Kính Giới Thiệu Bài viết & Hình ảnh - Duy Hân Thăm trại Tị Nạn Mã Lai và Nam Dương
Bài viết & Hình ảnh - Duy Hân Thăm trại Tị Nạn Mã Lai và Nam Dương
Xin được chia sẻ bài
viết & hình ảnh
Xin bấm vào xem nhiều
hình ảnh
Hình ảnh thăm viếng
Trại Tị Nạn Mã Lai, Nam Dương 2025
Thăm trại Tị Nạn Mã
Lai và Nam Dương sau 50 năm viễn xứ
Âm vang câu hát
"Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt. Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu
xương, Tự do ôi tự do! Em đổi bằng thân xác. Vì hai chữ tự do! Ta mang đời lưu
vong" vẫn còn vang vọng trong lòng. Số là mỗi khi thắp hương cầu nguyện
trước mộ phần các thuyền nhân xong, chúng tôi đều hát và thấm thía hơn bao giờ
hết nỗi đau qua những nốt nhạc này.
Lịch trình thăm viếng của nhóm chính thức bắt đầu vào thứ Hai 28 tháng 4, 2025, nhưng 3 anh em Toronto chúng tôi đã ra phi trường từ 24 tháng 4. Đi sớm mấy ngày để ghé thăm thành phố Kuala Lumpur và nghỉ ngơi. Chuyến bay dài gần 21 tiếng, cộng thêm giờ phải tới sớm, giờ chờ chuyển tiếp máy bay nên tổng cộng lượt đi và về hết khoảng 60 tiếng đồng hồ. Ôi chuỗi thời gian dài ớn quá là ớn. Mà khi tới nơi rồi cũng có yên đâu, suốt ngày thường xuyên chúng tôi phải ở trên xe bus, xe van, trên tàu lớn, tàu nhỏ hoặc máy bay nhỏ... "Thôi rồi còn chi đôi mông tôi!" Ba tuần lúc nào cũng bồng bềnh chênh vênh, nên mỗi khi được đặt 2 chân xuống mặt đất thì thấy thật là hạnh phúc! Giá mà Elon Musk chế xong được cái ống chui tọt vào là tới nơi thì hay biết mấy.
Nhớ lại cách đây gần
10 năm, khi đó ông xã còn sống, chúng tôi có đi hành hương châu Âu với nhóm nhà
thờ, mà tôi là một trong những người tỉnh táo để giúp các bác lớn tuổi hơn kéo
hành lý, trả lời họ hôm nay thứ mấy, mình đang đi đâu, ngày mai sẽ làm gì. Thế
mà bây giờ tôi lại chính là một trong những "bác" lớn tuổi đó, tức là
cần người giúp di chuyển vali, cần người trả lời hôm nay thứ mấy, mình đang đi
đâu hoặc ngày mai sẽ làm gì. Rõ chán!
Bây giờ xin được xuống
câu vọng cổ chia sẻ lý do tôi tham dự chuyến đi này. Trong nhóm có các anh chị
không biết vượt biên là gì nhưng vẫn hăng hái tìm về nguồn, cũng có các anh chị
dù không phải trong ban tổ chức, mà vẫn tham dự nhiều lần chỉ để thắp hương cầu
nguyện ở các mộ phần - thật là cao cả, cũng có một số em trẻ đi theo cha mẹ.
Riêng tôi thì thú thật xem qua chương trình chẳng lấy gì làm hào hứng. Gì đâu
mà ngày nào cũng đi thăm nghĩa trang, mà tôi biết thời tiết ở các nơi này rất
nóng, lại phải trèo đèo lội suối ở các nơi đầy muỗi mòng, khỉ ho cò gáy theo
đúng nghĩa đen. Hơn nữa, thời gian cuối tháng Tư 2025, tôi muốn ở nhà để giúp tổ
chức 50 năm Quốc Hận tại tòa thị sảnh Toronto và quốc hội Ottawa - đây là truyền
thống chúng tôi chưa vắng mặt năm nào. Tôi lại đã đóng tiền cọc để đi du thuyền
qua Âu Châu chơi với nhóm bạn, rồi công ty tôi đang làm cũng khó cho phép vắng
mặt liên tục 3 tuần.... Đủ thứ lý do tại, bị, thế mà cuối cùng tôi cũng được đi
với nhóm, thật là một điều quá vui mừng. Nghĩ lại nếu không đi, tôi sẽ hối tiếc
nhiều lắm.
Tôi đã thực hiện dùm ý nguyện của ông xã. Khi đi qua các hòn đảo kỷ niệm nơi anh từng đặt chân đến, tôi đã thở phào thầm nghĩ "Mission Completed". Rất buồn là ông xã - anh Nguyễn Ngọc Duy - mới qua đời cách đây 7 tháng vì bệnh phổi lúc 65 tuổi. Từ nhiều năm nay, lúc nào anh cũng ước ao về thăm lại đảo Air Raya rồi trại tị nạn Galang, nơi tôi và anh đã gặp nhau, nhưng lần nào cũng có trở ngại. Những ngày cuối đời anh lại nhắc tới trại tị nạn nhiều hơn, nên tôi rán đi dùm anh dù biết đi một mình sẽ rất buồn.
Bây giờ xin kể sơ về
chuyến hành trình. Nhóm có 233 người ghi danh đi thăm các đảo ở 3 nước Mã Lai,
Nam Dương và Phi Luật Tân. Có người chỉ đi một quốc gia rồi về, tôi và một số
đông thì đi 2 nước, còn lại khoảng 50 người thì đi cả 3 nơi. Số người tập trung
đông nhất ở một thời điểm là trên 100 người. Thật là khẩu phục tâm phục ban tổ
chức, nào là đón tiếp hướng dẫn ở từng chặng đường, lo xe, lo khách sạn, giúp
vé máy bay, rồi đặt thức ăn, sắp xếp chương trình khoa học và ý nghĩa. Sau chuyến
đi chắc hẳn họ già hơn nhiều vì căng thẳng lo lắng.
Riêng cái chuyện sắp
hàng đi vệ sinh cũng là vấn đề lớn. Tôi đã nói đùa khi người thứ 100 "xả
nước cứu thân" xong, là đã đến lúc người số 1 cần đi nữa rồi! Các vùng hẻo
lánh này nhà vệ sinh rất ít, có nơi còn là loại cầu tiêu xưa, nghĩ lại còn rét
dù trời nóng hừng hực! Thế nhưng chúng tôi luôn tận dụng thời gian sắp hàng mà
trò chuyện rôm rả, mang bánh trái ra mời mọc nhau nên cũng thấy bớt chán. Nhớ
quá những cây cà-rem do thầy Tấn Phước đãi. Nhóm thường đi bằng 2 xe bus lớn và
một xe van nhỏ, hôm đó thầy mua kem cho mọi người, nhưng 1 xe bị lạc nên xe của
chúng tôi phải ăn dùm hai phần. Trời nóng mà ăn kem vừa mát vừa ngọt vừa thơm
mùi sầu riêng thì không gì thích thú bằng. May mắn hơn xe chúng tôi lại có cha
Phạm Quang Hồng ở Úc đi cùng, nên lúc nào cũng tràn đầy tiếng cười, mà cũng hại
não lắm vì cha hay đố những câu khó quá!
Nhóm lại có Youtuber
Trương Minh Quân với channel TmQ nổi tiếng, lúc nào chương trình cũng được
livestream với 40 ngàn người xem. Tôi ở trại mà bạn bè Toronto thường xuyên gởi
video thâu từ TmQ cho xem, nhắc là đã thấy Hân ở phút số mấy trong youtube. Vấn
đề xài tiền cũng khá rắc rối, tới Mã Lai phải xài tiền Mã, tới Nam Dương phải
xài tiền Indo, nhưng nhóm thì có người tới từ Mỹ, có người tới từ Canada, Phần
Lan, Úc.... nên chả chục thứ tiền đủ màu đủ loại, đổi qua đổi lại cũng khá nhức
đầu!
Ngoài ban tổ chức là
nhóm anh em bên Úc như anh chị Sơn-Anh, anh chị Minh-Thanh và bác sĩ Ken, còn
có cô Heidi (Hay Đi!), cô Ngọc Ân, anh Long, bố con anh Chính và vài nhân vật rất
đặc biệt. Từ khi ghi danh thì chúng tôi đã thường xuyên nhận được bản tin với
nhiều chi tiết hữu ích từ anh Sơn. Cháu Ken ở Cali là một nam bác sĩ cao ráo giỏi
giang, tấm lòng hy sinh yêu người không biết dùng chữ gì để diễn tả. Một cậu trẻ
khác là Jammy sinh ra ngay tại Bi Đông, đi với nhóm lần này là lần thứ 2. Được
biết lần đầu Jam đi thì hiểu tiếng Việt rất ít cần thông dịch, nhưng lần này tiếng
Việt của cháu đã rất khá. Jam đẹp trai vui vẻ, ai cũng muốn làm mai gả con gái,
cháu gái cho. Vào đúng sinh nhật của Jam trong tháng 5, cháu đã tìm cách để được
về đứng ngay bệnh viện xưa - nơi Jam sanh ra để chụp hình và "thu thập
năng lượng". Vài cháu khác đi với cha mẹ, nhưng cũng rất hòa mình không tỏ
vẻ khó chịu hay bị ép uổng gì cả. Chúng tôi mừng lắm vì có giới trẻ tham gia.
Trong nhóm có ít nhất 4 anh, chị không biết trại tị nạn là gì, vì không phải là
thuyền nhân, chân nhân hay phi nhân. Họ rời Việt Nam từ 30 tháng 4, 1975 nhưng
vẫn muốn tìm về nguồn cội, lịch sử. Một vài anh chị cũng đã tham dự các chuyến
này nhiều lần, còn nhớ được đường đi trèo đèo lội suối để đi thăm đầy đủ các
khu bia mộ. Ai nấy đều quá chân thành, dễ thương, chăm sóc an ủi nhau... thật
là cảm động và quý giá. Tôi vốn bi quan, thường cho rằng người tốt trên đời này
không còn bao nhiêu, nhưng qua hành trình này tôi mới cảm nghiệm được
"bông hoa còn đẹp, lòng chưa thấm mệt" (thơ Phạm Thiên Thư).
Bây giờ tôi xin sơ lược
về lộ trình. Mọi người đã tập trung tại địa điểm đầu tiên là phi trường số 2
Kuala Lumpur - Mã Lai để cùng đi xe bus thăm nghĩa trang đầu tiên tại
Terengganu. Sau đó ngày nào cũng thăm viếng nhiều khu mộ tập thể hoặc mộ cá
nhân không bỏ sót khu vực chôn cất nào như Kuantan, Dungun, Kota Baru, Besut,
Cherang Ruku, Panji, sau đó thăm Romping, Endau, Mersing... Đặc biệt nhóm đã thắp
hương trước ngôi mộ tập thể chôn xác nhiều người, trong đó có vợ và con của MC
& nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn.
Ban tổ chức cũng sắp
xếp để mọi người được viếng mộ các vị đại ân nhân như ông Alcoh Wong, ông
Heng... Quý ông này là một trong những người Trung Hoa ở Mã Lai đã bỏ công sức
và tình yêu nhân loại để tìm vớt xác, chôn cất rất nhiều thi thể thuyền nhân Việt
trôi dạt vào bờ biển Mã Lai hơn 40 năm trước. Ông Wong và thân hữu cũng đã in một
cuốn sách tài liệu với chi tiết lịch sử, bản đồ, tên họ của các thi thể mà họ
chôn cất. Ban tổ chức đã liên lạc trước với thân nhân của ông Wong, ông Heng và
mời họ đi ăn chung với nhóm để tỏ lòng biết ơn. Bà Wong vẫn còn sống và đã giúp
rất nhiều trong việc đặt khách sạn, nhà hàng... Bà từng là chủ tịch hội phụ nữ
Trung Hoa ở Mã Lai, tuy sức khoẻ kém nhưng luôn có mặt với nhóm. Một người em
trai trong gia đình ông Wong khi phải vớt xác người chết chìm trên biển, đã chịu
sốc tâm lý nên phải phát nguyện cạo đầu, cầu nguyện. Tôi không biết dùng từ ngữ
nào để nói hết lòng khâm phục và biết ơn những đại ân nhân này, được bắt tay họ
tôi rưng rưng nước mắt.
Sinh hoạt chính tại
Mã Lai là cuộc hội ngộ tại đảo Bi Đông, nơi từng có hằng trăm ngàn người Việt
Nam tạm trú trong khi chờ đi định cư ở quốc gia thứ ba như Mỹ, Úc, Canada,
Pháp... Đúng ngày Quốc Hận lần thứ 50 là 30 tháng 4, 2025, nhóm đã có một buổi
lễ thật ý nghĩa ngay tại bờ biển Bi Đông, cùng Chào Cờ hát quốc ca Việt Nam Cộng
Hòa và tôi được hân hạnh đọc phút Mặc Niệm trong buổi lễ. Sau đó nhóm đi vòng
quanh biển với lời cầu nguyện của thầy Tấn Phước và cha Quang Hồng, cùng đốt nến,
giấy vàng mã, hương trầm cầu nguyện cho người đã khuất và cho quê hương Việt
Nam. Tối hôm đó và nhiều đêm sau, nhóm luôn có các buổi hội ngộ tâm sự, ca hát,
đốt lửa trại thật cảm động. Đây cũng là cơ hội cho mọi người thi thố tài năng -
nào là ngâm thơ, đơn ca, hợp ca với tiếng đàn guitar và kèn harmonica sống động,
cũng như dàn Karaoke khá tốt.
Điều mắc cười là tôi
vốn khó ngủ, nên xin trả thêm tiền để có phòng riêng tại các khách sạn, thế mà
khi ở Bi Đông, không có khách sạn phải ngủ ngoài lều, có lều tới 20 người, thì
tôi lại ngủ ngon hơn hết. Có người gọi Bi Đông là Bi Đát, thật không sai với
bao câu chuyện bi thương đáng nhớ, chẳng hạn câu nói luôn được lưu truyền
"Tình Bi Đông có list thì dông”, tức là tình cảm yêu thương chỉ là tạm bợ,
khi được lên list đi định cư thì mọi hứa hẹn liền chấm dứt.
Ngôi chùa tên là Từ
Bi còn sót lại vừa có nghĩa là từ bi bác ái, vừa cũng có nghĩa là từ Bi-Đông mà
có. Các người đi trước đã kể lại vài câu chuyện tâm linh khá hi hữu, như chuyện
ngay sau khi phái đoàn thăm viếng khu mộ tập thể, thì hoa vàng bỗng rộ nở rất
nhiều, hoặc một đàn bướm vàng mấy trăm con bỗng xuất hiện bay lượn ngay trên
các ngôi mộ, mà theo dân địa phương thì khu này rất ít khi thấy bướm. Một ông
người Hoa giúp việc trùng tu các ngôi mộ đã mua vé số với số tàu của người tị nạn,
thì đã trúng độc đắc. Ông đã trích ra một phần tiền trúng để bỏ vào quỹ trùng
tu. Cũng có nhiều chuyện ly kỳ khi người chết báo mộng để gia đình tìm ra thi
hài, hoặc cho biết mộ bị nứt hay tên họ trên tấm bia đã bị khắc sai...
Nhóm cũng đã được tận
mắt nhìn bức tượng "ông già Bi Đông" mà thương xót cho những mảnh đời
kém may mắn, phải tìm sự sống trong cái chết.
Chúng tôi cũng được
đi thăm một quán cà-phê sang trọng nằm dọc theo bờ biển, thuộc khách sạn 5 sao
làm từ chiếc thuyền tị nạn mà họ đã mua của Liên Hiệp Quốc. Bảng khắc ghi chú
các chi tiết về Boat People rất rõ ràng cảm động.
Vào 2 tháng 5, 2025
nhóm đã rời Mã Lai để cùng đi tới Nam Dương bằng phà qua đảo Batam, mà chúng
tôi gọi là Bà Tám cho dễ nhớ. Indonesia là mục tiêu chính mà tôi muốn thăm viếng,
vì tôi và ông xã đã từng ở đó. Chúng tôi thăm viếng nghĩa trang thuyền nhân Việt
Nam, nhà bảo tàng, nhà thờ Công Giáo, chùa Quan Âm, miếu Ba Cô, bãi biển
Galang...Tiếc là rất nhiều di tích ở khu Galang 1 đã bị xóa mất sau gần 50 năm,
chẳng hạn các địa điểm như văn phòng Cao ủy, Ban điều hành trại, Trung tâm huấn
nghệ, Youth Center, tòa soạn báo Tự Do, đạo quán Hướng Đạo, đồi Nhà thờ, bệnh
viện ICM .... đã không còn nữa.
May mắn là ở Galang
2, chính quyền Indo đã cho trùng tu, làm museum với nhiều ảnh chụp, mô hình, đền
thờ Mẹ Maria và bản đồ Việt Nam rất lớn. Đặc biệt có 14 chặng đàng Thánh Giá của
Chúa Giesu làm trên 14 con tàu tị nạn vừa to vừa đẹp để thu hút du khách. Chúng
tôi đi xe bus hoặc thuyền qua các đảo nhỏ như Letung (gọi theo tiếng Việt là Lê
Tùng), Air Raya, Keramut, Tarempa, biển Padang Melang, khu phố shopping
Nagoya... Chúng tôi được ban tổ chức sắp xếp đến tận nơi thăm viếng, tặng quà
cho các cô nhi viện, trường học, nhà dưỡng lão... thật là cảm động. Các em học
sinh tiểu học tại 4 trường mà chúng tôi ghé thăm đều mặc đồng phục thật đẹp để
chào đón khách, ca hát rất dễ thương. Các em và dân địa phương đều rất hiền
lành, khuôn mặt lộ ra nét chân thành đáng mến, không thấy trộm cắp lừa lọc,
không ai phải đề phòng kẻ gian, đời sống thật là an bình.
Tại Galang chúng tôi
được đi ngang cầu tàu, nơi từng có bảng để chữ "Cửa ngõ của Tự Do và Tình
Người". Người ta cũng có câu "Galang tình xù", nhưng tình cảm của
tôi và anh Duy thì may mắn thay không bị xù! Chúng tôi quen nhau ở Galang, thề
hứa và đám cưới ở Cali sau 3 năm rời khỏi trại tị nạn. Tôi đi Cali mang quốc tịch
Mỹ, còn anh đi Toronto mang quốc tịch Canada. Một người họ Nguyễn, một người họ
Trịnh, tuy có phân tranh nhưng sống với nhau 40 năm ở Toronto tạm ổn cho tới
khi anh mất vì bệnh phổi. Cầu tàu này là nơi đưa tiễn của biết bao người. Nhớ
làm sao những lon coca cola, những ly milo sữa đá, những chai bia, những bao
thuốc lá hiếm hoi ... Chúng tôi cũng rất xúc động khi đi ngang khu vực được gọi
là "Con đường Máu" - nơi các thuyền nhân Galang đã từng phải xuống đường
biểu tình. Gần 20 người đã phải tự sát khi bị cưỡng bức hồi hương vì không đủ
tiêu chuẩn tị nạn. Quân đội Indonesia đã từng phải vùng vũ lực để can thiệp.
Chúng tôi cũng được thăm 2 ngôi mộ của "Romeo và Juliet", là đôi nam
nữ trẻ đã phải tự vẫn vì gia đình hận thù không cho cưới nhau sau khi đã vượt
biên thành công. Cũng có một số ngôi mộ của những người ăn cháo rắn bị trúng độc
chết, hoặc uống rượu pha cồn nên cháy ruột mà qua đời, thật là buồn và đáng tiếc
vì đã thoát được Việt Nam nhưng vẫn không đến được đất định cư.
Nhóm cũng dành thời
gian viếng Miếu Ba Cô dưới tàng cây bồ đề to lớn tại Galang 2. Câu chuyện được
kể lại là có hai cô gái bị hải tặc xâm hại nên rất mặc cảm, đau khổ. Người Việt
lúc đó lại không ý tứ, hay xầm xì chỉ trỏ, 2 cô lại không đủ bằng chứng pháp lý
để được nhận đi định cư. Giọt nước làm tràn ly khiến hai chị em cùng quyết định
treo cổ trên cây là khi họ bị vu oan ăn cắp chiếc bóp của nhân viên Cao ủy.
Nghe nói có 1 cô gái khác vì ghen tức với sắc đẹp của cô em, mà cô em này lại
được con trai người chủ tàu yêu thương, nên chính cô gái này đã lấy cái bóp bỏ
vào phòng đổ oan cho 2 chị em. Ngày 2 chị em quyên sinh trước lúc họ được chấp
nhận đi định cư chỉ một ngày.

Chúng tôi cũng nghe
nhắc lại câu chuyện thương tâm của 12 cô gái Việt bị cướp biển hãm hại, bọn quỉ
dữ trói 12 cô khỏa thân lại thành một chùm rồi thả trôi trên biển. Người ta chỉ
thấy 11 xác, nhưng vì có nút thòng lọng thứ 12, nên tin là đã có 12 nạn nhân xấu
số. Tôi vốn mít ướt nên khóc sướt mướt khi nghe chuyện, và thắc mắc bọn ác độc
bắt các cô cưỡng hiếp đã đành, nhưng sao lại phải bỏ công cột xác lại thả trôi?
Câu trả lời là bọn này có lẽ mắc bệnh bạo dâm, muốn cảm giác mạnh, muốn chơi
trò ma quỉ! Ôi lòng dạ con người, ôi đau khổ và hệ lụy sinh ra từ cộng sản, làm
sao tả hết những đau thương nhục nhã, làm sao để xóa bỏ nỗi đoạn trường từ những
câu chuyện vượt biên.
Xin lỗi nãy giờ kể
toàn chuyện buồn, tôi xin thay đổi kể vài chuyện nho nhỏ vui hơn. Ngoài đi thăm
bia mộ, chúng tôi cũng được đi tắm biển vài lần. Có một khu vực gọi là
"Water of God" là nơi biển rất vắng, thuộc loại đặc biệt được bảo tồn
với nước trong xanh và san hô thật đẹp. Một vài anh chị hơi ngần ngại vì con
thuyền đưa nhóm đi tới khu này hơi nhỏ, áo phao cấp cứu lại cũ kỹ nên quyết định
về lại khách sạn. Tôi thì thầm nhủ cứ liều, chết thì về với anh Duy lo gì!
Nhưng số tôi cũng lớn nên đã trở về toàn mạng, mang theo một bụng nào là nước dừa
tươi, nào là cá biển mực nướng thơm ngon được dân địa phương phục vụ ngay tại
bãi biển. Cũng được biết trái thanh long và rau muống trên các vùng đất Nam
Dương là do người tị nạn Việt Nam mang tới, và dân địa phương rất trân trọng loại
giống mới này.
Tôi cũng đi thăm viếng
các ngôi chùa, đền thờ Hồi giáo lớn, 2 lần được đi xe ôm dạo phố. Một lần do cô
Indo làm bếp tại Homestay cho quá giang đi chợ chung. Lần khác 4 chị em chúng
tôi trả tiền đi vòng quanh đảo Tarempa chung với nhau bằng xe hai bánh, xem
thác 7 tầng. Cảnh chiều trên đảo vắng thật đẹp với sương mờ bảng lảng, nhưng có
một đoạn dài ông tài xế bị lạc, trời lại tối nên tôi khá lo sợ. Không rõ bác
tài lạc đường hay ông ta cố ý đem tôi đi bán! Nhưng nghĩ lại nếu cần bán, chắc
họ đã chọn các cô gái trẻ đẹp, loại ốm yếu sắp về hưu như tôi thì đâu có ai
mua. Nghĩ vậy nên tôi yên tâm, và may mắn thay chúng tôi đã trở về không suy
xuyển gì!
Tôi lại được một thời
gian dài không phải đi làm, ngày 3 bữa thịnh soạn không phải nấu ăn thật là
sung sướng, nhưng báo hại bị lên mấy ký, lại thêm bị muỗi và rệp cắn nên rất
"mập mình". Tôi tên Hân, nếu nặng thêm tức là thêm vào dấu nặng, thì
từ "Hân" hoan sẽ trở thành "Hận" thù, thật không nên nặng
thêm tí nào!
Điều thú vị trong
chuyến đi hầu như ai cũng khóc, cũng mít ướt kể cả các anh to con, râu ria tướng
tá nhìn rất "ngầu". Ừ nhỉ, nhắc tới kỷ niệm, mất mát và biệt ly ai mà
cầm lòng cho được. Trên các con tàu và các nơi dừng chân, chúng tôi đều có những
lá cờ Vàng Việt Nam Cộng Hòa bay phất phới. Nhóm lại treo thêm 4 lá cờ lớn là cờ
Indo, cờ Mã Lai, cờ Phi Luật Tân và Việt Nam ở các sinh hoạt chính nên nhìn rất
trang trọng và ấm cúng.
Chúng tôi cũng nhắc tới
những đêm Noel ở nhà thờ Galang, người ta đốt hai hàng đuốc dọc theo đường đồi,
tạo ra hình ảnh rất đẹp. Chúng tôi nhớ tới Linh Mục Dominici và Mục Sư
Flemming, cả hai đều giỏi tiếng Việt và giúp người tị nạn rất nhiều. Ngày mới tới
Galang được nhóm Tin Lành phát cho mỗi người một túi bánh kẹo và sách vở chúng
tôi rất quý. Riêng cha Dominici thì khá thân với chúng tôi. Hồi đó bạn bè nói
anh Duy là con cưng của cha Dominici. Quả vậy, anh Duy từng là đoàn trưởng Đoàn
Thanh Niên Công Giáo, suốt ngày lo làm chuyện xã hội như sửa đường đi, giúp xây
phòng tắm kín đáo hơn, giúp tổ chức picnic, văn nghệ... Các bác già thuộc Hội đồng
Giáo xứ xin tiền làm công tác có khi bị từ chối, nhưng nếu anh Duy gặp cha
Dominici trình bày kế hoạch sinh hoạt cho giới trẻ, thì cha đồng ý ngay. Riêng
tôi cũng có duyên may được nhận làm việc cho báo quán Tự Do ở Galang với lương
tháng khá cao. Tôi cũng được may mắn trúng giải thi thơ năm 1981, với bài thơ
"Nước Mắt Yêu Thương" mà chị Ánh Linh đã diễn ngâm lại trong buổi đốt
lửa trại.
Cha Dominici giúp
chuyển thư của trại viên cho thân nhân, bênh vực người tị nạn bị hà hiếp, sáng
lập báo Tự Do, viết cuốn "Việt Nam Quê Hương Tôi" và nhiều bài báo rất
ý nghĩa. Bài này dài quá rồi tôi xin được nói về cuốn sách của cha trong một dịp
khác. Ngày cha mất vì ung thư ruột già, chúng tôi ở Toronto có tổ chức lễ cầu
nguyện và tri ân tại 2 nhà thờ ở Toronto, người không Công Giáo cũng tham dự
khá đông và rất cảm động. Chúng tôi cũng từng được cơ hội đi "Tĩnh
Tâm" với cha ở tại Toronto, hiểu rằng chính bản thân Chúa Giêsu cũng từng
phải đi sang Ai Cập tỵ nạn. Cha đang được đề cử để phong chức Chân Phước trong
đạo Công Giáo.

Chúng tôi về lại
Toronto an toàn vào khuya ngày 14 tháng 5, 2025, trong khi nhóm vẫn tiếp tục đi
thăm Phi Luật Tân. Cho tới bây giờ trong Whatsapp Group, chúng tôi vẫn luôn thường
xuyên nhận được hình ảnh, video, sáng tác nhạc, chia sẻ tâm tình để ân tình còn
mãi, và đặt hy vọng vào những lần gặp gỡ khác trong tương lai.
Khép lại chuyến trở về
quá khứ để hiểu rõ thêm thân phận thuyền nhân và hoàn cảnh người tị nạn, sống lại
một lần nữa với kỷ niệm, tôi thấy mình quá may mắn và thật lòng trân trọng khoảng
thời gian này. Tôi nhủ lòng đừng quên những hy sinh mà thế hệ người tỵ nạn Việt
Nam trước đó đã gánh chịu - để mang lại đời sống tự do và dân chủ cho các thế hệ
sau. Xin đặc biệt tri ân ban tổ chức và từng người trong nhóm, nhất là hai
anh Nhỏ và Kiệt trong nhóm Toronto đã giúp tôi trong suốt đoạn đường. Tôi lại
càng hiểu rõ hơn giá trị của Tự Do, càng biết mình phải cố gắng hơn nữa để góp
phần trao ra, học gương hy sinh dù chỉ với những việc và tâm tình đơn sơ nhất.
Vài người bạn rủ tôi vận động xin thêm ít tiền để nhóm gia đình Bi Đông có thêm
chi phí mà tu sửa mồ mả, làm thêm các di tích của thuyền nhân. Tôi chưa biết
mình sẽ làm gì, nhưng chắc chắn sẽ góp tay dù những việc bé nhỏ nhất. Xin tri
ân tận đáy lòng, và cũng không quên cảm ơn ông xã đã phù hộ cho tôi có một chuyến
đi thật ý nghĩa và bình an.
Nguyễn Ngọc Duy Hân











Đăng nhận xét