tới Điền châu là 159.6 km, tính theo Bản đồ tỷ lệ.
Đại Lý. Tức tỉnh Vân Nam].
Phân tích một số điểm như sau:
1). “các tướng đều có ý khinh Thanh,
nên Thanh ra lệnh chém Trần-Thự”.
Nguyên tác
trong “Tộc Thủy Ký Văn”:
-
“Tiên thị chư tướng thị
kì súy như liêu thẩm, vô sở nghiêm đạn, mỗi nghị sự
các chấp sở kiến, huyên tranh bất dụng kỳ mệnh”.
-
“Lúc đầu, các tướng coi chức Chủ soái
của Địch Thanh như các chức quan khác, do đó không có vẻ nghiêm trang kiêng sợ, mỗi lần bàn
công việc người nào cũng
giữ lấy ý kiến của mình, ồn ào tranh cãi, không nghe lệnh
Địch Thanh”.
Các quan không coi thường cá nhân Địch
Thanh, mà chỉ nghĩ chức vụ của Địch
Thanh chẳng qua cũng như bao chức quan trong triều mà thôi!
2). “Thanh cho quân tiến gấp qua ải Côn-lôn”.
Nguyên tác:
-
“Thanh bội đạo kiêm hành,
xuất Côn Luân quan, trực xu kỳ thành”.
-
“Địch Thanh thúc quân đi một ngày bằng
đi 2 ngày, vượt qua Ải Côn Luân, tiến thẳng tới thành của Nùng
Trí Cao”.
-
“Thị cố quyển giáp nhi xu, nhật dạ bất
xử, bội đạo kiêm hành,
bách lí nhi tranh lợi, tắc cầm tam tướng quân”.
/ Tôn Tử.
Quân tranh /.
-
“Cho nên cuốn giáp mà đi, ngày đêm
không nghỉ, đi 1 ngày bằng 2
ngày, đi trăm dặm mà giành cái
lợi, như vậy thì quân tướng rồi sẽ bị đối phương bắt”.
1/. Không rõ xuất xứ
của câu này.
2/. Không diễn tả chính xác
được tính chất của cái gấp
ở đây như thế nào.
Nguyên tác:
“Trí Cao văn chi, lang bối phát binh xuất chiến”.
Dịch: “Nùng Trí Cao được tin, bè
đảng kéo nhau đưa quân ra khỏi thành giao chiến”.
Tiếng “lang bối” chỉ:
1/. Tình cảnh khó khăn, khốn quẫn.
2/. Cấu kết với nhau làm bậy, Trung Hoa
có thành ngữ “lang bối vi gian”.
Tư Mã Quang vì coi bọn Nùng Trí Cao như một đám gian ác cấu kết với nhau làm giặc
cho nên ở đây Sử gia dùng 2 tiếng “lang bối”,
tức dùng tiếng này ở nghĩa thứ 2/.
Quân Địch Thanh kéo tới thành tấn công, Nùng Trí Cao đưa quân ra giao chiến. Khi đã tới thành thì quân dừng lại, không tiến nữa, cho nên ông Hoàng Xuân Hãn dịch là “đem quân chặn lại” thì không chính xác chút nào!
4). “cắt quân địch
làm hai đoạn.
Quân Trí-Cao tan vỡ, chết mất hơn ba nghìn”.
Nguyên tác:
-
“…..… Đoạn Man quân vi tam, tuyền nhi kích chi, thương lập như thúc, Man quân đại bại, sát, hoạch tam thiên dư nhân, hoạch kỳ Thị lang Hoàng Sư Mật
đẳng”.
-
“…..… Tách cánh quân Man ra thành 3 đoạn,
chạy vòng quanh mà tấn công, dáo dựng lên như bó, quân Man thua nặng, (quân của Địch Thanh) giết,
và bắt được hơn 3,000 người, bắt
được đám Thị lang Hoàng Sư Mật của giặc”.
Giết, và bắt được hơn 3,000 người, không chỉ giết không
mà thôi!
“Dáo dựng lên như bó”,
nguyên tác là “thương
lập như thúc”.
Chữ “thúc”
là “bó lại, cột lại”,
hàm ý những cây dáo dài (trường thương)
của cánh quân sử dụng trường thương
của Nùng Trí Cao như bị bó lại, cột lại
thành bó, nói khác đi là quân Nùng Trí Cao chỉ giữ thế thủ, không tấn công
lại được!
5). “Trí-Cao rút quân về thành. Đang đêm, đốt thành bỏ chạy. Quân Thanh đuổi đến Điền-châu, nhưng không kịp nữa”.
Nguyên tác:
-
“Trí Cao tẩu hoàn thành, quan quân truy chi, doanh kỳ
thành hạ.
Dạ doanh trung kinh hô, Man văn
chi dĩ vi quan quân thả tiến công, khí thành tẩu.
Minh nhật,
Thanh nhập thành, khiển
tỳ tướng Vu Chấn truy
chi, quá Điền châu, bất cập nhi hoàn. Trí Cao bôn Đại
Lý”.
-
“Nùng Trí Cao chạy trở về thành, quan quân đuổi theo, lập doanh trại
dưới thành của Trí Cao.
Đến đêm,
trong Trại vang lên những tiếng kêu kinh hoảng, quân Man nghe thì tưởng là quan quân lại
tấn công nữa, bỏ thành mà chạy.
Ngày hôm sau,
Địch Thanh nhập Thành, sai tỳ tướng Vu Chấn truy
đuổi giặc, vượt qua khỏi địa
phận Điền châu, đuổi không kịp
nên trở về. Trí Cao chạy vào nước Đại Lý”.
Câu “Đang đêm, đốt thành bỏ chạy”
của ông Hoàng Xuân Hãn trên đây là 1 câu dẫn từ bộ “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên”. (Coi tiếp sau phần này).
Sau đây là ghi chép của “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” về cuộc
chiến trên:
-
“Hoàng Hựu ngũ niên.
Xuân. Chinh nguyệt Nhâm Dần sóc……
Đinh Vị.
Chiếu Quảng Nam Tây lộ Chuyển vận ty di
văn chỉ Giao Chỉ trợ binh, tòng Địch Thanh chi thỉnh dã.
Địch Thanh hợp Tôn Miến, Dư Tĩnh lưỡng
tướng chi binh, tự Quế châu thứ Tân châu.
Thanh dĩ Trương Trung, Tưởng Giai giai
khinh địch thủ tử, quân thanh đại
tử, tiền giới chư tướng vô đắc vọng dữ tặc đấu, thính ngô sở vi.
Trần Thự khủng Địch Thanh hữu công, thừa
Thanh vị chí, dĩ bộ tốt bát thiên phạm tặc hội ư Côn Luân quan, kỳ hạ Điện trực
Viên Dụng đẳng giai độn.
Thanh viết:
~ Lệnh chi bất tề, binh sở dĩ bại!
Kỷ Dậu. Thần, hội chư Tướng đường thượng, tập
Thự khởi, tính triệu Dụng đẳng tam thập nhị nhân, án sở dĩ bại vong trạng, khu
xuất quân môn trảm chi……
Địch Thanh kí tru Trần Thự nãi án binh
bất động cánh lệnh điệu thập nhật
lương, chúng mạc trắc. Tặc triêm giả hoàn, dĩ vi quân vị tức tiến dã!
Dực nhật toại tiến quân, Thanh tướng Tiền quân, Tôn Miễn tướng
Thứ trận, Dư Tĩnh tướng Hậu trận.
Tịch thứ Côn Luân quan.
Lê minh chỉnh đại tướng kỳ cổ, chư tướng hoàn lập trướng tiền, đãi lệnh nãi phát.
Nhi Thanh nãi vi phục dữ tiên phong độ quan, xu chư tướng hội
thực quan ngoại, tức Qui Nhân Phố vi trận.
Mậu Ngọ. Tặc xuất kỳ chúng, liệt tam nhuệ trận dĩ cự quan quân, chấp đại thuẫn, tiêu thương, ý
giáng y, vọng chi như hỏa.
Cập chiến, tiền quân sảo khước, Hữu tướng Khai Phong Tôn Tiết tử chi! Tặc khí nhuệ thậm,
Miễn đẳng câu thất sắc.
Thanh khởi, tự chấp bạch kỳ, huy phiên lạc kỵ binh, trương tả hữu dực,
xuất tặc hậu giao kích, tả giả hữu, hữu
giả tả, dĩ nhi hữu giả phục tả, tả giả phục hữu, tặc chúng bất tri sở vi, đại
bại tẩu! Trí Cao phục xu Ung châu, vương sư truy bôn ngũ thập lý,
bô trảm nhị thiên nhị bách cấp. Kỳ đảng, Hoàng Sư
Mật, Nùng Kiến Trung, Trí Trung, tính
ngụy quan thuộc tử giả ngũ
thập thất nhân, sinh cầm tặc ngũ bách dư nhân. Trí
Cao dạ túng hỏa thiêu thành độn, do Hợp giang nhập
Đại Lý quốc”.
/ Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên. Qu. CLXXIV. Nhân tông kỷ /.
-
“Năm thứ 5 Niên hiệu Hoàng Hựu.
Mùa Xuân. Mồng 1 ngày Nhâm Dần……
Ngày Đinh Vị.
Ra chiếu thư cho Chuyển vận Ty Lộ Quảng
Tây gởi Văn thư ngăn Giao Chỉ đem quân trợ lực, đây là theo
thỉnh cầu của Địch Thanh.
Địch Thanh nhập quân của 2 tướng Tôn
Miến và Dư Tĩnh lại, từ Quế châu
chuyển đến trú quân ở Tân châu.
Địch Thanh thấy Trương Trung, Tưởng Giai vì
đều coi thường địch mà chết, khiến cho thanh
thế đại quân xuống nhiều nên răn đe các tướng trước là không được vọng động
giao chiến với giặc mà phải nghe lời mình.
Trần Thự sợ Địch Thanh lập được công
nên thừa lúc Địch Thanh chưa tới chỉ huy đem 8,000 quân giao chiến với giặc ở Ải Côn Luân, những thuộc tướng như chức
Điện trực Viên Dụng đều bỏ trốn hết!
Địch Thanh nói:
~ “(Quân) lệnh không nghiêm chỉnh vì
vậy mà quân thua trận!”.
Ngày Kỷ Dậu. Sáng sớm, tập hợp các Tướng ở thính đường, gọi Trần Thự đến trước và gọi đám Viên Dụng 32 người tới, chiếu theo cáo
trạng nêu ra lý do thất trận, đem ra ngoài Quân môn chém đầu hết!......
Giết Trần Thự xong Địch Thanh án binh
bất động rồi ra lệnh cho trưng thâu
mười ngày lương thảo, quân tướng không ai đoán được lý do. Những kẻ giặc (sai) đi dò xét trở về báo cáo cho rằng quân
(ta) chưa tiến ngay!
Ngày hôm sau thì cho tiến quân, Địch Thanh là tướng chỉ huy Tiền quân, Tôn Miến là tướng chỉ huy
Trung quân, Dư Tĩnh là tướng chỉ
huy Hậu quân. Chiều thì đồn quân ở Ải
Côn Luân.
Lúc
trời mờ sáng thì chỉnh đốn cờ xí, trống trận của đại tướng quân, các tướng đứng bao quanh trước trướng quân chờ lệnh
xuất quân. Và Địch Thanh thì phục sức như (1) quân binh thường, cùng với đạo quân
tiên phong ra khỏi Ải, dẫn các tướng gặp nhau ăn uống ở phía ngoài Ải, rồi
tới ngay Phố Qui Nhân dàn trận.
Ngày Mậu Ngọ. Giặc dẫn quân tới dàn 3 đạo binh tinh nhuệ chống lại quan
quân, tay cầm khiên lớn, tay cầm trường thương, người mặc áo đỏ, nhìn
chói như lửa.
Lúc giao chiến, tiền quân bị đẩy lui một chút, tướng Tôn Tiết ở
cánh quân bên phải, ở Khai Phong, tử trận! Khí thế của giặc rất mạnh, đám Tôn
Miến đều thất sắc.
Địch Thanh tiến lên, tự cầm cờ trắng phất cờ lệnh cho kỵ binh của các bộ lạc chia ra 2 cánh phải, cánh trái, xông ra giao chiến với
đạo quân ở mặt sau của giặc, cánh quân trái chuyển qua mé phải, cánh quân phải
chuyển qua mé trái, và sau đó cánh quân bên
phải lại chuyển qua mé trái, cánh quân bên trái lại chuyển qua mé phải,
giặc không biết phải làm sao, do đó thua lớn, bỏ chạy! Trí Cao trở về lại Ung
châu, quân triều đình truy đuổi theo 50 dặm, bắt chém được
2,220 thủ cấp. Đồng đảng của Nùng Trí
Cao là đám Hoàng Sư Mật, Nùng Kiến Trung, Nùng Trí Trung, kể cả đám ngụy
quan, chết tất cả là 57 người, số
giặc ta bắt sống được hơn 500 người! Đến đêm Nùng Trí Cao phóng hỏa đốt thành chạy trốn,
do sông Hợp giang chạy vào nước Đại Lý!”.
[Phụ chú.
Hoàng Hựu (1034 - 1038). Niên hiệu của
Tống Nhân tông (1010 - 1063; tại vị: 1022 - 1063).
Năm thứ 5
Niên hiệu Hoàng Hựu là năm cuối của Niên hiệu này, năm 1038.
Ngày Đinh Vị. Mồng 1 là ngày
Nhâm Dần, tính tới, ngày Đinh Vị là ngày mồng 6 tháng Giêng.
Ngày Kỷ Dậu là ngày mồng 8 tháng Giêng,
Ngày Mậu Ngọ là ngày 17 tháng Giêng].
-
“Hoàng Hựu tứ niên……
Thập nhị nguyệt, Nhâm Thân sóc.
Trí Cao dữ Thự chiến ư Kim Thành Dịch, Thự bại, độn qui, tử giả nhị
thiên dư nhân, khí duyên khí giới, tri trọng, thậm chúng.
Giao Chỉ vương Đức Chính thỉnh xuất binh
nhị vạn trợ thu Trí Cao, Địch Thanh tấu:
~ Quan quân tự túc biện tặc, vô dụng
Giao Chỉ binh! ~
Đinh Vị, chiếu Giao Chỉ vô xuất binh!
Thanh hựu thỉnh Tây biên phiên lạc quảng
nhuệ cận nhị thiên kỵ dữ câu”.
/ Tộc Thủy Kỷ Văn. Qu. XIII. Địch Thanh
đại bại Nùng Trí Cao /.
-
“Năm thứ 4 Niên hiệu Hoàng Hựu……
Tháng Chạp, mồng 1 ngày Nhâm Thân……
Trí Cao và (Trần) Thự
giao chiến ở Trạm Kim Thành, Thự bại trận chạy trốn về, quân chết hơn
2,000 người, khí giới, quân trang quân dụng bỏ lại rất nhiều.
Vua Giao Chỉ Đức Chính xin xuất 20,000
quân giúp đánh bắt Trí Cao, Địch Thanh tâu:
~ Tự quan quân đủ đối phó với giặc,
không cần tới quân của Giao Chỉ! ~
Ngày Đinh Vị, ra chiếu chỉ nói Giao Chỉ đừng xuất
quân!
Địch Thanh lại xin gần 2,000 kỵ binh
tinh nhuệ của các bộ tộc ở vùng biên địa phía Tây cùng đi theo mình”.
[Ghi chú. Ngày Đinh Vị đây tức ngày 6 tháng Giêng năm sau, năm Hoàng Hựu thứ 5.
Các địa danh Côn Luân Quan, Qui
Nhân Phố, Kim Thành Dịch ghi chép trong trận chiến giữa quân Tống
triều và Nùng Trí Cao, coi Bản đồ VI
ở sau].
Thời kỳ Bắc Tống
(960 - 1127).
Thời điểm:
BẢN ĐỒ năm Chính Hòa (1111 - 1118) nguyên niên (năm 1111).
~ Bản đồ 34 – 35. Quảng Nam Đông Lộ
/ Quảng Nam Tây Lộ.
+ Chi tiết Bản đồ:
~ Bản đồ có tỷ lệ: 1 / 4,200,000, mỗi 1 cm trên Bản đồ tương ứng 42 cây số.
~ Bản đồ phóng lớn gấp 4 lần, mỗi cm trên Bản đồ tương ứng 10.5
cây số.
~ Qui Nhân Phố, Kim Thành Dịch,
Côn Luân Quan đều ở phía Đông bắc Ung
châu.
UNG CHÂU – Phố Qui Nhân: khoảng cách 12.6
cây số. (1.2 cm x 10.5 cs).
UNG CHÂU – Trạm Kim Thành: khoảng cách 27.3
cây số. (2.6 cm x 10.5 cs).
UNG CHÂU – Ải Côn Luân: khoảng cách 50.4
cây số. (4.8 cm x 10.5 cs).
Đầu năm 1076,
Trương Thủ Tiết được lệnh đem quân tiếp viện Thành Ung châu, vì sợ nên chuyển quân từ Hỏa Giáp Lãnh đến giữ Ải Côn Luân chờ coi tình thế,
giữa đường bị quân Lý triều phục kích, bắt sống toàn quân, Trương Thủ Tiết bị giết chết; đó là ngày mồng 4
tháng Giêng. (Tục Tư Trị Thông Giám Trường
Biên. Qu. CCLXXII).
Bộ “Tộc Thủy Ký Văn” và Bộ “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” chỉ tự thuật đến việc Nùng Trí Cao thua chạy qua nước Đại Lý trốn, không nói sau đó ra sao.
Tô Triệt (1039 - 1112) chép về việc này
như sau:
-
“Nùng Trí Cao tự Ung Châu bại, bôn NAM CHIẾU, Tây nam di văn chi, thanh
ngôn Trí Cao tương tá binh Nam Chiếu dĩ nhập Thục.
Thời tri Thành Đô Trình Kham thích bãi
khứ, Chuyển Vận Sứ Cao Lương Phu quyền tri Thành Đô đắc báo đại khủng, di hịch
Thục quận, khuyến dân thiên nhập thành quách -
thả lệnh trục huyện thiêm cung cung thủ.
Thục nhân cửu bất kiến binh cách, cụ
thậm, hung hung đãi loạn!
Văn Lộ Công vi Trường An súy, tri Lưỡng Thục vô vũ bị, tức xa tái Quan Trung khí giáp nhập Thục, Thục
nhân ích cụ. Triều đình khiển Trương An
Đạo xuất Súy Thành Đô, ư đạo trung kiến sở
vận Quan Trung khí giáp, tức lệnh sở
chí nạp hạ, nhưng bãi sở thiêm
cung thủ. Thục nhân văn chi giai an, qui điền mẫu.
Công từ vấn Trí Cao nhập Thục chi báo
bản Nhã châu nha lang hiệu Nhiệm phán quan giả sở vi, toại hô chí Thành Đô, cật kỳ cảm hư thanh động dao Lưỡng Thục tình trạng, tương trảm chi dĩ tuấn.
Nhiệm chấn khủng phục tội, khất dĩ cử gia sổ thập khẩu hệ Nhã Châu ngục, thân tự nhập Phiên cung vấn Trí Cao nghệ thực, thông nguyệt
bất chí, thỉnh cử gia vi lục! Công cửu chi nãi hứa. Nhiệm như kì chí, đắc Tiểu Vân Nam thư ngôn Trí Cao chí Nam
Chiếu phục mưu vi loạn, vị Nam Chiếu sở sát. Công nãi thích
Nhiệm nhi tấu kỳ sự!”.
/ Long
Xuyên Biệt Chí. Qu. Hạ /.
-
“Nùng Trí Cao sau khi thất trận ở Ung Châu, chạy trốn qua NAM CHIẾU, dân Man vùng Tây nam
nghe tin thì đồn rằng Trí Cao sắp mượn quân của Nam Chiếu vào Thục.
Bấy giờ quan trấn thủ Thành Đô là Trình
Kham vừa bị bãi nhiệm, chức Chuyển
vận Sứ Cao Lương Phu là xử lí trấn thủ
Thành Đô, được tin báo thì rất kinh
hãi, ra bố cáo khắp Thục quận, khuyên
dân Thục dời vào trong thành mà ở -
lại lệnh cho tất cả các huyện tăng thêm các tay cung thủ.
Dân Thục từ lâu không có chiến tranh,
hết sức sợ hãi, nhốn nháo, loạn cả lên!
Văn Lộ Công trấn nhậm Trường An, biết vùng Lưỡng Thục không có đủ vũ khí
cho nên lập tức cho xe chở giáp trụ của vùng Quan Trung tới đất Thục, dân đất
Thục (thấy vậy) càng thêm sợ hãi.
Triều đình sai Trương An Đạo về trấn
nhậm Thành Đô, trên đường đến nhiệm
sở, thấy những xe vũ khí của Quan Trung
chở vào Thục thì liền lệnh cho lúc tới nơi tất cả phải đem nạp, lại ra lệnh hủy bỏ lệnh tăng cường cung thủ. Dân xứ Thục nghe việc này thì đều
yên tâm, trở về lại ruộng vườn.
(Sau đó) ông từ từ tra hỏi về tin báo
Nùng Trí Cao sẽ đưa quân vào đất Thục thì truy ra tin báo này vốn từ 1 người môi giới buôn bán, tên hiệu
“Nhiệm phán quan”, ở Nhã
châu nói ra, nên cho gọi người này đến Thành Đô cật vấn tại sao dám phao tin
đồn thất thực đưa đến tình trạng dao động của dân chúng xứ Lưỡng Thục, định đem chém cho mọi người
thấy.
Họ Nhiệm kinh hãi nhận tội, xin đem cả nhà mình mấy chục người nhốt vào
ngục ở Nhã châu, còn mình thì tới vùng dân Man dò hỏi tin tức xác thực về
Nùng Trí Cao, sau một tháng nếu không
dò ra được thì đem cả nhà mình ra giết! Ông suy tính giờ lâu, sau mới chấp thuận. Như kỳ hạn giao ước họ Nhiệm tìm được văn thư Tiểu Vân Nam
nói là Trí Cao đến Nam Chiếu lại mưu toan
làm loạn nên đã bị Nam Chiếu giết.
Ông liền cho thả họ Nhiệm (và cả nhà), rồi tâu sự việc lên”.
[Phụ chú.
Người môi giới buôn bán. Nguyên tác là “Nha lang”.
Đào Tông Nghi (? - 1396 ?) viết trong “Nam Thôn Triệt Canh Lục” (gọi tắt “Triệt Canh Lục”):
-
“Nha lang. Kim nhân vị tảng khoái giả vi nha lang. Bản vị chi HỖ LANG,
vị chủ hỗ thị sự dã. Đường nhân thư “Hỗ” tác “Nha”, “Hỗ”
dữ “Nha” tự tương tự, nhân ngoa nhi vi “Nha” nhĩ!”.
/ Nam Thôn Triệt Canh Lục. Qu. XI. Nha
lang /.
-
“Nha lang. Người đời nay gọi người làm trung gian trong các vụ giao
dịch là nha lang. Vốn được gọi là
HỖ LANG, nghĩa là người môi giới trong giao dịch, buôn bán. Người thời Đường viết chữ “Hỗ” thành
chữ “Nha”; chữ “Hỗ” và chữ “Nha” từa tựa, do đó viết lầm
ra chữ “Nha”!”.
(Về tiếng “Nha lang”, tham khảo
thêm:
-
Cựu Đường Thư. Qu. CC -
Thượng. An Lộc Sơn truyện.
Lưu Hu (888 - 947) thời Ngũ Đại (907 -
960) soạn.
-
Tư Trị Thông Giám. Qu. CCXIV. Đường kỷ. Huyền tông Khai Nguyên nhị
thập nhị niên.
Tư Mã Quang (1019 - 1086) thời Bắc Tống
(960 - 1127) soạn.
~ Trong 2 bộ Sử thư kể trên Lưu Hu và Tư Mã Quang đều ghi tên gọi là “Hỗ thị Nha lang” -
và tên gọi “HỖ LANG” trong tập Bút ký
“Triệt Canh Lục” tức là tiếng giản
lược từ 4 chữ này.
-
Năng Cải Trai Mạn Lục. Qu. III. Biện ngộ - Trung. Nha lang.
Ngô Tăng (? - ?) thời Nam Tống (1127 - 1279) biên soạn).
Văn thư Tiểu Vân Nam. Chưa rõ là văn thư gì? tiếng “Tiểu Vân Nam” cũng chưa rõ chỉ gì?].
Về việc Tống triều sai Quách Quì đưa quân đi đánh Giao Chỉ báo thù việc Lý triều xâm lấn Quảng Tây năm Ất Mão, ở trang 303, ông Hoàng Xuân Hãn viết:
“Lý Thường-Kiệt sai các
hoàng-tử Hoằng-chân, Chiêu-văn (VSL) đem thuyền chở quân
chống lại (3)……”.
(CHƯƠNG XI. HÒA VÀ HÒA-BÌNH. 4. - LÝ TẤN-CÔNG THẤT-BẠI : TRẬN KHÁO-TÚC).
“Lại có sách Tùng-đàm chép tên hoàng-tử khác hẳn các
sách khác. Sách ấy nói : “Tướng tiên phong là Miêu Lý và Yên Đạt qua sông
Phú-lương. Đánh một trận, phá tan giặc. Bắt được thái-tử giặc là Phật-nha” (TB 303/9a)”.
(Chú thích (3), trang 318).
Nguyên văn “Thiết Vi Sơn Tùng Đàm”
về đoạn trên như sau:
- “Hi
Ninh thập niên Giao Chỉ vô cố phạm bỉ
(ÁN: - “Đông Đô Sự Lược” SỰ tại Hi Ninh bát niên), tính hãm Khâm, Liêm, Ung tam Quận, đa
sát nhân dân, hệ lỗ kỳ tử, nữ.
Triều đình vị hách nộ, xuất đại sư
hành thảo chi…… Mệnh Súy Quách Tuyên Huy Quì nhi phó dĩ văn thần Triệu Tiết
chinh yên……
Cập nhập man cảnh tiên phong
tướng Miêu Lý, Yên Quì (ÁN: - “Đông
Đô Sự Lược” tác Yên Đạt), kính độ
Phú Lương giang, nhất kích tán tẩu kỳ
tặc chúng, cầm ngụy Thái tử Phật Nha tướng, tiến phá kỳ
Quốc hĩ”.
/ Thiết Vi Sơn Tùng Đàm. Qu. II
/.
- “Năm
thứ 10 Niên hiệu Hi Ninh, Giao Chỉ vô
cớ xâm phạm biên thùy (XÉT: - Theo Sách “Đông Đô Sự Lược” SỰ VIỆC xảy ra năm thứ 8 Niên hiệu Hi
Ninh), hãm tất cả 3 Quận Khâm, Liêm, Ung, giết nhiều dân chúng, bắt đi con
trai, con gái của họ.
Triều đình nổi giận xuất đại quân
đi đánh…… Lệnh cho Quách Quì ở Tuyên
Huy Viện chỉ huy đại quân, văn thần Triệu Tiết là phó cho Quách Quì cùng đi
chinh phạt……
Chừng nhập biên cảnh Man các tướng tiên phong là Miêu Lý và Yên Quì (XÉT: - Sách “Đông
Đô Sự Lược” ghi là Yên Đạt) liền
vượt qua sông Phú Lương, đánh 1 trận,
phá tan quân giặc, bắt được tướng của ngụy Thái tử Phật
Nha, tiến quân dẹp Nước của giặc”.
¸ Một vài nhận xét:
1). “Thiết Vi Sơn Tùng Đàm” ghi tên tướng
tiên phong của Tống triều là “Yên Quì” ông Hoàng Xuân Hãn ghi lại từ sách khác
thành “Yên Đạt”.
Nếu đoạn văn, hay câu văn, trích dẫn (nguyên tác) có sai thì chú thích ở bên cạnh, hay ở bên dưới, cuối đoạn văn hay cuối câu văn chứ không thể tự ý sửa nguyên tác, đây là nguyên
tắc phải giữ của bất cứ người nghiên cứu đứng đắn nào!
Ngoài ra, tiếng “tùng đàm” có nghĩa là “tạp thuyết, tạp
đàm”, nghĩa là “nói, đàm luận, về nhiều chuyện, nhiều vấn đề”, trong tựa
các tập Bút ký thời trước thường có 2 chữ này.
Ngoài “Thiết Vi Sơn Tùng Đàm” ở
đây, kể thêm một vài tập Bút ký, như:
- Quế
Hải Tùng Đàm của Phùng Dực đời Đường.
- Thứ
Trai Lão Học Tùng Đàm của Thịnh Như Tử đời Nguyên.
- Lãng
Tích Tùng Đàm của Lương Chương Cự đời Thanh.
- Từ
Uyển Tùng Đàm của Từ Cừu đời Thanh.
Ngoài Tùng Đàm, các tiếng Tùng Lục, Tùng Ngữ, Tùng Thư cũng thường được dùng.
2). Về câu “cầm ngụy thái tử Phật Nha tướng” có 2 cách
hiểu:
(a). “bắt được tướng của ngụy thái tử Phật Nha”.
Tức ở đây thái tử Giao Chỉ tên là “Phật Nha”, tức ngắt câu sau
chữ “NHA”.
(b). “bắt được một tướng cấp thấp của thái tử Phật”.
Tức ở đây thái tử của Giao Chỉ tên là “Phật”, tức ngắt câu sau
chữ “PHẬT”.
Tiếng “nha tướng”, Từ điển Từ
Nguyên giảng như sau:
- “[Nha tướng]. Đê cấp đích quân quan”.
- “[Nha tướng]. Quan cấp thấp trong quân đội”.
[Ghi chú. Chữ “NHA”
trong tiếng “NHA TƯỚNG” nghĩa là “CÁI RĂNG”].
Phạm Thành Đại chép trong “Quế Hải
Ngu Hành Chí”:
- “Đại quân thứ Phú Lương giang, khứ Đô Hộ
Phủ tứ thập lý, sát ngụy thái tử, cầm kỳ đại tướng”.
/ Quế Hải
Ngu Hanh Chí. Chí Man. 4 /.
- “Đại quân đồn trú ở bên sông Phú Lương, cách Đô Hộ Phủ 40 dặm, giết được ngụy thái tử, bắt được đại
tướng của chúng”.
[Ghi chú. Tiếng Đô Hộ Phủ ở đây
chỉ Kinh đô Thăng Long của Lý triều].
“Theo lời Tư Mã Quang thì
chính tay Vương An-Thạch thảo lời chiếu ấy, để trả thù lời lộ-bố của Lý
Thường-Kiệt chỉ-trích các tân-pháp của y. Lời chiếu rằng:
“Chúa nước An-nam đời đời được phong tước vương, cho nên con cháu được ta thừa-nhận và vỗ-về. Tiên-triều đã từng tha lỗi cướp họ Lê. Nay lại phạm vào nội-địa,
giết hại lại dân. Can tội với nước Thiên-tử, như thế không thể tha thứ được!
Quân Trời tới đánh, thật có
danh-nghĩa!
Nay trẫm sai Triệu-Tiết làm An-nam đạo hành-doanh mã-bộ-quân đô tổng
quản, kinh-lược chiêu-thảo-sứ: Lý Hiến làm phó-an-phủ-sứ và Yên Đạt làm
phó-đô-tổng-quản.
Các ngươi hãy cất quân thủy, lục tiến chóng đi! Trời tỏ muốn giúp, nên đã có điềm sao chổi tốt, người rõ lòng-gian nên đều căm giận quân địch ác.
Chiếu cho quân Giao-chỉ
hay: Khi thấy
quan-quân đến thì đừng chạy. Dân-chúng
đã chịu khổ-sở lâu ngày. Nếu dỗ được chúa mày vào nội-phụ, Trẫm sẽ ban tước lộc cho. Càn-đức còn trẻ, việc làm loạn không phải tự ngươi gây ra. Ngày nào ngươi tới chầu, Trẫm sẽ tha-thứ cho …”. (TTh 13)”.
(CHƯƠNG VII. LÝ THƯỜNG-KIỆT TẤN-CÔNG TỐNG.
5. - PHẢN-ĐỘNG CỦA VƯƠNG AN-THẠCH. Tr. 190,
191).
Có điều, nếu nói đoạn trên từ “Tộc Thủy Ký Văn” thì Hoàng Xuân Hãn
nói bậy, vì rằng khi dẫn lại Chiếu thư này của
Vương An Thạch Tư Mã Quang đã lược đi
đoạn đầu, tức từ câu “Chúa nước An-nam đời đời được phong tước vương…” cho tới
câu “Quân Trời tới
đánh, thật có
danh-nghĩa!”.
Hoàng Xuân Hãn trưng dẫn “Tục Tư Trị
Thông Giám Trường Biên”, dẫn dài
dài trong cuốn “Lý Thường Kiệt”, thế
thì tại sao lại không biết rằng bài
Chiếu thư trên đây được chép lại đầy đủ trong Qu. CCLXXI (271) của bộ Sử thư
nói trên? Và, như vậy thì ông ta có thực sự đọc bộ “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” hay không?
¸ Những cái sai của Hoàng Xuân Hãn.
1). “Chúa nước An-nam
đời đời được phong tước vương, cho nên con cháu được ta thừa-nhận và vỗ-về. Tiên-triều đã từng tha lỗi cướp họ Lê. Nay lại phạm vào nội-địa, giết hại lại dân. Can tội với nước Thiên-tử, như thế không thể tha thứ được!
Nguyên tác:
- “Sắc Giao Châu quản nội khê động quân dân,
quan lại đẳng:
Quyến duy An Nam thế thụ Vương tước phủ nạp chi hậu, thực tự tiên Triều.
Hàm dung quyết diễn dĩ chí kim nhật. Nhi nãi công phạm Thành ấp, sát thương
lại, dân, can Quốc chi kỷ, hình tư vô xả!”.
- “Truyền cho quân dân, quan lại các vùng khê
động trong quản hạt của Giao Châu:
Nhớ lại nước An Nam các đời được đối đãi tròn đầy, tiếp nhận Vương tước,
thực sự là từ triều trước. Triều đình đã bao dung các lỗi lầm của An Nam từ
trước cho tới giờ. Mà rồi lại tấn công xâm phạm Thành ấp (của Triều đình), giết
hại quan, dân, xúc phạm đến kỷ cương của Quốc gia, theo hình pháp tội này không
thể tha!”.
~ Mấy tiếng “cho nên con
cháu” không có trong
Chiếu thư!
~ Câu “đã từng tha
lỗi cướp họ Lê” không có trong
Chiếu thư!
~ Câu “phạm
vào nội-địa” dịch rất sai lạc
và thiếu đầu, thiếu đuôi!
~ Câu “Can tội
với nước Thiên-tử, như thế không thể tha thứ được!” dịch rất sai lạc!
Câu này dịch không sát lắm!
Nguyên tác: “Trí thiên chi thảo, Sư tắc hữu danh!”.
- “Đến đỗi khiến trời phải đánh phạt thì việc
động binh này là có chính danh!”.
Chữ “TRÍ” ở đây có nghĩa là “chuốc lấy”, “rước lấy”.
3). “Các ngươi hãy cất quân thủy, lục tiến chóng đi!”.
Nguyên tác: “Thuận thời hưng
sư, thủy, lục kiêm tiến”.
- “Thuận thời mà điều động quân binh, theo cả 2 đường thủy, lục mà tiến”.
~ Ở đây rõ ràng không có ý “tiến chóng đi!” như Hoàng Xuân Hãn dịch sai!
4). “Trời tỏ muốn giúp, nên đã có điềm sao chổi tốt, người rõ lòng-gian nên đều căm giận quân địch ác”.
Nguyên tác: “Thiên thị trợ
thuận, dĩ triệu bố tân chi tường, nhân tri vũ vong, hàm hoài địch khái chi khí”.
- “Trời tỏ
sự trợ giúp cho việc thuận lợi nên hiện điềm
tốt lành, [và] người cũng biết
là kẻ khinh mạn rồi sẽ bị diệt vong, ai nấy đều ôm lòng giận
địch!”.
~ Ngoài ra, trong Chiếu thư không câu “điềm sao chổi tốt”!
Nguyên tác: “Nhiên Vương sư sở
chí phất nhạ khắc bôn”.
- “Nhưng
nơi nào mà quân của triều đình tới thì các
ngươi chớ có chống lại, chạy được thì
cứ chạy”.
Câu “phất nhạ” ở trên có nghĩa là “chớ có chống lại”. Chữ “Nhạ” nghĩa là “Chống lại”. Chữ
này nghĩa là “đón tiếp”, nhưng ở đây được dùng thay chữ “Ngự” là “Chống lại”.
Tiếng “khắc bôn”, chữ “Khắc” nghĩa là “Có thể”.
Có thể thấy câu này Hoàng Xuân Hãn dịch quá sức là
sai, trái ngược với
nguyên tác!
6). “Dân-chúng đã chịu khổ-sở lâu ngày. Nếu dỗ được chúa mày vào nội-phụ, Trẫm sẽ ban tước lộc cho”.
Nguyên tác:
- “……. tư nhĩ sĩ thứ
cửu luân đồ thán, như năng dụ vương nội phụ, suất chúng tự qui,
tước lộc thưởng tứ đương bội thường khoa! Cựu ác
túc phụ nhất giai nguyên địch!”.
- “……. đây
là ta nghĩ tới quân dân các ngươi từ lâu rồi chìm đắm trong cảnh
lầm than [bây giờ] nếu các ngươi có thể
nói cho vua các ngươi thần phục, đưa
quân ra qui thuận thì ta sẽ ban thưởng cho gấp 2 mức bình
thường! Những việc ác trước đây, những sự phản bội
xưa kia ta sẽ xóa sạch hết!”.
Những câu tôi gạch ở dưới là những câu Hoàng Xuân Hãn thiếu,
không thấy dịch.
7). “Càn-đức còn trẻ, việc làm loạn không phải tự ngươi gây ra. Ngày nào ngươi tới chầu, Trẫm sẽ tha-thứ cho”.
Nguyên tác: “Càn Đức ấu trĩ, chính phi kỷ xuất, tháo đình chi nhật đãi ngộ như sơ”.
- “Càn Đức còn con nít, chính sự không
do mình làm chủ được, chờ tới ngày vào triều ta sẽ đãi ngộ như xưa”.
Bộ “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” ghi lại tờ Chiếu thư nói trên ở Qu. CCLXXI trong mục ghi chép ngày Quí Sửu (ngày 25 tháng Chạp năm Ất Mão).
Tập bút ký “Tộc Thủy Ký Văn” của
Tư Mã Quang thì ghi lại ở Qu. XIII, lược mấy câu ở đoạn mở đầu.
- “Sắc Giao Châu quản nội khê động quân dân,
quan lại đẳng:
Quyến duy An Nam thế thụ Vương tước phủ nạp chi hậu, thực tự tiên Triều.
Hàm dung quyết diễn dĩ chí kim nhật. Nhi nãi công phạm Thành ấp, sát thương
lại, dân, can Quốc chi kỷ, hình tư vô xả!
Trí thiên chi thảo, Sư tắc hữu danh!
Dĩ sai Lại Bộ Viên ngoại lang sung Thiên Chương Các Đãi chế Triệu Tiết sung
An Nam Đạo Hành Doanh Mã Bộ Quân Đô Tổng
Quản Kinh Lược An Phủ Chiêu Thảo Sứ, kiêm Quảng Nam An Phủ Sứ, Chiêu
Tuyên Sứ, Gia Châu Phòng Ngự Sứ.
Nhập Nội Thị Tỉnh Đô Áp ban Lý Hiến sung Phó sứ.
Long Vệ Tứ Sương Đô Tổng Quản Kinh Lược
An phủ Chỉ huy sứ Trung Châu Thích sử Yên Đạt sung Phó Đô Tổng Quản.
Thuận thời hưng sư, thủy, lục kiêm tiến.
Thiên thị trợ thuận, dĩ triệu bố tân chi tường, nhân tri vũ vong, hàm hoài
địch khái chi khí. Nhiên Vương sư sở
chí phất nhạ khắc bôn; tư nhĩ sĩ thứ cửu
luân đồ thán, như năng dụ vương nội
phụ, suất chúng tự qui, tước lộc thưởng
tứ đương bội thường khoa! Cựu ác túc phụ nhất giai nguyên địch!
Càn Đức ấu trĩ, chính phi kỷ xuất, tháo đình chi nhật đãi ngộ như sơ. Trẫm
ngôn bất du chúng thính vô hoặc! Tỉ văn
biên hộ cực khốn tru cầu, dĩ giới sử nhân
cụ tuyên ân chỉ - bạo
trưng hoành phú, đáo
tức quyên trừ. Ký ngã nhất
phương, vĩnh vi lạc thổ!”.
/ Vương Lâm Xuyên Toàn Tập. Qu. XLVII. Nội Chế 3. Chiếu thư.
Sắc bảng Giao Chỉ /.
- “Truyền cho quân dân, quan lại các vùng khê
động trong quản hạt của Giao Châu:
Nhớ lại nước An Nam các đời được đối đãi tròn đầy, tiếp nhận Vương tước,
thực sự là từ triều trước. Triều đình đã bao dung các lỗi lầm của An Nam từ
trước cho tới giờ. Mà rồi lại tấn công xâm phạm Thành ấp (của Triều đình), giết
hại quan, dân, xúc phạm đến kỷ cương của Quốc gia, theo hình pháp tội này không
thể tha!
Đến đỗi khiến trời phải đánh phạt thì việc động binh này là có chính danh!
Ta đã sai Triệu Tiết, Viên ngoại lang Bộ
Lại, sung chức Đãi chế tại Thiên
Chương Các sung chức Hành Doanh Mã Bộ
Quân Đô Tổng Quản Kinh Lược An phủ Chiêu Thảo Sứ kiêm Quảng Nam An Phủ Sứ
và Chiêu Tuyên Sứ, Gia Châu Phòng Ngự Sứ.
Chức Nhập Nội Thị Tỉnh Đô Áp ban là
Lý Hiến vào chức Phó sứ.
Yên Đạt là Thích sử Trung Châu, Long Vệ Tứ Sương Đô Tổng Quản Kinh Lược An
phủ Chỉ huy sứ vào chức Phó Đô Tổng Quản.
(Tất cả) thuận thời mà điều động quân binh, theo cả 2 đường thủy, lục mà
tiến.
Trời tỏ sự trợ
giúp cho việc thuận lợi nên hiện điềm tốt lành, và người cũng biết là kẻ khinh mạn rồi
sẽ bị diệt vong, ai nấy đều ôm lòng giận địch! Nhưng nơi nào mà quân của triều
đình tới thì các ngươi chớ có chống lại, chạy được thì cứ chạy; đây là ta nghĩ
tới quân dân các ngươi đã từ lâu rồi chìm
đắm trong cảnh lầm than, (bây giờ)
nếu như các ngươi có thể nói cho vua các ngươi thần phục,
đem quân ra qui thuận thì ta sẽ ban thưởng cho gấp 2 mức bình thường!
Những việc ác trước đây, những sự phản bội xưa kia ta sẽ xóa sạch hết!
Càn Đức còn con nít, chính sự không do mình làm chủ được, chờ tới ngày vào triều ta sẽ đãi ngộ như xưa. Lời Trẫm không thay đổi, người nghe
không ai nghi ngờ! Gần đây trẫm nghe rằng dân nhập tịch vô cùng khốn khổ vì việc trưng thu, ta đã sai người tuyên sắc chỉ
ban ơn nói rõ rằng: - những sưu thuế tàn bạo, khi quân
triều đình tới thì lập tức trừ bỏ, ta mong một cõi của ta rồi mãi
là vùng đất an lạc!”.
[Phụ chú.
Trong “Tộc Thủy Ký Văn” (Qu. XIII) Tư Mã Quang đã không dẫn đầy đủ tờ Chiếu
thư nói trên.
1). Không chép lại đoạn mở đầu, đoạn:
-
“Quyến duy An Nam thế thụ Vương tước …... Trí thiên chi thảo, Sư tắc hữu
danh!”.
2). Có một vài chữ chép khác với tờ
Chiếu thư trong “Vương Lâm Xuyên Toàn Tập” trên đây -
và ngoài ra còn nhiều hơn vài câu:
-
Toàn Tập: “suất chúng tự qui, tước lộc thưởng tứ”.
-
Ký Văn: “suất chúng tự qui, chấp lỗ hiến công, bạt thân trợ
thuận, tước thưởng tứ dữ”.
3). Chiếu thư ghi lại trong “Tục Tư Trị
Thông Giám Trường Biên” nhìn chung không khác mấy với Chiếu thư thấy trong
“Toàn Tập”. Câu đầu tiên hết thảy: “Sắc Giao Châu quản nội khê động quân dân,
quan lại đẳng.” - Trường Biên” không có câu này].
(2). Quan chế.
Ở phần CHÚ-THÍCH của CHƯƠNG V
(BANG-GIAO LÝ TỐNG), Chú thích 3), trang 148, có một đoạn ông Hoàng Xuân
Hãn viết về một số chức, tước phong cho vua Lý như sau:
“Mỗi lúc sứ ta sang Tống, hay ở Tống
có việc khánh hỉ gì, thì vua Tống gia-phong cho vua Lý, gia-phong hoặc bằng
thêm mỹ-tự, hoặc thêm thực-ấp. Còn gia-phong chức tước thì thường theo thứ tự
sau:
ĐỒNG BÌNH-CHƯƠNG SỰ, nghĩa là cùng bàn việc nước.
ĐỒNG TRUNG-THƯ MÔN-HẠ BÌNH-CHƯƠNG SỰ
(Trung-thư là một ti thảo các chiếu chỉ cho vua;
môn-hạ bình-chương-sự là bàn việc
nước với vua).
KHAI PHỦ NGHỊ ĐỒNG-TAM-TI (được quyền mở phủ ở riêng, cùng tam-ti tức là ti tài-chánh bàn việc
nước)”.
Ông Hoàng Xuân Hãn không biết rằng
Đồng Bình Chương Sự là danh
xưng giản lược của danh xưng “Đồng Trung Thư / Môn Hạ
Bình Chương Sự”. -
danh xưng đầy đủ này có nghĩa “Cũng như 2 chức Trưởng quan của Trung
Thư và Môn Hạ” -
tức đây là chức cũng như 2 Trưởng quan của Trung Thư và Môn Hạ được xử lý Quốc
gia sự vụ.
Thời Triệu
Tống thì đây là chức Tể tướng.
Có thể thấy, do không hiểu rõ QUAN CHẾ Tống triều cho nên ông Hoàng
Xuân Hãn đã phân Đồng
Bình Chương Sự
và Đồng Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự
làm 2 chức khác nhau mà giải thích.
Cuối câu, ông viết “môn-hạ
bình-chương-sự là bàn việc nước với vua”.
Coi giải
thích ở trên thì thấy ngay giải thích của Hoàng Xuân Hãn chẳng những sai mà
câu văn lại ngớ ngẩn - không bàn việc
nước với vua thì bàn với ai?
2). Lời giải thích “Trung-thư là một ti thảo các chiếu chỉ cho vua” cho thấy hiểu biết của ông Hoàng Xuân Hãn về Cơ quan này (Trung Thư) rất phiến diện.
Trước hết, về cấp độ Hành chánh Trung
Thư không phải là “Ti”,
và kế đến, chức năng của Trung Thư
không phải chỉ là “thảo các chiếu chỉ cho vua”,
chức năng và quyền lực của Cơ quan này lớn hơn nhiều!
Trung Thư Tỉnh được gọi là Đông Phủ,
là chỗ Tể Tướng và Trung Thư Lệnh làm việc.
Đông Phủ
có trách vụ soạn thảo Chính sách Quốc gia, tuyên bố mệnh lệnh, đưa ra các việc
cải cách, bổ nhiệm quan lại.
Cứ đó thì quyền hạn của Trung Thư rất
lớn, không như Hoàng Xuân Hãn hiểu lơ mơ.
Trung Thư
tức “Trung Thư Tỉnh” được gọi giản lược, là 1 trong 3 Cơ quan đầu não
của Chính quyền Trung ương đời Tống.
3 Cơ quan này được gọi chung là “Tam Tỉnh”,
gồm có Trung Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh, Thượng Thư
Tỉnh.
Chức năng của Tam Tỉnh đại khái:
-
Trung Thư Tỉnh lập kế hoạch.
Đứng đầu Trung Thư Tỉnh là chức Trung Thư Lệnh.
-
Môn Hạ Tỉnh duyệt xét, thẩm định
Chiếu, Lệnh, thị thực Chương, Tấu…. Và ngoài ra còn có quyền bác khước ý kiến,
kiến nghị của các Cơ quan khác.
Đứng đầu Môn Hạ Tỉnh là chức Thị Trung.
-
Thượng Thư Tỉnh chấp hành những quyết
định của 2 Cơ quan trên.
Đứng đầu Thượng Thư Tỉnh là chức Thượng Thư Lệnh.
3). Sau cùng, khi ghi là “KHAI PHỦ NGHỊ ĐỒNG-TAM-TI” ông Hoàng Xuân Hãn đã ghi sai chữ “NGHỊ” (NGHI + dấu Nặng).
Chữ
ĐÚNG là chữ “NGHI”
(không có dấu Nặng). “NGHI”
(Bộ Nhân + chữ Nghĩa) ở đây có nghĩa
là “cử chỉ, dung mạo”, là “pháp tắc,
lề lối”.
Tiếp theo đó là 2 cái sai:
(a). “được quyền mở phủ ở riêng”.
Khi viết như trên Hoàng Xuân Hãn khiến
người đọc nghĩ rằng chức quan này có quyền xây phủ thự để ở, tức như là một chỗ cư trú.
Điều này sai hoàn toàn!
Tiếng “Khai Phủ”
lúc đầu có nghĩa “Thành lập phủ thự, tự
tuyển quan lại thuộc quyền”.
Thời Hán, các chức Thái Phó, Tam Công,
Đại Tướng Quân
đều có quyền “Khai Phủ”.
Chuyển qua các triều Ngụy (220 - 265),
Tấn (265 - 420) thì các chức quan được quyền lập Phủ riêng ngày càng nhiều, để rồi có danh hiệu “Khai
Phủ Nghi Đồng Tam Ty”, tức căn cứ tiếng “Tam
Công” mà thành lệ. Dưới Tấn triều, phần lớn chức Thích Sử do nắm quyền Tướng Quân mà được quyền “Khai
Phủ”.
Dưới các triều Đường, Tống các Văn thần
không nắm giữ chức vụ gì (gọi là Tản quan) ở bậc 1 trong 29 bậc của ngạch
Tản quan thì được “Khai
Phủ”. Tản =
nhàn hạ.
Ông Hoàng Xuân Hãn không hiểu “Tam
Ty” nghĩa
là gì, cho nên đã giải thích một cách lơ mơ đến vậy! “Tam Ty” tuy đảm
trách về tài nguyên thiên nhiên, thuế
khóa, nói chung liên quan vấn đề Tài chánh, nhưng không phải là “ti
tài chánh”, như ông hiểu!
Dưới triều Bắc Tống đề cập ở đây thì Hộ
Bộ có 3 chức “Diêm Thiết Sứ”, “Hộ Bộ Sứ” và “Đạc
Chi Sứ”. 3 chức quan này được gọi chung là “Tam Ty”,
có nhiệm vụ trưng thu các thứ thuế thuộc ngành của mình. Chẳng hạn, Diêm
Thiết Sứ quản trị tài nguyên của các vùng núi, sông rạch, quan ải, và quân
khí…… từ đó tính Thuế các sản phẩm, hàng hóa trong các lãnh vực đã kể.
(Hộ Bộ được thành lập lần đầu tiên ở
triều Ngô (222 - 280) thời Tam Quốc (220 - 280).
Các triều Ngụy (220 - 265), Tấn (265 -
420), Nam Bắc triều (420 - 589) gọi là Đạc
Chi.
Dưới triều Tùy (581 - 618), năm 583 đổi
gọi là Dân Bộ.
Thời Đường do kiêng tên Đường Thái tông (599 - 649; tại vị: 627 - 649) là Lý Thế Dân nên đổi lại gọi là Hộ Bộ.
Sau đó, triều Hậu Chu (951 - 960) thời
Ngũ Đại (907 - 960) lấy lại tên Dân Bộ.
Sau đó từ Tống triều (960 - 1279) đến
Thanh triều (1644 - 1911) thì dùng tiếng Hộ
Bộ).
Càng nói về Quan chế Trung Quốc ông Hoàng Xuân Hãn càng dẫn người đọc tới chỗ sai lạc! Nói khác đi, Hoàng Xuân Hãn rất lơ mơ, lờ mờ về quan chế Trung Quốc!
Về các chức quan thời Tống nói ở đây,
và về Quan chế các thời nói chung,
tài liệu vốn không hiếm, “Tống Sử” có
phần CHÍ, “Văn Hiến Thông Khảo” có
phần KHẢO……
(Tham khảo:
-
Tống Sử. Qu. CLXI. Chức quan Chí.
Chức quan 1.
Qu. CLXII. Chức quan Chí.
Chức quan 2.
-
Văn Hiến Thông Khảo. Qu. XLIX. Chức
quan Khảo 3.
Qu.
L. Chức quan Khảo 4).
(3). Các sự việc khác.
1). Chuyển vận quân lương: Dân phu.
Ở trang 227, ông Hoàng Xuân Hãn viết:
“Thuyền và xe chỉ dùng được trong
nội-địa Tống. Muốn mang qua núi non hiểm-trở đến cõi nước ta thì phải cần tới
người hay súc-vật. Từ ngày mồng 1 tháng hai ti chuyển-vận Quảng-tây đã bắt phu
rất nhiều. Tại chín huyện thuộc Quế-châu, bắt 8.500 bảo-đinh, 91.200 các hạng khác.
Bảo-đinh được cấp tiền gấp hai những hạng
kia, vì bảo-đinh có thể dùng làm chiến-binh
(Đ. Ho, DL 8-3; TB 273/1a)”.
(CHƯƠNG VIII. TỐNG SỬA-SOẠN PHỤC-THÙ.
5. – CHUYÊN-CHỞ).
-
“Tại chín huyện thuộc Quế-châu, bắt 8.500 bảo-đinh, 91.200 các hạng khác.
Bảo-đinh được
cấp tiền gấp hai những hạng kia, vì bảo-đinh có thể dùng làm chiến-binh.”
1/. Dịch thiếu và mơ hồ.
~ Nguyên tác nói “91,200
mấy”, Hoàng Xuân Hãn thiếu chữ “mấy”
(hữu cơ).
~ Nói “các hạng
khác” là các hạng nào? mơ hồ! Điểm này cần
nói (dịch) rõ ra.
Coi phần trích dẫn nguyên tác ở sau
chúng ta sẽ thấy rõ tại sao cần phải xác định các hạng dân phu.
~ Nói “cấp tiền”
là còn thiếu, vì nguyên tác nói là “tiền và gạo”
(tiền, mễ).
2/. Dịch sai.
Đối chiếu nguyên tác tôi thấy câu “Bảo-đinh được cấp tiền gấp hai những hạng
kia” của
Hoàng Xuân Hãn SAI
quá sức tưởng tượng! Câu văn của nguyên tác rất đơn giản, và cú pháp thuộc loại sơ
đẳng, vậy mà ông ta cũng không sao dịch cho đúng, dầu là đúng được một mảy thôi! Coi đoạn dịch của tôi ở sau sẽ thấy
rõ cái sai này của ông ta!
3/. Suy diễn sai.
~ Câu “vì bảo-đinh có thể dùng làm chiến-binh.”
không có trong nguyên tác, đây chỉ là sự suy diễn, thêm thắt, và thêm thắt sai,
của Hoàng Xuân Hãn!
Sau đây là nguyên văn đoạn nói về việc
dân phu kể trên:
-
“Hi Ninh cửu niên.
Nhị nguyệt Đinh Hợi sóc. Quảng Nam Tây
lộ Chuyển Vận Sứ Ty ngôn:
~ Thảo phạt Giao Chỉ, sai phu cực chúng,
Quế Châu cửu huyện tịch định bảo đinh chỉ bát thiên ngũ bách -
phụ bảo cập đơn đinh khách hộ, kỳ cửu
vạn nhất thiên nhị bách hữu cơ. Kim
dục mỗi sai bảo đinh lưỡng phiên, tức ư phụ bảo nhân
sai phu nhất phiên các lượng cấp tiền mễ, cập bản Ty sở câu trừu quan viên
sai sử, dục vọng dĩ quan tiền kháo thiết ~.
Tòng chi”.
/ Tục Tư
Trị Thông Giám Trường Biên. Qu. CCLXXIII. Thần tông Kỷ /.
-
“Năm thứ 9 Niên hiệu Hi Ninh.
Tháng 2. Mồng 1 ngày Đinh Hợi.
Ty Chuyển Vận Sứ Quảng Tây nói:
~ Số dân phu phục dịch trong việc đánh
hỏi tội Giao Chỉ rất đông, số bảo đinh cố
định trong Hộ tịch của 9 huyện thuộc Quế Châu chỉ có 8,500 -
còn số người phụ giúp vào và các đơn đinh thuộc dạng tạm trú
cộng tất cả được 91,200 mấy. Nay (Bản
Ty) định cứ bảo đinh phục dịch làm 2 Phiên thì hạng
dân phu phục dịch phụ làm 1 Phiên, và tùy từng trường hợp mà cấp tiền, gạo, và các
quan chức bản Ty đề cử để sai sử (dân phu) thì mong được lấy công quỹ mà khao thưởng
~.
Vua chấp thuận theo thỉnh cầu”.
Cứ như dẫn trên thì thấy nguyên tác không có chỗ nào nói như Hoàng Xuân Hãn nói là hạng “Bảo-đinh được cấp tiền gấp hai những hạng kia” hết!
Nguyên tác ghi là có tất cả 3 hạng dân phu, và tùy hạng dân phu, tùy “phiên”
phục dịch mà trả công cho họ bằng tiền và gạo, nhưng không nói là bao nhiêu cho mỗi hạng, và nhất là cũng không so sánh “gấp một”, “gấp
hai” như Hoàng Xuân Hãn dịch sai!
Ở đây độc giả có thể thấy thật rõ là
ông Hoàng Xuân Hãn không hiểu chữ “phiên”
trong các tiếng “nhị phiên”,
“nhất phiên” cho nên suy
đoán đây là những tiếng nói về mức độ trả công cho các hạng dân phu!
Chữ “PHIÊN”
ở đây là “phiên” làm việc, như “phiên
trực”, “phiên gác” -
hoặc nói rõ hơn là “lần”,
là “lượt” mà một người, hay một nhóm người phải
làm một việc gì đó… và theo 1 chu kỳ
nào đó, như ta thường nói “tới phiên tôi”
-
tức “đến lượt tôi”; chữ “PHIÊN”
này tức chữ “phiên”
trong tiếng “luân phiên”.
Ở trang 229, ông Hoàng Xuân Hãn viết:
-
“Ngay ban đầu khi nghe Khâm, Liêm bị mất vua Tống sai viện-binh xuống Ung-châu,
mà đã chiếu cho hàn-lâm y-quan-viện
chọn 57 bài thuốc trị lam-chướng; và sai sở hạp-dược
chế thành tễ, rồi mang theo quân (23-12 năm Ất-mão,
DL 31-1-1076; TB 271/13b)”.
-
“Hi Ninh bát niên.
Thập nhị nguyệt Kỷ Sửu……
/ Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên. Qu. CCLXXI. Thần tông /.
-
“Năm thứ 8 Niên hiệu Hi Ninh.
Tháng 12, mồng 1 ngày Kỷ Sửu……”.
Coi những ghi chép trong ngày Tân Hợi
của bộ Sử thư trên thì không thấy câu nào hay đoạn nào chép là Tống Thần tông
ra “chiếu cho hàn-lâm y-quan-viện chọn
57 bài thuốc trị lam-chướng; và sai sở hạp-dược chế
thành tễ, rồi mang theo quân”.
Tờ chiếu lệnh cho Y Quan điều chế thuốc
trị lam chướng ban hành ngày Kỷ Dậu:
-
“Kỷ Dậu……
~ Hựu chiếu “Hàn Lâm Y Quan Viện” tuyển trị
lam chướng dược phương ngũ thập thất chủng, hạ hợp dược sở
tu chế”.
-
“Ngày Kỷ Dậu……
~ Lại ra chiếu thư cho “Hàn Lâm Y Quan Viện” chọn những Phương thuốc trị các bệnh khí độc
ở vùng rừng núi, được 57 phương, đưa
xuống chỗ phối dược điều chế. ~”.
Ngày mồng 1 tháng 12 là ngày Kỷ Sửu, tính lần xuống, ngày Kỷ Dậu ghi ở đoạn trên là ngày 21 tháng 12.
Và, không
phải chỉ ở đây mà ở khá nhiều
chỗ trong cuốn “Lý Thường-Kiệt” tôi
bắt gặp ông Hoàng Xuân Hãn sai về ngày tháng như vậy!
2 chữ “hợp dược”
ở đây chỉ giản dị có nghĩa là “phối hợp dược liệu”,
và chữ “SỞ”
cũng chỉ giản dị có nghĩa là “nơi, chỗ”,
không chỉ một “NHA, SỞ”
nào hết!
Sau cùng, ông Hoàng Xuân Hãn viết:
-
“chiếu cho hàn-lâm y-quan-viện
chọn 57 bài thuốc trị lam-chướng; và sai sở hạp-dược
chế thành tễ, rồi mang theo quân”.
Các triệu
chứng lúc bệnh phát gồm có: Thần
thức hôn mê, miệng nói lảm nhảm, hoặc giọng nói khản đặc, không phát thành lời.
(Tham khảo:
Giản Minh Trung Y Từ Điển).
(Tạ Quan (1880 - 1950) nói những người không hạp thủy thổ
đa số mắc chứng này.
Ngoài ra, người bệnh hoặc phát sốt, hoặc phát lạnh,
thân thể nặng nề.
TRỊ LIỆU:
“Chính Khí Tán”, hoặc “Tiểu Sài Hồ Thang”
gia 2 vị đại hoàng, mộc hương).
Tham khảo:
“Trung Quốc Y Học Đại Từ Điển”, điều mục “Chướng
ngược”, tr. 4140).
Trị “Nhiệt chướng”
chủ yếu hạ nhiệt (tả nhiệt), không để cơ thể mất nước (bảo tân).
Dược dụng: “Thanh
Chướng THANG” (thuốc NƯỚC trừ chướng khí), Tử Tuyết Đơn.
Phương thuốc “Thanh
Chướng THANG” gồm các vị:
-
Thanh cảo, sài hồ, phục linh, tri mẫu, bán hạ, hoàng cầm, thường sơn, trúc như,
trần bì, hoàng liên, chỉ thực, và Ích Khí TÁN.
Phương thuốc
“Tử Tuyết Đơn” gồm các vị:
-
Thạch cao, hàn thủy thạch, từ thạch, hoạt thạch, Tê giác, linh dương giác,
thanh mộc hương, trầm hương, huyền sâm, thăng ma, cam thảo, đinh hương, phác
tiêu, tiêu thạch, xạ hương, chu sa.
Trị “Lãnh chướng”
thì chủ yếu trừ uế, khai thông KHÍ tắc nghẽn, hóa giải trọc khí.
Dược dụng: “Bất
Hoán Kim Chính Khí TÁN”.
Theo sách “Thái
Bình Huệ Dân Hòa Tể Cục Phương”
(gọi tắt là “Hòa Tể Cục Phương”)
phương thuốc TÁN kể trên gồm các vị:
-
Thương truật, trần bì, hậu phác, hoắc hương, cam thảo,
cùng với Gia Vị Phương,
và Tô Hợp Hương HOÀN.
(Phần trị liệu chứng “Ngược
Chướng” trên đây, tham khảo:
– “Giản
Minh Trung Y Từ Điển”, các điều mục và trang số [trong ngoặc]:
~ Chướng ngược
[982] / Tử Tuyết Đơn
[848] / Bất Hoán Kim Chính Khí Tán
[129]).
Cứ như ông Hoàng Xuân Hãn dịch “thêm
thắt”, suy đoán thì thuốc trị bệnh lam chướng do “Hàn
Lâm Y Quan Viện” điều chế chỉ là thuốc VIÊN, mà
ông gọi là “thuốc tễ”.
Trong tiếng Việt chúng ta thường gọi
thuốc Trung Y có dạng Viên là Tể, không rõ ông Hoàng Xuân Hãn có hiểu “thuốc
tễ” theo cách hiểu này không?
Nếu ông hiểu theo cách người Việt thì qua những gì đã dẫn trên
những Dược phương
trị các bịnh ở các vùng sơn lam chướng khí không chỉ gồm
thuốc Viên (Hoàn), mà còn có các dạng Tán,
tức thuốc Bột – và Thang, tức thuốc ở dạng Lỏng.
Trung Y phân biệt rất rõ ràng những
danh xưng như Tể, như Đơn……
Tạ Quan (1880 - 1950) trong “Trung Quốc Y Học Đại Từ Điển” giải
nghĩa tiếng TỂ:
-
“[Tể]. Dược chi kinh đa chủng phối hợp giả dã”.
-
“[Tể]. Thuốc được điều chế từ sự phối hợp nhiều thứ dược liệu mà thành”.
[Chữ TỂ như vậy chỉ chung các dạng
thuốc, như người Trung Hoa thường nói DƯỢC TỂ].
Bộ “Giản Minh Trung Y Từ Điển” giảng nghĩa chữ ĐƠN như sau:
-
“ĐƠN. Y PHƯƠNG tinh chế đích THÀNH
DƯỢC, nhất ban vi PHẤN MẠT trạng, hoặc KHỎA LẬP trạng”.
-
“ĐƠN. THUỐC được tinh chế theo (các) PHƯƠNG
THỨC PHỐI DƯỢC, nói chung là
những thứ thuốc có dạng BỘT VỤN, hoặc
dạng VIÊN”.
Về phương diện NỘI KHOA, Trung y dược được bào chế theo một số
dạng, mỗi dạng cho 1 cách trị liệu, tùy mức độ nặng / nhẹ, tùy tính chất cấp
tính / mạn tính của bệnh.
Về Đông y, chúng ta thường nghe “Cao,
Đơn, Hoàn, Tán”, nghe nói “Thuốc
Thang”.
Cao là thuốc được chế ở dạng đặc, dùng
thoa ngoài da.
Đơn chỉ các thứ thuốc hoặc dạng bột hoặc dạng viên.
Hoàn là thuốc viên, và chuyên chỉ thuốc viên.
Tán là thuốc dạng bột.
Thang là thuốc nước.
Mỗi dạng có công dụng riêng, và tùy dược tính, tùy bệnh trạng, cùng
một thứ thuốc mà có lúc chế dạng này, có lúc chế dạng khác.
Lý Thời Trân (1518 - 1593), danh y đời Minh (1368 - 1644), cho biết về công dụng của các dạng thuốc như sau:
~ “Cảo
viết: Thang giả đãng dã, khứ đại bệnh dụng chi; Tán
giả tản dã, khứ cấp bệnh dụng chi; Hoàn giả hoãn dã, thư hoãn nhi trị chi dã”.
/ Bản Thảo Cương Mục. Qu. I. Tự Lệ -
Thượng /.
~ “(Ông) Cảo nói: Thang hàm ý rửa sạch, trị bệnh nặng thì dùng dạng thuốc này; Tản hàm ý phân tán, trị bịnh cấp tính thì dùng dạng thuốc này; Hoàn hàm ý thư thả, (tức) thư thả mà
điều trị”.
[Chú thích.
+ Ông
Cảo tức chỉ Lý Cảo (1180 - 1251),
Y học gia trứ danh đời Kim, là một trong
4 Y học gia kiệt xuất trong khoảng Kim triều (1115 - 1234) / Nguyên
triều (1279 - 1368) mà Y giới gọi
chung là “Kim / Nguyên Tứ Đại Gia” (4 Y học gia lớn 2 triều Kim /
Nguyên):
Lưu Hoàn Tố (~ 1120 - 1200), Trương Tòng Chính (~ 1156 - 1228), Lý Cảo (1180 - 1251), thuộc Kim triều, và Chu Chấn Hanh (1282 - 1358) thuộc Nguyên triều.
+ Chữ “Thang” chuyển âm từ tiếng “Đãng”
nghĩa là “Rửa sạch”.
+ Chữ “Tản” lấy nghĩa từ tiếng “Tán”
nghĩa là “làm tản mất”.
Tiếng này đúng phải đọc là “tản” [tan +
dấu hỏi] - “thuốc tản”, nhưng do thói quen đọc sai
mà lâu dần thành “tán” [tan + dấu sắc] -
“thuốc tán”.
Tản / Tán, Hán tự cùng 1 chữ nhưng phân
ra 2 âm đọc khác nhau, nghĩa do đó cũng khác đi.
+ Chữ “Hoàn” chuyển âm, chuyển nghĩa từ
chữ “Hoãn” là “Thư thả, từ từ”].
(III). Sử liệu.
Trong Mục “DẪN” ở phần đầu sách,
là Mục liệt kê, giới thiệu những tài liệu
tham khảo của Trung Quốc, ông Hoàng
Xuân Hãn có đoạn viết:
“4) Những việc xảy ra ở biên thùy
Tống Lý rất lớn, nên các danh gia đời Tống từng đã nói đến trong các ký tải của
họ. Nay ta còn lượm lặt một ít trong các Tống thư. Như Tốc-thủy Kỷ văn của Tư Mã Quang, Mộng-khê bút đàm của Thẩm Hoạt,
Đông-Hiên bút lục của Ngụy Thái, Đàm phố của Tôn Thăng, Nhị
Trình di thư của Trình Hạo và Trình Di, Kê-Lặc
của Trang Xước, Lĩnh-ngoại đại-đáp
của Chu Khứ-Phi, Quế-Hải Ngu-Hành chí
của Phạm Thành Đại, Tống-hội yếu,
vân vân”.
(DẪN.
II. – TÀI LIỆU TRUNG QUỐC. Trang 22).
Ông Hoàng Xuân Hãn viết “Mộng-khê bút đàm của Thẩm Hoạt”.
Sai tên tác giả, tên đúng là “Thẩm
Quát”. Việc này cũng đã nói ở Bài phê bình
trước.
Kế đến, ông viết: “Kê-Lặc
của Trang Xước”.
Ghi thiếu tên tác phẩm, tên đầy đủ của tác phẩm
là “Kê Lặc Biên”.
Sau nữa, khi gạch nối giữa 2 chữ
“Tống”
và “hội”
trong tiếng “Tống-hội yếu” thì cũng không rõ ông Hoàng Xuân Hãn
có hiểu tiếng “Hội Yếu”
nghĩa là gì hay không?
Hội yếu
là loại sách phân Môn, biệt Loại mà ghi chép chế độ điển chương, Lễ,
Nhạc và cố sự của một triều đại, chẳng hạn “Đường Hội Yếu”,
“Ngũ Đại Hội Yếu”……
Do đó, nếu phải gạch nối thì phải gạch
nối giữa 2 chữ “Hội”
và “Yếu”: HỘI-YẾU.
Ghi chép trong các Bộ “Hội Yếu” là những tập lục từ Chính sử
của triều đại nghiên cứu và từ các Sử thư, nói chung là Thư tịch, có những ghi
chép liên quan triều đại này.
Tóm lại, “Hội
Yếu”, như tên gọi, là 1 tập lục những ghi chép quan trọng về các định chế của một triều đại.
Những tài liệu ghi chép về thời kỳ Bắc Tống (960 - 1127), là thời kỳ nói ở
đây, dĩ nhiên không chỉ chừng đó! Ngoài Chính
Sử, còn có những bộ Địa chí (tức sách chép Địa lý) cũng như những tập gọi là Bút ký của học giả, danh nhân…. Trong Sử
liệu thời kỳ này có những Bộ quan trọng nhưng Hoàng Xuân Hãn không có. Ngoài
ra, có những Bộ tuy ông liệt kê nhưng không thực sự đọc, chỉ dẫn lại từ Sách khác, chẳng hạn:
-
Tộc Thủy Ký Văn. Tư Mã Quang (1019 -
1086).
-
Mộng Khê Bút Đàm. Thẩm Quát (1031 -
1095).
-
Đông Hiên Bút Lục. Ngụy Thái (? - ?)
thời Bắc Tống.
-
Thiết Vi Sơn Tùng Đàm. Thái Thao (? -
?) cuối thời Bắc Tống, đầu thời Nam Tống.
Tác phẩm này ông Hoàng Xuân Hãn vì
không biết, chỉ dẫn lại theo Sách
khác, cho nên đã ghi tên không đầy đủ là “Tùng
Đàm”.
-
Quế Hải Ngu Hành Chí. Phạm Thành Đại
(1126 - 1193).
-
Lãnh Ngoại Đại Đáp. Chu Khứ Phi (1135
- 1189).
-
Kê Lặc Biên. Trang Xước (? - ?) thời
Nam Tống (1127 - 1279).
Tác phẩm này, như trường hợp “Thiết Vi Sơn Tùng Đàm”, ông Hoàng Xuân
Hãn cũng dẫn lại theo Sách khác cho
nên ghi tên thiếu là “Kê Lặc”.
Chứng cứ là Hoàng Xuân Hãn nói rằng trong tập
Bút ký “Kê Lặc Biên” Trang Xước có chép
lại một lá thư của Tôn Thù gởi cho Triều
Bổ Chi kể chuyện Tống Thần tông nói về vị trí của huyện Quang Lang của Giao
Chỉ ở đâu…… (Coi ở một đoạn sau).
+ Nếu có những Tập gọi là “Sử liệu Bút ký” trên đây người ta có thể nhận ra ngay ông Hoàng Xuân Hãn có, hay không có những Tác phẩm này. Vấn đề này tôi đã nêu rất rõ trong Bài phê bình trước, và trong Bài này.
Ngoài ra, lại có những Sử thư, những Địa chí, cũng như những Bộ Loại thư trọng yếu thời Triệu Tống mà khi viết về thời kỳ này một người nghiên cứu không thể không có:
- Thái Bình Hoàn Vũ Ký
-
thường được học giới gọi gọn là “Hoàn Vũ
Ký”.
1 bộ Địa lý Tổng chí giá trị khoảng sơ
kỳ triều Bắc Tống.
Nhạc Sử (930 - 1007) biên soạn.
-
Nguyên Phong Cửu Vực Chí -
thường được gọi tắt là “Cửu Vực Chí”.
+ Khởi biên từ năm thứ 8 Niên
hiệu Hi Ninh (1068 - 1077) - năm 1075, và hoàn tất vào năm
thứ 3 Niên hiệu Nguyên Phong (1078 - 1085) -
năm 1083, thời Tống Thần tông.
Vương Tồn (1023 - 1101) chủ biên -
với Tăng Triệu (1047 - 1107) và Lý Đức Sô (? - ?) đồng biên soạn.
-
Vũ Kinh Tổng Yếu.
Đinh Độ (990 - 1053) và Tăng Công Lượng
(998 - 1078) soạn.
Sách này ngoài vấn đề Quân sự, như Binh
thư, trận pháp, chiến pháp, quân khí…. còn một số tự thuật về Địa lý các vùng
giáp biên của Giao Chỉ và triều Bắc Tống.
-
Thái Bình Ngự Lãm -
thường được gọi tắt là “Ngự Lãm”.
Lý Phưởng (925 - 996) và một nhóm đình
thần biên soạn.
-
Thiệu Thị Văn Kiến Lục. Thiệu Bá Ôn
(1056 - 1134) thời Bắc Tống.
Ông quê ở Hà Nam nên hậu thế ghi tựa là
Hà Nam Thiệu Thị Văn Kiến Lục.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1997 / 2.
[Thiệu Bá Ôn là con của Triết học gia
Thiệu Ung (Khang Tiết: 1011 - 1077)].
-
Tục Tương Sơn Dã Lục. (Còn gọi Ngọc
Hồ Dã Sử).
Thích (Tỳ
kheo) Văn Oanh (? - ?) thời Bắc Tống.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1997 / 2.
-
Chư Phiên Chí. Triệu Nhữ Quát (1170 -
1231) thời Nam Tống.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2000 / Sơ.
-
Hạc Lâm Ngọc Lộ. La Đại Kinh (~1195 -
~1252) thời Nam Tống.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1983 / Sơ.
-
Tề Đông Dã Ngữ. Chu Mật (1232 - 1298)
cuối thời Nam Tống.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1983 / Sơ.
Tiếp đến, Mục III, giới thiệu “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” và tác giả của Bộ Sử thư này, ông Hoàng Xuân Hãn có đoạn viết:
“Những văn-tự Lý Đào dùng có Thực-lục của các đời vua Tống tức là theo công văn,
giao cho sử-quán chép, Thời
Chính-lục, Nhật-lục tức là lục chép lời nói, việc làm
của vua, do viện Thời-chính, Nhật-lục ở cạnh vua
chép hằng ngày và ghi những cử chỉ, tư tưởng riêng vua.
Hai loại này rất quí mà nay không còn đủ hay đã mất”.
(DẪN. III. – TỤC TƯ-TRỊ THÔNG-GIÁM
TRƯỜNG-BIÊN. Trang 23).
Trước hết, “Thực
Lục” là 1 thể tài của Biên niên sử, ghi chép những sự kiện quan trọng của một
triều vua, không là những ghi chép “theo công văn” như
Hoàng Xuân Hãn nói!
Tiếp đến, không có những cái gọi là “Thời Chính-lục, Nhật-lục”
như ông nói.
Danh từ chính xác là “Thời
Chính Ký”, hay “Thời Chính Kỷ”,
và “Nhật Lịch”;
việc này đã nói ở đoạn trước. (Xin coi phần nói về “Thời
Chính Kỷ” ở một đoạn trước).
Và rồi khi nói “Thời Chính-lục, Nhật-lục tức là lục chép lời nói, việc làm
của vua” thì lại rõ thêm Hoàng Xuân Hãn không
hiểu nội dung của Thời Chính Kỷ,
Nhật Lịch
là gì?
Những ghi chép về lời nói, việc làm
(ngôn, hành) của hoàng đế thời trước, nói chung là ghi chép lúc hoạt động, cũng như lúc nghỉ ngơi của hoàng đế, tóm lại là các
động, tĩnh gọi là “đi,
đứng, ngồi, nằm” -
mà Phật giáo gọi là “hành, trú, tọa, ngọa”
-
được ghi theo một thể văn gọi là “Khởi
cư chú”. Các đời Đường, Tống Cơ quan Môn Hạ
Tỉnh có chức Khởi Cư Lang, Cơ quan Trung Thư Tỉnh có chức
Khởi Cư Xá Nhân, là các chức quan kề cận vua để ghi chép ngôn ngữ, cử động của vua. Lúc
vua lâm triều nghị sự thì chức Khởi
Cư Lang đứng bên trái vua, chức Khởi
Cư Xá Nhân đứng bên phải ghi chép.
Những ghi chép của 2 chức này được gọi
là “Khởi Cư Chú”. Cuối năm 2 chức này giao những
ghi chép của mình cho bên Sử quán để lưu trữ.
Chữ “KHỞI”
là “đứng lên”, hàm ý “hoạt động”
-
Chữ “CƯ” nghĩa gốc là “NGỒI”,
từ gốc mà sinh các nghĩa “yên nghỉ, dừng lại,
ở” -
tự tên gọi đã nói lên nội dung của thể văn.
Tiếp đến, Tống triều không có một cơ quan nào gọi là “viện Thời-chính, Nhật-lục”, như Hoàng Xuân Hãn ghi ở trên, theo một sự suy đoán thiếu kiến thức Sử học!
Ở trang 286 ông Hoàng Xuân Hãn
viết:
“Vậy Quách Quì sai quân tiến tới
huyện Quang-lang. Quân Lý chặn ở ải Quyết-lý.
Đó là tiền-quân của phò-mã Thân Cảnh-Phúc. Quân Lý đem voi chống lại.
Quì sai Yên Đạt (TB 284/4a), Trương Thế-Củ tiến đánh (TB 279/11/a). Tu Kỷ đi
tiền phong. Tu Kỷ đưa quân đi lén tới, giết được 66 quân ta (TB 284/4a). Nhưng
bị voi cản đường, quân Tống không thể tiến. Quì sai quân cung tiễn-thủ lấy nỏ
bắn vào voi. Lại sai lấy mã tấu chém vòi voi. Voi sợ, quay chạy, dẫm xéo lên
quân Lý. Quân Lý tan vỡ. Quyết-Lý mất. Quân Tống tràn đến huyện Quang-lang (TB
279/12b)”.
Sách Quế-hải chí (theo lời SK, nhưng sách QHNHC không
chép) kể chuyện rằng: “Viên tri-châu Quang-lang là phò mã,
bị thua,
bèn trốn vào trong bụi cỏ. Thấy quân Tống đi lẻ loi thì ra giết
chết, hoặc bắt về chặt
ra ăn. Người ta cho là một vị thiên-thần”.
(CHƯƠNG X. XÂM-LĂNG ĐẠI-VIỆT. 8. -
TRẬN BIÊN-THÙY: QUYẾT-LÝ, MÔN, TÔ-MẬU).
Ông Hoàng Xuân Hãn chỉ dẫn lại sách
khác (sách SK, như ông nói), và rồi, vì không
có cuốn “Quế Hải Ngu Hành Chí” trong
tay ông mới viết mâu thuẫn như trên!
Không chỉ riêng trường hợp “Quế Hải Ngu Hành Chí”, Thư tịch cổ
Trung Quốc thường được gọi tắt, đây là điều không thể không biết.
Chẳng hạn:
-
“Thuyết Văn Giải Tự” gọi tắt là “Thuyết Văn”.
-
“Kinh Điển Thích Văn” gọi tắt là “Thích Văn”.
-
“Thái Bình Ngự Lãm” gọi tắt là “Ngự Lãm”.
-
“Văn Hiến Thông Khảo” gọi tắt là “Thông Khảo”.
Cho nên, có những lúc dẫn lại 1 sách dẫn lại 1 sách khác có
thể đưa tới sai lầm.
Tóm lại, trích dẫn từ tài liệu gốc là một
việc đáng mong muốn hơn hết, một việc
làm mà bất cứ người nghiên cứu đúng nghĩa
nào cũng phải làm.
SK là “Đại-Việt sử ký” (Nguyễn Tây sơn)
viết tắt.
Sau đây là nguyên văn câu chuyện kể
trong tập “Quế Hải Ngu Hành Chí”:
-
“……… Bát niên toại nhập khấu, hãm Ung, Khâm, Liêm tam Châu. Triều đình mệnh Quách Quì đẳng thảo chi; tặc khu tượng cự chiến, quan quân dĩ đại
đao trảm tượng tỵ, tượng bôn khước, tự
nhu kỳ đồ; đại binh thừa chi, tặc
hội, thừa thắng bạt Quang Lang huyện. Tri huyện, Giao chủ chi tế, đào phục thảo gian khuy kiến vương sư hoạch tặc tí
thực chi, dĩ vi thiên thần, qui báo kỳ chủ, viết:
~ Cẩu khả đào mệnh, tử tôn vật phạm đại
triều! ~”.
/
Quế Hải Ngu Hành Chí. Chí Man.
4 /.
-
“……… Năm thứ 8 thì vào cướp phá, hạ được 3 Châu Ung, Khâm, Liêm. Triều đình
lệnh cho nhóm Quách Quì đem quân hỏi tội; giặc xua voi ra đánh chống lại, quan quân dùng đại đao chém vào vòi voi, voi chạy lui, dày đạp chính phe mình; đại quân thừa đó tiến lên, thừa thắng hạ
được huyện Quang Lang. Tri huyện Quang Lang là con rể của vua Giao Chỉ, chạy trốn trong bụi cỏ, len
lén dòm ra thấy quân triều đình bắt được giặc chặt lấy tay ăn thì cho là thiên
thần, chạy về báo cho vua mình, nói:
~ Nếu thoát chết, con cháu chớ đụng tới
đại triều! ~”.
[Phụ chú.
Bát niên. Năm thứ 8 đây chỉ năm thứ 8
Niên hiệu Hi Ninh (1068 - 1077) triều Tống Thần tông].
Bộ “Đại-Việt sử ký” chắc chắn đã chép lại, và hơn thế nữa, còn sửa lại câu chuyện của Tập “Quế Hải Ngu Hành Chí”.
Ông Hoàng Xuân Hãn viết:
“Ngày đầu năm Đinh-tị (1077), vua Tống
Thần-tông nóng lòng, phán rằng: “Triều-đình muốn biết sự động-tĩnh của quân
An-nam hành-doanh từng ngày một. Vậy sai Chu Ốc, hiện sung chức quyền-phát ở Ung-châu, phải tâu về hằng ngày. Phu
mang điệp, sẽ dùng thứ bài dài đặc biệt, viết chữ lớn để xa trông rõ,
đề chữ Khu mật-cấp-tốc văn-tự (văn-tự cấp-tốc của bộ quốc-phòng),
và phải chạy qua các trạm không phải
dừng.” Nhờ vậy vua Thần-tông theo-dõi đại-quân tiến hằng
ngày.
Vua rất quan-tâm đến việc này, cho
nên luôn luôn xem địa-đồ và trình-lục rất kỹ-lưỡng. Lúc Quách Quì tâu về báo
rằng đại-quân đã đến Quang-lang, vua Tống mừng; nói cho các quan biết. Nhưng
các cận thần không biết Quang-lang ở đâu. “Vua bèn giảng cho biết từ Quang-lang
đến chỗ này 50 dặm là đường gần (có lẽ là đường ải Chi-lăng), đến chỗ kia 100
dặm là đường xa (có lẽ là đường quanh trong núi). Vua chỉ chỗ hiểm, chỗ bằng,
lối quanh, lối thẳng, thuộc như đếm mấy ngón tay” (Theo
lời Tôn-Thù gửi cho Triều
Bổ-Chi, chép trong sách Kê-lặc)”.
(CHƯƠNG XI. HÒA VÀ HÒA-BÌNH. 7. -
GIẢNG-HÒA. Tr. 308, 309).
Và như vậy, chắc chắn là ông Hoàng Xuân
Hãn không có tập Bút ký “Kê Lặc Biên”,
và cũng như vậy, chắc chắn ông đã dẫn
lại sự việc “lời Tôn-Thù gửi cho
Triều Bổ-Chi” ở
đâu đó, từ một cuốn sách nào đó, nhưng ông đã nhớ tên sách
không chính xác – hoặc ông Hoàng Xuân Hãn trích dẫn lại theo một tác giả nào
đó, một cuốn Sách nào đó – và tác giả
này sai, Sách này sai, ông không
biết, cứ thế mà chép lại!
Chuyện trích dẫn lại sai lạc nói ở trên
rất thường thấy nơi những người
nghiên cứu mà không đọc thẳng ngôn ngữ gốc, ở đây là Hán văn.
Đoạn trên là 1 đoạn ghi trong “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên”. Coi nguyên tác đoạn này thì thấy Hoàng Xuân Hãn đã sai những điểm rất nặng:
1). “Chức quyền-phát”.
Trong Quan chế của Trung Quốc ngày trước tuyệt nhiên không có một chức
nào gọi là chức “quyền-phát”
như ông Hoàng Xuân Hãn viết.
Trong nguyên tác (dẫn ở sau) ghi là “quyền
phát khiển”:
~ Chữ “quyền”
đứng riêng, chữ này có nghĩa là “quyền lực, quyền hành”.
Nói chung, có quyền tức có chức, do đó,
“quyền” cũng đồng nghĩa với “chức”.
~ 2 chữ “phát / khiển”
đi với nhau. Phát khiển
=
chuyển giao, gởi đi.
Hoàng Xuân Hãn nói “để
xa trông rõ”, nhưng không nói rõ trông rõ để làm
gì?
Ở phía dưới Hoàng Xuân Hãn viết “phải
chạy qua các trạm không phải
dừng”, và có vẻ ông hiểu là người cầm Thẻ bài
viết chữ lớn để các Trạm kiểm soát dọc đường thấy mà không chặn lại xét hỏi. Ở
điều mục 3). sẽ nói rõ hơn về việc này.
Thẻ bài viết chữ lớn, ở đây là mấy chữ “Công văn cấp tốc của Khu Mật Viện”, là để cho dễ thấy để
người thấy phải tránh đường, biểu thị đây là văn thư quan trọng!
Trước hết, Hoàng Xuân Hãn không hiểu 2
tiếng “văn tự” nghĩa là gì cho nên để nguyên chữ làm
cho câu văn không có vẻ Việt chút nào!
Từ điển Từ Nguyên giải nghĩa tiếng “văn tự”
như sau:
-
“[Văn tự]. 1. …….
2. Liên trệ nhi thành đích văn chương……
Hựu chỉ án quyển, công văn……”.
-
“[Văn tự]. 1. ……
2. Nối kết (chữ lại) thành bài văn……
Cũng chỉ văn kiện, công văn……”.
[Ghi chú. Số 2 ghi trên trong Từ
điển Từ Hải tức chỉ nghĩa thứ 2
của tiếng “Văn tự”.
Trong tiếng Việt người ta chỉ nói “Văn
tự bán nhà”, tức bản khế ước bán nhà, không ai nói các văn bản hành
chánh như văn thư, công văn… là “văn tự” như ông Hoàng Xuân Hãn viết cả!].
Cho đúng tinh thần tiếng Việt, câu trên
phải viết: “Công văn cấp tốc của Khu Mật
Viện”.
Cơ quan “Khu Mật Viện”
nắm giữ toàn bộ Quân quốc cơ vụ -
bao gồm các việc ban bố mệnh lệnh trong quân, trong thì sắp xếp trực ban của
Thị vệ, nội, ngoại Cấm quân, còn ngoài thì quyết định chính sách đồn thú, phòng
giữ biên địa, mộ quân, tuyển tướng,
và thưởng phạt trong Quân…… tất cả đều nằm trong quyền hạn của “VIỆN”
này.
Đã nói ở một đoạn trước, Trung Thư Tỉnh
và Khu Mật Viện
được gọi là “Lưỡng
Phủ”, là 2 Cơ quan nắm trọn quyền lực Quốc
gia. Trung Thư Tỉnh
là chỗ làm việc của Tể tướng
và Khu Mật Viện
là nơi làm việc của Khu Mật Sứ.
Tể tướng và Khu Mật Sứ quyền hành
ngang nhau. Hoặc nói rõ hơn, ngoài quyền lực Quân sự Khu Mật Sứ còn có quyền lực Chính trị nữa! Quyền Chính trị này của Khu Mật Sứ là điểm khác biệt
rất lớn để có thể coi “Khu
Mật Viện” như Bộ Quốc phòng ngày nay, và Khu Mật
Sứ là Bộ trưởng - bởi lẽ trong tổ chức quyền lực Tống triều Tể tướng không có quyền cách chức Khu Mật
Sứ.
Còn Bộ
trưởng Quốc phòng ngày nay không có quyền Chính trị, viên Bộ trưởng Bộ này
chỉ là một thuộc cấp của Thủ tướng (như Tể
tướng thời cổ) trong Nội các. Và chúng ta đều biết trong cơ cấu Chính quyền ngày
nay Thủ tướng có quyền cách chức Bộ trưởng Quốc phòng, dễ dàng! Bộ trưởng
Quốc phòng, nếu không đồng ý với Thủ
tướng vị này chỉ có cách từ chức chứ không thể cãi lệnh Thủ tướng -
đây là điểm khác biệt rất lớn về tương quan Tể tướng / Khu Mật
Sứ thời cổ -
và Thủ tướng / Bộ trưởng Quốc phòng ngày nay. Tôi đã nói qua trước đây:
Sau khi THÀNH UNG CHÂU
thất thủ Tống Thần tông muốn triệu tập một buổi họp giữa Đông Phủ (Trung Thư Tỉnh) và Tây Phủ (Khu Mật Viện) tại Thiên Chương Các thì
quan Tể tướng Vương An Thạch gạt đi, nói “chi bằng chỉ họp bàn ở Đông
Phủ thôi”, tức có ý kiêng dè bên Khu Mật Viện,
kiêng dè vị Khu Mật Sứ.
(Về việc Thần tông định triệu tập cuộc
họp này, xin coi bài Phê bình trước).
Năm thứ 5 Niên hiệu Nguyên Phong (1078
- 1085), năm 1082, lúc sắp cải tổ Quan Chế có người đề nghị bãi “Khu
Mật Viện”, mọi Sự vụ của Viện giao cho Binh
Bộ, vua Tống Thần tông lấy lý do định chế của Tổ tông không thể bỏ mà bác
bỏ đề nghị này.
(Tham khảo:
Tống Sử. Qu. CLXII. Chức Quan Chí.
Chức quan 2. Khu Mật Viện).
3). “phải
chạy qua các trạm không phải
dừng”.
Câu này Hoàng Xuân Hãn dịch lìa xa
nguyên tác cả ngàn dặm, bởi một lẽ rất giản dị là ông ta chẳng hiểu
nguyên tác nói cái gì!
Nguyên tác:
-
“Đệ giác hậu, biệt dụng
trường Bài đại thư <KHU MẬT VIỆN Cấp tốc Văn tự>,
vô đắc nhập phố”.
-
“Sau khi Công văn đã niêm phong
thì đặc biệt kèm theo một tấm thẻ Bài dài, trên thẻ viết mấy chữ khổ lớn ghi <Công văn Cấp tốc của KHU MẬT VIỆN>,
(CÔNG VĂN NÀY) không được nhập
chung với Văn thư gởi qua các trạm chuyển văn thư và hàng hóa”.
Nguyên tác
ghi thực rõ là “(Công
văn này) không
được nhập chung với
các Văn thư gởi qua các trạm chuyển văn thư và hàng hóa”.
Hoàng Xuân Hãn chẳng hiểu các câu “đệ
giác hậu”, “vô đắc nhập phố” nói
cái gì, do đó dịch mò mẫm là “phải
chạy qua các trạm không phải
dừng”!
Lại nữa, chữ “trạm”
ở đây hàm hồ! Vì “trạm”
đây là trạm gì? Trạm kiểm soát? Có vẻ như Hoàng Xuân Hãn muốn nói trạm kiểm
soát, xét hỏi kẻ qua người lại! Căn cứ văn
ý của ông ta thì như vậy!
Đối chiếu nguyên tác và phần dịch chính xác của tôi ở trên, có thể thấy ngay:
(a).
Hoàng Xuân Hãn vì không hiểu câu “đệ giác hậu”
nói gì nên bỏ không dịch.
(b).
Hoàng Xuân Hãn hoàn toàn không hiểu
câu “vô đắc nhập phố”
nói gì?
Như đã dịch ở trên thì rõ, Tống Thần
tông ra lệnh: Công văn Cấp tốc của Khu Mật
Viện không được đưa vào các “Trạm
chuyển giao văn thư và hàng hóa”, gom chung với các Văn thư thường
mà gởi đi!
Trong khi đó, ông Hoàng Xuân Hãn chừng
như lại hiểu câu này là
kẻ chuyển Công văn cấp tốc “không phải dừng”
ở các “trạm kiểm soát”. Bởi vậy mà ông ta đã dịch một cách sai, lạc cả ngàn dặm
như đã thấy: “phải
chạy qua các trạm không phải
dừng”.
Chữ “nhập”
ở đây là “nhập chung vào”,
chỉ “công văn cấp tốc” đã nói, Hoàng Xuân Hãn lại hiểu sai là người chuyển công văn “không
phải vào trạm”, bởi
thế đã dịch rất sai lạc là “phải
chạy qua các trạm không phải
dừng”.
Ông Hoàng Xuân Hãn không biết một điều là vào thời Triệu Tống (960 - 1279) người ta gọi chung Trạm chuyển giao Văn thư là “Phố”, như “Đệ Phố”, “Mã Phố” / hay “Mã Đệ”.
Mã Phố,
như tên gọi, là Trạm dùng ngựa để
chuyển Văn thư. Thời Tống thì cứ 20 dặm đặt 1 Mã Phố.
TRẠM chuyển Công văn, các thời Đông Hán (25
- 220), Đường (618 - 907) được gọi là Dịch mã,
dịch trạm, bưu đình, hay ngắn gọn chỉ gọi là DỊCH.
Vào các thời Hán, Đường cứ mỗi 30 dặm
thì lập 1 dịch trạm:
-
“Dịch mã tam thập lý nhất trí”. -
“Dịch trạm mỗi 30 dặm lập 1 trạm”.
/ Hậu
Hán Thư. Chí. Qu. XXIX. Dư phục Chí – Thượng /.
-
“Phàm tam thập lý hữu Dịch”. -
“Cứ 30 dặm có 1 Dịch trạm”.
/ Tân Đường Thư. Qu. XLVI.
Bách quan chí 1. Binh Bộ /.
Thời Đường, toàn quốc có tất cả 1,639 dịch trạm:
-
“Cử thiên hạ tứ phương chi sở đạt vi Dịch thiên lục bách tam
thập cửu”.
/ Tân Đường Thư. Qu. XLVI. Bách quan chí 1. Binh Bộ /. - “Các nơi ở bốn phương trong toàn thiên hạ số Dịch trạm là 1,639 Trạm”.
Cũng “Tân Đường Thư” (Qu. đã dẫn trên) cho biết Đường triều ở vùng sông
nước còn thiết lập những Trạm “Thủy dịch”,
dùng ghe, thuyền chuyển Văn thư.
~ 10 dặm thì có Lư (nhà), 30 dặm có Túc
(ở, như nói “tá túc”), 50 dặm có Thị (chợ), và 20 dặm thì đặt “Mã
Phố”, 60 dặm thì lập Dịch.
(Tham khảo:
Sự Vật Kỷ Nguyên. Qu. VII. Khố Vụ
Chức Cục BỘ 34. Dịch).
Ngoài ra, Dịch trạm còn là chỗ thu
thuế.
~ 1 dặm (lý) thời Đông Hán
=
0.4275 km.
~ 1 dặm (lý) thời Đường
=
0.5598 km.
~ 1 dặm (lý) thời Triệu Tống
=
0.55296 km.
Thẩm Quát (1031 - 1095) cho biết các mức
độ nhanh gấp của việc chuyển văn thư:
-
“Dịch truyền cựu nhật hữu tam đẳng, viết: Bộ đệ, Mã đệ, Cấp
cước đệ. Cấp cước đệ tối cứ, nhật hành tứ bách lý, duy quân
hưng tắc dụng chi.
Hi Ninh trung hựu hữu “Kim tự
bài cấp cước đệ”, như cổ chi vũ hịch dã! Dĩ mộc bài chu tất
hoàng kim tự, quang minh huyễn mục, quá như phi điện, vọng chi giả vô bất tị lộ -
nhật hành ngũ bách dư lý. Hữu quân tiền cơ tốc xứ phân, tắc tự Ngự tiền phát
hạ, Tam Tỉnh, Khu Mật Viện mạc đắc dự dã!”.
/ Mộng
Khê Bút Đàm. Qu. XI. Quan Chính 1. Dịch truyền /.
-
“Việc chuyển văn thư thời trước có 3 cấp là: Bộ đệ, Mã đệ.
Cấp cước đệ. (3 cấp này) Cấp cước đệ là nhanh nhất, mỗi
ngày đi 400 dặm, chỉ lúc động binh mới dùng cấp này.
Trong khoảng Niên hiệu Hi Ninh lại có
cấp “Kim tự bài cấp cước đệ”, giống như vũ hịch thời cổ! Cầm tấm Thẻ bài gỗ sơn đỏ, chữ trên
thẻ sắc vàng kim chói ngời chóa mắt, kẻ giao Văn thư vút đi như chớp lóe, thấy Thẻ bài này không ai là không tránh đường -
mỗi ngày (người chuyển văn thư này)
đi hơn 500 dặm. Lúc gặp việc Quân cơ
khẩn cấp thì dùng cấp chuyển Văn thư
này, và do Vua phát lệnh xuống, (ngay đến)
các Cơ quan Tam Tỉnh, Khu
Mật Viện, không Cơ quan nào được dùng
cấp chuyển văn thư này!”.
[Phụ chú.
Vũ hịch. Còn gọi là Vũ thư. Thời cổ, người ta gắn một cái lông chim (vũ) kèm theo
bài hịch để biểu thị đây là việc khẩn cấp – lông
chim ý nói nhanh như chim bay.
(Tham khảo: “Sử ký”. Qu. XCIII. [Hàn Vương Tín]. Lư Yển liệt truyện).
Tam Tỉnh. Tức Trung Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh, Thượng Thư Tỉnh, 3 Cơ quan đầu não ở cấp Chính quyền Trung Ương thời Tống. 3 Cơ quan này đã
nói ở một đoạn trước, ở đây xin lập lại.
Chức năng của Tam Tỉnh đại khái:
-
Trung Thư Tỉnh lập kế hoạch.
Đứng đầu Trung Thư Tỉnh là chức Trung
Thư Lệnh.
-
Môn Hạ Tỉnh duyệt xét, thẩm định Chiếu, Lệnh, thị thực Chương, Tấu... và ngoài
ra lại còn có quyền bác khước ý kiến, kiến nghị của các Cơ quan khác.
Đứng đầu Môn Hạ Tỉnh là chức Thị Trung.
-
Thượng Thư Tỉnh chấp hành những quyết định của 2 Cơ quan trên.
Đứng đầu Thượng Thư Tỉnh là chức Thượng
Thư Lệnh].
Căn cứ đoạn văn dẫn trên trong tập Bút ký “Mộng Khê Bút Đàm” có thể suy biết được Tống Thần tông đã dùng lệnh “Kim Tự Bài Cấp Cước Đệ” để chuyển công văn báo cáo về tình hình hành quân của “An Nam Hành Doanh”.
Sau đây là đoạn đường từ các Địa khu trọng yếu của Quảng Nam Tây Lộ [Quảng Tây] tới BIỆN KINH (tức ĐÔNG KINH), Kinh Đô của triều Bắc Tống (960 - 1127), để coi việc chuyển Công văn của “Kim tự bài Cấp cước đệ” về Kinh Sư mất bao nhiêu thời gian.
(1). QUẾ CHÂU.
Sách “Thái Bình Hoàn Vũ Ký” viết:
-
“Quế Châu……
Châu cảnh. Đông Tây lục bách lý, Nam Bắc ngũ bách
ngũ thập lý.
Tứ chí Bát đáo. Bắc chí
Đông Kinh, Lục lộ tam thiên lục bách thất thập cửu lý; Thủy lộ tứ thiên lục
bách tam thập lý. Bắc chí Tây kinh, Lục lộ tam thiên tứ bách ngũ lý; Thủy lộ tứ
thiên tam bách nhị thập lý”.
/ Thái Bình Hoàn Vũ Ký. Qu. CLXII. Lãnh Nam Đạo 6. Quế Châu /.
-
“Quế Châu.
Địa giới Châu. Từ Đông qua Tây 600 dặm, từ Bắc xuống Nam 550
dặm.
Đi các nơi. Đi về Bắc tới Đông Kinh, đường Bộ là 3,679
dặm; đường Thủy 4,630 dặm. Đi
về phía Bắc tới Tây Kinh, đường Bộ là 3,405 dặm; đường Thủy 4,320 dặm”.
Sau đó 4 Quyển, “Thái Bình Hoàn Vũ Ký” chép:
-
“Ung Châu……
Châu cảnh. Đông Tây bát bách bát thập lý, Nam Bắc
tam bách thất lý.
Tứ chí Bát đáo. Bắc chí
Đông Kinh ngũ thiên lý. Bắc chí Tây Kinh ngũ thiên tam bách nhị thập thất
lý”.
/
Thái Bình Hoàn Vũ Ký. Qu.
CLXVI. Lãnh Nam Đạo 10. Ung Châu /.
-
“Ung Châu……
Địa giới Châu. Từ Đông qua Tây 880 dặm, từ Bắc xuống Nam 307
dặm.
Đi các nơi. Đi lên Bắc tới Đông Kinh 5,000 dặm.
Đi lên Bắc tới Tây Kinh 5,327 dặm”.
Đã biết, 1 dặm thời Tống =
0.55296 km, và Cấp chuyển giao Công văn nhanh nhất là Cấp “Kim Tự Bài Cấp Cước Đệ”, mỗi ngày đi hơn 500 dặm,
cứ đây mà tính:
Quế Châu – Đông Kinh
đi mất trên dưới 7 ngày: (3,679 dặm x
0.55296 km) ¸
500.
Ung Châu – Đông Kinh
đi khoảng trên dưới 10 ngày: (5,000 dặm
x 0.55296 km) ¸
500.
Bộ “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” viết về lệnh trên của Thần tông như sau:
-
“Hi Ninh thập niên.
Xuân. Chinh nguyệt Nhâm Tý sóc……
Thượng phê:
~ An
Nam Hành Doanh quân tiền động
tĩnh, triều đình dục nhật tri chi, khả lệnh quyền phát khiển Ung Châu sự
Chu Ốc nhật cụ dĩ văn. Đệ giác hậu, biệt dụng trường bài đại
thư “Khu Mật Viện cấp tốc văn tự”, vô đắc nhập phố ~”.
/
Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên.
Qu. CCLXXX. Thần tông /.
-
“Năm thứ 10 Niên hiệu Hi Ninh.
Mùa Xuân. Tháng Giêng, mồng 1 ngày Nhâm
Tý……
Vua phê:
~ Tình hình tiến quân của An Nam Hành Doanh triều đình muốn biết
mỗi ngày, phải ra lệnh cho chức lo việc
chuyển văn thư của Ung châu là Chu Ốc mỗi
ngày phải báo cáo đầy đủ. Sau khi Công văn đã niêm phong thì đặc biệt kèm theo 1 tấm thẻ bài
dài, trên thẻ viết mấy chữ khổ lớn ghi “Công văn Cấp tốc của Khu Mật
Viện”, (CÔNG VĂN NÀY) không
được nhập chung với Văn thư gởi qua các trạm chuyển văn
thư và hàng hóa. ~”.
+ Một vài chữ cần giải thích trong đoạn văn dẫn trên của nguyên tác:
1/. Câu “đệ giác hậu”
(“Sau khi Công văn đã niêm phong”).
Chữ “ĐỆ”
nghĩa là “gởi đi”,
“chuyển giao”, như nói “đệ
trình”, ở đây tức chỉ Công văn.
Chữ “GIÁC”
có rất nhiều nghĩa, trong số nghĩa này có vài nghĩa thông thường chúng ta đều
biết là “sừng thú”,
là “góc, cạnh”......
, như tê giác, ngưu giác,
tam giác……
Ở đây, chữ “GIÁC” có nghĩa mà Từ điển Từ
Hải (Hợp đính Bản. HC) ghi như sau:
-
“[Giác]. 1. ……
14. Công văn nhất phong dịch xưng <nhất giác>”.
-
“[Giác]. 1. ……
14. Công văn một khi đã niêm
phong cũng gọi là <nhất giác>”.
[Ghi chú. Số 14 ghi trong Từ điển
Từ Hải ở trên tức nghĩa thứ 14 của chữ “GIÁC”].
Tức chữ “GIÁC”
ở đây có nghĩa là “niêm phong”,
tức dán kín lại, khằn lại…… ý nói xếp
cái GÓC (GIÁC) của MIỆNG phong bì bao Văn thư lại.
Chữ “PHỐ” đây tức “ĐỆ PHỐ”,
nghĩa là Trạm chuyển Văn thư và hàng hóa
đã dịch.
Tập Bút ký “Lãnh Ngoại Đại Đáp” cũng là Tác phẩm được Hoàng Xuân Hãn trưng dẫn
một số đoạn về một số vấn đề, như giao dịch, triều cống……
1). Giao dịch.
“Một nơi quan trọng thuộc trại
Vĩnh-bình. Sách LNĐĐ chép: “trại Vĩnh-bình kề Giao-chỉ,
chỉ cách bằng một con sông mà thôi.
Phía bắc sông có trạm Giao-chỉ (ở đất Tống).
Phía nam sông có
đình Nghi-hòa. Đều là chỗ để buôn bán trao đổi, do
chúa trại Vĩnh-bình cai quản. Người
Giao-chỉ đem các vật
quí (vì đường bộ
khó chở) như các thứ hương, ngà, sừng tê, vàng, bạc, tiền đến đổi lấy các thứ
vải, vóc. Chỉ có muối là hàng nặng. Muối chỉ
dùng đổi lấy vải thường mà thôi. Muối đóng thành sọt,
mỗi sọt 25 cân.
Vải dệt ở huyện Vũ-duyên, khổ hẹp.
Có lẽ trạm này là chợ Kỳ-lừa ngày nay”.
(CHƯƠNG V. BANG-GIAO LÝ TỐNG. 2. –
GIAO-DỊCH. Tr. 121, 122).
1). “trại Vĩnh-bình kề Giao-chỉ,
chỉ cách bằng một con sông mà thôi”.
Vĩnh Bình và Giao Chỉ, bên này bên kia
chỉ cách nhau một cái “khe suối”,
không phải là một “con sông”.
Cái sai này tôi đã nói trong bài Phê bình trước.
Tên đúng là “Đình
Tuyên Hòa”, không phải là “đình
Nghi Hòa”. Cái sai này tôi cũng đã nói ở bài Phê
bình trước.
Nguyên tác:
“Phàm lai Vĩnh Bình giả, giai Động lạc Giao nhân, tuân LỤC
nhi lai, SỞ TÊ tất quí
tế, duy DIÊM thô trọng”.
-
“Nói chung thì những người tới Vĩnh Bình đều là những dân Giao Chỉ ở các Động,
họ theo ĐƯỜNG BỘ mà tới, những THỨ họ MANG TỚI đều
là những thứ gọn nhẹ, chỉ
có
MUỐI là nặng và cồng kềnh”.
Chữ “TÊ”
nghĩa là “mang theo”,
chữ “QUÍ” là “chuộng, ưa, thích”,
chữ “TẾ” là “nhỏ”;
tức khi qua Vĩnh Bình người Giao Chỉ rồi thích mang theo những vật nhỏ,
gọn nhẹ.
Nếu không hiểu câu kể trên, đọc tới câu
sau, “duy diêm thô trọng”,
thì có kém đến mấy một người có
trình độ trung bình về Hán văn cũng đoán được ngay câu trước
nói gì!
Chữ “TUÂN” nghĩa
là “theo, thuận theo”,
như nói “tuân lệnh”, chữ “LỤC”
là “đường bộ”.
Và câu “tuân lục nhi lai”
nghĩa là “theo đường bộ mà tới”
-
một câu hết sức dễ, vậy mà không hiểu làm thế nào Hoàng Xuân Hãn lại dịch thành “(vì
đường bộ khó chở)”?
Câu này Hoàng Xuân Hãn để trong (ngoặc đơn) nhằm giải thích câu trước, thế nhưng xét về
mặt tương quan ý nghĩa thì câu được giải thích -
tức câu “đem các vật quí”,
và câu giải thích liền ở sau - tức câu (“vì
đường bộ khó chở”), rồi chẳng ăn nhập gì cả!
Đây là chưa nói là câu “tuân
lục nhi lai” đứng liền ngay trước câu “sở tê tất quí tế”
trong bản văn nguyên tác.
Tóm lại, HIỂU SAI
đã là một cái SAI
-
đảo lộn thứ tự tự thuật của nguyên
tác nhằm ráp tất cả lại sao cho khớp
cái hiểu sai,
suy diễn sai
của mình lại là một LẦM LẪN khác!
Phần trích, dịch nguyên tác của tôi ở
một đoạn sau sẽ cho thấy những cái sai, lầm này của Hoàng Xuân Hãn -
kể cả những cái thiếu sót.
Càng đọc cuốn “Lý Thường-Kiệt” thì càng hụt hẫng, vì thấy ở đâu, chỗ nào trong
sách Hoàng Xuân Hãn cũng sai, không nhiều thì ít, và phần lớn là những LỖI khiến người ta phải sững sờ!
Và như vậy, không nói cũng có thể tưởng ra được những sai lầm của Hoàng
Xuân Hãn ở lần xuất bản đầu tiên năm
1949 là như thế nào!
4). “Muối đóng thành sọt, mỗi sọt 25 cân. Vải dệt ở huyện Vũ-duyên, khổ hẹp”.
(a). “Muối đóng thành sọt”.
Chu Khứ Phi nói người Giao Chỉ đựng
muối trong cái “LA”
tới Vĩnh Bình Trại giao dịch.
Từ điển Từ Nguyên giải nghĩa chữ “LA” như sau:
-
“[La]. Trúc khí. Để phương thượng viên, khả tác thành vật hoặc đào mễ chi
dụng”.
-
“[La]. Dụng cụ đan tre. Đáy vuông, trên tròn, có thể dùng để đựng đồ, hoặc vo
gạo”.
Chính xác, rõ ràng nhất là ghi chép (và
hình vẽ) của Vương Trinh (? - ?), Nông học gia đời Nguyên (1279 - 1368),
trong bộ “Đông Lỗ Vương Thị Nông Thư”:
-
“LA. Tích trúc vi chi, thượng viên hạ phương, khiết mễ cốc khí, lượng khả nhất
Hộc.
Phương Ngôn: ~ LA
sở dĩ chú hộc, Trần, Ngụy, Tống, Sở chi gian vị chi hịch; tự Quan
nhi Tây vị chi chú cơ. ~, giai LA chi biệt danh dã”.
/
Đông Lỗ Vương Thị Nông Thư. Nông
khí đồ phổ tập 8. LA /.
-
“LA. Đan lạt tre làm thành, dạng trên tròn dưới vuông, là dụng cụ đựng lúa gạo,
dung lượng cũng tới một Hộc.
Tập Phương
Ngôn nói: ~ Cái LA dùng để đựng
lúa gạo, [và] đong lúa gạo, ở các vùng Trần, Ngụy, Tống, Sở gọi
là cái Hịch; từ vùng Quan (Nội) qua các vùng miền Tây gọi là chú
cơ. ~, tất cả đều là tên gọi khác của cái LA”.
[Ghi chú. HỘC là dụng cụ lường dung
tích, bằng 100 Thăng. 1 Thăng đời Tống =
0.6641 Lít.
Bộ “Phương Ngôn” là 1 sưu tập phương âm
các vùng; đây là tác phẩm giá trị về Hán ngữ cổ.
Dương Hùng (53 tr. Cn - 18) cuối triều
Tây Hán (206 tr. Cn. 08) soạn.
Chú thích câu “sở dĩ chú hộc”,
Quách Phác (276 - 324) thời Đông Tấn (317 - 420) viết:
-
“Thành mễ cốc tả Hộc trung giả dã”. -
“Đựng lúa gạo để đong vào cái Hộc”.
Trần. Nay là vùng phía Đông huyện Khai
Phong tỉnh Hà Nam + bắc Hào huyện tỉnh An Huy. Ngụy. Nay là miền
Bắc tỉnh Hà Nam + miền Tây nam tỉnh Sơn Tây.
Tống. Hiện nay là huyện Thương Khâu tỉnh
Hà Nam.
Sở. Bao gồm các tỉnh Hồ Bắc, Hồ
Nam, An Huy, Giang Tô, và Chiết Giang hiện nay].
(Tham khảo
Thái Bình Ngự Lãm. Qu. DCCLXIV. Khí
vật Bộ 9. Hịch).
Cứ như trên thì Hoàng Xuân Hãn dịch chữ
“LA” là cái “SỌT” là
không chính xác.
Lại nữa, nói “đóng
thành sọt” là đóng ra làm sao?
¸
Dẫn từ: Đông Lỗ Vương Thị Nông Thư. Nông khí đồ phổ tập 8.
~ Phần chữ Hán ở bên phải Hình là dịch
văn (bạch thoại) và chú thích của Khải Du.
Chữ viết là Hán tự giản thể,
đọc theo hàng ngang, từ TRÁI qua.
~ Nguyên tác (Cổ văn) của Vương
Trinh in ở phần sau Sách, trang 656.
~ Cái LA có 3 cái quai, để luồn dây
đeo sau lưng
khi phải mang lúa gạo các thứ -
hoặc muối như ở đây, đi đường xa cho gọn, tiện.
~ Cứ như hình dạng cái LA thì đây
chính là vật mà người Việt gọi là cái GÙI.
Lại nữa, trong tập Bút ký “Lãnh Ngoại Đại Đáp” Chu Khứ Phi cũng
cho biết 1 chi tiết là những người Giao Chỉ tới Bác dịch trường trại Vĩnh Bình
để giao dịch, buôn bán đều là dân ở các Động, tức dân thiểu số -
mà dân thiểu số thì vẫn dùng cái GÙI
để đựng đồ.
Còn riêng về cái “LA” mà Từ điển Từ Nguyên
- đã dẫn ở một đoạn trước, nói là có thể dùng để vo gạo thì đây là cái “Si”, một loại Gùi
nhỏ hơn cái
“LA” một chút.
Vương Trinh viết trong “Đông Lỗ Vương Thị Nông Thư”, liền sau
mục mô tả cái LA:
-
“Si. Dịch La thuộc, tỉ La sảo biển nhi tiểu, dụng dịch bất đồng.
Si tắc tạo tửu, tạo phạn, dụng chi lộc
mễ, hựu khả thành thực vật. Cái LA thành kỳ thô giả nhi Si thành kỳ tinh giả; tinh, thô các thích sở thụ, bất khả dịch dã!”.
/ Đông Lỗ Vương Thị Nông Thư. Nông khí đồ
phổ tập 8. Si /.
-
“Si. Cũng thuộc loại cái LA, so với cái La thì hơi mảnh và nhỏ hơn, công dụng cũng không giống (cái La).
Cái Si
thì dùng để ngâm gạo, (và nếp), để nấu rượu, nấu cơm, lại có
thể dùng để đựng thức ăn.
Nói chung, cái LA dùng để đựng những vật thô, lớn, còn cái Si thì dùng đựng những vật nhỏ, nhuyễn;
(những vật) nhỏ, nhuyễn
cũng như (những vật) thô, lớn
đều có đồ đựng thích nghi, không thể dùng thay cho nhau được!”.
[Hình
II]. Cái Si (Cái gùi nhỏ).
~ Cái Si có tất cả 4 cái quai, 2 quai tròn và 2 quai tam giác,
nhiều hơn cái La 1 quai.
~ Có lẽ cái Si là vật dân Giao Chỉ dùng để đựng muối qua Bác dịch trường Vĩnh
Bình.
(b). “mỗi sọt 25 cân”.
Tiếp đến, nói 25 cân mà không nói 1 Cân là bao nhiêu, tính ra Hệ thống SI, thì làm cho người đọc rồi không hình
dung được mức độ nặng, nhẹ.
1 Cân thời Tống đổi ra Hệ thống SI =
596.82 g, tức 0.59682 kg.
Vậy 25 Cân muối: 25 Cân x 0.59682 kg =
14.9205 kg.
(c). Ở đây, câu
“Vải dệt ở huyện Vũ-duyên, khổ hẹp” đứng
“lơ láo” ở
cuối đoạn văn, nó đứng đó, lơ lửng, trên không máng chỗ nào, dưới không bám
vào đâu - làm người đọc không rõ, thực sự không rõ,
Hoàng Xuân Hãn muốn nói cái chi ở đây
khi ông bỗng đâu gieo một câu như
vậy?
Với một CÂU như thế người đọc sẽ đặt
những câu hỏi, những câu hỏi mà chắc chắn là ông Hoàng Xuân Hãn không sao trả
lời được:
a/. “Vải dệt ở huyện Vũ
Duyên”, vậy huyện Vũ Duyên ở Giao Chỉ, hay ở
Trung Quốc?
b/. Câu này có nhiệm vụ gì trong đoạn tự thuật về giao dịch giữa dân Giao Chỉ với
các dân buôn bán của Tống? Đây chính là một sự phân tích mệnh đề (Analyse
logique) mà ở bậc Trung học Pháp học sinh phải biết, Hoàng Xuân Hãn học trường
Tây mà!
Hãy coi Chu Khứ Phi nói cái gì trong “Lãnh Ngoại Đại Đáp”:
-
“Nhiên DIÊM chỉ khả dịch BỐ
nhĩ! - dĩ nhị
thập ngũ cân vi nhất la. Bố dĩ
Ung châu Vũ Duyên sở sản, hiệp trường
giả”.
-
“Nhưng MUỐI thì chỉ có thể đổi lấy VẢI! -
25 cân chất vào 1 gùi. Vải (họ đổi lấy) là thứ vải dệt tại huyện Vũ Duyên ở Ung châu, là thứ vải (có khổ) hẹp, mà (cuộn) lại dài”.
[Phụ chú.
Vũ Duyên. Huyện Vũ Duyên ở
về mặt Bắc Ung châu, cách Châu 42 cây số (Bản đồ tỷ lệ), nằm bên
hữu ngạn Nam Lưu giang (1 nhánh của Hữu giang), là nơi thương buôn tấp nập đổ về!
Huyện Vũ Duyên được thành lập từ thời
Tùy (581 - 618), hiện nay là huyện Vũ Minh].
Chúng ta thấy, thứ vải dệt ở huyện Vũ
Duyên, là một huyện thuộc địa hạt Ung châu, và được nêu ra ở đây vì nó là vật thường được người Giao Chỉ
dùng muối để đổi lấy, tức nó nằm trong
một tương quan giao dịch, chứ không đứng khơi khơi, không níu vào đâu như ông Hoàng Xuân Hãn viết.
Một đoạn văn cũng rất dễ hiểu, nhưng
lại rất không dễ hiểu
đối với Hoàng Xuân Hãn!
Cổ văn Trung Quốc rất súc tích, nhiều
lúc phải hiểu ngầm, phải theo lý mà suy!
Về Bác dịch trường ở Trại Vĩnh Bình,
Chu Khứ Phi (1135 - 1189) chép:
-
“Ung châu Hữu
giang
Vĩnh Bình trại dữ Giao Chỉ vi cảnh, cách nhất giản nhĩ. Kỳ Bắc hữu Giao Chỉ
Dịch, kỳ Nam hữu Tuyên Hòa Đình, tựu vi Bác dịch trường. Vĩnh Bình Trại chủ
quản bác dịch.
Giao nhân nhật dĩ danh hương, tê, tượng, kim, ngân, diêm, tiền dữ ngô thương dịch lăng,
cẩm, la, bố nhi khứ.
Phàm lai
Vĩnh Bình giả giai Động lạc Giao nhân,
tuân lục nhi lai, sở tê tất quí tế,
duy diêm thô trọng. Nhiên diêm chỉ khả
dịch bố nhĩ! - dĩ
nhị thập ngũ cân vi nhất la. Bố
dĩ Ung châu Vũ Duyên sở sản,
hiệp trường giả”.
/
Lãnh Ngoại Đại Đáp. Qu. V. Tài
kế Môn. Ung châu Vĩnh Bình trại Bác dịch trường
/.
-
“Trại Vĩnh Bình ở vùng Sông Hữu
giang,
thuộc Ung châu, tiếp giới với Giao Chỉ, cách một khe suối thôi!
Phía Bắc khe suối có trạm (có tên gọi là) Giao Chỉ, phía Nam suối có đình
Tuyên Hòa, là nơi buôn bán giao dịch. Trại chủ Vĩnh Bình quản trị việc giao
dịch.
Người Giao Chỉ hàng ngày đem các thứ hương nổi tiếng, sừng tê,
ngà voi, vàng, và bạc, muối, tiền qua đổi lấy lụa là, gấm, vải
với giới buôn bán của ta rồi về.
Nói chung, những người tới Vĩnh Bình
đều là những dân Giao Chỉ ở các Động, họ theo đường bộ mà tới, những thứ họ mang tới đều là những thứ gọn nhẹ, chỉ có muối là nặng và cồng kềnh. Nhưng muối thì chỉ có thể đổi lấy vải! -
25 cân để vào 1 gùi. Vải (họ đổi
lấy) là thứ vải dệt tại huyện Vũ Duyên ở Ung châu, là thứ vải (có khổ) hẹp, mà (cuộn) lại dài”.
[Phụ chú.
Hữu giang.
Trong đoạn trên, 2 chữ Hữu giang đúng ra phải là Tả giang, bởi lẽ Trại Vĩnh
Bình thuộc địa hạt Lộc châu, nằm ở mé tận cùng ngoài của Hữu ngạn Tả giang.
Có sự lầm lẫn trên đây là do Bản in thời
cổ đã lầm lẫn. (Coi Bản đồ ở trang sau).
Lăng. Cẩm. La. Bố. Cẩm là gấm, Bố là vải
nói chung.
Lăng và La là 2 thứ lụa: Lăng là thứ lụa
màu rất mỏng; La là thứ lụa nhẹ, mềm có vân hoa.
Nói chung, các tiếng Lăng, Cẩm, La, Bố
trong đoạn trên chỉ chung các thứ lụa là, gấm vóc….
La. Vật dụng đan bằng tre để đựng lúa
gạo, và các vật khác.
(Coi đoạn trước về cái LA và cái
SI)].
Thời kỳ NAM TỐNG (1127 - 1279).
Thời điểm: BẢN ĐỒ năm đầu
Niên hiệu Gia Định (1208 - 1224) - năm 1208, dưới
triều Tống Ninh tông (1168 - 1224; tại vị: 1194 - 1224).
~ Bản đồ 65 – 66: Quảng Nam Đông Lộ / Quảng Nam Tây Lộ.
+ Chi tiết Bản đồ:
~ Tỷ lệ: 1 / 4,200,000 - mỗi 1 cm trên Bản đồ tương ứng 42
cây số.
Bản đồ phóng lớn 1.6 lần Bản đồ
GỐC, tức 1 cm ở đây tương ứng 26.25
cây số.
[Bản đồ VIII]. UNG CHÂU: Vũ Duyên huyện. ¸ Dẫn từ: Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Tống. Liêu. Kim thời kỳ.
Thời kỳ NAM TỐNG (1127 - 1279).
Thời điểm:
BẢN ĐỒ năm đầu Niên hiệu Gia Định
(1208 - 1224) - năm 1208, dưới triều Tống Ninh
tông (1168 - 1224; tại vị: 1194 - 1224).
~ Bản đồ 65 – 66: Quảng Nam Đông Lộ /
Quảng Nam Tây Lộ.
+ Chi tiết Bản đồ:
~ Tỷ lệ: 1 / 4,200,000 -
mỗi 1 cm trên Bản đồ tương ứng
42 cây số.
Trên Bản đồ gốc khoảng cách Ung châu –
Vũ Duyên đo đúng 1 cm.
Trên BẢN ĐỒ dẫn lại ở trang này thì
khoảng cách Ung châu – Vũ Duyên là 4.5 cm,
tức 1 cm ở BẢN ĐỒ này tương đương khoảng >
9.33 cây số một chút.
~ Nhìn từ thượng du, huyện Vũ Duyên nằm bên
ven Nam Lưu giang, mé Hữu ngạn.
~ 2 con sông in cỡ lớn, màu xanh đậm:
Nằm ngang trên Bản đồ là TẢ GIANG; từ
góc trái ở trên xiên xuống là HỮU GIANG.
~ Trên Bản đồ, Địa danh cổ được in chữ ĐEN,
chữ NÂU là Địa danh hiện nay.
2). Triều cống.
Ở một đoạn khác, Hoàng Xuân Hãn viết:
“Sứ ta vào nước Tống hoặc bằng đường
Khâm-châu, hoặc bằng đường Vĩnh-bình. Mỗi lúc đem voi cống thì đi đường
Vĩnh-bình. Quan Tống, Chu Khứ Phi, còn cho ta biết một vài chi tiết về
việc cống.
Trước lúc sứ ta tới biên-giới, có
phái-bộ tới trước xin phép cho sứ tới kinh (ở gần Khai-phong ngày nay).
Phải có trả lời của triều-đình Tống ưng-thuận mới được đi. Mỗi phái-bộ ta gồm có đến năm mươi người,
có lúc đến trăm người.
Nhưng số người đến kinh cũng phải tùy Tống chấp nhận”.
(CHƯƠNG V. BANG-GIAO LÝ TỐNG. 3. – TU
CỐNG. Tr. 129).
~ Tiếp đến, nói “Mỗi phái-bộ ta gồm có đến năm mươi người,
có lúc đến trăm người”
tức nói mỗi phái bộ
tiến cống của An Nam thường gồm 50 người, nhưng có khi con số của một phái
bộ tiến cống có thể lên tới 100 người.
Chính điểm này đã cho biết Hoàng Xuân
Hãn không tham khảo trực tiếp Tác phẩm của Chu Khứ Phi. Vì sao? -
Vì con số 100 người trong phái bộ tiến cống của An Nam mà
Chu Khứ Phi nói ở đây là số người
của 2 đoàn tiến cống, không
phải 1 đoàn! Coi
đoạn tôi trích dẫn ở sau sẽ rõ sự tình.
Lại nữa, số quan chức của đoàn tiến cống Chu Khứ Phi đề cập ở đây là số quan chức của 2 đoàn tiến cống An
Nam năm thứ 26 niên hiệu
Thiệu Hưng (1131 - 1162), tức đây chỉ là trường
hợp cá biệt, không phải định lệ chung. Trong khi đó những ghi chép
của Hoàng Xuân Hãn lại có tính cách như là một
định lệ chung, điều mà Chu Khứ Phi
vốn không nói!
Với những ghi chép vá víu, không rõ
ràng, thì thấy ngay sự hiểu biết của ông
về vấn đề rất lơ mơ!
-
“Kỳ quốc nhập cống tự tích do Ung hoặc Khâm nhập cảnh cái tiên khiển sứ nghị
định di văn Kinh Lược Ty chuyển dĩ
thượng văn, hữu chỉ hứa kỳ lai, tắc chuyên Sứ thượng Kinh, bất nhiên tắc phủ. Cựu chế, An Nam sứ giả ban tại Cao Ly
thượng…..
Thiệu Hưng nhị thập lục niên khất nhập
cống, hứa chi. Nãi khiển Sứ do Khâm nhập.
Chính sứ, An Nam Hữu vũ Đại phu Lý
Nghĩa; phó, An Nam Vũ dực lang Quách Ứng.
Dĩ ngũ tượng sung
thường tiến cương ngoại, canh tiến thăng bình cương -
dĩ An Nam Thái Bình châu Thích sử Lý Quốc vi Sứ.
Sở hiến phương vật thậm thịnh, biểu
chương giai kim tự……
Nhị cương nha quan các ngũ thập nhân. Sứ
giả phả dĩ sở tiến thịnh đa tự căng.
Hậu khất nhập cống triều đình triếp
khước chi”.
/
Lãnh Ngoại Đại Đáp. Qu. II.
Ngoại Quốc Môn – Thượng. An Nam Quốc /.
-
“Nước họ vào cống, từ xưa (vẫn) theo ngã Ung châu hoặc Khâm châu nhập cảnh, và
trước hết sai sứ qua thương lượng, quyết định sự việc, gởi văn thư qua Ty Kinh Lược để chuyển lên cho vua rõ,
có chiếu chỉ chấp thuận cho vào thì Sứ giả chuyên việc cống mới lên Kinh, nếu không thì không được
qua. Theo qui định cũ thì phiên [vào cống] của Sứ giả An Nam trước
phiên của Cao Ly……
Năm thứ 26 Niên hiệu Thiệu Hưng, xin
vào cống, vua thuận cho. Do đó sai Sứ giả theo ngã Khâm châu vào.
Chánh sứ Lý Nghĩa, chức vụ Hữu vũ Đại
phu nước An Nam; phó sứ Quách Ứng, chức vụ Vũ dực lang nước An Nam.
Ngoài đoàn tiến cống thường
kỳ 5 con voi, thêm đoàn tiến cống thăng bình -
đoàn này sai Lý Quốc, chức vụ Thích
sử châu Thái Bình nước An Nam, làm Sứ giả.
Những thổ sản tiến cống rất nhiều, tờ
biểu tiến cống đều là chữ vàng……
Quan chức của 2 đoàn tiến cống mỗi đoàn 50
người. Sứ giả thường hay khoe khoang tự phụ về việc tiến cống rất nhiều
này.
Về sau xin vào tiến cống thì triều đình
thường khước từ”.
CUỐI BÀI.
MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH.
(1). Sử liệu.
Cuốn “Lý Thường-Kiệt” viết về một giai đoạn Cổ sử Việt Nam và Trung
Quốc.
Sử liệu của Trung Quốc về giai đoạn này phải
nói là tương đối phong phú, trong khi đó những Sử liệu Hán văn của Việt Nam lại
quá nghèo nàn, một phần vì thư tịch cổ của ta mất mát nhiều, phần nữa là còn
nhiều tác phẩm hiện lưu trữ trong các Văn khố ở Pháp chưa được xuất bản.
Trong bài viết “An
Nam Thư Lục” Phùng Thừa Quân (1887 - 1946) liệt kê
Thư mục của Việt Nam từ đời Trần (1225 - 1407), phân 3 mục:
1). Sử bộ Thư mục: 175 tác phẩm.
2). Bổ lục I: 32 tác phẩm.
3). Bổ lục II: 77 tác phẩm.
Tất cả 284 Tác phẩm, nhưng trong số này có nhiều Bộ hoặc đã mất, hoặc tàn
khuyết.
(Tham khảo
Tây Vực Nam Hải Sử Địa Khảo Chứng Luận
Trứ Vị Tập).
Tập này gom góp tất cả 22 bài Biên khảo
vào khoảng cuối đời của Phùng Thừa Quân).
Ngoài ra, ước trên dưới 30 năm trở lại
đây tại Đài Loan khởi lên phong trào nghiên cứu nền Văn học chữ Hán của các nước Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên thời
cổ.
Gần đây, trong cuốn “Vực Ngoại Hán Văn Tiểu Thuyết Luận Cứu”
-
một cuốn tập lục nhiều bài biên khảo của nhiều tác giả, có đề cập các tác phẩm
cổ của Việt Nam!
Trong Bài viết “Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết
Trung đích Lịch Sử Diễn Nghĩa”,
tác giả Trịnh Khả Tài cho biết năm 1987
nhà xuất bản “Học Sinh Thư Cục”
ở Đài Loan hợp tác với “Viễn Đông Học Viện”
(“École Française d’ Extrême-Orient” / EFEO) của Pháp đã xuất bản 17 tác phẩm Hán văn
của Việt Nam, trong số này có một số đã được dịch vào khoảng trước 75 ở Miền
Nam Việt Nam, như Kiến Văn Lục, Tang Thương Ngẫu Lục, Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Điện U Linh Tập,……
(Trên đây là Tập I, phân 7 cuốn. Năm
1992 xuất bản Tập II phân 5 cuốn, 20 tác phẩm).
Sau cùng, ông Hoàng Xuân Hãn còn thiếu
một số sách tham khảo về một số vấn đề cổ như Quan Chế,
Hệ thống Đo lường….
để người đọc rõ hơn xã hội cổ. Viết về Cổ
Sử là kể chuyện xưa cho người nay nghe mà không giải thích những định chế tổ
chức trong sinh hoạt của người xưa, kể cả ngôn
ngữ của người xưa, thì rồi có những đoạn kể của câu chuyện chỉ là những
tiếng vang, không có nghĩa gì cả!
(2). Dịch thuật.
Duyệt qua những gì ông Hoàng Xuân Hãn
dịch từ các Sử liệu Hán văn của Trung
Hoa để viết cuốn “Lý Thường-Kiệt” tôi
nhận ra các điểm sau:
a/. Gần như mọi đoạn dịch của Hoàng Xuân Hãn đều vướng mắc những SAI, SÓT, và hầu hết mỗi đoạn đều có những lỗi rất nặng,
ngoài những lỗi nhẹ. Về THIẾU SÓT cũng không phải ít!
b/. Do
yếu kém Hán văn cho nên văn dịch của ông Hoàng Xuân Hãn có khá nhiều chỗ
lúng túng, vật vã thấy rõ, từ đó câu văn của ông trở nên lủng cà lủng củng,
thậm chí có những câu không hợp lý, tối nghĩa!
Nhưng ở đây tôi nêu lên một chuyện
khác:
Tôi ngờ
rằng những Sử liệu Hán văn ông
nêu trong cuốn “Lý Thường-Kiệt” là những Sử liệu đã được dịch ra Pháp
văn! Nói rõ hơn, ông Hoàng Xuân Hãn đã tham khảo các Bản dịch Pháp văn những Sử liệu Trung Hoa - chúng ta đều biết các học giả Pháp đã
dịch, và chú thích, khá nhiều Sử sách
Trung Hoa qua Pháp văn - hoặc nếu không ông cũng đã nhờ một ai đó dịch cho 1 số tư liệu, Sử
liệu Hán văn; tức ông nghiên cứu mà không có căn bản! Nói cho dễ hiểu thì ông như
người đi BUÔN mà không
có VỐN!
Tôi có lý do để nói như vậy! Và ở đây
có 2 lý do:
1). Vấn đề ngày
tháng, thời điểm của Sự kiện Lịch sử.
Bộ “Tục
Tư Trị Thông Giám Trường Biên” -
đã biết - là cuốn Biên niên sử, chép việc từng ngày, mỗi đầu tháng Sử
gia đều ghi ngày Mồng 1 thuộc CAN,
CHI gì -
chẳng hạn Canh Dần, Tân Mão, Quí Sửu…… ngày của các Can, Chi
của những ngày trong tháng lấy ngày
đầu tháng làm mốc mà tính lần tới. Một việc rất dễ, bởi vậy tôi căn cứ vào đây
để chứng minh cho giả thuyết nêu trên của tôi.
2). Tự điển và Từ điển.
Trong việc dịch thuật, Ngôn ngữ nào cũng vậy, thì không thể
không có Tự điển, nhất là Từ điển, nói chung là Từ Thư.
Bên cạnh đó, còn những Sách giải thích
những từ ngữ thường dùng trong Kinh
điển cổ của các Kinh học gia như “Kinh
Giải Nhập Môn” của Giang Phiên (1761 - 1831), và kế đó là 2 tác phẩm quan
trọng “Kinh Nghĩa Thuật Văn”, và “Kinh Truyện Thích Từ” của Vương Dẫn Chi
(1766 - 1834) thời Thanh (1644 - 1911)......
Những tác phẩm loại này không thể thiếu
khi đọc Cổ văn Trung Quốc.
1). Vấn đề ngày
tháng, thời điểm.
Tôi lấy 3 thí dụ trong bài Phê bình này
để chứng minh điểm ngờ của tôi về
chuyện ông Hoàng Xuân Hãn dùng Bản dịch Pháp
văn các Sử liệu Trung Hoa. Mỗi cái
Sai của ông tôi dẫn ra 1 trang ghi ngày
mồng 1 đầu tháng, từ đó tính lần tới ngày
xảy ra sự việc.
(A) -
1/. Y dược cho quân binh Tống triều.
Ở trang 229, ông Hoàng
Xuân Hãn viết:
-
“Ngay ban đầu khi nghe Khâm, Liêm bị mất vua Tống sai viện-binh xuống Ung-châu,
mà đã chiếu cho hàn-lâm y-quan-viện
chọn 57 bài thuốc trị lam-chướng; và sai sở hạp-dược
chế thành tễ, rồi mang theo quân (23-12 năm Ất-mão,
DL 31-1-1076; TB 271/13b)”.
-
“Hi Ninh bát niên.
Thập nhị nguyệt Kỷ Sửu……
/
Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên.
Qu. CCLXXI. Thần tông /.
-
“Năm thứ 8 Niên hiệu Hi Ninh.
Tháng 12, mồng 1 ngày Kỷ Sửu……”.
Coi những ghi chép trong ngày Tân
Hợi của bộ Sử thư trên thì không thấy câu nào hay đoạn nào chép là Tống
Thần tông ra “chiếu cho hàn-lâm y-quan-viện
chọn 57 bài thuốc trị lam-chướng; và sai sở hạp-dược
chế thành tễ, rồi mang theo quân”.
Tờ chiếu lệnh cho Y Quan điều chế thuốc
trị lam chướng ban hành ngày Kỷ Dậu:
-
“Kỷ Dậu……
~ Hựu chiếu “Hàn Lâm Y Quan Viện” tuyển
trị lam chướng dược phương ngũ thập thất chủng, hạ hợp dược
sở tu chế”.
-
“Ngày Kỷ Dậu……
~ Lại
ra Chiếu chỉ cho “Hàn Lâm Y Quan
Viện” chọn những phương thuốc trị
các bệnh khí độc vùng rừng núi, được 57 phương, đưa xuống chỗ phối dược điều chế. ~”.
Ngày mồng 1 tháng 12 là ngày Kỷ Sửu, tính lần xuống, ngày Kỷ Dậu ghi ở đoạn trên là ngày 21 tháng 12. Tức Hoàng Xuân Hãn đã ghi sai 2 ngày:
Ngày chính xác là ngày 21
(ngày Kỷ Dậu)
ông lại ghi là ngày 23 (tức
ngày Tân Hợi).
(TẬP 11 / 20. Đầu Quyển CCLXXI. Phần trên của trang 6,632).
Năm thứ 8 Niên hiệu Hi Ninh (1068 - 1077):
Tháng 12, mồng 1 ngày Kỷ Sửu.
Từ ngày Kỷ Sửu mồng
1 tháng 12 tính tới ngày Kỷ Dậu tháng 12 là ngày
21.
~ Trang
sách trên đây in theo truyền thống Trung Hoa, nghĩa là đọc từ trên xuống –
và từ PHẢI qua TRÁI. (Các trang dẫn ở những đoạn sau cũng vậy).
~ Những số Á rập 1, 2, 3, 4 ở đầu của
mỗi đoạn là ghi chú của 2 nhóm điểm hiệu thuộc 2 Sở Nghiên Cứu Chỉnh Lý Cổ Tịch
của 2 Đại học Sư phạm Thượng Hải / Hoa Đông.
(A) - 2/. Về ngày qua đời của Tống Thần tông.
Ở cuối trang 356, ông Hoàng Xuân
Hãn ghi lại ngày qua đời của Tống Thần tông, chép là “Thần-tông mất ngày Mậu-tuất
mồng 5 tháng 3 năm ấy (DL 1-4-1085, TB 353)”.
(CHƯƠNG XII. KHÔI PHỤC ĐẤT MẤT. 8. -
LÝ CỐ NÀI. TỐNG QUYẾT TỪ).
Về ngày Tống Thần tông qua đời, bộ “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” chép:
- “Nguyên Phong Bát niên……
Tam nguyệt. Ất Vị……
Mậu Tuất. THƯỢNG băng vu PHÚC NINH ĐIỆN……”.
/
Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên.
Qu. CCCLIII. Thần tông /.
- “Năm thứ 8 Niên hiệu Nguyên Phong……
Tháng 3. Mồng 1 ngày Ất Vị (Mùi)……
Ngày Mậu
Tuất. VUA qua đời ở PHÚC NINH ĐIỆN……”.
~ ẤT
VỊ (MÙI) -
Bính Thân - Đinh Dậu -
MẬU TUẤT.
(Ngày Ất Vị mồng 1 tháng 3 trên đây:
Coi [Hình
IV]. Trang đầu của Quyển CCCLIII
(Qu. 353) ở sau).
[Hình IV]. Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên.
(TẬP 14 / 20. Đầu Quyển CCCLIII. Phần trên của trang 8,455).
¸
Tống Thần tông (1048 - 1085; tại vị: 1067 - 1085).
Năm thứ 8 Niên hiệu Nguyên Phong (1078 -
1085): Tháng 3, mồng 1 ngày Ất Vị (Mùi).
Từ ngày Ất Vị
(Mùi) mồng 1 tháng 3 tính tới ngày Mậu Tuất tháng 3 là ngày
mồng 4:
Ất Vị (Mùi) 1 – Bính Thân 2 – Đinh Dậu 3 – Mậu Tuất 4.
(A) -
3/. Văn thư qua lại về việc Lý triều đòi lại 2 động Vật Dương, Vật Ác.
Ngày Nhâm Tý
tháng 6 năm Bính Dần (năm 1086) Tống
triều nhận được một Văn thư của Lý Nhân tông yêu cầu trả lại 2 Động Vật Dương / Vật Ác ở phía Bắc, và Đông bắc Trị sở của châu Quảng Nguyên (tỉnh
Cao Bằng hiện nay).
Cũng ngày này
Tống triều gởi một Chiếu thư từ chối.
(Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên.
Qu. CCCLXXX. Triết tông).
“Ngày 13 tháng 6, vua Tống trả
lời…… (Chiếu ngày N. Ty, DL. 7-8-1086)”.
(CHƯƠNG XII. KHÔI PHỤC ĐẤT MẤT. 8. -
LÝ CỐ NÀI. TỐNG QUYẾT TỪ).
- “Nguyên Hựu nguyên niên.
Lục nguyệt Tân Sửu……
- “Năm đầu Niên hiệu Nguyên Hựu.
Tháng 6. Mồng 1 ngày Tân Sửu……
Tính lần tới thì ngày Nhâm Tý là ngày 12 tháng 6, không phải ngày 13 tháng 6!
Từ ngày Tân Sửu mồng 1 tháng 6
tính lần đi:
Ngày Tân Sửu mồng 01.
Nhâm Dần 02. Quí Mão 03. Giáp Thìn 4. Ất Tỵ 5. Bính Ngọ 6. Đinh Mùi 7. Mậu Thân
8. Kỷ Dậu 9. Canh Tuất 10. Tân Hợi 11. Nhâm Tý 12.
(Ngày Tân Sửu mồng 1 tháng 6 trên đây:
Coi [Hình
V]. Trang đầu của Quyển CCCLXXX
(Qu. 380) dẫn ở sau).
[Hình V]. Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên.
(TẬP
14 / 20. Đầu Quyển CCCLXXX. Phần trên của trang 8,455).
Năm đầu Niên hiệu Nguyên Hựu (1086 -
1094): Tháng 6, mồng 1 ngày Tân Sửu.
Từ ngày Tân Sửu mồng 1 tháng 6
tính tới ngày Nhâm Tý tháng 6 là ngày 12.
Tân Sửu 1
– Nhâm Dần 2 – Quí Mão 3 – Giáp Thìn 4 - Ất Tỵ 5 – Bính Ngọ 6 –
Đinh Vị (Mùi) 7 – Mậu Thân 8 – Kỷ Dậu 9
– Canh Tuất 10 – Tân Hợi 11 – Nhâm Tý
12.
3 thí dụ về việc ông Hoàng Xuân Hãn ghi sai ngày nêu ở trên đã nói rõ ở trước, ở đây tôi dẫn thêm 3 thí dụ về việc Hoàng Xuân Hãn ghi sai ngày, tháng.
Ở trang 307, ông Hoàng Xuân Hãn
viết:
“Về sau, khi kể công tội trong việc
nam-chinh, Triệu Tiết bị khiển trách vì để thiếu lương (chiếu 18 năm Đinh tị M. Dn
DL 21-8-1077, TB 283/16b)……”.
(CHƯƠNG XI. HÒA VÀ HÒA-BÌNH. 6. – TỐNG
LUI QUÂN. Tr. 307).
Bộ Sử này cho biết ngày mồng 1 tháng 7 là ngày Tân Hợi.
Tháng 7 nói trên sách chỉ chép đến ngày Bính Tý,
tức ngày 26,
là hết!
Ngày Mậu
Dần ông ghi ở trên là ngày 28 tháng 7,
do đó, làm gì có việc nào ở đây, tức làm gì có một Chiếu thư nào ở đây! Không rõ ông lôi tờ CHIẾU THƯ
này từ đâu ra?
Lại nữa, câu “chiếu 18 năm Đinh tị M. Dn”
của Hoàng Xuân Hãn như còn thiếu, chưa rõ nghĩa -
cho rõ nghĩa, câu “chiếu
18” có lẽ là “chiếu
thư (ngày)
18”? Có điều, nếu là ngày 18 tháng 7 thì ngày này là ngày Mậu Thìn,
không phải ngày Mậu
Dần.
Bộ “Tục
Tư Trị Thông Giám Trường Biên” chép việc ngày Ất Hợi
(ngày 25 tháng 7):
-
“Biếm Tuyên Huy Nam Viện Sứ, Hùng Vũ Quân Lưu hậu Quách Quì vi Tả Vệ Tướng Quân, Tây Kinh an trí; Lại Bộ Viên Ngoại
lang, Thiên Chương Các đãi chế Triệu Tiết
vi Tả Chính Ngôn, trực Long Đồ Các, y cựu Tri Quế Châu.
Dĩ Ngự Sử Tri Tạp Thái Xác ngôn QUÌ kinh chế An Nam, DI TẬT tiên hoàn, TIẾT thố trí
lương thảo quai phương, cập bất tức bình tặc dã!”.
/ Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên. Qu. CCLXXXIII. Thần tông /.
-
“Giáng chức Quách Quì, hiện đang giữ
chức Lưu hậu Hùng Vũ quân, Tuyên Huy Sứ Nam Viện, làm Tả Vệ Tướng Quân, về an
trí ở Tây Kinh; (giáng chức) Triệu Tiết,
đang giữ chức Viên Ngoại lang ở Bộ
Lại, và chức Đãi chế tại Thiên Chương Các, xuống làm Tả Chính Ngôn, Trực Long
Đồ Các, (nhưng) vẫn giữ chức Tri Quế Châu như cũ.
Đây là do lời của (Thị) Ngự Sử Tri tạp
(Sự) Thái Xác nói là Quách Quì lúc
nắm giữ việc đánh An Nam đã gởi THƯ về nói quân bị BỊNH để dẫn Quân về trước,
Triệu Tiết lo liệu lương thảo không hợp cách, để đến nỗi không nhanh chóng dẹp
yên được giặc!”.
Sở dĩ ông Hoàng Xuân Hãn viết rằng việc khiển trách Quách Quì và Triệu Tiết được ghi lại trong một
Chiếu thư vì liền trước đoạn dẫn trên có một
Chiếu thư như sau:
-
“Chiếu:
~ Hà Bắc lâm vũ tiệp nhật bất chỉ, phả hại Thu giá, lệnh
Trưởng lại tinh đảo danh sơn linh từ
~”.
-
“Chiếu: ~ Vùng Hà Bắc mưa dầm dề cả
10 ngày nay không dứt, gây thiệt hại
cho vụ gặt mùa Thu rất lớn, hạ lệnh cho chức Trưởng quan (sở tại) thành tâm lễ cúng
tại các đền linh thiêng ở các chốn
danh sơn để cầu Thần linh giáng phúc
~”.
[Phụ chú.
Tiệp nhật.
10 ngày. Sách “Quốc Ngữ”
viết:
-
“Tử Kỳ tự Bình vương, tế dĩ ngưu trở ư vương.
Vương vấn ư Quan Xạ Phủ, viết: ~ Tự sanh
hà cập? ~.
Đối viết: ~ ….. Thiên tử cử dĩ đại lao,
…; Chư hầu cử dĩ đặc ngưu, …; Khanh cử dĩ thiếu lao,…; Đại phu cử dĩ đặc sanh;
sĩ thứ ngư chá, tự dĩ đặc sanh; thứ nhân thực thái, tự dĩ ngư ~.
Vương viết: ~ Sồ hoạn kỷ hà? ~
Đối viết: ~ Viễn bất quá tam nguyệt, cận
bất quá tiệp nhật
~”.
/ Quốc Ngữ. Qu. XVIII. Sở ngữ -
Hạ. Quan Xạ Phủ luận tự sanh /.
-
“Tử Kỳ cúng Bình vương, dọn thịt bò trên bàn cúng đưa cho (Sở Chiêu) vương.
Chiêu vương hỏi Quan Xạ Phủ: ~ Gia súc
dùng tế tự là những gia súc nào? ~.
Quan Xạ Phủ trả lời rằng: ~ …... Thiên
tử cúng bò, dê, heo, …; Chư hầu cúng 1 con bò đực, …; bậc Khanh cúng dê và heo,
…. Đại phu cúng 1 con bò, hoặc 1 con heo; giai cấp sĩ ăn cá nướng thì cúng 1
con heo; dân giả ăn rau (nghèo) thì cúng cá ~.
Vua hỏi: ~ Gia súc nuôi cỏ, gia súc
nuôi thóc lúa mỗi loại dưỡng bao lâu mới giết để cúng? ~.
Xạ Phủ đáp: ~ Lâu (bò, heo, dê)
thì không quá 3 tháng, mau (gà, vịt)
thì không quá 10 ngày ~.
Giải thích câu cuối, Vi Chiêu (204 -
273) triều Ngô (222 - 280), thời Tam Quốc (220 - 280), viết:
-
“Viễn, vị Tam sanh; cận, vị kê, mộc chi thuộc. Tiệp nhật, thập
nhật dã”.
-
“Xa (lâu), ý nói 3 gia súc bò, heo, dê; gần (mau), ý nói gà, vịt.
Tiệp nhật, là 10
ngày”].
Thư tịch cổ không chấm câu, Hoàng Xuân
Hãn vì ngắt đoạn không chính xác, cho
nên đã nhập đoạn văn của Chiếu thư
dẫn trên gắn vào đoạn tiếp liền mé
dưới - nghĩ rằng việc khiển trách Quách Quì,
Triệu Tiết là một phần của Chiếu thư,
mà không để ý rằng việc mưa lũ ở Hà Bắc
và việc khiển trách Quách Quì, Triệu
Tiết khác nhau -
2 việc này không thể ở trong cùng một Chiếu thư.
Lại nữa việc Quách Quì, Triệu Tiết bị
khiển trách ở đây là ngày 25,
không là ngày 28.
(TẬP 12 / 20. Quyển
CCLXXXIII. Phần trên của trang 6,930).
Thời điểm:
Năm thứ 10 Niên Hiệu Hi Ninh (1068 - 1077), tức năm 1077:
Mùa Thu. Tháng 7, mồng 1 ngày Tân Hợi.
Từ ngày
TÂN HỢI mồng 1 tháng 7, tính lần đến ngày ẤT HỢI, ngày
Tống Thần tông ra Chiếu thư khiển trách Quách Quì và Triệu Tiết, là ngày 25 tháng 7.
Tháng 6 trước đó, ngày mồng 1 là ngày
Kỷ Mão.
Tính lần tới:
Ngày Giáp Thân ghi ở trên (phân đoạn 40)
là ngày mồng 6 tháng 6.
Ngày Ất Tỵ tiếp theo đó (phân đoạn 41)
là ngày 27 tháng 6.
Không rõ tại
sao ngày mồng 6 tháng 6 lại để ở gần cuối tháng như vậy?
(B) - 2/. Việc Hùng Bản về thay thế Trương Hiệt trấn nhiệm Quế châu.
Ở cuối trang 346, và đầu
trang 347, ông Hoàng Xuân Hãn viết:
“Viên chuyển-vận phó-sứ Quảng-tây,
Ngô Tiềm, nói: “Gần đây, nghe nói Giao-chỉ nhiều lần vào đòi dân Hữu-giang. Tôi đã cùng bàn chuyện với những
người am-hiểu việc Giao-chỉ, và thử đoán ý chúng. Ai cũng đều nói rằng trong
dăm ba năm nữa, chúng sẽ tới cướp. Vậy xin huấn-luyện thổ-đinh ở Quảng-tây để
phòng-bị.” (22-6, TB 327/16a).
Tin này và tin dân An-hóa ở Nghi-châu
nổi loạn làm cho vua Tống lấy làm lo. Tuy Hùng Bản đã có lệnh triệu về kinh,
bấy giờ cũng phải trở lại coi Quế-châu thay Trương Hiệt (8-7 năm N. Tu 1082, TB 328/4b)”.
(CHƯƠNG XII. KHÔI PHỤC ĐẤT MẤT.
7. -
ĐÒI VẬT-ÁC, VẬT-DƯƠNG. LẠI ĐÀO TÔNG NGUYÊN).
Bộ “Tục
Tư Trị Thông Giám Trường Biên” chép:
-
“Nguyên Phong ngũ niên.
Thu. Thất nguyệt Tân Tỵ……
Đinh Hợi.
Triều Tán lang, tân trừ CÔNG Bộ Thị lang Hùng Bản vi Long Đồ Các Đãi chế tri
Quế châu.
Bản tự Quảng
Châu triệu hoàn, vị chí hội Nghi châu Man nhiễu biên, cố cải thị mệnh -
đại Trương Hiệt dã”.
/ Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên. Qu. CCCXXVIII. Thần tông /.
-
“Năm thứ 5 Niên hiệu Nguyên Phong.
Mùa Thu. Tháng 7, mồng 1 ngày Tân Tỵ……
Ngày Đinh Hợi.
(Phong cho) chức Triều Tán lang Hùng Bản, mới nhận chức Thị lang ở Bộ CÔNG, làm Đãi chế ở Long Đồ Các,
trấn nhiệm Quế châu.
Hùng Bản từ Quảng
Châu được triệu về, chưa về tới triều thì gặp lúc dân Man ở châu Nghi nhiễu
loạn biên cảnh, do đó thay đổi lệnh này -
để về thay Trương Hiệt”.
Trong khi đó, ông Hoàng Xuân Hãn lại chép là ngày Hùng Bản được lệnh về Quế
châu thay Trương Hiệt là ngày “8-7 năm N. Tu 1082”,
ngày Mậu Tý, tức sau (sai)
1 ngày.
(Ngày Tân Tỵ mồng 1 tháng 7 nói trên:
Coi [Hình
VII]. Trang đầu Quyển CCCXXVIII
tiếp sau trang này).
[Hình VII]. Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên.
(TẬP 13
/ 20. Quyển CCCXXVIII. Phần trên của
trang 7,890).
Năm thứ 5 Niên hiệu Nguyên Phong (1078 -
1085).
Tháng 7, mồng 1 ngày Tân Tỵ.
Từ ngày Tân Tỵ mồng 1 tháng 7
tính tới ngày Đinh Hợi tháng 7 là ngày mồng 7.
(b). Tiếp đến, về câu “Giao Chỉ nhiều lần vào đòi dân Hữu-giang”.
(CÂU NÀY
tuy ở phần trên của đoạn trích dẫn của ông Hoàng Xuân Hãn, nhưng ở đây vì là vấn đề phụ thuộc nên để nói
sau)
Câu này vì thấy ông Hoàng Xuân Hãn dịch quá sai
cho nên tôi nói thêm vài giòng.
-
“Nguyên Phong ngũ niên.
Lục nguyệt Tân Hợi sóc……
Nhâm Thân……
Thừa Nghị lang Ngô Tiềm vi Quảng Nam Tây
Lộ Chuyển Vận Phó Sứ. Tiềm ngôn:
~ Tạc
văn Giao Châu lũy lai thủ sách Hữu giang Hộ khẩu, thần
dữ am tri An Nam sự nhân trắc độ Man tình,
giai ngôn tam, ngũ niên gian tất vi Biên
hoạn. Khất huấn luyện Quảng Tây thổ đinh, giới sắc Biên bị ~.
Chiếu Ngô Tiềm điều tích thố trí dĩ
văn”.
/ Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên. Qu. CCCXXVII. Thần tông /.
-
“Năm thứ 5 Niên hiệu Nguyên Phong.
Tháng 6, mồng 1 ngày Tân Hợi……
Ngày Nhâm Thân……
Chức Thừa Nghị lang Ngô Tiềm là Chuyển
Vận Phó Sứ Quảng Nam Tây Lộ. Ngô Tiềm
nói rằng:
~ Trước
đây nghe Giao Châu nhiều lần qua đòi
hỏi sổ sách Hộ tịch của Hữu giang thần và những người am hiểu Sự vụ An Nam suy
đoán tình hình dân Man, người nào cũng nói trong vòng năm, ba năm chắc chắn
(chúng) sẽ là mối lo ở Biên cảnh. Xin
cho huấn luyện trai tráng địa phương ở Quảng Tây, phòng bị việc Biên thùy ~.
Triều đình ra Chiếu chỉ cho Ngô Tiềm
phân tích tổ chức mọi việc rồi tâu lên”.
Nguyên tác: “lũy lai thủ sách Hữu giang Hộ khẩu”.
Nghĩa là “nhiều
lần tới đòi hỏi Sổ sách Hộ tịch của Hữu giang”.
Tức Giao Chỉ chỉ qua đòi Sổ Sách Hộ
Tịch của Hữu giang, không
phải đòi người -
theo như ông Hoàng Xuân Hãn hiểu sai,
quá sai đi, để viết là
“đòi dân Hữu-giang”.
Ngày Nhâm Thân nói trên là ngày 22 tháng 6.
(B) - 3/. Chiếu thư Tống Thần tông trả lời Lý Nhân tông về 2 động Vật Dương, Vật Ác.
Ở trang 362, ông Hoàng Xuân Hãn
viết:
“Thế, nhưng mà Lý Nhân-tông cũng
không liền chịu bỏ rơi hai động đã mất. Tống sợ quân ta tới đánh úp, bèn xây
đồn ở các cửa ải đó, và phát quân đến canh-phòng. Vua Lý vin vào việc ấy mà
viết thư kêu với Tống, ý nói quân Tống đe-dọa đất mình, và có lẽ vua Lý lại đòi
đất hai động Vật-dương, Vật-ác một lần nữa.
Lời thư ấy không còn nữa. Nhưng chiếu
trả lời của vua Tống nay còn. Chiếu ấy viết ngày 22 tháng 8 năm Mậu-thìn
1088……”.
(CHƯƠNG XII. KHÔI PHỤC ĐẤT MẤT. 8. -
LÝ CỐ NÀI. TỐNG QUYẾT TỪ).
Xét “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên”, Qu. CDXIII (Qu. 413) thì tờ chiếu thư của Tống Triết tông gởi Lý Càn Đức (Lý Nhân tông) dẫn trên được ghi lại ở mục chép việc ngày Ất Vị (Mùi) tháng 8, năm Mậu Thìn (năm 1088).
Bộ “Tục
Tư Trị Thông Giám Trường Biên” ghi ngày Mồng 1 tháng 8 năm Mậu
Thìn là ngày Ất Hợi – cứ đây mà tính lần tới thì ngày Ất Vị (Mùi)
là ngày 21 tháng 8.
(Ngày Ất Hợi mồng 1 tháng 8 nói trên:
Coi [Hình
VIII]. Trang đầu tiên của Quyển CDXIII
dẫn ở sau).
(TẬP
17 / 20. Quyển CDXIII. Phần trên
của trang 10,033).
Năm thứ 3 Niên hiệu Nguyên Hựu (1086 -
1094).
Tháng 8, mồng 1 ngày Ất Hợi.
Từ ngày Ất Hợi
mồng 1 tháng 8 tính tới ngày Ất Vị (Mùi) tháng 8 là ngày
21.
Và những cái sai về
ngày / tháng của ông không chỉ hạn ở 6 chứng cứ nêu ở trên, mà còn thấy ở
nhiều chỗ khác trong cuốn “Lý
Thường-Kiệt”, chẳng hạn:
“Ngày 24 tháng 5 năm Bính-thìn 1076
vua Tống Thần-tông phàn-nàn với An-Thạch rằng: “Đời vua Chân-tông, lúc Lê Hoàn
chết, có thể lấy được Giao-chỉ; thế là bỏ mất cơ-hội”…
(K. Vi, DL 28-6-1076; TB 276/13b)”.
(CHƯƠNG VII. LÝ THƯỜNG-KIỆT TẤN-CÔNG
TỐNG. 10. - ẢNH-HƯỞNG).
1/. Quyển thứ.
+ Việc Tống Thần tông nói với Vương An Thạch dẫn ở đoạn trên được ghi đầy đủ trong Quyển CCLXXV (Qu. 275), không phải là Quyển 276 như Hoàng Xuân Hãn ghi sai.
(a). Quyển
CCLXXV chép việc trong tháng 5
(Âm lịch) năm Bính Thìn. Sách cho biết:
-
“Ngũ nguyệt. Bính Thìn sóc”. (Tháng 5. mồng 1 ngày Bính Thìn).
Câu của Tống Thần tông nói với Vương An
Thạch ở trên được ghi lại ngày Kỷ Mão; từ ngày Bính Thìn mồng 1 tháng 5 tính lần tới thì ngày Kỷ Mão là ngày 24
tháng 5.
Như vậy, ngày thì Hoàng Xuân Hãn ghi
đúng là ngày “24 tháng 5”, thế nhưng
không rõ tại sao ông ta lại ghi sai
Can / Chi của ngày này là ngày “Kỷ
Vị” (Kỷ Mùi).
Như có thể đếm biết dễ dàng, ngày Kỷ
Vị (Mùi) trong tháng 5 này là ngày mồng 4.
Bộ “Tục
Tư Trị Thông Giám Trường Biên” chép hết ngày Mậu
Ngọ (mồng 3) thì chép tiếp qua ngày Tân Dậu
(mồng 6) – tức 2 ngày Kỷ Vị (mồng 4)
và Canh Thân (mồng 5) không có một ghi chép nào,
tức không có việc gì để chép.
(b). Quyển
CCLXXVI chép việc trong tháng 6
(Âm lịch). Ở đầu Quyển, Sách cho biết:
-
“Lục nguyệt. Ất Dậu sóc”. (Tháng 6. mồng 1 ngày Ất Dậu).
Tháng 6 này có tất cả 3 ngày KỶ nhưng không có ngày nào là “ngày Kỷ Vị” cả!
3 ngày Kỷ trong tháng 6 này là Kỷ Sửu (mồng 5), Kỷ Hợi (ngày 15), Kỷ Dậu (ngày 25).
Nếu đọc nguyên tác thì Hoàng Xuân Hãn không thể ghi sai ngày tháng như đã kể vì lẽ ở đây chỉ rất giản dị là việc đếm, một việc mà đứa con nít Tiểu học cũng làm được!
Nếu 1 lần thì có thể nói là
sơ sót, nhưng tới 6
lần như đã nêu trên thì không thể nào!
(Cộng thêm 1 lần ở trang 202 tôi vừa dẫn ở trên
là 7 LẦN).
Hoàng Xuân Hãn đã quá tin các học giả Tây, quá tin nơi Bản dịch của họ, do đó, khi họ dịch sai, ông cũng cứ tưởng là đúng, cứ thế mà chép lại! Chỉ có thể là như vậy khi mà sự việc chỉ là việc đếm của con nít, chỉ là Giáp, Ất, Bính, Đinh / Tý, Sửu, Dần, Mão.... cứ thế mà tính tới, đếm tới!
Có lẽ đây là cái bệnh
quá nể phục Tây của một số người Việt Nam theo Tây học thế hệ Hoàng Xuân Hãn. Những tên tuổi như Aurousseau, Gaspardone, Maspéro, Cadière, và Paul Pelliot,
và Paul Démiéville......... đã làm chóa mắt những người Việt Nam Tây học không rành Hán văn viết về Cổ
sử Việt Nam cũng như Trung Hoa!
Càng đọc cuốn “Lý Thường-Kiệt” - ở đây đặc biệt là việc ghi Ngày / Tháng - tôi càng nhận ra thật rõ cái cung cách làm việc cẩu thả, vô trách nhiệm của Hoàng Xuân Hãn!
Tôi nói vậy vì tuy Hoàng Xuân Hãn căn cứ Bản
dịch Pháp văn nhưng hẳn là ông cũng đối chiếu Bản dịch với nguyên tác; và
nếu đối chiếu nguyên tác mà
ông không chịu làm một việc rất giản
dị là VIỆC ĐẾM
thì rõ ràng đây là thái độ cẩu thả, vô trách nhiệm
– và nhất là có những trường hợp cái SỰ ĐẾM
này không nhiều, chỉ vài ba ngày.
+ Chẳng hạn như ngày qua đời của Tống
Thần tông, ngày Mậu Tuất mồng 4 tháng 3.
Từ ngày Ất Vị (Mùi) mồng 1
tháng 3 tới ngày Mậu Tuất nói trên chỉ có 3 ngày:
~ ẤT
VỊ (MÙI) -
Bính Thân - Đinh Dậu -
MẬU TUẤT.
+ Chẳng hạn như ngày Hùng Bản về thay
thế Trương Hiệt, trấn nhiệm Quế châu, ngày Đinh Hợi
mồng 7 tháng 7.
Từ ngày Tân Tỵ mồng 1 tháng 7 tới
ngày Đinh Hợi kể trên chỉ có 6 ngày:
~ TÂN
TỴ - Nhâm Ngọ -
Quí Vị (Mùi) - Giáp Thân -
Ất Dậu - Bính Tuất -
ĐINH HỢI.
Nhắc lại như trên để thấy rõ hơn thái
độ cẩu thả, vô trách nhiệm của Hoàng Xuân Hãn!
Một người nghiên cứu thực sự không bao
giờ có một thái độ như vậy, một cung cách làm việc như vậy!
2). Tự điển. Từ điển.
Viết về Cổ sử Việt Nam và Trung Hoa như
cuốn “Lý Thường-Kiệt” ở đây thì không
thể không biết Hán văn, hơn nữa phải
biết rành. Nhưng, có
thông thạo
mấy đi nữa, vẫn có những lúc phải cần đến Từ thư (Tự điển và Từ điển).
Đọc sách Hán văn, nhất là những tác
phẩm văn học Cổ điển được viết theo thể Cổ văn như những Sử liệu tham khảo để
viết một cuốn như cuốn “Lý Thường-Kiệt” thì
tất yếu phải có các bộ “Từ Nguyên”,
“Từ Hải”, là những bộ Từ điển không thể thiếu cho việc nghiên cứu.
Bên cạnh đó, những Bộ như “Thuyết Văn Giải Tự”, “Khang Hi Tự Điển”…… là những bộ Tự điển
đôi lúc cũng cần dùng đến.
Cứ coi những LỖI Hán văn trong cuốn “Lý Thường-Kiệt”, thường là những cái SAI mà nếu có những bộ Từ thư nói trên ông
Hoàng Xuân Hãn sẽ không bao giờ mắc phải!
Tham khảo thư tịch của 1 ngôn ngữ mà
không dùng Từ điển của ngôn ngữ này
thì đây chỉ có thể là đã tham khảo qua
trung gian một bản dịch.
Từ thư thông
thường chỉ giải nghĩa chữ, trong
khi những tác phẩm đã nói ở trước, tức các bộ “Kinh Giải Nhập Môn”, “Kinh
Nghĩa Thuật Văn”, “Kinh Truyện Thích
Từ”, XA hơn nữa, ngoài nghĩa chữ còn giảng Văn pháp.
Ngoài ra, những tác phẩm loại trên đây còn đề cập những vấn đề của Văn tự học,
như Âm vận học, các chữ Giả tá, vốn là một ác mộng
đối với những người mới chập chững bước vào đường Cổ văn……
Sau cùng, về Âm và Nghĩa của nhiều chữ
trong Kinh Điển cổ thì không thể
không đọc tác phẩm “Kinh Điển Thích Văn”
của Lục Đức Minh (550 ? - 630) đời Đường.
Bộ “Kinh
Điển Thích Văn” là 1 tác phẩm “Chú âm” và “Thích nghĩa” Kinh
Điển cổ đại.
Tác phẩm gồm 30 Quyển:
Quyển I là phần “Tự
Lục”, tự thuật và khảo chứng sự hưng / suy của Kinh Điển, trưng
dẫn những sự kiện quan trọng trong “Lịch Sử Kinh Học”,
rồi những nhân vật, cũng như những tác
phẩm chủ yếu của từng thời kỳ một. Ở một khía cạnh nào đó có thể nói
rằng phần “Tự Lục”
này có thể được coi như một bộ Lược sử về sự phát triển của Kinh học từ thời Đường (618 - 907) trở
về trước.
Quyển II đến Quyển XXX phân ra chú Âm, thích Nghĩa 14 bộ Kinh Điển sau đây:
+ CHU
DỊCH. Thượng Thư (tức Thư Kinh). Mao Thi (tức Thi Kinh). Chu Lễ. Nghi Lễ và Lễ Ký.
+ TẢ
TRUYỆN. Công Dương. Cốc Lương. Hiếu Kinh. Luận Ngữ. Lão Tử. Trang Tử và Nhĩ Nhã.
Bộ “Kinh
Điển Thích Văn” thu lục “Thiết âm”
cũng như những “Chú giải”
Kinh văn của hơn 230 học giả từ thời
Tam Quốc (220 - 280) đến Nam Bắc triều (420 - 589).
Đây là
một tác phẩm trọng yếu về Văn tự học,
Âm vận học,
cũng như Huấn cổ học,
và cho tới các Bản in khác nhau của từng Bộ
Kinh. Bởi vậy, nghiên cứu âm đọc của chữ trong Kinh Điển thời cổ thì không
thể không tham khảo tác phẩm này!
Bộ “Kinh
Điển Thích Văn” thường được học giả gọi tắt là “Thích Văn”.
Những phương tiện tối cần thiết và tối thiểu để làm việc Hoàng Xuân Hãn rồi không có bởi thế cũng không lạ cuốn “Lý Thường Kiệt” của ông ta tràn lan những lỗi và lỗi - và phần lớn là những lỗi nặng. Không chuyên môn thì không sao thấy rõ được, thế nhưng với giới Cổ Sử học thông thạo Hán văn, và có Sử liệu trong tay, thì những sai lầm của Hoàng Xuân Hãn hiện ra rất rõ ràng!
Những Sự kiện Lịch sử trong cuốn “Lý
Thường-Kiệt” là những sự kiện được ghi chép rõ trong Sử thư, thế nhưng, khi tự thuật lại những sự kiện này ông Hoàng Xuân Hãn đã có
những sự thiếu chính xác về rất nhiều mặt, như ngày tháng đến những kiến thức
về Cổ học, thuộc nhiều lãnh vực,
Hoàng Xuân Hãn lại mù mờ! Tóm lại là tự thuật của ông đã trở nên méo mó, “một sự méo mó”
không cố tình, như ông viết rõ trong Lời “TỰA” là những việc ông
kể trong sách “không
bịa đặt, không tây vị, hết sức rõ ràng”
mà đây là một “sự méo mó”
do khả năng ngôn ngữ (Hán văn) yếu
kém mà ra!.
Từ những điểm trên mà nhận định thì cuốn “Lý Thường-Kiệt” dứt khoát không phải là cuốn sách có thể dùng để tham khảo cho giới chuyên môn Sử học đã đành, mà cho cả những
người không chuyên môn vốn cần đến một
sự chính xác về nhiều lãnh vực của Cổ học
nói chung, và Cổ Sử học nói riêng! Và
như vậy:
Khách quan mà nói,
“Lý Thường-Kiệt” là một
cuốn sách chẳng có giá trị bao nhiêu!
Những nhận định về Hoàng Xuân Hãn như “Cây đại thụ”, như “Bậc thầy Hán Nôm” của con rể (Nghiêm Xuân Hải), của học trò (Tạ Trọng Hiệp), của Thụy Khuê.... bỗng đâu và chợt đâu trở nên rất lố bịch!
Tôi nghĩ, những người kể trên đây rồi chưa
đủ khả năng, do đó thẩm quyền, để có thể viết ra những hình dung từ tạm gọi
là “cự đao đại phủ” trên đây!
Đây là chưa nói khi ca tụng, tâng bốc người
thân, người quen của mình thì nên hết sức cẩn thận, khen đúng thì
không sao (vậy mà có khi lại mang tiếng
khen người thân), còn khen quá phận người ta cười cho!
Sau cùng, đọc những đoạn văn dịch từ
các tác phẩm Hán văn qua Việt văn người đọc thấy Hoàng Xuân Hãn
có những chỗ lúng túng thấy rõ qua những câu văn ngây ngô và ngớ ngẩn, thiếu sự
mạch lạc, thậm chí tối nghĩa! Những Chỗ như
đã kể thấy khá nhiều trong hầu hết những đoạn dịch văn của ông!
Nguyên nhân của việc kể trên không
ngoài 2 điểm sau đây:
2). Nếu ông dịch lại từ những Bản dịch Pháp văn các sử thư, các tài liệu Trung Hoa, và giả sử những Bản dịch này chính xác, thì điều này - trong một số trường hợp, chứng tỏ ông Hoàng Xuân Hãn vốn không am tường Cổ sử Trung Quốc và Giao Chỉ, hoặc nếu nói khác đi, ông không hiểu danh từ chuyên môn, không biết bên Việt ngữ là gì - do đó mà lúng túng khi dịch.
Ông Hoàng Xuân Hãn học tiếng Pháp từ
nhỏ, lấy bằng cấp của Pháp, và cuộc
đời ông hầu như hoàn toàn trải trên đất
Pháp, và chết trên đất nước Pháp,
bởi thế chắc chắn là ông không thể nào hiểu sai văn pháp, cú pháp Pháp văn.
Cho nên, nếu có những lúng túng, những
thiếu mạch lạc, không sáng sủa, của ý tưởng khi tự thuật lại những sự kiện Lịch sử, những biến thiên
về mặt Địa lý Hành chánh của Trung Hoa và Giao Chỉ, dịch lại từ những Bản dịch
Pháp văn, thì tất cả chỉ có thể là
do một sự thiếu hiểu biết về Cổ sử học
để có thể dùng từ ngữ Việt cho thích đáng!
Muốn nghiên cứu Lịch sử,
hay bất cứ lãnh vực nào khác, của 1 quốc gia cho chính xác thì không thể không thông thạo ngôn
ngữ của quốc gia đó, việc này
không có ngoại lệ!
Nếu liệu không thông hiểu ngôn ngữ nước
này ở một mức độ có thể chấp nhận được
tốt hơn hết là nên tránh, nếu không tránh
cứ lao mình làm thì rất bấp bênh -
vì tự thân rồi không thấy được một sự
bảo đảm nào hết cho những gì mình viết ra!
Những cái sai, lầm của ông Hoàng Xuân
Hãn tôi trưng dẫn trong 2 bài phê bình
đều là những cái sai, lầm không
thể chấp nhận. Ngoài ra, những sai, lầm nhỏ nhặt của ông có đấy, nhưng tôi
không nhỏ nhặt xét nét mà chi!
Trong lời “TỰA” cho cuốn “Lý Thường-Kiệt”, ông Hoàng Xuân Hãn có đoạn viết:
“Những việc tôi kể trong sách, hoàn toàn
có chứng và được dẫn chứng. Cũng trong các hạng chứng, tôi chỉ để
ý đến chứng chính xác mà thôi.
Không bịa đặt,
không tây vị, hết sức rõ ràng; đó là những chuẩn-thằng tôi đã theo,
trong khi viết cuốn sách này”.
(Trang 15).
-
Rất tiếc, những dẫn chứng của ông phần lớn lại “không chính xác”.
Cũng dĩ nhiên là ông Hoàng Xuân Hãn“không bịa đặt”.
-
Cũng rất tiếc, ông Hoàng Xuân Hãn chỉ “đặt
ra” theo cái HỌC, VẤN chưa tới của ông về Hán văn, về Cổ học nói
chung, và ở đây về Sử học nói riêng, điều này thì tất cả đã
thấy “hết sức rõ ràng”
qua Bài phê bình này - và Bài phê bình trước của tôi!
Tên tuổi của Hoàng Xuân Hãn từ đầu đã là
một bảo đảm cho những gì ông ta viết
ra!
Thế nhưng, không ai có thể bảo đảm cho những gì KHÔNG
THỰC, vì sớm hay muộn cái HƯ cũng bị
phơi bày, đây là trường hợp
Hoàng Xuân Hãn!
Từ lần xuất bản đầu tiên cuốn “Lý Thường-Kiệt” tới cuối năm
năm ngoái (1949 - 2011) Hoàng Xuân Hãn đã có được 62 năm vinh dự với cuốn
sách này.
Đặt vào một kiếp người, 62 năm có thể là dài, nhưng cái dài này chẳng thấm vào đâu so với giòng “miên
miên” của Văn học sử! Và, trong cái giòng “vô
tuyệt kỳ” này:
Một cuốn sách sẽ được xét lại không lúc này thì cũng lúc khác, không thời này thì cũng thời khác, cho đến khi nào giá trị đích thực của nó được xác lập!
Trong một lần phỏng vấn của Thụy Khuê,
ông Hoàng Xuân Hãn có những lời lẽ tự hào
như sau về cuốn “Lý Thường-Kiệt” của
ông ta:
-
“...Tôi nghĩ nếu mình đề cao Lý Thường Kiệt, với sự khảo sát chặt
chẽ, sẽ là một cái gương
cho những anh em sau này…. Tôi cũng thích lắm là bởi vì từ lúc ấy đến
bây giờ cũng không ai viết hơn được nữa”.
(Thụy Khuê. Nói Chuyện với Tạ Trọng
Hiệp và Hoàng Xuân Hãn.
Hoàng Xuân Hãn, bước
đường nghiên cứu).
Ý kiến riêng của tôi là:
-
“Trường hợp Hoàng Xuân Hãn và Tập “Lý
Thường-Kiệt” là
“một cái gương
cho”
những anh em nào sau này không biết tự
lượng làm một việc quá sức mình, NHIỀU!”.
Người xưa có câu
“đắc ý đến quên cả hình hài” (“đắc
ý vong hình”) - đây cũng chính là trường hợp của Hoàng Xuân Hãn! Ông Hoàng Xuân Hãn bởi lẽ đắc ý quá nên đã quên không để
ra thời gian, dầu chỉ một thoáng, để xét lại khả năng
của mình:
-
Trong thời gian của ông Hoàng Xuân Hãn, chừng như lúc nào ông cũng “lơ
mơ” rằng cuốn “Lý Thường-Kiệt”
của ông “không ai viết hơn được nữa”.
Thái độ này không gì khác hơn là sự “tự
mãn”, 1 SỰ tuyệt đối phải tránh,
không nên có nơi một người viết biên khảo, một người nghiên cứu, nói rộng ra là
“người học”!
Ở kẻ tự
mãn thì cái chi cũng đầy cả: -
đầu đầy, tai đầy, bụng đầy,
không nhận thêm được chút gì cho thân tâm mình!
HỌC thì nhiều người HỌC, nhưng VẤN mới là
quan trọng!
+ Biển học mênh mông, điều này thì ai cũng biết!
Thế nhưng, có những kẻ cứ nghĩ rằng
mình đã lấp đầy “cái
biển mênh mông” đó!
Đây là những kẻ “tự mãn”,
như Hoàng Xuân Hãn đây, và như một vài kẻ tôi phê bình!
Chừng nào còn “tự
mãn” thì chừng ấy người ta không lên cao,
không tiến xa được!
Có 2 cái “TỰ” làm cho người ta không tiến cao hơn, xa hơn, thậm chí thoái
bộ, hết kiếp hết đời cũng vậy: - “TỰ ÁI” và “TỰ
MÃN”!
Ở kẻ tự mãn thì cái chi cũng đầy cả: -
Đầu đầy, tai đầy, mắt đầy, bụng đầy, bởi vậy không
nhận thêm được chút gì cho thân tâm mình!
Trong Kinh Hoa Nghiêm có một đoạn Tỳ kheo Hải Vân nói với đồng tử Thiện Tài:
-
“Thiện nam tử, ngã tại thử Hải Môn quốc
thập hữu nhị niên, thường dĩ ĐẠI HẢI
vi kỳ cảnh giới, sở vị tư duy đại hải quảng đại vô lượng, tư duy đại hải thậm
thâm nan trắc…
Ngã tư duy thời phục tác thị niệm <
Thế gian chi trung, phả hữu quảng
bác quá thử Hải phủ? phả hữu
vô lượng quá thử Hải phủ? phả
hữu thậm thâm quá thử Hải phủ?.....>”.
/ Hoa Nghiêm Kinh. Nhập Pháp Giới
XXXIX /.
-
“Thiện nam tử, ta ở nước Hải Môn này
12 năm, ta thường lấy Biển Lớn làm
giới hạn để mà suy gẫm về đại hải rộng lớn vô lượng, suy gẫm về đại hải cực sâu
khó lường…
Lúc suy gẫm ta lại nảy ra ý nghĩ này <
Thế gian rồi có gì rộng lớn hơn biển này chăng? rồi có gì vô lượng hơn biển này chăng? rồi có gì cực sâu hơn biển này chăng? ..... >”.
Cái “ngã”
là một cái gì rộng lớn hơn, thăm thẳm hơn “đại
hải” nhiều, nhiều lắm!
Đến như “cái ta”
còn lấp đầy được, “Biển lớn” kia
có gì mà không lấp đầy được?
Qua một vài người tôi phê bình tôi thấy
quả thực “đại hải”
không sao hơn được cái ngã
của con người! Đụng tới “cái ngã”
thì nó chợt phình lên lấp cả cõi Ta bà!
Trang Tử (365 - 290 tr. Cn) có nói tới cái gọi
là “chí đại vô ngoại”,
cái lớn
đến không có cái gì ngoài nó [Trang
Tử. Thiên hạ], có lẽ là “cái
ngã” đây chăng?
Trong một bài viết khác, Thụy Khuê có những giòng như sau:
-
“Trong suốt nửa thế kỷ này, người thầy dậy chúng ta từ hai chữ i tờ, đến những
bài tính đố, vẫn còn đấy, như cây đại thụ tỏa bóng mát, che chở cho những kẻ
đến sau. Bây giờ, bác mất đi, mỗi chúng ta, ai cũng mồ côi. Cái
học của bác, nhân cách của bác, dù ít dù nhiều, cũng đã nuôi nấng đời
sống tinh thần của chúng ta trong nhiều thế hệ.
Từ nay có điều gì không biết, còn ai
để hỏi?”
Hợp Lưu, số 29, tháng 6-7 năm 1996.
Số tưởng niệm học giả Hoàng Xuân
Hãn.
-
“Bây giờ, bác mất đi, mỗi chúng ta, ai cũng mồ côi.”.
<
Ở đây, “mỗi”
là tất cả, không trừ ai?, ở đây, “ai”
là “ai” đây, thưa bà Thụy Khuê?
Ai thì tôi không biết cũng như không dám
nói chứ trong số “mồ côi”
này chắc chắn là không có tất cả những người có học vấn
thực sự, và sau cùng là tôi!
Và như vậy, Bà Thụy Khuê và đệ tử, đàn
em của Hoàng Xuân Hãn....cứ thoải mái mà “mồ côi”
với nhau nhé, đừng lôi chúng tôi vào!
-
“Từ nay có điều gì không biết, còn ai để hỏi?”.
<
“Bác Hãn” của bà Thụy Khuê mất đi, bà “mồ côi”,
bà lo từ nay không còn ai
để hỏi mỗi khi “có điều gì không biết”.
Bà Thụy Khuê quá lo đi thôi, có lẽ bà đã quên rằng “Bác Hãn” của bà tuy
mất đi nhưng cuốn “Lý Thường-Kiệt” quá sức là “ĐỘC
ĐÁO” của “Bác” có mất đi
đàng nào đâu, vẫn còn cái để cho bà hỏi -
và rồi có thể còn một số những cuốn khác nữa của “bác”,
mà trước sau những người chuyên môn sẽ đặt vào
đúng vị trí của chúng,
bà Thụy Khuê khỏi lo, khỏi buồn!
Đã nói ở đoạn trước:
Một cuốn sách sẽ được xét lại không lúc
này thì cũng lúc khác, không thời này thì cũng thời khác,
cho đến khi nào giá trị đích thực của nó được
xác lập!
Có như vậy những thứ rác rến mới không trôi lều bều trong giòng Văn học sử!
Lẽ ra tôi không dẫn lại MẤY LỜI TRÊN ĐÂY của bà Thụy Khuê làm chi, vì bà tâng bốc ông Hoàng Xuân Hãn là chuyện của bà, vì tình cảm riêng tư của bà với ông ta - như là con cháu, là học trò, hay là gì đó.... tôi không rõ; nếu như bà dừng lại ở chỗ riêng tư rất riêng thì ở một giới hạn, rất nhỏ, nào, còn chấp nhận được.
(Hoặc giả bà Thụy Khuê muốn “nổi tiếng”
vì lân la phỏng vấn một người “nổi tiếng” như “học giả” (với cái ngoặc kép “” và cái gạch dưới, những học giả khác thì không cần tới cái ngoặc kép “” và lằn gạch dưới này
như trường hợp Hoàng Xuân Hãn ở đây!).
Dĩ nhiên, Thụy Khuê thì không thể nào nhận định được trình độ,
khả năng HÁN VĂN và CỔ HỌC
của “bậc thầy Hán Nôm”
của bà ta tới đâu!
Để cứ thế bà
ta rất thoải mái mà ngưỡng phục, mà ca tụng Hoàng Xuân Hãn!
Bà Thụy Khuê làm tôi nhớ đến ông Võ Phiến tâng bốc cuốn “Bút Khảo về Ăn” của ông bác sĩ Lê Văn Lân mà chẳng biết rõ lãnh vực mà ông bác sĩ viết.
Bà Thụy Khuê làm tôi nhớ đến ông Phạm
Công Thiện tâng bốc – mà còn bốc cho bổng đến “trời Thu xanh ngắt”..., cuốn “Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam” của Lê Mạnh Thát mà ông họ Phạm lại
chẳng rành Hán văn, cứ nhắm mắt khen người thân một cách lố bịch!
Giữa đồng nắng chói chang, một CÂY ĐẠI THỤ, vài người đứng dưới Gốc, nắng chiếu qua cành lá lơ thơ, TỎA những vệt nắng, bám lấy những thân hình nhễ nhại mồ hôi!
Ấn bản năm 1966 này của tập “Lý Thường-Kiệt”, do BAN TU THƯ ĐẠI-HỌC VẠN-HẠNH xuất bản, là một Ấn bản, sau 17 năm (1949 - 1966) - từ lần xuất bản đầu tiên, đã được ông Hoàng Xuân Hãn - “một bậc thiên tài trong học giới nước nhà” (lời của ông tỳ kheo Thích Minh Châu) “san-định lại với nhiều điều bổ sung mới mẻ” - cũng vẫn theo lời của ông tỳ kheo nói trên trong “LỜI GIỚI THIỆU” của ông ta cho cuốn “Lý Thường-Kiệt”.
Đọc những lời ông tỳ kheo Thích Minh
Châu - Viện
Trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh lúc bấy giờ (năm 1966), ca tụng ông
Hoàng Xuân Hãn tôi thực không hiểu
tại sao người ta lại có thể tâng bốc
nhau một cách “hoan hỉ”, một cách “bất khả tư nghì” quá lố đến
thế!
Cuốn “Lý Thường-Kiệt” là một nghiên cứu về Cổ Sử của Hoàng Xuân Hãn, thế nhưng đối với:
Khí vật (đồ dùng) xưa ông không rõ, Hệ thống Độ,
Lượng, Hành (Đo, Đong, Cân) xưa ông không biết, Quan chế thời cũ ông thì lơ mơ, ngay cả ĐỊA LÝ, là lãnh vực liên quan trực tiếp với vấn đề ông nghiên cứu,
ông cũng lơ mơ lờ mờ, Địa chí Trung Quốc thì cả những BỘ căn bản nhất
ông cũng không có, còn về Bản đồ thì
ông chỉ đến tham khảo một vài tấm Bản đồ Đông Dương do người Pháp vẽ lại!
Và như vậy:
Ông Hoàng Xuân Hãn -
nếu phải đưa ra một nhận định,
chỉ là một người theo Tây học chập chững những bước siêu vẹo
trên con đường Đông
học mênh mông, xa thẳm!
Về THƯ PHÁP,
Tô Đông Pha (1036 - 1101) viết như sau:
-
“Kim thế xưng thiện Thảo thư giả hoặc
bất năng Chân, Hành, thử đại vọng dã!
CHÂN sinh HÀNH, HÀNH sinh THẢO, Chân như
lập, Hành như hành, Thảo như tẩu, vị hữu vị năng
hành, lập nhi năng tẩu giả dã!”.
/ Kinh Tiến Đông Pha Văn Tập Sự Lược. Qu.
LX. Thư Đường thị lục gia thư hậu
/.
-
“Thời bây giờ có những kẻ nói mình viết Thảo
thư đẹp mà (trong số này) rồi có
kẻ lại chẳng khéo Chân thư, Hành thư, nói như vậy là hết sức bậy bạ!
CHÂN thư sinh ra HÀNH thư, (và) HÀNH
thư sinh ra THẢO thư, Chân thư [tư thế
chữ] như đứng, Hành thư [tư thế chữ] như đi, Thảo thư [tư thế chữ] như chạy, chưa từng có chuyện chưa biết đi,
biết đứng mà có thể chạy được bao giờ!”.
Và như vậy, sự tự hào của ông ta về cuốn
“Lý Thường-Kiệt” trở nên rất lố
bịch!
Năm 1949
cuốn “Lý Thường-Kiệt” ra đời, Hoàng
Xuân Hãn bắt đầu bước những bước chập chững
trên lối cũ Cổ học, Cổ sử học……
16 năm sau, năm 1966, Sách
được san định lại, với “nhiều điều bổ
sung mới mẻ”, theo lời Thích Minh Châu, nhưng Hoàng Xuân Hãn vẫn bước những bước chập
chững……
Từ năm 1966 tới lúc Hoàng Xuân Hãn
chết, năm 1996,
có lẽ vì tự mãn, cứ tưởng rằng cuốn Sách này “từ lúc ấy đến bây giờ
cũng không ai viết hơn được nữa”
do đó ông ta đã không duyệt lại một, hay hơn một, lần nữa!
Cho tới lúc rời khỏi cuộc đời này ông Hoàng
Xuân Hãn vẫn không hay, không biết
rằng đôi chân ông ta vẫn tiếp tục bước
những bước chập chững…… chao đảo, nghiêng
ngả trên con đường Hán học, Cổ học nói chung, và Sử học
nói riêng!
Ông Hoàng Xuân Hãn có biết đâu
rằng:
Cuốn “Lý Thường-Kiệt” để đọc chơi, hay đọc qua
rồi để đó thì được! Còn nếu coi
đây như là một bộ biên khảo, một nghiên cứu Sử
Học đúng nghĩa là biên khảo, đúng nghĩa là nghiên cứu, có giá trị,
thì từ đó tới đây
con đường còn thăm thẳm,
xa vời……
Hoàng Xuân Hãn ghi lại những sự kiện Lịch sử, trong đó có người, có vật, có việc……
Nhìn từ tổng thể thì những sự kiện Lịch sử ghi chép lại trong cuốn “Lý Thường Kiệt” là những sự kiện hiển nhiên ai cũng thấy, Hoàng
Xuân Hãn cũng kê ra đúng như vậy!
Thế nhưng, khi chuyển dịch thì Hoàng
Xuân Hãn không dịch sai cũng dịch thiếu,
và có những chỗ dịch sai
đến không
sao tưởng ra được!
Những Sự kiện Lịch sử ông Hoàng Xuân Hãn tự thuật lại đó rồi như Cơ thể người, và những người, những vật,
những việc trong đó như tạng phủ.
Hình người thì đúng là hình người đó,
ai cũng thấy, cũng nhận dạng được ngay, nhưng bên trong thì tạng phủ nát bấy!
Minh Di.
Ngày đầu Đông
Vu xứ Úc Châu.
01 tháng 6 năm 2012. (6.46 giờ tối).
12 tháng 4 (nhuận) / Nhâm Thìn, 4 ngày
trước tiết Mang Chủng.
[1]. Sử
Ký.
Tây Hán. Tư Mã Thiên.
Lưu Tống. Bùi Ân tập giải
(Bùi Ân, Ân cũng đọc âm Nhân).
Đường. Tư Mã Trinh sách ẩn.
Trương Thủ Tiết chính nghĩa.
Thượng Hải Thư Điếm 1988 / Sơ.
[2]. Hậu
Hán Thư Tập Giải.
Lưu Tống. Phạm Việp.
Thanh. Vương Tiên Khiêm tập giải.
Dân Quốc. Hoàng Sơn hiệu bổ.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1984 / Sơ.
[3]. Cựu
Đường Thư. (1).
Ngũ Đại. Lưu Hu.
[4]. Tân
Đường Thư. (2).
Bắc Tống. Âu Dương Tu.
[5]. Tống
Sử. (3).
Nguyên. Đoạt Đoạt.
Nhị
Thập Ngũ Sử Bản. (1). (2). (3).
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã (TQ) 1991 / 8.
[6]. Tư
Trị Thông Giám.
Bắc Tống. Tư Mã Quang.
Nguyên. Hồ Tam Tỉnh chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1987 / 7.
[7]. Tục
Tư Trị Thông Giám Trường Biên. (Đệ Nhị Bản).
Nam Tống. Lý Đáo.
Điểm hiệu:
Thượng Hải Sư Phạm Đại Học Cổ Tịch Chỉnh Lý Nghiên Cứu Sở.
Hoa Đông Sư Phạm Đại Học Cổ
Tịch Chỉnh Lý Nghiên Cứu Sở.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2004 / Sơ.
[8]. Quốc
Ngữ.
Xuân Thu. Tả Khâu Minh (truyền).
Tam Quốc -
Ngô. Vi Chiêu chú.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1995 / 3.
[9]. Thông
Điển. (1).
Đường. Đỗ Hựu.
[10]. Văn Hiến Thông Khảo. (2).
Nguyên. Mã Đoan Lâm.
Thập
Thông Bản. (Đệ nhị Bản). (1).
(2).
Chiết Giang Cổ Tịch Xuất Bản Xã 2000 / Sơ.
[11]. Thái Bình Ngự Lãm. (Ảnh ấn Bản).
Bắc Tống. Lý Phưởng đẳng soạn.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2006 / 7 [Sơ bản 1960].
[12]. Thái Bình Hoàn Vũ Ký.
Bắc Tống. Nhạc Sử.
Vương Văn Sở điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2007 / Sơ.
[13]. Nguyên Phong Cửu Vực Chí.
Bắc Tống. Vương Tồn (chủ biên). Tăng Triệu. Lý Đức Sô.
Thanh. Phùng Tập Ngô hiệu chú.
Điểm hiệu:
Vương Văn Sở. Ngụy Tung Sơn.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1984 / Sơ.
[14]. Phương Dư Khảo Chứng.
Thanh. Hứa Hồng Bàn.
Bắc Kinh Thị Trung Quốc Thư Điếm
(TQ) Không ghi năm xuất bản.
[15]. Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập (Lục sách. Tống. Liêu.
Kim thời kỳ).
Đàm Kỳ Tương chủ biên.
Trung Quốc Địa Đồ Xuất Bản Xã (Tinh
trang Bản. HC) 1996 / 3.
[16]. Quế Hải Ngu Hành Chí.
Nam Tống. Phạm Thành Đại.
Khổng Phàm Lễ điểm hiệu.
Tập bút ký này đã thất lạc vào khoảng
giữa thời Minh, bản đang lưu hành
được sao lục từ các thư tịch khác. Danh từ chuyên môn gọi loại ấn bản này là “Tập phục bản”.
Phạm Thành Đại Bút Ký Lục Chủng Bản.
Gồm 6 tập Bút ký của Phạm Thành Đại.
Ngoài Quế Hải Ngu Hành Chí, 5 Tập kia
là:
Tham Loan Lục. Lãm Bí Lục. Ngô Thuyền Lục. Mai Phổ. Cúc Phổ.
+ Mai
Phổ, Cúc Phổ chỉ là 2 bài viết
ngắn, Mai Phổ 3 trang, Cúc Phổ khoảng 4 trang.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2004 / 2.
Nam Tống. Chu Khứ Phi.
Dương Vũ Tuyền hiệu chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1999 / Sơ.
[18]. Đông Kinh Mộng Hoa Lục Chú.
Nam Tống. Mạnh Nguyên Lão.
Đặng Chi Thành chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1982 / Sơ.
[19]. Trung Quốc Lịch Sử Danh Thành.
38 tác giả / 50 Bài viết.
Trần Kiều Dịch chủ biên.
Trung Quốc Thanh Niên Xuất Bản Xã
(TQ) 1986 / Sơ.
[20]. Trung Quốc Lịch Sử Danh Đô.
24 tác giả / 20 Bài viết.
Diêm Sùng Niên chủ biên.
Chiết Giang Nhân Dân Xuất Bản Xã 1986 / Sơ.
[21]. Tây Vực Nam Hải Sử Địa Khảo Chứng Luận Trứ Vị Tập.
Dân Quốc. Phùng Thừa Quân.
Trung Hoa Thư Cục (HC) 1976 / Sơ.
[22]. Tộc Thủy Ký Văn.
Bắc Tống. Tư Mã Quang.
Đặng Quảng Minh. Trương Hi Thanh điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2006 / 3.
[23]. Sự Vật Kỷ Nguyên.
Bắc Tống. Cao Thừa.
Minh. Lý Quả hiệu đính.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1989 / Sơ.
[24]. Mộng Khê Bút Đàm Toàn Dịch.
Bắc Tống. Thẩm Quát.
Lý Văn Trạch. Ngô Hồng Trạch dịch (Ngữ
thể văn).
Ba Thục Thư Xã (TQ) 1996 / Sơ.
[25]. Long Xuyên Biệt Chí.
Bắc Tống. Tô Triệt.
Du Tông Hiến điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1982 / Sơ.
[26]. Hầu Trinh Lục. (1).
Bắc Tống. Triệu Đức Lân.
[27]. Năng Cải Trai Mạn Lục. (2).
Nam Tống. Ngô Tăng.
Bút Ký Tiểu Thuyết Đại Quan Bản.
Tập IV. Sách 8.
Giang Tô Quảng Lăng Cổ Tịch Khắc Ấn
Xã 1984 / Sơ.
[28]. Thiết Vi Sơn Tùng Đàm.
Bắc Tống. Thái Thao.
Phùng Huệ Dân. Thẩm Tích Lân điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1997 / 2.
[29]. Kê Lặc Biên.
Nam Tống. Trang Xước.
Tiêu Lỗ Dương điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1997 / 2.
[30]. Nam Thôn Triệt Canh Lục.
Nguyên. Đào Tông Nghi.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1997 / 3.
[31]. Thập Nhất Gia Chú Tôn Tử.
Xuân Thu. Tôn Vũ.
Ngụy. Vũ đế (Tào Tháo). Lương
Mạnh.
Đường.
Đỗ Hựu. Đỗ Mục. Lý Thuyên. Trần Cao. Giả Lâm.
Bắc Tống. Mai Thánh Du.
Vương Tích. Hà Diên Tích. Trương Dự.
Quách Hóa Nhược dịch (Ngữ thể văn).
Trung Hoa Thư Cục (HC) 1985 /
trùng ấn.
[32]. Tôn Tử Hội Tiên.
Xuân Thu. Tôn Vũ.
Dương Bính An hội tiên.
Trung Châu Cổ Tịch Xuất Bản Xã (TQ)
1986 / Sơ.
[33]. Vũ Kinh Tổng Yếu.
Bắc Tống. Đinh Độ.
Tăng Công Lượng.
Trung Quốc Binh Thư Tập Thành Bản. (Tập 3. 4. 5).
Giải Phóng Quân
Xuất Bản Xã & Liêu Thẩm Thư Xã 1988 / Sơ.
[34]. Tống Hình Thống.
Bắc Tống. Đậu
Nghi.
Ngô Dực Như điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục
(TQ) 1984 / Sơ.
[35]. Lịch Đại Hình Pháp Khảo.
Thanh. Thẩm Gia
Bản.
Đặng Kinh Nguyên.
Biền Vũ Khiên điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục
(TQ) 1985 / Sơ.
[36]. Đường Đại Chiếu Lệnh Tập.
Bắc Tống. Tống Mẫn
Cầu.
Điểm hiệu: Hồng Phi Mô. Trương Bá Nguyên. Thẩm Ngao Đại.
Học Lâm Xuất Bản
Xã (TQ) 1992 / Sơ.
[37]. Trung Quốc Độ Lượng Hành Sử.
Dân Quốc. Ngô Thừa Lạc.
Thượng Hải Thư Điếm 1984 / Sơ.
[Thương Vụ Ấn Thư Quán 1937 Sơ bản].
[38]. Vương Lâm Xuyên Toàn Tập.
Bắc Tống. Vương An Thạch.
Quảng Trí Thư Cục (HC) Nhà Xuất bản này không bao giờ ghi năm
xuất bản.
[39]. Kinh Tiến Đông Pha Văn Tập Sự Lược.
Bắc Tống. Tô Thức.
Nam Tống. Lang Việp tuyển chú.
Bàng Thạch Chửu (Trửu) hiệu đính.
Trung Hoa Thư Cục (HC) 1979 / Sơ.
[40]. Trung Quốc Lịch Đại Chức Quan Biệt Danh Từ Điển.
Cung Diên Minh.
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã 2006 / Sơ.
[41]. Giản Minh Trung Quốc Lịch Đại Quan Chế Từ Điển.
An Tác Chương chủ biên.
Tề Lỗ Thư Xã 1990 / Sơ.
[42]. Trung Quốc Lịch Đại Danh Nhân Từ Điển.
Nam Kinh Đại Học Lịch Sử Hệ Biên tả tổ.
Giang Tây Nhân Dân Xuất Bản Xã 1982 / Sơ.
[43]. Trung Quốc Mỹ Thuật Gia Nhân Danh Từ Điển.
Du Kiếm Hoa (1895 - 1979).
Thượng Hải Nhân Dân Mỹ Thuật Xuất Bản
Xã 2006 / 14. [1981 / Sơ bản].
[44]. Trung Quốc Cận Hiện Đại Nhân Danh Đại Từ Điển.
Lý Thịnh Bình chủ biên.
Trung Quốc Quốc Tế Quảng Bá Xuất Bản
Xã 1989 / Sơ.
[45]. Tiên Tần Chư Tử Hệ Niên.
Tiền Mục.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1985 / Sơ.
[46]. Đông Lỗ Vương Thị Nông Thư Dịch Chú.
Nguyên. Vương Trinh.
Khải Du dịch chú (Ngữ thể văn).
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1994 / Sơ.
[47]. Bản Thảo Cương Mục.
Minh. Lý Thời Trân.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC) 1982 / trùng ấn.
[48]. Trung Quốc Y Học Đại Từ Điển (Ảnh ấn Bản).
Dân Quốc. Tạ Quan.
Trung Quốc Thư Điếm (TQ) 1988 / Sơ [Thương Vụ Ấn Thư Quán 1921 / Sơ bản]
[49]. Giản Minh Trung Y Từ Điển.
Chủ biên:
Trung Y Nghiên Cứu Viện.
Quảng Châu Trung Y Học Viện.
Tam Liên Thư Điếm (HC) 1979 / Sơ.
[50]. Trung Y Nhân Vật Từ Điển.
Chủ biên:
Trung Quốc Trung Y Nghiên Cứu Viện.
Trung Quốc Y Sử Văn Hiến
Nghiên Cứu Sở.
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã 1988 / Sơ.
[51]. Trang Tử Bổ Chính.
Chiến Quốc. Trang Chu.
Dân Quốc. Lưu Thúc Nhã (Văn Điển) bổ chính.
Tân Văn Phong Xuất Bản Công Ty
(ĐL) Dân Quốc 64 niên (1975) / Sơ bản.
[52]. Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao.
Đường. Sa môn Trừng Quán soạn thuật.
Tài Đoàn Pháp Nhân Phật Đà Giáo Dục Cơ
Kim Hội (ĐL) Dân Quốc 86 niên
(1997).
[53].
Vực Ngoại Hán Văn Tiểu Thuyết Luận Cứu.
Một nhóm tác giả Đài Loan.
Học Sinh Thư Cục (ĐL) Dân Quốc 78 niên (1989) / Sơ bản.
[54]. Phương Ngôn.
Đông Hán. Dương Hùng.
Đông Tấn. Quách Phác chú.
Hán Ngụy Tùng Thư Bản.
[Minh. Trình Vinh hiệu].
Cát Lâm Đại Học Xuất Bản Xã (TQ) 1992 / Sơ.
[55]. Kinh Điển Thích Văn.
Đường. Lục Đức Minh.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1985 / Sơ.
[56]. Kinh Giải Nhập Môn (Ảnh ấn Bản).
Thanh. Giang Phiên.
Phương Quốc Du hiệu điểm.
Thiên Tân Thị Cổ Tịch Thư Điếm 1990 / Sơ.
[57]. Kinh Nghĩa Thuật Văn.
Thanh. Vương Dẫn Chi.
Giang Tô Cổ Tịch Xuất Bản Xã 2000 / Sơ.
[58]. Kinh Truyện Thích Từ.
Thanh. Vương Dẫn Chi.
Dân Quốc. Hoàng Khản. Dương Thụ Đạt phê ngữ.
Nhạc Lộc Thư Xã (TQ) 1984 / Sơ.
[59]. Trợ Ngữ Từ Tập Chú.
Nguyên. Lư Dĩ Vĩ.
Vương Khắc Trọng tập chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1998 / 2.
[60]. Cổ Đại Hán Ngữ Tự Điển.
Vương Lực (1900 - 1986) chủ
biên.
Đường Tác Phiên.
Quách Tích Lương. Tào Tiên Trạc.
Hà Cửu Doanh.
Tưởng Thiệu Ngu. Trương Song Đê.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2003 / 4.
[61]. Từ Hải (Hợp đính Bản).
Chủ biên:
Thư Tân Thành. Thẩm Di. Từ Nguyên Cáo. Trương Tướng.
Trung Hoa Thư Cục (HC) 1983 / Trùng ấn.
[62]. Từ Hải. (Ngũ Quyển Bản. Thái đồ Súc ấn Bản – 1999 Bản).
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã 2007 / 6.
[63]. Từ Nguyên (Súc ấn Hợp đính Bản. 1987 Bản).
Chủ biên:
Quảng Đông. Quảng Tây. Hồ Nam. Hà Nam Tu đính Tổ.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC) 1987 / Sơ.
[64]. Từ Vị.
Văn Hóa Đồ Thư Công Ty Biên Thẩm Ủy
Viên Hội biên tập.
Lục Sư Thành chủ biên.
Văn Hóa Đồ Thư Công Ty (ĐL) Dân Quốc năm 74 (1985) / Khuyết.
Đăng nhận xét